1
2
3
4
5
6
7
8
9

QUYỂN 3

Phẩm Thứ Mười Lăm: Cứ Đà Thí Thân

Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Kỳ Xà Quật.

Đức Thế Tôn khi đó bị cảm chứng phong, các đệ tử đi triệu ông Kỳ Vực Y Vương vào điều trị, ông hòa ba mươi hai vị dược tô dâng lên và bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Thời khí năm nay bất hòa, biến nhiều thứ bệnh lạ, con thành kính luyện thứ thuốc này, cúi xin mỗi ngày dùng ba mươi hai lạng.

Đức Thế Tôn hoan hỷ nạp thụ và chú nguyện cho ông.

Thuở đó ông Đề Bà Đạt Đa thường đem lòng ghen ghét với Phật, tự cao tự đại, ý muốn ngang hàng với Phật, nghe biết Phật uống dược tô cũng gọi ông Kỳ Vực luyện thuốc cho uống.

Khi ông luyện xong dâng Ngài và thưa rằng:

– Thưa Ngài! Thuốc này mạnh lắm, mỗi ngày chỉ dùng được bốn lạng!

Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi: – Phật uống ngày mấy lạng?

– Thưa Ngài! Phật uống mỗi ngày ba mươi hai lạng!

Ông Đề Bà Đạt Đa hỏi:

– Vì lẽ gì Phật uống nổi ba mươi hai lạng mỗi ngày? Ta chỉ uống được bốn lạng thôi?

– Thưa Ngài! Phật khác! Ngài khác! Nếu Ngài uống như Phật, tất bị tổn thương đến thân thể!

– Ta uống cũng có đủ lực tiêu hóa, thân ta, thân Phật khác chi, để ta uống coi, có hiệu lực như Phật không!

– Thưa Ngài! Việc đó xin tùy ý, nhưng xảy ra chúng tôi không chịu trách nhiệm!

– Dĩ nhiên! Ông khỏi lo.

Ông Đề Bà Đạt Đa cân đủ ba mươi hai lạng uống luôn một lúc, uống xong ông ngã quay lơ, sùi bọt mép như đống xà bông, vật giường trên, lăn xuống giường dưới, kêu lên rầm rĩ.

Đức Thế Tôn thương ông đau đớn, nên Ngài từ xa duỗi cánh tay vàng, bằng lực thần thông tới xoa đầu cho ông, thuốc ấy nhờ sức từ bi được tiêu hóa, bệnh hoạn tan không, thân tâm an lạc! Nhìn lên thấy tay Phật, ông tự nói rằng:

– Tất Đạt có nhiều phép lạ, với đời vô dụng, giờ lại học nghề thuốc đều cầu danh lợi.

Tôi (A Nan) nghe thấy ông thốt ra lời vô nhân nghĩa quá nên quỳ xuống bạch Phật:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Ông Đề Bà Đạt Đa vô ân bất nghĩa quá! Ngài cứu cho khỏi, không cảm ơn thì thôi, lai thốt ra những lời tệ bạc, sao lại có những lòng dạ như vậy? Luôn luôn chỉ một niềm ghen ghét với Thế Tôn?

Phật bảo tôi rằng:

– A Nan! Đề Bà Đạt Đa, chẳng những ngày nay mang lòng nham hiểm hại ta đâu, đời quá khứ đã dùng mưu này kế khác hại ta.

Tôi lại thưa rằng: – Kính lạy Ngài, không hay đời quá khứ ông ấy làm hại thế nào, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được rõ?

Phật dạy: – Ông hãy nghe kỹ, tôi vì ông mà nói!

– Dạ! Con xin đón nghe.

Phật dạy: – A Nan! Ông nên biết, đời quá khứ cách đã rất lâu kiếp A Tăng Kỳ tới số không thể tính xuể, cũng ở Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên là Ba La Nại, ông vua nước ấy tên là Phạm Ma Đạt tính nết hung tàn không có từ tâm, lại ham mê sắc dục làm tổn thương cho muôn loài, nọc độc nằm chặt trong đáy lòng.

Một hôm ông nằm mộng thấy con thú lông vàng, trên những đầu lông tía ánh sáng sắc vàng tỏa ra hai bên tả hữu. Khi tỉnh giấc ông tự nghĩ con thú ta vừa mộng thấy trên đời này ắt phải có. Nghĩ rồi cho triệu tập các người đi săn lại phán rằng:

– Các khanh! Hôm nay mời các khanh vào đây, muốn nói một câu chuyện trong mộng của ta cho các khanh rõ: Đêm qua vào lúc canh ba đương ngon giấc, ta thấy một con thú, lông trên mình toàn sắc vàng, trên những đầu lông phóng ra những tia sáng, ta chắc rằng trên rừng cũng có loài thú như vậy các khanh tìm bắt lấy nó, rồi lột lấy da cho ta, ta sẽ trọng thưởng cho con cháu các khanh bảy đời được đầy đủ vật dụng ăn uống, nếu không để tâm tìm bắt cho ta, ta sẽ tiêu diệt hết họ hàng nhà các khanh.

Các người sợ toát mồ hôi! Nhưng không biết trình bày làm sao! Đều lạy tạ lui ra.

Trở về họ hội họp lại một nơi để giải quyết công việc nhà vua vừa giao phó như sau:

– Thưa các bạn, việc này rất khó cho bọn mình: Nhận thấy từ thuở biết cầm cái súng đi săn đến nay, tôi chưa từng nhìn thấy con thú như nhà vua nằm mộng! Nếu bọn ta không bắt được con thú lông vàng, họ hàng chúng ta sẽ bị hạ sát dưới tay cường quyền áp bức của nhà vua. Chi bằng tụi mình đưa vợ con trốn sang nước ngoài làm ăn cho thoát!

Một thanh niên tiếp rằng:

– Thưa quý bạn! Nhận thấy trong núi này độc trùng ác thú rất nhiều, đường sá nguy hiểm, có ngày đi không hẹn ngày về, ngụ ý của tôi chỉ mượn người hộ là hơn!

Mọi người đều tán thành! Sau mượn được một người đến, họ sẽ làm lời cam đoan rằng: – Anh hãy tận tâm vào rừng săn hộ tôi con thú lông vàng, trên đầu lông có ánh sáng, nếu anh được tốt lành trở về, chúng tôi sẽ trọng thưởng cho anh một số vàng bạc; nếu anh bị hại nơi rừng xanh, chúng tôi sẽ đem số vàng bạc đó cho vợ con anh ăn dùng.

Người ấy tự nghĩ như vầy: – Ta vì sự cứu người, dầu mất mạng cũng cam lòng.

Nghĩ xong nói: – Thưa quý bạn, tôi xin bảo lãnh việc đó giúp quý bạn và tôi nguyện rằng nếu được thành công mới trở về.

Họ đều vui mừng! Sắm sửa lương thực tiền bạc để anh đi ăn đường.

Khi bắt đầu ra đi, mọi người đều chúc anh được mọi sự tốt lành trở về, anh từ giã ra đi, đi lâu ngày trải bao những sự gian hiểm, lương thực gần hết, bị đói khát, thân thể gầy còm, sức lực mỏi mệt, qua bãi sa mạc trời nắng làm cho bãi cát như rang, như nấu, khí nóng bức lên ngùn ngụt, mồm khát, cổ khô, chỉ còn chờ tắt hơi là qua đời. Đương lúc cùng cực đau khổ, thốt ra lời nói:

– Ai là người có lòng từ bi, thương đến tôi, cứu được thân mạng tôi giờ?

Trong núi ấy có loài dã thú tên là Cứ Đà, lông vàng vì trên đầu lông có ánh sáng, nó nghe thấy đằng xa có tiếng người kêu cứu; động lòng thương dấn thân đi tìm qua những dòng suối nước lạnh, tới nơi thấy một người nằm phơi trên mặt đất hình như sắp chết, nó ủ ấp bằng thân của nó, hồi lâu tỉnh táo, nó bế tới một khe nước, tắm gội cho mát, rồi đi lấy các thứ quả ngon về cho ăn, ăn xong thân thể được khỏe mạnh.

Người đó khi tỉnh dậy tự nghĩ như vầy:

– Con thú lông vàng này! Chính ta đương đi săn bắt nó đem nộp cho nhà vua, song lúc ta gặp cơn nguy biến, được nó cứu thoát, ơn ấy ta chưa đền đáp nỡ đâu lại còn hại nó. Nhưng nếu không bắt nó nộp cho nhà vua thì tất cả nhà những người đi săn kia đều bị giết chết.

Nghĩ thế rồi trong lòng rầu rĩ khó giải quyết.

Cứ Đà hỏi: – Tại sao anh không vui?

Anh rơi lệ đáp: – Tôi đương nghĩ một việc riêng!

Cứ Đà hỏi tiếp: – Việc gì xin nói cho tôi rõ!

– Việc này khó giải quyết và cũng không dám nói.

Cứ Đà hỏi luôn: – Anh hãy nói ra, nếu tôi có thể giúp được thì tôi xin giúp.

Anh chàng này ngẫm nghĩ hồi lâu rồi thực tình nói mục đích bắt thú lông vàng cho Cứ Đà nghe.

Cứ Đà hoan hỷ nói: – Việc không khó, da của tôi có thể đem biếu anh được! Anh nên biết rằng: Nếu cứ tính cái thân chết của tôi từ quá khứ tới nay, vô lượng vô số, không thể đếm được. Nhưng xét rằng những thân ấy chưa từng làm được việt gì hữu ích, hôm nay tôi được đem cái da vàng mạng sống của tôi để cứu người thì còn gì vui thú hơn. Vậy anh cứ việc lột lấy, tôi vui lòng nhưng chớ làm tuyệt mạng tôi vội, với sự cho anh đây tôi rất hoan hỷ, không hối hận chút nào!

Anh chàng đi săn nghe Cứ Đà nói trong lòng vẫn băn khoăn hối hận bất đắc dĩ phải rút dao lột da của Cừ Đà.

Đầu tiên anh đặt dao vào mũi, rạch mạnh, máu tươi chảy ra như rót rồi kéo qua đầu xuống tận đuôi, bắt tay vào kép xả ra hai bên.

Nhìn Cứ Đà vẫn thản nhiên không hề dãy dụa, rồi nguyện rằng: – Tôi thành thực hy sinh da tôi để cứu sống mọi người, nguyện đem công đức này, hướng về tất cả chúng sinh, qua thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi về nơi Niết Bàn an lạc.

Lời của Cứ Đà phát nguyện vừa xong, ba ngàn thế giới tự nhiên chấn động sáu lần, các cung điện cõi Trời nghiêng ngửa, những Thiên Tử đều kinh ngạc! Ngó nhìn xem chuyện chi, thấy Bồ Tát lột da bố thí cứu sinh, họ bay xuống tận nơi, tung hoa cúng dàng ai nấy đều sa nước mắt.

Lột da xong, thân thể Cứ Đà đỏ như gấc chín, huyết chảy lênh láng, nhìn rất rùng rợn không dám ngó lâu, ruồi kiến bâu xúm xít đầy mình, rỉa thịt uống huyết. Đau quá! Định trở mình, nhưng sợ tổn thương loài ruồi kiến, đành phải nhẫn khổ không dám động đậy.

Những loài ruồi kiến ấy nhân được ăn thịt của Bồ Tát sau khi mệnh chết được sinh Thiên.

Người được da mang về dâng vua, nhà vua rất hài lòng, khen ngợi kẻ đã tử công phu vì ta; ban thưởng cho tước lộc ngôi cao, vàng bạc rất nhiều.

Nhà vua dùng nó để trải nằm, khi nằm cảm thấy tâm an vui khoái lạc.

Tới đây đức Phật nhắc lại cho tôi biết rằng:

– A Nan! Ông nên biết: Cứ Đà có phải ai đâu? Chính tiền thân của ta đấy, vua Phạm Ma Đạt nay là ông Đề Bà Đạt Đa, những ruồi kiến ăn thịt uống huyết của Cứ Đà thuở đó, khi ta mới thành Phật chuyển Pháp Luân đều được đắc đạo sinh lên các cõi Trời, ông Đề Bà Đạt Đa thời đó làm tổn thương tánh mạng ta cho đến ngày nay không có một chút thiện tâm gì đối với ta, suốt ngày chỉ muốn tìm cách để hại ta thôi!

Lúc đó tôi và tất cả đại chúng, nghe Phật nói thế, ai nấy cũng buồn và cảm động! Nhiều người thấy vậy gắng công cầu phép yếu, nên có người được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm cho đến quả A La Hán, cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm Vô Thượng Đạo; có người trụ ngôi bất thoái, ai nấy đều vui vẻ kính tin phụng hành tạ lễ mà lui.

Phẩm Thứ Mười Sáu: Vua Đại Quang Minh

Người có trí lanh lợi, thì sự nhận xét minh mẫn, gặp việc gì trở ngại cũng giải quyết mau lẹ, gặp một duyên nhỏ có thể làm đại nghiệp. Kẻ biến nhác ngoan độn, dẫu có gặp thắng duyên cũng không thể phát tâm cao cả.

Bởi thế con người luôn luôn phải có sự tiến hóa làm lòng, lập chí tạo tác những thiện duyên gây thành đại nguyện thì mai này sẽ kết quả rực rỡ tôn nghiêm.

Khi đó đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Bấy giờ có bốn bộ đệ tử vua quan dân chúng đương vây quanh đức Thế Tôn để cúng dàng. Trong đại hội có nhiều người nghĩ như vậy:

– Không rõ đức Thế Tôn bởi nhân duyên gì phát tâm vô thượng Bồ Đề lúc ban đầu? Tới nay thành Phật làm lợi ích cho muôn loài chúng sinh, vậy chúng ta cũng nên phát tâm cầu thành Phật đạo để nối chí của Ngài mà làm lợi ích chúng sinh.

Tôi (A Nan) biết họ nghĩ như vậy đi lấy áo mặc chỉnh tề tới trước Phật quỳ gối chắp tay bạch rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Đại chúng đây đều muốn biết rõ xưa kia Ngài từ nhân duyên gì phát Bồ Đề tâm, kính xin chỉ giáo để cho tất cả mọi người đều được lợi ích!

Phật dạy rằng: – Này ông A Nan! Hay lắm! Hay lắm! Ông hỏi như vậy có rất nhiều sự lợi ích, ông hãy nghe cho kỹ và suy nghĩ cho rành, tôi sẽ vì ông mà nói.

Bấy giờ trong đại hội đều im lặng, tất cả núi sông gió nước chim bay thú chạy cũng đều chiêm ngưỡng, không một tiếng động, đại chúng, trời, rồng, quỉ thần đều dốc lòng trông Phật, ai nấy vừa sợ vừa ham nghe.

Phật dạy rằng: A Nan ông nên biết, thời quá khứ đã quá lâu xa kiếp, A Tăng Kỳ vô lượng vô biên không tính xuể, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua nước lớn tên là Đại Quang Minh, trí tuệ thông minh phúc đức cao dày, nhân tướng oai nghiêm thuần hậu, có chơi thân với ông vua nước láng giềng, hai ông giúp đỡ nhau từ tinh thần đến vật chất, nhất là có vật gì quý cũng tặng lẫn cho nhau.

Một hôm ông vua nước láng giềng đi săn được hai con voi còn nhỏ, mình trắng như pha lê rất là quý đẹp, nhà vua mừng thầm và tự nghĩ như vầy:

– Ta đem voi này tặng vua Quang Minh.

Đưa về trang sức cho voi rất đẹp rồi sai người dắt sang hiến vua Quang Minh.

Vua Quang Minh coi thấy con voi lạ cũng cho là một bảo vật đáng quý, nên trao cho người quản tượng tên là Tán Xà dặn rằng: – Trông coi cho cẩn thận, dạy bảo cho thuần thực, cho ăn uống ngon lành.

Quản tượng đưa về dạy bảo một thời gian được thuần thục, rồi đến tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Hạ thần vâng mệnh nuôi voi đã lớn, sự điều voi của hạ thần nhất mực bảo sao nghe vậy, cúi xin Bệ Hạ cho voi ra thí trường để dân chúng coi sự điều khiển của hạ thần.

Nhà vua vui vẻ đáp rằng: – Hãy khoan ít ngày để ta truyền cho quan quân, dân chúng hay tin trước.

Sau khi được chiếu chỉ của nhà vua, từ thành thị cho đến thôn quê kéo nhau đi xem rất đông đảo, nhà vua cỡi voi ra thí tràng, trông rất oai nghiêm, đi sau có các quan văn võ. Con voi trai trẻ này, khí lực đương cường tráng, dục vọng nồng nàn, đi sắp tới thì trường nó nhìn thấy mấy chị voi cái đang ăn ngó sen bên mé hồ, tự nhiên lửa dâm dục bốc khởi, túm cẳng chạy thẳng đến mấy chị voi cái kia, voi cái hoảng chạy! Đuổi mãi, đuổi mãi! Cho đến rừng xanh cũng không thôi. Làm cho nhà vua áo rách mũ rơi, gai góc đâm xiên vào mình, máu huyết chảy đẫm áo, nhà vua tối mắt chẳng biết đông tây, sợ quá tự nghĩ rằng:

– Bây giờ làm cách nào để xuống được?

Quản tượng thưa: – Xin Bệ Hạ hãy níu lấy cành cây để sa xuống đất.

Nghe lời quản tượng, nhà vua níu lấy cành cây xuống đất được vô sự, nhưng sờ lên đầu thấy mất mũ áo, trên mình rách ngang rách dọc và đẫm máu, thân thể đau đớn! Đương lúc đau khổ lại không biết lối ra.

Quản tượng cũng níu lấy cành cây nhảy theo rồi đi tìm vua. Một lát thấy nhà vua đương ngồi dưới gốc cây coi vẻ âu sầu buồn bã, quản tượng quỳ xuống thưa:

– Cúi xin Bệ Hạ xá tội cho, và đừng buồn phiền nữa! Con voi này khi hạ cơn dâm dục nó sẽ nhớ cỏ ngon nước sạch thì lại trở về.

Nhà vua nói: – Thôi nhà ngươi còn nói chi nữa, từ nay ta sẽ không nhận ngươi và con voi ấy nữa.

Quản tượng không biết nói sao! Đành phải ngồi yên chờ vua nguôi cơn giận.

Khi đó các ông quan chạy theo sau, có ông nhặt được cái mũ, cái áo, cái hia, hoặc thấy máu me rải rắc từng giọt, đột nhiên thấy nhà vua cởi con voi khác trở về. Khi đó có các bà Hoàng Hậu, Hoàng Phi, Hoàng Tử, Công Chúa nhân dân đều lo xanh mặt, vì sợ nhà vua bị chết ai nấy đều rơi lệ như mưa.

Khi thấy nhà vua đã trở về, mọi người vui vẻ!

Qua thời gian ngắn con voi đã thỏa mãn lòng dâm, bị ăn cỏ hôi, uống nước bẩn nơi rừng xanh, lại trở về kinh thành.

Quản tượng thấy voi về, vội vào triều tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Con voi hôm nay đã trở về, xin Bệ hạ ra coi.

– Thôi, từ nay ta không muốn nhìn thấy ngươi và con voi ấy nữa.

Quản tượng lại thưa: – Tâu Bệ Hạ, nếu Bệ Hạ không muốn thấy hạ thần và con voi ấy nữa, nhưng xin Bệ Hạ hãy xem cách điều phục voi của hạ thần một lần nữa.

Nhà vua nói: – Khanh đã nói thế ta cũng cho!

Quản tượng bái tạ ra về, sửa soạn nơi thí tràng và định ngày cáo thị cho dân chúng đến xem.

Tới ngày đó, vua quan ra thí tràng, nhân dân đến xem rất đông. Quản tượng dắt voi ra và đem theo bảy viên sắt lớn thầm nghĩ như vầy:

– Giờ đây ta bắt voi nuốt sắt, voi chết cũng hoài, vậy ta hãy tâu vua may ra ngài có hối tâm chăng.

– Tâu Bệ Hạ! Con voi trắng này, chỉ vua Chuyển Luân mới có, nó phạm chút lỗi nhỏ xin Bệ hạ tha thứ, không nên hủy bỏ.

Nhà vua nói: – Nếu ngươi không điều phục được nó, thì mời ta ra đây làm chi? Dầu ngươi có điều phục được, ta cũng không dùng nó và ngươi nữa.

Quản tượng thưa: Tâu Bệ Hạ! Bệ Hạ không dùng hạ thần thì thôi, nhưng rất tiếc không dùng voi.

Nhà vua giận nói: – Khanh đi ngay, bước ngay lập tức bây giờ!

Quản tượng đứng dậy vừa khóc vừa nói: – Bệ Hạ không có thân sơ, chỉ ưa những lời nói khéo, nói ngọt, nịnh hót!

Tất cả mọi người nghe đều sa đôi hàng lệ, và chăm chú nhìn voi, vì họ nhìn thấy bảy viên sắt đương nung đỏ tại lò, quản tượng sẽ bắt voi nuốt.

Quản tượng thị oai lớn tiếng nói:

– Voi mày nuốt viên sắt này đi, nếu không nuốt ta sẽ lấy móc sắt móc óc mày ra.

Voi thấyquản tượng nói, sợ hãi run rầy, quỳ hai gối xuống đất, chầu về nơi nhà vua ngự nước mắt chảy ròng! Có ý xin vua xá tội, nhưng nhà vua vẫn chưa nguôi cơn giận, lại càng bực tức thêm, rồi ngoảnh mặt đi. Quản tượng lớn tiếng nói:

– Mày không chịu nuốt à, còn chờ tao móc ư!

Voi liếc mắt nhìn xung quanh xem có ai can gián để cứu mình không! Nhưng không! Tự biết mình phải chết, vì không còn một thế lực gì nữa có thể trông cậy, bất đắc dĩ nằm ngửa há mồm.

Quản tượng bỏ bảy viên sắt nóng vào mồm bắt phải nuốt hết, nuốt xong nổ ruột chết liền.

Tất cả mọi người thấy thế cảm động thương voi. Ai nấy đều phải sa lệ.

Nhà vua cũng phải kinh sợ và ngạc nhiên, kêu Quản tượng lại hỏi:

– Quản tượng, khanh có tài điều phục voi như vậy, tại sao lúc ở rừng không ngăn được nó.

Lúc ấy ông Tịnh Cư Thiên biết vua Quang Minh đã phát tâm Bồ Đề, dùng thần lực khiến Quản tượng quỳ xuống thưa rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Kẻ hạ thần này chỉ có thể điều phục được thân nó chứ không thể điều phục được tâm của nó.

Nhà vua hỏi: – Vậy có người nào đều phục được cả thân lẫn tâm nó không!

Đáp: – Tâu Bệ Hạ, chỉ có Phật điều phục được cả thân lẫn tâm của nó.

Nhà vua hỏi tiếp: – Khanh nói Phật, thì lấy chủng tính gì sinh ra Phật?

Đáp: – Tâu Bệ Hạ! Có hai chủng tính sinh ra Phật: Một là trí tuệ, hai từ bi! Chăm làm sáu việc: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thuyền định, trí huệ cũng gọi là sáu Ba La Mật, công đức và trí tuệ của sáu việc đầy tròn nên gọi là Phật! Như vậy có thể điều phục được mình và tất cả chúng sinh.

Nhà vua nghe quản tượng tâu xong, có vẻ vui sướng! Đứng dậy vào hậu cung tắm rửa sạch sẽ, mặc áo đội mũ tề chỉnh, lên lầu cao một mình, đốt trầm hướng về bốn phương thề nguyện rằng:

– Từ đây tôi sẽ đối với tất cả chúng sinh, phải có một tâm “Đại Từ Đại Bi”, rồi đọc bài kệ khấn rằng:

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về Phật đạo,

Sau này được thành Phật,

Tự điều phục tâm mình,

Và tất cả chúng sinh.

Nếu một chúng sinh nào.

Ở địa ngục A Tỳ.

Trải qua đến một kiếp.

Có thể làm lợi ích,

Và cứu khổ họ được,

Tôi sẽ vào ngục ấy,

Không bỏ tâm Bồ Đề.

Nhà vua thệ nguyện dứt lời, thì sáu phương chấn động, trời đất rung chuyển, trên hư không văng vẳng, có tiếng âm nhạc, các ông thiên tử đánh đàn ngợi khen rằng:

– Ngài phát nguyện cao cả ấy, chẳng bao lâu nữa được thành Phật, xin độ cho lũ chúng tôi trứơc ở pháp hội thanh tịnh này.

Tới đây Phật nhắc lại cho các vị Tỷ Khưu biết rằng:

– Tỷ Khưu các ông nên biết! Con voi trắng bị quản tượng bắt nuốt viên sắt nóng thuở đó nay là ông Nan Đà. Quản tượng nay là ông Xá Lợi Phất, vua Đại Quang Minh chính tiền thân của ta. Nhân lúc thấy quản tượng điều phục voi ta phát khởi tâm cầu đạo Phật bắt đầu.

Trong đại hội khi nghe Phật nói sự phát khởi tu đạo của Ngài xong, ai nấy vui mừng, rồi có người được chứng quả thứ tư, có người phát đại đạo tâm, mỗi người đều kính tin cúi đầu tạ lễ mà lui.

Vua Quang Minh gặp một tiểu duyên, mà giải quyết được đại sự, là do trí dũng mãnh tinh tiến. Còn như kẻ lười biếng, dầu có gặp được duyên lớn cũng chẳng thành sự nghiệp gì. Chúng ta phải nên mạnh dạn bớt bỏ lòng tham dục si mê, chuyển theo con đường sáng của đức Phật đã vạch ra, thì một ngày kia ta sẽ ngồi trên đài liên hoa, bay đi khắp thế giới nhiếp phục chúng sinh cũng như Ngài không khác, mục đích cứu họ ra khỏi vòng phiền não ô trọc, xấu xa, được trí tuệ thần thông cao sáng, qua thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết.

Phẩm Thứ Mười Bảy : Ưu Ba Tư Na

Muốn thành Phật phải tôn trọng Phật, phải khao khát giáo lý của Ngài, phải đọc tụng thọ trì, phải diễn thuyết kinh pháp. Chính những người cư gia tụng kinh thuyết pháp, chư thiên quỷ thần còn ham nghe, phương chi người xuất gia cho đến người đi đường tụng kinh đọc kệ thường thường vẫn có chư thiên theo nghe.

Là Phật tử phải chăm niệm Phật, tụng kinh, trì chú, thuyết pháp thì đời vị lai sẽ được quả báo trang nghiêm rực rỡ.

Thuở đó đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại Kỳ Hoàn tinh xá cùng với vô lượng vô biên. Các người lương thiện nghe thấy danh đức của Phật, họ đều hoan hỷ và tán dương. Trái lại những kẻ ác, nghe thấy người lương thiện thì sinh lòng thù ghét.

Người hiền thiện không bao giờ bới xấu người, mà chỉ đem những điều lành của người ra nói thôi, vì muốn điều lành ấy lan ra cho nhiều người được nghe, thấy kẻ làm ác biết sự hành động ấy của nghiệp kết sử thì thương họ và tha thứ cho họ không chấp nhặt sự ngu si của họ.

Như vậy những người cõi nhân, cõi thiên đã đầy thiện duyên gặp Phật xuất thế thì họ tán dương, và đem giáo pháp của Ngài tuyên truyền cho các nước.

Thuở đó có một nước nhỏ thuộc quyền cai trị của vua Ba Tư Nặc, phần nhiều những người tà kiến vì không có giáo lý của Phật truyền bá, song thôn xóm kia có một người con gái tên là Ưu Ba Tư Na, hôm ấy đi sang nước Xá Vệ, nơi vua Ba Tư Nặc ở, công việc đã xong, ra về cùng người thân tín đạo Phật, trọ tại bên nhà người Ưu Bà Tắc. Sau được nghe họ nói công đức của Phật cô liền theo họ, đến rừng Kỳ Hoàn để yết kiến Phật, tới nơi thấy Phật tướng hảo đoan nghiêm, uy nghi lẫm liệt quang minh sáng lạn, tâm sinh vui vẻ khát ngưỡng, cúi đầu lễ sát đất rồi lui ngồi về một bên.

Lú đó đức Thế Tôn thuyết công đức của năm giới cho đại chúng nghe như sau:

1. – Không sát sinh, được quả báo sống lâu, không bệnh tật.

2. – Không trộm cướp, được quả báo giàu sang, không bị ngũ gia cướp đoạt.

3. – Không tà dâm, được quả báo nhân thiên kính trọng, thân người tốt đẹp.

4. – Không nói dối, được quả báo người đời kính trọng yêu mến, nói ai cũng tin theo.

5. – Không uống rượu, được quả báo thông minh.

Cô Ưu Ba Tư Na nghe xong tâm rất hoan hỷ! Cảm mến đức Phật, tới trước quỳ bạch rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con không biết có phúc duyên gì hạnh ngộ, hôm nay tới đây, được chiêm ngưỡng Ngài và được nghe công đức của năm giới, con thành tâm cúi xin năm giới của Thế Tôn, xin Thế Tôn trao cho con, con nguyện suốt đời vâng giữ, dẫu cho chết mất thân mạng con quyết không hủy phạm. Năm giới đối với con, cũng như người đói giữ cơm, người khát giữ nước, như người bệnh giữ mạng, con giữ năm giới cũng thế.

Phật dạy: – Con biết tuân hành thọ trì năm giới là người có phước lành đã trồng nhiều kiếp, con hãy lắng lòng nghe cho kỹ và ghi vào tâm thức chớ quên, ta nói đến đâu con lãnh thọ đến đó.

Ưu Ba Tư Na bạch: – Dạ kính lạy đức Thế Tôn, con xin chú ý lãnh thọ!

Khi cô lãnh giới xong, lại bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở nước xa xôi, giờ đây con phải trở về, cúi xin trao cho con một bài kinh để hằng ngày tụng đọc và thờ kính. Các đức Phật quá khứ, các đức Phật đời vị lai cũng một kinh pháp ấy.

Theo lời cầu nguyện của cô, Ngài trao cho cô một quyển kinh “Pháp Cú” và đặn rằng:

– Con mang kinh này về, chiều sớm ban hôm chăm chỉ thụ trì đọc tụng, sẽ được công đức vô lượng.

Cô cúi đầu lễ ba lễ, nhiễu ba vòng rồi trở ra về.

Từ khi được thấm nhuần giáo lý đạo Phật, cô coi đời như giấc chiêm bao, tất cả gia đình sự nghiệp chỉ là trò huyễn ảo gây ra trong thời gian vô định, nên cô chỉ chăm chú vào quyển kinh sớm hôm đọc tụng, suy nghĩ giáo pháp cao siêu của tam thế chư Phật. Một buổi nọ lúc giữa canh khuya cô ngồi tụng kinh trên lầu cao, văng vẳng nghe trên không gian có tiếng nói rằng:

– Hay lắm! Hay lắm! Chị tụng kinh hay lắm! Chúng em muốn tặng chị một chút bảo vật song không thích hợp với tư tưởng của chị, vậy xin giới thiệu một lời để dâng chị. Hiện nay Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên tới đây đương nghĩ trong rừng, sáng ngày mai chị mời hai Tôn giả cúng dàng thì được phúc vô lượng, khi Tôn giả chú nguyện thì hô đến tên của chúng tôi.

Ưu Ba Tư Na nghe xong ngửa mặt lên hỏi:

– Ông là ai? Xin cho tôi được biết quý danh.

Đáp: – Tôi là Quỷ Vương tức là Tỳ Sa Môn Thiên Vương nhân sang nam phương qua đây vì muốn nghe tụng kinh nên đứng lại!

Cô trả lời: – Người cõi Thiên không bao giờ nói lầm như vậy, ông là người trời, tôi là người thế, tuyệt không có nhân do, tại sao gọi tôi là chị.

Tỳ Sa Môn đáp: – Đức Phật là ngôi Pháp Vương cũng là cha lành cõi nhân cõi thiên, tôi là Ưu Bà Tắc, chị là Ưu Bà Di cùng chung một cha lành tu học một pháp vị, cho nên cũng có thể kêu là chị em được.

Cô vui vẻ hỏi tiếp: – Khi cúng dàng xưng tên của ông thì được lợi ích gì.

Thiên Vương đáp: – Tôi là Thiên Vương, tai nghe được rất xa, xưng tên tôi nghe thấy thì thêm thế lực của tôi và uy đức của tôi, khi đó tôi dùng thần lực sai khiến các quỷ thần ủng hộ người đó được phước lộc nhiều, và khiến cho họ thoát khỏi khổ nạn.

Thiên Vương nói xong rồi từ biệt. Ưu Ba Tư Na trong lòng vui vẻ! Và thầm nghĩ như vầy:

– Đức Phật trăm kiếp ngàn đời, chăm tu khổ hạnh cũng là vì ta, và tất cả chúng sinh. Hôm nay cũng do uy đức của Phật nên ông Thiên Vương đối với ta một cách thận trọng, lại còn xưng tên ta là chị, đức Phật là một đấng cha lành cho muôn loài.

Cô ngồi tư duy nhận xét đạo lý mãi đến gần sáng mới thiu thỉu ngủ; trời vừa tang tảng, các cô gái vào rừng kiếm củi trèo lên cây cao chặt những cành cây khô, xa xa nhìn thấy hai vị Thánh Tăng, một vị là Xá Lợi Phất, một vị là Mục Kiền Liên, với năm trăm thầy Tỷ Khưu đương ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, cô gái ở nhớ rằng “độ nọ được đi hầu bà sang nước Xá Vệ, gặp hai vị Thánh Tăng này một lần bà chủ ta tôn kính lắm”.

Ngừng lấy củi cô lại tận nơi lễ bái thưa rằng:

– Kính thưa Tôn giả, chúng con là gia nhân của Ưu Ba Tư Na tới đây để bái mừng và đến thăm Tôn giả.

Tôn giả đáp: – Ưu Ba Tư Na có được vui vẻ không, có được an lạc giải thoát không?

– Thưa Tôn giả: – Ưu Ba Tư Na vẫn được an vui kể từ ngày được thọ giáo đức Thế Tôn, Ưu Ba Tư Na xin thỉnh hai Tôn giả tới nhà dùng bữa cơm hôm nay.

Tôn giả đáp: – Ngươi hãy về nói với Ưu Ba Tư Na. Hay lắm! Hay lắm! Ưu Ba Tư Na, là Ưu Bà Di khéo biết thời và khéo biết việc thích ứng, Phật vẫn thường khen năm pháp thí được phúc vô lượng.

Một là, bố⠴hí cho người ở nơi xa tới,

Hai bố, thí cho người đi xa.

Ba là, bố thí cho bệnh nhân.

Bốn là, bố thí thức ăn cho người đang bị đói.

Năm là, bố thí pháp cho người biết pháp.

Năm pháp bố thí này nếu ai thực hành làm ngay, thì được phúc báo hiện tại.

Các cô nghe xong, vâng lời lễ tạ lui ra, về nhà gặp cô gái ở nhỏ bèn hỏi:

– Bà chủ ở đâu mày?

– Bà đang ở trên gác, đem qua bà ngủ không được, vừa mới ngủ đấy.

– Mày đi lên gọi bà dậy.

Đáp: – Em không dám!

– Không dám gọi thì để chị gọi.

– Tùy ý.

– Bà ơi! Mời bà dậy!

– Ngươi hỏi gì?

– Thưa bà, Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên đến rừng này con đã mời Ngài đến nhà dùng bữa cơm ngọ hôm nay.

Cô Ưu Ba Tư Na vui vẻ! Lấy bộ khoen vàng thưởng cho cô gái ở.

– Thưa bà, Tôn giả có những lời rất hay giáo hóa cho con.

– Con nhớ không? Nói cho ta nghe!

– Thưa bà, Tôn giả nói rằng: – Ưu Ba Tư Na là người Ưu Bà Di, khéo biết thời và khéo biết việc thích ứng. Phật vẫn thường khen năm pháp thí được phục vô lượng.

Thứ nhất là thí cho người ở xa tới.

Thứ hai là cho người đi đường xa.

Thứ ba là thí cho người có bệnh hoạn.

Thứ tư là bố thí thức ăn cho người đương bị đói.

Thứ năm là bố thí pháp cho người biết pháp.

Năm pháp thí này nếu ai thực hành làm ngay, thì được phúc báo hiện tại.

Ưu Ba Tư Na nghe xong sung sướng quá, cũng như hoa sen khi gặp ánh nắng của mặt trời mà tung nở, trong lòng sáng tỏ tự nhiện phấn khởi tinh thần cũng như hoa sen kia đua nở vậy.

Ưu Ba Tư Na tháo chuỗi hột vàng trên cổ tặng thêm cho cô gái ở.

Cô gái ở vui mừng, đỡ lấy rồi nói:

– Mời bà dậy đi! Rửa tay, rửa mặt sửa soạn các món ăn mà cúng dàng, con sẽ đi mời các Ngài hầu bà.

– Ta vui lòng lắm! Nếu con đã vì ta làm việc này, hãy cứ làm đi, không phải nói nữa, ta cho tùy ý, và cũng không riêng gì cho ta, nếu cho làm việc tốt lành ấy, bất luận tại gia, hay xuất gia, nơi tụ lạc, thành ấp đều được sáng thịnh yên vui.

Nói xong đứng lên đi rửa tay bảo gia nhân và các người lân cận, người nấu cơm kẻ đốt lửa, gánh nước hái rau, kê bàn, trải chiếu, hái hoa phân phó các việc xong, còn mình lấy thuốc giã rây hòa luyện cẩn thận. Khi các thứ đã đầy đủ rồi sai người đi mời hai Tôn giả và các thầy Tỳ Khưu.

Được tin mời, hai Tôn giả và các thầy Tỳ Khưu mặc áo tề chỉnh đi phó trai. Các vị tới nhà thăng tòa ngồi yên tĩnh.

Ưu Ba Tư Na ra lễ bái mừng! Cầm thau món ăn sẻ vào các bát, sắc hương thơm ngát một lòng thành kính dâng lên.

Sự cúng dàng được phúc báo tùy theo lòng thành kính:

Làm thức ăn ngon, lại đẹp thì được nhan sắc đẹp, mùi ngon thơm tốt thì được phúc danh thơm đồn xa, món ăn đầy đủ, được phúc báo tuỳ ý muốn gì được nấy, thân người vạm vỡ khỏe mạnh.

Chúng Tăng độ xong, Ngài Tôn giả Xá Lợi Phất làm phép chú nguyện.

Ưu Ba Tư Na thưa: – Kính xin Tôn giả hô đến tên ông Tỳ Sa Môn Thiên Vương.

Ngài chú nguyện, xong, hỏi:

– Con đối với Tỳ Sa Môn Thiên Vương có nhân duyên gì mà hô tên ông ấy?

– Kính bạch Tôn giả! Thực là một việc ly kỳ quá! Tối hôm qua con đương tụng kinh, ông Thiên Vương ấy đứng ở trên hư không, khen con và gọi con là chị. Lúc ấy con hỏi ông là ai nghe tiếng, mà không thấy người, ông ấy nói: – Tôi là Quỷ Vương Tỳ Sa Môn Thiên Vương thấy người tụng kinh tôi đứng đây nghe, tôi muốn lấy trân bảo cõi Trời tặng nhưng không phải một thứ mà chị ưa muốn, nên xin tặng một lời đó thôi! – Con lại hỏi, ông muốn bảo gì?

Ông ta nói:

– Sáng mai Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên, đến rừng này, chị nên sửa trai cúng dàng, khi cúng thì hô đến tên tôi.

Con lại hỏi: – Xưng tên ông thì được lợi ích gì?

Ông ta nói:

– Tai tôi nghe được rất xa, nếu xưng tên tôi thì thêm thế lực của tôi, và uy đức của họ hàng tôi, tôi sẽ dùng thần lực sai quỷ thần ủng hộ cho người đó, thoát khỏi những khổ nạn, bởi nhân duyên ấy nên xưng tên.

Tôn giả nói: – Đấy, cũng là một việc lạ, con ở đạo người, kẻ kia ở đạo trời, họ đối với con có lòng kính trọng lại còn nhận là chị em.

– Kính thưa Tôn giả! Còn một việc lạ nữa: Trong nhà con thường có thần nhân đi lại viếng thăm một cách thân mật và cũng như một bạn gái vậy, khi con bố thí, thì vị thần bảo con rằng: Vị này là A La Hán, vị này là Tu Đà Hoàn, vị này là Tư Đà Hàm, kẻ này là phàm phu, người này là trì giới, kẻ này phá giới, người này trí tuệ, kẻ này ngu si. Con tuy nghe thấy nhưng ý của con không phân biệt phá giới hay trì giới, trí tuệ hay ngu si, bất luận vị nào con đều coi như một vị La Hán.

Tôn giả nói: – Cũng hay lắm, ngay đấy con có tâm bình đẳng không phân biệt.

– Bạch Tôn giả! Con lại có một việc lạ nhất: Con là phận nữ nhi tại gia mà tiêu diệt được hai người thân kiến, đắc quả Tu Đà Hoàn!

Tôn giả nói: – Đấy con có phước lớn làm thân gái mà chứng được quả Tu Đà Hoàn!

– Bạch Tôn giả: – Con lại có một việc kỳ nữa, con sinh hạ được bốn đứa con đều ác kiến, chồng con cũng là tà ác quá đỗi, đối với Phật Pháp Tăng chẳng biết tin kính, con cúng dàng Tam Bảo, hoặc cho kẻ bần cùng, lại sinh lòng giận tức tiếc của, và nói rằng: – Ta làm khổ sở mới có tiền, lại đem làm việc vô ích, tuy thế, nhưng đạo tâm bố thí cúng dàng tu thiện của con, không hề thay đổi và cũng không buồn hận gì!

Tôn giả nói: – Làm thân đàn bà suốt đời không bao giờ được tự tại, khi còn bé nhỏ ở với cha mẹ, thì cha mẹ cấm đoán, khi có chồng thì chồng đàn áp dưới ách di nô, khi già thì con cái ngăn đón, riêng đối với phúc lực của con thì không bị chồng cấm đoán, tùy ý tu thiện, này Ưu Ba Tư Na, tối hôm nay đức Thế Tôn sang rừng Tỳ Nữu Can Đặc, con lại viếng thăm Ngài.

Nói xong hai Tôn giả và các thầy Tỳ Khưu ra về. Ưu Ba Tư Na thầm nghĩ:

– Tôn giả mách bảo thật là một việc rất hay, ta sắm sửa vật thực để cúng dàng.

Ngày mai Ưu Ba Tư Na gọi các người thân tín đi viếng thăm Phật, tới nơi rừng Tỳ Nữu Can Đặc, thấy đức Thế Tôn dung nhan tươi sáng như vừng nhật nguyệt, uy phong lẫm liệt. Cô và mọi người thụp lạy trước Ngài, dâng hoa lên cúng rồi lui ngồi về một bên.

Hôm đó đức Thế Tôn thuyết pháp nói về công đức bố thí trì giới, sinh thiên, đoạn dục và Niết Bàn, nghe thuyết pháp xong nàng bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Thôn xóm con thuần những người tà kiến, không biết Phật Pháp Tăng, và không ưa việc bố thí. Cho nên những vị Sa Môn, Bà La Môn, có vào làng không ai biết cúng dàng, nên các vị chỉ vào nhà con. Kính xin Ngài có thời gian nào đến ấp làng con giáo hóa cho mọi người biết tín ngôi Tam Bảo, hơn nữa chúng con lại được cúng dàng.

Bạch xong lễ tạ lui ra, lần lượt đi thăm các vị Tỳ Khưu, cuối cùng thấy một vị mang bệnh nằm trong hang cỏ, liền hỏi:

– Đại Đức bệnh hoạn thế nào? Đau lâu mau thế nào? Phải dùng những thức gì điều trị, xin cho con được rõ.

Đáp: – Tới đây thủy thổ bất hòa, tôi không hợp nên phải thụ bệnh, giờ đây nếu được thứ thịt tươi ăn thì khỏi.

– Bạch Đại Đức, ngày mai con xin dâng Đại Đức dùng, việc ấy không khó!

– Hay lắm! Quý hóa lắm!

Ưu Ba Tư Na lễ sát dưới chân xin phép ra về, đi đường thầm nghĩ rằng:

– Ta có phước đức lớn, hôm nay được yết kiến Phật và các Tôn giả.

Ngày mai sai người ở đi chợ mua thịt, không mua được trở về thưa rằng:

– Thưa bà, hôm nay ngày rằm chợ không bán thịt, và hôm nay ngày quốc cấm, nếu ai sát sinh bán thịt sẽ bị trọng phạt!

– Thế à! Mày cầm một ngàn đi mua, chỉ lấy số thịt giá một trăm đồng thôi, hoặc có kẻ nào ham lợi thì họ bán!

Kẻ đó mang tiền đi chợ lần nữa, nhưng vì luật nhà vua quá nặng nên không ai giết lợn bán, vế thưa rằng:

– Thưa bà, hôm nay ngày quốc cấm không ai dám giết thịt bán.

– Mày cầm tiền vàng đi các nhà đồ tể mua một giá rất đắt!

Vâng lời bà chủ đi mua, nhưng các nhà sát sinh cũng không ai dám mổ heo bán, về thưa cùng bà chủ rằng:

– Thưa bà con đã hết lời năn nỉ họ, nhưng luật nước quá nặng, không ai dám giết heo bán, xin bà liệu cách khác.

– Thôi để ta liệu!

Ưu Ba Tư Na thầm nghĩ rằng:

– Ta đã hứa dâng Ngài dùng mà không có thì Ngài mong ta, hoặc vì thế mà Ngài chết thì lỗi tại ta. Song lại nhớ tới vị Bồ Tát ngày xưa vì một con chim bồ câu, còn cắt thịt để cứu mạng sống của nó, phương chi đây là một vị Tỳ Khưu ta không nên quá yêu thân ta, ta nên cắt thịt của ta để cứu lấy bịnh của Ngài. Nghĩ xong đi tắm rửa sạch sẽ gọi một người thân tín nhất vào phòng nói rằng:

Ngươi làm ơn lấy dao này cắt thịt bên vế đừi cho ta một cân.

Người đó cầm dao cắt, trong lúc xẻo thịt, mặc lòng đau đớn khổ não; nhưng cứ bấm gan chịu, đứa ở gái lấy băng buộc chặt lấy chỗ đau. Sau mang ra nhào các thứ dược thảo nấu chín, bỏ vào cà mèn, đưa đến rừng dâng lên vị Tỳ Khưu có bệnh.

Tỳ Khưu ăn thịt xong, thân thể an lạc các bệnh đều khỏi, lành mạnh như xưa.

Đoạn này chồng của Ưu Ba Tư Na về, không thấy vợ liền hỏi gia nhân rằng:

– Chúng bây đâu!

– Dạ! Ông chủ hỏi gì ạ.

– Chúng bây có biết Ưu Ba Tư Na đi đâu không?

– Dạ! Thưa ông, bà đương nghỉ trong phòng!

Vào phòng thấy vợ nhan sắc biến đổi, có vẻ đau đớn, hỏi:

– Em đau à? Coi vẻ ủ rũ đấy!

Bước ra sai người gọi thầy lang về chẩn mạch.

Thầy lang đế⮮

– Thưa bác nhà tôi bị đau, nhờ bác chẩn mạch cho thuốc.

– Vâng! Chị ấy nằm đâu?

– Trong nhà, mời bác vào!

– Thế nào, bác đau sao?

– Bệnh tôi lúc nào cũng đau, hiện đang đau lắm không ngớt đau chút nào.

Thầy lang chẩn mạch không biết bịnh gì, yên lặng lui ra.

Thầy lang nói: – Bác ạ, tôi không rõ bác gái bệnh gì!

Anh chàng hỏi:

– Bệnh em làm sao nói cho tôi biết?

Thầy lang có giỏi cũng không biết được bệnh tôi! Thôi anh không phải lo, ít ngày em sẽ khỏi bệnh.

Anh chàng lui ra, gọi gia nhân hỏi:

– Lũ bây có biết Ưu Ba Tư Na bệnh gì không?

– Thưa ông bọn tôi không biết, ông hỏi người hầu cận bà thì biết.

Anh chàng gọi đứa ở gái ra chỗ vắng hỏi:

– Mi có biết Ưu Ba Tư Na bệnh gì không, nói thực cho ta biết.

– Thưa ông! Bà cắt thịt đừi ra, nấu cúng dàng cho một vị Tỳ Khưu ăn, nên bà bị đau đó!

Anh chàng nghe nói, hầm hầm nổi giận ra ngoài đường lớn tiếng nói:

– Làm Sa Môn Thích Tử mà ăn thịt người, có khác gì Đồ Bác Túc Vương ngày xưa không?

Chàng lê la nói mãi, khiến cho những người tín đồ của Phật vừa tủi thẹn vừa tức bực! Anh chàng dám mạ Phật, Pháp, Tăng, rồi một số đông đến chỗ Phật lễ xong lui ngồi một bên.

Phật hỏi: – Các ngươi tại sao buồn thế.

– Kính lạy đức Thế Tôn! Có một chành dòng Phạm Chí ra chỗ đông người lớn tiếng phỉ báng Phật, Pháp, Tăng rằng: – Trước đây Đồ Bác Túc Vương ăn thịt người, ngày nay thầy Sa Môn đệ tử của Phật cũng ăn thịt người, cúi xin đức Thế Tôn ra lịnh cho các vị, từ nay không được ăn thịt nữa.

Đức Phật đánh chuông họp chúng rồi gọi vị Tỷ Khưu có bệnh lên hỏi.

Vị Tỷ Khưu lên lễ Phật xong lui ngồi về một bên.

Phật hỏi:

– Quý tử bệnh gì?

– Kính lạy đức Thế Tôn, vài hôm trước con mắc chứng bệnh sốt, nhưng hôm nay đã bớt nhiều.

Phật hỏi:

– Hôm nay ngươi ăn món gì?

– Bạch lạy Thế Tôn! Con ăn thịt và uống nước thịt.

– Ăn thịt tươi hay thịt khô?

– Dạ con ăn thịt tươi!

– Thịt tươi tức là thịt không để cách đêm.

Phật nói: – Nghe đây! Bất luận tươi hay kho trước khi ăn ngươi có hỏi tịnh hay bất tịnh không?

– Dạ! Lạy đức Thế Tôn, bệnh con đau quá, được thịt thì ăn ngay chứ không kịp hỏi.

Phật nói: – Tỷ Khưu tại sao lại dùng món ăn bất tịnh? Phép của Tỷ Khưu những món ăn của thí chủ, trước khi ta ăn phải hỏi, đây là thịt gì? Nếu thí chủ nói: Đây là tịnh nhục, thì phải xem xét có thể tin được mới ăn, nếu không tin được thì không ăn.

Từ đấy Phật cấm các vị Tỷ Khưu không được ăn thịt bất tịnh như sau:

1. Nếu Tỷ Khưu nhìn thấy họ giết con vật ấy, thì không được ăn.

2. Nghe thấy tiếng nó kêu khi bị người giết, cũng không được ăn.

3. Nghi ngờ không được ăn.

Như thế là phân biệt nên ăn hay không, khi đó Ưu Ba Tư Na được tin Phật cấm các vị Tỷ Khưu không được ăn thịt, chính bởi tại mình, trong lòng phát sinh đau khổ, buồn phiền, bởi vì mình mà các vị sư không được ăn thịt liền kêu chồng đến nói rằng:

– Anh mạ Phật, Pháp, Tăng có tội lớn, ngày mai anh mời Phật và chư Sư về nhà cúng dàng và sám hối, nếu anh nghe lời tôi thì đi ngay, bằng không thì tôi sẽ tự sát thân tôi trước mặt anh cho biết.

Anh chàng vốn không có lòng kính tin Phật, sau cũng vì sợ vợ tự tử, đáp rằng:

– Vâng! Tôi xin tuân lời của cô, xin cô đừng nói nữa, tôi sẽ đi mời Phật ngay bây giờ!

Nói xong anh chàng đi ngay, tới thưa rằng:

– Thưa Ngài Cồ Đàm Sa Môn, ngày mai chúng tôi xin mời Ngài, và mấy vị đệ tử đến nhà dùng cơm.

Đức Phật thấy anh lỗ mãng vô lễ, Ngài từ bi lẳng lặng tỏ ý nhận lời.

Anh chàng cũng biết Ngài nhận lời của mình, vái tạ ra về, khi tới nhà nói với vợ rằng:

– Ông Cô Đàm đã nhận lời mời của tôi rồi đấy!

Ưu BaTư Na sai gia nhân sửa soạn các món ăn, hương hoa, ghế ngồi trang trí trong nhà rất tôn nghiêm, sớm mai sai người vào rừng mời Phật.

Khi Phật và các vị Tỷ Khưu đến nhà ngồi an tĩnh, không thấy Ưu Ba Tư Na Ngài hỏi:

– Ưu Ba Tư Na đâu? Không thấy ra chào?

Anh chàng đáp:

– Dạ! Đương bị đau bệnh nằm trong giường.

Nói xong chạy vào phòng gọi:

– Thầy cô gọi cô đó!

– Anh ra bạch rằng: – Ưu Ba Tư Na lễ dưới chân Phật và các vị Thánh Tăng, vì có bệnh đau quá không thể ra được, cúi xin xá tội. Nhưng anh ăn nói cho có lễ độ mới được!

Anh chàng ra thưa rằng:

– Dạ! Thưa Ngài, Ưu Ba Tư Na lễ dưới chân Phật, Pháp, Tăng, vì mang bệnh đau quá không thể ra chào được.

Phật kêu: – A Nan

– Dạ!

Ông vào phòng gọi Ưu Ba Tư Na ra ta hỏi.

– Dạ!

Tôi vào tới phòng, Ưu Ba Tư Na cố gượng ngồi dậy chắp tay nói:

– Kính bạch Đại Đức, con xin lễ dước chân Phật, Pháp, Tăng, rất muốn ra yết kiến đức Thế Tôn, như kẻ đói được cơm, kẻ rét được áo mặc, như khi nóng nực được mát mẻ, như kẻ lạc đường muốn về lối cũ. Con muốn ra lễ kính Phật cũng như thế, tâm con khao khát, nhưng thân con hiện giờ đau lắm không ra được! Kính xin Đại Đức ra bạch Phật hộ con.

Tôi đi ra trình Phật những lời của Ưu Ba Tư Na vừa nói, thì Phật bảo tôi rằng:

– Ông cho người khiêng Ưu Ba Tư Na ra đây!

– Dạ! Con xin tuân lệnh.

Tôi bảo gia nhân khiêng đến trước Phật.

Khi đó đức Như Lai phóng quang minh, ánh sáng chiếu vào chúng sinh nào thì chúng sinh ấy được phần lợi ích, kẻ điên rồ được an chính, kẻ loạn tâm được bình tĩnh, kẻ bệnh hoạn được hết bệnh hoạn. Ưu Ba Tư Na nhờ oai thần của Phật ánh hào quang soi tỏ cõi lòng, ngay giờ phút đó được lành mạnh hết đau.

Ưu Ba Tư Na kính sợ vui mừng giao cảm, đứng lên thụp lễ dưới chân đức Thế Tôn, lui ra cầm một cái bình bằng vàng lấy nước rửa chân Phật, đặt các món ăn, sắc đẹp mầu thơm ngào ngạt dâng cúng đức Thế Tôn và các hàng Thánh Tăng. Dùng cơm xong Phật thuyết về luận “Bố thí”, luật “Trì Giới”, tu “Thập Thiện”, quả báo sinh thiên, sinh tử là tội lỗi của tham dục, muốn xuất ly sinh tử phải tu “Tịch Diệt”, diệt khổ được an vui, nói về Mười Hai Nhân Duyên luân duyển không dứt.

Ưu Ba Tư Na nghe Phật thuyết pháp xong thì đoạn tuyệt được lòng tham dục, giận tức, si mê, chứng quả “A Na Hàm”. Người chồng cô tự bỏ được tà kiến, biết tôn kính ngôi Tam Bảo, và xin thụ giới Ưu Bà Tắc, tất cả họ hàng quyến thuộc đều xin thụ Tam Quy Ngũ Giới.

Bốn chúng đệ tử Phật, khi đó có người đắc quả Tu Đà Hoàn, có người đắc quả Tư Đà Hàm, có người đắc quả A La Hán, mọi người ai nấy đều vui vẻ khát ngưỡng Pháp Bảo Vô Lượng.

Ngoài ra còn có nhiều người nghĩ như vầy:

– Kẻ nữ nhân dám cả gan cắt thịt cúng dàng Sa Môn, thực là một chuyện chưa từng thấy bao giờ! Chúng ta nếu bỏ quê hương nhà cửa, cũng là một việc khó.

Sau đó những người dân bản xứ, có nhiều người bỏ nhà cửa họ hàng đi xuất gia, chăm chỉ tư hành đoạn trừ kết lậu, thành ngôi a La Hán từ đó nơi thôn dã ấy nhiều người biết tin theo đạo Phật, giáo pháp được lan rộng khắp nơi.

Cũng bởi thế, những người có trí tuệ sáng suốg cho đến kẻ nữ nhân cũng chăm tụng đọc kinh Phật, tinh siêng không biết mỏi mệt, nên cũng nhiều người đắc quả. Kẻ trượng phu lòng chăm tu đạo, há lại không thành công sao?

Coi đây, các thiện nam tử, thiện nữ nhân cần phải tu đạo nghiệp, sợ sinh tử khiến cho kết sử nhẹ bớt, có ngày sẽ lìa được sinh tử, tuy đời mạt pháp chưa được độ song công đức ấy cũng được sinh nhân thiên, hưởng phúc vô cùng tận.

Ngài Di Lặc Thế Tôn cách năm mươi sáu ức bảy ngàn muôn năm sẽ thành Phật thuyết pháp độ sinh, bấy giờ tùy lòng cầu nguyện của mình muốn chứng đạo quả nào sẽ được đạo quả ấy.

    Xem thêm:

  • Kinh Trung Bộ 129 – Kinh Hiền Ngu (Bàlapandita sutta) - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 10 – Thụ Trai - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Hằng Đạt dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hiệu Lượng Sổ Châu Công Đức - Kinh Tạng
  • Kinh Hiền Nhân - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Quả Trong Đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Minh Lễ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mạng - Kinh Tạng
  • Kinh Bản Khởi Thái Tử Hiện Điềm Lành - Kinh Tạng
  • Kinh Cư sĩ Tịnh Ý Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh 12 Danh Hiệu Của Đại Cát Tường Thiên Nữ - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 12 – Phú Quí - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 13 – Bần Tiện - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Hộ Mạng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • 100 Bài Kệ Tụng Về Hiền Thánh Tập - Kinh Tạng
  • Vãng Sanh Tịnh Độ Cảm Hiện Điềm Lành - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhơn Đạo - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 14 – Khuyến Khích Tu Tập - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Giác Quả dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tám Danh Hiệu Của Chư Phật - Kinh Tạng