QUYỂN 8
Phẩm thứ Ba Mươi Tám: Cái Sự
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại tinh xá vườn Trúc. Lúc ấy tôi đương tọa thiền trong rừng tự nghĩ rằng:
– Đức Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ người nhiều như vậy. Sự ăn uống đầy đủ, hơn nữa lại được hết khổ, tất cả vua, quan, dân chúng được lợi ích vô cùng tận. Vì sao? Vì Ngài vạch đường chỉ lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai được hưởng phúc báu trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại được đạo Niết Bàn. Nghĩ thế rồi tôi đứng dậy về tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đương thuyết pháp cho đại chúng nghe. Tôi mặc áo chễ vai bên hữu, tới trước quỳ gối bên hữu xuống đất, chắp tay, chiêm ngưỡng rồi đem ý nghĩ trên bạch Phật.
Phật dạy: – A Nan! Ông nghĩ như thế phải đấy, Như Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, và cũng không cứ gì ngày nay thế đâu, đời quá khứ ta cũng đã làm lợi ích cho nhiều.
– Kính lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho chúng sinh thế nào, cúi xin nói lại cho chúng con được biết?
– A Nan! Đời quá khứ tính số kiếp A Tăng Kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có bốn con sông, và hai ông vua nước lớn. Một ông tên là Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm Thiên), ông này chiếm cứ ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhưng quân sự kém.
Một ông tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim Cương Tụ), ông này có một con sông, dân chúng ít, nhưng quân sự giỏi.
Vua Kim Cương Tụ thầm nghĩ như vầy:
– Quân ta hùng mạnh, có một con sông ít nước, vua Phạm Thiên quân lực kém, chiếm giữ ba con sông, phải sai người sang đòi lại một con sông, nếu trả thì ta chơi thân với, có của gì tốt ta sẽ biếu, nếu gặp sự nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ mang quân đánh lấy lại!
Nghĩ thế rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn việc nước. Sau cuộc hội nghị, nhà vua sai sứ mang thư sang cho vua Phạm Thiên, như trên đã định.
Vua Phạm Thiên xem thư xong, thần nghĩ như vầy:
– Giang sơn đất nước là của cha ta để lại, chớ không phải ta cướp đoạt của hắn mà hắn đòi.
Nghĩ xong bảo Sứ giả rằng:
– Giang sơn đất nước không phải tự ta mà có, đây là của cha ta truyền lại, vô cớ đem trả cho chúa nhà ngươi, cả một sự vô lý. Nếu chúa nhà ngươi dùng quân lực chiến đấu, thì ta đây cũng không hẹp gì!
Sứ giả về nước tâu vua như lời nói trên. Vua Kim Cương Tụ đem đại hùng binh sang đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất trận chạy tán loạn! Thừa cơ, quân Kim Cương Tụ đuổi tới kinh thành, vây bốn mặt.
Quân vua Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, các quan thấy sự nguy ngập nên tâu rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ tiếc chi một con sông mà để di hại cho muôn dân, không chừng còn mất nước là đàng khác, cúi xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có tình nghĩa hơn.
Nhà vua đồng ý, sai người ra thưa với vua Kim Cương Tụ rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời yêu cầu trước của Bệ Hạ, để trả lại một con sông, và dâng vua thêm một người con gái. Từ đây trở đi nếu nước nào có vật gì quý thì tặng lẫn cho nhau, gặp lúc nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau!
Vua Kim Cương Tụ đồng ý rút quân, rồi đem người con gái ấy về làm vợ.
Qua một thời gian cô có thai, và luôn có một chiếc tán thất bảo che trên đầu, đi, đứng, nằm, ngồi thường như vậy. Mãn kỳ sinh được cậu con trai, thân sắc vàng, tóc xanh mướt, có bóng sáng lóng lánh nơi thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên đầu cậu.
Nhà vua với các thầy tướng vào xem, các thầy đều khen! Và tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tướng đầy đủ, đức lực viên mãn, trên đời có một không hai!
Nghe tướng sư nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui mừng! Lại nhờ đặt tên cho Thái Tử.
Theo cổ truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai việc:
1. Điềm lành.
2. Tinh tú.
Tướng sư tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không?
– Trong khi hoài thai, có tán bằng thất bảo che trên đầu.
– Tâu Bệ Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La Già Lợi (Tàu dịch: Cái Sự).
Thái tử đến tuổi trưởng thành thì vua chết, an táng cho vua xong, Thái tử lên nối ngôi, chấp chính được vài năm, thường đi chơi các miền quê để quan sát dân sự làm ăn.
Trời nắng như đốt, những người nông phu cởi trần trùng trục, với con trâu kéo cày, tiếng kêu “cót két”, dưới bãi đất lầy một cách lao khổ, đọa đày thể xác.
Nhà vua hỏi tả hữu rằng: – Những người này làm gì khó nhọc thế?
– Tâu Bệ Hạ! Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không làm lụng khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn được mạng sống của dân; dân nếu nghèo thì nước phải nguy vong!
Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì nhân dân không phải cấy cày, thóc lúa tự nhiên có đủ ăn dùng.
Nhà vua nguyện xong, thì tất cả trong nước nhà ai cũng có lúa thóc, tuỳ lòng ước muốn thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, từ đó nhân dân không phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn.
Thời gian sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy những người dân, đẵn củi, gánh nước, giã gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất khó nhọc. Nhà vua hỏi các quan rằng:
– Những người này làm gì mà lao khổ như thế?
– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, được lúa thóc tự nhiên, không phải cày cấy. Nhưng phải xay giã, kiếm củi nấu chín mới ăn được; vì thế họ còn phải khó nhọc!
Nhà vua nói: – Nếu phúc đức tôi được làm vua, thì xin cho dân nước tôi, khi muốn thì các món ăn tự nhiên hiện ra trước mặt.
Nhà vua nói sao được vậy. Từ đó nhân dân đều được các món ăn tự nhiên chứ không phải làm.
Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy người kéo bông, se chỉ, dệt vải may áo, vua hỏi rằng:
– Những người này làm gì, coi vẻ khó nhọc như thế?
– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, được món ăn tự nhiên, giờ đây họ dệt vải để may áo mặc.
Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho những cây cối trong nước sinh ra các thứ áo!
Nói xong, tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ, trắng, tuỳ theo ý muốn của từng người ưa thích.
Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy các người dân đua nhau làm các thứ âm nhạc, hỏi rằng:
– Những người này họ làm cái gì như vậy?
– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc được đầy đủ, giờ đây họ làm các thứ âm nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái chí!
Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt đất, sinh ra các đồ âm nhạc, theo ý muốn của từng người ưa thích.
Nói xong, thì tất cả các cây trên mặt đất đều sinh ra các thứ nhạc khí.
Qua thời gian sau, các quan bản triều đến bái tạ! Nơi điện tiền nhà vua, khi tới bữa ăn, vua lưu lại dùng cơm. Hôm ấy các quân được thưởng thức các món ăn của nhà vua, nhận thấy ngon lành quá, nghĩa là chưa từng được ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung sướng, họ đều tâu vua rằng:
– Tâu Bệ Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các món ăn này, vừa ngon lành lại vừa khỏe mạnh, ăn vào thấy thân tâm an lạc.
– Nhà vua nói: – Các ông muốn thường được thức ăn như hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn của tôi mà ăn, thì sẽ được các món ăn ngon lành.
Sau nhà vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ vua ăn, phải đánh trống báo cho nhân dân biết. Từ đó nhân dân hễ nghe tiếng trống báo, thì họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể dân chúng trong nước, ai ai cũng được thức ăn ngon như nhà vua.
Khi đó vua Phạm Vương sai sứ sang nói với vua Cái Sự rằng:
– Tại thời cha ngươi, ta cho một con sông, bây giờ cha ngươi chết rồi thì trả lại cho ta!
Cái Sự bảo Sứ rằng:
– Bờ cõi giang sơn đây, cũng không phải ta áp bức của nhà ngươi mà lấy. Song ta làm vua không để mệt sức cho dân, nhưng đó là một việc nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa của nhà ngươi được gặp nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nước.
Sứ giả về tâu vua như lời nói trên. Phạm Vương đồng ý, định ngày để gặp.
Ngày hẹn đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông giáp ranh giới, lên thuyền ra giữa sông để tương kiến.
Vua Phạm Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực như núi vàng, tóc mượt như lưu ly, mắt sáng tợ sao ngôi, mồm tươi như hoa nở, mũi thẳng, mặt vuông, tai chùng, oai phong lẫm liệt, tự phát sinh lòng kính trọng, cho rằng: – Một ông Trời Đại Phạm, hai người gặp nhau bàn luận về việc đời nước sông!
Cái Sự nói: – Nhân dân nước tôi sự ăn dùng tự nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc, và cũng không phải thâu thuế phạt tiền, tôi không bao giờ bắt dân công làm việc cho nhà vua.
Đương đàm luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua Cái Sự đánh trống. Vua Phạm Thiên run sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, liền đứng dậy tạ lỗi, chân tay lẩy bẩy.
Vua Cái Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói rằng:
– Nhà vua làm sao sợ hãi như vậy? Đó là tới giờ ăn, quân đội của tôi đánh trống báo! Vì theo đúng giờ ăn của tôi, thì dân chúng sẽ được nhiều thức ăn ngon!
Vua Phạm Thiên chắp tay thưa rằng:
– Muôn xin Đại Vương thương đên quốc dân chúng tôi, cũng được các món ăn tự nhiên và từ nay chúng tôi xin hàng phục.
Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nước Châu Diêm Phù Đề.
Sau ngày đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu bách Quan đứng hầu túc trực suốt ngày đêm.
Buổi sớm ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim Luân bảo, bay từ phương Đông tới, vua Cái Sự từ trên tòa bước xuống, quỳ thẳng chắp tay hướng lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại ngay, đẹp đẽ có quang minh chiếu ra bốn mặt.
Nhà vua nói rằng: – Nếu tôi được làm Chuyển Luân Vương, thì xin xe này ở lại đây!
Nói xong, xe Kim Luân ấy đứng trên hư không trước điện nhà Vua, cách đất bảy cây Đa La, rồi đó tượng bảo, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điện tạng, lần lượt bay tới.
Vua Cái Sự từ đó được làm Chuyển Luân Vương, thất bảo đầy đủ, cai trị bốn thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ đức hóa an vui sung sướng. Theo chính sách của nhà Vua nhân dân tu theo mười điều lành:
1. – Không sát sinh
2. – Không trộm cướp
3. – Không tà dâm
4. – Không nói dối
5. – Không nói lưỡi đôi chiều
6. – Không nói ác
7. – Không nói đơm đặt
8. – Không tham lam
9. – Không giận tức
10. – Không si mê.
Sau khi mạng chung được sinh lên cõi Trời tất cả.
Nói tới đây, Phật nhắc lại rằng:
– A Nan! Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há phải là ai đâu, chính là tiền thân của ta đấy; vua Kim Cương Tụ là thân phụ ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự, nay là mẫu thân ta (Ma Gia).
Bởi ta có từ tâm thương chúng sinh, thường cho của cải, cho đạo pháp, để dắt dẫn họ, vì nhân duyên ấy đến nay thành Phật, đặc tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế chúng sinh biết tu tập lòng từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên.
Tôi lại thưa rằng: – Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm Chuyện Luân Vương, tại nhân duyên gì mà được? Và khi nhập thai đã có tán thất bảo che theo, kính xin nói cho chúng con được rõ?
Phật dạy: – A Nan! Đời quá khứ cách nay đã lâu lắm, tính số kiếp A Tăng Kỳ có đến vô lượng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, trong quả núi Tiên có vị Bích Chi Phật, mắc chứng bệnh phong, thầy thuốc nói phải dùng sữa bò mới khỏi.
Bấy giờ người lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La (Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài Bích Chi Phật nói bệnh cho ông nghe và để ông cúng dàng sữa.
Ông lài buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài dùng được ba tháng thì khỏi bệnh. Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ được ích lợi lớn nên Ngài bay lên hư không đi, đứng, nằm, ngồi, thân phun ra nước lửa, lúc hiện thân lớn đầy hư không, rồi thu nhỏ lại như chiếc lông mùa Thu; cứ như thế biến hiện ra mười tám lần.
Ông Thấnh Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên hư không hạ xuống để nạp thụ sự cúng dàng. Qua một thời gian ngài nhập Niết Bàn.
Ông Thánh Hữu thương nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng dàng, thu lấy Xá Lợi đựng vào bình vàng, và xây một bảo tháp, để bình vàng Xá Lợi vào trong, lại làm một cái tán che trên, hàng ngày đem hương hoa âm nhạc cúng dàng, suốt đời thờ phụng.
Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:
– A Nan! Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức cúng dàng vị Bích Chi Phật, nên được phúc báo vô lượng kiếp, sinhl lên cõi Trời hoặc cõi nhân gian, đều được tôn vinh sung sướng, khi ở thai có tán báu che trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền thân ta đấy. Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu phúc làm sự nhiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ được lợi ích vô lượng vô biên như thế đó.
Bấy giờ tôi và mọi người trong cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều vui sướng phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.
Phẩm thứ Ba Mươi Chín: Đại Thí Tát Biển
Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ Khưu ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn muốn dùng một người Thị Giả.
Các vị Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài như vậy. Khi đó ông Kiều Trần Như mặc áo trễ vai hữu, tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.
– Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài, cúi xin từ bi hoan hỷ, chấp thuận cho con được ân triêm công đức!
Phật dạy: – Ông nay tuổi đã già yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!
Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, và năm trăm đệ tử lần lượt ra tác lễ cầu xin làm Thị Giả. Nhưng Phật không cho ai.
Khi đó, Ngài A Nan Luật xem biết ý Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc đại để tử cũng đều hiểu như thế.
Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:
– Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông được diễm phúc hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho toàn thể Tăng chúng cũng được nhờ ông một phần lớn!
Tôi nghe lời hai Thượng Tọa nói rồi, chắp tay thưa rằng:
– Kính thưa hai Thượng Tọa! Thế Tôn đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ xuất phải tội, và chiêu họa thì sao?
Ngài Xá Lợi Phất nói:
– Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể kham năng được, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị Giả!
Tôi thấy hai Thượng Tọa nói như vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thưa rằng:
– Dạ! Nếu hai Thượng Tọa, thưa với Phật cho được ba điều nguyện này, thì tôi xin làm Thị Giả:
1. – Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi dùng.
2. – Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.
3. – Thờit tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, được như thế thì tôi xin làm.
Hai Thượng Tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:
– Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ tử sinh lòng như vầy: Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, trên đời hiếm có, cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến hiện, là sợ các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ không hợp pháp, làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng các món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi việc đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu! Thời quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) như vậy:
Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời tiết, việc ấy thế nào xin nói cho chúng con được biết nguyên do?
Phật dạy: – Xá Lợi Phất! Ông muốn biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!
– Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!
– Xá Lợi Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lượng, thuở đó có một ông vua nước lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành ấy có một người Bà La Môn, có trí thông sáng, nhà vua tôn kính như một ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ sang thăm viếng, nói tóm lại cũng như bầy tôi thờ vua không khác. Nhà giàu ngang với nước, nhưng không có con để nối nghiệp nên lúc nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện được. Bấy giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên “Thiên Đế”, Tứ Vương Ma Hê Thu La và tất cả chư Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười hai năm, do sự cầu nguyện thành kính ấy, nên bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi người về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến xem nói: – Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một cách chăm chỉ cẩn thận, không được làm trái ý.
Đủ tháng sinh được cậu con trai mình sắc vàng, tóc xanh mượt, trán cao, mũi thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm tươi rộng, nhân tướng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời thầy về coi tướng.
Tướng Sư xem xong nói:
– Cậu đầy đủ phúc đức, thiên hạ chưa từng có, sau này có thể làm đến Quốc Sư!
Nghe Tướng Sư nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y vào hai điều kiện:
1. – Tinh tú.
2. – Biến điềm lạ.
Tướng Sư hỏi: – Thưa ông! Trong khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?
– Thưa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại không chăm tu phước tuệ gì, từ khi có thai cháu, thì tâm tính cải đổi, thương xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm bố thí, không tham lam tích cóp như xưa!
Tướng Sư hoan hỷ nói:
– Đó là trí lý của cậu con trai sử nhiên như vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí).
Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba cung, để tùy theo thời tiếc nóng lạnh của một năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa thu ở cung giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm ngày cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo. Một hôm cậu thưa với ông rằng:
– Thưa cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để xem dân chúng làm ăn.
– Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi.
Ông sai người sửa sang đừơng sá, vảy nước thơm, dựng cờ treo phan đốt hương, một con voi trắng lớn, trên lưng đặt bành bằng thất bảo phủ vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho cậu cỡi. Những người đi trước gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng ngàn người cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đường lớn bằng phẳng, bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:
– Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt như một ông trời Phạm Thiên!
Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí hỏi:
– Các ngươi tại sao mà khổ cực như vậy?
– Thưa cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có chỗ nương thân!
Cũng có người nói rằng: – Chúng tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống!
Cũng có người nói rằng: – Chúng tội gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối làm ăn, phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!
Đại Thí nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, than lòng mà bước đi! Đi được vài dặm, thấy lũ đồ tể mổ giết súc sinh.
Đại Thí hỏi: – Chao ôi, các ông làm gì thế?
– Thưa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết lối!
Đại Thí than thở rồi bước đi. Đi một quãng thấy các người cày ruộng: những sá cày lật đất, các con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại thấy những con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim khổng tước bắt rắn tha lên cành cây ăn.
Đại Thí hỏi: – Đây là họ làm gì?
– Thưa cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa được thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua.
Đại Thí nghe xong, thương chúng sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy những người đi săn, giăng lưới, đặt cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lưới, quằn mình quại thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng.
Đại Thí hỏi: – Các ông làm gì đó?
– Thưa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này, thì cũng không có nghề gì sinh sống!
Đại Thí nghe nói vừa thương, vừa ngậm ngùi! Rồi bước đi. Đi được một lúc thấy một con sông lớn, trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lưới kéo lên được rất nhiều cá, đổ lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang.
Đại Thí hỏi: – Các ông làm gì thế?
– Thưa cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt cá để sinh sống.
Đại Thí nghe nói, để lòng thương! Và thầm nghĩ rằng:
– Tất cả người dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng sinh, sau chết đọa xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê tối hơn, thực đáng thương thay!
Tớiđây Đại Thí bảo với mọi người rằng:
– Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ.
Vì thương đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào được vui! Tìm cách để cứu tế chúng sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thưa với cha rằng:
– Thưa cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao hình khổ trí sát hại muôn sinh để nuôi đời sống, lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp ấy sau chết phải đọa vào ba đường ác, con rất thương họ! Vậy cho con một kho gạo để bố thí cho những kẻ nghèo đói.
– Tùy ý, của cha là của con, ý con muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!
Được cha đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân rằng:
– Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ!
Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất cả những người nghèo khổ, bệnh tật, cô cùng, kéo nhau đến đông như hội; cũng có người ở xa từ trăm dặm, người hai, ba trăm ngàn dặm tới, có người từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, muốn cơm được cơm, muốn áo được áo, tất cả ai muốn gì cũng được toại ý.
Bố thí trong một thời gian, các kho ba phần đã hết một, người coi kho đến thưa với ông chủ rằng:
– Thưa ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho tàng ba phần đã hết một. Vua quan khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thưa trước!
Ông nghĩ như vầy: – Thà để kho không, chứ không làm trái ý con ta!
Bố thí trong một thời gian nữa thì ba phần đã hết hai. Người coi kho lại lên thưa với ông rằng:
– Thưa ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì không còn cái gì mà ăn dùng nữa!
Ông nói: – Ta nặng tình yêu con quí của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có phương tiện gì, giả thác ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra còn chút nào để dùng chăng!
Anh coi kho được ông cho phép, đóng luôn cửa lại rồi đi nơi khác.
Vì kho đóng nên những người xin đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh coi kho đi vắng. Cậu sai người tìm mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhưng cũng không cho được bao nhiêu.
Đại Thí thầm nghĩ như vầy:
– Việc đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta. Song phép làm con cũng không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ cũng không còn được bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế cho nhân dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta.
Khi đó Đại Thí hỏi mọi người rằng:
– Ở thế gian này, làm nghề nghiệp gì được nhiều tiền của?
Cáo người mách rằng:
– Thưa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc thì được nhiều của.
Có người nói rằng:
– Nuôi thú vật bán có thể được nhiều tiền.
Cũng có người nói:
– Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán có thể được nhiều tiền của.
Lại có người giới thiệu rằng:
– Thưa cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả được bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề, được đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một diệu kế hơn hết!
Đại Thí nói: – Trồng cây, nuôi thú, đi xa buôn bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển tìm ngọc châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu.
Nói xong lên thưa với cha mẹ rằng:
– Thưa cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng?
Ông bà lo quá, nói rằng:
– Con ơi! Những người ra biển là những người nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng đời sống của mình. Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn bố thí, thì trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn, sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nước khó mà qua nổi! Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi được đâu, thôi đừng giở hơi nữa.
Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ như vầy:
– Ta muốn gây một đại nghiệp cho tương lai, mà tham tiếc thân sống thì sao thành?
Nghĩ xong, phục mình xuống trước cha mẹ mà thưa rằng:
– Kính lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí nguyện của con, không cho con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân, thì con nằm ở đây không đứng lên nữa!
Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt như lửa đốt! Cùng với mọi người khuyên bảo rằng:
– Đương biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo thành kính, trong mười hai năm ở miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn khôn lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng!
Cậu một lòng thưa rằng:
– Cha mẹ cho con đi thì con dậy, không thì con không dậy!
Cậu nằm mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhưng cậu quyết định không dậy, chịu nhịn đói.
Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng:
– Con ta trước sau khăng khăng một mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm quá bảy ngày chết lại đây, thực là vô ích.
Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng:
– Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi.
Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:
– Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý.
Bấy giờ có năm trăm người đồng ý theo cậu. Giữa hôm lên đường ra đi, cha mẹ, vua, quan, dân chúng, số ngàn muôn người đưa chân đem tặng lương thực và tiền bạc để ăn đường. Cuộc tiễn đưa này, rất vui vẻ! Mọi người đều cầu chúc: “Cậu đi được bình an mau trở về”.
Đi chừng vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh mông, mọi người đều lên đó nghỉ, không may gặp bọn cướp đông quá, biết sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lương thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này có ông Trưởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà La Môn, ông có cô con gái, mình sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn bốn ngàn vương tử, ở các nước đến hỏi cô không ưng.
Đại Thí định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô thấy người gọi chạy ra, nhìn cậu, tự nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà thưa với cha rằng:
– Thưa cha! Bên ngoài có người gõ cửa gọi, người đó chính là chồng con đấy!
Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bước ra, thấy cậu tướng mạo oai nghi phi thường, mừng thầm hỏi rằng:
– Cậu tới đây có việc chi?
– Thưa Trưởng giả! Tôi vì lòng thương dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp cho họ, không may đi nữa đường gặp bọn cướp lấy hết lương thực, muốn phiền Trưởng Giả cho vay ba ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả!
Ông vui vẻ nói:
– Mời cậu vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu mượn ba ngàn hoặc mười ngàn, nhà tôi cũng sẵn.
Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa cười vừa nói:
– Tôi xin tặng số vàng này cho cậu; đây là con gái tôi, nhiều Vương Tử đến hỏi nhưng tôi không gả. Hôm nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu. Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin cho biết.
– Dạ! Thưa Trưởng Giả, hiện nay tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi không biết có ngày về, giờ nhận lời với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình trong biển cả! Sai lời hẹn thì làm thế nào?
– Không sao! Nếu cậu được tốt lành trở về, thì xin nhận lời hứa!
Ông vui vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn ông, rồi từ biệt lên đường đi.
Đưa vàng về, cậu bảo các người theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ với sóng gió.
Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái dây.
Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng nói:
– Các bạn lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La Sát, ác phong, độc khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng tôi! Tới đây, ai muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng không được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở về, tiền của con cháu bảy đời ăn không hết.
Nói xong, cắt một dây; cứ như thế, mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày cắt hết bảy dây, thuyền bắt đầu đi, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như bay.
Qua một thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.
Đại Thí là người tinh anh, học rộng, biết rành các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, hình sắc tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa phải đừng tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi.
Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí không muốn lên thuyền, anh em hỏi:
– Thưa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời cậu lên thuyền đi về!
– Các bạn hãy về trước! Giờ đây tôi muốn đến điện vua Long Vương, để xin ngọc Như Ý, thì có thể bố thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề được. Tôi cương quyết đi, nếu không xin được tôi quyết không về!
– Thưa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cương quyết của cậu mà ra tới đây, lấy được nhiều bảo vật, châu ngọc, mong được hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi mà đi một mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi.
– Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn được an lành trở về nước nhà, sung sướng cùng cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn không lo!
Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, cầu chúc cậu đi được tốt lành, và xin giã biệt trở về.
Buồm đã trương, những chiếc thuyền từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu mà rớt nước mắt!
Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại Thí dâng hương lễ mười phương chư Phật lập thề rằng:
– Kính lạy thập phương Đại Giác từ bi chứng giám! Con không quản đường xa dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn khổ! Nguyện đem công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề nguyện của con được thành tựu, và những người này được an lành, về không gặp các tai nạn.
Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nước ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nước sâu đến tận mông; đi bảy ngày nước đến ngang lưng; bảy ngày nữa nước ngập tới cổ; bơi bảy ngày nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến chân núi, tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, lại có các con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên ngó.
Đại Thí thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán từ bi tam muội. Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp trước tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng từ bi của Đại Thí giao cảm, nên những con rắn đó, được hết nọc đọc.
Đại Thí đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trước mặt xa xa, thấy những con quỷ La Sát, vì chúng ngửi thấy hơi người mà tìm lại. Thấy thế, Đại Thí nhiếp tâm niệm nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự phát tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:
– Bồ tát ở đâu tới đây?
– Thưa Ngài, tôi đi tìm ngọc Như Ý!
Quỷ vui vẻ, nghĩ như vầy:
– Người này có phúc đức đi đến chỗ vua Long Vương, nhưng hãy còn xa, làm sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy đưa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.
Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của quỷ, đưa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về.
Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng đường đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc như mặt trời. Đại Thí biết đích thành này của Long Vương, vui vẻ đi thẳng vào, thấy bên ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ!
Đại Thí tự nghĩ: – Những con rắn này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa làm rắn, chịu thân hình cực ác.
Đem lòng từ bi thương xót, thì các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào thành. Ở cổng thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng như cánh cửa. Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng cúi đầu không dám ngó nữa. Đại Thí bước lên đầu Rồng đi vào.
Giữa lúc vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào lấy làm ngạc nhiên, thầm nghĩ:
– Thành của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các loài độc Long, Quỷ Dạ Xoa; người này làm sao vào được? Chắc họ có đức lớn!
Vua Long Vương phát khởi lòng cung kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giường thất bảo, đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vương hỏi rằng:
– Ngài tới đây có chuyện gì cần thiết không?
– Thưa Long Vương! Nhân dân trên cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp ác, như: sát sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đường xa dặm thẳm tới đây yết kiến Đại Vương để xin viên ngọc Như Ý về cứu giúp dân chúng, mong Đại Vương mở lượng từ bi bố thí cho!
– Dạ, ngọc Như Ý là một vật quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu mạo hiểm quên thân; tôi đâu dám từ chối, nhưng xin Ngài lưu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút cúng dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài!
– Dạ, quý hóa! Đại Vương có lòng cố lưu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại, không dám từ chối.
Vua Long Vương ngày ngày cúng dàng rất trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những bài hát cực hay!
Đại Thí dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một tháng, từ biệt lên đường. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý trong búi tóc ra tặng, và nói rằng:
– Đại Thí có lòng từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài được thành Phật. Tôi xin làm một để tử trí tuệ!
– Quý hóa! Thưa Long Vương, ngọc này có năng lực thế nào?
– Dạ! Thưa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mưa trong hai ngàn do tuần vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa ra những món chúng sinh cần dùng trong đời sống.
Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ:
– Hạt ngọc này tuy quý thực, nhưng chỉ có hạn định, chưa cứu tế cho chúng sinh được nhiều, như ý nguyện của ta đã định.
Vua Long Vương và quần thần, đưa chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ bước lên đường. Đi được ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lưu ly xanh, ngoài thành có bảy lần hào vây xung quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc.
Đại Thí thầm nghĩ như vầy:
– Những con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác như vậy.
Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ Bi Quán, vì thương chúng đau khổ. Lòng từ bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm độc của chúng.
Đại Thí đứng dậy, bước lên đầu những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con rồng, mình cuộn quanh thành, hai đầu giao nhau ở trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng thấy người, ngóc đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt.
Đại Thí liền nhập quán Đại Bi; Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền lành. Đại Thí tiến bước vào trong.
Vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào, thầm nghĩ như vầy:
– Quái sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó đi như thế, mà người này vào đây được? Chắc họ có đức lớn, không phải người thường!
Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa thất bảo, đem các món ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi:
Ngài ở đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết không?
– Thưa Đại Vương! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc Như Ý!
– Thưa Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai tháng, giảng thuyết hạnh Bồ Tát và nhậm chút cúng dàng của chúng tôi.
– Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vương có tâm mến mộ vô thượng Pháp Bảo của chư Phật, việc đó tôi xin thành kính, giảng giải.
Vua Long Vương sai bày tòa cao, mỗi ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng.
Đại Thí dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về “Tứ Thần Túc”, hết hai tháng từ biệt ra về.
Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng và phát nguyện rằng:
– Đại Thí Từ Tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô biên, quyết được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một thần túc đệ tử.
– Dạ, hay lắm! Đại Vương nguyện như vậy, sẽ được thành tựu! Còn viên ngọc này có năng lực thế nào?
– Thưa Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm mưa tất cả các món ăn dùng của chúng sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần?
Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ rằng:
– Hòn ngọc này tuy cũng khá nhưng chưa xứng ý của ta đã định!
Vua Long Vương và quần thần tiễn chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới trở về.
Đại Thí đi chưa được bao lâu, thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ:
– Những con rắn này, do đời trước đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân độc ác như vậy!
Nghĩ xong nhập Từ Tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí bước lên trên mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao nhau, gác hai bên cổng, thấy người, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt.
Đại Thí liền nhập quán Từ Bi; Rồng cúi đầu, Ngài bước vào trong cổng.
Lúc đó vua Long Vương đương ngồi ở bảo điện thấy người vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ:
– Ngoài thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó khăn như thế mà sao người này vào được? Chắc họ có đức lớn!
Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bước ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào điện, ngồi tòa thất bảo, đem các món ăn ngon quý dưới Long Cung thết đãi rất trịnh trọng. Ăn xong vua hỏi:
– Ngài ở đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì không?
– Dạ, thưa Đại Vương! Chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mười điều ác, sau khi chết đọa vào ba đường sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vương có hạt ngọc Như Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế cho nhân dân.
– Dạ, thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý là một vật quý nhất dưới Hải Tạng, nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi được biết đạo lý.
– Dạ, như vậy hay lắm! Nếu Đại Vương muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp của Như Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô Thượng Pháp Bảo!
Vua Long Vương hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các món ăn ngon quý dưới Long cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.
Đại Thí dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân lý cao siêu.
Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm không để mất thời tiết. Các hàng Long và quỷ Dạ Xoa, đến xin hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng rất nghiêm kính và hợp phép tắc.
Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vương cởi búi tóc lấy hạt ngọc Như Ý cúng dàng và thề nguyện rằng:
– Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ Tâm cao cả! Vì thương quần sinh, không quản khó nhọc, sau này quyết được thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả một đệ tử tổng trì!
– Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ được thành tựu mau chóng, còn năng lực của hòn ngọc này như thế nào?
– Dạ, thưa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, mưa thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy vuông bốn mặt.
Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng:
– Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám ngàn do tuần, như vậy mới đạt được nguyện vọng của ta!
Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm tạ Long Vương lên đường. Vua và quần thần đưa chân ra khỏi cổng thành.
Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:
– Nếu thực hạt ngọc Như Ý, xin cho tôi bay được lên hư không!
Khấn xong, rướn mình bay lên hư không tựa như chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi, xuống nghỉ.
Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin ngọc của vua Long Vương về, chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn xuống bể mất.
Đại Thí thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không thấy người, mất ba viên ngọc, nghĩ như vầy:
– Ở đây làm gì có người, mất ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta mất bao công trình lao khổ mới được, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của ta; lũ bây lấy của ta, ta thề nếu không lấy lại được, quyết định không về, ta sẽ tát cho hết nước để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không!
Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt được cái mai rừa.
Ông Thần Biển hiện lên nói rằng:
– Biển này sâu ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát cũng không thể cạn nổi, huống một mình ông tát gì được?
Đáp: – Ông nên biết: ai cương quyết làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt ngọc Như Ý, để giúp ích cho nhân loại, khó đến như thế, mà tôi cương quyết không lui chí hướng, để cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn.
Khi đó có một người ở cõi Trời Tịnh Cư, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với bao công trình khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông người ẩn hình đến giúp việc tát biển.
Cứ mỗi khi Đại Thí múc nước, thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại đem áo vắt nước đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc nước như vậy, thì nước biển cạn đi bốn mươi dặm; hai lần múc, cạn tám mươi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mươi dặm.
Thấy cạn nước nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:
– Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nước nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm gì?
– Dùng để cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!
– Theo như lời Đại Thí nói; thì chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho chúng tôi, lại lấy đi?
– Trong biển này tuy có chúng sinh, nhưng không bị đau khổ như chúng sinh Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười điều ác, chết đọa xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được Pháp ấy, nên xuống đây xin ngọc, trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mười điều lành (Thập Thiện).
Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc Như Ý trả lại.
Khi đó ông Thần Biển thấy Ngài tinh tiến cứng rắn như vậy, đối trước Ngài lập thệ nguyện rằng:
– Đại Thí tinh tiến như thế, quyết định được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh tiến đệ tử!
Nhận hạt châu rồi bay lên hư không, một lát gặp các người cùng đi với mình, đáp xuống. Các người đó nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng:
– Cậu ở đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sướng, hôm nay lại gặp được ông bạn chí thân.
Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nước Phóng Bát.
Ông Ca Tỳ Lê được tin Đại Thí ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm nở, rồi mời tất cả về đãi ăn.
Ăn xong nói chuyện những công việc hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đưa ngọc Như Ý chỉ vào các kho tàng, thì những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà, trân bảo. Mọi người đều tắc lưỡi khen lạ!
Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, trước rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại Thí!
Khi ra về, ông cho năm trăm người kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch tượng theo hầu con gái.
Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi lên đường về nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phương.
Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thương, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa cả đôi mắt.
Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng các công việc nhà.
Ông bà mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng nhiệt, nói rằng:
– Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thương nhớ. Vậy con vào biển được những bảo vật gì?
– Dạ, thưa cha! Con xin vua Long Vương được hạt ngọc Như Ý, cha cầm thử xem có quý không?
Ông đỡ lấy rồi nói rằng:
– Hòn đá này trong kho của nhà ta, nào có thiếu chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải bao tân khổ nơi biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về đây làm gì?
Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn xưa, cũng như một cơn gió thổi tan mây khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói:
– Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ nhưng cũng không luống cống.
Đại Thí lại dâng hạt châu lên nguyện rằng:
– Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán Thất Bảo che trên!
Nguyện xong liền được như ý ngay.
Lại nguyện rằng: – Nguyện cho kho tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng bạc, của báu!
Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc, ngà của cải.
Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và vui mừng!
Sau thời gian này, Đại Thí sai người cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc dân biết rằng:
– Cậu Đại Thí ra biển được tốt lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ mưa xuống tất cả áo mặc, thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì cũng được như ý.
Nhưng nhân dân trai giới thanh tịnh và thành kính mới được hưởng phúc vô biên ấy!
Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng phẳng cao rộng, để hạt ngọc Như Ý trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương nguyện rằng:
– Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự thiếu thốn, nếu thực là ngọc Như Ý, thì xin lần lượt, mưa xuống những món cần về đời sống của chúng sinh!
Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu tan tất cả những vật nhơ bẩn trên mặt đất, sau mưa qua một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống các món ăn ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải, vàng bạc khắp nhân gian đầy dẫy.
Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy kho vàng bạc, lưu ly, kim cương, thức ăn, áo mặc thừa thãi.
Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim cương như đất đá, vô giá trị.
Đại Thí thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn sai người đi báo cáo cho toàn cõi Diêm Phù Đề biết rằng:
– Tất cả dân chúng trước đây, bị thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát hại lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng như người từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi thường thương xót không người cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân nơi biển cả, trải bao sự khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây tôi mong tất cả nhân dân, gắng sức tu mười điều lành, giữ gìn thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba đường ác, đời đời được sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.
Sau viết thư cho vua quan các nước khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu dắt chúng sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành.
Thuở đó tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật chất, với tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn cao cả ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng từ bi khiêm nhượng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi mạng chung đều được sinh về các tầng Trời cả.
Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:
– Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lư Đà thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta; ông vua Long Vương ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương ở thành lưu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng vàng, nay là ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.
Ông A Nan khi đó làm Long Vương thết đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu ta, cho đú鮧 thời tiết; ông ưng được ba nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông.
Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp tay bạch rằng:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài từ bi hứa khả cho!
Tất cả mọi người lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã quên mình vì chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế. Sau có người đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, có người dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ lễ mà lui.