Kinh Quán Phật Tam Muội Hải

Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh

Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch

Bản Việt dịch của Tuệ Khai

***

PHẨM THỨ NHẤT : SÁU THÍ DỤ

Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở tại tinh xá Ni Câu Lâu Đà trong thành Ca Tỳ La. Lúc bấy giờ, Thích Ma Nam thỉnh đức Phật và chúng Tăng cúng dường ba tháng. Ngày mười lăm tháng bảy, tăng tự tứ xong. Khi đó phụ vương Duyệt Đầu Đàn, dì đức Phật Kiều Đàm Di đi đến tăng phòng cúng dường chư tăng. Lễ bái xong, dâng lên tăm xỉa răng và bát nước rửa, nhà vua gọi ngài Anan nói rằng :

– Tôi muốn đi đến chỗ đức Thế Tôn, có nên vậy không ?

Lúc ấy, ngài Anan liền tuyên lên lời nói này để bạch đức Thế Tôn. Đức Phật bảo ngài Anan rằng :

– Phụ vương đến nhất định sẽ hỏi pháp vi diệu. Ông hãy đi bảo khắp các Tỳ kheo tăng cấp thời hãy đến trong rừng, lệnh cho ông Đại Ca Diếp, ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông Ca Chiên Diên, ông A Na Luật.v.v… Bồ tát Di Lặc, Bạt Đà Bà La, mười sáu vị hiền sĩ cùng một lúc đến hội !

Âm thanh này như vang khắp đến các phương nên lúc bấy giờ chúa trời, chúa Dạ xoa, chúa Càn thát bà, chúa A tu la, chúa Ca lâu la, chúa Khẩn na la, chúa Mahầulagià, chúa rồng.v.v… và các quyến thuộc của họ đều đã tụ tập. Lúc đó phụ vương và Thích Ma Nam, ba ức những người dòng họ Thích đi vào tinh xá của đức Phật. Khi đang đi vào, thấy tinh xá của đức Phật như núi Pha lê, họ cúi đầu làm lễ đức Phật. Chưa kịp ngẩng đầu lên, họ liền thấy trước đức Phật có hoa sen lớn do mọi thứ báu tạo thành. Ở trên hoa sen có đài ánh sáng lớn. Phụ vương nhìn thấy rồi, lòng sinh hoan hỉ, khen chưa từng có, rồi nhiễu quanh đức Phật ba vòng, lui về ngồi một bên. Khi đó phụ vương liền đứng dậy bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Phật là con của tôi, tôi là cha của đức Phật. Hôm nay tôi ở đời nhìn thấy sắc thân của đức Phật mà chỉ thấy bên ngoài thân ấy, chẳng thấy bên trong thân ấy. Thái tử Tất Đạt Đa ở tại cung, thầy tướng dều thấy ba mươi hai tướng, hôm nay ngài thành Phật ánh sáng càng thêm hiển hiện hơn hẳn ngày xưa trăm ngàn vạn lần. Đức Phật sau khi Niết bàn, chúng sinh đời sau phải quan sát sắc tướng của thân đức Phật ra làm sao ? Như độ dài thường đi của ánh sáng đức Phật ? Nguyện xin đấng Thiên Tôn hôm nay sẽ vì tôi và chúng sinh đời sau phân biệt giải nói !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào Biến Tịnh Sắc Thân tam muội. Rồi từ tam muội khởi dậy, ngài liền mĩm cười, phép cười của chư Phật có năm thứ ánh sáng màu, năm ánh sáng màu hóa thành năm trăm màu từ miệng đức Phật phát ra soi đỉnh đầu phụ vương, soi đài ánh sáng. Rồi từ đài ánh sáng soi đến tinh xá… soi cùng khắp cõi Ta Bà, ánh sáng ấy trở về vào đỉnh đầu đức Phật. Lúc đó đức Phật bảo Phụ vương rằng :

– Xin Phụ vương hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Và suy nghĩ cho kỹ ! Như Lai sẽ nói pháp được thấy Phật của chúng sinh đời sau.

Phụ vương bạch đức Phật rằng :

– Thưa vâng ! Thưa đức Thế Tôn ! Tôi nay nguyện lắng nghe !

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Trong cõi Diêm Phù Đề có vua Sư tử tên là Tỳ Ma La. Phép của loài sư tử ấy là tròn bốn mươi năm con cái con đực mới gặp nhau. Một khi đã giao phối rồi, chúng chạy lanh quanh kêu rống nhưng uyển chuyển tự nâng đỡ thân thể không làm tổn thương con của sư tử ấy khi còn ở trong thai. Như vua thú cha ngang bằng không có khác, Đại vương phải biết, muốn khiến cho ở trong thai mà có thể kêu rống, bay lên, đáp xuống, chạy đi, ẩn phục thì việc ấy chưa có bao giờ.

Phụ vương bạch đức Phật rằng :

– Khi con vua thú ở tại thai mẹ thì đầu, mắt, răng, móng cùng cha giống nhau ?

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Đại vương ! Nó cùng cha không khác, chỉ là sức của nó có thể chẳng bì kịp cha nó trăm ngàn vạn lần.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Trong đời vị lai, các thiện nam tử, thiện nữ nhân.v.v.. và cùng tất cả, nên có thể chí tâm ràng buộc ý niệm ở bên trong, ngồi ngay thẳng mà chánh thọ quán tưởng sắc thân của Phật thì phải biết rằng, lòng người đó như lòng của Phật, cùng với Phật không khác. Họ tuy ở tại chỗ phiền não mà chẳng bị sự ngăn che của các ác. Ở đời vị lai họ mưa xuống mưa đại pháp.

Lại nữa, thưa Phụ vương ! Ví như Y lan cùng với Chiên đàn sinh ra ở núi Mạt Lợi. Ngưu Đầu Chiên đàn sinh ra trong bụi rậm Y lan, lúc chưa kịp to lớn còn ở dưới đất thì mầm, thân, cành lá giống như măng tre của cõi Diêm Phù Đề. Mọi người chẳng biết nói rằng, trong núi này toàn là Y lan, không có Chiên đàn. Nhưng mà Y lan thì thối, thối như thây chết sình tỏa xa đến bốn mươi do tuần. Hoa của Y lan màu hồng rất được yêu thích, nếu có người ăn phải thì phát điên mà chết. Ngưu Đầu Chiên Đàn tuy sinh ở rừng này nhưng chưa thành tựu nên chẳng thể phát ra hương thơm. Vào tiết trọng thu, trăng tròn, bỗng từ đất xuất hiện thành cây Chiên đàn. Mọi người đều nghe hương thơm thượng diệu của cây Ngưu Đầu Chiên đàn, mãimãi không còn mùi hôi thối của cây Y Lan.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Lòng niệm Phật cũng lại như vậy. Do tấm lòng đó nên có thể được ba thứ căn Bồ đề.

Lại nữa, thưa Phụ vương ! Trong cõi Diêm Phù Đề và bốn thiên hạ có con chim cánh vàng tên là Chánh Âm, vua của loài Ca lâu la, ở trong các loài chim rất được tự tại. Nghiệp báo ứng của loài chim này là ưa ăn các loài rồng. Ở cõi Diêm Phù Đề, ngày nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Sáng ngày mai nó lại ở cõi Phất Bà Đề ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Ngày thứ ba lại ở cõi Cù Gia Ni, nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Ngày thứ tư lại ở cõi Uất Đan Việt, nó ăn một vua rồng và năm trăm rồng nhỏ. Cứ giáp vòng thì lại bắt đầu, trải qua tám ngàn năm. Lúc bấy giờ, tướng chết đã hiện ra với chim ấy. Các rồng phun ra độc không ăn được. Chim đó bị đói bức bách, chạy khắp tìm đồ ăn cũng chẳng thể được. Nó đi khắp các núi cũng chẳng được yên, đến núi Kim cương ở tạm. Nhiên hậu từ núi Kim cương thẳng xuống đến đại thủy tế (bờ cõi nước lớn). Từ đại thủy tế đến phong luân tế, nó bị gió thổi trở về đến núi Kim cương. Nó bị như vậy bảy lần nhiên hậu mới mạng chung. Chim ấy mạng chung rồi, do độc của nó nên khiến cho mười ngọn núi báu lửa dậy đồng thời. Khi ấy vua rồng Nan Đà sợ cháy tiêu núi này liền tuông xuống những giọt mưa lớn như trục bánh xe. Thịt chim tan rã hết chỉ có trái tim tồn tại. Trái tim chim ấy rủ thẳng xuống như trước bảy lần, nhiên hậu trở lại trụ ở đỉnh núi Kim cương. Vua rồng Nan Đà lấy tim của con chim này dùng làm minh châu (ngọc sáng). Vua Chuyển Luân được thì làm ngọc Như Ý.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân nếu niệm Phật thì lòng của họ cũng vậy. Lại nữa, thưa đại vương ! Ở núi Tuyết có loài cây tên là Ương già đà. Quả của nó rất lớn mà hạt của nó rất nhỏ. Tìm nguồn gốc thì ra nó từ Hương Sơn đến, nhờ sức gió nên đến được Tuyết Sơn. Vào tiết mạnh đông, trời giá lạnh, La sát dạ xoa tìm chỗ che khuất trong hẻm núi mà ở. Phân dơ chẳng sạch chảy tra ra đất. Gió mạnh thổi tuyết lấp lên phân ấy, dần dần trở thành cái hào năm mươi do tuần. Nhờ sức của phân nên quả này được sinh ra. Rễ, thân, cành, lá, hoa, trái của cây ấy tươi tốt sum suê. Ánh mặt trời ba tháng mùa xuân, tám phương gió đồng thời đều khởi lên, làm tiêu tan băng tuyết chỉ quả cây ấy tồn tại. Hình sắc quả cây ấy không lấy quả gì của cõi Diêm Phù Đề làm ví dụ được. Hình nó tròn vìn chiếm trọn nửa do tuần mà Bàlamôn ăn, liền được đạo tiên, ngũ thông đầy đủ, sống lâu một kiếp, chẳng già chẳng chết. Người phàm phu ăn nó thì hướng đến Tu đà hoàn, A na hàm ăn nó thành A la hán, ba minh, sáu thông không gì chẳng hoàn bị. Có người đem giống đến trồng ở đất phân hoai trong cõi Diêm Phù Đề. Nhiên hậu cây mới mọc lên, cao bằng một cây Đa la, đặt tên cây là Câu Luật Đà, tên quả là Đa Lặc, lớn như cái bình năm đấu. Người cõi Diêm Phù Đề ăn quả ấy thì có thể trừ bệnh sốt (nóng).

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Đại vương ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân chánh niệm tư duy cảnh giới của chư Phật cũng lại như vậy. Lại nữa, thưa đại vương ! Như cây sinh ra trong vườn Hoan hỉ của Đế thích tên là Ba Lợi Chất Đà La. Thiên nữ nhìn thấy nó thì thân tâm vui vẻ chẳng tự kiềm chế. Đế thích thấy nó liền sinh ra dục tưởng, tám muôn bốn ngàn các thể nữ.v.v… liền được cảm giác vui. Khi cây này sinh ra gấp cong cành ở tại đất, liền ở dưới đất, hoa phát triển thành trái. Trái ấy màu vàng rực rỡ ánh sáng. Vả lại hoa lá của cây ấy chẳng bao giờ héo rụng, đầy đủ mười màu sắc, chớp hiện ánh sáng, có những âm thanh vui. Đến mùa thu tháng tám, cây từ dưới đất vọt ra, cao ba trăm bốn mươi lăm vạn do tuần. Chư thiên nhìn thấy nó vui mừng phi thường.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Đại vương ! Quán tưởng Phật tam muội ở tại đất Phiền não cũng lại như vậy, như khi cây ấy sinh ra, như cây báu đó nghiêm hiển đáng xem. Lại nữa, thưa Đại vương ! Như khi kiếp bắt đầu thì lửa khởi lên một kiếp, mưa khởi lên một kiếp, gió khởi lên một kiếp, đất khởi lên một kiếp. Khi kiếp đất thành rồi thì chư thiên của trời Quang Âm bay đi qua thế gian, xuống tắm gội trong nước. Do tắm gội nên tinh khí bốn đại liền vào trong thân. Thân chạm xúc vui sướng nên tinh khí trôi vào trong nước. Gió tám hướng thổi đi, rơi vào trong bùn ứ, rồi tự nhiên thành quả trứng. Trải qua tám ngàn năm, trứng ấy mới nở, sinh ra một người con gái. Thân hình người con gái ấy xanh đen giống như bùn, có chín trăm chín mươi chín cái đầu, đầu có một ngàn con mắt, chím trăm chín mươi chín cái miệng, một miệng có bốn răng, trên răng phát ra lửa giống như sét đánh, hai mươi bốn tay, trong tay đều cầm tất cả võ khí. Thân người ấy cao lớn như núi Tu di, vào trong biển lớn tát nước tự vui. Có gió toàn lam thổi nước biển lớn, tinh nước ngập vào thân thể liền mang thai. Trải qua tám ngàn năm, nhiên hậu sinh ra một đứa con trai. Thân đứa trẻ ấy cao lớn gấp bốn lần mẹ nó. Đứa trẻ có chín đầu, đầu có một ngàn mắt, trong miệng phun ra lửa, có chín trăm chín mươi chín tay, tám chân. Trong biển phát ra âm thanh : Nó hiệu là Tỳ Ma Chất Đa, vua của A tu la. Phép ăn của quỉ này là chỉ nuốt bùn ứ và củ sen, ngó sen. Đứa trẻ ấy lớn lên thấy các thể nữ trời vây quanh, liền bạch với mẹ rằng : “ Mọi người đều sánh đôi (có vợ có chồng), sao một mình con không ?” Người mẹ ấy bảo rằng : “ Ở Hương Sơn có loài thần tên là Càn thát bà. Chỗ ấy có thần nữ nhan sắc tư dung đẹp đẽ, các lỗ chân lông trên thân phát ra âm thanh vi diệu, rất vừa ý ta. Nay ta cầu hôn cho con, con có thỏa nguyện không ?” A tu la thưa rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Nguyện xin mẹ đi đến cầu hôn cho!”. Lúc đó, người mẹ ấy đi đến Hương Sơn. Đến Hương Sơn rồi, người mẹ thưa với thần âm nhạc kia rằng : “ Tôi có một người con trai uy lực tự tại, ở bốn thiên hạ này không ai sánh bằng. Ngài có lệnh nữ rất xứng với con tôi”. Người con gái của thần ấy nghe rồi, nguyện vui lòng chàng A tu la. Chàng A tu la nhận người con gái đó làm vợ rồi thì lòng dạ thư thái cùng người con gái thành lễ. Thời gian chưa lâu thì người con gái ấy liền mang thai, trải qua tám ngàn năm mới sinh ra một đứa con gái. Người con gái ấy dung nghi đoan chính vượt trội hơn người, trên trời, dưới đất không có ai sánh bằng, sắc đẹp trên mọi sắc đẹp, do tự mình trang nghiêm. Trên mặt có tám muôn bốn ngàn vẻ kiều mị, bên trái cũng có tám muôn bốn ngàn, bên phải cũng có tám muôn bốn ngàn, đàng trước cũng có tám muôn bốn ngàn, đàng sau cũng có tám muôn bốn ngàn. A tu la nhìn thấy lấy làm lạ lùng, nàng như vầng trăng ở giữa những vì sao rất là đặc biệt kỳ lạ. Ông Kiều Thi Ca nghe tiếng liền sai sứ xuống đến chỗ A tu la mà cầu người con gái này. Vị A tu la nói rằng : “ Phước đức trời của ông, ông có thể khiến cho ta cỡi cung thất bảo thì ta đem con gái gả cho ông !” Đế thích nghe lời này, lòng sinh vui sướng hớn hở, liền cởi mũ báu đem làm cung điện trên biển, do nghiệp báo mười thiện nên khiến cho A tu la ngồi trên thắng điện. A tu la nhảy nhót vui mừng, đem con gái gả cho Kiều Thi Ca. Đế thích liền dùng đài bằng sáu thứ báu đến nghênh hôn. Ở trong cung Khuyết có hoa sen lớn tự nhiên hóa sinh tám muôn bốn ngàn những người con gái diệu bảo. Ví như trong khoảng thời gian co duỗi cánh tay của tráng sĩ, họ liền đến trên Thiện pháp đường của Đế thích. Lúc bấy giờ, cung trời vượt hơn trước trăm ngàn vạn lần, Thích Đề Hoàn Nhân vì người con gái ấy lập tự hiệu là Duyệt Ý. Chư thiên thấy nàng đều khen chưa từng có, nhìn đông quên tây, nhìn nam quên bắc. Ba mươi hai phụ thần thấy Duyệt Ý thì tâm ý cũng hoan hỉ, thậm chí lông tóc cũng đều sinh vui vẻ. Đế thích, nếu khi đi đến vườn Hoan hỉ, cùng chung với thể nữ vào ao du hí thì khi đó Duyệt Ý liền sinh ghen ghét. Nàng sai năm dạ xoa đến bạch với vua cha, hôm nay Đế thích này chẳng còn sủng ái nàng mà cùng các thể nữ cùng nhau dạo chơi. Vua cha nghe lời nói này lòng sinh sân nhuế, liền dấy khởi bốn binh chủng đến đánh Đế thích. Vua A tu la đứng trên nước biển lớn, xoạc chân đạp lên đỉnh núi Tu di, đồng thời chín trăm chín mươi chín cánh tay lay thành Hỷ Kiến, lắc núi Tu Di, nước bốn biển lớn dậy sóng cùng một lúc. Thích Đề Hoàn Nhân kinh hoàng sợ sệt, không biết đi đường nào. Có vị thần trong cung bạch với vua trời rằng : “ Chớ kinh sợ lắm ! Đức Phật đời quá khứ nói Bát nhã Balamật, nhà vua hãy trì tụng thì binh quỉ tự tan nát”. Lúc đó, Đế thích ngồi ở Thiện pháp đường, đốt mọi thứ hương thơm danh tiếng, phát thệ nguyện lớn rằng : “ Bát nhã Balamật là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng quả thật chẳng hư dối, con trì pháp này sẽ thành Phật đạo, khiến cho A tu la tự nhiên lui tan”. Khi nói lời nói này thì ở trong hư không có bốn bánh xe đao, do công đức của Đế thích nên tự nhiên mà xuống, đang ở trên bọn A tu la. Tức thời tai mũi chân tay của A tu la rơi hết xuống cùng một lúc khiến cho nước biển lớn đỏ như nước màu đỏ. A tu la liền kinh sợ, không chỗ chạy trốn nên vào ẩn trong lỗ tơ. Cái huyễn lực của quỉ kia do tham dục, sân nhuế, ngu si mà còn có thể như vậy huống gì là Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Đại vương ! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân ràng buộc lòng mình tư duy cảnh giới của chư Phật cũng có thể an trụ ở các tam muội hải. Công đức người ấy chẳng thể xưng kể, ví như chư Phật bình đẳng không có khác.

PHẨM THỨ HAI : TRÌNH BÀY QUÁN ĐỊA

Sao gọi là quán cảnh giới chư Phật ? – Các đức Phật Như Lai xuất hiện ở đời, có hai thứ pháp để tự trang nghiêm. Những gì là hai ?

– Một là trước tiên nói mười hai bộ kinh, khiến cho chúng sinh đọc tụng thông lợi. Đủ thứ như vậy gọi là pháp thí.

– Hai là dùng thân diệu sắc thị hiện ở cõi Diêm Phù Đề và mười phương thế giới, khiến cho các chúng sinh thấy sắc thân của Phật đầy đủ trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình, không có tướng khuyết giảm, lòng sinh hoan hỉ.

Quán tướng như vậy nhân đâu mà được ? – Đều do trăm ngàn khổ hạnh đời trước, do tu các Balamật và những pháp trợ đạo mà sinh ra tướng này.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Như có chúng sinh muốn niệm Phật, muốn quán Phật, muốn thấy Phật, phân biệt tướng tốt, hiểu ánh sáng của Phật, biết bên trong thân Phật, học quán Phật tâm, học quán Phật đỉnh, học quán vòng tướng ngàn nan hoa dưới chân đức Phật, muốn biết tướng khi sinh ra của Phật, muốn biết khi đức Phật nạp phi, muốn biết khi đức Phật xuất gia, muốn biết khi đức Phật khổ hạnh, muốn biết khi đức Phật hàng ma, muốn biết khi đức Phật được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, muốn biết tướng đức Như Lai khi chuyển pháp luân, muốn biết tướng mã tàng báu của đức Như Lai, muốn biết tướng đức Như Lai khi lên cõi trời Đao lợi vì mẹ Ma Gia phu nhân nói pháp, muốn biết tướng đức Như Lai khi xuống cõi trời Đao lợi, muốn biết tướng ánh sáng trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm của đức Như Lai, muốn biết tướng của đức Như Lai lúc đi đến thành Cầu Thi Na hàng phục hóa độ Lực sĩ, muốn biết tướng ánh sáng của lỗ chân lông lúc đức Như Lai hàng phục quỉ thần nơi đồng trống.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sau khi Phật vào Niết bàn, như bốn bộ chúng và trời, rồng, dạ xoa.v.v.. muốn ràng buộc ý niệm, muốn tư duy, muốn hành thiền, muốn được tam muội chánh thọ – Đức Phật bảo – Thưa Phụ vương ! Sao gọi là ràng buộc ý niệm ? Tự có chúng sinh ưa quán thân tướng đầy đủ của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán mỗi một tướng tốt trong những tướng tốt của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán thuận theo tướng tốt của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán ngược lại tướng tốt của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán ánh sáng của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai đi. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai đứng. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai ngồi. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai nằm. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai khất thực. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai mới sinh. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai nạp phi. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai xuất gia. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai khổ hạnh. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai hàng phục ma. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai thành Phật. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai chuyển bánh xe pháp. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai lên trời Đao lợi vì mẹ nói pháp. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai hàng phục quỉ thần nơi đồng trống. Tự có chúng sinh ưa quán khi Như Lai ở Na Càn Ha La hàng phục các rồng lưu ảnh. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai ở tại thành Câu Thi Na hàng phục người Lục Sư Ni Đề Tiễn và những người ác luật nghi, nặng nề tà kiến… Như vậy, thưa phụ vương! Sau khi tôi vào Niết bàn, những chúng sinh làm ngần ấy hạnh nghiệp, có ngần ấy ý tưởng, sự hiểu biết của họ chẳng đồng. Tùy theo sở kiến của tâm tưởng những chúng sinh đó nên phải theo thứ lớp dạy họ ràng buộc ý niệm. Như tôi còn trụ thế thì chẳng cần ràng buộc ý niệm. Ví như mặt trời mọc thì người tối đều sáng, chỉ người không có mắt thì không thấy gì. Trong đời vị lai, các đệ tử đều nên tu ba pháp. Những gì là ba ?

– Một là tụng kinh điển thậm thâm Tu đa la.

– Hai là tịnh trì cấm giới oai nghi không phạm.

– Ba là ràng buộc ý niệm tư duy, lòng không tán loạn.

Sao gọi là ràng buộc ý niệm ? Hoặc có người ràng buộc tâm quán trên Phật đỉnh. Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán lông tóc của Phật. Hoặc có người ràng buộc tâm quán viền tóc của Phật (Phật Phát tế). Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán tướng trán rộng bằng phẳng của Phật. Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán tướng bạch hào ở khoản mày của Phật. Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán chân mày của Phật. Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán tướng mắt vua trâu của Phật. Hoặc có người muốn ràng buộc lòng quán tướng mũi thẳng của Phật. Hoặc có người muốn ràng buộc tâm quán tướng nhìn vua chim ưng của Phật. Tự có chúng sinh ưa quán râu mép Như Lai như hình con nòng nọc tuông ra ánh sáng. Tự có chúng sinh ưa quán vành miệng trên môi của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán màu môi đỏ đẹp như trái tần bà của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán môi dưới của Như Lai như thân hoa Bát Đầu Ma. Trên sắc hồng đỏ của môi ấy vào trong màu quả Tần bà. Tự có chúng sinh ưa quán tướng bốn mươi răng của miệng Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng hàm răng trắng, băng, kín của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng hoa văn in trên răng của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán vạch giới hạn răng của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng vòm miệng trên của Như Lai với tám muôn bốn ngàn họa tiết tỏ rõ phân minh. Tự có chúng sinh ưa quán phần dưới của Như Lai như thân sắc hoa Ưu đàm bát. Tự có chúng sinh ưa quán yết hầu của Như Lai như ống lưu ly giống như tướng hoa sen. Tự có chúng sinh ưa quán tướng quảng trường thiệc như hình cánh hoa sen của Như Lai với năm họa tiết tượng sắc đủ năm màu phân minh. Dưới lưỡi mười mạch máu những ánh sáng tuông ra, tướng lưỡi rộng dài che khắp mặt Phật. Tự có chúng sinh ưa quán ba ngấn trong yết hầu của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng ức (ngực) của Như Lai giống như mắt của chim cánh vàng. Tự có chúng sinh ưa quán tướng đầu của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tám muôn bốn ngàn tướng tóc của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán lông xoắn về bên phải của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán mỗi một lỗ chân lông của Như Lai có một sợi lông xoắn sinh ra. Tự có chúng sinh ưa quán da đầu của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán xương nhục kế của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán não của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tai thòng xuống dài của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán vòng vành tai của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán xoắn tai của Như Lai sinh tướng bảy lông. Tự có chúng sinh ưa quán tướng đầy đặn của xương khuyết bồn của Như Lai, ở trong tướng đó sinh trở lại đài ánh sáng. Tự có chúng sinh ưa quán tướng đầy đặn dưới nách của Như Lai, ở trong tướng ấy sinh lủng lẳng năm viên ngọc như ngọc Ma ni trong nách Phật. Tự có chúng sinh ưa quán cánh tay tròn lẳng như vòi voi chúa của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán xương khuỷu tay của Như Lai như tướng tóc uyển chuyển của Long vương, hoa văn năm màu chẳng hoại, khúc đầy rồng cuộn lại, biến mất dấu vết. Ngón tay so le chẳng mất chỗ ấy, ở đốt đầu ngón tay hiện mười hai vòng. Tự có chúng sinh ưa quán móng tay chân màu đồng đỏ của Như Lai. Những móng ấy với tám màu tỏ rõ phân minh. Tự có chúng sinh ưa quán tướng hiệp mạn chưởng của Như Lai. Khi xòe ra thì thấy, lúc nắm lại thì biến mất như màn lưới trân châu tỏ rõ phân minh hơn cả vàng Diêm Phù Đàn hàng trăm ngàn vạn lần. Màu sắc của chúng trong sáng thanh tịnh vượt qua nhãn giới. Ở mười đầu ngón tay đều sinh ra chữ (vạn). Điểm xen với chữ vạn có hàng ngàn vòng nan hoa. Mọi tướng đầy đủ như hòa hợp hàng trăm ngàn hoa sen. Tự có chúng sinh ưa quán khoản hoa văn bàn tay của Như Lai thành tựu như cung trời Tự Tại. Bàn tay ấy bằng phẳng mà trời người không loài nào có. Ở trong bàn tay sẽ sinh ra tướng ngàn nan hoa, ở mười phương diện mở ra ánh sáng Ma ni. Ở dưới những vòng ấy có mười thứ họa tiết mà mỗi một họa tiết như mắt trời Tự Tại thanh bạch phân minh, nhiên hậu vào trong tướng bàn tay. Tự có chúng sinh ưa quán theo chiều ngã rạp trên lông và đàng sau lông của Như Lai giống như lưu ly xanh biếc, tuông ra ánh sáng năm màu, vào trong màn lưới. Tự có chúng sinh ưa quán tay chân mềm mại của Như Lai như thiên kiếp bối. Tự có chúng sinh ưa quán nắm tay bên trong bên ngoài của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng ngực Như Lai in chữ vạn phước đức, tướng ánh sáng “tam Mani”. Tự có chúng sinh ưa quán rốn của Như Lai như ngọc báu Tỳ lăng già. Tự có chúng sinh ưa quán hông của Như Lai, lớn nhỏ phẳng đều uyển chuyển giúp nhau. Tự có chúng sinh ưa quán các chi tiết xương của Như Lai như rồng cuộn kết nối nhau kín mít. Tự có chúng sinh ưa quán xương Như Lai móc nối liền nhau mà co lại, duỗi ra tự tại chẳng cản trở nhau. Tự có chúng sinh ưa quán màu xương Như Lai màu sắc trắng tươi mà pha lê, núi tuyết chẳng làm ví dụ được, bên trên có ánh sáng hồng xen lẫn hoa văn, nước đọng lại như mỡ. Tự có chúng sinh ưa quán tướng đùi của Như Lai như nai chúa Y Ni. Tự có chúng sinh ưa quán tướng gót chân của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng mu bàn chân bằng phẳng của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán màu trên bàn chân của Như Lai, màu của vàng Diêm Phù Đàn, lông bên trên nằm rạp về một phía, lưới ngón chân như lưới hoa văn rực rỡ. Ở chỗ hoa văn ấy xen lẫn những tia sáng đất trời chẳng thể kể hết tên. Tự có chúng sinh ưa quán tướng móng màu đồng đỏ của Như Lai, ở đầu móng ấy có năm miệng sư tử (?). Tự có chúng sinh ưa quán tướng hoa văn ở đầu ngón chân đức Như Lai (?) như bức ấn họa của trời Tỳ Nựu Yết Ma. Tự có chúng sinh ưa quán dưới bàn chân của đức Như Lai bằng phẳng đầy đặn chẳng dung nạp một sợi lông, tướng vòng ngàn nan hoa dưới bàn chân, tướng vành trục bánh xe đầy đủ vẩy cá (?) tiếp theo tướng chày Kim Cương, gót chân cũng có tưởng đỉnh Phạm vương với mọi ấn họa chẳng khác. Như vậy gọi là người ưa thuận quán. Tự có chúng sinh ưa nghịch quán từ tướng vòng ngàn nan hoa ở dưới chân. Từ dưới quán lên đến ngón chân, mỗi một tướng, mỗi một vẻ đẹp, mỗi một màu sắc… từ dưới đến trên quán ngược lại rõ ràng. Đó gọi là phép nghịch quán. Tự có chúng sinh ưa quán Như Lai Kim Sắc. Phật sinh ra ở cõi Diêm Phù Đề nên tạo ra thượng sắc trong các màu sắc, như trăm ngàn mặt trời dọi sáng núi vàng tía, chẳng thể được thấy đủ. Tự có chúng sinh ưa quán thân lớn một trượng sáu của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán vừng hào quang tròn rộng một tầm của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán ánh sáng toàn thân của Như Lai. Tự có chúng sinh ưa quán tướng điềm ứng khi Như Lai nói pháp. Tự có chúng sinh ưa quán tướng hướng lên, tướng hướng xuống của rốn Như Lai (?).

PHẨM THỨ BA : QUÁN TƯỚNG

I- Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sao gọi là quán Như Lai đảnh ? – Xương đảnh Như Lai tròn giống như cái nắm tay. Màu sắc chính của đảnh là trắng, nhưng nếu da mỏng đi nhìn thấy thành màu hồng, hoặc da dày thì nhìn thấy thành màu Kim cương, mép tóc màu vàng, não màu pha lê có mười bốn mạch máu với những vạch đầy đủ và cũng có mười bốn ánh sáng. Những ánh sáng ấy như mạch máu phân minh rõ ràng. Ở trong những mạch máu của não trở lại sinh ra các ánh sáng xông lên xương đầu. Rồi

từ xương đầu phát ra cho đến mép tóc (phát tế) có mười bốn màu vây quanh những sợi tóc. Màu vàng dưới tóc cũng phát ra những ánh sáng vào trong mười bốn màu. Đó gọi là Nhục Kế đỉnh não của Như Lai sinh ra trong cung. Chỉ trên đỉnh ấy thì năm tướng Đại Phạm mới sinh ra, mẹ Ma Gia và dì của Phật đều chẳng thấy. Năm tướng Đại phạm ấy hiện mở ra thì ánh sáng lên đến Phạm thế, lại qua vô lượng thế giới ở thượng phương, hóa thành cung điện, đền đài, cảnh giới của chư Phật mà Bồ tát Thập Địa chẳng thấy được. Hôm nay, tôi vì phụ vương nói về sinh đỉnh tướng. Nếu có người nghe thì nên phải suy nghĩ thắng đỉnh tướng của Phật. Ánh sáng của tướng ấy như vi trần của đại địa ba ngàn cõi chẳng thể đủ nói. Chúng sinh đời sau nếu nghe lời nói đó, nghĩ đến tướng mà lòng không hối hận thì như nhìn thấy ánh sáng tướng thắng đỉnh của Thế Tôn. Nhắm mắt là được thấy, do sức tưởng của lòng mà tỏ rõ phân minh như khi nhìn thấy Phật tại thế. Tuy quán tướng ấy một lúc chẳng được nhiều, nhưng từ một việc khởi lên lại tưởng một việc, tưởng một việc rồi lại tưởng một việc. Thuận, nghịch, quay đi, trở lại trải qua mười sáu lần như vậy tâm tưởng cuối cùng trở nên minh lợi. Nhiên hậu trụ ở lòng ràng buộc niệm tưởng một chỗ như vậy dần dần đưa lưỡi hướng lên vòm miệng, khiến cho lưỡi chánh trụ, trải qua hai mươi bảy ngày, nhiên hậu thân tâm có thể được yên ổn. Rồi lại phải ràng buộc lòng trở lại quán Phật đảnh. Phép quán Phật đảnh là trước theo lỗ chân lông mà vào.

Đức Phật bảo với Phụ vương và lệnh cho Anan rằng :

– Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Suy nghĩ cho kỹ ! Như Lai hiện nay trên đầu có tám muôn bốn ngàn sợi lông, hai bên đầu đều xoắn rạp về bên phải mà sinh ra, chia đều phân minh, bốn góc rõ ràng. Mỗi một lỗ chân lông lại sinh năm ánh sáng vào trong mười bốn ánh sáng màu ở trước. Ngày xưa ta ở tại cung nhũ mẫu vì ta gội đầu. Di mẫu Đại Ái Đạo đi đến chỗ của ta, người biết khi Tất Đạt Đa sinh ra có nhiều những điều kỳ lạ đặc biệt nên hỏi ta rằng, tóc của con dài bao nhiêu ? Ta làm sao đáp, nay phải đo tóc để biết độ dài của chúng. Người liền ra lệnh cho ta buông tóc ra, mẹ dùng thước đo độ dài được một trượng hai thước năm tấc. Buông xong, tóc xoắn về bên phải trở lại thành hoa văn của loài mọt (?). Lúc sắp nạp phi (cưới vợ) lại gội đầu nữa, mẹ lại bảo rằng, tóc đo lần trước dài một trượng hai thức năm tấc, nay phải đo lại. Ta liền buông tóc ra đo thì dài một trượng ba thước năm tấc. Lúc ta xuất gia thiên thần bưng tóc của ta đi, tóc cũng dài một trượng ba thước năm tấc. Hôm nay Phụ vương có muốn xem tướng tóc

không ?

Phụ vương bạch rằng :

– Thưa vâng ! Thưa đấng Thiên Tôn ! Tôi ưa thấy tóc Phật !

Đức Như Lai liền dùng tay thả tóc của mình ra thì từ tinh xá Ni Câu Lâu Đà đến cung của phụ vương tóc Phật như lưu ly xanh biếc, còn quấn quanh thành bảy vòng. Ở trong tóc Phật đại chúng đều thấy biết bao là ánh sáng màu, chẳng thể nói cho đủ. Mỗi một ánh sáng đó soi khắp tất cả tạo thành màu lưu ly xanh biếc. Ở trong màu lưu ly có những hóa Phật nhiều chẳng thể kể số. Thị hiện tướng đó rồi, đức Phật thu lại ánh sáng, cuốn tóc. Tóc xoắn về bên phải uyển chuyển trở lại trụ trên đảnh đức Phật liền thành hoa văn mọt vẽ. Đức Phật dạy rằng :

– Đó gọi là tướng tóc chân thật của Như Lai . Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di.v.v… muốn quán tóc Phật thì phải tác khởi sự quan sát đó, chẳng được quán khác. Nếu quán khác thì gọi là tà quán, gọi là cuồng quán, gọi là thất tâm (mất lòng), gọi là tà kiến, gọi là lòng điên đảo… Giả sử người đó được định thì không có điều này. Như vậy, thưa phụ vương ! Tướng tóc chân thật của Phật quả thật như vậy. Quán tướng tóc rồi, tiếp theo là quán mép tóc (phát tế) như màu trân châu đỏ uyển chuyển buông xuống, có năm ngàn ánh sáng xen lẫn phân minh, đều hướng lên trên vây quanh các sợi tóc, rồi từ trên đỉnh phát ra đi quanh đỉnh năm vòng như sự khởi tác phép vẽ của họa sư nhà trời, tròn lẳng, phẳng đều, nhỏ như một sợi tơ. Ở khoản tơ ấy sinh ra các hóa Phật có hóa Bồ tát làm quyến thuộc, chư thiên, tám bộ chúng, tất cả sắc tượng cũng hiện ra ở trong. Màu sắc như vầng mặt trời chẳng thể thấy đủ hết. Đó gọi là quán mép tóc (phát tế) của Phật. Người quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa phụ vương ! Đây gọi là quán chân thật mép tóc Như Lai !

Sao gọi là quán tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai ? – Trong tướng trán rộng bằng phẳng có ba tướng.

– Một là tướng Bạch mao (lông trắng). Khi Phật mới sinh, vua cùng phu nhân đem thái tử đến chỗ tiên A Tư Đà, ra lệnh xem tướng thái tử. Tiên nhân vạch lớp lông, đầu tiên thấy ở khoản mày của thái tử có sợi lông trắng xoắn lại. Ở bên sợi lông trắng có các vòng ngăn (luân quách) theo sợi lông trắng xoắn lại, thầy tướng kéo thẳng (duỗi ra) sợi lông, thấy sợi lông dài và lớn, liền lấy thước đo xem dài hay ngắn thì thấy đủ tròn năm thước như cái ống bằng lưu ly. Buông xong, lông xoắn lại phía hữu như viên ngọc pha lê, hiển hiện trăm ngàn ánh sáng màu nhiều không lường. Đó gọi là ánh sáng của tướng Bạch Hào khi Bồ tát mới sinh. Đến năm ngài tám tuổi, di mẫu lại quan sát tuổi lớn của Tất Đạt Đa thì thấy lông ở khoản mày ấy cũng theo năm tháng lớn lên. Nay bà muốn xem thử, liền kéo thẳng sợi lông trắng thì thấy nó ngay thẳng như ống lưu ly trắng. Ở đầu lông ấy phát ra ánh sáng ngũ sắc, rồi trở lại vào trong lỗ chân lông. Di mẫu thương mến vô cùng tận, bảo với mọi người rằng : “ Tướng lông của con ta đến như thế này”. Mọi người thấy rồi, lông xoắn lại như trước rất khả ái. Đó gọi là tướng Bạch Hào mao lúc Bồ tát làm đồng tử.

Sao gọi là tướng Bạch Hào mao lúc Bồ tát nạp phi ? Cha của Da Du Đà La tự sai thầy tướng đến xem tướng thái tử. Thầy tướng thấy ba mươi hai tướng rõ ràng như bức họa, chỉ đối với tướng Bạch hào mao thì lòng chẳng rõ. Thầy tướng liền nói rằng : “ Thái tử địa thiên, mọi tướng khác của ngài đồng với tướng của vua Kim Luân, chỉ có tướng Bạch Hào mao tuông ra mọi thứ ánh sáng này là ngoài tầm rõ biết của tôi. Nay tôi muốn kéo thẳng ra để xem có thể được không ?” Thái tử bảo rằng : “ Theo ý muốn của ông”. Lúc bấy giờ, thầy tướng dùng tay kéo sợi lông ra. Lông ấy tuông ra như sữa trâu chúa bắn vào mắt thầy tướng. Mắt thầy tướng ấy trở nên minh tịnh, liền thấy ở trong sợi lông có hàng trăm ngàn vua Chuyển Luân Thánh với bảy món báu và ngàn đứa con… đầy đủ. Thầy tướng kinh ngạc bạch rằng : “ Thưa thái tử địa thiên ! Tôi kéo sợi lông trắng ra là muốn xem dài ngắn. Chẳng biết vì ý gì mà như sữa trâu chúa lại bắn vào mắt tôi ? Đó là thấy thật ! Đó là thấy trong mơ ! Đó là cuồng loạn ! Nay tôi quên hết tướng tốt của thái tử, tất cả đều hết, chỉ còn thấy trăm ngàn vua Chuyển Luân Thánh với bảy thứ báu, ngàn đứa con và bốn thứ binh từ bốn mặt khởi lên. Lòng tôi vui mừng như Bàlamôn được niềm vui Phạm thế”. Nói rồi buông sợi lông. Nó xoắn về bên phải uyển chuyển trở lại chỗ cũ. Lúc bấy giờ, thầy tướng tên là Lao Độ Bạt Đa, thấy việc này rồi, năm vóc gieo xuống đất làm lễ thái tử mà nói rằng : “ Mọi tướng của thái tử chẳng thể thấy đủ hết. Như phép xem tướng của tôi, thấy được cả tướng vua bốn thiên hạ một cách nhanh chóng tự tại. Nay tướng của thái tử như Ma Ê Thủ La, thần lực tự tại chẳng thể ghi chép thì phải nhận biết ra sao ?” Thái tử bảo rằng : “ Ta chẳng đạt điều này ! Ông hãy tự về nhà, đến bạch với vua của ông !” Lúc ấy, thầy tướng liền trở về nước của mình, đem việc như trên nói đầy cho vua. Nhà vua nghe lời nói đó, nói với người đánh xe vua tên là Tượng Đạo đem theo hàng trăm ngàn người, đi đến thành Ca Tỳ La. Đến cung vua Tịnh Phạn, nhà vua dùng nước rửa tay thái tử, đem con gái trao lên ngài, nhân đó làm lễ nói rằng : “ Thưa thái tử địa thiên ! Xin ngài nhận con gái của tôi, nó có thể trông nom gia đình ! Thầy tướng đã thấy tướng lông thượng diệu của ngài. Tôi nay muốn thấy có thể được không ?” Thái tử bảo rằng : “ Tùy ý ngài xem đi !” Lúc bấy giờ, cha của Da Du Đà La dùng tay kéo thẳng sợi lông trắng của thái tử, thấy lông ấy như ống pha lê, từng đốt từng đốt tương đương. Ở trong khoản các đốt, thấy có vô lượng Phạm vương, Thích Đề Hoàn Nhân, các thắng thiên tử cùng với cung điện, nhìn thấy rõ ràng như đối trước kính sáng tự quan sát nét mặt của mình. Thấy rồi vui mừng, nhà vua liền buông bỏ sợi lông ra, nó xoắn lại về bên phải rồi trở lại trụ ở khoản mày. Ánh sáng rực rỡ phân tán khắp bốn mặt, rồi vào trong vòng vách ngăn, chẳng thể nói hết. Đó gọi là tướng Bạch Hào khi Bồ tát nạp phi.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sau khi Phật vào Niết bàn, bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch Hào của Bồ tát khi làm đồng tử và khi nạp phi thì phải tác khởi sự quán tưởng đó. Người quán như thế này gọi là Chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa phụ vương ! Sao gọi là tướng Bạch Hào khi Như Lai xuất gia ? – Khi tôi muốn xuất gia, phụ vương và mẹ sai các thể nữ luôn theo hộ vệ, cửa đặt then khóa, mở đóng có tiếng như sư tử hống. Ở cửa các cửa sổ đóng kín, treo các chuông nhỏ, khóa vàng móc nối nhau, rồng, quỉ, dạ xoa không vào được. Lúc bấy giờ, Tứ Thiên Vương ở trong hư không, từ xa phát thanh rằng : “ Thưa Địa thiên thái tử ! Ngày giờ đã đến, ngài nên hãy đi học đạo ! Tôi nay muốn đến cúng dường thái tử, nhưng sợ vào điện có tiếng động nên không duyên được vào”. Khi ấy thái tử dùng tay kéo thẳng sợi lông ra đến tận chỗ Tứ Thiên Vương, màu sắc như lụa ngũ sắc của trời mềm mại đáng yêu. Tứ Thiên Vương nhìn thấy lòng rất kính yêu. Do yêu kính nên liền thấy ở trong sợi lông có hóa Bồ tát ngồi kiết già, hình dạng như thái tử. Mỗi một Bồ tát lại có vô lượng Đại Bồ tát chung làm quyến thuộc. Khi hiện tướng này thì vô lượng những trời, rồng, dạ xoa.v.v… cùng lúc được vào cung. Thái tử ra lệnh cho Xa Nặc rằng : “ Ngươi đi ra sau chuồng ngựa thắng con Kiền Trắc lại đây!”. Xa Nặc bạch rằng : “ Nay trong đất này, nếu khi nhấc chân lên thì đất này chấn động kêu rống lên như tiếng con voi lớn, làm sao đến được ?” Lúc bấy giờ, thái tử lại duỗi sợi lông trắng ra khiến cho Xa Nặc thấy giống như hoa sen, từng cánh từng cánh xếp lớp lên nhau, trắng như tuyết. Xa Nặc thấy rồi, tâm nhãn liền mở ra, nhìn thấy ở nơi cánh sen có hóa Bồ tát ngồi kiết già nhiều giống như vi trần chẳng thể nói lên số lượng. Những hóa nhân đó có lông trắng nơi mày cũng lại như vậy. Khi ấy, Xa Nặc thấy trong cung, đất như màu pha lê, bên trong thật cứng giống như Kim cương, chân bước nhẹ không tiếng động, mau chóng đến sau chuồng ngựa, thắng yên vàng vào ngựa dắt đến trước điện. Xa Nặc bạch thái tử rằng : “ Chư thiên nghiêm chỉnh chắp tay, vòng tay trụ ở trong hư không, đang đồng thanh khen ngợi công đức xuất gia. Đến lúc thái tử nên mau chóng lên ngựa !” Lúc bấy giờ, thái tử lại thả sợi lông trắng ra phỏng theo hình dạng các cô gái khiến cho các thị nữ, thân tâm vui vẻ giống như Tỳ kheo được đệ tam thiền. Lúc ấy sợi lông này uyển chuyển xoắn về bên phải vào trở lại mi gian. Chư thiên lại thấy mi gian của thái tử có trăm ngàn ánh sáng ví như dòng sông sữa chảy khắp tất cả. Ở trong dòng sông sữa có hóa Bồ tát cưỡi trên hóa liên hoa (hoa sen), đều cùng chung khen ngợi công đức xuất gia. Mỗi một vị hóa Bồ tát, dòng sông sữa ở mi gian họ tuông ra ánh sáng cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Đó gọi là đủ thứ điềm ứng của tướng Bạch Mao khi Bồ tát xuất gia. Nếu sau khi Phật diệt độ, những bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch Mao lúc Như Lai xuất gia thì phải tác khởi sự quan sát đó, nếu quán khác đi thì đó gọi là tà quán.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sao gọi là tướng lông Bạch hào khi khổ hạnh ? Như ta vượt ra thành cung rồi, cách thành Dà Gia chẳng xa, đi đến cây A luân đà thì Kết An thiên tử cùng trăm ngàn thiên tử đều nghĩ rằng : “ Nếu Bồ tát ngồi ở đây thì nhất định cần có tọa cụ. Ta nay nên phải hiến cho ngài cỏ của trời”. Các thiên tử liền mang đến cỏ trời thanh tịnh mềm mại tên là Cát Tường. Bồ tát nhận rồi, trải ra đất mà ngồi. Lúc đó, chư thiên quan sát kỹ thân tướng khả ái của Bồ tát lại thấy sợi lông trắng chu vi ba tấc xoắn về bên phải uyển chuyển, có trăm ngàn màu sắc tuông vào các tướng. Khi các thiên tử quan sát tướng Bạch Hào đều tác khởi ý niệm rằng : “ Hôm nay Bồ tát chỉ nhận cỏ của ta, chẳng nhận cỏ của ngươi”. Tức thời, ở trong sợi lông trắng, có vạn ức Bồ tát ngồi kiết già, đều lấy số cỏ ấy trải chỗ ngồi dưới gốc cây này. Mỗi một thiên tử đều thấy trong bạch hào có tướng như thế này. Lúc đó thiên tử Cát An khen ngợi rằng : “Hay thay ! Đấng Thắng Sĩ tu đại từ bi ! Nhờ sức từ bi nên được tướng Đại Nhân. Ở trong tướng ấy biến hiện không lường, có thể thoả mãn tất cả thiện nguyện của chư thiên, làm cho họ chẳng sinh tranh cãi mà khởi tâm Bồ đề. Đế thích, Phạm vương và chư thiên thấy Bồ tát ngồi dưới cây này đều mang cam lồ đến hiến dâng cúng dường. Lúc đó Bồ tát vì muốn hàng phục lục sư ngoại đạo kia nên chẳng thọ dồ cúng dường đó. Trời khiến cho bên trái, bên phải tự sinh ra mè, gạo nhưng Bồ tát chẳng ăn. Chư thiên đều nói rằng : “ Vị thiện nam tử này chẳng ăn nhiều ngày, khí lực mệt mỏi, mạng còn không bao lâu thì làm sao sẽ có thể thành tựu Bồ đề ?” Lúc đó Bồ tát vào Diệt Ý tam muội. Cảnh giới của tam muội gọi là tịch các căn. Chư thiên kêu khóc, nước mắt rơi xuống như mưa, khuyến thỉnh Bồ tát phải dậy mà ăn uống. Khi chư thiên nói lên lời thỉnh này thì tiếng vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới mà đức Bồ tát chẳng hay biết. Có một thiên tử tên là Duyệt Ý thấy đất mọc cỏ xuyên qua thịt của Bồ tát lên đến khuỷu tay nên bảo với chư thiên rằng : “ Lạ thay ! Đấng nam tử khổ hạnh đến vậy ! Chẳng ăn lâu lắm, tiếng kêu chẳng nghe, cỏ mọc chẳng hay biết !” Vị thiên tử đó liền lấy tay phải kéo duỗi sợi lông trắng của Bồ tát, sợi lông ấy ngay thẳng, dài đúng một trượng bốn thước năm tấc như báu trắng của trời, trong ngoài đều rỗng không. Trời thấy bên trong sợi lông có hàng trăm ức ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu chẳng thể tuyên nói cho đủ. Ở trong ánh sáng ấy hiện ra hóa Bồ tát đều tu khổ hạnh như Bồ tát này không khác. Bồ tát chẳng nhỏ mà lông cũng chẳng lớn. Chư thiên thấy rồi khen chưa từng có, liền thả sợi lông trắng xoắn về bên phải, uyển chuyển cùng với ánh sáng đều trở lại chỗ cũ. Lúc bấy giờ, chư thiên quan sát kỹ sợi lông trắng, mắt chẳng tạm rời. Họ nhìn thấy trong sợi lông trắng, bên dưới sinh ra năm cái ống theo diện môn vào mà rót cam lồ từng giọt từng giọt chẳng dứt, từ trên lưỡi chảy vào đến thân, phơi bày trong suốt như núi lưu ly. Có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ tát hiện ra ở bên trong thân ấy. Chư thiên thấy rồi, chắp tay vui mừng cho lời nói trước đây là ngu si, vì nói bậc đại nhân này, mạng sống chẳng còn bao lâu. Hôm nay thấy tướng đó thì nhất định sẽ thành Phật, rõ ràng không nghi ngờ ! Mặt trời tuệ Vô thượng chẳng bao lâu nữa sẽ soi chiếu thế gian ! Họ nói lên lời đó rồi đi nhiễu quanh trăm ngàn vòng, đều trở lại cung điện. Như âm thanh này nghe vang đến trời lục dục

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sau khi Phật diệt độ, nếu bốn bộ chúng muốn quán tướng Bạch Hào khi Như Lai khổ hạnh thì phải tác khởi sự quán tưởng đúng như quán này thì đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

***

PHẨM THỨ BA : QUÁN TƯỚNG

II- Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sao gọi là ánh sáng của tướng Bạch Hào khi Bồ tát hàng phục ma ? – Thiên ma Ba Tuần, từ xa dùng thiên nhãn quan sát cõi Diêm Phù Đề thấy người con của dòng họ Thích Ca bỏ nước như nhổ nước bọt, ngồi dưới gốc cây Đạo, xương da khô đét, hình thể gầy còm như người bệnh lâu ngày, chỉ có ánh sáng màu vàng thêm hiển hiện, đôi mắt thâm đen như sao đáy giếng, xương đốt chống đỡ nhau mất thế rồng cuộn. Ba Tuần mừng nói rằng : “Ông Cù Đàm thân thể gầy còm, xương đốt như cỏ mục, tuy có màu sáng nhưng mạng còn không bao lâu mà đạo chưa thành, ta phải đánh bại ông ấy”. Tỏ ra giận dữ, ra lệnh cho các dạ xoa tập họp quân chúng nói rằng : “ Ta nay muốn đi xuống cõi Diêm Phù Đề, đến chinh phạt ông Cù Đàm !”. Khi đó, con của ma tên là Tát Đa La quì dài bạch với cha rằng : “ Con của vua Tịnh Phạn, lúc ông ấy sinh, muôn vị thần hầu ngự, ánh sáng soi suốt mọi cõi trời. Lòng từ bi của người ấy che khắp tất cả. Nay ngài vì quần sinh, ngồi ở cây Đạo thì sao vua cha hưng khởi ý nghịch ác ?” Ma liền giận dữ nói rằng : “ Ngươi còn nhỏ không biết mới nói ông Cù Đàm có đạo đức hơn người. Thân ông Cù Đàm gầy đét như bộ xương khô, xét cho cùng thì chỗ nào có thể nói ông ấy từ bi ?” Người con lại bạch rằng : “ Thân thể ông Cù Đàm gầy còm vì chẳng ăn nên vậy. Quan sát màu sáng của ông ấy như ánh lửa sáng tía của núi Kim cương tuông ra. Ngài ngồi lặng lẽ sáu năm, lòng không nghiêm động, quan sát diện mạo ngài từng không có sắc sợ. Nguyện xin đại vương hãy trụ ở thiên cung, chẳng nên đến đánh phá !” Ba Tuần lại nói rằng : “ Ngươi chỉ nên im lặng, sao phải nhiều lời ?” Chúa Dạ xoa tên là Sí Đà liền đến chỗ ma dập đầu xuống đất làm lễ ma mà bạch rằng : “ Ngài ban lệnh đi đâu ?” Ba Tuần bảo rằng : “ Ngươi đem tiếng của ta bảo khắp sáu cõi trời, bảo xuống đến vua quỉ cùng những tám bộ chúng và quỉ đồng trống, Diêm La Vương thần của mười tám tầng Địa ngục… Tất cả đều đến tập họp tại chỗ ông Cù Đàm. Lúc đó các quỉ giống như mây nổi dậy, từ bốn mặt đều tập họp về. Hoặc có quỉ đầu như đầu trâu có bốn mươi cái tai. Ở trong tai ấy sinh ra những mũi tên sắt đỏ rực lửa dậy lên cao một do tuần. Có mười tám cái sừng, đầu sừng nâng quả núi, trên núi có rồng ngậm hòn sắt nóng. Lại có các quỉ, đầu như đầu chồn có mười ngàn mắt, lông mi mắt dài lớn như lửa cháy sét đánh. Trên cổ có miệng, miệng phun ra lửa hừng hực. Các sợi lông trên thân chúng giống như cây kiếm (kiếm thọ). Lại có các quỉ đứng nghiêng ngã ở trong hư không, có mười hai chân. Ở gót chân chúng có ngàn bánh xe dao. Đầu chúng như núi lớn. Ở trên đầu chúng có năm trăm cây kiếm, đầu cây kiếm lửa bốc lên. Lại có các quỉ uyển chuyển bò đi bằng bụng, đội núi Thiết vi, khom lưng mà đến. Lại có các quỉ, một cổ nhiều đầu, miệng có ngàn lưỡi. Ở trên lưỡi chúng mọc cây gai nhọn. Lông, râu tua tủa, đầu sợi lông mưa máu, phun gai nhọn, chạy nhanh trên không mà đến. Quỉ Tỳ Xá Xà phát ra tiếng ác lớn, hơi trào lên như mây, mưa xuống những hòn sắt nóng, đi đến như chớp nhoáng. Quỉ Cưu Bàn Trà ngồi xoạc chân ra đất, hiện thân hình xấu xí. Quỉ Phú đơn na với thân hình đen đủi gầy đét, đầu đội cái vạc đựng hòn sắt nóng, tay cầm bánh xe dao, chân trái đạp lên lưng chó, chân phải đạp lên lưng sói, chạy nhanh mà đến. Các vua La sát lưng đen như sơn đen, ngực trắng như mặt trăng, mắt như lửa rực, đầu tóc rối bồng như ràng gai nhọn, răng chó chỉa lên như xà mâu, kiếm bén, mười ngón tay có móng bén như mũi nhọn, bàn chân có mười móng ngang dọc như kiếm, dùng sắt ràng giữ đầu, chạy nhanh mà đến. Quỉ thần đồng trống, đại tướng quân.v.v… một cổ sáu đầu, ngực có sáu mặt, đầu gối có hai mặt, toàn thân thể mọc lông giống như mũi tên sắt, rung thân bắn người, mắt mở đỏ rực máu chảy ra, cùng các loài hung dữ chạy mau mà đến. Lại có các quỉ, đầu như đầu cọp, có mười hai mắt, mũi như vòi voi, có mười ba vòi, vai trái vác núi, vai phải mang lửa, tay cầm kiếm bén, chân bước nhẹ như sư tử vừa kêu rống mà đến. Lại có các quỉ, thân chúng như mây, lửa sấm sét khởi dậy như đầu đám mây. Ở bên đám mây có trăm ngàn vạn rồng, chẳng thấy thân chúng mà chỉ thấy phun ra khói độc ở khắp mười phương. Tất cả việc ác như mây tập họp lại. Mẹ con quỉ, tướng thần và các con của chúng đều cầm một vách đá vuông vức mười dặm cao ngất đáng sợ. Chúng tranh nhau mà đến. Lại có các quỉ co quắp sống lưng, cụp đuôi lại, dùng mũi ngửi đất, mũi phì ra lửa, trên lửa đỏ rực hóa sinh các quỉ, bưng mặt mà chạy… Khi đó Ma vương nghiêng nhìn Dạ xoa, bảo sai các quỉ, hôm nay binh quỉ đã vân tập, người thiện Cù Đàm hoặc có thể biết chú thuật nên phải hưng khởi bốn binh. Nó dùng ngọc Ma vương hóa làm bốn binh : binh voi, binh ngựa, binh xe, binh bộ, đồ binh khí la liệt như rừng rất là đáng sợ. Chúng đi thẳng từ trên không xuống đến bên cây Đạo. Ma lại nghĩ rằng, quân chúng như thế này hoặc chẳng thể đánh úp, hàng phục Cù Đàm. Ma lại cởi mũ báu đặt xuống đất. Ánh sáng mũ ấy thẳng đến hạ phương sẽ ở trên cung vua Diêm La hóa làm người lớn tiếng cả kêu sắc bảo các quỉ rằng : “Này Ngục tốt và Diêm La Vương các ngươi ! Bánh xe dao, kiếm, kích, xe lửa, lò than… của A tỳ địa ngục tất cả hãy cất lên hết, hướng về cõi Diêm Phù Đề ! Ta muốn tiêu diệt ông Cù Đàm, ném vào trong ấy. Địa ngục A tỳ ngang dọc bằng nhau, tám vạn do tuần với bảy lớp thành sắt, bên dưới mười tám từng (ngăn), bốn mặt rừng kiếm cũng mười tám hàng. Phương đông lại có mười tám địa ngục nhỏ vây quanh. Phương Nam có mười tám từng vây quanh. Phương Tây có mười tám từng vây quanh. Phương Bắc có mười tám từng vây quanh. Dưới đất tự nhiên có lửa cháy ngùn ngụt thiêu đốt thành sắt, lưới sắt. Tất cả lửa nóng xoay vần lẩn quẩn trong địa ngục, xuống qua mười tám tầng. Nếu có chúng sinh phạm tội ngũ nghịch thì thân chứa trong ngục ấy chịu khổ như thế này, ngày đêm không dứt, không rỗng khuyết. Khi kiếp sắp hết thì bốn cửa tự mở, các tội nhân đều thấy tất cả rừng kiếm ở ngoài cửa đông như là rừng mát mẻ. Họ từ từng dưới khởi dậy đến từng thứ hai, từ từng thứ hai khởi dậy đến từng thứ ba… cho đến lên đến trên cùng, họ chạy hướng về cửa Đông. Ngục tốt La sát dùng cây xoa bằng sắt nóng (cây sắt nóng mà đầu tỏe ra nhiều mũi nhọn) đâm ngược vào mắt họ. Tinh khí như nước đồng chảy tràn ra đất, họ tức thời ngã lăn khắp cùng trong mười tám từng. Lòng họ mê sảng tròn một tiểu kiếp. Vậy rồi họ mới quay trở lại khởi dậy hướng về cửa Nam… Như vậy bốn phương như trước không khác, ngày đêm chịu khổ trải qua một đại kiếp. Kiếp hết lại sinh vào tiểu địa ngục khác. Những ngục khác ấy hình trạng lớn nhỏ, thọ báo nhẹ nặng, hình loại đẹp xấu… tất cả mọi thứ quả báo ta sẽ lại nói rộng rãi trong Từ tam muội. Về các ngục tốt, phía Đông thành có tám ngàn, ba phương còn lại cũng vậy. Mỗi một ngục tốt, đầu tóc như núi phát sinh bánh xe dao, kiếm, kích. Tai như tai lừa có trăm ngàn thứ. Trong mỗi một tai khói lửa đều dấy lên. Môi, miệng, răng, nanh quá hơn La sát trăm ngàn vạn lần. Sừng như sừng trâu, đầu sừng phát sinh kiếm, năm hướng nhìn thấy khác nhau. Thân thể đỏ đen như chó bệnh ghẻ lở. Có bốn trăm đuôi, ở đầu của đuôi ấy máu nồng phân sôi. Có trùng mỏ sắt buộc quanh thân thể. Tay cầm thiết xoa, dưới chân đạp bánh xe. Dao trên bánh xe đâm thẳng suốt tim tủy, chạy nhanh như gió. Chúng đều dùng xoa sắt tréo lưng tội nhân thẳng lên mà chạy. A tỳ địa ngục như bóng theo hình xua đuổi tội nhân lại, thoáng chốc đã đến bên cây Đạo. Chúng nhất thời vân tập muốn hưng khởi ác nghịch. Bồ tát khi đó nghiễm nhiên chẳng động, nhập vào Thắng ý từ. Ma vương lừa dối, phấn kích, rống to bảo các binh chúng rằng : “ Các ngươi hãy mau chóng bức hại ông Cù Đàm”. Trên chấn động đến thiên lôi, mưa xuống những hòn sắt nóng, bánh xe dao vũ khí lại thêm chồng chất lên nhau ngổn ngang trong hư không. Bốn mặt, các quỉ đồng thời đều đốt lửa. Những tên lửa ấy chẳng tiếp cận được Bồ tát. Lúc đó Bồ tát từ từ nhấc cánh tay phải kéo duỗi sợi lông mày trắng hướng xuống đến địa ngục A tỳ, khiến cho những tội nhân thấy trong sợi ông trắng tuông ra nước, mưa xuống giọt to như trục bánh xe tưới lên lửa lớn. Lửa lớn tắt dần chỉ còn lại hơi khói, khiến cho tâm người thọ tội được liễu ngộ, tự nhớ lại sự tạo tác các tội của trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn vạn đời ở tiền thế. Các ngục tốt đều cầm cây thiết xoa lớn cất tội nhân dậy, nhưng chúng dùng hết sức mình mà chẳng thể lay động được. Bỗng nhiên, chúng tự thấy ở đầu cây đại thiết xoa như núi bạc trắng với ngàn vạn khám thờ, nhà ở, có sư tử trắng cuộn thân làm tòa ngồi. Ở trên tòa ngồi ấy mọc lên hoa sen trắng, có diệu Bồ tát ngồi nhập định Thắng Diệu Từ. Như vậy trang nghiêm như núi Tu Di. Bọn ngục tốt buông thiết xoa, ném xuống đất thì có hoa thất bảo mọc dưới rễ thiết xoa. Có ánh sáng màu trắng soi các địa ngục và thân ngục tốt khiến cho vua Diêm la và các ngục tốt trở thành núi bạc trắng giống như ánh chớp tạm thời được thấy. Các người chịu tội, sáu tình, các căn đang dậy lửa mạnh, đốt xương, đầu lửa đang cháy, gân mạch trở thành đinh… tạm thời đều đứng dậy được, chắp tay, vòng tay hướng về tướng Bạch Hào. Tức thời lòng họ được cởi mở, nhìn thấy người trong sợi lông trắng như mình không khác, đang ngồi trong rừng hoa sen dùng nước tưới xuống đỉnh đầu các tội nhân khiến cho lòng nhiệt não tạm được mát mẻ. Họ liền cùng một lúc đều xưng niệm : Nam Mô Phật. Do nhân duyên đó, khi chịu tội xong rồi, họ được sinh thẳng vào trong loài người với các tình đầy đủ, chính kiến xuất gia. Đã xuất gia rồi, họ phá tan hai mươi ức hang động kết sử, thành tựu Tu Đà Hoàn. Ma thấy những tướng đó, tiều tụy áo não, lui về nằm trên giường. Ma có ba người con gái, đứa lớn tên Duyệt Bỉ, đứa giữa tên Hỷ Tâm, đứa nhỏ tên Đa Mị. Ba đứa con gái của ma đến chỗ vua cha, quì dài vòng tay, làm lễ vua cha mà bạch rằng : “ Thưa Phụ vương ! Ngày hôm nay vì sao cha ưa sầu tiều tụy đến vậy ?” Cha chúng đáp rằng : “ Sa môn Cù Đàm kết thệ sâu nặng, nay ngồi dưới cây Đạo là cốt hại dân ta. Vậy nên ta lo buồn vậy”. Đứa con gái bạch với cha rằng : “ Con có thể đến gây nhiễu loạn, xin cha chớ buồn !” Chúng liền tự trang sức, đội mũ tạp bảo, hình dung kiều mị, đỉnh đặc vượt hơn hoàng hậu của vua ma trăm ngàn vạn lần. Liếc mắt đưa tình, tạo dáng đẹp lỗng lẫy, chuỗi ngọc chói lòa sáng lấp sáu trời, chúng ngồi xe lông báu, vây kín bằng trướng báu, thướt tha những hoa trời. Ở đầu tua hoa có các hóa ngọc nữ, tay cầm nhạc khí, tấu nhạc đàn ca, muôn vàn thứ âm thanh tạo niềm hỉ lạc cho người ở đời. Mỗi một ngọc nữ đem theo năm trăm người con gái để làm người hầu với tàng che, tràng, phan bằng lụa ngũ sắc rực rỡ như mây mà giáng hạ. Trong lỗ chân lông của thân tỏa khói thơm sực nức. Có trăm ngàn màu sắc, đất trời sáng rực, rất thích mắt người. Bọn ma nữ an tường, từ từ bước đến chỗ Bồ tát, xuống xe, chắp tay lễ kính Bồ tát, đi nhiễu quanh ngài bảy vòng, rồi bạch với Bồ tát rằng : “ Thái tử lúc sinh ra, vạn thần hầu hạ, bảy báu kịp đến, sao ngài bỏ địa vị trời mà đến dưới cây này ? Tôi chính là thiên nữ, đẹp không gì sánh ! Nhan mạo rực hồng, sáu trời không hai ! Nay đem tấm thân nhỏ mọn dâng lên thái tử ! Cung nạp cho ngài để hầu hạ hai bên, nâng khăn sửa túi. Chúng tôi khéo léo điều thân vuốt ve ! Nay muốn gần gũi bên ngài, nguyện xin ngài hạ cố dung tình. Thái tử ngồi dưới cây, thân thể mệt mỏi nên cần nằm nghỉ, ăn uống cam lồ !” Chúng liền dùng đồ báu, dâng hiến trăm món ăn trời. Thái tử lặng lẽ, thân tâm chẳng động, dùng sợi lông trắng nghĩ định khiến cho ba đứa con gái của ma trời tự thấy bên trong thân là túi mũ, nước mắt, nước dãi, chín lỗ gân mạch, tất cả căn bản, ruột già, ruột non, tạng sống, tạng chín… Ở khoản giữa ấy, trở lại ngấm ngầm uyển chuyển sinh ra các trùng. Số trùng ấy chứa đầy có đến tám ngàn hộ (ngăn để chứa). Mỗi hộ có chín ức những trùng nhỏ. Trùng nhỏ khi du hí chạy vào ruột non, chúng đều có bốn miệng, há miệng hướng lên. Trùng lớn du hí vào trong ruột già. Từ ruột già ra, chúng lại vào trong bao tử. Khi bịnh lạnh khởi lên thì cuống bao tử bế tắc trùng chẳng vào được nên ăn chẳng tiêu. Lá lách, thận, gan, phổi, tim, mật, cổ họng… phổi nhũn, gan nhăn… khoản giữa như vậy lại sinh ra bốn loài trùng. Chúng như bốn con rắn hợp lại, trên dưới đồng thời ăn các tạng. Cặn bã hết nước sinh ra, vào mắt là nước mắt, vào mũi là nước mũi, tụ ở miệng thành nước dãi, há miệng thì nước miếng chảy ra. Da dày, da mỏng, gân, tủy, các mạch đều sinh ra những loài trùng nhỏ như lông mùa thu với số lượng rất nhiều, chẳng thể nói đủ được. Những đứa con gái ấy thấy những điều này liền luôn miệng ói mữa ra, không có cùng tận. Chúng liền tự thấy thân mình, bên trái sinh ra đầu rắn, bên phải sinh đầu cáo, ở giữa là đầu chó. Trên đầu hóa sinh thây chết chín màu như chín tướng quán. Chín tướng quán gồm :

– Một là tướng mới chết. Như thây người chết, thân thể thẳng đuột, không biết gì nữa. Rồi tưởng thân này của ta cũng sẽ lại vậy, cùng người này không khác. Vậy nên gọi là tướng mới chết.

– Hai là tướng thanh ứ (bẩn đọng lại). Như thấy người chết từ một ngày đến bảy ngày thì tướng thân thể sình lên xanh méc, đọng bẩn đen thui. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, cùng người chết này không khác. Vậy nên gọi là tướng thanh ứ.

– Ba là tướng máu mũ. Như thấy người chết mà thân đã hoại rữa, máu chảy tràn lan, thật là đáng tởm, chẳng thể ngắm nhìn. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng máu mũ.

– Bốn là tướng nước sắc đỏ. Hoặc thấy người chết, thân thể dọc ngang, nước vàng chảy ra giống như nước sắc đỏ. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng nước sắc đỏ (ráng chấp).

– Năm là tướng ăn chẳng tiêu. Hoặc thấy người chết bị quạ chim rỉa ăn, bị trùng sói nhai nuốt, bị ruồi đẻ trứng sinh giòi đục khoét… Thịt ấy sắp hết hoặc còn lại nửa thân. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng ăn chẳng tiêu.

– Sáu là tướng gân ràng buộc củi. Hoặc thấy người chết mà da thịt đã hết chỉ có gân xương liền nhau ví như bó củi. Do đó được thành mà chẳng rời tan. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng gân ràng buộc củi.

– Bảy là tướng xương, đốt chia lìa. Hoặc thấy người chết mà gân đã rã hoại, xương đốt ngổn ngang, chẳng ở một chỗ. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng xương đốt chia lìa.

– Tám là tướng đốt cháy đáng tởm. Hoặc thấy người chết mà bị lửa cháy nhà thiêu hay lửa ngoài đồng đốt, nám đen nằm dưới đất rất là đáng tởm, chẳng thể ngắm nhìn. Tấm thân yêu thích của ta cũng sẽ lại như vậy, nên gọi là tướng đốt cháy đáng tởm.

– Chín là tướng xương khô. Hoặc thấy xương khô lâu đời, hoặc năm mươi năm… đến một trăm năm, hai trăm năm, ba trăm năm… xương trở lại biến thành trắng phơi ra dưới ánh mặt trời. Lửa từ trên xương ngun ngún khởi lên. Sau khi lửa đốt cháy xương rồi thì gió thổi vào đất, xương trở lại về với đất.

Đó gọi là lược nói về chín tướng. Đó là Bồ tát trước tiên ở dưới gốc cây, lần đầu mở cửa phép quán bất tịnh. Khi đó, ba đứa con gái của ma tự thấy trên lưng mình lại cõng cha mẹ, đầu bạc, mặt nhăn, môi miệng méo mó, chân tay cong queo, nhan sắc thâm đen giống như thây chết cứng đờ, trước ngực lại bồng một đứa trẻ chết, ở trong sáu lỗ chảy ra những mũ, trong mũ sinh ra loài trùng giống như con giun (lãi). Các đứa con gái thấy những điều này ngạc nhiên kinh hãi, gào khóc, bước giật lùi mà đi. Chúng cúi đầu nhìn thấy ngang rốn sinh ra sáu con rồng, rồng phun ra nước lửa, tai phát ra gió, thân thể cứng như sắt. Chúng tự thấy hình trạng con gái xấu xí, thấp hèn bẩn thỉu đến như vậy. Ở chỗ thấp hèn ấy có các con trùng nhỏ, trùng có bốn đầu, trên hai, dưới hai ăn thân người con gái, miệng phun ra năm độc. Mỗi độc có năm mạch lên đến tim, xuống cho đến yết hầu. Từ trong sáu căn sinh ra các mạch căn, có đến chín mươi chín mạch xuống thẳng, rót chảy đến các trùng ở đỉnh đầu, rồi chung nhau rót thông suốt đến các trùng ở tim. Những người con gái đã từ vô số đời tạo các tà hạnh. Nhân duyên nghiệp ác nên họ phải bị thân xấu xí, bất tịnh như vậy. Lại có các trùng như vòng đeo cánh tay, tướng tròn xoe, có các miệng. Miệng chúng sinh ra năm độc rỉa ăn nữ căn. Những người con gái đó đời trước làm hạnh tà dâm nên bị thân xấu xí mà cho là trang nghiêm. Những người con gái thấy rồi, lòng rất chua xót đau khổ như tên bắn vào lòng nên lúc lui ra, bò lê bò càng mà đi. Họ đi như bước đi của con lạc đà ốm yếu, lúc mới nhấc chân thì từng đốt, từng đốt xương như dậy lửa. Tóc của chúng vàng đen như rừng gai nhọn. Chúng tự ràng buộc thân mình, kêu van than thở, đi đến trước ma vương. Ma vương giận dữ vung kiếm biến sắc, tức thời muốn đến thẳng trước chỗ Phật. Con của ma can rằng : “ Phụ vương không tội mà tự rước lấy ung nhọt ! Đức Bồ tát tu hành thanh tịnh khó lay động như đất thì làm sao có thể phá hoại được !”. Khi chúng nói lời can ngăn này thì Bồ tát lại dùng ánh Bạch Hào hướng về phía ma, khiến cho quyến thuộc của ma thân tâm an lạc ví như Tỳ kheo vào đệ tam thiền. Ngã quỉ thấy sợi lông trắng, trên đầu sợi lông có trăm ngàn vạn ức những Đại Bồ tát. Các vị Bồ tát đó cũng vào tam muội Thắng Ý Từ tâm, đều dùng tay phải vuốt đầu ngón tay trái. Từ đầu những móng tay đó phát sinh ra sữa tưới xuống diệt lửa mạnh. Lửa mạnh tắt rồi liền được mát mẻ, tự nhiên chúng no đủ, thân tâm hớn hở vui mừng, phát tâm Bồ đề. Nhân được cái tâm đó nên chúng bỏ nỗi khổ ngã quỉ. Những quỉ đó đều từ thấy thân mình tợ như ngọc trắng, tợ như núi Lưu ly, tợ như núi Pha lê, tợ như núi hoàng kim, tợ như núi mã não. Những lỗ chân lông của thân như xâu trân châu. Mắt sáng như ngọc Minh Nguyệt. Các khói lửa của thân như mây tạp bảo. Dao gậy đã cầm tựa như đài bảy báu. Bên trong đài bảy báu bày lớp nệm êm, đặt yên gối đỏ, bên phải bên trái tự nhiên có những vị hóa Phạm vương. Những quỉ đó thấy có hóa Bồ tát ngồi ở hóa đài, mỗi mỗi đều nói với các tội nhân rằng : “ Các ngươi đời trước ngồi làm nghiệp ác nên bị thân hình khả ố như thế này”. Khi Bồ tát nói lời nói đó thì các quỉ thần này, có người phát tâm Vô thượng Bồ đề, có người gieo trồng nhân duyên Thanh văn, Bích Chi Phật, có người ở đời đương lai sẽ sinh vào chỗ thắng lạc của người trời. Lúc đó Ma vương bỗng nhiên trở về cung thì lông trắng đi theo thẳng đến sáu trời. Ở khoản giữa ấy, vô số thiên tử, thiên nữ thấy trong lỗ lông trắng thông suốt đều rỗng không tròn xoe khả ái như cờ của Phạm vương. Ở khoản không ấy có trăm ngàn vạn ức những hoa sen báu nhiều như hằng hà sa số vi trần. Mỗi một hoa sen có đài hoa với vô lượng vô biên những sắc trắng vi diệu. Trên đài ấy, có hóa Bồ tát phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân Bạch Hào, cũng lại như vậy. Đỉnh đầu các vị Bồ tát có hoa sen vi diệu màu vàng. Trên những hoa ấy có bảy đức Phật đời quá khứ. Các vị hóa Phật đó tự nói danh tự cùng kinh điển giống nhau không sai khác. Lại có chư thiên, nhờ thiện căn đời trước, thấy trong lỗ lông của mỗi hóa Bồ tát sinh ra một vị Bồ tát. Trên đỉnh các vị Bồ tát đó đều có hóa Phật, như trước chẳng khác. Ở khoản mày của các vị hóa Phật mọc ra hoa bách bảo trang nghiêm mà không hình sắc gì của chư thiên và thế gian có thể so kịp. Trên hoa ấy có “hóa quang đài”, trên đài có hóa Phật như trước không khác. Trong lỗ lông của thân những hóa Bồ tát hóa ra tất cả việc hiếm thấy cho chúng sinh trong mười phương. Dưới chân hóa nhân có hóa quang đài, sinh ra các cung trời quá hơn cung điện của ma sáu trời Dục, cũng hơn cả cung nghiêm thân của trời Đại Phạm. Các tướng Phạm đỉnh sinh ra từ những vòng tròn dưới chân hóa Bồ tát. Như vậy sợi lông trắng lên đến cõi Vô Sắc, soi khắp tất cả vô lượng vô biên thế giới của chư thiên đều như gương sáng pha lê báu trắng. Chư thiên thấy tướng điềm ứng thắng diệu này rồi thì chẳng ưa niềm vui của trời mà phát tâm Bồ đề. Tám muôn bốn ngàn thiên nữ của ma vương nhìn thấy thân trạng của Ba Tuần như chó chết, cũng tợ như cây cháy. Họ chỉ chiêm ngưỡng ánh sáng tướng Bạch Hào của Bồ tát mà tâm ý vui sướng không lấy gì làm ví dụ được và giận cho việc làm trước đây của Ba Tuần : Mưu toan muốn hủy hoại người khác, ngược lại tự làm mất quân chúng của mình. Khi tác khởi lời này thì trăm ngàn vô số thiên tử, thiên nữ lại phát ý đạo Vô thượng Bồ đề – Đức Phật nói với Đại vương – Như vậy đủ thứ việc của các thắng tướng chỉ từ sợi lông trắng ở khoản mày của Bồ tát mà sinh ra thôi vậy, chẳng nhọc đến phần công đức khác của thân Bồ tát ấy. Sau khi Phật diệt độ, những bốn bộ chúng nếu có thể tạm thời lìa bỏ tán loạn, ràng buộc lòng, chánh quán tướng Bạch Hào hàng ma của Bồ tát thì diệt được vô số nghiệp chướng đen tối ác hại, cũng trừ được những chướng phiền não của mười điều ác, ở hiện thế có thể thấy ảnh tượng của Phật rõ ràng phân minh. Như vậy đủ thứ cảnh giới của quán tướng chẳng thể nói đủ được. Như sau khi ta diệt độ, người muốn quán tướng lông trắng khi Như Lai hàng phục ma thì phải quán như đây. Người quán như vậy gọi là chánh quán. Nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Sao gọi là tướng Đại nhân, tướng người giác ngộ, tướng người chẳng động, tướng người Giải thoát, tướng người quang minh, tướng người đầy trí tuệ, tướng người đầy đủ các Balamật, tướng Thủ Lăng Nghiêm ngang bằng những biển tam muội lúc Như Lai thành Phật ?

– Đại Bồ tát từ Thắng Ý Từ tam muội khởi lên, lại vào Diệt Ý định. Từ Diệt Ý định khởi lên, trở lại vào Thủ Lăng Nghiêm. Từ Thủ Lăng Nghiêm khởi lên, lại vào Tuệ Cự tam muội. Từ Tuệ Cự tam muội khởi lên, lại vào Chư Pháp tướng tam muội. Từ Chư Pháp tướng tam muội khởi lên, lại vào Quang Minh Tướng tam muội. Từ Quang Minh Tướng tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Âm Thanh tam muội. Từ Sư Tử Âm Thanh tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Phấn Tấn tam muội. Từ Sư Tử Phấn Tấn tam muội khởi lên, lại vào Hải Ý tam muội. Từ Hải Ý tam muội khởi lên, lại vào Phổ Trí tam muội. Từ Phổ Trí tam muội khởi lên, lại vào Đà La Ni Ấn Tướng tam muội. Từ Đà La Ni Ấn Tướng tam muội khởi lên, lại vào Phổ Hiện Sắc Thân tam muội. Từ Phổ Hiện Sắc Thân tam muội khởi lên, lại vào Pháp Giới Tính tam muội. Từ Pháp Giới Tính tam muội khởi lên, lại vào Sư Tử Hống Lực Vương tam muội. Từ Sư Tử Hống Lực Vương tam muội khởi lên, lại vào Diệt Chư Ma Tướng tam muội. Từ Diệt Chư Ma Tướng tam muội khởi lên, lại vào Không Tuệ tam muội. Từ Không Tuệ tam muội khởi lên, lại vào Giải Không Tướng tam muội. Từ Giải Không Tướng tam muội khởi lên, lại vào Đại Không Trí tam muội. Từ Đại Không Trí tam muội khởi lên, lại vào Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân tam muội. Từ Biến Nhất Thiết Xứ Sắc Thân tam muội khởi lên, lại vào Tịch Tâm Tướng tam muội. Từ Tịch Tâm Tướng tam muội khởi lên, lại vào Bồ tát MaHaTát Kim Cương Tướng tam muội. Từ Kim Cương Tướng tam muội khởi lên, lại vào Kim Cương Đỉnh tam muội. Từ Kim Cương Đỉnh tam muội khởi lên, lại vào tất cả biển tam muội. Từ tất cả biển tam muội khởi lên, lại vào tam muội tất cả biển Đà la ni. Từ tam muội tất cả biển Đà la ni khởi lên, lại vào tam muội tất cả biển cảnh giới của Phật. Từ tam muội tất cả biển cảnh giới của Phật khởi lên, lại vào tam muội biển giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả các đức Phật. Từ tam muội biển giải thoát, giải thoát tri kiến của tất cả các đức Phật khởi lên, nhiên hậu mới vào cửa những biển tam muội nhiều như số vi trần không lường. Từ cửa những biển tam muội khởi lên, lại vào Tịch Ý Diệt Ý tam muội. Từ Tịch Ý Diệt Ý tam muội khởi lên, lại vào cửa của tướng tam muội Kim Cương Thí Định Đại Giải Thoát.

Lúc bấy giờ, đất của đạo tràng hóa thành tựa như Kim cương, đầy tám mươi dặm, một màu trắng bạch, chẳng thể thấy đủ được. Khi hiện tướng này thì ánh sáng tướng Bạch Hào ở mi gian của Bồ tát thanh khiết chánh trực, thẳng đường về hướng Đông, dài một trượng năm thước, có mười góc hiện ra người con gái Di Ca, năm người con gái đồng loại. Vô số vạn ức trời rồng, quỉ thần, Di Lặc, các Bồ tát kiếp Hiền.v.v…, Bạt Đà Ba La.v.v…, vô lượng vô biên atăngkì các Bồ tát nhiều như số vi trần cũng thấy tướng này. Khi thị hiện tướng này, ở cây Bồ đề của Phật, do sức lông trắng nên dưới rễ cây tự nhiên hóa sinh hoa báu, dọc ngang bằng nhau bốn mươi do tuần. Đài hoa ấy bằng Kim cương. Ánh sáng ở khoản mày đức Phật chiếu soi đài hoa này. Ánh sáng ấy thẳng xuống đến mép Kim cương. Ở mép Kim cương tự nhiên hóa sinh hai tòa Kim cương. Chúng va chạm lẫn nhau, tiếng chấn động ba ngàn đại thiên thế giới, khiến cho đại địa này sáu thứ chấn động. Trên tòa Kim cương ấy, có đường thông từ hoa sen đến rễ của hoa sen. Rễ hoa sen ấy cũng chính là Kim cương. Ba thứ Kim cương va chạm nhau, xuống thẳng rồi trở lại, qua đến mép Kim cương, đi đến quay lại mười lần, ánh sáng Bạch Hào vây tròn mười vòng khiến cho tòa Kim cương vững vàng chẳng động. Phật ngồi tòa này, tiêu trừ ba chướng, thành đạo Bồ đề. Cảnh giới tâm của Phật nói chẳng thể hết. Nếu nói rộng ra thì tất cả chúng sinh cho đến Bồ tát Thập Địa cũng chẳng thể biết, cũng chẳng phải điều lý giải của họ. Vậy nên ở trong tướng Bạch Hào này ẩn dấu mà chẳng nói. Như vậy, sức ánh sáng của lông trắng khiến cho cây Bồ đề có thân là Kim cương, rễ cũng là Kim cương, tua hoa là bảy báu. Trên tua hoa phát sinh ánh sáng, mỗi mỗi đều có bảy vòng vây quanh thân Phật, hóa thành màn báu. Lá cây màu vàng, hoa màu báu trắng. Trên hoa có ánh sáng màu trăm ngàn báu mà ánh sáng báu chư thiên chẳng ví dụ được. Quả cây màu báu trắng mà báu trắng vi diệu trên trời Dạ Ma chẳng sánh được. Ánh sáng quả ấy hóa thành lưới Ma ni che rộng trên cây. Ở vùng lưới ấy giống như tơ trắng, uyển chuyển thòng xuống, hóa thành những chuông báu. Đầu bốn góc của chuông có đài báu lớn. Đài ấy cao hiển qua khỏi vô lượng thế giới ở phương trên. Qua khỏi thế giới đó rồi lại hóa thành các đài báu lớn nữa. Sự cao diệu của những đài ấy chẳng thể nói đủ được. Chúng quang hiển thắng diệu ví như trăm ngàn vạn ức núi Tu di hòa hợp lại. Ở trên đài ấy có bảo cái lớn thuần bằng Kim cương đủ màu xen lẫn ánh sáng vi diệu. Ánh sáng buông xuống hóa thành phan, trướng. Ở trong phan, trướng mưa xuống mây bảo cái. Ở trong mây bảo cái mưa xuống mây tràng phan. Trong mây tràng phan mưa xuống mây kỹ nhạc. Trong mây kỹ nhạc mưa xuống mây ánh sáng báu. Trong mây ánh sáng báu mưa xuống mây các hương thơm. Trong mây các hương thơm mưa xuống mây Sư tử tòa. Trong mây Sư tử tòa mưa xuống mây hoa man. Trong mây hoa man mưa xuống mây diệu âm. Trong mây diệu âm mưa xuống mây kệ tụng. Trong mây kệ tụng mưa xuống mây đồ trân bảo cúng dường. Như vậy .v.v… đủ thứ đồ cúng dường đều từ trong ánh sáng của tướng bạch hào tại cây Bồ đề sinh ra. Khi ánh sáng sợi lông trắng buông xuống chiếu vào đất thì khiến cho trên đất Kim cương bên đạo tràng hóa thành bảy ao. Ao sinh ra nước công đức, nước có bảy màu, từng màu từng màu phân minh. Màu có mười ánh sáng chiếu lên Vua cây (thọ vương). Bốn bờ của ao ấy do mọi thứ báu hợp thành. Mỗi bờ là sự chung hợp thành của trăm thứ báu. Mỗi báu tuông ra hàng trăm ức ánh sáng. Đáy ao thuần là Kim cương, ngọc Ma ni dùng làm cát đáy. Nước ao sinh ra các hoa mà cánh thuần là hoàng kim. Trên cánh, hàng ngàn ánh sáng hóa thành quang luân (vừng ánh sáng). Ao có bảy ngòi, nước tự trào ra. Miệng ao sinh ra hoa, từng cánh hoa từng cánh hoa kế tiếp nhau. Ở tua hoa sen tuông ra nước như ngọc lưu ly sáng trưng phân minh. Ở hai bờ ngòi la liệt những là hoa có đến tám muôn bốn ngàn các báu nghiêm sức. Nước trong ngòi này tưới rót vào nhau, khi nước đang chảy ánh sáng cũng chuyển theo làm chói sáng cây Bồ đề. Trong ánh sáng cây này, trên mỗi một lá sinh ra hoa sen báu. Hoa ấy bày khắp tất cả thế giới. Ở trên hoa ấy hóa ra bảo đài trắng khắp cùng vô lượng thế giới trong mười phương. Ánh sáng Bạch Hào ấy từ mi gian đức Phật phóng ra hoa sen báu tròn xoe đầy đặn một do tuần và cứ như vậy tiếp theo nhau qua vô lượng vô biên, chẳng thể tính toán thế giới nhiều như vi trần ở thượng phương. Từng hoa từng hoa kế tiếp nhau, trên mỗi một hoa có một đức Phật đang ngồi. Thân Phật màu hoàng kim, cao một trượng sáu, ngồi kiết già trên đài hoa sen. Tòa Kim cương ấy và cây Bồ đề… như trên đã nói, ngang bằng không có khác… cho đến những tòa những cây ở mười phương cũng lại như vậy. Ở trong Bạch Hào lại sinh ra hoa báu tốt hơn hoa báu trước gấp trăm ức vạn lần. Trên hoa ấy có đức Phật giống như Thích Ca Văn không có khác. Ở đầu mỗi tua hoa lại có một đức Phật thân cũng một trượng sáu đang vào sâu thiền định, lòng chẳng chao động. Như vậy, ánh sáng Bạch Hào soi đến phương Đông vô lượng vô số trăm ngàn thế giới, khiến cho các thế giới đều trở thành màu vàng. Chúng sinh của những thế giới đó thấy lỗ lông của những hóa Phật mở ra thị hiện ánh sáng cũng lại như vậy… phóng ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng báu… trong mỗi một ánh sáng lại có vô lượng trăm ức hóa Phật… Lúc bấy giờ, chư thiên, rồng, quỉ thần, dạ xoa, Càn thát bà.v.v.. nhìn thấy ánh sáng này nhiễu quanh đức Phật ngàn vòng, soi chiếu mười phương đất nước. Đất nước mười phương cao thấp, lớn nhỏ rõ ràng phân minh như đang cầm gương sáng tự soi mặt mũi mình. Những đại chúng đó, quyến thuộc của Ma Ba Tuần, tám vạn ức chúng và các quỉ thần, trời, rồng, dạ xoa.v.v… đều thấy sợi lông trắng ngay thẳng dài một trượng năm, hiện ánh sáng khắp mười phương sáng lòa mắt mọi người như có vạn ức mặt trời, chẳng thể thấy đủ hết, chỉ thấy ở trong ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức đức hóa Thích Ca Văn với sợi lông trắng ở mi gian dài một trượng rưỡi. Trong mỗi một sợi lông phát ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng đức hóa Phật. Rồi mi gian của hóa Phật cũng lại như vậy. Trong vách ngăn vừng sáng Bạch Hào đó tuông ra ánh sáng lên đến trán Phật làm hiển phát tướng trán rộng bằng phẳng, những lông trên trán đều lướt lên trên. Dưới chân lông ấy có màu ngọc Ma ni trời Phạm, vừa lòng chúng sinh. Đầu sợi lông tuông ra ánh sáng như vàng tía rực rỡ. Tướng sáng lướt lên vào đến mép tóc rồi uyển chuyển rũ xuống đến bên vòng tai, nhiên hậu mới phủ lên trên vùng tóc, vây quanh nhục kế hàng trăm ngàn vòng từ xương sọ sinh ra như cánh hoa sen vàng nở rộ dưới ánh mặt trời. Vùng cánh hoa sen và tua hoa sen như bức họa của Đế thích rõ ràng phân minh với mọi sắc hiện khác. Ở vùng sắc ấy có vô lượng hóa Phật. Mỗi hóa Phật có bảy Bồ tát và chư thiên làm thị giả, tay cầm hoa báu trắng nhất, hoa có năm ánh sáng năm màu phân minh, đi theo hóa Phật chẳng rời. Đây gọi là ánh sáng tướng Bạch Hào khi Như Lai mới thành Phật. Nhân ánh sáng Bạch Hào, ánh sáng đỉnh sơ sinh nên lúc sinh ở vương cung, ánh sáng này như mặt trời thấy chẳng tỏ rõ. Vầng sáng tròn một tầm riêng biệt, Ta tự sẽ nói. Việc nhìn thấy ánh sáng Bạch Hào của tám bộ chúng chẳng đồng : có người thấy lông trắng giống như các đức Phật, có người thấy lông trắng như các vị Bồ tát; có người thấy lông trắng như cha mẹ mình… Việc đáng tôn kính của tất cả thế gian đều ở đầu sợi lông, được thấy rõ ràng. Thấy rồi thì vui mừng, có người phát tâm Vô thượng Bồ đề, có người phát tâm Thanh văn, Duyên Giác. Như vậy, các quỉ thấy lông trắng thì tự nhiên phát từ tâm, không có ý ác – Đức Phật bảo với Phụ vương – Lông trắng của Như Lai, từ lúc sơ sinh cho đến khi thành Phật ở khoản giữa ấy, những việc nhỏ vi tế có thể được xem thấy. Nhưng khi đã thành Phật rồi thì mọi tướng đầy đủ của ánh sáng Bạch Hào, đức Phật đã nói rộng rãi trong các kinh điển. Chỗ rốt ráo của ánh sáng tướng Bạch Hào thì Bồ tát Thập Địa mới được thấy. Trước tiên ta nói trong phạm vi nhỏ hẹp cho việc này dễ thấy, ứng hợp với các thế gian.

Đức Phật nói với Phụ vương và bảo A-nan rằng :

– Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Suy nghĩ kỹ càng vấn đề đó ! Ông hãy truyền lời nói của ta cho các đệ tử đời sau đều được biết rằng, nếu sau khi ta diệt độ, có các Tỳ kheo… hỏi việc đó. Rằng, Bồ tát vốn xưa đã tu hạnh gì mà được tướng Bạch Hào này ? Thì ông phải đáp rằng, tướng Bạch Hào của đức Phật, từ vô lượng kiếp, lòng xả bỏ chẳng keo kiệt, chẳng thấy tướng đời trước, chẳng nhớ tài vật, lòng không tham trước mà làm bố thí, dùng pháp của thân tâm mà nhiếp lấy uy nghi của thân, hộ trì cấm giới như yêu thương đôi mắt, nhưng bên trong tấm lòng ấy thông suốt rỗng không lặng lẽ, chẳng thấy sai phạm khởi lên và xả bỏ đọa pháp, lòng yên như đất không lay động. Giả sử có một người dùng trăm ngàn lưỡi dao mổ xẻ thân ấy, giả sử lại có người dùng roi có gai nhọn đánh đập thân ấy mà Bồ tát không một ý niệm sân nhuế. Giả sử lại có người, đầu có một ngàn lưỡi, lưỡi nói ra hàng ngàn lời với đủ thứ ngôn từ nhục mạ, Bồ tát nhan sắc chẳng biến đổi, như hoa sen thanh tịnh, lòng không chấp trước, thân tâm chẳng giải đãi, không mệt mỏi, ý như cứu lửa cháy đầu, như lỗ chân lông của thân phát sinh ghẻ lở na-lợi mà ngày đêm tinh tấn tìm kiếm lương y. Lòng không nhiễm bẩn như ngọc lưu ly phơi bày sự thanh tịnh. Nhiếp thủ thân, thúc liễm ý, nhắm mắt, vòng tay, ngồi ngay chánh thọ, lòng ấy như biển sáng ngời chẳng động như núi Kim cương không thể cản trở hủy diệt. Tuy tác khởi ý này mà chẳng tùy theo thiền sinh khởi, lòng hạnh (như tro tàn) trí diệt, không có gì thích hay không thích, cũng không giác quán mà chẳng phải chẳng quán pháp. Tâm trí mạnh mẽ linh lợi nhiếp lấy các phương tiện, chẳng thấy có pháp hoặc lớn hoặc nhỏ, có tướng vi tế. Như vậy cái mà nhiều người gọi là Balamật, cũng từ ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề, lại từ mười lực, bốn vô sở úy, đại từ, đại bi, ba (?) niệm xứ, các diệu công đức… mà được tướng Bạch Hào này. Nếu sau khi ta diệt độ thì các đệ tử của Phật lìa bỏ các ác, trừ khử tướng rối loạn ồn ào, ưa phép ít nói, chẳng chuộng nhiều việc. Ngày đêm sáu thời, người đó có thể ở trong một thời phân làm một phần ít, trong phần ít có thể trong giây lát nghĩ đến tướng Bạch Hào, khiến cho lòng tỏ rõ không có tư tưởng lầm lẫn rối loạn phân minh chánh trụ, chú ý nghĩ đến tướng Bạch Hào chẳng ngưng thì hoặc thấy được tướng tốt, hoặc chẳng được thấy. Những người như vậy thì khước trừ được tội sinh tử của chín mươi sáu ức nadotha hằng hà sa vi trần số kiếp.

Giả sử lại có người chỉ nghe đến tướng Bạch Hào, lòng chẳng kinh sợ, nghi ngờ mà hoan hỉ tín thọ thì người này cũng khước trừ được tội sinh tử của tám mươi ức kiếp. Nếu có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phạm bốn căn bản tội, bất như đẳng tội và ngũ nghịch tội, trừ tội bài báng kinh Phương Đẳng. Những người như vậy nếu muốn sám hối thì ngày đêm sáu thời, thân tâm chẳng lười biếng. Ví như người đi sâu vào vùng cỏ khô, bốn bề lửa cháy, gió mạnh thổi lại muốn thiêu đốt thân họ. Người này nghĩ rằng, nếu lửa đốt ta, trong thời gian chưa chết mà chi tiết rã rời thì ta sẽ làm sao diệt được lửa này ? Nếu chẳng thiết lập kế sách thì sinh mạng nhất định chẳng cứu được. Ai là người có trí, nhiều những phương tiện có thể cứu mạng của ta? Giả sử cứu mạng an toàn mà ở chỗ người đó không có sự tiếc rẻ ? Tác khởi sự suy nghĩ này rồi, như núi lớn lở, họ gieo năm vóc xuống đất, gào khóc nước mắt như mưa, chắp tay hướng về đức Phật, khen ngợi đủ thứ đức hạnh của Như Lai. Tạo tác sự khen ngợi này rồi, họ tụng pháp sám hối, ràng buộc ý niệm ở trước mặt, nghĩ về ánh sáng tướng Bạch Hào ở mi gian của Phật từ một ngày đến bảy ngày thì bốn thứ tội trước có thể được nhẹ bớt, đến hai mươi mốt ngày thì tội tướng diệt dần, sau bốn mươi chín ngày nhiên hậu làm pháp yết ma. Việc này nói ở kinh khác. Nếu Tỳ kheo phạm chẳng đúng tội mà quán ánh sáng Bạch Hào tối đen chẳng hiện thì nên vào tháp quán tưởng mi gian của hình tượng, từ một ngày đến ba ngày, chắp tay kêu khóc, một lòng quan sát kỹ càng, nhiên hậu vào với Tăng, nói lên việc tội trước của mình. Đây gọi là diệt tội. Còn năm thứ tội trước thì niệm tướng ánh sáng Bạch Hào trải qua tám trăm ngày, nhiên hậu lại có pháp yết ma khác.

Đức Phật bảo với Phụ vương rằng :

– Như Lai có vô lượng tướng tốt. Trong mỗi một tướng có tám muôn bốn ngàn tướng tốt nhỏ. Tướng tốt như vậy mà chẳng bằng một phần nhỏ công đức của Bạch Hào. Vậy nên ngày hôm nay ta vì những chúng sinh ác ở đời sau nói về pháp quán Bạch Hào Tướng Đại Tuệ Quang Minh Tiêu Ác. Nếu có người tà kiến, ác rất nặng nghe đầy đủ tướng mạo phép quán này mà sinh lòng sân hận thì không có điều đó. Giả sử có sinh sân hận thì ánh sáng tướng Bạch Hào cũng lại che chở hộ trì. Tạm nghe lời nói đó thì trừ được ba kiếp tội, chỗ sinh thân sau là sinh ra vào đời có Phật. Như vậy đủ chủng loại trăm ngàn ức thứ cảnh giới ánh sáng vi diệu của các quán, chẳng thể nói hết, khi niệm Bạch Hào tự nhiên sinh ra. Quán như đây thì gọi là Chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán trán rộng bằng phẳng ?

– Tướng trán rộng bằng phẳng có hai vừng ánh sáng. Vách ngăn vừng ánh sáng với ngàn nan hoa, trục, vành thành ngọc Ma ni, hình dạng như bức họa của trời Tỳ Nựu Yết Ma. Ở trong bức họa tuông ra ánh sáng màu vàng thượng diệu đến nhập vào Bạch Hào, nhiễu quanh Bạch Hào bảy vòng. Bên trên nó vào trong lỗ các lông trên trán cho đến trong các sắc tướng của mép tóc, rồi uyển chuyển rũ xuống đến vành tai. Bên trên nó tan vào tóc, nhiễu quanh tóc bảy vòng. Từ xương sọ mọc ra tướng hoa sen vòng quanh phía trước tròn xoe, bảy vòng bảy họa phân minh. Bức họa có bảy sắc, mỗi sắc sinh bảy hoa, mỗi hoa có một đức Phật với bảy vị Bồ tát làm thị giả, cung kính vây quanh, xoay về bên phải mà di chuyển. Như vậy ba tướng trán rộng bằng phẳng là : tướng mép tóc, tướng các lỗ chân lông trên đầu, tướng trong não. Trong não cũng có mười bốn ánh sáng hiện bên trong các mạch mà trong ngoài đều suốt thông minh hiển đáng yêu. Chúng tuông ra ánh sáng trắng xen lẫn màu hồng tía. Màu sắc ấy vi tế từ xương sọ phát ra, cũng vòng quanh phía trước ba vòng. Mỗi một bức họa có một đức Phật ngồi, có hai vị Bồ tát làm thị giả, càng thêm minh hiển hơn trước bội phần.

Sao gọi là quán tướng my (mày) của Như Lai ?

– Hai my phải trái, hình như trăng non. Từ đường cong sinh ra những sợi lông, nhiều ít tùy theo chỗ thay đổi của hình trăng non. Màu sắc những lông ấy đẹp xanh biếc, Đầu lông xanh biếc mà sắc sáng vi diệu của lưu ly không sánh được. Ánh sáng hai my lướt tan vào những sợi tóc. Đã vào tóc rồi thì lên đến ngọn tóc. Ánh sáng khởi lên thì màu sắc của ong xanh, Khổng tước (con công) không so cùng loại được. Chúng giống như vết mực đen sánh với ánh sáng của lưu ly. Rồi ánh sáng ấy buông xuống theo xương sọ mà phát ra, xoay về bên phải uyển chuyển sáng nhiễu quanh bốn vòng. Trong mỗi một vòng hiện ra một hóa Phật, có hai vị Bồ tát và hai vị Tỳ kheo hầu hạ phải trái. Những vị ấy đều đứng trên tua của hoa sen, sáng rỡ đáng yêu hơn trước bội phần. Ba vạch dưới my và trong vành mắt lại sinh ra bốn luồng ánh sáng xanh vàng đỏ trắng, hướng lên trên ra vào trong xương sọ và ra khỏi đầu lông mày cũng như pháp trước. Rồi những ánh sáng màu ấy từ xương sọ phát ra nhiễu quanh bốn vòng sáng với bốn màu phân minh. Màu vàng có hóa Phật thân màu hoàng kim. Màu trắng có hóa Phật, thân màu bạc trắng (bạch ngân). Màu xanh có hóa Phật, thân màu vàng ròng. Màu đỏ có hóa Phật, thân màu xa cừ. Như vậy xoay về bên phải, lại thêm sáng rỡ hơn trước bội phần.

Sao gọi là tướng lông mi mắt của Như Lai ?

– Lông mi mắt của Như Lai, trên và dưới đều mọc ra năm trăm sợi lông mềm mại, đáng yêu như tua của hoa Ưu Bát. Ở đầu những sợi lông ấy tuông ra một luồng ánh sáng như màu pha lê nhập vào mọi tướng ở trước. Trong màu ánh sáng vòng quanh đầu một vòng, rồi từ xương sọ phát ra vây quanh ánh sáng trước và mọc ra thuần là những hoa sen xanh vi diệu. Trên đài hoa sen có bảo cái màu xanh và có vị Phạm Thiên Vương, tay cầm bảo cái đó. Khi hiện tướng này thì mắt của Phật trắng xanh, trắng hơn cả báu trắng trăm ức vạn lần, xanh thì xanh hơn cả hoa sen xanh và lưu ly xanh biếc trăm ức vạn lần, trên dưới đều nhìn thấy được như mắt của Ngưu vương. Đuôi nheo đôi mắt phát ra hai luồng ánh sáng rất là vi tế như hoa sen xanh, vòng quanh tóc một vòng rồi theo xương sọ phát ra chói sáng các hoa khiến cho hoa nở rộ, ánh sáng càng thêm hiển hiện. Tướng vô lượng công đức thù thắng như vậy gọi là mắt của Như Lai. Nếu có người muốn quán mắt của Như Lai thì phải quán theo pháp quán này. Người quán theo pháp quán này mà diệt trừ được các ác, nhắm mắt ngồi ngay chánh quán mắt Phật từ một ngày đến bảy ngày thì ở đời vị lai thường được thấy Phật, nhất định chẳng mù tối, cũng chẳng sinh ra ở chỗ biên địa tà kiến không có Phật pháp, tuệ nhãn luôn mơ chẳng sinh ngu si.

Đức Phật bảo với Phụ vương :

– Vậy nên kẻ trí vì trừ mù tối thì phải quán tưởng mắt Phật. Phật có năm mắt. Trong phép quán này, trước hết nói về ánh sáng minh tịnh của nhục nhãn. Ích lợi của lòng quán tưởng mắt Phật là sinh ra cảnh giới chẳng thể nói đủ được. Quan sát kỹ mắt Phật với chút ít thời gian và quán tưởng mắt tượng Phật thì trong đời vị lai trải qua năm chỗ sinh ra, mắt thường minh tịnh, nhãn căn (cơ quan của mắt) không bệnh, trừ được tội sinh tử của bảy kiếp.

Đức Phật bảo ngài A-nan, lệnh cho những bốn chúng rằng :

– Hãy siêng năng quán tưởng mắt Phật ! Hãy thận trọng chớ ngưng bỏ ! Người quán mắt Phật ắt được vô lượng công đức vi diệu. Mép tóc trán rộng và tóc xoắn hoa văn, vành mắt, mi mắt, lông nheo, vạch mắt…. Những tướng sáng như vậy.v.v… nếu người tạm nhìn thấy thì trừ được tội sinh tử của sáu mươi kiếp, nơi sinh ra ở đời vị lai nhất định thấy đức Di Lặc, được uy quang của một ngàn đức Phật ở kiếp Hiền ủng hộ, lòng như hoa sen mà không chấp trước, nhất định chẳng rơi vào ba đường tám nạn. Nếu ngồi quán tưởng mà chẳng thấy thì phải vào tháp quán tưởng. Khi vào tháp quán cũng phải quán tưởng những ánh sáng này. Phải chí tâm chắp tay quì gối quan sát kỹ càng, từ một ngày đến ba ngày, lòng chẳng thác loạn thì sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu suất, diện kiến đức Bồ tát Di Lặc sắc thân đoan nghiêm, ứng cảm hóa đạo. Đã được thấy rồi thì thân tâm hoan hỉ, vào Chính Pháp Vị (địa vị).

Đức Phật bảo với Phụ vương :

– Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

***

PHẨM THỨ BA: QUÁN TƯỚNG

III- Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Phụ vương ! Sao gọi là quán tai Phật ? Tai Phật có trái tai thòng xuống xoắn lại, sinh ra bảy vòng lông và mọi tướng. Khi sinh ở Vương cung, lần đầu xỏ lỗ tai khiến cho trong, ngoài hai lỗ tai sinh ra hoa. Trong hoa sen này và bảy vòng lông tai tuông ra những ánh sáng có năm trăm luồng, mỗi luồng có năm trăm màu, mỗi màu hiện ra năm trăm hóa Phật, mỗi hóa Phật có năm Bồ tát và năm Tỳ kheo làm thị giả, vòng quanh ánh sáng xoay về bên phải năm vòng, trên dưới ngang bằng, ánh soi tai Phật. Tai Phật đáng yêu như hoa sen báu treo dưới ánh sáng mặt trời. Khi đức Phật tại thế, tất cả đại chúng đều thấy tướng đó. Đó gọi là ánh sáng sắc tướng tai Phật – Đức Phật nói với vua cha – Nếu bốn bộ chúng xa lìa rối rắm ồn ào, chánh niệm suy nghĩ tướng tai Phật thì những người này sinh ra được nhĩ căn thanh tịnh, không có những dơ bẩn, tai luôn được nghe mười hai bộ kinh Vô Thượng nhiệm mầu, nghe rồi tín giải, theo đúng lời nói tu hành, trừ diệt được tội sinh tử của tám mươi kiếp. Nếu người chẳng thấy thì như trước, vào tháp quán tưởng kỹ tai của tượng Phật từ một ngày đến mười bốn ngày rồi cũng được công đức như đã nói. Vậy nên người trí phải siêng tu tập chánh quán tai Phật, chớ nên phế bỏ. Nếu khi bệnh khổ, tựa nghiêng nằm nghỉ cũng phải quán tưởng tướng tai Phật thanh tịnh. Như vậy quán tưởng tai tượng Phật như sự quán tưởng trước, lòng chẳng giải đãi thoái lui thì ở chỗ sinh thân đời sau cũng thường được cùng với người Đà la ni làm quyến thuộc, nghe pháp ghi nhớ trì niệm ví như xâu ngọc. Quán như vậy thì gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là quán.

Sao gọi là quán tướng Phương Giáp Xa của Như Lai ? Trong sáu vạch trên má của Như Lai, trái phải ngang bằng nhau, có sắc ánh sáng vi diệu, sáng đẹp bội phần má thường. Màu ánh sáng của vàng Diêm Phù Đàn soi khắp khiến cho tướng mặt đức Phật như màu vàng ròng, ví như hòa hợp trăm ngàn mặt trời mặt trăng. Đó gọi là tướng Phương Giáp Xa của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật ràng buộc ý niệm suy nghĩ, tác khởi sự quán tưởng đó thì trừ diệt tội sinh tử của một trăm kiếp, diện kiến các đức Phật tỏ rõ không nghi ngờ. Người quán như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là tướng Sư tử ngáp của Như Lai ? Khi Phật há miệng thì như miệng của vua sư tử, vuông vức bằng phẳng. Hai bờ mép của miệng tuông ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy màu vàng vượt hơn ánh sáng trước trăm ngàn vạn lần, lên trên vào ánh sáng của tai, vây quanh tóc. Rồi từ xương sọ phát ra vây quanh vầng sáng phía trước. Trong mỗi một vạch sáng có ba vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có hai vị Phạm vương làm thị giả. Đó gọi là tướng Sư tử ngáp của Như Lai. Sau khi Phật diệt đô, bốn bộ đệ tử tác khởi sự quán tưởng đó thì trừ diệt tội sinh tử của mười kiếp. Thân sau sinh ra, trong miệng luôn luôn có hương thơm hoa Ưu Bát, nói ra điều gì mọi người đều tín thọ, ví như trời Đế Thích được sự tin dùng của tất cả ba mươi ba tầng trời. Người quán như vậy gọi là Chánh quán nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng mũi của Như Lai ? Mũi của Như Lai cao dài mà thẳng đứng với diện môn. Đầu mũi của Như Lai như mỏ của vua chim ưng. Lỗ mũi tuông ra hai luồng ánh sáng chiếu lên, rót xuống. Chiếu lên thì lên vào tướng Bạch Hào của mi mắt, mép tóc. Như vậy đi thẳng vào đỉnh xương nhục kế, ví như kim tràng. Rồi từ xương sọ phóng ra biến thành những hoa. Trên hoa đều có những thần âm nhạc nhà trời, tay cầm nhạc khí, vào khắp chỗ tất cả các vị hóa Phật làm người dẫn đường theo ánh sáng nhiễu quanh mười vòng. Xuống thì rót thẳng đến trong râu mép của Phật, vây quanh râu mép khiến cho rễ râu mép nở hoa như hạt gạo nhỏ, chảy vào môi lợi đến vùng răng ánh đẹp yết hầu. Nó xuống đến ngực Phật thành vừng mây ánh sáng, lộ bày thanh tịnh, không có bụi che khuất như đồ bằng lưu ly đựng ánh lửa vàng. Đó gọi là tướng mũi chân tịnh của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì diệt trừ ác nghiệp rất nặng của một ngàn kiếp, nở nơi sinh đời đương lai nghe được mùi thơm thượng diệu, tâm ý tỏ rõ chẳng tham trước mùi thơm, thường dùng hương thơm của giới (giới hương) làm chuỗi ngọc cho thân mình. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán râu mép của Như Lai ? Đầu những sợi râu mép mở bày ba luồng ánh sáng tía, xanh biếc, hồng thẳng từ mép miệng xoay quanh cổ chiếu lên, ánh sáng tròn vây quanh tạo thành ba luồng, những luồng ấy phân minh. Trong màu sắc trên thì mỗi một luồng sinh ra một viên ngọc báu. Ánh sáng của viên ngọc ấy có trăm ngàn sắc màu. Dưới ngọc, từng cây từng cây hoa trắng đứng với nhau, đủ ba vòng rồi nhiên hậu ánh sáng đó trở lại vào trong râu mép. Đó gọi là tướng ánh sáng râu mép của Như Lai. Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng theo phép quán đó thì trừ được tội sinh tử của ba mươi kiếp. Thân sau sinh ra thì các lỗ chân lông có ánh sáng tự nhiên, lòng chẳng ưa tham trước niềm vui của gia cư, quyến thuộc, thế gian, thường ưa xuất gia tu hạnh đầu đà. Người quán như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng môi màu đỏ đẹp như quả Tần Bà của Như Lai. Ở môi trên môi dưới cùng với lợi răng hòa hợp phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy tròn xoe giống như trăm ngàn xâu trân châu đỏ, từ miệng Phật phát ra, đi vào mũi Phật, rồi từ mũi Phật ra, đi vào Bạch Hào. Từ Bạch Hào ra, đi vào những vùng tóc. Từ vùng tóc ra, đi vào trong vừng sáng tròn, ánh lên làm đẹp các hoa. Bốn mươi cái răng trong miệng in lên sinh ra ánh sáng. Ánh sáng hồng trắng ấy chiếu sáng lẫn nhau, soi đến bốn mươi cái răng khiến cho bốn mươi chân răng tự nhiên bằng đều, trắng như vách pha lê, trên dưới bằng phẳng không so le. Vạch hoa văn hàm răng tuông ra những luồng ánh sáng cũng màu hồng trắng. Những sắc màu như vậy, khi Phật tại thế ánh chói mắt người. Sau khi Phật diệt độ phải dùng tâm nhãn quan sát để thấy màu này. Các đệ tử của Phật tác khởi sự quán tưởng này thì trừ được tội sinh tử của hai ngàn kiếp, thân sau sinh ra có môi miệng vi diệu, răng không sứt mẻ, được màu sắc cao trong các sắc. Tuy được màu sắc cao đó mà lòng chẳng tham trước. Thường thấy các đức Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, được những vị ấy nói pháp khiến cho lòng chẳng nghi hoặc. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng Quảng Trường Thiệc của Như Lai ? Lưỡi của Như Lai chính là quả báo có được của mười Ba la mật và mười thiện. Dưới căn của lưỡi ấy và hai bên lưỡi có hai viên ngọc báu rót dòng cam lồ làm thấm ướt lên thiệc căn. Chư thiên, người đời, Bồ tát Thập Địa không có tướng lưỡi này, cũng không có vị này. Trên lưỡi có năm vạch như hoa văn của bảo ấn. Như mùi vị trên đây vào trong hoa văn bảo ấn, rồi rót chảy lên, xuống vào ống lưu ly. Những khi Phật cười làm lay động cái lưỡi ấy thì do sức của vị này nên lưỡi phát ra năm luồng ánh sáng với năm màu phân minh, chúng nhiễu quanh Phật bảy vòng, trở lại theo đỉnh đầu mà vào. Khi Phật đưa lưỡi ra thì như cánh hoa sen, lên đến mép tóc, che trùm cả mặt Phật. Bên dưới lưỡi cũng có những mạch máu đủ sắc màu. Như vị (mùi) trên này rót chảy vào trong mạch thì nhờ sức của vị ấy nên biến thành những luồng ánh sáng, có mười bốn màu. Hai luồng ánh sáng chiếu lên vô lượng thế giới. Mỗi một luồng ánh sáng có một quang đài mà màu sắc của nó vi diệu chẳng thể nêu tên đủ. Mỗi một quang đài có vô số khám thờ Phật. Trong mỗi một cái khám có vô lượng hóa Phật ngồi kiết già với Thanh văn Bồ tát, tất cả đại chúng đều vây quanh. Ánh sáng ấy qua khỏi vô lượng thế giới ở thượng phương, hóa làm một vị Phật. Thân đức Phật cao hiển như núi Tu di.Những đức Phật như vậy, số ấy nhiều không lường, đều phát xuất tướng lưỡi cũng lại như vậy. Hai luồng ánh sáng chiếu xuống đến ngục A tỳ thì khiến cho ngục A tỳ như màu hoàng kim. Nhờ sức lưỡi của Phật nên khiến cho người thọ khổ tạm được ngưng nghỉ, tự cảm khái việc làm ác của đời trước. Như vậy xuống qua khỏi thế giới nhiều không lường. Trong mỗi một cõi hóa ra một cây hoa báu mà lá như lưỡi của Phật. Tướng lưỡi phóng ra ánh sáng. Rồi ánh sáng và ánh sáng soi chiếu nhau biến thành hóa Phật. Thân của hóa Phật ấy thuần một màu trắng bạc, với tướng đầy đủ. Mỗi một hóa Phật phát ra lưỡi dài rộng, trong ánh sáng tướng lưỡi lại có các hóa Phật. Những hóa Phật như vậy, số ấy nhiều không lường. Ánh sáng của hóa Phật tạo thành một núi bạc. Núi ấy cao lớn vô lượng vô biên. Ở vùng núi ấy sinh ra thuần một loài cây bạc cho hoa vàng và trái bạc. Dưới cây đều có hoa sen bạch ngọc. Trên hoa lại có hóa nhân bằng bạch ngọc. Trong rốn người ngọc hóa sinh ra sáu con rồng, miệng rồng màu đen, sắc rồng thuần màu trắng. Số người ngọc hóa ra đó nhiều không lường. Lại nữa, ánh sáng soi xuống qua vô lượng cõi, thấy cây Bạch ngọc, từ hạ phương ra đến cõi Ta Bà, rồi lại um tùm vươn lên đến đỉnh của ba cõi với cành nhánh rậm, thưa. Lá của cây ấy có màu sắc với những chín mươi tám màu. Mỗi một lá cây che khắp ba cõi. Vùng những lá cây ấy lại có rồng, voi, cọp, chó soi, sư tử, trùng độc, thú ác, mèo, chồn, chuột nhắt… không việc gì chẳng có. Còn cảnh giới khác, người ngồi tự thấy, thấy một luồng ánh sáng chiếu về phương Đông khiến cho đất ở phương Đông đều trở thành màu vàng. Núi sông cây cối, tất cả bị lửa đốt. Ánh sáng của lửa cháy và ánh sáng màu vàng đều chẳng chướng ngại nhau. Ở đầu luồng ánh sáng có các vị hóa Phật. Từng vị Phật, từng vị Phật kế tiếp nhau cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông, giống như dé lúa, cành mè không rỗng khuyết. Mỗi vị Phật đều có vô lượng Bồ tát làm thị giả. Những vị Bồ tát đó cũng phát ra tướng lưỡi cùng với đức Phật ngang bằng. Ánh sáng không lường của tướng lưỡi như vậy hóa thành đám mây ánh sáng. Ở trong đám mây ánh sáng, có vô lượng vị hóa Phật ngồi kiết già nhiều như vi trần. Số ánh sáng như vậy nhiều không lường. Ở đầu mỗi ngọn lửa cháy có năm con quỉ dạ xoa, tay cầm kiếm bén, đầu có bốn miệng hút lấy lửa mà chạy. Số quỉ như vậy nhiều không lường, cho đến phương Đông cũng lại như vậy. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Nam đến vô lượng thế giới khiến cho thế giới ấy trở thành màu lưu ly. Trên đất lưu ly sinh ra hoa hoàng kim. Trên hoa hoàng kim sinh ra hoa mã não. Trên hoa mã não sinh ra hoa xa cừ. Trên hoa xa cừ sinh ra hoa mai khôi. Trên hoa mai khôi sinh ra hoa hổ phách. Trên hoa hổ phách sinh ra hoa san hô. Trên hoa san hô sinh ra hoa Kim tinh. Trên hoa Kim tinh sinh ra hoa Kim cương. Trên hoa Kim cương sinh ra hoa Ma ni quang. Mỗi một cánh hoa Ma ni quang có trăm, ức hoa báu với vô lượng sắc màu. Mỗi một tua hoa có vô lượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kiết già với đại chúng Bồ tát vây quanh. Lúc này, trong lỗ chân lông của thân mình các đại chúng cũng mọc ra hoa này. Trên mỗi một hoa hiện ra việc hy hữu cũng như trên đã nói. Các vị hóa Phật đó phát ra tướng Quảng Trường Thiệc, thị hiện ánh sáng thắng hơn tướng đó gấp trăm ngàn vạn lần. Ở chỗ hoa ấy có diệu bảo tòa cao hiển đáng yêu như giường của vua Phạm. Trên mỗi một tòa có vị đại Bồ tát, thân tướng đoan nghiêm giống như đức Di Lặc, cũng phát ra tướng Quảng Trường Thiệc. Ánh sáng của lưỡi ấy tạo thành lưới ngọc Ma ni che các vị hóa Phật và đại chúng. Vùng lưới ngọc Ma ni lại phát ra ánh sáng báu lớn. Luồng ánh sáng báu ấy lại có vô lượng vô biên vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật đều có vô số vị Tỳ kheo theo hầu. Các vị Tỳ kheo ngồi trên hoa sen vàng, thân màu hoàng kim, an thiền, chắp tay nhập vào Niệm Phật định. Các lỗ chân lông của thân họ phóng ra ánh sáng màu vàng. Mỗi một ánh sáng này hóa thành một vị hóa Phật giống như núi vàng, vây quanh Tỳ kheo. Rồi có hóa Tỳ kheo cũng vây quanh đức Phật. Số chúng như vậy nhiều chẳng thể nói. Một luồng sáng chiếu đến phương Tây, khiến cho đất phương Tây trở thành màu pha lê. Trên đất Pha lê có mây Kim cương. Trong mây Kim cương có mây bạch bảo. Trong mây bạch bảo có mây trân châu đỏ. Trong mây trân châu đỏ có mây trân châu trắng. Trong mấy trân châu trắng có mây trân châu tía. Trong mây trân châu tía có mây trân châu lục. Trong mây trân châu lục có mây trân châu hồng. Trong mây trân châu hồng có mây cát vàng Diêm Phù Đàn. Trong mây cát vàng có mây bụi Kim cương Ma ni. Trong mây bụi Kim cương Ma ni có mây bụi tất cả màu báu. Trong mỗi một đám mây như vậy, có năm mươi sáu ức màu sắc vi diệu tươi đẹp vượt quá tầm nhìn của mắt, chỉ có tâm tịch tịnh mới có thể cùng với đây ứng hợp. Các tướng như vậy lại có vô lượng hóa Phật nhiều như vi trần. Mỗi một hóa Phật có vô lượng những đệ tử nhiều như vi trần. Các vi trần chẳng lớn, các đức Phật chẳng nhỏ, nhưng đoan nghiêm vi diệu như Phật Thích Ca Văn, cũng phát ra tướng lưỡi. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Bắc khiến cho đất phương Bắc trở thành màu xa cừ. Trên đất xa cừ có tháp Kim cương. Mỗi một tháp Phật với trăm ngàn diệu pháp vây quanh, số tháp ấy nhiều không lường. Ngôi tháp cực nhỏ thì cao năm mươi ức nadotha do tuần. Trong mỗi một ngôi tháp lại có trăm ức khám thờ, hang động nhiều như vi trần. Trong mỗi một hang có vô lượng vô biên nước màu sắc báu tự nhiên trào ra. Trên mặt nước đó có hoa sen lớn nở, hiện ra ánh sáng. Khi ánh sáng ấy hiện ra thì tỏa mùi thơm vi diệu hơn mùi thơm của Hải Thử Ngạn Chiên Đàn trăm ngàn vạn lần. Hương thơm đó biến làm ánh sáng vi diệu. Trong những ánh sáng có các vị hóa Phật với thân sắc vi diệu. Trên hết trong các báu là tất cả mọi báu sinh ra từ tướng lưỡi. Đồng thời mỗi một hang có vô lượng ánh sáng, mỗi một ánh sáng có vô lượng hóa Phật, mỗi một hóa Phật lại phát ra vô lượng ánh sáng của tướng lưỡi, cũng trở thành tháp hương thơm. Qua khỏi vô lượng thế giới chẳng thể cùng tận của phương Bắc cũng chỉ sinh ra từ Niệm Phật Tam Muội Hải. Một luồng ánh sáng chiếu về phương Đông Nam khiến cho đất phương Đông Nam thành màu mã não. Trên đất mã não có núi hổ phách. Trên núi hổ phách sinh ra rừng bảy báu. Khu rừng bảy báu có mười suối nước. Nước mười suối có màu sắc báu. Màu sắc của nước phóng ra ánh sáng soi khắp phương Đông Nam đến vô lượng thế giới. Chỗ soi rọi của ánh sáng có núi báu lớn. Bên dưới mỗi một cây của mỗi một vùng núi mọc ra hoa mạn đà la, hoa Đại mạn đà la. Ở trên đài hoa có một hóa Phật thuần một màu pha lê, trong ngoài trong suốt, chẳng thể gọi tên đầy đủ được. Có ánh sáng đủ thứ báu vây quanh thân Phật hàng ngàn vòng. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có vô lượng đại chúng đều là màu lưu ly vây quanh. Mỗi một vị hóa Phật phát ra ánh sáng tướng lưỡi, hóa thành núi báu. Núi báu như vậy lại qua khỏi vô lượng thế giới ở phương Đông Nam.

Một luồng ánh sáng chiếu sáng hướng Tây Nam đến vô lượng thế giới khiến cho đất của phương Tây Nam thuần một màu san hô. Trên đất san hô sinh ra lầu ngọc bích, ngôi lầu rất thấp thì đã cao đến năm mươi ức do tuần. Lầu có một ức cây trụ. Mỗi một cây trụ này có trăm ức màu sắc báu. Mỗi một báu phóng ra vô số ánh sáng. Mỗi một ánh sáng này hóa làm vô lượng ngàn ức cây báu. Dưới mỗi một cây báu có sáu suối nước. Nước của suối ấy theo rễ cây vào, rồi theo nhánh cây ra. Khi nước chảy ra có sáu màu sắc báu. Trong mỗi một dòng nước mọc ra một hoa sen. Hoa ấy tươi trắng, trên hoa lại có một vị hóa Phật trắng. Thân của vị Phật ấy trắng vượt qua tất cả. Trên sắc trắng có năm trăm sắc ánh sáng vi diệu vây quanh thân Phật. Mỗi một ánh sáng hóa ra vô số đức Phật. Mỗi một hóa Phật có vô số Bồ tát. Các cây trụ của lầu các đều phóng ra ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số vị hóa Phật. Vị hóa Phật màu xanh thì ở tại trên đất san hô mà kinh hành. Vị hóa Phật màu trắng thì ở tại trên lầu ngọc xanh mà kinh hành. Lầu các, nhà, khám thờ đều có vô số hóa Phật như vậy, cũng phát ra tướng lưỡi, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng vi diệu ấy soi về phương Tây Nam vô lượng thế giới, chẳng thể cùng tận.

Một luồng ánh sáng soi đến phương Tây Bắc khiến cho phương Tây Bắc trở thành đất hổ phách. Ở trên đất hổ phách sinh ra núi trân châu. Trên núi trân châu có cây san hô, lá bạch ngọc, hoa Ma ni, trái hoàng kim, tua Kim tinh. Dưới cây tự nhiên có con sư tử lớn, thân bằng bảy báu. Trong mắt sư tử phóng ra ánh sáng lớn soi vào đất hổ phách khiến cho đất hổ phách mọc ra một hoa sen lớn. Chu vi của hoa ấy vô lượng vô biên. Trên mỗi một hoa có mây ánh sáng, mây ấy màu tía. Trên đám mây ấy có lưới trân châu màu xanh. Vùng lưới trân châu mọc ra hoa sen vàng. Trên hoa sen vàng có một vị hóa Phật thân màu vàng tía với ánh sáng màu xanh vàng đỏ trắng vây quanh. Trong mỗi một ánh sáng có vô số hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có vô lượng đại chúng. Các vị hóa Phật đó phát ra tướng Quảng Trường Thiệc cũng lại như vậy. Như vậy soi khắp vô lượng thế giới phương Tây Bắc, ánh sáng tướng lưỡi chẳng thể cùng tận.

Một luồng ánh sáng chiếu sang phương Đông Bắc khiến cho đất phương Đông Bắc thuần một màu Kim cương. Ở trên đất Kim cương mọc ra hoa do bảy báu hợp thành. Trên hoa sinh ra “tràng” màu vàng Diêm Phù Đàn. Đầu tràng có hoa, hoa ấy có vô lượng trăm ngàn bảo sắc, có vô số cánh. Mỗi một cánh hoa hóa làm vô lượng trăm ngàn bảo trướng. Mỗi một góc bảo trướng có tràng thất bảo. Đầu mỗi một tràng có bảo cái bảy báu. Bảo cái ấy che trên đất phương Đông Bắc, tất cả thế giới. Mỗi bảo cái có năm tràng phan làm thuần bằng hoàng kim. Mỗi tràng phan có vạn ức vô lượng chuông báu nhỏ. Chuông báu nhỏ phát ra âm thanh vi diệu tán thán danh hiệu Phật, khen ngợi lễ Phật, khen ngợi niệm Phật, khen ngợi sám hối… Phát ra những âm thanh đó rồi, bảo trướng hạ xuống đất, ánh sáng lớn tuông ra. Ánh sáng ấy vi diệu nhiều vô số ngàn ức. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng vị hóa Phật ngồi kiết già, ngồi bên trong bảo trướng mà có thân vọt lên trụ ở trong hư không. Đông vọt lên Tây lặn mất, Tây vọt lên Đông lặn mất, Nam vọt lên Bắc lặn mất, Bắc vọt lên Nam lặn mất, bên vọt lên giữa lặn mất, giữa vọt lên bên lặn mất. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không. Từ lớn lại hiện thân nhỏ như hạt cải. Ở trong hư không đi đứng ngồi nằm, trên thân tuông ra nước, dưới thân phát ra lửa, dưới thân tuông ra nước, trên thân phát ra lửa, đi trên đất như trong nước, đi trong nước như trên dất. Trong nước mọc lên hoa sen lớn như bánh xe, trên hoa có vị Phật ngồi kiết già. Hóa Phật nhiều vô lượng vô biên như vậy đồng thời thấy Phật vọt thân lên không trung làm mười tám pháp biến. Trên lửa sinh ra một ngọn núi Tu di vàng với tinh tú, mặt trời, mặt trăng, bảy báu trang nghiêm, các rồng, dạ xoa và nước biển lớn. Nhiều núi Tu di như vậy, bên trái bên phải tất cả đều xuất hiện. Số những núi như vậy nhiều không lường, đỉnh núi có Phật cũng phát ra tướng lưỡi mà ánh sáng tướng lưỡi soi khắp vô lượng thế giới ở phương Đông Bắc, chẳng thể cùng tận.

Một luồng ánh sáng chiếu từ cung điện Tứ Thiên Vương ở cõi Diêm Phù Đề, khiến cho Tứ Thiên Vương đều thấy đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, mặt trời của loài người, đang cưỡi đai thất bảo cùng các đại chúng đi lên cõi trời đó. Chư thiên đã thấy đều phát tâm Bồ đề. Thậm chí tất cả chư thiên của cõi Vô Sắc đều thấy tướng đó tỏ rõ phân minh, lòng không lẫn lộn khiến cho trời Vô Sắc chẳng bài báng Niết bàn và khởi lên tư tưởng Bồ đề.

Một luồng ánh sáng soi xuống các A tu la, các Dạ xoa, các Càn thát bà, các Ca Lâu la, các Khẩn na la, các Ma hầu la già, các rồng, các La sát, các Phú đơn na, các Kim tỳ la, các quỉ nuốt tinh khí của người, các Cưu bàn trà, các Kiết già, các quỉ Khoáng dã, các quỉ đói, các quỉ ăn đồ ói ra, các quỉ ăn nước mũi nước dãi, các quỉ ăn mủ máu, các quỉ ăn phân nước tiểu, các thần núi, các thần cây, các thần nước… Ngần ấy trăm ngàn các quỉ thần như vậy.v.v… thân của họ tạm thời trở thành sắc thân của trời mềm mại vui sướng ví như vị Tỳ kheo vào thiền thứ ba. Những quỉ đó đều tùy theo nghiệp hành tự phát ba thứ tâm Bồ đề. Các quỉ đói khi gặp ánh sáng của tướng lưỡi thì giống như nước lạnh tiêu diệt, tiết giản lửa. Lửa đã diệt rồi, nước đồng rơi xuống đất, bị vùi lấp thẳng vào đất. Những quỉ đói đều há miệng kêu lên rằng : “ Đói ! Đói !”, ở hàng ngàn vạn năm chẳng từng thấy nước. Hôm nay, chúng thấy nước này thì tiêu trừ hết nóng nảy, trở nên mát mẻ. Đó là do sức của ai vậy ? Ở trong không có tiếng nói rằng : “ Hỡi loài quỉ đói ngu si ! Có đức Phật Thế Tôn phóng ra ánh sáng của lưỡi ! Ánh sáng ấy chiếu đến các ngươi khiến cho sự khổ độc của các người đều được ngưng nghỉ. Nói lời nói đó rồi thì trước mỗi một quỉ nhìn thấy một người mẹ từ ngồi trên đài hoa sen. Ví như từ mẫu ôm giữ đứa trẻ con cho uống sữa khiến cho quỉ no đủ. Đã no đủ rồi thì phát tâm Bồ đề. Đã phát tâm rồi thì mỗi một từ mẫu hóa thành một đức Phật. Mỗi một đức Phật cũng phóng ra tướng lưỡi, cứu các quỉ đói. Đức Phật nhiếp lấy tướng lưỡi. Ngàn sắc ánh sáng này nhiễu quanh Phật ngàn vòng. Ánh sáng có một ngàn đức Phật theo đỉnh Phật mà vào. Vào rồi thì thân Phật trang nghiêm hiển hiện ba mươi hai tướng tốt với tám mươi vẻ đẹp theo hình đều minh diệu, khắp thân thể phát ánh sáng chói lòa rực rỡ hơn cả trăm ngàn vô số ức mặt trời – Đức Phật nói với Phụ vương – Tướng lưỡi và công đức lưỡi của Như Lai… việc quán cảnh giới lưỡi là như vậy. Sau khi Phật diệt độ, lòng niệm Phật, quan sát linh lợi lưỡi Phật mà cảnh giới tâm nhãn đúng như vừa nói thì người tác khởi sự quản tưởng đó trừ khử được tội sinh tử của một trăm ức tám muôn bốn ngàn kiếp. Khi xả thân sang đời khác họ sẽ gặp được tám mươi ức đức Phật. Ở chỗ các đức Phật, họ đều thấy tướng Quảng Trường Thiệc của chư Phật phóng ra ánh sáng lớn cũng lại như vậy. Rồi nhiên hậu họ được thọ ký đạo Bồ đề – Đức Phật bảo ngài A-nan – Ông hãy đem lời nói của Phật, đừng cho quên mất, bảo cho các đệ tử, phải chánh thân, chánh ý ngồi ngay thẳng chánh thọ quán tưởng tướng Quảng Trường Thiệc thì như ta tại thế, không có khác. Nếu có chúng sinh nghe lời nói này mà lòng chẳng kinh sợ nghi ngờ, chẳng sinh ra bài báng, chẳng phiền não, niệm Phật, siêng năng tinh tấn niệm Phật và cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Những người như vậy tuy chẳng niệm Phật do thiện tâm mà vẫn trừ khước được nghiệp ác rất nặng của hàng trăm kiếp, chỗ sinh đương lai sẽ gặp Phật Di Lặc… cho đến Phật Lâu Chí, ở chỗ ngàn đức Phật nghe Pháp, nhận sự giáo hóa. Họ sẽ được Quán Phật tam muội như vậy – Đức Phật nói với Phụ vương – Người quán như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tưởng tướng cổ của Như Lai ? – Tướng xương khuyết bồn đầy đặn, tướng chữ Đức ở ức, tướng chữ Vạn ở ngực. Vùng những chữ ấy phát sinh ánh sáng tròn. Tưởng cổ tròn như ống lưu ly, màu vàng đẹp. Trên yết hầu có tướng điểm phân minh giống như chữ Y. Trong mỗi một điểm tuông ra hai luồng ánh sáng. Mỗi một luồng ánh sáng ấy nhiễu quanh vừng ánh sáng tròn trước đầy đủ bảy vòng tạo thành những luồng sáng phân minh. Mỗi một luồng sáng có hoa sen báu diệu. Trên hoa sen ấy có bảy vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có bảy vị Bồ tát làm thị giả. Hai tay của mỗi vị Bồ tát đều cầm ngọc báu Như Ý. Ánh sáng vàng của ngọc ấy đều đầy đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và ma ni, vây quanh trong những luồng sáng như vậy. Đó gọi là tướng cổ Phật phát ra vừng sáng tròn. Hoa văn chữ Đức, trong ấn chữ Vạn ở ngực, tướng khuyết bồn đầy đặn, tướng ngọc dưới nách… trong những tướng đó, cứ mỗi một thắng tướng có năm trăm ánh sáng màu xen màu. Những tướng ấy chói sáng, đều chẳng phương hại nhau. Mỗi một ánh sáng màu vây quanh ánh sáng cổ đủ năm trăm vòng. Trong mỗi một luồng sáng có năm trăm vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có năm trăm vị Bồ tát làm thị giả, năm trăm vị Tỳ kheo, tay cầm bạch phất (cây phất trần) đứng hầu tả hữu. Ánh sáng của những vị hóa Phật, ánh sáng của những hóa Bồ tát, ánh sáng của những hóa Tỳ kheo đều hiển hiện ở trong mọi luồng ánh sáng. Núi Đại Tu di, cung vua bốn trời, cung điện chư thiên, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cung rồng, cung thần, cung A tu la, thần núi mười báu, thần nước bốn biển và những Càn thát bà sống dưới nước .v.v… sự tôn kính của các Bà la môn, chín mươi lăm thứ thần tiên dị thuật với những người có nhân duyên thân thuộc, cha mẹ trải nhiều đời… những thần như vậy.v.v… đều hiển hiện ở trong ánh sáng của Phật. Lại có trăm ức vô lượng quỉ thần, hình bóng hiện ánh sáng tròn vì người cõi Diêm Phù Đề nói về việc hiếu dưỡng người thân. Bóng hóa nhân này khi thấy mọi người đều tự nói rằng : “ Ta là cha của ngươi, ta là mẹ của ngươi trong vô lượng đời. Ngươi tên là “mỗ giáp” (tên gì đó), ta tên là mỗ giáp”. Người như vậy nhiều không lường. Đại chúng đều là sự tôn kính của chúng sinh. Việc này ở trong ánh sáng tròn của Phật rõ ràng như bức họa, như soi gương thấy mặt. Những tướng như vậy gọi là vừng sáng tròn vây quanh cổ Phật, bên trên cũng một tầm, xuống dưới cũng một tầm, bên trái cũng một tầm, bên phải cũng một tầm, đủ đầy tám thước. Ở trong vừng sáng tròn tuông ra hóa Phật. Tất cả sự hiếm thấy của chúng sinh đều hiện ở trong đó rõ ràng phân minh. Ở trên vừng sáng tròn có màu vàng rực rỡ như ngọc Ma ni, trang nghiêm hiển hiện đáng yêu. Vùng Ma ni rực rỡ ấy hóa sinh ra cây hoa. Cây ấy màu vàng mà trăm ngàn vạn ức vàng Diêm Phù Đàn chẳng sánh bằng. Dưới mỗi một cây, có hoa sen báu. Trên hoa sen có vị hóa Phật màu chân hoàng kim với táng che bằng lưu ly bên trên đức Phật làm hiển phát kim nhan của Phật tề chỉnh phân minh. Số tượng hóa Phật như vậy nhiều không lường. Khi đức Phật còn tại thế, lúc đức Thế Tôn đi thì ánh sáng này soi vùng đất phía trước một do tuần biến thành thuần một màu hoàng kim, phía sau một do tuần thuần màu hoàng kim, bên trái một do tuần thuần màu hoàng kim, bên phải một do tuần thuần màu hoàng kim. Có người đi gần bên trái, bên phải đức Phật thì mùi xú uế của người ấy đều biến mất hết. Người ở xa nhìn họ thấy đồng là sắc vàng. Khi Phật ngồi dưới cây thì ánh sáng này rực rỡ như mọi hoa vàng tung vào vùng Kỳ thọ. Có người quan sát kỹ ánh sáng cổ Phật, nếu đi trước xem thì thấy Phật ở trước, từ phía sau xem thì thấy Phật ở sau, ở bên trái xem thì thấy Phật ở bên trái, ở bên phải xem thì thấy Phật ở bên phải. Người tám phương lại, từ xa thấy ánh sáng cổ Phật đều nói lên rằng : “ Sa môn Cù Đàm, ở trong núi vàng, du hành tự tại, hướng đến chỗ của ta”. Như vậy mọi người, mỗi mỗi đều thấy khác. Đó gọi là ánh sáng cổ Phật. Khi thấy ánh sáng này thì nhục kế ở đỉnh đầu Phật sinh ra muôn ức ánh sáng. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau cho đến vô lượng thế giới ở thượng phương. Chư thiên, người đời, Bồ tát Thập Địa cũng chẳng thể thấy tóc Phật xoắn về bên phải hoa văn thượng diệu mà màu loài ong xanh biếc và màu lông chim công chẳng thể sánh được. Tóc ấy có hàng ngàn ánh sáng rực rỡ chiếu lên. Khi ánh sáng này chiếu lên thì xương nhục kế và trong đầu Phật, tất cả diệu tướng đều ánh hiện lên hết. Ánh sáng tướng mặt tròn đầy khả ái mà quả báo được diệu hoa của nước thanh tịnh người trời chẳng lấy làm ví dụ được. Ánh sáng mặt Phật lại thêm minh hiển. Ánh sáng cổ Phật, ngực Phật và tay Phật hơn trước bội phần, lại càng minh hiển. Đầu gối phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy màu trắng phân làm bốn chi, theo trên thân mà chuyển hóa làm hoa trắng vào dưới ánh sáng cổ Phật. Rốn phát ra năm luồng ánh sáng, mỗi ánh sáng có hai chi, mỗi chi có năm màu vào trong xương hông như ống bạch ngọc đựng đầy nước màu từ sau hai vai tự nhiên tuông ra, như từng ánh lửa, ánh lửa ma ni vàng chống đỡ nhau. Các ánh sáng ma ni đều có hoa sen vi diệu. Trên mỗi một hoa sen có bảy vị hóa Phật như họa như in, tùy theo thân Phật chuyển đổi chẳng chướng ngại nhau. Nai chúa ngồi xoạc đùi, những vùng xương câu mốc nhau, câu kết rồng cuộn… những khoản giữa như vậy phát ra các ánh sáng vàng. Những ánh sáng này từ một đốt phát ra rồi đi vào vùng một đốt khác, cứ như vậy mà hòa hợp thành một ánh sáng lớn như ngọc Ma ni vàng trụ ở sau khuỷu tay của Phật làm đẹp đến ánh sáng trên đỉnh. Móng tay màu đồng đỏ, màn lưới của ngón chân… mỗi một đều có ánh sáng. Ánh sáng ấy sáng rỡ như lưu ly pha lê với đủ màu bảy báu theo sau bước chân của Phật, xứng đáng gọi thân Phật như ngọc Ma ni. Cũng như ánh sáng trước, những ánh sáng này lên đến vừng sáng tròn. Luân tướng dưới chân và gót chân dài đều sinh ra một hoa. Hoa ấy vi diệu giống như hoa Ưu bát la của đất nước thanh tịnh. Gót chân của Phật sinh ra những ánh sáng vây quanh đầy đủ mười vòng. Từng hoa, từng hoa tiếp theo nhau, trong mỗi một hoa có năm vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có năm mươi Bồ tát làm thị giả. Trên đỉnh đầu mỗi một vị Bồ tát phát sinh ánh sáng ngọc Ma ni. Khi hiện tướng này thì trong mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật trở lại phát sinh tám muôn bốn ngàn những ánh sáng nhỏ, vi tế để nghiêm sức, khiến cho ánh sáng của thân rất là khả ái. Màu sắc đủ thứ như vậy gọi là ánh sáng thường, gọi là ánh sáng vừa ý, cũng gọi là ánh sáng tùy theo sự ưa nhìn thấy của những chúng sinh, cũng gọi là ánh sáng ban cho mắt chúng sinh. Ánh sáng một tầm này, tướng ấy dành cho nhiều người. Còn như Cù Sư La quan sát Phật thì ánh sáng này nhỏ theo. Cho đến các Đại Bồ tát phương khác khi quan sát Phật thì ánh sáng này lớn theo như nói về tạp hoa.

Đức Phật nói với Phụ vương và sắc bảo A-nan rằng:

– Ta nay vì ông thị hiện đầy đủ ánh sáng của thân tướng.

Nói lời đó xong, đức Phật đứng dậy bảo ngài A-nan rằng:

– Ông và các Tỳ kheo cùng những người con họ Thích đều đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, quan sát thật kỹ Như Lai, từ ánh sáng đỉnh đầu xuống đến ánh sáng dưới chân, từ nhục kế đỉnh đầu xuống đến tướng dưới chân bằng phẳng đầy đặn – Đức Phật lại sắc bảo các Tỳ kheo – Lại quan sát từ tướng dưới chân bằng phẳng đầy đặn lên cho đến nhục kế, cũng quan sát ánh sáng cổ, ánh sáng thân của Như Lai – Lại sắc bảo – Hãy quan sát từ mỗi một lỗ chân lông của Phật đến hết từng phần thân thể một. Mỗi một việc quan sát đều phải cho rõ ràng như người cầm gương soi tự quan sát hình dáng mặt của mình. Hoặc có người sinh lòng bẩn ác chẳng lành, hoặc có người hủy phạm cấm giới của Phật thì thấy hình dáng thuần màu đen giống như người bằng than. Trong chúng Thích tử, có năm trăm Thích tử thấy sắc thân của đức Phật giống như người bằng than đen. Trong chúng Tỳ kheo, có một ngàn người thấy sắc thân của đức Phật giống như người bằng đất đỏ. Trong chúng Ưu bà tắc, có mười sáu người thấy sắc thân của đức Phật như chân voi đen. Trong chúng Ưu bà di, có hai mươi bốn người thấy sắc thân đức Phật giống như mực đen tụ lại. Như vậy, bốn chúng mỗi mỗi đều thấy khác nhau. Trong chúng Tỳ kheo ny, có Tỳ kheo ni thấy sắc thân đức Phật như màu bạc trắng (bạch ngân). Trong chúng Ưu bà di có Ưu bà di thấy sắc thân đức Phật như màu xanh lam. Như vậy bốn chúng quan sát sắc thân đức Phật, sự thấy của họ chẳng đồng.

Bốn chúng nghe lời nói đó của đức Phật đều kêu khóc, rơi nước mắt chắp tay bạch đức Phật rằng:

– Chúng con hôm nay chẳng thấy được diệu sắc !

Năm trăm Thích tử tự giựt tóc trên đầu lên, toàn thân gieo xuống đất, máu trong mũi tuông ra, thưa rằng :

– Đức Phật sinh ra trong gia đình chúng con. Lúc đức Phật sơ sinh mọi người đều thấy thuần một màu hoàng kim, chỉ có chúng con luôn luôn thấy thân đức Phật giống như người bằng than đen, cũng như các Bà la môn còm cõi gầy yếu. Chúng con đời trước có tội lỗi gì ? Nguyện xin đấng Mặt trời Phật vì chúng con giải nói cho!

Nói lời nói đó rồi, tự giựt tóc trên đầu lên, gào khóc như trước, uyển chuyển tự đánh đập mình. Lúc đó, đức Từ Phụ phát ra tiếng Phạm âm an ủi các Thích tử và những bốn chúng rằng :

– Này các thiện nam tử ! Mặt trời Như Lai Phật xuất hiện ở thế gian chỉ vì trừ diệt tội lỗi cho các ngươi. Các ngươi hãy đứng dậy đi ! Phật tự biết lúc phải vì các ngươi nói rồi.

Khi đó, đại chúng đứng dậy rồi đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng, làm lễ dưới chân đức Thế Tôn. Năm trăm vị Thích Tử đi đến chỗ ngài A-nan bạch rằng:

– Chúng tôi cùng ngài đều sinh ra trong gia đình họ Thích mà một mình ngài thông minh tổng trì lời đức Phật giống như rót nước đựng sang đồ đựng khác. Chúng tôi có tội đời trước nên chẳng thấy thân đức Phật, huống gì là nghe được pháp ?

Nói lời đó xong, họ đối trước ngài A-nan mà khóc. Lúc bấy giờ, đức Như Lai dùng tiếng Phạm âm bảo các Thích tử và đại chúng rằng :

– Này các huynh đệ! Các anh em chớ lại gào khóc ! Thuở quá khứ, có đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri xuất hiện ở đời, giáo hóa chúng sinh. Độ người chu tất xong, sau khi ngài vào Niết bàn, ở trong đời Tượng Pháp, có một vị trưởng giả tên là Nhật Nguyệt Đức. Ông ấy có năm trăm người con thông minh, đa trí, biết rộng tất cả văn chương, kỹ nghệ của thế gian, tinh tú, lịch số không gì chẳng quán triệt. Vị trưởng giả cha ấy tin kính Phật pháp, thường vì các con nói về lòng quán Phật, cũng nói về ý nghĩa của mười hai nhân duyên thậm thâm. Các con nghe rồi nghi hoặc, chẳng tin mà rằng, cha già lẩm cẩm, bị sự lừa dối mê hoặc của các Sa môn. Chúng ta xem các thư tịch đều không có nghĩa đó, nay cha tìm ở đâu ra những thứ này ? Vị trưởng giả cha thương xót các con nên ẩn giấu Phật pháp chẳng vì họ tuyên nói nữa. Lúc đó, các con đồng gặp bệnh nặng, người cha xem thấy mạng các con chẳng còn bao lâu nên đến chỗ các con. Trước mỗi một đứa con, ông khóc rơi lệ, chắp tay nói rằng : “ Các con tà kiến chẳng tin chánh pháp, hôm nay lưỡi dao vô thường sắp cắt đứt thân con. Lòng con phiền muộn cậy nhờ vào đâu ? Có đức Phật Thế Tôn tên là Tỳ Bà Thi, con nên xưng danh hiệu ngài !”. Các con nghe rồi, kính trọng cha mình nên xưng : “Nam mô Phật” người cha lại bảo rằng: “Con hãy xưng danh Pháp! Con hãy xưng danh Tăng!” Chưa kịp xưng danh đủ ba thì các con ấy đã mạng chung. Do xưng danh Phật nên họ được sinh lên trời, chỗ của Tứ thiên vương. Thọ mạng ở trên trời hết, do nghiệp tà kiến trước kia nên họ rơi vào Đại Địa Ngục. Ở địa ngục thọ khổ, họ bị ngục tốt La sát dùng chỉa sắt nóng đâm mù mắt. Khi chịu sự khổ đó, họ nhớ đến việc giáo hối của người cha trưởng giả. Do niệm Phật nên họ ra khỏi địa ngục, trở lại sinh vào trong loài người chịu bần cùng hạ tiện. Đức Phật Thi Khí ra đời, họ cũng được gặp, nhưng chỉ nghe Phật danh mà chẳng nhìn thấy hình dáng Phật. Đức Phật Tỳ Xá ra đời, họ cũng chỉ nghe Phật danh. Đức Phật Câu Lâu Tôn ra đời, họ cũng chỉ nghe Phật danh. Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni ra đời, họ cũng chỉ nghe Phật danh. Đức Phật Ca Diếp ra đời, họ cũng chỉ nghe Phật danh. Do cái nhân duyên nghe tên sáu vị Phật nên đồng sinh ra với ta. Tuy sinh ra ở xứ này, nhưng nay thân tướng ta đoan nghiêm đến vậy mà các ông thấy thân ta như thân người Bà la môn gầy còm. Thân ta màu vàng mà màu của vàng Diêm Phù Đàn cũng chẳng sánh được, nhưng các ông thấy màu thân ta giống như người bằng than đen – Đức Phật bảo các Thích tử – Nay các ông hãy xưng danh hiệu Phật đời quá khứ và vì Phật làm lễ, đồng thời xưng danh cha các ngươi. Làm lễ các đức Phật quá khứ, cũng xưng danh hiệu của ta, lễ kính đối với ta, vị lai có đức Phật hiệu là Di Lặc, các ngươi cũng sẽ lễ kính, nói lên tội tà kiến đời trước của các ngươi. Hôm nay, Phật hiện thế, đại chúng Sa môn, tất cả đã vân tập, các ông phải hướng về các đại đức chúng Tăng mà phát lồ hối lỗi.

Thuận theo lời Phật sám hối các tội, ở trong chúng Phật pháp, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn lở, họ hướng về đức Phật sám hối. Tâm nhãn được mở ra, họ thấy sắc thân đức Phật đoan nghiêm vi diệu như ánh sáng núi Tu di hiển hiện ở biển lớn. Đã thấy Phật rồi, lòng rất vui mừng, họ bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con nay thấy đức Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim. Mỗi một tướng tốt có vô lượng ánh sáng.

Nói lời đó xong, tức thời đắc đạo, thành Tu Đà Hoàn. Họ bạch với vua cha rằng:

– Hôm nay, chúng con muốn ở trong Phật pháp xuất gia học đạo.

Vua cha bảo rằng:

– Các con tự bạch với đức Phật! Xem đức Phật có cho phép các con không?

Họ liền kéo nhau đến chỗ đức Phật mà bạch rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con muốn xuất gia!

Đức Phật bảo các Thích tử rằng :

– Thiện lai Tỳ kheo !

Tức thời những vị Thích tử, râu tóc tự rụng, liền thành Sa môn. Áo quần họ mặc trên thân hóa thành pháp phục, họ chắp tay làm lễ đức Phật, xưng lên: Nam mô Phật! Khoảnh khắc chưa cất đầu lên thì đã thành A la hán với ba minh, sáu thông đều đầy đủ.

Đức Phật nói với vua cha rằng:

– Hôm nay! Đại vương có thấy các Thích tử sám hối tiêu trừ tội, thành A la hán không ?

Vua cha bạch đức Phật rằng :

– Thưa vâng ! Đã thấy rồi !

Đức Phật nói với vua cha rằng:

– Những vị Tỳ kheo đó đời trước, do ác tâm nên bài báng chánh pháp của Phật, nhưng chỉ vì cha nên xưng “Nam mô Phật” mà đời thường được nghe các Phật danh, cho đến đời nay gặp được ta ra đời, thấy sắc thân Phật và thấy chúng Tăng, nghe lời nói của Phật, sám hối tội lỗi. Nhân sám hối nên các chướng tiêu trừ mà các chướng trừ rồi thì thành A la hán.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng:

– Sau khi ta Niết bàn, chư thiên, người đời nếu xưng danh hiệu của ta và xưng Nam mô Chư Phật thì được phước đức vô lượng vô biên. Huống gì người ràng buộc ý niệm mình nghĩ về các đức Phật mà chẳng diệt trừ các chướng ngại sao ?

Đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng :

– Các ông sở dĩ thấy sắc thân Phật như đất đỏ là vì đời trước, các ông ở trong thời mạt pháp của đức Phật Nhiên Đăng, xuất gia học đạo. Đã xuất gia với thầy Hòa thượng mà khởi lòng bất tịnh. Nhưng vị hòa thượng ấy đã được đạo A la hán, biết lòng của đệ tử nên bảo họ rằng: “Này các pháp tử! Các ông đối với Hòa thượng và chúng Tăng chớ khởi lên ý nghi ngờ ! Hoặc khởi lên ý nghi ngờ đối với các tịnh giới, vĩnh viễn không tiếp nhận được!”. Các Tỳ kheo nghe vị Hòa thượng nói, lòng sinh ra sân hận. Lúc đó vị Hòa thượng biết lòng của đệ tử nên dần dần tự chế, chẳng vì họ giảng nói. Một ngàn người đệ tử theo tuổi thọ tu hành một thời gian ngắn, đều sắp mạng chung mà vị Hòa thượng vẫn còn, chẳng vào Niết bàn. Lúc đó, vị Hòa thượng đến chỗ các đệ tử, nói rằng: “Này Tỳ kheo các ông! Lúc mới thọ giới, nghi thầy, ngờ giới, luống ăn của tín thí thì hôm nay các ông cậy nhờ vào đâu ?” Những người nghe lời nói đó, lòng kinh hãi, dựng tóc gáy, bạch rằng: “Thưa Hòa thượng! Xin ngài vì chúng con nói pháp!” Vị Hòa thượng bảo rằng: “Việc của các ông hôm nay cấp thiết lắm rồi, chẳng còn đủ thời gian dạy các ông sám hối nữa ! Các ông hôm nay chỉ phải xưng lên danh hiệu Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri … đầy đủ mười hiệu”. Lúc bấy giờ, các Tỳ kheo theo lời dạy của vị Hòa thượng, đều xưng lên rằng: “Nam mô chư Phật”. Vừa xưng danh hiệu Phật xong thì liền mạng chung, nhờ thiện tâm đó nên được sinh lên cõi trời. Sinh lên cõi trời Đao Lợi hưởng thọ tự nhiên. Thọ mạng của trời hết, hạ sinh xuống thế gian, do tội đời trước, luống ăn của tín thí nên rơi vào trong loài ngã quỉ, bị nước đồng sôi rót vào cổ họng, thọ mạng kéo dài tám muôn bốn ngàn năm. Chịu tội ngã quỉ xong, họ sinh vào trong loài súc sinh. Chịu tội súc sinh xong, họ sinh trở lại trong loài người gánh chịu sự bần cùng hạ tiện. Đã sinh ra trong loài người thì họ nghe được các danh hiệu Phật. Nhân cái lực xuất gia đời trước nên tín tâm bên trong phát khởi như trước, họ biết trước xưng niệm “Nam mô Phật”. Do công đức nhân duyên xưng danh hiệu Phật nên trong tám ngàn đời thường gặp đời có Phật mà mắt chẳng nhìn thấy sắc thân của chư Phật, huống là được nghe pháp. Cho đến ngày hôm nay gặp được đời có ta, họ thấy thân thể của ta giống như đất đỏ.

Đức Phật bảo các vị Tỳ kheo rằng:

– Đời trước, các ông đối với chỗ chẳng nghi mà ngang ngược sinh ra nghi kiến, đối với chỗ đáng tin mà ngang ngược phát sinh chẳng tin. Do những tội đó nên chẳng thấy chư Phật, chẳng nghe chính pháp. Như ta hôm nay hiện sinh ra ở cung vua, màu sắc thân ta chân chánh tối thượng trong các màu sắc mà các ông thấy như màu đất đỏ.

Các Tỳ kheo nghe lời nói này của đức Phật đều tự hối trách, trật áo vai phải, chắp tay hướng về đức Phật mà nói lên rằng :

– Khi chúng con ở vô lượng kiếp đời trước, tà kiến, nghi ngờ sư trưởng, luống thọ của tín thí. Do nhân duyên này nên bị đọa vào trong địa ngục. Hôm nay tuy đã được ra mà ở vô lượng đời chẳng thấy chư Phật, chỉ nghe được danh hiệu. Hôm nay thấy được thân đức Thế Tôn như màu đất đỏ, lớn cao đúng năm thước.

Lúc đó, đức Thế Tôn vạch Tăng-kỳ-chi bày chữ Đức ở ngực, khiến cho Tỳ kheo đọc tụng chữ Đức rồi thì biết được công đức trí tuệ trang nghiêm của đức Phật. Ở trong ấn chữ Vạn đã nói lên tám muôn bốn ngàn những hạnh công đức của đức Phật. Các vị Tỳ kheo thấy rồi, khen ngợi đức Phật rằng :

– Đức Thế Tôn rất đặc biệt kỳ lạ ! Chỉ có chữ ở ngực mà nói lên vô lượng nghĩa, huống gì công đức sở hữu trong lòng đức Phật.

Họ nói lời đó xong, hướng về đức Phật sám hối, năm vóc gieo xuống đất như núi lớn lở, đối trước đức Phật gào khóc bi thương, nước mắt như mưa.

Khi đó, đức Thế Tôn an ủi họ bằng lời dịu dàng khiến cho lòng các Tỳ kheo được hoan hỉ. Lòng đã hoan hỉ rồi thì giống như gió thổi lớp mây đi tứ tán, hiển phát Kim nhan, ba mươi hai tướng tỏ tường nhìn thấy. Đã thấy đức Phật rồi, lòng rất vui mừng phát tâm Bồ đề. Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Một ngàn vị Tỳ kheo này ân cần cầu pháp, lòng không lười biếng ngưng nghỉ, vào đời vị lai qua vô số kiếp sẽ được làm Phật hiệu là Nam Mô Quang Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu. Khi những vị ấy làm Phật thì đất thuần màu vàng với hàng cây bảy báu, lầu các được trang nghiêm bằng những vật báu vi diệu. Chúng sinh của cõi ấy đều là những người biết tàm quí, sám hối, thuần là Bồ tát phát ý Vô thượng. Như vậy một ngàn vị Phật theo thứ lớp ra đời cũng giống như ở kiếp Hiền, một ngàn vị Bồ tát theo thứ lớp thành Phật.

Đức Phật bảo rằng :

– Thưa Đại vương! Các vị Tỳ kheo đó nghi thầy, nghi Tăng bị đại trọng tội. Như hướng theo lời nói, xưng Nam mô Phật đã được quả báo, nay ở đời ta được “hiện tiền thọ ký”. Huống gì là người chánh niệm suy nghĩ về Phật ?

Những Tỳ kheo ni thấy đức Phật màu bạc đứng dậy, trật áo vai phải, làm lễ đức Phật bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay, đức Như Lai tự nói về sắc thân tiêu trừ vô lượng tội của các chúng sinh. Vì sao chúng con từ lúc sinh ra, đi xuất gia… cho đến ngày hôm nay nhìn thấy đức Phật màu bạc, hoa bạc, ánh sáng bạc… các dung cụ trang nghiêm đều là bạc hết ? Tại sao chúng con chẳng thấy được ánh sáng vàng rực rỡ đẹp đẽ của Như Lai ? Cũng chẳng thấy được ba mươi hai tướng công đức quả báo của đức Phật ?

Lúc đó, đức Như Lai nghe lời nói của các Tỳ kheo ni liền mĩm cười, có ánh sáng màu vàng từ diện môn phát ra, nhiễu quanh thân bạc của đức Phật giáp đủ mười vòng. Khi ánh sáng này hiện thì các Tỳ kheo ni thấy thân đức Phật màu vàng tía với ba mươi hai tướng và ánh sáng hiển soi chẳng thể nói đủ. Các Tỳ kheo ni thấy rồi, quan sát tướng Bạch Hào ở mi gian uyển chuyển xoáy về bên phải. Thấy rồi, vui mừng, ngay lúc ấy họ liền thành đạo A la hán với ba minh, sáu thông và đủ tám giải thoát.

Các Tỳ kheo ni tự biết túc mạng đã từng ở đời trước vô lượng kiếp, có đức Phật ra đời cũng tên là Thích Ca Văn. Sau khi đức Phật đó diệt độ, có các đệ tử xuất gia học đạo. Trong chúng Tăng, có một người du hành giáo hóa, thấy năm trăm đồng nữ ở trong sơn trạch (cái đầm nước trong núi) cùng vui chơi sung sướng với nhau. Vị Tỳ kheo đó nhiếp giữ uy nghi an tường từ từ bước đến chỗ của những người con gái, trải Ni sư đàn (tọa cụ) xuống mà ngồi. Những người con gái thấy rồi, mỗi mỗi đều hoan hỉ mà nói lên rằng : “ Chỗ không nhàn này là nơi thần tiên dạo chơi, bỗng nhiên có vị Tỳ kheo thắng sĩ này đến ngồi tại đây, nhất định chẳng phải là người phàm. Chúng ta nên cúng dường ngài !” Bọn họ đều cởi vòng bạc tung lên vị Tỳ kheo và nghĩ : “ Vị Tỳ kheo tinh tấn, đức hạnh thuần thục đầy đủ, về sau nhất định thành Phật. Nguyện xin khi chúng ta thấy ngài cũng có màu bạc như vòng bạc đã tung lên”. – Đức Phật nói – Các ngươi tham trước màu báu của bạc nên đời đời thường ở trong núi Bạch Ngân thọ thân Ngân Sơn thần bảo nữ. Do làm lễ vị Sa môn, phụng hiến vòng bạc nên nay gặp được đời của ta, tắm gội thanh tịnh, hóa thành A la hán. Vị Tỳ kheo lúc bấy giờ là thân ta đó. Các người con gái lúc đó là thân các ngươi đó vậy. Các ngươi, ở đời trước, cúng dường Sa môn, lễ bái chư Phật nên từ đó đến nay luôn luôn gặp chư Phật.

Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Phật là vị thần cứu hộ quí báu trong loài người, đem lại lợi ích nhiều nơi. Nếu có người nghe được hiệu danh, lễ ái cúng dường thì được quả báo rất lớn. Huống là người ràng buộc ý niệm nghĩ ngợi đến chính dung nhan của đức Phật.

Những Ưu bà tắ trong chúng thấy đức Phật Thế Tôn như chân voi đen liền đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay hướng về đức Phật mà nói lên rằng:

– Chúng con sinh ra trên đất nước này. Con của quốc vương chúng con, xuất gia thành Phật. Ông tiên A Tư Đa thấy được ba mươi hai tướng tốt liền vì con nói rằng, Thái tử địa thiên (trời dưới đất) thành Phật không nghi ngờ gì nữa. Chúng con nghe lời nói đó nên qui y với Phật. Từ đó đến nay luôn luôn theo sau đức Phật, thọ ba qui y, thọ trì bát quan trai, thọ năm giới pháp, nhưng vì tội lỗi của chúng con nên chỉ nghe tiếng Phật mà chẳng thấy hình Phật. Mỗi khi thấy đức Phật thì như chân voi đen. Sao mà ân hận quá?

Nói lời đó rồi, họ đưa tay đấm ngực gào khóc, ngã lăn ra đất. Khi đó đức Như Lai dùng tiếng Phạm âm, giống như từ phụ an ủi con mình, mà bảo các Ưu bà tắc rằng :

– Này các pháp tử! Hãy trở lại ngồi đi! Phật sẽ vì các ngươi đoạn trừ nghi ngờ, hối hận, tiêu diệt các chướng ngại.

Nói lời đó xong, đức Phật bảo các Ưu bà tắc rằng:

– Vô lượng kiếp đời trước, khi các ngươi ở cõi Diêm Phù Đề đều làm quốc vương, thống lĩnh các nước rất được tự tại. Có các vị Sa môn vì lợi dưỡng nên vì các ngươi nói tà bậy chẳng thuận lời Phật dạy. Đúng pháp thì nói phi pháp, phi pháp thì nói là pháp. Những người các ngươi đều tin dùng những lời đó. Người đó dùng những lời dạy ác này nên sau khi mạng chung đọa vào địa ngục A tỳ. Còn các ngươi thuận theo lời dạy của bạn ác nên sau khi mạng chung cũng đọa vào địa ngục Hắc Ám. Do sức thiện tâm nghe pháp đời trước nên nay gặp đời của ta, thọ trì năm giới. Nay các ngươi nên phải ở trước Phật, Pháp, Tăng nói lên tà kiến của các ngươi và sự giáo hối của bạn tà để thành tâm sám hối.

Các Ưu bà tắc nghe lời nói này của đức Phật, liền xưng lên : Nam mô Phật, xưng Nam mô Pháp, xưng Nam mô Tăng và nói lên hết các tội lỗi, thành tâm sám hối. Đức Phật liền phóng ra ánh sáng của tướng Đại Nhân ở mi gian, chiếu soi lòng mọi người. Những người đó tâm ý cởi mở, đồng thời liền được đạo Tu đà hoàn. Các Ưu bà tắc được đạo rồi thì thấy sắc thân của đức Phật đoan nghiêm vi diệu, thế gian không gì sánh nổi, cầu xin đức Phật xuất gia, thành A la hán.

Trong chúng, các Ưu bà di thấy sắc thân đức Phật giống như mực đen tụ lại liền đứng dậy, chắp tay hướng về đức Phật, nước mắt như mưa, gào khóc bi thương, nói chẳng nên lời, giơ tay vỗ đầu, ngừng thở ngã lăn ra đất. Lúc đó, đức Thế Tôn thấy việc thế rồi, dùng tiếng Phạm âm an ủi các người nữ mà bảo rằng :

– Cớ sao lo buồn đến nỗi vậy ?

Khi đó, các người nữ nghe tiếng nói của đức Phật thì các tình căn cởi mỡ, liền đứng dậy, chắp tay bạch đức Thế Tôn rằng:

– Đấng Mặt trời Phật ra đời chiếu soi khắp tất cả. Mọi người đều nhìn thấy như vầng trăng tròn đầy, chỉ có chúng con chẳng thấy thôi. Khi đức Phật nói pháp, mọi người đều nghe tám thứ âm thanh, một mình chúng con chẳng nghe được giống nhưng điếc. Tôn giả Xá Lợi Phất vì chúng con trao cho cấm giới, mới nghe ngài nói có năm giới pháp. Mỗi lần chúng con đến Phật hội đều thấy đức Thế Tôn giống như mực đen tụ lại. Nguyện xin đấng Thiên Tôn đại từ bi trừ diệt tội lỗi cho chúng con, khiến cho chúng con được thấy đức Phật!

Lúc đó, đức Thế Tôn trở lại ngồi xuống tòa Sư tử, duỗi chân phát ra tướng ngàn nan hoa (Thiên bức luân) để hiển thị cho các người nữ. Những người nữ chỉ thấy những hoa sen vi diệu từ tướng Luân phát ra. Trên hoa có vị hóa Phật giống như người bằng mực đen. Những người nữ lại chắp tay hướng về đức Phật làm lễ mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Làm đệ tử của đức Phật đã trải qua nhiều thời gian, chỉ có ngày hôm nay thấy được hoa sen vi diệu, nhưng thấy các vị hóa Phật giống như bị bôi mực đen. Chúng con đời trước có tội gì mà mắt tối tăm đến vậy ?

Đức Phật bảo các người nữ rằng :

– Hãy lắng nghe ! Hãy lắng nghe ! Suy nghĩ cho kỹ vấn đề đó ! Hôm nay Như Lai vì các ngươi mà phân biệt cho ! Thuở quá khứ xa xưa vô lượng đời, vào đời có đức Phật hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… Sau khi đức Phật đó diệt độ, ở trong đời Tượng Pháp, có các vị Tỳ kheo vào thôn khất thực, cầm bát, mang tích trượng, uy nghi chẳng phạm, đi đến nhà dâm nữ (nhà chứa gái điếm). Các dâm nữ lấy bát của vị Tỳ kheo đựng đầy đồ ăn, rồi đùa cợt nói với vị Tỳ kheo rằng : “ Ông là người dòng họ Thích, nhan sắc khả ố giống như mực đen tụ lại. Thân ông mặc áo giống như người ăn xin. Sự khả ố của ông, thiên hạ không ai sánh nỗi. Tự cho rằng mình vô dục ! Thử hỏi còn ai sẽ nghĩ đến ông ?” Lúc bấy giờ, vị Tỳ kheo nghe lời nói đó rồi, ném bát trong không trung, rồi bay lên mà đi. Những người dâm nữ nhìn thấy rồi xấu hổ sám hối mà nói lên rằng : “ Chúng tôi hôm nay bố thí cho vị Sa môn bữa ăn, nguyện xin ở đời sau, thân được tự tại giống như Sa môn” – Đức Phật bảo các người nữ – Các dâm nữ cho cơm vị La Hán lúc bấy giờ, nay là các ngươi đó ! Các ngươi dùng thiện tâm bố thí cho Tỳ kheo bữa ăn nên trong hai ngàn kiếp thường chẳng bị đói khát. Do bởi nhân duyên dâm dục mắng chửi đời trước nên bị đọa vào địa ngục Hắc Ám đến sáu mươi tiểu kiếp. Do thiện tâm phát nguyện đời trước chẳng diệt nên nay gặp được đời của ta, được thọ trì năm giới. Vì chỉ mới cúng dường A la hán nên chỉ thấy Xá Lợi Phất mà chẳng thấy thân ta.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời đó xong, liền ở trong rốn phát ra đóa hoa sen lớn. Đóa sen lớn ấy hóa thành quang đài (đài ánh sáng). Ở trong quang đài ấy có trăm ngàn vô số Thanh văn Tỳ kheo như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên.v.v… Các vị ấy ở trong đài ánh sáng của Phật, với thần thông tự tại tạo tác mười tám thứ thần biến. Những người nữ thấy rồi, lòng phát sinh hoan hỉ, ngay tức thời liền dùng lửa trí tuệ đốt cháy hai mươi ức kết sử tan tành, đắc đạo Tu đà hoàn. Các Ưu bà di đã được đạo rồi, thì thấy sắc thân đức Phật đoan nghiêm vi diệu, nhưng chẳng thấy được ánh sáng tướng Bạch Hào của đức Phật.

Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Đùa giỡn, ác khẩu…. thì thậm chí đã được đạo rồi mà sở kiến vẫn chẳng sáng. Vậy nên mọi người phải siêng năng giữ gìn nghiệp miệng, chuyên tâm chính ý quán Phật tam muội, vì thấy Phật thì được vô lượng phước.

Lúc đó, đức Thế Tôn muốn làm cho đại chúng thấy sắc thân Phật tỏ rõ phân minh nên đức Phật liền biến hóa ngôi tinh xá thành như núi Bạch ngọc, cao diệu lớn nhỏ giống như núi Tu di với hàng trăm ngàn khám thờ, hang động. Ở trong những khám thờ, hang động, bóng dáng hiện lên những hình tượng như đức Phật không khác. Đất nước đức Phật có hoa sen lớn. Hoa ấy cóngàn cánh. Mỗi cánh có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có một ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có một ngàn đệ tử làm thị giả. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng:

– Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể cắt đứt mọi việc, ném bỏ các ác, ràng buộc ý niệm dể tư duy ánh sáng của Phật thì cho dù Phật chẳng còn hiện tại, cũng gọi là thấy Phật. Do thấy Phật nên tất cả các ác đều được tiêu trừ. Tùy theo sở nguyện của họ mà ở đời đương lai sẽ thành ba thứ đạo Bồ đề – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người quan sát như thế này thì gọi là chánh quán, nếu quan sát khác đi thì gọi là tà quán.

***

PHẨM THỨ BA : QUÁN TƯỚNG

IV- Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Sao gọi là quán tướng phóng ra ánh sáng thường của đức Như Lai ? – Như Lai, hôm nay vì những người phàm phu của đời vị lai sẽ thị hiện ánh sáng ít ! Những phàm phu kia sẽ học sự quán tưởng đó. Người quán như vậy thì cũng như ngày hôm nay thấy tướng ánh sáng của Phật không có khác.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng Nhục kế. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu. Mỗi màu tạo ra tám muôn bốn ngàn chi. Mỗi một chi có tám muôn bốn ngàn những vị hóa Phật vi diệu. Thân của những hóa Phật ấy nhiều vô lượng vô biên. Trên đỉnh hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau cho đến vô lượng thế giới của thượng phương. Ở thế giới thượng phương có những hóa Bồ tát nhiều như đám mây vi trần từ hư không hạ xuống vây quanh các đức Phật. Khi ánh sáng này hiện lên thì các đức Phật của thế giới nhiều như vi trần trong mười phương cũng đều được thấy. Ánh sáng này chiếu thẳng lên đỉnh của chư Phật. Chư Phật phóng ra ánh sáng thì ánh sáng ấy cũng chiếu xuống đỉnh của Phật Thích Ca Văn.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Chúng sinh muốn quán tưởng ánh sáng Nhục kế của Phật Thích Ca Văn thì phải tác khởi sự quán tưởng đó. Người thực hành sự quán tưởng đó, nếu tâm chẳng linh lợi thì trong mơ được thấy. Tuy nhiên tâm tưởng đó có thể trừ vô lượng trăm ngàn trọng tội. Người quán như vậy thì thân hiện tại nhất định thấy các vị Đại Bồ tát. Thấy Bồ tát nên nghe được Bồ tát nói pháp. Nghe nói pháp nên được Đà la ni. Đà la ni ấy gọi là “Toàn ức trì” (giữ gìn điều nhớ trở lại). Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Đức Phật bảo với vua cha rằng :

– Sao gọi là quán ánh sáng mày (mi gian) của Như Lai ? Hôm nay Như Lai vì các chúng sinh đời sau này nên phải hiện ít ánh sáng của tướng Bạch hào.

Khi nói lời nói đó thì mi gian của đức Phật phóng ra ánh sáng tướng đại nhân Bạch hào. Ánh sáng ấy chia làm tám muôn bốn ngàn chi. Mỗi chi cũng có tám muôn bốn ngàn màu, soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Mỗi một màu sáng hóa ra một núi vàng. Mỗi một núi vàng có vô lượng khám thờ, hang động. Trong mỗi một hang động có một vị hóa Phật ngồi kiết già vào sâu thiền định với trăm ngàn đại chúng Thanh văn Bồ tát làm quyến thuộc. Trong các hang động có các hóa Phật, các đức Phật đó đều phóng ra ánh sáng tướng Đại nhân Bạch hào, cũng chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới, đều như màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa sen vàng. Trên hoa sen vàng đều có vị hóa Phật cũng đều đồng danh hiệu là Thích Ca Văn. Mi gian của các đức Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới giống như trăm ngàn ức vua núi Tu di chung hợp về một chỗ. Các núi Tu di ánh hiện các đức Phật. Thân Phật cao hiển cùng với núi ngang bằng. Ánh sáng mi gian của những vị hóa Phật đó nhiễu quanh các vị hóa Phật đủ bảy vòng rồi trở lại nhập vào mi gian của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ánh sáng này nhập vào lỗ chân lông thân Phật thì trong mỗi lỗ trong lông có một vị hóa tượng. Trong lỗ chân lông của thân mỗi một hóa tượng hóa thành tám muôn bốn ngàn tượng vi diệu. Đó đều là việc hiếm thấy của tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới. Đó gọi là ánh sáng của một vẻ đẹp trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai. Ánh sáng của tám mươi vẻ đẹp tùy hình như vậy, nói chẳng thể hết. Như Lai chỉ hiện chút ít ánh sáng Bạch hào. Trong chúng tướng của vua cha, có tám ngàn người xa trần lìa cấu được Pháp nhãn tịnh. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ánh sáng tướng Bạch hào của Như Lai, trong các kinh điển Phật đã nói rộng rãi. Ánh sáng nhiệm màu như vậy chỉ có Phật mới thấy được của Phật, còn Bồ tát thập địa chẳng thấy rõ ràng. Vậy nên lấy phần ít trong tướng này mà nói. Nói phần ít là vì người phàm phu. Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng như vậy gọi là Chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Ánh sáng này trừ diệt tội như vừa nói ở trên. Duy chỉ người thấy ánh sáng thì lòng được tỏ rõ, thấy hàng trăm ức đức Phật. Người thấy tướng Bạch hào chính là tâm tưởng thấy.

Sao gọi là quán tưởng tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai ? – Trên mặt Như Lai có tướng ba luân, tướng mép tóc… mọi tướng như vậy. Trong mỗi một tướng đều phát ra ánh sáng vàng. Ánh sáng màu vàng ấy hóa thành giường vàng. Trên mỗi một giường vàng ấy có một ngàn vị Bồ tát, Câu Lâu Tôn Đà là vị đầu tiên đến nơi giường. Một ngàn vị Bồ tát đều phóng ra ánh sáng, ngồi trên giường vàng. Như vậy có trăm ức ngàn vạn Bồ tát, trăm ức ngàn vạn giường vàng. Trên giường vàng ấy đều có bảo trướng. Mỗi một bảo trướng có hàng ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa thành hàng ngàn bảo tràng. Trên mỗi một tràng có hàng ngàn vạn bảo cái. Dưới mọi bảo cái có các bảo phan. Trong các bảo phan có vô lượng vị hóa Phật. Các vị hóa Phật đó đều nói về khổ, không, vô thường, vô ngã. Tất cả các vị hóa Phật, khi nói kệ này thì đức Phật Thích Ca Văn, phương thân một trượng sáu, ở trước mặt hành giả, đưa tay phải lên mà nói rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông nay có thể quan sát tướng tốt của các đức Phật. Chúng ta đời trước hành đạo Bồ tát so cùng ông không khác ! Ông nay có thể quán tưởng cảnh giới các đức Phật. Cảnh giới này chỉ là sự phát sinh của vọng tưởng trong lòng các ông. Nói lời nói đó xong liền biến mất. Những ánh sáng trên trán trở lại sáng rỡ. Ánh sáng ấy lan tỏa ra có đến trăm ngàn ức luồng. Mỗi một ánh sáng chiếu soi mặt các vị Bồ tát ngồi trên giường báu. Mặt những vị Bồ tát kia cũng phát ra ánh sáng chiếu soi Phật Thích Ca Văn. Khi hiện ra tướng này, hành giả quan sát mặt Phật chân thật tỏ rõ không nghi ngờ.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật có thể quán thấy chân thật mặt Phật, so cùng ta khi còn tại thế ngang bằng không có khác. Người tác khởi sự quán tưởng này, trừ được một ức kiếp tội sinh tử. Nơi sinh ra thân sau được diện kiến các đức Phật giáng sinh vào nhà các đức Phật, làm quyến thuộc của các đức Phật, Bồ tát. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tưởng mũi phát ra ánh sáng của Như Lai ? – Mũi phát ra ánh sáng chia làm bốn chi, đi lên vào mắt Phật, lông mày Phật, lông mi Phật, rồi phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy kéo đến dày đặc như hình rồng, voi, soi khắp mười phương vô lượng thế giới vào trong mắt của các đức Phật. Khi hiện tướng này thì mười phương rất sáng. Khi đó, các hành giả thấy đất và hư không của mười phương thế giới đầy chư Phật trong đó. Mắt, lông mày, lông mi, lỗ mũi của mỗi một đức Phật phóng ra ánh sáng lớn cũng lại như vậy. Hai luồng ánh sáng của mắt Phật soi vào khắp mắt của các đức Phật. Rồi chúng ở trong hư không hóa thành đài ánh sáng. Trên đài ánh sáng ấy chỉ thuần là mây ánh sáng mà mây ánh sáng xanh trắng trong thế giới không sánh được. Ở trong ánh sáng xanh có vị hóa Phật màu xanh. Ở trong ánh sáng trắng có vị hóa Phật màu trắng. Hai đức Phật màu xanh, trắng này, trái phải phân minh, có ánh sáng màu bách bảo làm mây cho các đức Phật ấy như người có thần thông bay lướt đi trong đám mây. Các lỗ chân lông của thân Phật giống như cây hoa. Mỗi một cây hoa cao lên đến cõi Phạm, các cánh hoa có trăm ngàn ức Thanh văn Tỳ kheo. Mỗi một Tỳ kheo mặc áo ngàn mảnh (áo có nhiều mảnh ghép lại) mà ngàn mảnh là ngàn màu. Trong mỗi một màu có trăm ngàn vị hóa Phật đều thuần một màu vàng. Các vị Tỳ kheo đó bay vọt thân trong mây cũng theo sau đức Phật như rồng, voi lớn đi thì con của chúng đi theo.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể chính tâm quán tưởng ánh sáng mắt Phật thì nghiệp chướng nặng của đời hiện tại liền được tiêu trừ, ở đời đương lai thường được quán Phật, chẳng lìa khỏi mặt trời Phật, tuy ở thai mẹ nhưng thường vào tam muội, khi ở tại thai mẹ thấy Phật mười phương đều phóng ra ánh sáng mắt đến soi thân mình, khi trong vỏ trứng thai thường thọ pháp mầu, huống là đã ra bên ngoài. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Mũi phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương thế giới. Mỗi một ánh sáng ấy hóa thành đại thủy (nước to). Nước ấy trụ ở hư không, chảy vào các ánh sáng. Khi nước này chảy vào thì tất cả ánh sáng lại càng hiển minh. Mỗi một vùng sáng sinh ra núi Pha lê. Mỗi vùng núi Pha lê sinh ra hoa bảy báu. Trên đài hoa ấy vọt trào ra các thứ nước. Nước ấy màu vàng giống như Tràng bằng vàng. Bên trong Tràng vàng ấy có trăm ngàn vạn không lường vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật, phương thân một trượng sáu. Trong lỗ chân lông của thân Phật có tám muôn bốn ngàn sắc báu thượng diệu. Trong các sắc báu lại phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy nhiệm mầu có hằng hà sa số màu – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tác khởi sự quán tưởng đó thì trừ khước được nghiệp ác rất nặng của một ngàn kiếp, chỗ sinh đời sau lòng không sở trước, chẳng ở bào thai, luôn luôn hóa sinh, đã hóa sinh rồi thì ánh sáng của thân đầy đủ chẳng lìa khỏi các đức Phật. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tưởng ánh sáng diện môn của Như Lai ? – Ánh sáng ấy màu trắng giống như núi báu, trong ngoài đều sạch. Ở bên trong núi báu có vô lượng vị hóa Phật màu chân Kim tinh. Diệu môn của các hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy năm màu soi khắp mười phương, rồi vào diện môn của các đức Phật. Khi hiện tướng này thì hành giả đi đứng ngồi nằm luôn luôn nghe đức Như Lai nói về Tứ niệm xứ, thân thọ tâm pháp, đồng thời nghe nói cảnh giới, khiến cho hành giả nghe rồi nhớ nghĩ, giữ gìn, nhắm mắt tư duy. Nhờ sức của ánh sáng này nên hành giả được pháp Tứ niệm xứ. Các đức Phật mười phương và Phật Thích Ca Văn ở trong tam muội, đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả mà nói lên rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể chân thật hành Niệm Phật định”. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng tai của Như Lai ? – Tai Phật phát ra năm ánh sáng. Ánh sáng ấy có một ngàn màu. Mỗi màu có một ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật phóng ra một ngàn ánh sáng. Ánh sáng như vậy soi khắp mười phương vô lượng thế giới, rồi hóa thành một đóa hoa. Hoa ấy rất lớn, đo lường chẳng thể biết, ngoại trừ sức Phật tâm, không ai có thể biết. Trong hoa sen đó, có trăm ngàn vạn ức vô lượng cõi Phật đều hiện ra và có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ tát ngồi trên một tua hoa, tua hoa chẳng lớn, Bồ tát chẳng nhỏ mà cũng chẳng phương hai nhau. Những Bồ tát như vậy, trái tai đều thòng xuống như sen vàng treo ở ánh sáng mặt trời. Cũng ở trong tai quay lại sinh ra năm luồng ánh sáng. Khi tướng này hiện thì lông trong tai Phật như cây của Đế thích mà mọi người ưa nhìn thấy – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tác khởi sự quán tưởng đó thì thường nghe trăm ức ngàn đức Phật và các vị Bồ tát nói mọi diệu pháp, chẳng bị hư hoại nhĩ căn. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng cổ của Như Lai ? Tướng cổ phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy có một vạn màu, soi khắp tất cả thế giới mười phương. Có các chúng sinh thuần thục thiện căn gặp ánh sáng ấy thì ngộ được mười hai nhân duyên, thành Bích Chi Phật. Ánh sáng này soi cổ các Bích Chi Phật. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy khắp tất cả những Bích Chi Phật trong mười phương ném bát lên hư không, tạo tác mười tám sự biến hóa. Dưới mỗi một chân của các Bích Chi Phật đều có văn tự. Văn tự ấy diễn nói mười hai nhân duyên : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Một chữ có một ánh sáng, một ánh sáng có mười hai âm (âm thanh), một âm nói khổ, không, vô thường, vô ngã, một âm diễn nói mười hai nhân duyên. Như vậy, trong ánh sáng dưới chân Phật Bích Chi đều có chữ đó, nghịch thuận qua lại đến mười hai lần. Đó gọi là căn bản sinh tử vậy. Ánh sáng này soi các Bích Chi Phật rồi thì trở lại cổ Phật. Người tạo tác sự quán tưởng này chẳng sinh trong loài người mà sinh lên cõi trời Đâu suất, gặp được Bồ tát Nhất Sinh Bổ Xứ vì họ nói diệu pháp. Đã nghe pháp rồi, thân tâm hoan hỉ, học theo các Bồ tát quán pháp duyên khởi. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tướng xương Khuyết bồn đầy đặn của Như Lai ? – Ánh sáng tướng đầy đặn soi khắp mười phương tạo thành màu hổ phách. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì tự nhiên phát ý đạo Thanh văn. Những Thanh văn đó thấy ánh sáng này chia làm mười chi, mỗi chi có một ngàn màu. Mười ngàn ánh sáng màu, mỗi ánh sáng có một vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có bốn vị Tỳ kheo làm thị giả. Mỗi một vị Tỳ kheo đều nói khổ, không, vô thường, vô ngã, phân biệt bốn đế, nói ý nghĩa Bát đại nhân giác, nói bốn quả tướng, nói ba tam muội… khiến cho những chúng sinh kia ở trong pháp này cầu pháp xuất gia, xuất gia chẳng bao lâu đều thành A la hán. Như vậy ánh sáng soi khắp đỉnh đầu của các La hán trong mười phương. Khi soi đỉnh đầu các vị ấy thì như người cầm bình thuốc nước rót vào đỉnh đầu. Hình trạng sắc mạo ánh sáng ấy giống như đề hồ, theo đỉnh vào rồi, xuyên suốt bày rõ. Lúc bấy giờ, hành giả thân tâm yên ổn. Tâm ấy điềm nhiên không có ác tưởng, chẳng thấy tướng mạo của các sử và kết. Như vậy bỗng nhiên thành A la hán ngay. Ánh sáng này lại biến thành táng che màu vàng nhiều không lường. Trong mỗi một táng che có trăm ngàn thất Phật. Mỗi một thất Phật có bốn vị Tỳ kheo làm thị giả. Mỗi một vị Tỳ kheo vào bốn đại định. Trong bốn đại định khắp hiện tướng mạo của tất cả kết sử : Tám vạn hộ trùng đắp đổi mà sinh ra, các chủng loại trùng nhỏ cũng đều sinh theo. Khi tướng này hiện thì trước tiên lửa dậy lớn. Lửa dậy lớn bắt đầu như hạt cải, từ lỗ chân lông phát ra rồi sau lớn lên dần dần, thiêu đốt khắp các thân. Thân như lửa tụ lại, các trùng kêu rống như tiếng sư tử. Khi tiếng này phát ra, lòng hành giả sợ hãi mê muội, ngã lăn ra đất. Ra khỏi định, hành giả thấy thân như lửa đồng hoang đi bên cây bị đốt cháy. Khi tướng này hiện thì hành giả phải khởi lên tâm tạo ra một dược tưởng (tư tưởng về thuốc). Trước hết tác khởi thân tưởng, thân tưởng đã thành thì mở đỉnh (đỉnh đầu) khiến cho rỗng không, rồi tác khởi Phạm vương tưởng, tác khởi Đế thích tưởng, tác khởi ý tưởng chư thiên, tay cầm bình báu, ý tưởng đem thuốc rót vào. Khi thuốc đã vào đỉnh thì vào khắp bốn thể và trong các mạch, thấy mạch và thân như ống lưu ly, chỉ thấy các trùng như hoa héo chết. Lúc bấy giờ, các mạch lại chảy rót vào nhau, chỉ có các loại nước. Chỗ nào nước đến thì lửa tắt theo. Lúc đó, hành giả, từng đốt từng đốt nước phun ra như người ngước bắn lên. Nước lên đến bờ cõi Phạm, từng luồng nước tiếp nhau lên đến cõi Phạm thiên. Hành giả thấy nước trong thân mình như bốn biển lớn, thấy các trùng, đầu héo, tróc rễ, tay gẫy, chân cong queo. Chỉ có tim hành giả sinh ra lửa phân làm mười chi. Lửa vào các loại nước chẳng tiêu diệt nhau. Ánh nước xông lên, ánh lửa đuổi theo. Hai ánh sáng nước lửa đều từ tim phát ra, xen lẫn hổ tương nhau lên đến tột đỉnh ba cõi, xuống đến ngục A tỳ. Hết bờ cõi một thế giới chỉ thuần thấy nước lửa tuông chảy, đông tây nam bắc lửa cũng chạy theo. Lúc bấy giờ, đầu trái tim tự nhiên mọc một sợi lông đen. Ở đầu sợi lông ấy phát ra một luồng gió đen lớn. Gió ấy có bốn màu theo tâm căn (trái tim) khởi lên như cơn gió lốc xoáy mà hình trạng như khói lửa. Ngọn gió ấy thổi khắp tất cả các dòng nước. Nước ấy dậy sóng, bọt tụ thành đống, lửa cũng vào trong đó. Được sức lửa nên bọt cứng như băng. Rồi lại có gió đến, thổi các bụi bẩn, chín mươi tám thứ vật ác, bất tịnh đem đặt lên trên băng. Sức băng yếu nên theo vật bất tịnh tan, chỗ đặt liền tan ra. Khi băng (nước đá) này tan thì tám người (bát đại nhân giác ?) cầm dao chặt khối băng thành khúc, lấy mà mang đi. Bui đất lấm bẩn, lòng buồn rầu mà nằm. Gió, lửa, nước.v.v… tụ hợp một chỗ. Sức lửa lớn nên thiêu đốt hủy hoại mọi vật. Có bốn con ác xà (rắn độc) ngậm một viên ngọc báu, từ nơi lửa cháy vút lên hư không bay đi. Có sáu con rồng lớn đón bốn con li nhỏ (một loại rồng nhỏ không có sừng) đớp lấy mà chạy. Đỉnh đầu rồng mọc lên cây cao đến cõi Vô sắc. Có một cây cỏ nhỏ, nhỏ như sợi lông mùa thu (thu hào). Có sắc chính màu vàng, từ lõi cây mọc xuống rễ cây, rồi từ rễ cây mọc lên vào thân cây, từ thân cây mọc tứ tản vào cành lá. Hoa cây ấy màu trắng cũng có hồng, đỏ. Trái của cây ấy sắp chín làm thành bốn màu. Đến nửa tháng tám thì thuần một màu hoàng kim. Như ánh sáng này chiếu soi các Thanh văn thì biến hóa vô lượng trăm ngàn cảnh giới. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Nếu có các Tỳ kheo khi vào định này mà thân như cây chuối không có bền thật thì khi ra khỏi định, chi tiết thân thể đau đớn tê liệt. Nếu họ chẳng uống thuốc thì phát điên mà chết. Vậy nên phải kịp thời dùng một thứ thuốc để tiêu diệt. Người tác khởi sự quán tưởng đó trừ được tội sinh tử của vô số kiếp. Như dòng nước lớn, chẳng bao lâu họ sẽ đắc đạo A la hán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Ông hãy gìn gìn lời nói chân thật của Phật chớ quên ! Rồi vì các Tỳ kheo, ông phải tuyên nói rộng rãi.

Khi đức Phật nói lời nói đó thì năm trăm vị Tỳ kheo được bốn đại định, đồng thời đều được bốn quả Sa môn.

Sao gọi là quán tưởng tướng chữ Vạn giữa ngực của Như Lai ? – Ngọc Ma ni dưới nách đều phóng ra ánh sáng. Trong ánh sáng hồng tía ấy có hoa vàng. Hoa ấy nở ra hóa làm vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số những hoa. Trên mỗi một hoa, có vô lượng đức Phật. Những vị hóa Phật đó đều có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có một hóa Phật. Ánh sáng ấy năm màu. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng này thì người điên được chính, người loạn được định, người bệnh được bớt, người nghèo cùng tự nhiên được báu, người mù được nhìn thấy, người điếc được nghe, người câm có thể nói, người gù, thọt, ghẻ lở, cùi hủi đều được trừ hết. Ánh sáng ấy vào khắp trên đỉnh của chư Phật mười phương. Nó nhập vào rồi thì trong ngực các đức Phật có trăm ngàn ánh sáng từ chữ Vạn sinh ra. Trong mỗi một ánh sáng ca lên hàng trăm ngàn bài kệ diễn nói về Đàn Balamật (Bố thí Balamật)… Những ánh sáng như vậy diễn nói sáu Balamật. Kệ ấy nhiều không lường. Hành giả ngồi ngay nghe vô lượng đức Phật đều nói về pháp đó. Mỗi một đức hóa Phật sai một hóa nhân đoan nghiêm vi diệu giống như đức Di Lặc đến an ủi hành giả mà nói lên rằng : “ Hay thay ! Hay thay ! Này thiện nam tử ! Ông ràng buộc ý niệm nên thấy ánh sáng của các đức Phật. Trong ánh sáng chư Phật nói lên Vô tướng thí, nói lên Vô tướng giới, nói lên Vô tướng nhẫn, nói lên Vô tướng tinh tấn, nói lên Vô tướng định, nói lên Vô tướng tuệ. Ngươi nghe pháp này hãy thận trọng chớ kinh sợ. Các đức Phật quá khứ ràng buộc ý niệm tư duy cũng nghe pháp đó, cũng giải tướng đó. Giải được tướng đó rồi thì chẳng sợ sinh tử. Dù ở đại địa ngục A tỳ đầy lửa dữ cũng chẳng thể đốt cháy. Tuy ở địa ngục mà như dạo chơi ở thiên cung. Vậy nên chữ Vạn gọi là Thật Tướng Ấn. Các đức Phật Như Lai, vô lượng vô biên atăngkì kiếp học được ấn này, nhờ được ấn này nên chẳng sợ sinh tử, chẳng nhiễm năm dục – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người thấy ánh sáng tướng ngực của Phật thì trừ khước được tội sinh tử của mười hai vạn ức kiếp. Nếu người chẳng thể thấy tướng ngực phân minh thì vào Tháp mà quán tưởng tướng đó. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tưởng tướng cánh tay tròn nhỏ như vòi voi chúa của Như Lai ? – Mười ngón tay hợp lại căng bàn tay ra thành hàng ngàn vòng nan hoa mà mỗi mỗi đều phóng ra trăm ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng chia làm hàng ngàn chi thuần là màu hồng. Mọi ánh sáng như vậy soi khắp mười phương vô lượng thế giới. Chiếu soi thế giới rồi hóa thành nước vàng. Trong nước vàng, có một thứ nước vi diệu như màu thủy tinh mà ngã quỉ nhìn thấy thì trừ được nóng nảy trở nên mát mẻ, súc sinh nhìn thấy thì tự biết được túc mạng, voi điên nhìn thấy thì trở thành Vua Sư tử, Sư tử nhìn thấy là Chim cánh vàng, các rồng nhìn thấy là vua chim cánh vàng. Các súc sinh đó đều thấy được tôn trọng nên lòng phát sinh sợ sệt, chắp tay cung kính. Do cung kính nên sau khi mạng chung được sinh lên trời. Mọi người nhìn thấy nước thủy tinh đó như vua Phạm thiên, hoặc như mặt trời, mặt trăng, tinh tú… thấy rồi hoan hỉ nên sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu suất. Hành giả thấy điều đó, tâm nhãn liền mở ra thấy hóa Phật đầy trong cõi mười phương. Tay của mỗi một hóa Phật phát ra ánh sáng nhập vào mắt hành giả nên dù nhắm mắt hay mở mắt đều luôn thấy các đức Phật. Hành giả tự quan sát thân tướng mình như trong bình báu diệu có sự bất tịnh. Như vậy người thấy tuy chưa được thông nhưng đã đến khắp mười phương, hầu hạ qua các đức Phật, thấy tay của mỗi một đức Phật phóng ra ánh sáng cũng lại như vậy. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Sao gọi là quán tưởng tướng rốn của Như Lai ? – Trong rốn của Như Lai có hàng vạn ức hoa báu. Mỗi một hoa báu có hàng vạn ức nadotha cánh. Mỗi một cánh hoa có hàng vạn ức nadotha màu. Mỗi một màu có hàng vạn ức nadotha ánh sáng. Khi hiện tướng này thì tất cả đại chúng thấy tướng tim của Phật. Tim của Như Lai như đóa hoa sen hồng mà hoa vàng ánh che khiến cho ánh sáng vàng tía xen lẫn vào như ống lưu ly treo ở trước ngực đức Phật. Hành giả thấy bên trong thân Phật hàng vạn ức vị hóa Phật. Các vị hóa Phật đó ở vùng tim Phật. Rốn của mỗi vị Phật phát ra ánh sáng kéo tới sáng rỡ như núi Tu di. Xen giữa các núi có vô lượng núi báu như núi Tu di. Trên mọi hoa này đều có vị hóa Phật nghiêm trang hiển hách khả quan như núi Tu di. Ánh sáng ngàn thứ có đến mười ngàn màu chia làm mười ức ức chi. Ức ức chi soi xuống hạ phương, ức ức chi soi lên thượng phương, ức ức chi soi phương Đông, ức ức chi soi phương Nam, ức ức chi soi phương Tây, ức ức chi soi phương Bắc, ức ức chi soi phương Đông Nam, ức ức chi soi phương Tây Nam, ức ức chi soi phương Tây Bắc, ức ức chi soi phương Đông Bắc. Như vậy mười phương đều có các hoa. Hoa nhỏ nhất thì giống như trăm ức núi Tu di lớn. Trên mỗi núi Tu di có trăm ức vạn các vị Đại Bồ tát. Thân nhỏ nhất của các vị thì như núi Tu di. Trong rốn của các vị hóa Bồ tát đều mọc ra một hoa sen lớn. Các hoa sen ấy che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Mỗi một đóa hoa có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy giống như vàng Diêm Phù Đàn. Mỗi một ánh sáng vàng hóa ra Phật Thích Ca Mâu Ni nhiều như vi trần. Trong rốn mỗi một vị Phật Thích Ca phát ra ánh sáng cũng lại như vậy. Mọi ánh sáng như vậy hợp thành đài ánh sáng. Mọi đài ánh sáng ấy cũng có vô lượng những vị Đại Hóa Phật nhiều như vi trần như cát sông Hằng. Từng đức Phật, từng đức Phật tiếp nhau phóng ra ánh sáng của rốn. Ánh sáng ấy rất thịnh chiếu thẳng lên vô lượng thế giới ở thượng phương và qua khỏi những thế giới đó. Như vậy số những thế giới nhiều như vô lượng vi trần của ba ngàn đại thiên thế giới. Trong những thế giới đó đều có lưu ly, pha lê…. hàng ức thứ báu dùng làm hang động của Phật. Trong mọi hang động đó đều có hàng vạn ức không lường các đức Phật. Trong rốn các đức Phật, mỗi mỗi đều mọc ra hoa sen lớn, cùng với trước không khác. Ánh sáng đó chiếu soi tất cả những Bồ tát Thập Địa. Những Bồ tát đó gặp ánh sáng ấy rồi liền vào cửa Thủ Lăng Nghiêm vi diệu, lại được vào đến Kim Cương Thí định. Chư thiên gặp ánh sáng ấy thì phát sâu ý đạo Vô Thưọng Chánh Chân, tâm nhãn mở sáng thấy tướng các đức Phật. Như ánh sáng này chiếu soi Bồ tát rồi khiến cho các lỗ chân lông của thân những Bồ tát mà trong mỗi lỗ chân lông tạo ra hàng atăngkì những mây cúng dường và mọi thứ đồ cúng dường. Cái táng che (cái) nhỏ nhất cũng che cả cõi Diêm Phù Đề … Như vậy mọi thứ đồ cúng dường, đủ thứ báu nhiều chẳng thể nói hết. Những đồ cúng dường này từ Thủ Lăng Nghiêm Hải sinh ra – Đức Phật bảo ngài A-nan – Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân khi tác khởi sự tư duy đó mà nhớ tưởng như vậy hay mơ thấy việc này thì đời đời chỗ sinh ra luôn luôn gặp được ngài Phổ Hiền, ngài Văn Thù. Những vị Pháp Vương Tử đó sẽ vì hành giả, ở trong mơ, hằng nói pháp của Phật ba đời quá khứ vị lai, nói Thủ Lăng Nghiêm tam muội, Bát Chu tam muội, cũng nói quán Phật tam muội… dùng làm chuỗi ngọc trang sức. Tỉnh dậy rồi, hành giả ghi nhớ giữ gìn không để quên mất. Công đức hiện thế của người này là được Thiên nữ làm cấp sứ (người cung cấp cúng dường) khước trừ được tội sinh tử của mười vạn ức kiếp. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

Ức ức ánh sáng chiếu xuống hạ phương khiến cho đất của hạ phương như màu nước của cõi Diêm Phù Đề. Ở trong nước có hằng hà sa số lầu báu. Bên dưới mọi lầu báu có một ngôi thành báu như thành của Càn thát bà. Ở bên trên lầu báu có cây báu lớn. Lá cành của cây ấy, tất cả đều dấy lên lửa. Lửa ấy cháy rực, trên dưới đều thiêu đốt. Nó đốt các loại nước này hóa thành lưu ly. Trên đất lưu ly lại mọc lên các cây. Mỗi cây có bốn con rồng. Trên đỉnh rồng ấy có ngọc Như Ý. Ánh sáng ngọc ấy soi khắp thân rồng khiến cho rồng và cây thuần một màu hoàng kim. Khi rồng ấy phấn tấn thì những lỗ chân lông của rồng phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy soi thẳng xuống hạ phương vô lượng thế giới. Rồi qua khỏi hạ phương lại soi vô lượng thế giới khiến cho đất của hạ phương đều trở thành màu vàng. Trên đất màu vàng có hoa Kim cương. Trên hoa Kim cương có thiên nữ vàng. Mỗi một thiên nữ vàng có trăm ngàn thiên nữ làm quyến thuộc. Các thiên nữ đó đều khen ngợi Từ Tâm Tam Muội Hải. Từ hạ phương ra lên thẳng đến thành Ca Tỳ La ở thượng phương. Tiếng khen ấy như tiếng sấm khen nói lòng từ. Khi nói lời nói đó, đầu lông của các rồng phát ra các mây báu. Trong mỗi một đám mây có hằng hà sa số cõi Phật. Trong mỗi một cõi Phật có những vị hóa Phật nhiều như vi trần. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra ánh sáng này. Khi ánh sáng này hiện thì thế giới ở hạ phương có trăm vạn núi vàng. Ở vùng núi cao ấy có trăm ức hang động báu như mây trào dậy. Trong mọi hang động đó thuần là các đức Phật trắng; Bồ tát bạch diệu và chúng Thanh văn làm thị giả. Ánh sáng Kim tinh ở bên trái, bên phải đức Phật giống như xẻ núi, mọi thứ báu chiếu sáng lẫn nhau. Có diệu bảo cái lớn như núi Tu di, do vô lượng báu tạo thành. Mỗi một thứ báu có hàng trăm ức ánh sáng xoay vần uyển chuyển. Ở trong mọi ánh sáng đều có trăm ức tòa sư tử. Trên mỗi một tòa sư tử có trăm ức nadotha đại chúng Bồ tát ngồi kiết già. Trong lỗ chân lông của thân các Bồ tát đó có atăngkì ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có một vị hóa Phật, thân vị Phật ấy viên mãn như núi Tu di. Các vị hóa Phật đó dùng trăm ngàn bài kệ khen nói, chẳng giết hại, từ là căn bản, từ chính là diệu dược (thuốc hay) trừ khử hoạn sinh tử, từ là mắt thanh tịnh dẫn đường cho những trời người. Các vị hóa Phật đó khen ngợi lòng Từ rồi đều tạo tác biến hóa làm núi Lưu ly. Ở bên trong núi ấy có hàng trăm ức Bồ tát. Mỗi một vị Bồ tát có hàng vạn Phạm vương làm thị giả, đi đến trước hành giả, ở trong núi báu, khác miệng mà đồng âm, đều nói lên pháp đó, bảo rằng : “ Này thiện nam tử ! Ông đối với Niệm Phật Hải nên tu lòng từ ! Các đức Phật Bồ tát do tu lòng Từ nên được Đại Từ của Phật. Nay ông nên phải tu giới bất sát, hành Đại Từ Bi”. Lúc bấy giờ, cũng có trời, rồng… tám bộ chúng, tất cả chúng sinh gặp ánh sáng này, nghe lời nói đó nên sau khi mạng chung nhất định đều sinh về cõi Phạm thế – Đức Phật bảo ngài A-nan – Ông giữ gìn lời nói này cẩn thận chớ quên mất ! Ông bảo các Tỳ kheo khiến cho họ tu hành việc đó. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu nghe lời nói đó, tư duy pháp đó thì người có chánh niệm, có chánh thọ, tam muội chẳng động, lòng chẳng giải đãi thoái lui, phát tâm Đại thừa thì phải biết rằng, người đó luôn ở trong mơ nhìn thấy ánh sáng này và cùng nghe hóa Phật nói pháp Từ Tâm. Tỉnh dậy rồi, hành giả nhớ và giữ gìn, hiểu sâu nghĩa thú, tư duy nghĩa ấy thì liền được Từ định. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, người tư duy pháp đó, giữ gìn pháp đó thì phải biết rằng, người đó, lòng họ thanh tịnh như lòng của các đức Phật và khước trừ được tội sinh tử của ức kiếp, thường sinh vào cõi Phạm thế, gặp gỡ các đức Phật, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp. Đã nghe pháp rồi thì họ phát tâm Bồ đề và vào đời vị lai nhất định thành Phật đạo.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông, khiến cho đất của phương Đông trắng như núi Tuyết. Ở trên mọi ngọn núi đều có mây báu trắng. Mây trắng báu ấy giống như bảo đài với hàng vạn ức lưới báu, chuông báu. Vùng lưới báu chuông báu ấy có một ức ánh sáng trắng. Những ánh sáng trắng đó hóa thành đài vàng. Trên mỗi đài vàng có bốn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có bốn ức Bồ tát làm thị giả. Vị Phật cùng với các vị Bồ tát đều giảng nói pháp từ, khen ngợi sự chẳng giết hại bằng hàng ngàn ức bài kệ. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì trừ được tội sinh tử của nửa ức kiếp.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Nam, khiến cho đất phương Nam đều trở nên màu hồng. Ánh sáng màu hồng này soi cho đến vô lượng thế giới của phương Nam đều biến thành mây trắng. Hai màu hồng, trắng phân minh. Ở mọi vùng mây có các vị hóa Phật màu trân châu trắng với tòa ngồi bằng hoa sen vàng thượng diệu màu Tỳ lưu ly. Ở trên hoa vàng còn có hàng trăm ức Bồ tát đều màu hoàng kim với trăm ức ánh sáng báu sáng lòa mây trắng. Trong mỗi một ánh sáng có năm trăm vị hóa Phật, các vị hóa Phật ấy khác miệng đồng âm cũng khen ngợi sự chẳng giết hại và Đại Từ Bi. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nghe pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì người này ở trong mơ, luôn luôn thấy Phật Thích Ca Văn phóng ra ánh sáng từ rốn chiếu soi đến họ. Tướng ánh sáng này như đã nói trên. Người ấy sinh ra chẳng ở trong bào thai, luôn luôn sinh ra ở tịnh quốc, như sinh lên trời thì tự nhiên hóa sinh.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây. Ánh sáng ấy đủ thứ màu như mặt trăng, như vì sao. Ở vùng trăng sao ấy có ngọc bảy báu. Một viên ngọc sinh ra nước, một viên ngọc sinh ra lửa, một viên ngọc sinh ra cây. Quả cây ấy là Kim cương bảy báu. Một viên ngọc sinh ra hoa. Ở trong ánh sáng mặt trăng có cung điện trời Phạm với quyến thuộc của vua Phạm và mọi thứ báu của trời Phạm đều đầy đủ. Ở trong ánh sáng của sao có cung điện của Ma Ê Thủ La và quyến thuộc của họ. Mỗi một cung điện trời có hàng trăm vạn ức Phạm vương. Mỗi một Phạm vương có vô lượng vô số đại chúng các trời làm quyến thuộc, còn số Ma Ê Thủ La.v.v… thì chẳng thể biết. Những ngọc báu ấy phát ra ánh sáng lưu ly. Bên trong ánh sáng lưu li có tượng vàng ròng. Tượng vàng ròng ấy ngồi trên tòa bạch bảo, cổ đeo ánh sáng trân châu đỏ. Trong ánh sáng trân châu đỏ có trân châu hóa Phật kết thành. Các vị hóa Phật đó và các thiên chúng khác miệng đồng âm, khen nói sự chẳng giết hại, khuyến lệ, sách tấn hành giả tu hành Đại Từ Bi – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, có người nhớ tưởng, có người tư duy như người quán tưởng này thì ở trong miệng, luôn mơ thấy chư Phật vì mình nói pháp Từ Bi, khước trừ được tội sinh tử của bảy ức kiếp.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Bắc, khiến cho đất phương Bắc đều màu san hô xen lẫn báu hổ phách, mai côi, trân châu, mã não, pha lê.v.v… Trong mỗi một báu có một ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm một con Sư tử. Trên lưng sư tử có Thất bảo cái. Bảo cái ấy cao đẹp như núi Tu di, cán bằng lưu ly, trang nghiêm bằng lụa báu năm màu và hoa. Trên mỗi một hoa có trăm ức vị hóa Phật. Mặt của mỗi một vị hóa Phật như màu của vàng Diêm Phù Đàn, tóc màu lưu li xanh biếc, thân màu của trăm ức báu, cánh tay màu trân châu hồng, móng tay màu vàng ròng, trong tay tướng màu hoa sen trắng, đùi vua nai màu hoa Ưu đàm, tướng dưới chân màu tỳ lăng ma ni. Từ dưới chân phóng ra ánh sáng năm màu lên đến mép tóc. Những lỗ chân lông của thân đều có hóa quang. Trong một lỗ chân lông có một ức Bồ tát. Rốn của mỗi vị Bồ tát có một hoa sen lớn. Hoa ấy cao lớn như núi Tu di do trăm báu tạo thành. Trên hoa có Phật, đức Phật ấy cao lớn cùng ngang bằng với hoa, cũng phát ra ánh sáng ở rốn. Khi hiện tướng này thì mọi con sư tử báu phấn khích như kinh sợ. Ở lông sư tử thì đầu mỗi một sợi lông có trăm ức cõi Phật. Mỗi một cõi Phật được trang nghiêm bằng vô lượng trăm ức hoa sen báu. Trên hoa sen ấy cũng có hàng trăm ngàn đại chúng Bồ tát. Các vị Bồ tát đó cũng phát ra tướng ánh sáng rốn như Bồ tát trên. Mọi ánh sáng màu của những Bồ tát như vậy đã hợp thành một ngọn núi. Núi ấy cao hiển như đài vàng ròng. Bốn góc của đài ấy có bốn Phạm tràng, đầu mỗi tràng đều có bốn ức cõi Phật. Trong mỗi một cõi có trăm ngàn tháp mà tháp cực nhỏ cũng cao từ cõi Diêm Phù Đề lên đến cõi Phạm thế, với vô số những thứ vi diệu và tất cả tượng báu làm trang nghiêm. Những tháp báu và hóa Bồ tát đó đều chung ca ngợi hai pháp Hỉ và Xả. Nếu có chúng sinh gặp ánh sáng ấy thì được trí tuệ lớn như ông Xá Lợi Phất, tổng trì chẳng mất giống như ông A-nan – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật muốn thấy tướng đó thì phải phát tâm từ bi, tu trì giới bất sát (chẳng giết hại). Người khắp vì tất cả chúng sinh mười phương thi hành cái hạnh đó thì tuy chẳng ngồi thiền mà ở trong mơ luôn được thấy mọi sắc tướng như đã nói trên – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người giữ lời nói đó tức là giữ Phật tâm. Người tác khởi sự quán tưởng đó có thể quan sát tâm của Phật. Các đức Phật Như Lai lấy Đại Từ Bi mà làm tâm, lấy giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến mà làm thân, lấy mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba niệm xứ mà tự trang nghiêm. Quán như vậy thì gọi là quán Phật tâm – Đức Phật bảo ngài A-nan – Trong tướng rốn này, ở đây sơ lược mà giải đó thôi, còn cảnh giới Phật tâm, sau này ta sẽ tự giải nói thêm. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tư duy pháp đó, thọ trì pháp đó, quán tưởng pháp đó thì tội chướng ác nghiệp đời hiện tại của người này đều thanh tịnh hết.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông Nam, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông Nam, hóa thành bánh xe vàng. Mỗi một bánh xe vàng có bảy báu đi theo. Mỗi một bánh xe vàng có trăm ức Chuyển Luân Thánh Vương. Mỗi một Chuyển Luân Thánh Vương có một ngàn con trai, bốn thứ binh… đều đầy đủ. Báu ngọc thần ấy (?) phát ra ánh sáng lớn như khói như mây. Trong mỗi một ánh sáng có hoa sen lớn. Hoa, hoa hợp nhau, trong hợp hoa phát ra ánh sáng mặt trời lớn. Mỗi một ánh sáng mặt trời có con voi màu vàng, hóa Bồ tát cưỡi. Khi Bồ tát cưỡi voi có vạn ức điềm ứng chẳng thể tuyên nói. Ánh sáng của các Bồ tát hợp thành một vị Phật. Thân màu vàng của đức Phật ấy đo lường thật vô biên, cũng phát ra tướng rốn. Ánh sáng tướng rốn cũng như trên đã nói. Người trong các ánh sáng đều khen năm giới, nói mười pháp thiện. Các Chuyển Luân Vương, tay cầm bánh xe vàng, tuyên dương mười pháp thiện – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng điều đó, tư duy điều đó, quán tưởng pháp đó thì trừ khước được tội sinh tử của hai mươi vạn ức kiếp, thường sinh lên cõi trời, nghe lời dạy mười pháp thiện.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây Nam, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây Nam. Đến những cõi đó rồi thì ánh sáng ấy như mưa, giống như ngọc đủ màu. Trong mỗi một viên ngọc phát ra trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hợp thành đài báu. Ở góc mỗi một đài có mười hai núi Tu di. Mỗi một núi Tu di có vô lượng nhà, khám thờ. Trong mỗi một khám thờ có vô lượng vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có vô lượng Bồ tát làm quyến thuộc. Mọi vị hóa Phật và hóa Bồ tát đó cũng đều khen ngợi nói mười pháp thiện. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật nhớ tưởng pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì trừ được tội sinh tử của mười hai ức kiếp, như muốn vãng sinh đến cõi thanh tịnh của phương khác thì tùy ý không gì ngăn ngại.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Tây Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Tây Bắc, ánh sáng ấy trở thành màu ngọc. Nó cùng với pha lê màu hồng tía lại chói sáng nhau đẹp thêm. Trong mỗi một ánh sáng có trăm ức xe báu, hễ xe trắng là ngựa trắng, xe tía là ngựa tía, xe hồng là ngựa hồng… nhưng các bờm ngựa đều màu vàng ròng. Trên mỗi xe như vậy đều có hiên thất bảo, trên hiên xe đều có táng che. Táng che ấy có mười tầng, ở trong hiên xe và táng che có hàng ngàn ánh sáng. Vòng cài báu rũ xuống, ánh sáng tuông theo ra rồi vào trở lại trong xe hóa thành vị Hóa Phật. Thân Phật cao hiển hàng vạn ức do tuần. Trong rốn mỗi một vị hóa Phật phát ra vô số ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vị hóa Phật. Người gặp ánh sáng này thì vĩnh viễn thoát khỏi ba đường, không có ba ác hoạn. Ánh sáng này quay trở lại đứng ngay trong hư không như mây bay lên. Mỗi một vùng mây có trăm ngàn vị Hóa Phật. Mỗi một vị Hóa Phật có trăm ức đệ tử như Đại Ca Diếp siêng năng tu hành mười hai hạnh khổ Đầu Đà, lòng không tham trước, chán lìa thế gian. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nhớ tưởng pháp đó, tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó thì phải biết, người này thường thấy các đức Phật, mau chóng thành tựu Đại thừa, trừ được tội sinh tử của mười ức kiếp.

Ức ức ánh sáng chiếu về phương Đông Bắc, cho đến vô lượng thế giới ở phương Đông Bắc. Ánh sáng ấy thanh tịnh không có các uế trược như kính pha lê, trong ngoài đều hiện. Ở trong ánh sáng đó thấy Phật mười phương đều phát ra tướng rốn. Ánh sáng rốn của mỗi một vị Phật soi khắp vô lượng những cõi Phật trong mười phương. Mỗi một cõi Phật có số hóa Phật nhiều như vi trần. Mỗi một vị hóa Phật có số Bồ tát nhiều như vi trần làm quyến thuộc. Ánh sáng tướng rốn của những Bồ tát như vậy giống như cây trụ vàng. Đầu cây trụ vàng ấy có hàng vạn ức rương áo báu, hòm báu, ví như đài mây từ hư không mà hạ xuống. Mỗi một rương, hòm có hàng vạn ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hợp thành một vị Phật. Trong thân mỗi vị Phật có vô lượng vi trần vô số hóa quang. Ở đầu các ánh sáng có các vị hóa Phật giống như hạt cải. Thân đức Phật nhỏ này cũng phát ra tướng rốn như trên đã nói. Ánh sáng rốn này soi khắp mười phương, rồi vào rốn các đức Phật. Rồi từ rốn các đức Phật phát ra để vào ngực các vị Bồ tát. Từ ngực các vị Bồ tát phát ra để vào đỉnh đầu các vị Thanh văn. Từ đỉnh đầu của các Thanh văn phát ra, ví như đám mây lớn với vô lượng màu vàng xen lẫn các báu, vào dưới chân Phật. Vào dưới chân Phật rồi, trong tướng ngàn vòng nan hoa dưới chân Phật phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy như hoa. Rồi từng hoa, từng hoa tiếp theo nhau nhiễu quanh đức Phật hàng ức vòng. Từ móng chân màu đồng đỏ, lỗ lông gót chân cho đến đỉnh kế, các lông của thân Phật như hoa sen nở. Trong mỗi lỗ chân lông có tám muốn bốn ngàn hoa sen. Trên mỗi hoa sen có tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có tám muôn bốn ngàn vị Đại Bồ tát làm quyến thuộc. Ánh sáng ở vùng chân mày của mỗi một vị Bồ tát phát ra âm thanh vi diệu khen ngợi sắc thân của Phật.

Đức Phật Thích Ca Văn thị hiện ánh sáng này rồi bảo với đại vương rằng :

– Sắc thân Như Lai đã phân biệt sắc tướng rồi, ngoại trừ tâm Phật còn các cảnh giới khác thì như đã thị hiện.

Đức Phật nói thế rồi, lúc đó vua cha liền đứng dậy, sửa y phục, làm lễ đức Phật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, quì xuống chắp tay bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sắc thân của đức Như Lai thì tất cả đã nhìn thấy! Duy chỉ có bên trong tâm Phật có cảnh giới gì ? Có tướng mạo ra sao ? Tu hành việc gì ? Sở niệm của tâm Phật là những vật nào ? Ánh sáng của tâm Phật hình dáng ra sao ?

Lúc đó, đức Như Lai liền mĩm cười, ánh sáng của tướng lưỡi, như trên đã nói, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, rồi theo đỉnh đầu đức Phật mà vào. Lúc bấy giờ, đức Như Lai vào Giải Thoát Tướng tam muội, khiến cho vua cha thấy như hang động lưu ly thành tượng vàng ròng. Bên trong tượng vàng ròng, ở trong ngực của đức Phật như ống lưu ly. Từ dưới yết hầu của đức Phật, thấy tim của đức Như Lai như đóa hoa sen hồng với hoa vàng ánh lên trang sức. Ánh sáng vàng của hoa sen hồng chẳng nở, chẳng khép, tròn xoe như quả tim, có tám muôn bốn ngàn mạch máu. Mỗi một mạch như mạch đã vẽ của họa sư nhà trời. Trong mỗi một họa tiết có tám muôn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám muôn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có tám muôn bốn ngàn thứ màu sắc. Trong mỗi một màu có vô lượng vi trần vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật ngồi trên đài Kim cương. Đài Kim cương ấy phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy nhiều vô số, chẳng thể nói đủ được. Trong mỗi một ánh sáng có hóa Phật mà số lượng như trên đã nói. Các vị hóa Phật đó đều hiện ra tướng lưỡi dài rộng lên đến mép tóc. Lưỡi của mỗi một vị Phật có một ức ánh sáng. Ánh sáng ấy hợp lại làm mười ngàn đoạn. Trên mỗi một ánh sáng có trăm ức vị hóa Phật ngồi kiết già vào Phổ Hiện Sắc Thân tam muội. Sắc thân vi diệu của các đức Phật mười phương vào trong tam muội hải này. Khi đức Phật đang vào tam muội này thì thành Ca Tỳ La và tinh xá Ni Câu Lâu Đà cùng cõi Diêm Phù Đề như là đóa hoa báu lớn. Ở trên đài hoa có Pha lê tràng. Đầu pha lê có gương pha lê. Vô lượng những đất nước thanh tịnh của mười phương đều hiện ở trong gương. Hội đại chúng nhìn thấy các đức Phật. Hoặc thấy thân Phật mà lượng đồng với hư không thuần màu hoàng kim. Hoặc thấy thân Phật như núi Tu di do bốn báu tạo thành. Hoặc thấy thân Phật màu lưu ly lớn mười trượng. Hoặc thấy thân Phật trở thành màu bạc trắng, lớn hàng trăm ngàn trượng. Hoặc thấy thân Phật Thích Ca Văn lớn một trượng báu, hoặc thấy bảy thước, hoặc thấy ba thước, hoặc thấy cao đến khắp cõi Phật thế, hoặc thấy bảy tấc, thấy vào bình bát. Các quỉ thần thấy như vi trần, thấy như hạt cải, thấy như hạt gạo vàng. Các quỉ thần thấy rồi, quỉ thần nhỏ.v.v.. đều rất vui mừng.

***

PHẨM THỨ TƯ : QUÁN PHẬT TÂM.

Lúc bấy giờ, tim Phật như đóa hoa sen hồng. Ở cánh hoa sen có tám muôn bốn ngàn những ánh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy soi khắp chúng sinh của năm đường. Khi ánh sáng này phát ra thì chúng sinh thọ khổ đều xuất hiện. Đó là khổ của địa ngục A tỳ, mười tám địa ngục nhỏ, mười tám địa ngục lạnh, mười tám địa ngục Hắc ám, mười tám địa ngục tiểu nhiệt, mười tám địa ngục bánh xe đao, mười tám địa ngục bánh xe kiếm, mười tám địa ngục xe lửa, mười tám địa ngục nước phân sôi, mười tám địa ngục vạc nước sôi, mười tám địa ngục sông tro, địa ngục năm trăm ức rừng kiếm, địa ngục năm trăm ức rừng gai, địa ngục năm trăm ức trụ đồng, địa ngục năm trăm ức mây sắt, địa ngục năm trăm ức lưới sắt, mười tám địa ngục hang sắt, mười tám địa ngục hòn sắt, mười tám địa ngục đá nhọn, mười tám địa ngục uống nước đồng… nhiều những địa ngục như vậy. Đức Phật bảo rằng :

– Này A-nan ! Sao gọi là địa ngục A tỳ ? A là không, Tỳ là ngăn, a là không, tỳ là cứu, a là không ngưng, tỳ là không động, a là rất nóng, tỳ là rất não, a là chẳng nhàn, tỳ là chẳng trụ, chẳng nhàn chẳng trụ gọi là địa ngục A tỳ. A là lửa lớn, tỳ là nóng dữ. Lửa dữ vào tim gọi là địa ngục A tỳ.

Đức Phật bảo :

– Này A-nan ! Địa ngục A tỳ dọc ngang bằng đều tám ngàn do tuần với bảy lớp thành sắt, bảy tầng lưới sắt, xuống dưới mười tám ngăn, vây giáp vòng bảy lớp đều là rừng đao. Bên trong bảy lớp thành lại có rừng kiếm. Dưới mười tám ngăn, mỗi ngăn có tám muôn bốn ngàn lớp. Ở bốn góc của ngăn ấy có bốn con chó đồng lớn mà thân dài rồng đến bốn mươi do tuần, mắt như chớp kéo, nanh như cây gươm, hàm răng như núi dao, lưỡi như mũi nhọn sắt, tất cả lông trên thân đều phát ra lửa dữ mà khói thì hôi thối, vật hôi thối của thế gian không gì có thể ví dụ được. Có mười tám ngục tốt, đầu là đầu la sát, miệng là miệng dạ xoa, sáu mươi tư mắt, mắt tung đuổi hòn sắt như cái xe mười dặm. Trên nanh chó chìa ra cao bốn do tuần, đầu nanh lửa tuông ra, thiêu đốt xe sắt trước khiến cho bánh xe sắt, mỗi một vành bánh xe hóa làm một ức ngọn lửa. Dao bén, mũi nhọn, kiếm, kích… đều từ lửa phát ra. Lửa tuông như vậy thiêu đốt thành A tỳ khiến cho thành A tỳ đỏ như nước đồng. Trên đầu ngục tốt có tám đầu trâu. Mỗi một đầu trâu có mười tám cái sừng. Đầu mỗi một sừng đều phát ra đám lửa. Đám lửa lại hóa thành mười tám vành bánh xe. Vành bánh xe lửa lại biến làm vòng dao lửa như bánh xe vậy. Từng vòng, từng vòng tiếp nhau tại vùng lửa rực, đầy trong thành A tỳ. Chó đồng há miệng le lưỡi tại đất, lưỡi như sắt nhọn. Khi lưỡi lè ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy trong thành A tỳ. Bên trong bảy lớp thành có bảy tràng bằng sắt. Đầu tràng lửa vọt ra như suối nước sôi trào lên. Dòng sắt ấy (?) lan đi đầy thành A tỳ. Bốn cửa của ngục A tỳ, ở trên then cửa có tám mươi cái chõ đồng đựng nước đồng sôi trút xuống từ cửa, lan tràn đầy trong thành A tỳ. Mỗi một khoản ngăn có tám vạn bốn ngàn con rắn sắt lớn, phun ra độc, phun ra lửa. Thân của chúng đầy trong thành. Những con rắn ấy gào rống như sấm trời động, mưa xuống những hòn sắt lớn đầy thành A tỳ. Việc khổ của thành này có đến hàng tám muôn ức ngàn. Những sự khổ nhất trong các sự khổ đều gom lại tại thành này. Có năm trăm ức trùng, mỗi trùng có tám muôn bốn ngàn mỏ. Đầu mỏ lửa tuông ra như mưa xuống đầy thành A tỳ. Khi những trùng này xuống thì lửa dữ của A tỳ càng cháy lớn thêm. Lửa cháy ánh sáng đỏ soi sáng đến tám muôn bốn ngàn do tuần, từ địa ngục A tỳ xông lên biển lớn, đốt cháy thêm dưới núi. Giọt nước biển lớn như trục bánh xe trở thành cây sắt lớn nhọn đầy trong thành A tỳ.

Đức Phật bảo rằng :

– Này A-nan ! Nếu có chúng sinh giết cha, hại mẹ, nhục mạ sáu thân thì người tạo những tội đó, sau khi mạng chung, con chó đồng há miệng hóa ra mười tám cái xe, hình trạng như xe vàng với bảo cái ở trên. Tất cả lửa cháy hóa làm ngọc nữ. Tội nhân từ xa nhìn thấy lòng phát sinh vui mừng nghĩ : “ Ta muốn đến trong đó ! Ta muốn đến trong đó !” Khi gió đao thổi thì lạnh quá, thất thanh nghĩ rằng : “ Thà được lửa cháy ở trên xe mà để lửa cháy tự đốt”. Tác khởi ý nghĩ đó rồi, người ấy liền mạng chung. Hồn lìa khỏi xác đã thấy ngồi xe vàng, ngắm nhìn ngọc nữ thì họ đều cầm búa sắt chém chặt thân tội nhân ấy. Bên dưới thân thì lửa dậy như vòng lửa xoáy, ví như khoảng thời gian người tráng sĩ co duỗi cánh tay, đã rơi thẳng trong địa ngục A tỳ. Tội nhân ấy từ ở ngăn trên, như bị vòng lửa xoáy, đưa xuống đến mép ngăn cuối, thân khắp bên trong các ngăn. Con chó đồng sủa lớn, nhai xương hút tủy. Ngục tốt La sát cầm chỉa sắt lớn đâm vào đầu khiến cho lửa cháy khắp thân thể, tràn đầy thành A tỳ. Lưới sắt mưa dao theo lỗ chân lông vào thân thể tội nhân. Hóa Diêm La Vương lớn tiếng ra lệnh rằng : “ Này giống ngục nhân ngu si ! Khi ngươi còn tại thế, chẳng hiếu với cha mẹ, tà kiến, kiêu mạn, vô đạo ! Chỗ ngươi hôm nay sinh ra gọi là địa ngục A tỳ.Ngươi chẳng biết ơn, không có tàm quí (hổ thẹn), chịu sự khổ não này có vui không vậy ? Nói lời đó xong liền biến mất.

Lúc bấy giờ, ngục tốt lại đuổi tội nhân từ ngăn dưới lên cho đến ngăn trên, trải qua trong tám muôn bốn ngàn ngăn. Thân tội nhân này qua đến mép lưới sắt thì phải mất một ngày một đêm nơi ấy mới khắp cùng.Một ngày một đêm ở địa ngục A tỳ tính theo ngày tháng năm của cõi Diêm Phù Đề này là sáu mươi tiểu kiếp. Tội nhân ngũ nghịch không tàm không quí, tạo tác ngũ nghịch. Người phạm tội ngũ nghịch nên khi sắp mạng chung, bị mười tám ngọn gió đao như xe lửa sắt cắt phanh thân thể. Do sức nóng bức bách nên họ liền nói rằng : “ Được ở dưới cây lớn mát mẻ, hoa màu đẹp dạo chơi thì chẳng vui lắm ư ?” Khi tác khởi ý niệm này thì tám muôn bốn ngàn những rừng kiếm ác của địa ngục A tỳ hóa làm cây báu, hoa trái sum suê, hàng hàng lớp lớp ở trước mặt. Lửa cháy rất nóng hóa làm hoa sen ở dưới những gốc cây kia. Tội nhân thấy rồi nói rằng : “Sở nguyện của ta, nay đã được kết quả”. Khi nói lời nói đó thì nhanh như mưa rào, tội nhân lên ngồi trên hoa sen. Ngồi trong giây lát thì các trùng mỏ sắt từ hoa lửa khởi lên, xuyên qua xương vào trong tủy, thấu qua tim xuyên vào não, vin theo cây mà lên. Tất cả rừng kiếm nạo thịt thấu xương, vô lượng rừng đao đang ở trên mà hạ xuống, xe lửa, lò than… mười tám việc khổ cùng một lúc rước đến. Khi tướng này hiện thì tội nhân bị vùi lấp dưới đất, từ ngăn dưới lên, thân như hoa nở đầy khắp ngăn dưới. Từ ngăn dưới khởi lên lửa cháy dữ dội lên đến ngăn trên. Đến ngăn trên rồi, thân tội nhân đầy trong đó, nóng bức khổ não lắm nên họ há miệng, thè lưỡi. Do tội người này nên hàng vạn ức nước đồng, hàng trăm ngàn vòng đao, từ không trung hạ xuống, vào ở đầu, ra ở chân. Tất cả việc khổ ở đây quá hơn nói ở trước gấp trăm ngàn vạn lần. Người đủ năm nghịch tội thì người ấy chịu tội đầy đủ năm kiếp. Lại có chúng sinh phạm bốn trọng cấm, luống ăn của tín thí, bài báng, tà kiến, chẳng biết nhân quả, đoạn học Bát nhã, hủy hoại Phật mười phương, ăn trộm đồ vật của tăng, dâm dật vô đạo, lược bức các Tỳ kheo ni tịnh giới, chị, em thân thích mà chẳng biết hổ thẹn, hủy nhục người thân, tạo mọi việc ác. Tội báo người này là khi sắp mạng chung thì gió đao phanh thây, nằm nghỉ chẳng định như bị đánh đập khổ sở. Lòng người ấy mê man phát khởi tư tưởng cuồng si, thấy nhà cửa, trai gái lớn nhỏ, tất cả đều là vật bất tịnh, cứt đái hôi thối tràn đầy chảy ra bên ngoài.

Lúc bấy giờ, tội nhân liền nói rằng : “ Tại sao chỗ này không có thành bang đẹp và núi rừng đẹp để ta dạo chơi mà đến chỗ như nơi vật bất tịnh này ?” Nói lời nói đó rồi thì ngục tốt dùng chỉa sắt lớn nâng cao ngục A tỳ và những rừng đao hóa làm cây báu và ao nước mát mẻ, lửa rực hóa làm hoa sen cánh vàng, các con trùng mỏ sắt hóa làm le le và nhạn, tiếng thống khổ của địa ngục nghe như âm thanh ca vịnh. Tội nhân nghe rồi nghĩ rằng : “ Như chỗ đẹp này, ta phải vào dạo chơi !” Nghĩ rồi, tức thì người ấy ngồi trên hoa sen lửa, các loài trùng mỏ sắt theo lỗ chân lông của thân ăn nuốt thân thể người ấy, hàng trăm ngàn vòng sắt từ trên đỉnh đầu nhập vào, hằng hà sa số chỉa sắt móc tròng mắt người ấy, con chó đồng của địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt tranh nhau phanh thây người ấy lấy tim mà ăn, trong chốc lát thân người ấy như hoa bị cắt xén đầy mười tám ngăn. Mỗi một hoa có tám muôn bốn ngàn cánh. Mỗi một cánh có đủ chi tiết đầu, thân, tay… ở tại một ngăn địa ngục mà địa ngục chẳng lớn, thân người này chẳng nhỏ, đầy khắp như trong đại địa ngục này. Những tội nhân đó đọa vào địa ngục này trải qua tám muôn bốn ngàn đại kiếp Nê lê này diệt, người ấy lại vào trong mười tám ngăn địa ngục ở phương đông chịu khổ như trước. Ngục A tỳ này ở phía Nam cũng có mười tám ngăn, phía Tây cũng có mười tám ngăn, ở phía Bắc cũng có mười tám ngăn và các phương bàng.v.v…. Người ấy phải trải qua đầy đủ. Tội ngũ nghịch, phá hoại Tăng kỳ, làm ô uế Tỳ kheo ni, đoạn các căn lành… như tội nhân này đầy đủ mọi tội thì thân đầy trong ngục A tỳ, bốn chi lại đầy trong mười tám ngăn. Ngục A tỳ này chỉ thiêu đốt như những ngục chủng chúng sinh này. Khi kiếp sắp hết thì cửa Đông liền mở, tội nhân thấy ngoài cửa Đông, suối trong tuông nước, rừng cây hoa trái, tất cả đều hiện ra. Những tội nhân đó thấy lửa cháy tạm tan nên từ ngăn dưới uyển chuyển trườn lên (đi bằng bụng) chạy đến trong ngăn trên, tay vịn vào bánh xe dao thì trong hư không mưa xuống hòn sắt nóng. Tội nhân chạy về hướng cửa Đông, đến nơi thì cửa cài then, ngục tốt La sát tay cầm chĩa sắt đâm ngược vào mắt họ, chó sắt nhai tim, buồn bực tuyệt vọng mà chết. Chết rồi sống lại, tội nhân thấy cửa Nam mở… như trước không khác. Như vậy, cửa Tây, cửa Bắc cũng đều như vậy. Thời gian này trải qua nửa kiếp. Ở địa ngục A tỳ chết thì sinh trong băng lạnh. Ở ngục băng lạnh chết thì sinh vào chỗ Hắc ám, chịu cảnh mắt không thấy gì trong tám ngàn vạn năm, chịu thân trùng lớn uyển chuyển trườn đi, các tình tối tăm không hiểu biết gì, bị hàng trăm ngàn chồn sói kéo dắt nhau ăn thịt. Sau khi mạng chung, tội nhân sinh vào trong loài súc sinh, chịu hình hài chim thú năm ngàn vạn thân. Trở lại sinh trong loài người thì tội nhân chịu thân điếc, đui, câm ngọng, ghẻ lở, ung thư, nghèo cùng, hạ tiện… tất cả mọi tướng suy bại đều phải mang vào thân. Chịu hình hài ti tiện này trải qua năm trăm thân, sau tội nhân trở lại sinh trong đường ngã quỉ. Trong đường ngã quỉ, tội nhân gặp được thiện tri thức, các vị Đại Bồ tát quở trách tội nhân ấy rằng : “ Ngươi ở vô lượng đời, tiền thân đã làm tội nhiều vô hạn, bài báng chẳng tin, đọa vào địa ngục, chịu các khổ não chẳng thể nói đủ được. Hôm nay, ngươi phải phát lòng từ bi !” Các ngã quỉ nghe lời nói đó rồi, xưng “Nam mô Phật”. Nhờ ân lực niệm Phật, tức thời mạng chung sinh lên cõi bốn trời. Sinh lên cõi đó rồi, người ấy hối lỗi tự trách phát tâm Bồ đề. Tâm quang của chư Phật chẳng bỏ qua những điều này nên nhiếp thọ hết nhóm người đó, thương xót những người đó như thương La Hầu La, dạy bảo họ tránh địa ngục như yêu tròng mắt con ngươi.

Đức Phật nói với Đại vương rằng :

– Muốn biết chỗ soi rọi của ánh sáng tâm đức Phật thì phải biết là, tâm quang của Phật thường soi chiếu những chúng sinh khổ không gián đoạn, không cứu này. Sở duyên của tâm Phật thương duyên với những chúng sinh cực ác này. Dùng tâm lực của Phật tự trang nghiêm nên qua vô số kiếp khiến cho tội nhân kia phát tâm Bồ đề – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sao gọi là mười tám địa ngục lạnh. Địa ngục lạnh là nơi tám phương có núi băng. Mỗi núi băng có mười tám ngăn. Lại có mười tám những núi băng nhỏ màu như pha lê. Những băng lạnh này chứa đầy vùng núi băng như hoa sen, cao mười tám do tuần, bên trên có bánh xe băng, ngang dọc ngang bằng mười hai do tuần. Như trời mưa đá, từ hư không mà rơi xuống. Thế gian tự có kẻ không lòng từ, cướp đoạt vô đạo, lấy trộm, bóc lột, giết hại chúng sinh… Tội báo của người này là khi sắp mạng chung, tất cả gió đao hóa làm lửa nóng. Tội nhân nghĩ : “ Hôm nay, tại sao ta chẳng nằm trên băng”. Bị lửa bức bách nên khi tác khởi ý niệm đó thì ngục tốt La sát, tay cầm bánh xe băng, như con nhạn trắng bay liệng nhẹ nhàng trên hư không mà đến. Tội nhân thấy rồi hết nóng được mát mẻ, lòng liền ái niệm, đứt hơi mạng chung, sinh lên trên núi băng. Sau khi đã sinh lên đó thì mười tám núi băng như cái quạt, quạt tất cả băng lạnh theo lỗ chân lông mà vào đầy khắp trong mười tám ngăn. Mỗi ngăn mổ, cắt, bửa, tách tội nhân ra như hoa sen đỏ. Bên trên bánh xe băng hạ xuống che khắp thân tội nhân ấy. Rồi núi băng tám phương nhất thời đều hợp lại, không nói từ nào khác chỉ kêu rằng : “ A la la !”. Lúc bấy giờ, tội nhân liền nghĩ rằng : “ Ta khi nào sẽ khỏi được băng lạnh sinh ra trong lửa nóng ?”

Lúc bấy giờ, trong hư không có những con chim sắt miệng mỏ phun ra lửa từ không trung hạ xuống phá đầu mổ não ăn, tội nhân chết liền. Sau khi mạng chung ngục tốt lại dùng chỉa sắt đánh xuống đất, kêu lên rằng : “ Sống dậy ! Sống dậy !” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống trở lại và dấy lên suy nghĩ rằng : “ Ta nay, trên thân lửa lớn rực cháy, nguyện xin được băng lạnh như trước để diệt lửa này !”. Ngục tốt lại dùng bánh xe băng tiếp đón, đặt tội nhân vào trong ngục khác. Như vậy, trong mười tám ngăn không ngăn nào mà tội nhân chẳng trải qua. Số năm thọ mạng của tội nhân ở địa ngục lạnh này như ngày tháng tám ngàn vạn năm của Tứ thiên vương. Tội đã hết rồi, người đó sinh trong lớp tiện nhân nghèo cùng hèn hạ, trong năm trăm đời làm nô tỳ cho người, áo chẳng đủ che thân, ăn chẳng no miệng. Tội này hết rồi, người ấy gặp thiện trithức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan :

– Sao gọi là địa ngục Hắc ám ? Địa ngục Hắc ám là mười tám lớp núi đen, mười tám lớp lưới đen, mười tám lớp giường sắt, mười tám lớp màn sắt. Mỗi một ngọn núi cao tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi một màn sắt cũng dày tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi một tấm màu có mười tám lớp núi Thiết vi đen la liệt như rừng che tối núi này. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, bạc bẽo với ánh sáng đèn Phật, Pháp, Tăng, trộm cắp của cha mẹ, sư trưởng, hòa thượng bài báng người nói pháp, cũng hủy hoại thầy luận nghị của thế tục.v.v… chẳng kỵ tôn ty, chẳng biết hổ thẹn. Do tội này nên người đó khi mạng chung, mắt có ánh điện chớp chớp chẳng dừng, liền nghĩ rằng : “ Ta có tội gì mà thường thấy lửa đó ?” Tội nhân liền nhắm hai mắt lại, chẳng cam lòng muốn thấy nó và ánh sáng mặt trời mặt trăng. Khi mạng sắp hết thì ngục tốt La sát nâng giường sắt lớn, trương tán che bằng sắt lớn lên như đám mây lớn, cưỡi hư không mà đi.

Lúc bấy giờ, ở không trung không hình có tiếng nói rằng : “ Chỗ này tối tăm, ngươi có muốn đến không ?” Tội nhân nghe tiếng tức thời dấy lòng muốn đến chỗ đó. Hơi thở đứt, tội nhân mạng chung liền ngồi trên giường sắt, như con nhạn chúa liệng đáp xuống chỗ tối đen. Đã vào trong đó rồi thì tội nhân bị bánh xe đao từ trên xuống chém, chặt thân minh. Có con quạ sắt lớn mỏ lớn dài sắt bén, từ núi bay lại, mổ lấy tội nhân ăn. Đau đớn quá, tội nhân vội chạy đi tìm ánh sáng chẳng được mà dưới chân bị gai tật lê xuyên xương, thấu tủy… Tội nhân sợ hãi như vậy trải qua năm trăm vạn ức năm, cũng như số ngày tháng năm của Tứ Thiên Vương. Đầu người đó đánh vào những núi Hắc ám, não chảy, mắt lòi, ngục tốt La sát dùng chỉa sắt xiềng mắt đặt yên trở lại trong hốc mắt. Tội hết mới ra làm người bần cùng, mắt mờ tối mù, không thấy. Hoặc bị bệnh ghẻ lở, mọi người xua đuổi. Chịu tội báo như vậy trải qua năm trăm thân. Qua khỏi những việc đó, về sau tội nhân gặp được thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là mười tám địa ngục nóng nhỏ ? Mười tám địa ngục nóng nhỏ là như ngục A tỳ, cùng có bảy lớp thành, bảy lớp lưới sắt và trang nghiêm bằng vô lượng những việc ác. Tự có chúng sinh chẳng thuận lời dạy của thầy, dấy khởi lòng ác nghịch, chẳng biết ơn nuôi dạy, trộm của thầy, làm hại thầy, làm bẩn đồ ăn tịnh của thầy, ngồi lên giường, tòa ngồi của thầy, lấy chén, bình bát của thầy, che giấu đồ bất tịnh, làm năm thứ ác. Sao gọi là năm ? – Đó là mắng thầy, bài báng thầy, đánh thầy, giết thầy và đem những thứ thuốc độc cho thầy uống. Nếu Sa môn, Bàlamôn làm các việc phi pháp, hại thầy, bài báng thầy, người tội ác này không có tàm quí, lột tượng, phá tháp, cướp lấy vật pháp bảo, giết chết bác, chú, cha, mẹ, anh em, chị em. Người tội như vậy khi sắp mạng chung thì ngục tốt của mười tám từng địa ngục A tỳ đều dùng chỉa sắt nâng lên một ngăn ngục. Mọi ngục như vậy giống như đại bảo cái. Rồi mưa xuống cơm mưa li ti, giọt mưa như hoa. Tội báo của người này bị nhiệt não vào tim như lửa thiêu đốt, nhìn thấy mưa mát mẻ liền nghĩ rằng : “ Nguyện cho ta được ngồi dưới bóng mát của bảo cái. Mưa mát xối thân ta chẳng cũng vui lắm sao ?” Nói lời đó xong, đứt hơi mạng chung. Như khoảnh khắc ném quả cầu, người ấy liền ngồi ở trên giường gươm lớn với trăm ức mũi kiếm nhọn. Mỗi mũi nhọn đều phát ra lửa, vừa thiêu đốt vừa đâm thân người ấy. Ở không trung, bảo cái làm bánh xe lửa, từ trên mà xuống, bổ thẳng vào đỉnh đầu người ấy. Thân người ấy tan nát thành hàng ngàn đoạn. Bên trên mưa xuống những viên đồng, chúng theo lỗ chân lông vào thân tội nhân. Ngục tốt la sát dùng chỉa sắt lớn đâm vào mắt tội nhân, hoặc dùng tên sắt bắn vào tim người ấy. Tội nhân ngất đi mà chết, trong giây lát, sống trở lại ngồi lên trên giường gươm, rồi bị gió chướng xoáy thổi rơi vào địa ngục. Đã vào ngục rồi thì vua Diêm la cùng cung điện đều ở trong hư không, bảo rằng : “ Này ngục chủng ! Ngươi làm mọi thứ ác, giết thầy, bài báng thầy… chỗ sinh hôm nay của ngươi gọi là Bạt Thiệc A tỳ (ngục cắt lưỡi). Ngươi ở tại ngục này phải trải qua ba kiếp”. Nói lời đó rồi liền biến mất. Sự thống khổ của ngục này như trên đã nói.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là mười tám địa ngục Đao Luân ? Địa ngục Đao Luân là núi đao bốn mặt. Ở mọi vùng núi chứa dao như gạch. Trong hư không có tám trăm ức vạn bánh xe đao cực lớn theo thứ lớp mà hạ xuống giống như giọt mưa. Tự có chúng sinh ưa làm khổ não người khác, giết hại chúng sinh… đến khi mệnh chung bị bệnh khí ngược làm khổ, lòng đầy phiền muộn, tim cứng như đá liền nguyện rằng : “ Được một lưỡi dao bén tước bỏ những khổ hoạn này thì chẳng cũng sướng lắm ư ?” Lúc đó, ngục tốt, đỉnh đầu đội bánh xe đao che khuất thân quỉ, đi đến chỗ tội nhân, hạ giọng xúi rằng : “ Ta có dao bén có thể cắt được bịnh nặng”. Tội nhân vui mừng liền tự nghĩ rằng : “ Chỉ việc này là nhanh thôi !” Nghĩ rồi đứt hơi, mạng chung sinh lên trên bánh xe đao, tội nhân như con voi say chạy, rơi vào vùng núi đao. Khi đó, bốn ngọn núi đao cùng một lúc hợp lại. Bốn thứ núi đao cắt nát thân tội nhân ấy chẳng tự chịu đựng được, ngất đi mà chết. Ngục tốt La sát đuổi ép tội nhân chạy lên núi đao. Chưa đến đỉnh núi, dao đã gây thương tích từ dưới chân cho đến tận tim. Sợ ngục tốt nên tội nhân lổm ngổm bò lên. Đã đến đỉnh núi thì ngục tốt tay cầm tất cả cây đao đánh giết tội nhân. Trong thời gian chưa chết, bị con dao cắt nhai tim ăn, khổ sở trăm bề. Trùng sắt ăn thịt đều hết sạch, tội nhân liền sống lại, chân mang bánh xe sắt từ trên không hạ xuống. Một ngày một đêm, tội nhân có sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Như vậy người nhiều, thường có mười tám thứ nhưng do tội của người này nên lại càng thêm kịch liệt. Họ thọ như vua bốn trời, những tám ngàn vạn năm. Tội hết sinh ra đời phải đọa vào loài súc sinh, năm trăm đời đem thân cung cấp cho miệng mọi người. Lại năm trăm đời nữa chịu hình hài ty tiện, nhiên hậu họ mới gặp được bậc đại thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục Kiếm Luân ? Địa ngục Kiếm Luân là nơi ngang dọc bằng nhau những năm mươi do tuần, bên trong chứa đầy cây gươm. Số cây ấy nhiều ít như lúa, mè, tre, cỏ. Mỗi một cây gươm cao bốn mươi do tuần, lá là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, hoa là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, trái là tám muôn bốn ngàn bánh xe gươm, cành lá tám muôn bốn ngàn chỗ đựng nước đồng sôi… Thế gian tự có chúng sinh ngu si ưa giết hại không chán. Những tội nhân này khi sắp mạng chung gặp bệnh đại nhiệt (rất nóng), liền nghĩ rằng : “ Hôm nay thân thể ta lúc nóng lúc lạnh, toàn thân cứng ngắt giống như cái chày bằng sắt”. Người ấy liền phát nguyện rằng : “ Nguyện được cây gươm Kim cương để cắt bỏ cái khổ hoạn này thì vui chẳng thể nói được !”. Lúc đó, ngục tốt liền tự hóa thân giống như hình dáng cha mẹ, bạn bè ở tại trước mặt người ấy mà bảo rằng : “ Ta có phép bí mật, như ý ngươi muốn ta sẽ trao cho !”. Tội nhân nghe rồi, lòng rất ưa thích, muốn được thấy gấp gấp thì đứt hơi, mạng chung. Nhanh như ngựa chạy, người ấy sinh vào trong hoa kiếm, bị vô lượng kiếm nhọn nạo xương, xẻ thịt, nát tan như đậu hũ. Lại có con chim sắt từ trên cây đáp xuống móc mắt mổ ăn. Có quỉ Đại La sát, tay cầm búa sắt bủa đầu lòi não, chó sắt đến liếm ăn. Chết rồi, sống lại, tội nhân bị đuổi lên cây, chưa đến đầu cây, thân đã nát như bụi. Trong một ngày thân kinh qua các cây. Trong một đêm thân lại kinh qua các cây. Một ngày một đêm thân bị giết nhiều như bụi, chẳng thể kể số lượng. Do tội giết người nên phải chịu tai ương như thế này trải qua tám vạn ức năm, rồi sinh vào loài súc sinh. Làm súc sinh, thân thường gánh vác nặng nhọc, chết rồi lại bị lột da. Trải qua năm trăm đời, người ấy lại sinh trong loài người, chịu thân nghèo cùng, đoản mạng, nhiều bệnh, ốm gầy… Qua khỏi kiếp đó rồi, về sau mới gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan :

– Sao gọi là địa ngục xe lửa. Địa ngục xe lửa là nơi có những cái vạc đồng mà mỗi một cái dọc ngang bằng nhau, bốn mươi do tuần, bên trong chứa đầy lửa, bên dưới có mười hai bánh xe, bên trên có chín mươi bốn vòng lửa. Tự có chúng sinh là đệ tử của Phật và thờ chín mươi sáu thứ Phạm thiên. Đồ chúng xuất gia và tại gia thì lừa dối, mê hoặc, tà mạng, dua nịnh, làm ác…. Những tội nhân như thế này lúc sắp mạng chung thì phong đại (một trong bốn đại) dấy động trước làm cho thân thể lạnh như băng, liền nghĩ rằng : “ Lúc nào sẽ được đám lửa mạnh mà ngồi vào trong thì dứt trừ vĩnh viễn bệnh lạnh”. Khởi niệm đó rồi, ngục tốt La sát hóa làm xe lửa như hoa sen vàng, ngục tốt ở trên đó, dáng như đồng nam, tay cầm cây phất trắng, cổ vũ mà đến. Tội nhân thấy rồi, lòng sinh ái trước mà nghĩ rằng : “ Như màu rực rỡ của ánh sáng hoa vàng này mà soi rọi ta nóng lên thì nhất định trừ tan lạnh buốc. Nếu được ngồi lên trên xe đó thì sướng chẳng thể nói !”. Nghĩ như vậy rồi thì người ấy đứt hơi, mạng chung, được chở trên xe lửa, chi tiết bị lửa cháy, rơi vào trong đám lửa, thân thể cháy tan. Ngục tốt xướng lên : “ Sống lại !” Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống trở lại. Thường thường xe lửa nghiến qua thân đến mười tám lần, thân nát như bụi. Trời mưa nước đồng sôi tưới khắp thân thể, liền sống trở lại. Như vậy qua lại, lên đến mép nước sôi, rơi xuống trong vạc, bị xe lửa nghiến nát… một ngày một đêm có đến chín mươi ức lần chết, chín mươi ức lần sống. Hết tội, người này sinh vào nhà bần cùng, bị sự sai khiến của người, bị ràng buộc với người khác, chẳng được tự tại. Đền bồi lợi dưỡng cho người xong, họ mới được thoát. Do công đức thiện tâm xuất gia đời trước nên họ gặp được bậc thiện tri thức vì họ nói pháp, lòng mở ra, ý thông suốt, thành A la hán.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục nước phân sôi (cứt sôi). Địa ngục phân sôi là nơi rộng tám mươi do tuần có mười tám vòng thánh sắt. Mỗi một thành sắt có mười tám ngăn. Trong mỗi một ngăn, bốn vách đều có trăm ức vạn cây kiếm. Đất như dao nhọn, mũi nhọn dày ba thước. Ở trên mũi nhọn ấy có trăm ngàn gai tật lê nhiều chẳng thể kể xiết. Mỗi một gai tật lê và vùng cây kiếm đã sinh ra những con trùng sắt nhiều không lường. Mỗi một con trùng sắt có trăm ngàn đầu. Mỗi một đầu có trăm ngàn mỏ, đầu mỏ đều có trăm ngàn con giun (lãi) mà miệng phun phân nóng sôi như nước đồng, chứa đầy bên trong thành sắt. Bên trên ngục có lưới sắt và quạ sắt. Thế gian tự có chúng sinh phá tám giới trai (bát quan trai giới), làm bẩn Sadi giới, Sadini giới, làm bẩn Thức xoa ma ni giới… tự làm ô uế tịnh giới, làm ô uế Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, làm ô uế Ưu bà tắc giới, Ưu bà di giới… Các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, các Ưu bà tắc, Ưu bà di, Sa di, Sa di ni, thức xoa ma ni… bảy chúng như vậy và tất cả chúng khác làm ô uế đồ ăn sạch của tăng, làm ô uế đồ ăn của cha mẹ, trộm cắp ăn trước, tay chẳng sạch cầm nắm, và người tri sự của tăng vì cậy thế mình nên làm ô uế đồ ăn sạch của tăng. Bốn bộ đệ tử do chẳng tịnh thân ngồi trên giường tăng kỳ, phạm “thân lan già” lâu chẳng sám hối, huống ăn đồ ăn của tăng, ngồi trong tăng chúng cùng tăng Bố tát… Những người như vậy nhiều không lường. Những tội nhân nghiệp ác bất tịnh, khi sắp mạng chung toàn thân đều có mùi như con xạ hương, chẳng thể chịu nỗi, liền nghĩ rằng : “ Phải ở chỗ nào chẳng nghe mùi này. Như có hơi khác giống như cuồng phong đến xông ướp tâm ta !” Tội nhân nghĩ thế rồi thì ngục tốt La sát tự hóa thân mình giống như cái bình vẽ, bên trong đựng đầy phân dơ, đi đến chỗ tội nhân, dùng tay sờ mó khiến cho tội nhân lòng sinh ái trước, đứt hơi mạng chung, giống như bị gió thổi, tội nhân rơi vào trong phân sôi. Rơi vào đó rồi thối rữa bị mọi loài trùng ăn. Khi chạy khắp nơi mòn xương, lòi tủy, đói khát bức bách nên tội nhân uống nước phân sôi nóng, giun, giòi ăn lưỡi của họ. Một ngày một đêm có chín mươi ức lần sinh, chín mươi ức lần chết. Tội hết, người ấy mới sinh vào gia đình bần tiện, bị ràng buộc với người khác, chẳng được tự tại. Giả sử khi sinh ra đời, người ấy luôn gặp vua ác, lệ thuộc vào người chủ tà kiến, bị đủ thứ việc ác bức thiết thân họ, bướu nhọt, ghẻ dữ là y phục. Do nhân duyên nghe pháp thiện đời trước nên gặp được bậc thiện tri thức, xuất gia học đạo, thành A la hán với ba minh sáu thông và đủ tám giải thoát.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là mười tám địa ngục Vạc nước sôi. Địa ngục Vạc nước sôi là nơi có mười tám vạc. Mỗi một cái vạc dọc ngang bằng nhau bốn mươi do tuần, bảy lớp lưới sắt, bên trong chứa đầy nước đồng sôi. Có năm trăm quỉ La sát chụm than đá lớn thiêu đốt vạc đồng ấy. Lửa than đá này cháy hừng hực liên tục trải qua sáu mươi ngày mà lửa chẳng thể tắt, so với ngày của cõi Diêm Phù Đề là tròn hai mươi vạn năm. Trên vạc nước sôi như vậy, nước đồng vọt lên như sao, rồi hóa thành vòng lửa trở lại vào trong vạc… Thế gian tự có chúng sinh hủy phạm cấm giới của Phật, giết sinh vật cúng tế, vì ăn thịt nên thiêu đốt núi non, đồng trống làm thương hại chúng sinh, hâm nấu sống chúng sinh dùng lửa đốt cháy… Như những tội nhân này khi sắp mạng chung, thân tâm phiền muộn, mắc đại tiểu tiện chẳng tự kiềm chế, hoặc nóng như nước sôi, hoặc lạnh như băng, liền nghĩ rằng : “ Nếu được vào trong nước rất ấm để tắm gội thì chẳng cũng vui ư ?” Ngục tốt La sát hóa làm kẻ đồng bộc, tay bưng âu nước sôi đi đến chỗ tội nhân. Lòng tội nhân vui mừng, ưa thích âu nước sôi này, đứt hơi mạng chung sinh vào trong vạc nước sôi. Thân thể người ấy mau chóng tan rã chỉ còn lại xương, chỉa sắt cào ra, chó sắt ăn lấy rồi mửa ói ra đất. Tội nhân liền sống trở lại. Ngục tốt lại xua đuổi họ vào trở lại trong vạc. Sợ vạc nóng nên họ vin cây kiếm trèo lên, xương thịt bị cắt lìa rơi vào trong vạc nước sôi. Do tội sát sinh nên một ngày đêm có hằng hà sa số lần chết, hằng hà sa số lần sống. Tội hết, họ mới sinh vào trong loài súc sinh, chỗ lợn, dê, gà, chó mạng ngắn ngủi. Thọ thân như vậy tám ngàn vạn năm, sau khi mạng chung, tội nhân trở lại sinh trong loài người mà phải chịu hai thứ quả báo. Một là nhiều bệnh, hai là thọ mạng ngắn ngủi. Lấy thọ mạng ngắn ngủi và nhiều bệnh làm quyến thuộc qua nhiều kiếp không tính toán được, người đó gặp được bậc thiện tri thức, thọ trì năm giới, hành sáu Ba la mật.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục sông tro ? Địa ngục sông tro dài hai trăm do tuần, rộng mười hai do tuần, bên dưới có dao bén, trên bờ có cây gươm, chứa đầy bên trong lửa dữ dày mười hai trượng. Lại có tro tàn che bên trên lửa dày bốn mươi trượng. Thế gian tự có chúng sinh không tàm quí, trộm cắp của cha mẹ, trộm cắp của sư trưởng, trộm cắp của bạn lành, anh em, chị em. Người ngu si như vậy không có tàm quí, chẳng biết ơn nuôi dưỡng, lòng không đền đáp lại, tham lợi muốn được, chẳng biết ương họa, chẳng thuận lời dạy của thầy. Tội báo người này, khi sắp mạng chung, tim bụng đầy hơi, nghẹn thở chẳng liên tục, liền nghĩ rằng : “ Tim ta như bùn, khí đầy trong ngực, được một chút lửa để hơ nóng thân ta thì chẳng cũng sướng lắm ư ?” Ngục tốt La sát đáp ứng ý nghĩ đó, liền đến hóa làm vợ con, tay nâng lò lửa có ít tro phủ lên trên đi đến chỗ tội nhân. Lúc đó lòng tội nhân rất vui mừng. Do vui mừng nên đứt hơi mạng chung, sinh vào trong dòng sông tro. Chỗ các cây gươm có một La sát, tay cầm gươm bén muốn đến gây tổn hại. Người đó sợ hãi chạy vào sông tro, nhấc chân hạ chân, dao đều gây tổn thương cho chân người ấy. Cây gươm mưa xuống toàn dao, dao theo lỗ chân lông mà vào. La sát dùng chĩa móc tim người ấy ra. Người tội ấy đau buồn ngã lăn ra đất mà chết, rồi liền sống trở lại ngay. Do nhân duyên tội trộm cắp sư trưởng, cha mẹ của người đó nên một ngày một đêm 500 ức lần sinh, 500 ức lần chết. Bị đói khát bức bách nên tội nhân há miệng muốn ăn, cây gươm dao xuống theo đầu lưỡi vào bụng mổ bụng cắt tim, ngất đi mà chết. Do đời trước nghe tên Phật, Pháp, Tăng nên sau khi hết tội được sinh vào trong loài người, nghèo cùng hèn hạ. Người ấy giác ngộ đời là vô thường, xuất gia học đạo, gặp lúc đời không Phật thì thành Bích Chi Phật, gặp đời có Phật thì thành A la hán.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục rừng gươm ? Địa ngục rừng gươm rộng tám ngàn do tuần, bên trong chứa đầy cây gươm mà trái là hòn sắt nóng. Như cây kiếm này cao hai mươi bốn do tuần. Tự có chúng sinh chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, tạo tác nghiệp ác khẩu, không lòng từ ái, dùng dao gậy gia hại người. Tội báo người này khi sắp lâm chung, tim như keo sơn bám chặt vào sự sống, liền nghĩ rằng : “ Tim ta bị trói buộc, đụng việc gì chẳng bỏ như đắm rượu tham sắc. Thân tuy gặp hoạn, tim còn chẳng dứt, nếu được dao bén cắt đứt cái yêu thích này”. Ngục tốt La sát ứng tiếng liền đến hóa làm người hầu, cầm gươm sáng bày nói với tội nhân rằng : “ Tim ngài nhiều tham trước có thể xem kính này !” Khi xem tấm gương đó, tội nhân thấy bên trong có hình dạng gươm bén liền nghĩ rằng : “ Nay thân thể ta gầy yếu chẳng kham nỗi việc ham muốn, nếu được lưỡi gươm bén này cắt đứt tim ta thì chẳng cũng khoái lắm ư ?” Khi tác khởi ý niệm này thì đứt hơi mạng chung thọ thân ngã quỉ, từ trong những cây gươm bỗng nhiên hóa sinh ra. Sinh ra rồi thì hòn sắt nóng từ trên đỉnh đầu vào và theo miệng mà ra, ruột, bao tử cháy đen tan rã, ngã lăn ra đất. Ngục tốt lại dùng chĩa sắt đánh đập xua đuổi chạy lên cây, lên một cây rồi, bị trùng mỏ sắt ăn. Do sợ hãi nên tội nhân nhảy vọt lên cây khác. Như vậy đắp đổi, tội nhân trải qua hết rừng cây kiếm, một ngày một đêm tám vạn lần sinh, tám vạn lần chết. Sau khi hết tội, người đó sinh vào đời đói kém và kiếp dịch bệnh, làm người thấp hèn, miệng luôn hôi thối, mọi người thấy ghét. Qua hết kiếp số, người đó gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục năm trăm ức rừng gai nhọn ? Địa ngục rừng gai nhọn rộng tám ngàn do tuần, bên trong chứa đầy gai nhọn bằng sắt. Đầu mỗi một gai nhọn có mười hai lưỡi kiếm. Trên cây lại có cái kìm lớn bằng sắt nóng. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, ác khẩu, lưỡng thiệc, nói thêu dệt, nói bất nghĩa, đùa cợt không tiết chế, lời nói dối gạt thị phi, nói lỗi của kinh điển, hủy báng thầy luận bàn nghĩa lý. Như tội báo này thì lúc sắp mạng chung, tội nhân thấy yết hầu nóng, lưỡi khô, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một mũi nhọn bén đâm vào cổ cho chảy máu, khiến cho các mạch máu rót nước mát vào thì cũng chẳng khoái lắm ư ?” Khi tác khởi ý nghĩ này, ngục tốt La sát hóa làm cha mẹ, tay cầm nguyệt châu, đầu viên ngọc sinh ra mũi nhọn, đem cho vào miệng như nước sắp rót. Tội nhân vui mừng nghĩ rằng : “ Sở nguyện của ta nay đã được kết quả”. Nghĩ vậy rồi, đứt hơi mạng chung, nhanh như ánh chớp, người ấy sinh vào rừng gai nhọn. Sau khi đã sinh ra, ngục tốt La sát, tay cầm kìm sắt kéo bật lưỡi tội nhân ra, rồi tám mươi con trâu sắt kéo cái cày sắt lớn cày phá cái lưỡi của tội nhân ấy. Các cây của rừng gai nhọn, có gió thổi lại, đánh đập thân thể người ấy. Một ngày một đêm, người ấy sáu trăm lần sinh ra, sáu trăm lần chết đi. Qua khỏi kiếp nạn đó rồi, về sau được sinh trong loài người thì môi hở, mặt nhăn, lời nói lắp bắp. Như tội nhân này thì thân thể sinh ra các thương tích máu mủ tràn lan, trải qua năm trăm đời, người nhìn thấy gớm ghiếc. Qua hết những việc đó rồi, về sau, tuy có lời nói ra người chẳng tín thọ, nhưng gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục năm trăm ức trụ đồng ? Địa ngục trụ đồng là nơi có một trụ đồng giống như ngọn núi lớn, cao sáu trăm do tuần, bên dưới có lửa mạnh, trên lửa có giường sắt, bên trên giường có bánh xe dao. Ở chỗ các bánh xe dao có trùng mỏ sắt và quạ sắt ở bên cạnh. Thế gian tự có chúng sinh ngu si tham lam mê hoặc nhiều, nhiễm ái cũng lắm, chẳng thanh tịnh, phạm hạnh tà dâm, chẳng phải nơi, chẳng phải lúc làm nghiệp bất tịnh. Giả sử có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Bàlamôn.v.v… Những người phạm hạnh, nếu ở chẳng phải lúc, chẳng phải nơi phạm pháp bất tịnh… cho đến tất cả kẻ phạm tà hạnh, tạo tác nghiệp bất tịnh. Như những tội nhân này khi sắp mạng chung, thì toàn thân cựa quậy rung động mạnh mẽ chẳng định yên giống như cung nỏ chẳng tự kiềm chế được, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một cây trụ bằng đồng hay sắt cứng chắc to lớn để trói thân thể này khiến cho chẳng lay động được”. Ngục tốt La sát ngay lúc đó liền đến, hóa làm người sai bảo, tay cầm gậy sắt, đi đến chỗ tội nhân bạch rằng : “ Hôm nay, thân ngài mạnh mẽ còn vật khác đều yếu mềm. Ngài có thể nắm lấy cây gậy này !” Lòng liền vui mừng, đứt hơi mạng chung. Như khoảnh khắc ngắn của cây gậy quay, người ấy sinh vào đầu trụ đồng, lửa mạnh cháy hừng hực thiêu đốt thân người ấy. Tội nhân sợ hãi nhìn xuống thấy trên giường sắt có người con gái đoan chính. Nếu người con gái đó xem ra đoan chính thì nam tâm phát sinh ái trước. Tội nhân từ trên trụ đồng muốn gieo xuống đất thì bị trụ đồng xuyên suốt thân, lưới sắt quấn quanh cổ, các trùng mỏ sắt rỉa ăn thân thể người ấy. Rơi xuống trên giường sắt, cả nam lẫn nữ đều cùng lúc sáu căn bốc lửa. Có con trùng sắt theo mắt mà vào, rồi từ nam căn và nữ căn mà ra. Nếu người làm ô uế giới thì riêng có chín ức những bọn trùng nhỏ như trùng tiếu thư (một thứ nhọt lở đầu ngón chân, ngón tay) có mười hai mỏ, đầu mỏ phát ra lửa, rỉa ăn thân thể người ấy. Quả báo tà dâm này, một ngày một đêm chín trăm ức lần sinh, chín trăm ức lần chết. Thọ hết mới ra khỏi, sinh vào trong loài tu hú, bồ câu. Thọ thân tu hú, bồ câu trải qua năm trăm đời, lại sinh trong loài rồng trải qua năm trăm thân. Về sau, tội nhân sinh trong loài người phải chịu thân hoàng môn (?) không căn, hai căn và căn chẳng định, trải qua năm trăm đời. Giả sử người ấy được làm người thì vợ chẳng trinh tiết tốt lành, con chẳng từ hiếu, nô tỳ chẳng thuận thảo. Sau khi qua khỏi những việc đó rồi, thì người tội ấy gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục năm trăm ức máy sắt ? Địa ngục máy sắt là nơi có một cái giường sắt, ngang dọc bằng nhau bốn trăm do tuần, bên trên đặt những cái bệ, trong bệ đều có hàng vạn ức nỏ sắt mà đầu nỏ nhọn có hàng trăm ức mũi nhọn. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, vì tham dục nên chẳng hiếu với cha mẹ, chẳng kính sư trưởng, chẳng vâng thuận lời dạy tốt, giết hại chúng sinh, ăn lộc theo những người gian… Tội báo của người này, khi sắp mạng chung, thân thể chấn động, những sáu lỗ của thân nước tự chảy ra. Như tội nhân này, tự thấy giường của mình như gấm Đâu la, liền sinh ý nghĩ rằng : “ Khi nào được một chỗ bền chắc mát mẻ để an thân nằm ngủ thì chẳng cũng khoái lắm sao ?” Khi khởi ý nghĩ đó thì ngục tốt La sát dùng chỉa nâng giường lên đem bày cái giường nệm lớn đến chỗ tội nhân. Tội nhân thấy rồi, lòng sinh vui mừng, muốn nằm lên giường nệm thì đứt hơi mạng chung sinh lên trên giường sắt vạn ức của bệ sắt từ dưới khởi động, bệ sắt thấp dơ lên, vô lượng nỏ sắt đồng thời đều trương lên, tất cả tên sắt bắn vào tim tội nhân. Một ngày một đêm sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Như vậy tội nhân chịu hết tội rồi thì sinh vào trong loài súc sinh trải qua năm trăm đời, rồi sinh trở lại trong cõi người làm kẻ bần cùng hạ tiện, bị sự sai khiến của người khác, chịu nhiều hình ngục, luôn bị đánh đập. Qua khỏi những việc đó rồi, về sau gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục lưới sắt ? Địa ngục lưới sắt là nơi0 có tám mươi chín lớp những lưới sắt. Trong mỗi một lớp lưới có trăm ức kim sắt. Mỗi một kim sắc thi triển ra năm bệ cửa. Thế gian tự có chúng sinh hư dối tà dâm, dua nịnh, yêu mị mê hoặc người, lòng luôn mê sảng, ngày đêm nghĩ ác, từng sát na, sát na luôn thành tựu ác niệm. Tội báo của người này là khi sắp mạng chung thân thể ngứa ngáy, liền nghĩ rằng : “ Nếu được một cái gai, cây kim hay cái lẹm mà đâm con trùng ghẻ thì chẳng cũng vui lắm ư ?” Khi khởi ý niệm đó thì ngục tốt La sát hóa làm lương y, tay cầm kim báu xướng lên rằng: “Trị bệnh đây !” Tội nhân nghe, lòng vui mừng đứt hơi mạng chung sinh vào vùng lưới sắt. Thân tội nhân rơi xuống thì mọi bệ đều khởi động, vô lượng những kim bắn vào lỗ chân lông. Như vậy, uyển chuyển trong những lưới sắt từng sát na chết, từng sát na sống. Tội hết, người ấy mới sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp, cũng chẳng nghe nói lời thiện của thế gian, huống gì là chính pháp. Tuy họ sinh trong loài người nhưng bị ba đường ác nhiếp lấy. Qua khỏi kiếp số đó thì gặp được bậc thiện tri thức, tuy được nghe pháp nhưng lòng chẳng hiểu rõ.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục hang sắt ? Địa ngục hang sắt là pháp khổ tối thượng trong đường ngã quỉ. Có một núi sắt ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần. Trên núi lại có năm trăm vạn ức hòn sắt nóng lớn. Mỗi một hòn sắt tròn xoe đúng mười ba do tuần. Ngọn núi lại có năm ngàn đao kiếm. Lúc đó hướng đông của núi kia mở ra, có một lỗ nhỏ như miệng của Ma Dà Đà to như cái đấu, chỉ phát ra khói đen. Thế gian tự có chúng sinh bị xan tham trói buộc, lòng như Kim cương, chỉ ưa cầu tìm không có chán đủ, cha mẹ vợ con đều chẳng cấp cho, sư trưởng giáo thọ xem như phân dơ, nô tỳ thân hữu chẳng cho ăn mặc. Người keo kiệt như vậy chẳng nghĩ đến vô thường, tiếc giữ của cải giống như tròng mắt. Tội báo người này là khi sắp mạng chung, các tình bế tắc, cấm khẩu chẳng nói, trong lòng lặng nghĩ rằng : “ Sau khi ta chết, những người ác đó ăn của cải của ta như nuốt hòn sắt, ở nhà của ta như ở trong nhà tối !” Nghĩ thế rồi, ngục tốt La sát hóa làm người xan tham giả thâu lấy của cải đem đến chỗ tội nhân, rồi dùng lửa đốt chúng. Lòng tội nhân vui mừng, đứt hơi mạng chung, sinh lên trên núi lửa, giống như trong hang sắt luyện chung với đồng. Đã vào trong hang thì thân thể người ấy bị trùng kiến, trùng đao rỉa ăn. Khói xông mắt người ấy làm họ chẳng thấy lửa cháy, sợ hãi kinh hoàng xô chạy khắp đông tây, đầu va vào núi sắt, những hòn sắt từ trên rơi xuống theo đỉnh đầu mà vào, rồi từ chân mà ra, khoảnh khắc một niệm chết, khoảnh khắc một niệm sống. Tội hết, người ấy mới sinh ra trong loài ngã quỉ. Thân quỉ ấy cao lớn đến mười do tuần mà cổ họng như cây kim, bụng lớn như núi, kiếm ăn khắp nơi mà chỉ có nước đồng rót vào cổ họng. Trải qua tám ngàn năm mới được hết khổ, người ấy lại sinh vào loài quỉ ăn đồ khạc nhổ, quỉ ăn mũ, quỉ ăn máu. Tội hết lại sinh làm thần chuồng xí heo, chó. Tội hết lại sinh làm người nghèo cùng, ti tiện không quần áo, đồ ăn, chỗ ở, rồi gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục Thiết hoàn ? Địa ngục Thiết hoàn là nơi rộng tám mươi do tuần, chứa bên trong tám mươi tám ngăn thành sắt. Trong mỗi một ngăn có năm núi đao che phủ bên trên, bên dưới có mười tám con rắn sắt lớn hung dữ. Mỗi con rắn đều lè lưỡi, lưỡi phát ra kiếm sắt. Đầu kiếm có lửa cháy. Thế gian tự có chúng sinh ngu si hủy nhục hạnh Bố thí, cho rằng bố thí không có quả báo, khuyên người tàng trữ. Người ngu si như vậy hướng về quốc vương, đại thần, Samôn, Bàlamôn và tất cả mọi người nói rằng, bố thí không nhân, cũng không quả báo. Như tội nhân này thì lúc sắp mạng chung, cổ cứng, mạch co lại, xoay chuyển chẳng nói lên lời, chẳng ưa thấy người, cúi nhìn mà nằm, trong lòng chỉ nghĩ : “ Ta chứa của báu, của ấy nếu được ở cùng ta thì khoái chẳng thể nói”. Ngục tốt La sát hóa làm vợ người ấy cầm hòn sắt nóng hóa làm đồ quí báu, ở trước người ấy nói rằng : “ Tôi theo ngài chết, đắp đổi có nhau, trọn chẳng lìa nhau !” Người ấy đứt hơi mạng chung sinh vào trong thành sắt, chạy rong khắp nơi, bị con rắn sắt tiết ra độc quấn quanh thân người ấy. Trên đầu bị lửa cháy, người ấy liền nghĩ : “ Nguyện xin trời thương ta tuông xuống mưa ngọt ngào !” Ứng theo ý nghĩ đó, trời mưa xuống những hòn sắt nóng lớn, chúng theo đỉnh đầu mà vào và từ dưới chân mà ra. Hết tội, người ấy mới được làm người nghèo cùng cô độc, câm ngọng. Số năm phải chịu của người đó như số năm của người ở địa ngục hang sắt nói trên. Về sau người ấy gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là địa ngục đá nhọn ? Địa ngục đá nhọn là nơi có hai mươi lăm núi đá. Mỗi một núi đá có tám ao băng (nước đá). Mỗi một ao băng có năm con rồng độc. Thế gian tự có chúng sinh ngu si, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chín mươi lăm những Phạm chí.v.v… họ nhận thức : Pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Hoặc họ phạm khinh giới lâu chẳng sám hối, lòng không xấu hổ giống như loài khỉ vượn. Tội báo của người này lúc sắp mạng chung thì dưới tim khí đầy, bụng căng như trống, ăn uống bị ói mữa, nước uống vào chẳng xuống, họ liền nghĩ rằng : “ Như được một viên đá nhọn khai thông yết hầu của ta thì chẳng cũng khoái lắm ư ?” Khi dấy ý niệm đó thì ngục tốt La sát hóa làm vị lương y, giả cầm viên đá nhọn làm hoàn thuốc lớn, đặt vào trong miệng người ấy, bảo rằng : “ Ngậm miệng !”. Người ấy, lòng sinh vui mừng, đứt hơi mạng chung, sinh vào vùng núi đá, vô lượng đá nhọn từ trên lưng mà vào, rồi từ trước ngực mà ra. Ngục tốt lại dùng chỉa sắt đâm vào miệng lấy đá bên trong ra. Một ngày một đêm có đến sáu mươi ức lần chết, sáu mươi ức lần sinh. Đây là sinh báo, từ lúc mạng chung này, tội nhân bị đọa vào địa ngục dây đen (hắc thằng). Địa ngục dây đen là nơi có tám trăm khóa sắt, tám trăm núi sắt, dựng “đại thiết tràng”, hai đầu buộc khóa. Ngục tốt La sát xua đuổi tội nhân bắt cõng núi sắt, chạy trên dây sắt, chẳng đi được rơi xuống đất thì lọt vào trong vạc nước sôi, la sát đuổi dậy, khát quá thì uống nước sắt, nuốt lấy đá mà chạy. Một ngày một đêm trải qua nỗi khổ đó đến mười vạn lần. Tội hết sinh ra đời làm tôi tớ cho người, gặp bậc thiện tri thức vì người ấy nói pháp chân thật thì như vải trắng tốt dễ nhuộm lấy màu, được A la hán với ba minh, sáu thông đủ tám giải thoát.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là mười tám địa ngục uống đồng ? Địa ngục uống đồng là nơi có một ngàn hai trăm thứ xe đồng đủ màu. Trên mỗi xe đồng có sáu ngàn viên đồng. Tự có chúng sinh xan tham, tật đố, tà kiến, ác thuyết, chẳng cung cấp cho cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và cùng tất cả. Lòng phát sinh xan tham, tật đố, thấy kẻ khác được lợi như tên bắn vào tim. Tội nhân như vậy lúc sắp mạng chung thì nhiều bệnh, gầy còm, hôn mê nói nhảm, trong miệng tự nói, muốn được trái cây để ăn. Khi nói lời đó thì ngục tốt La sát hóa xe đồng thành xe chở đầy trái cây, đi đến chỗ tội nhân. Tội nhân được rồi, lòng sinh vui mừng, liền nghĩ rằng : “ Được những trái ngon này ăn chẳng biết chán, rất thích hợp với ước nguyện của ta”, rồi vui mừng nhảy nhót, đứt hơi mạng chung. Chưa qua bao lâu, tội nhân đã sinh lên trên xe đồng, chẳng lâu liền sinh đến vùng núi đồng, xe đồng chẹt lấy cổ, ngục tốt La sát dùng kìm cạy miệng bắt uống đồng nấu chảy(nước đồng sôi). Uống đồng nước rồi mê muội ngã lăn ra đất, xướng lên rằng: “ Đói ! Đói !” đồng thời ngục tốt tách miệng cho mở ra, rồi dùng hòn đồng, sắt đặt vào trong miệng người ấy, nuốt luôn mười tám hòn, từng đốt từng đốt trên thân lửa bốc cháy. Tội nhân xô chạy khắp đông tây trải qua một ngày mới mạng chung. Ngục tốt xướng lên rằng : “ Thân đời trước của ngươi dua nịnh, tà tà kiến, xan tham, tật đố. Do nhân duyên đó nên phải chịu quả báo thiết hoàn. Hoặc đã từng xuất gia hủy phạm khinh giới lâu chẳng hối lỗi, luống ăn của tín thí. Do nhân duyên này nên phải ăn những hòn sắt”. Tội báo của người này là trải qua hàng ức ngàn vạn năm chẳng biết đến nước uống và lúa gạo. Thọ tội xong rồi trở lại sinh trong cõi người, người ấy suốt trong năm trăm đời nói năng lắp bắp, chẳng tự biện luận rõ ràng. Do tập nhiễm đời trước nên ăn uống đời sau họ phải ăn hòn than và ăn đất cục. Qua khỏi đó về sau, họ gặp bậc thiện tri thức, phát tâm Bồ đề.

***

PHẨM THỨ NĂM : QUÁN TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi nói lời đó rồi, do tâm lực của đức Phật nên mười luồng bạch quang từ tim đức Phật phóng ra. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới. Trong mỗi một luồng ánh sáng, có vô lượng vị hóa Phật cởi hoa sen báu. Đại chúng trong hội thấy ánh sáng của đức Phật như nước pha lê, hoặc thấy như sữa, thấy các vị hóa Phật từ ngực đức Phật ra rồi vào ở rốn đức Phật, cỡi thuyền báu lớn dạo chơi vùng tim đức Phật, qua lại năm đường, chỗ người thọ tội. Mỗi một tội nhân thấy các vị hóa Phật thân thiết như cha mẹ, bạn lành của mình, dần dần vì mình nói pháp xuất thế gian. Lúc đó, ở không trung có âm thanh lớn bảo các đại chúng rằng :

– Hôm nay, các ông nên quan sát tâm Phật ! Tâm các đức Phật chính là Đại Từ vậy. Sở duyên của đại từ là duyên vào chúng sinh khổ !

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là Từ tâm ? Từ tâm là nên phải ràng buộc ý niệm vào chúng sinh duyên khổ. Chúng sinh khổ là những người rất khổ não ở ba đường ác. Khi đức Phật nói lời đó thì đại chúng trong hội thấy ở địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, nhờ sức tam muội Giải thoát tam tướng nên khiến cho các chúng sinh tự biết túc mạng của mình. Họ thấy những kẻ thọ khổ đó đều chính là cha mẹ, thầy trò, các thiện hữu của mình trong vô lượng kiếp đời trước. Thấy rồi, họ kêu khóc, lễ Phật bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Hôm nay chúng con nhờ Phật lực nên thấy chúng sinh khổ đều chính là cha mẹ, sư trưởng của chúng con.

Đức Phật bảo đại chúng rằng :

– Chúng sinh ba cõi luân hồi trong sáu đường như bánh xe lửa xoay. Hoặc làm cha mẹ, anh em, dòng họ thân thuộc… tất cả mọi người trong ba cõi không ai chẳng phải chính là người thân của các ngươi thì tại sao dấy khởi lòng giết hại ganh ghét ?

Đức Phật nói lời đó xong thì vua Tịnh Phạn cùng tất cả đại chúng bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Sao gọi là Từ tâm tam muội ? Xin nguyện đức Thế Tôn vì tôi lược nói !

Đức Phật bảo đại chúng rằng :

– Luận về Từ tâm là ý tưởng phải khởi lên trước tiên liên hệ với người thân thuộc. Khi ràng buộc ý niệm thì nghĩ đến cha mẹ mình chịu các khổ não. Có người bất hiếu chỉ nghĩ đến sự yêu thương của vợ con mình không nghĩ đến chúng sinh chịu các khổ não. Có người thấy chúng sinh bị ghẻ lở ung nhọt. Thấy rồi, họ suy nghĩ phải làm sao cứu hộ ? Một tưởng thành rồi nên tác khởi hai tưởng. Hai tưởng thành rồi nên tác khởi ba tưởng. Ba tưởng thành rồi thì tưởng chứa đầy một nhà. Một nhà tưởng thành rồi thì chứa đầy cả tăng phường (vùng chúng tăng ở). Một tăng phường thành rồi thì chứa đầy một do tuần. Một do tuần thành rồi thì chứa đầy một cõi Diêm phù đề. Một cõi Diêm phù đề thành rồi thì chứa đầy cõi Phất Bà Đề. Cõi Phất Bà Đề thành rồi thì chứa đầy ba thiên hạ. Cứ như vậy rộng dần, chứa đầy cõi mười phương.

Thấy hết chúng sinh ở Đông phương đều là cha mình, thấy chúng sinh ở Tây phương đều là mẹ mình, thấy chúng sinh ở Nam phương đều là anh mình, thấy chúng sinh ở Bắc phương đều là em mình, thấy chúng sinh ở hạ phương đều là vợ con, thấy chúng sinh ở thượng phương đều là sư trưởng. Còn những chúng sinh ở bốn phương bàng (tứ duy) đều là Samôn, Bàlamôn.v.v… Thấy những chúng sinh đó đều chịu khổ não, hoặc bệnh nặng, hoặc thấy họ ở tại núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than… tất cả việc khổ. Thấy rồi, hành giả buồn khóc muốn cứu vớt nỗi khổ ấy, tự tạo tác ngã tưởng : Cỡi hoa sen báu đi đến chỗ những người đó, điều phục thân xoa nắn vì họ rửa ghẻ lở. Thấy lửa địa ngục, hành giả lo buồn tuông lệ, muốn diệt tắt lửa ấy. Thấy các quỉ đói, hành giả chích thân chảy máu hòa làm sữa cung cấp cho quỉ đói được no đủ. Đã no đủ rồi thì họ vì chúng nói pháp, khen Phật, khen Pháp, khen Tỳ kheo tăng. Làm sự khen ngợi đó rồi, hành giả lại lo buồn, lòng không tạm bỏ. Như vậy, cùng cực từ tâm khiến cho thông lợi, từng việc từng việc nói rộng rãi như Từ tam muội. Từ tâm như vậy gọi là Tập từ. Đã Tập từ rồi, tiếp theo phải hành bi. Bi là thấy chúng sinh chịu khổ như tên bắn vào tim, như phá hủy tròng mắt, lòng rất bi khổ, toàn thân tuông máu muốn cứu vớt nỗi khổ ấy. Bi như vậy thì có trăm ức môn (cửa), nói rộng như Đại Bi tam muội. Hành Từ Bi rồi, tiếp theo là hành Đại Hỷ. Thấy những chúng sinh yên ổn thọ lạc (hưởng thụ an vui) thì lòng sinh hoan hỷ như mình an vui không khác. Đã sinh hoan hỉ rồi, tiếp theo là hành pháp xả. Những chúng sinh đó không tướng lai khứ, từ tâm tưởng sinh ra. Tâm tưởng sinh là nhân duyên hòa hợp, giả gọi là tâm. Tâm tưởng này giống như cuồng hoa (hoa điên) từ điên đảo khởi lên. Khổ từ tưởng khởi lên, vui từ tưởng sinh ra. Tâm như trong cây chuối không thật bền chắc. Nói rộng ra như Kinh mười thí dụ. Khi tác khởi sự quán tưởng đó thì hành giả chẳng thấy thân tâm mà thấy tất cả pháp đồng như thật tính. Đó gọi là Bồ tát thân thọ tâm pháp. Nương nhờ pháp này, hành giả rộng tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề phận. Nếu người thủ chứng là pháp Thanh văn, còn chẳng thủ chứng thì chính là pháp Bồ tát.

Nói lời nói đó xong thì ánh sáng thân đức Phật càng thêm minh hiển. Từ đầu tim đức Phật phóng ra ánh sáng. Trong các ánh sáng đó, sinh ra các hoa báu. Mỗi một hoa báu có hằng hà sa số hoa báu làm quyến thuộc. Trên mỗi một hoa báu có vô lượng vô biên vị hóa Phật nhiệm mầu, phương thân trượng sáu, như Phật Thích Ca văn. Khi tướng này hiện thì lỗ chân lông thân đức Phật có tám muôn bốn ngàn những hoa sen báu. Trên mỗi một hoa sen có tám muôn bốn ngàn những vị đại hóa Phật mà thân thì vô lượng vô biên. Như vậy, những lỗ chân lông và tim của các vị hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng như đã nói trên.

Như vậy, ánh sáng soi khắp mười phương, rồi theo đỉnh đầu Phật mà vào và từ tướng bạch Hào vùng mày của đức Phật mà ra. Ánh sáng từ tướng Bạch hào phóng ra soi khắp mười phương giống như Kim tràng, khiến cho đất trong mười phương trở thành màu vàng ròng và cuốn các vị hóa Phật vào trong miệng của đức Phật. Rồi từ miệng đức Phật, ánh sáng phát ra cũng soi khắp mười phương, trở lại vào ngực đức Phật. Từ ngực đức Phật, ánh sáng phóng ra lại soi khắp mười phương, trở lại vào rốn đức Phật. Khi ánh sáng này vào bên trong thân đức Phật thì như nước lưu ly lắng trong chẳng động. Ba cõi, năm đường tất cả chúng sinh đều ánh hiện trong tim đức Phật. Hành giả thấy các vị hóa Phật cởi đài báu lớn giống như thuyền báu du hành trong thân đức Phật. Tất cả các vị hóa Phật khen ngợi sự chẳng giết hại, khen ngợi niệm Phật, khen ngợi niệm Pháp, khen ngợi niệm Tăng, khen ngợi niệm giới, khen ngợi niệm thí, khen ngợi niệm Thiên, khen sáu hòa kính, khen Từ tam muội. Như sáu niệm này có thể sinh ra thiện pháp thì sáu niệm này chính là nhân của các đức Phật. Tâm Phật chính là sáu niệm tâm. Nhân sáu hòa kính mà được pháp này. Muốn thành Phật đạo phải học Phật tâm.

Nói lời nói đó xong thì ánh sáng của thân đức Như Lai minh hiển bội phần. Số hóa Phật và hoa sen báu của thân đức Phật nhiều chẳng thể biết. Mỗi một ánh sáng hoa như đủ thứ hoa đã nói. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sai khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật tu sáu niệm thì gọi là niệm Phật tâm. Niệm Phật tâm thì trừ được mười hai ức kiếp tội sinh tử. Người tác khởi sự quán tưởng đó thì đời đời nhất định chẳng tà kiến, lòng chẳng hẹp hòi xằng bậy, luôn luôn gặp được bậc Bồ tát vô sanh. Người như vậy nếu sinh vào chỗ biên địa không có Phật pháp thì nhờ công lực niệm Phật tự nhiên giác ngộ giải thoát thành Bích Chi Phật.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói lời nói đó xong, thu nhiếp ánh sáng thân trở lại như cũ không khác.

Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Như ánh sáng Bạch Hào của tướng bậc đại nhân và tất cả tướng có thể quán tưởng nghịch, quán tưởng thuận hay quán tưởng phân biệt thì quán tưởng toàn bộ vừng sáng tròn và thân một trượng sáu. Chỉ phát tâm quán tưởng đó, còn quán thấy hay chẳng thấy, đều trừ bỏ mọi tội như trên đã nói. Giả sử có thí chủ đủ năm thần thông, được ngọc Như Ý, bay khắp thế giới mười phương mà số chúng sinh của mỗi một thế giới mười phương chẳng thể được biết, chỉ dùng từ vô lượng vô biên tổng chỉ số lượng ấy. Số chúng sinh nhiều như vậy đều là A la hán.Vị đại thí chủ đó hết vô số kiếp cúng dường những bậc hiền thánh đủ tứ sự, không thiếu thốn. Người đó được phước chắc là nhiều lắm chăng ?

Phụ vương đáp rằng :

– Chỉ cần cúng dường những vị La hán của một phương là đã được phước không lường, huống gì cúng dường vô lượng La hán của mười phương.

Đức Phật nói với Phụ vương rằng :

– Giả sử có người thành thục được chúng sinh tà kiến mà số nhiều như đã nói trên, đều khiến cho những người đó được đạo A la hán với ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát thì chẳng bằng phát tâm hướng về Phật tuệ mà niệm Phật trong giây lát.

Khi đức Phật nói lời đó thì một ức Thích tử trong chúng Thích tử phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tự thề chẳng cầu đạo Thanh văn, Bích Chi Phật và bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Thân của các đức Phật phân ra cho đến một sợi lông có vô lượng hóa Phật thì thân của các Thanh văn như thứ hủ bại cháy đen nào có ích gì ?

***

PHẨM THỨ SÁU : QUÁN BỐN OAI NGHI

I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, liền đứng dậy, bước chân đi vào hư không, vua cha xem thấy lòng rất hoan hỷ, cũng đi theo đức Phật. Khi đức Phật nhấc chân lên, hạ chân xuống hiện tướng ngàn vòng nan hoa. Mỗi một luân tướng đều mưa xuống tám muôn bốn ngàn hoa sen báu. Mỗi một hoa sen báu lại hóa ra tám muôn bốn ngàn ức nadotha hoa. Mỗi một hoa sen báu hóa làm một đài. Mỗi một đài hoa, mỗi một cánh hoa che khắp mười phương vô lượng thế giới. Mỗi một hoa sen có tám muôn bốn ngàn cánh. Chân của đức Thích Ca Mâu Ni bước vào hư không, đều mưa xuống hoa báu. Mọi hoa như vậy lại có vô lượng chân Phật bước vào hư không nhiều như số vi trần. Phụ vương thấy rồi, lòng rất vui mừng, được A na hàm, năm vóc gieo xuống đất lễ Phật. Đại chúng trong hội đều nhìn thấy việc này, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Thế giới mười phương có vô số hóa Phật. Vị nào là Phật chân thật ? Ai là hóa Phật ?

Đức Phật bảo đại chúng rằng :

– Các đức Phật Như Lai vào chỗ không tịch, Giải thoát tam muội thì tùy ý tự tại không có chân hay hóa. Sở dĩ vì sao ? Vì tâm Phật không tịch, lại vào tam muội Không Tịch Giải Thoát Quang Minh Vương. Do sức của định này nên các đức Phật Như Lai hóa ra vô biên thân. Vô biên thân chính là Nhất Thiết Chủng Trí. Nhất Thiết Chủng Trí thì gọi là Vô trước tam muội. Do Vô trước tam muội nên đức Như Lai thị hiện đi (hành), hoặc hiện đi khất thực, hoặc hiện đi kinh hành. Như vậy hai pháp đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Nếu có chúng sinh, khi Phật còn tại thế, nhìn thấy đức Phật đi. Trong từng bước từng bước, thấy được luân tướng ngàn nan hoa thì họ trừ khước ngàn kiếp tội ác rất nặng. Sau khi đức Phật qua đời, người tam muội chánh thọ quán tưởng Phật đi thì cũng trừ được ngàn kiếp tội ác rất nặng. Người tuy chẳng quán tưởng Phật đi mà thấy dấu tích Phật đi, thấy hình tượng Phật đi từng bước từng bước thì cũng trừ được ngàn kiếp nghiệp ác rất nặng.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Từ ngày hôm nay, ông đem lời nói của Như Lai bảo cùng khắp đệ tử rằng, sau khi Phật diệt độ, tạo hình tượng đẹp khiến cho thân tướng đầy đủ, cũng làm ra sắc tượng của vô lượng hóa Phật và khai thông ánh sáng thân cùng vẽ dấu tích của Phật bằng lụa màu vi diệu và ngọc pha lê đặt ở chỗ tướng Bạch hào khiến cho chúng sinh được thấy tướng đó. Chỉ thấy tướng này, lòng sinh hoan hỷ thì người này trừ khước được tội sinh tử của trăm ức nadotha hằng hà sa số kiếp.

Nói lời nói này xong, đức Như Lai đã ngồi trở lại.

Phụ vương lại hỏi đức Phật rằng :

– Xuất thế gian có việc lợi gì ? Có thể làm cho chúng sinh an vui sao ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo với đại vương rằng :

– Ông trưởng giả Tu Đạt trong thành Xá Vệ có một lão mẫu (cách gọi kính bà già) tên là Tỳ Khư La, cẩn trọng siêng năng đối với gia nghiệp nên được ông trưởng giả cho nắm giữ chìa khóa kho. Việc xuất nhập, lấy cho tất cả đều giao cho bà. Ông trưởng giả Tu Đạt thỉnh Phật và Tăng dể cung cấp những sự cần dùng. Có vị Tỳ kheo bệnh yêu cầu nhiều thứ. Lão mẫu vốn xan tham, sân giận, tỵ hiềm đối với Phật pháp và cùng chúng Tăng nên nói rằng: “Ông trưởng giả nhà ta ngu si mê hoặc chịu pháp thuật của Sa môn. Những kẻ ăn xin đó cầu nhiều không chán. Có thứ đạo gì lạ vậy ?” Nói lời đó rồi, bà lại phát ác nguyện rằng : “ Khi nào sẽ được chẳng nghe danh Phật, chẳng nghe danh Pháp, chẳng thấy những người cạo đầu nhuộm áo ?” Như vậy tiếng ác được một người nghe rồi, lại hai người nghe… đắp đổi đầy khắp trong thành Xá vệ. Bà Mạt Lợi phu nhân nghe lời nói này rồi mà nói rằng : “ Tại sao ông Tu Đạt như hoa sen đẹp, mọi người ưa nhìn thấy ? Tại sao ông lại có con rắn độc hộ trì ?” Nói lời đó xong, sắc bảo ông Tu Đạt rằng : “ Ông hãy sai vợ ông đến, ta muốn nói chuyện với bà ấy !” Bà A Na Bân Đê đi mau đến cung vua, đến làm lễ xong, lui đứng một bên. Phu nhân Mạt Lợi lệnh cho tòa ngồi, khách ngồi xong, phu nhân nói rằng : “ Lão tỷ của gia đình ngươi ác khẩu, bài báng sao chẳng xua đuổi đi !” Bà A Na Bân Đê quì xuống bạch rằng : “ Mặt trời Phật ra đời được nhiều sự nhuận ích ! Ương Quật Ma người đại ác, Ni Đề kẻ hèn hạ, Khí Hư hạng Chiên Đà La… đức Phật đều có thể điều phục, huống gì một lão tỳ mà chẳng thể điều phục ?” Mạt Lợi phu nhân nghe lời nói đó rồi, lòng rất vui mừng nói rằng : “ Ta muốn thỉnh đức Phật, bà hãy sai người lão tỳ đó đến !” Sáng ngày, đến giờ ăn, phu nhân thỉnh đức Phật và Tăng chúng vào cung cúng dường. Ông trưởng giả sai người lão tỳ mang đầy bình ngọc Ma ni vàng đến khuyến trợ nhà vua cúng dường chúng Tăng và bảo rằng : “ Này người đáng tin cậy ! Ngươi hãy đem cống vật này dâng lên vương gia !” Người lão tỳ nghe lời nói đó vui mừng nhảy nhót mang bình báu chạy đi. Phu nhân Mạt Lợi thấy người lão tỳ kia đến thì nghĩ rằng : “ Người tà kiến đức Phật sẽ hóa độ. Ta thấy người này khi chịu sự hóa độ nhất định thu hoạch được pháp lợi”.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ cửa chính đi vào, Nan Đà ở bên trái, A-nan ở bên phải, La Hầu La ở sau đức Phật. Lão mẫu thấy đức Phật, lòng kinh hãi dựng tóc gáy nghĩ rằng : “ Thật đáng ghét ! Người này theo ta đến sau !” Tức thời bà muốn thoái lui, theo lỗ chó chui ra thì lỗ chó liền đóng lại, những hẻm nhỏ bốn hướng đều nhất thời đóng chặc lại, chỉ có con đường chính mở ra. Lão mẫu che mặt bằng quạt, tự ngăn chẳng ưa thấy đức Phật. Nhưng đức Phật ở trước bà khiến cho quạt như gương, không có gì ngăn ngại. Bà quay đầu về Đông nhìn thấy phương Đông có Phật, về Nam nhìn thấy phương Nam có Phật, về Tây nhìn thấy phương Tây có Phật, về Bắc nhìn thấy phương Bắc có Phật, ngẩng đầu ngước nhìn lên phương trên có Phật, cúi đầu sát đất thì đất hóa làm Phật, dùng tay che mặt thì mười ngón tay đều hóa làm Phật. Lão mẫu nhắm mắt lại thì tâm nhãn liền mở ra, thấy trong hư không tất cả hóa Phật đầy cõi mười phương. Khi tướng này hiện thì trong thành Xá Vệ có hai mươi lăm người con gái Chiên đà la, năm mươi người con gái Bàlamôn và các tạp loại cùng với năm trăm người con gái trong cung của Mạt Lợi phu nhân, lòng phát sinh bài báng, chẳng tin Phật pháp. Bọn họ thấy đức Phật Như Lai, chân bước đi trong hư không, vì lão mẫu hiện ra vô số thân thì lòng rất vui mừng, xé tan lưới tà kiến, đầu não đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm an ủi những người con gái mà bảo rằng :

– Này những người con gái ! Các ngươi hôm nay có thể xưng lên Thích Ca Mâu Ni ! Xưng danh hiệu của ta, quán tưởng thân tướng của ta có thể được giải thoát.

Đức Phật nói lời đó xong thì những người con gái đồng thanh xưng lên : “Nam mô Phật”. Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng Bạch Hào vùng mày soi sáng lòng của những người con gái. Những người con gái thấy đức Phật bước đi oai nghi tường tự, dưới chân mưa hoa giống như hoa cái, hóa Phật nhiều như rừng chẳng thể kể xiết. Những người con gái nhìn thấy rồi đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lão mẫu thấy đức Phật, tà kiến chẳng tin mà còn trừ được tội sinh tử của tám mươi vạn ức kiếp, huống là lại có thiện ý cung kính lễ bái. Lúc bấy giờ, lão mẫu nhờ được thấy đức Phật nên hẻm nhỏ, lối mòn mở ra trở lại, liền chạy vội về nhà, bạch với đại gia rằng :

– Ngày hôm nay, tôi gặp phải điều rất xấu là phải đối mặt với ông Sa môn Cù Đàm tại cửa cung vua, trước mặt nhiều người. Ông ấy làm những điều yêu mị huyễn hóa, thân như núi vàng, mọi thứ hoa ánh lên trang sức, mắt hơn hẳn đóa sen xanh có hàng vạn ức ánh sáng, chẳng thể thấy đủ được. Samôn giỏi huyễn thuật, thế gian không ai sánh. Đại gia tuổi nhỏ có thể chẳng ưa nhìn thấy.

Nói lời đó rồi, bà vào trong lồng gỗ, dùng hàng trăm trướng bằng da che bên trên lồng gỗ, dùng vải trắng buộc đầu, lui vào nằm chỗ tối. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trở lại rừng Kỳ Đà. Phu nhân Mạt Lợi bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài hóa độ người tà nữ, chớ trở lại tinh xá !

Đức Phật bảo bà Mạt Lợi rằng :

– Người đàn bà này tội nặng, đối với Phật không có duyên, nhưng đối với La Hầu La thì có nhân duyên lớn. Ngày hôm nay Phật đi vì bà ấy tiêu trừ tội.

Nói lời đó rồi, đức Phật liền trở về tinh xá, bảo La Hầu La rằng :

– Ông hãy đi đến nhà ông đại trưởng giả Tu Đạt, hóa độ bà lão mẫu ác!

Khi đức Phật nói lời đó thì một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn đều thưa rằng :

– Chúng con hôm nay nguyện xin đi theo !

Lúc bấy giờ, ngài La Hầu La thừa uy thần đức Phật, vào định Như Ý, lễ bái đã xong, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, liền tự hóa thân làm Chuyển Luân Thánh Vương, A-nan hầu bên trái, Nan Đà hầu bên phải. Một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo hóa làm một ngàn người con, A-nan làm Điển Tạng thần, Nan Đà làm Chủ Binh thần, bảy báu bốn binh đều đầy đủ hết. Lúc đó, báu bánh xe vàng ở trong hư không, cởi đài hoa sen dẫn đường đến nhà trưởng giả Tu Đạt. Quỉ Dạ xoa xướng lên rằng :

– Thánh vương ra đời, đuổi hết những người ác, tuyên dương pháp thiện!

Lão mẫu nghe rồi, lòng rất vui mừng nghĩ rằng : “Thánh vương xuất hiện thì có ngọc Như Ý. Không có điều cầu xin gì mà chẳng thể nói ở đây !”

Lúc bấy giờ, Thánh vương khua chuông, đánh trống, cưỡi xe báu lớn đi đến nhà ông Tu Đạt. Lão mẫu thấy rồi rất vui mừng nghĩ rằng : “Thánh vương ra đời đem lại nhiều ơn nhuần lợi ích, biết phân biệt thiện ác, nhất định sẽ chẳng bị sự mê hoặc của Samôn”. Bà từ lồng cây chui ra, lễ kính Thánh vương. Thánh vương liền sai Chủ Bảo Tạng thần đi đến chỗ bà bảo rằng :

– Này chị em ! Đời trước của ngươi có phước ứng với tướng Vương giả. Hôm nay Thánh vương muốn dùng chị em làm Ngọc Nữ bảo !

Lão mẫu bạch rằng :

– Thân con ty tiện giống như phân bẩn, được Thánh vương hạ cố hỏi đến là vui mừng không lường ! Làm sao đủ sức làm Ngọc nữ bảo ? Nếu ngài ngó nghĩ đến con thì lệnh cho đại gia của con thả cho con được giải thoát. Sự ân tứ này đã là nhiều lắm rồi !

Lúc bấy giờ, Thánh vương bảo ngài Tu Đạt rằng :

– Lão nữ của khanh gia, mọi tướng lồng lộng, ta nay muốn đem sung làm Ngọc nữ bảo !

Ngài Tu Đạt bạch rằng :

– Tuân mạng ! Theo lệnh ngài, nguyện dâng lên Đại vương !

Lão tỳ nghe được phóng thích vui sướng phi thường. Thánh vương liền dùng ngọc Như Ý soi sáng mặt người nữ tỳ khiến cho nữ tỳ tự thấy mình như Ngọc nữ bảo nên hoan hỷ bội phần mà nói lên rằng :

– Các Samôn.v.v… bàn cao nói lớn, tự nói có đạo mà không một chút hiệu nghiệm ! Bậc Thánh vương ra đời đem lại nhiều lợi ích rộng lớn, khiến cho thân già tệ hại của ta giống như Ngọc nữ bảo.

Nói lời đó rồi, bà gieo mình xuống đất, làm lễ Thánh vương. Điển Tạng thần tuyên bố giáo lệnh của vua là xiển dương mười pháp thiện. Người nữ tỳ nghe mười pháp thiện, lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng : “ Ý nghĩa lời nói của Thánh vương thì không gì chẳng thiện !” Rồi bà vì đức vua làm lễ hối lỗi tự trách nên lòng liền điều phục. Lúc đó, ngài La Hầu La trở lại thân cũ, lão mẫu ngẩng đầu lên thấy một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ kheo, liền nói rằng :

– Phật pháp thanh tịnh chẳng bỏ chúng sinh ! Tệ ác như ta mà còn được hóa độ !

Nói lời đó rồi, bà cầu thọ năm giới. Ngài La Hầu La vì bà nói pháp Tam Qui và trao cho năm giới. Lão mẫu nghe pháp này thì trong khoảnh khắc chưa cất đầu lên đã thành Tu đà hoàn. Thần đất vui mừng, từ đất vọt lên bảo ngài Tu Đạt rằng :

– Hay thay ! Thưa Trưởng giả ! Xé tan lưới tà kiến ! Đức Như Lai ra đời chính vì điều này vậy !

Ngài La Hầu La đem lão mẫu này đến rừng Kỳ Đà. Đến nơi rồi, lão mẫu thấy thân tướng đức Phật màu vàng tía, hoan hỉ chắp tay làm lễ đức Phật, sám hối tội trước, cầu xin đức Phật được xuất gia. Đức Phật bảo ngài La Hầu La rằng :

– Ông đem lão mẫu này đến chỗ di mẫu Kiều Đàm Di !

Trong khoảng thời gian chưa đến nơi, ngài La Hầu La vì bà nói pháp khổ, không, phi thường, vô ngã.v.v… Lão mẫu nghe pháp rồi thì đầu tóc tự rụng, thành Tỳ kheo ni với ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, thân bay lên hư không làm 18 sự biến hóa. Phu nhân Mạt Lợi của vua Ba Tư Nặc thấy sự biến hóa này, lòng rất vui mừng khen rằng :

– Hay thay ! Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian phá tan tối vô minh, khiến cho tà kiến được ứng chân đạo.

Nói lời đó xong, làm lễ đức Phật, bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Như lão mẫu này đời trước có tội gì mà sinh ra chỗ ti tiện, làm tỳ sứ của người ? Lại có phước gì mà may mắn được đức Thế Tôn, như tấm vải trắng tốt dễ nhuộm màu sắc, ngay tức thời được đạo A la hán ?

Đức Phật bảo rằng :

– Này Đại vương ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo suy nghĩ điều đó ! Như Lai vì nhà vua phân biệt giải nói ! Thuở quá khứ xa xưa vô số kiếp, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhất Bảo Cái Đăng Vương Như Lai… đầy đủ mười hiệu. Sau khi đức Phật đó diệt độ, ở trong đời Tượng Pháp, có vị vua tên là Tạp Bảo Hoa Quang. Vua ấy có người con tên là Khoái Kiến, cầu xin muốn xuất gia. Vua cha liền hứa cho. Vương tử đi vào núi, đến trong Tăng phường cầu xin muốn xuất gia thì có một vị Tỳ kheo thông minh, đa trí, hiểu sâu thật tướng nhận làm đệ tử. Lại có một Tỳ kheo tên là Đức Hoa Quang, giỏi nói pháp yếu khuyến dụ, sách tấn lúc mới học. Vương tử Tỳ kheo tuy đã xuất gia nhưng còn mang kiêu mạng. Hòa thượng vì vương tử nói diệu pháp thậm thâm, ý nghĩa đại không của Bát nhã Balamật. Vương tử nghe rồi lý giải lầm lẫn, giảng nói tà bậy. Sau khi vị Tỳ kheo diệt độ, vương tử liền nói rằng : “Đại hòa thượng của ta rỗng không, không trí tuệ, chỉ có thể khen ngợi việc hư vô, rỗng không. Nguyện xin đời sau của ta, chẳng ưa thấy vậy. Vị A xà lê của ta trí tuệ biện tài, nguyện xin đời đời làm thiện tri thức”. Tỳ kheo vương tử nói lời đó xong thì từ đó, hễ pháp là nói phi pháp, phi pháp nói là pháp, dạy đồ chúng đều hành tà kiến. Tuy giữ gìn cấm giới uy nghi chẳng khuyết lậu, nhưng do lý giải lầm lẫn nên sau khi mạng chung, nhanh chóng như tên bắn đi, bị đọa vào địa ngục A tỳ, tám mươi ức kiếp luôn chịu khổ não, tội hết mời ra làm người nghèo hèn, năm trăm thân làm người tai điếc, mắt mù, một ngàn hai trăm thân luôn làm tôi tớ cho người.

Khi đức Phật nói điều đó, phu nhân Mạt Lợi có năm trăm nữ tỳ sám hối, tự trách, phát tâm Bồ đề, nguyện xin đời sau lý giải được pháp không sâu sắc.

Đức Phật bảo đại vương rằng :

– Vị Hòa thượng lúc bấy giờ, nay là thân ta đó ! Vị A xà lê nay chính là La Hầu La đó ! Vị Tỳ kheo vương tử là người lão mẫu này đó ! Đồ chúng đệ tử thì hôm nay là những người con gái tà kiến phát tâm Bồ đề đó !

Khi đức Phật nói điều này thì hai vạn Ưu bà tắc trong thành Xá vệ đều phát tâm Bồ đề, được Niệm Phật định, thường ở trong định thấy đức Phật nói pháp. Đức Phật nói với phụ vương rằng :

– Người ác tà kiến khi thấy đức Phật đi còn được vô lượng phước đức như thế này, huống gì là người quán tưởng Phật đi và tượng Phật đi.

Phụ vương bạch đức Phật rằng :

– Phật mẫu Ma Gia sinh lên trời Đao Lợi. Đức Phật hôm nay tướng ánh sáng thần thông đầy đủ, chừng nào sẽ đến vì mẹ nói pháp ?

Đức Phật bảo với Phụ vương rằng :

– Như Lai sẽ đúng như phép đi chân của Chuyển Luân Thánh Vương từ cõi Diêm Phù Đề lên cõi trời Đao Lợi thăm hỏi đàn việt và nói pháp nhiệm mầu.

Lúc bấy giờ, trong hội có vị Đại Bồ tát tên là Trì Địa liền đứng dậy nhập Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Nhờ sức tam muội nên từ bờ cõi Kim cương mà Kim cương làm vòng, Kim cương căn (rễ), Kim cương làm hoa rồi từng hoa từng hoa kế tiếp nhau ra khỏi cõi Diêm Phù Đề. Bốn vua rồng Nan Đà, Bạt Nan Đà, A Nậu Đạt Đa, Ta Gia La.v.v… đều đem thất bảo đi đến chỗ ngài Trì Địa. Họ dâng lên thất bảo để vì đức Phật Thế Tôn làm ba đường thềm báu, bên trái bằng bạch ngân, bên phải bằng pha lê, ở chính giữa bằng hoàng kim, từ bờ cõi Kim cương của Diêm Phù Đề lên đến cung trời Đao Lợi. Mỗi một thềm báu có bảy lớp lan can. Những lan can đó do trăm ức báu tạo thành có trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có trăm ức hoa báu. Trong mỗi một hoa có vô lượng nhạc khí tự nhiên vọt ra.

Lúc bấy giờ, ngài Trì Địa đem hằng hà sa số hoa sen bảy báu bày ra ở chỗ đạp chân của đức Phật. Ở bên đường thềm dựng lên các bảo tràng có vô lượng bảo phan treo trên đầu những bảo tràng ấy. Che khắp bên trên chúng là hàng trăm ức bảo cái. Chư thiên của trời Đao Lợi mưa xuống hoa Mạn đà la, hoa đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa đại Mạn thù sa để nghiêm sức vùng ấy. Vua trời Phạm tay nâng lò hương cùng với hàng vạn Phạm chúng đều đứng hầu bên thềm. Mỗi một làn khói thơm như mây lưu ly đầy khắp hư không. Ở trong mây ấy có trăm ngàn kỹ nhạc, chẳng tấu mà tự kêu lên. Vua rồng Nan Đà.v.v… đem bột thơm Chiên đàn của bờ bên này tung rải tràn lan trong đường đi. Ánh sáng hương thơm tỏa lên như ánh vàng rực sáng cao đến một cây Đa la, rồi hóa làm cái đài vàng. Vô lượng chư thiên đem chuỗi ngọc của trời nghiêm sức con đường thềm (bậc). Đồ cung cấp như vậy nhiều chẳng thể kể xiết.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở cõi Diêm Phù Đề, cầm giữ ba y (áo), sắc bảo ngài A-nan, ngài Nan Đà, ngài La Hầu La.v.v… và năm trăm vị Tỳ kheo bước chân lên đất mà đi. Khi nhấc bước chân đầu tiên thì đất sáu thứ chấn động. Khi hạ chân xuống thì đất sinh ra cung điện báu như cung của vua Phạm. Từng cung từng cung tiếp theo nhau treo ở không trung, ánh theo sau đức Phật. Ở bên đường bậc thang, Bồ tát Trì Địa, Bồ tát Di Lặc.v.v… cùng một ngàn vị Bồ tát nhất thời chắp tay, dùng hàng vạn ức âm thanh ca vịnh đức hành không lường của đức Như Lai.

Lúc bấy giờ, Phạm vương với vô số trăm ngàn những Phạm thiên.v.v… tay nâng lò hương và vô lượng kỹ nhạc để cúng dường đức Phật, đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Thích Đề Hoàn Nhân và vô số thiên tử cùng hàng trăm ngàn thiên nữ tấu nhạc đờn ca cũng đứng hầu ở bậc thềm bên trái. Vô số đại chúng Thanh văn Bồ tát đứng hầu ở bậc thềm bên phải.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi bên đường bậc thang. Ánh sáng ấy như mây với trăm ngàn ức màu sắc giống như trùng các (nhiều lầu các). Đức Phật ở trong ấy với tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật vây quanh. Các đức Phật của năm trăm phân thân cùng với đức Phật bằng nhau nắm giữ y bát, uy nghi tường tự. Các đức Phật phân thân cũng có ngài A-nan, ngài Nan Đà làm thị giả. Ma Ba Tuần, ở trong hư không, cùng với những ma chúng tán tụng diệu kệ ngợi khen công đức của đức Như Lai. Ngài Thích Đề Hoàn Nhân bạch với bà Ma Gia rằng :

– Đấng Thế Hùng Như Lai vì báo ơn nên đi đến chỗ này !

Bà Ma Gia phu nhân nghe đức Phật đến rồi nên sai các thiên nữ đem những báu trời và kỹ nhạc trời, hoa Mạn đà la đứng ở bên đường bậc thang mà nghênh đón đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai nhấc chân, hạ chân hiện ra vô số cung điện. Mỗi một cung điện có năm trăm vị hóa Phật ngồi kiết già. Mỗi một đức Như Lai có năm trăm vị Bồ tát làm thị giả.

Lúc đó, năm trăm phân thân, những Thích Ca Văn, vào cung trời Đao Lợi, chư thiên vui mừng mà nói kệ này :

Tỳ Bà Thi Phật

Đấng Cát Tường nhất

Cũng phóng ánh quang

Chỗ này bước sang.

Đức Thi Khí Phật

Đấng Cát Tướng nhất

Hóa thân không lường

Chỗ này bước sang.

Tỳ Xá Phù Phật

Phóng hào quang bạch

Soi sáng khắp cùng

Chỗ này bước sang.

Câu Lâu Tôn Phật

Phát sáng từ mặt

Soi cõi mười phương

Chỗ này bước sang.

Câu Na Hàm Phật

Hóa thân không xiết

Phóng ánh đại quang

Chỗ này bước sang.

Đức Ca Diếp Phật

Thân như bảo các (đài)

Chân bước hư không

Chỗ này bước sang.

Thích Ca Văn Phật

Năm trăm phân thân

Vô số hóa Phật

Soi sáng khắp cùng

Chỗ này bước sang.

Bồ tát Di Lặc

Tôn giả Hiền Kiếp

Cũng phóng hào quang

Chỗ này bước sang.

Chỗ này lành tốt

Vô vi an lạc

Chỗ Phật du hành

Đất Mâu Ni sanh

Tên Niết Bàn Quật

Người tuệ, trí độ.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vào cung Đao Lợi, liền phóng ra ánh sáng tướng Bạch Hào vùng lông mày. Ánh sáng ấy hóa làm một Thất Bảo Cái lớn che bên trên bà Ma Gia hóa ra giường trang sức bằng bảy báu dâng lên cho bà Ma Gia ngồi. Phật mẫu Ma Gia thấy đức Phật vào cung, chắp tay cung kính làm lễ đức Phật. Năm trăm vị hóa Phật nhất thời duỗi cánh tay, chư thiên phò trì, chẳng cho bà lễ kính. Tám muôn bốn ngàn những vị hóa Như Lai đều đứng dậy hết. Lúc ấy trong cung của Ma Gia phu nhân tự nhiên vọt ra năm trăm ức ánh sáng. Trong ánh sáng này có đài báu lớn. Trên mỗi một bảo đài có mười phương Phật. Các đức Phật như vậy tự nói lên danh hiệu và an ủi đức Phật mẫu.

Phương Đông, đức Phật Thiện Đức đem hoa diệu bảo tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và bà Ma Gia. Hoa hóa thành hoa cái, trong hoa cái ấy có hàng trăm ức vị hóa Phật chắp tay, đứng dậy thăm hỏi Phật mẫu.

Nam phương, đức Phật Chiên Đàn Đức đem hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Ở trong hoa cái có vô số hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.

Tây phương, đức Phật Vô Lượng Minh dùng hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.

Bắc phương, đức Phật Tướng Đức dùng hoa sen báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu.

Đông nam phương, đức Phật Vô Ưu Đức; Tây nam phương, đức Phật Bảo Thí; Tây Bắc phương, đức Phật Hoa Đức; Đông Bắc phương đức Phật Tam Thừa Hạnh; thượng phương, đức Phật Quảng Chúng Đức; hạ phương, đức Phật Minh Đức. Những đức Phật như vậy.v.v… đều dùng hoa báu tung lên trên đức Thích Ca Mâu Ni và đức Phật mẫu. Hoa hóa thành hoa cái. Trong mỗi một hoa cái có vô số vị hóa Phật chắp tay đứng dậy thăm hỏi đức Phật mẫu. Lúc này trong cung Đao Lợi đầy những vị hóa Phật. Phật mẫu Ma Gia, trên đỉnh đầu tự nhiên hiện ra những đồ cúng dường, vô lượng tràng phan cúng dường các đức Phật. Trong tràng phan có âm thanh nhiệm mầu khen Phật, khen pháp, khen Tỳ kheo tăng. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Đó gọi là Như Lai từ cõi Diêm Phù Đề thăng lên cung trời Đao Lợi với ánh sáng sắc tướng và những việc thần hóa. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu quán tưởng được như vậy thì đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người tác khởi sự quán tưởng này trừ được một ức kiếp tội sinh tử, lúc sắp mạng chung thấy được chư Phật mười phương, nhất định được sinh đến cõi Phật thanh tịnh của phương khác – Đức Phật bảo ngài A-nan – Ông đem lời nói đó vì những chúng sinh đời vị lai, phải tuyên nói rộng rãi. Người nghe lời này, suy nghĩ ý nghĩa đó thì phải biết người đó được sự che chở hộ trì của các đức Phật mười phương, mạng chung nhất định sẽ sinh ra trước mặt các đức Phật.

Đức Phật bảo với vua cha rằng :

– Sao gọi là Như Lai lúc từ trời Đao Lợi xuống cõi Diêm Phù Đề với sự ứng biến của tướng ánh sáng ? Lúc ta mới xuống, vô số thiên tử, trăm ngàn thiên nữ theo hầu Thế Tôn, chỉ độc thấy một vừng tròn ánh sáng của Phật rộng một tầm, phóng ra hàng trăm ngàn ánh sáng, chân bước vào hư không, đi theo bậc thềm mà xuống. Trong ánh sáng của Phật có hình tượng Thất Phật hiện ra, theo ánh sáng của Phật phát ra dẫn đường đi trước Phật. Lúc đó (dưới cõi Diêm Phù Đề) vua Ưu Điền luyến mộ đức Thế Tôn, đúc vàng làm tượng. Nghe Phật sẽ xuống, vua cho voi chở tượng vàng đi nghênh đón Thế Tôn. Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc hóa làm núi Lưu Ly, ngồi kiết già ở trong hang núi với vô lượng đồ cúng dường phụng nghinh Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, tượng vàng từ trên mình voi hạ xuống giống như Phật sống, chân bước vào hư không, dưới chân mưa hoa, cũng phóng ra ánh sáng đến nghênh đón Thế Tôn. Tượng vàng đúc chắp tay vòng làm lễ Phật . Lúc bấy giờ Thế Tôn cũng lại quỳ dài chắp tay hướng về tượng. Lúc ấy trong hư không có hàng trăm ngàn vị hóa Phật cũng đều chắp tay quì dài hướng về tượng.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói với tượng rằng :

– Ngài, vào đời sau, sẽ đại tác Phật sự ! Sau khi ta diệt độ, những đệ tử của ta, xin đem phú chúc cho ngài !

Các vị hóa Phật ở trong hư không, khác miệng nhưng đồng âm, đều nói lên rằng :

– Nếu có chúng sinh, sau khi ta diệt độ, tạo lập hình tượng, rồi dùng tràng phan, hoa cái, mọi thứ hương thơm cúng dường thì người đó đời sau nhất định được Niệm Phật Thanh Tịnh tam muội. Nếu có chúng sinh biết Phật từ trời Đao Lợi hạ xuống với đủ thứ tướng mạo mà ràng buộc ý niệm để suy nghĩ thì nhất định được thấy Phật.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật biết việc Phật Như Lai xuống từ cõi trời Đao Lợi và thấy tượng Phật thì trừ khước được một ngàn kiếp nghiệp ác rất nặng. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

***

PHẨM THỨ SÁU: QUÁN BỐN OAI NGHI

II- Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là Như Lai đến đầm đồng hoang (khoáng dã) hàng phục đại tướng quỉ ? – Ta từ tinh xá Kỳ đà ở thành Xá Vệ, phóng ánh sáng màu vàng chiếu soi thành Xá vệ khiến nó trở thành màu vàng. Bên trong nước Xá vệ, có một vị trưởng giả tên là Tài Đức. Vị trưởng giả có người con tuổi mới lên ba. Người cha dạy đứa con ấy thọ tam qui. Quỉ thần Tán Chỉ (tan mỡ) bị lửa đói bức bách, vào thành Xá vệ bắt lấy trẻ con. Lúc ấy, đứa trẻ xưng lên “Nam mô Phật”. Do xưng danh Phật nên miệng vua quỉ bị khóa, chẳng thể được ăn, chỉ có mắt quỉ phát ra lửa để dọa đứa trẻ con. Đứa trẻ thấy hình dạng của quỉ xấu xí, ngực có ba mặt, rốn có hai mặt, hai đầu gối hai mặt. Mặt như mặt voi, răng chó chỉa lên. Mắt lại phát ra lửa, lửa đều tuông xuống. Đồng tử kinh sợ xưng lên : “ Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bằng thiên nhĩ, từ xa nghe được, đem theo một mình ngài A-nan, chân bước vào hư không ra đi. A-nan ở phía sau theo đức Phật chẳng kịp. Đức Phật dùng thần lực hóa làm hoa báu, rồi ánh của hoa ấy tiếp lấy A-nan. Ngài A-nan ngồi trên hoa, thấy cõi Diêm Phù Đề chứa đầy những vị hóa Phật. Thân mỗi một vị hóa Phật đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Các vị hóa Phật đó giảng nói pháp Tam thừa, khuyến lệ sách tấn Bồ tát tu hành niệm Phật. Ngài A-nan thấy, nghe rồi liền nhớ lại kinh tạng đã nói của chín mươi ức đức Phật đời quá khứ, nhớ lại giữ gìn chẳng mất.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã đến đầm khoáng dã, phóng ánh tướng đại nhân Bạch Hào vùng chân mày. Ánh sáng ấy chiếu thẳng vào thân đứa trẻ đang sợ. Đứa trẻ thấy ánh sáng như thấy cha mẹ, lòng không kinh sợ. Quỉ Khoáng Dã nhấc một tảng đá lớn dày mười hai trượng muốn ném vào đức Thế Tôn, mắt phát ra sấm chớp, mưa đá xuống như mưa. Mỗi một giọt mưa đá rơi xuống như con gà đỏ từ hư không xuống, chưa đến thân Phật đã hóa thành vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật vào tam muội Hỏa Quang, những ánh sáng lửa đó thiêu đốt đầm Khoáng dã. Đất đai cháy suốt mà vua quỉ chẳng sợ, vẫn ném đá thì đá trụ ở trên không hóa thành bảo đài. Trong đài báu lại có trăm ức vị hóa Phật, khác miệng nhưng đồng âm, khen ngợi Từ tâm. Quỉ vẫn còn chẳng phục. Thần Kim Cương, tay hươi chày vàng, vung kiếm bén, râu mép như kiếm nhọn, mắt như ánh chớp, dùng chày Kim cương đánh vào trán vua quỉ, đâm vào cánh tay quỉ, kêu lớn, tiếng chấn động trời đất. Quỉ vương kinh sợ, ôm giữ đứa trẻ, quì dài hướng lên đức Phật bạch rằng :

– Thưa Samôn ! Nguyện xin ngài từ ái cứu lấy sinh mạng của con !

Thần Kim Cương hóa chày Kim cương làm núi sắt lớn, bốn mặt lửa dậy, vây quanh quỉ bảy vòng. Lửa mạnh rừng rực đốt cháy thân quỉ. Đứa trẻ cất tay bảo vua quỉ rằng :

– Hãy xưng lên “ Nam mô Phật” ! Ta nhờ xưng danh hiệu Phật nên từ chết được sống, hôm nay ngươi có thể xưng lên “Nam mô chư Phật”.

Lúc bấy giờ, vua quỉ kinh sợ thất thanh xưng “Nam mô Phật” và bạch rằng :

– Xin ngài Cù Đàm có thể cứu hộ tôi !

Lúc ấy, đức Thế Tôn dùng âm thanh Phạm, giống như bậc từ phụ an ủi các con, Phật vỗ về an ủi vua quỉ cũng lại như vậy. Thần Kim Cương Mật Tích sắc bảo vua quỉ rằng :

– Hôm nay, ngươi hãy mau qui phục mà qui y Phật, Pháp cùng với chúng Tăng đi ! Nếu ngươi chẳng qui phục thì ngươi và hàng vạn ức tám ngàn quyến thuộc bị tan nát như vi trần.

Quỉ khoáng dã kinh sợ nên năm vóc gieo xuống đất, lễ Phật bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con thường ăn người, hôm nay không giết hại nữa thì con sẽ ăn vật gì ?

Đức Phật sắc bảo quỉ vương rằng :

– Ngươi hãy chẳng giết hại thì ta sắc bảo đệ tử luôn bố thí đồ ăn cho ngươi, cho đến khi pháp tận diệt. Do sức của ta nên làm cho ngươi được no đủ.

Quỉ vương nghe rồi hoan hỉ chắp tay, thọ năm giới của đức Phật. Thọ năm giới rồi, vua quỉ thấy những núi lửa rừng rực tiếp nhau biến thành những vị hóa Phật. Đầy trong đầm Khoáng dã đều là hóa Phật. Sau mỗi một vị hóa Phật có một vị A-nan. Tất cả các vị hóa Phật, khác miệng nhưng đồng âm, đều nói năm giới. Quỉ Khoáng dã bạch với thần Kim Cương rằng :

– Nhờ Đại đức nên tôi được uống pháp vị cam lộ vô thượng !

Thần Kim Cương ném cái chày vào không trung, nhờ thần lực đức Phật nên khiến cho chày Kim cương giống như trăm ức núi Tu di vàng. Mỗi một núi Tu di có hàng trăm ức nhà khám thờ. Mỗi một nhà khám thờ có trăm ức vị hóa Phật bước đi kinh hành. Những vị hóa Phật đó nhấc chân hạ chân, dưới chân tự nhiên sinh ra đài bảy báu. Trên mỗi một đài có hằng hà sa số vị hóa Phật ngồi kiết già.

Đức Phật bảo với Đại vương rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn biết thần thông tự tại của Như Lai hàng phục quỉ Khoáng dã thì người quán tưởng đúng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, nếu có chúng sinh tư duy pháp đó, quán tưởng pháp đó, được cái tưởng này thì trừ được trăm ngàn ức kiếp tội sinh tử, đời đời chẳng thọ thân quỉ, được gặp các đức Phật, không rỗng không, khiếm khuyết. Giả sử khi không có Phật thì gặp Bích Chi Phật, không có Bích Chi Phật thì luôn gặp tiên nhân, vì họ nói chánh đạo.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Hôm nay, ông hãy đem niệm tưởng cánh giới đó vì tất cả chúng sinh đời vị lai tuyên nói rộng rãi. Đó gọi là cảnh giới thần thông của các đức Phật. Nếu mất việc này thì gọi là bài báng Phật, chặt đứt giống Bồ đề. Người trì pháp đó thì quỉ mị chẳng hoặc trước luôn luôn được sự hộ trợ của các đức Phật.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là đến phía Nam ngọn núi A-na-tư trong hang La sát và phía Bắc suối Hoa Sen Xanh bên ao Độc Long ở rừng hoa Chiêm Bặc trong núi Cổ Tiên tại nước Na Càn Ha La ? – Lúc bấy giờ, hang đó có năm con quỉ La sát hóa làm Long nữ cùng độc long thông nhau. Rồng lại tuông xuống mưa đá, La sát làm loạn, đói kém dịch bệnh đã trải qua bốn năm. Vua nước ấy kinh sợ, cúng tế thần đất đều vô ích nên triệu các chú sư (thầy về chú thuật) lệnh chú trừ độc long. Khí La sát thịnh chú thuật chẳng làm được gì, nhà vua nghĩ rằng : “ Phải chi được một vị thần nhân xua đuổi La sát này, hàng phục độc long đó thì chỉ trừ thân ta ra, còn lấy gì ta chẳng tiếc”. Có vị Phạm chí thông minh đa trí bạch rằng : “ Thưa đại vương ! Con vua Tịnh Phạn của thành Ca Tỳ La, ngày sinh của vị ấy có hàng vạn thần hầu hạ, bảy báu giáng điềm, thầy tướng A Tư Đà nói, ở lại với đất nước sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, nếu chẳng ưa thiên hạ thì thành Phật tự nhiên. Hôm nay ngài đã thành đạo hiệu là Thích Ca Văn với thân lớn một trượng sáu đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đi theo sau chân là hoa sen, cổ đeo ánh sáng mặt trời, thân tướng đoan nghiêm như núi vàng ròng”. Vua nghe lời nói đó, lòng rất vui mừng, hướng về chỗ sinh của đức Phật tự qui y, làm lễ mà nói rằng : “ Nếu lời nói của Phạm chí là xác thật chẳng hư dối, quả có Phật ra đời tên là Thích Ca Văn. Nhưng theo tướng pháp của ta thì lui sau chín kiếp mới sẽ có Phật hiệu là Thích Ca Văn. Tại sao ngày hôm nay ánh mặt trời Phật đã hưng khởi ? Tại sao ngài chẳng thương đến đất nước này ?” Ở trong không có tiếng bảo rằng : “ Này đại vương ! Ông chớ nghi ngờ ! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tinh tấn dũng mãnh vượt qua chín kiếp”. Nghe lời nói đó rồi, nhà vua lại quì dài chắp tay khen ngợi : “ Đức Phật thông minh trí tuệ ứng biết lòng của con, nguyện xin ngài rũ ánh sáng từ bi đến nước này”.

Lúc bấy giờ, khói hương lan đến tinh xá của Phật như mây lưu ly trắng, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng rồi hóa làm bảo cái bằng vàng. Bảo cái ấy có những chuông nhỏ phát ra âm thanh vi diệu. Âm thanh ấy thỉnh đức Phật, thỉnh Tỳ kheo Tăng.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai sắc bảo các vị Tỳ kheo, những người được sáu thần thông đi theo sau đức Phật, nhận lời mời đến cõi Phất Ba Phù Đề của vua Na Càn Ha La.

Ngài Đại Ca Diếp cùng năm trăm đồ chúng hóa làm núi lưu ly. Trên núi có suối chảy, ao tắm, hàng cây thất bảo. Dưới cây đều có giường vàng, ánh sáng bạc. Ánh sáng hóa làm hang động. Ngài Đại Ca Diếp ngồi trong hang động này, luôn ngồi chẳng nằm, sắc bảo các đệ tử tu mười hai hạnh Đầu đà. Núi Lưu ly ấy như đám mây được gió mạnh thổi nhanh đến núi Cổ Tiên. Ngài Mục Kiền Liên cùng năm trăm đồ chúng hóa trăm ngàn thân rồng cuộn làm tòa ngồi. Miệng rồng phun ra lửa hóa thành đài vàng với giường, tòa ngồi bằng thất bảo và đầy đủ bảo trướng, bảo cái cùng những tràng phan. Ngài Mục Liên ở bên trong như người bằng lưu ly bày rõ trong suốt, đến nước Na Càn Ha La. Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực hóa làm núi Tuyết với bạch ngọc làm hang, cùng với Câu Đề.v.v… năm trăm vị Sa di ngồi trong hang bảy báu, vây quanh núi Tuyết. Ngài Xá Lợi Phất ngồi trong hang bạch ngọc như người bằng hoàng kim, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy đủ màu ánh chiếu với núi Tuyết, trình bày đại pháp cho Sa di thính thọ và đi đến nước Na Càn Ha La kia. Ngài Đại Ca Chiên Diên cùng năm trăm vị Tỳ kheo quyến thuộc hóa làm hoa sen giống như đài vàng mà các Tỳ kheo ngồi trên đó, phần dưới thân tuông ra nước hóa làm suối chảy, chảy trên các vùng hoa, nước chẳng giọt xuống đất, bên trên có tàng vàng che khắp các vị Tỳ kheo, cùng đi sang nước kia. Như vậy, một ngàn hai trăm năm mươi vị đại đệ tử đều có năm trăm vị Tỳ kheo tạo tác các thần thông như ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên.v.v… vọt thân lên hư không như con nhạn chúa chao cánh, đi sang nước kia.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn mặc áo, cầm bát, lệnh bảo ngài A-nan đem theo Ni sư đàn (tọa cụ). Lúc ấy, đức Thế Tôn, chân bước vào hư không. Khi đức Phật nhấc chân thì Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương, vô số thiên tử, trăm ngàn thiên nữ vây quanh đức Phật bảy vòng, lễ Phật theo hầu sau đức Phật.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng vàng trên đỉnh hóa làm một vạn tám ngàn những vị Đại Hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật lại phóng ra ánh sáng. Như ánh sáng đỉnh này cũng lại hóa làm một vạn tám ngàn những vị hóa Phật lớn, từng đức Phật, đức Phật tiếp theo nhau đầy trong hư không, như chúa nhạn chao cánh, đi sang nước Na Càn Ha La kia. Mới đến biên giới của đất nước thì nhà vua đã ra phụng nghinh và làm lễ đức Phật.

Lúc bấy giờ, Long vương thấy đức Thế Tôn đến thì cùng cha mẹ, đồ đảng mười sáu con rồng lớn hưng khởi mây lớn, sấm gầm vang động, mưa đá. Trong mắt chúng phát ra lửa, miệng cũng phun ra lửa, giáp vẩy lông thân đều phát ra khói lửa. Năm quỉ La sát nữ hiện hình xấu xí, mắt như chớp kéo, đứng ở trước đức Phật. Con vua rồng thấy trong hư không chứa đầy hóa Phật, bạch với cha rằng : “ Phụ vương phun lửa muốn hại một đức Phật. Cha thử xem, trong hư không có vô số Phật !” Rồng phun ra khí độc, tâm ý mạnh mẽ, quở trách con nó rằng : “ Chỉ có một Phật, có đâu mà nhiều ?” Thần Kim Cương tay cầm chày lớn hóa ra vô số thân. Đầu chày lửa cháy như vòng lửa xoáy. Từng vòng lửa, vòng lửa tiếp theo nhau từ không trung hạ xuống. Lửa cháy hừng hực giống như nước đồng sôi, thiên đốt thân rồng ác. Chúa rồng kinh sợ, không chạy tìm chỗ trốn mà chạy vào bóng đức Phật. Bóng Phật mát mẻ như được tưới cam lồ. Rồng được trừ hết nóng, ngửa đầu nhìn lên không, thấy không trung đầy cả Phật. Mỗi một vị Như Lai phóng ra vô lượng ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật cũng phóng ra vô số trăm ngàn ánh sáng. Trong tất cả các ánh sáng đều có thần Kim Cương, tay vung chày Kim cương. Rồng thấy các đức Phật thì vui mừng cực đại nhưng thấy các thần Kim Cương thì kinh hoàng cực đại, chắp tay cung kính lễ Phật. Năm nữ La sát cũng lễ đức Như Lai. Các thiên tử mưa xuống hoa Mạn đà la, hoa đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa đại Mạn thù sa để cúng dường. Trống trời tự kêu. Chư thiên vòng tay đứng hầu trong không. Vua của nước đó cùng năm ngàn quyến thuộc đốt mọi thứ danh hương, đầu mặt lễ đức Phật, mời đức Phật ngồi vào tòa. Vua rồng đó từ Long Trì xuất hiện dâng hiến giường thất bảo, tự tay nâng giường đặt bày và bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài cứu con, chớ sai lực sĩ làm thương hại thân con !

Lúc bấy giờ, đức Như Lai dùng âm thanh Phạm, giống như từ mẫu dỗ dành con trẻ, khiến cho vua rồng đó và La sát nữ chịu sự giáo hóa của Pháp Vương, thỉnh đức Phật ngồi vào tòa ngồi. Khi ấy quốc vương lại bày giường cao với mền lông, đệm lông rất là mềm mại, trương lên màn vải lông trắng, che phủ bên trên là lưới trân châu rộng khắp, rồi thỉnh đức Phật Thế Tôn ngồi ở trong màn.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhấc chân muốn đi, đùi nai chúa của đức Phật phát ra năm luồng ánh sáng. Ánh sáng có năm màu nhiễu quanh đức Phật bảy vòng như hoa vi diệu của cõi trời, hoa kết thành trướng hoa. Trong mọi cánh hoa có trăm ngàn vô số các vị hóa Bồ tát chắp tay nói kệ khen ngợi bằng vạn ức âm thanh. Ở không trung, các vị hóa Phật phóng ra ánh sáng nơi đùi cũng lại như vậy. Mười sáu rồng nhỏ, tay cầm đá núi, sấm sét dậy lửa, đi đến chỗ đức Phật. Đại chúng kinh sợ vào trong hào quang của đức Phật.

Lúc ấy, đức Thế Tôn đưa ra cánh tay màu vàng, mở khép bàn tay màn. Ở vùng màn lưới ngón tay, mưa xuống hoa báu lớn. Đại chúng đều thấy hoa hóa thành hóa Phật. Duy chỉ các rồng thấy hoa hóa thành chim cánh vàng muốn bắt cắn chúng. Rồng sợ chim cánh vàng chạy vào trong bóng đức Phật, lễ Phật, khấu đầu cầu cứu. Đức Phật đến trước màn sắc bảo ngài A-nan rằng :

– Hãy trải tọa cụ !

Lúc đó, ngài A-nan liền vào trong màn, trước tiên nhấc tay phải từ trên vai phải lấy tọa cụ thì tọa cụ liền hóa thành năm trăm ức đài vàng trang hoàng bằng bảy báu. Khi sắp trải ra, tọa lại liền hóa thành năm trăm ức hoa sen bảy báu trang nghiêm. Trong khi chính bốn góc, mỗi góc sinh ra năm trăm ức hoa sen bảy báu. Từng hàng từng hàng tiếp theo nhau đầy khắp bên trong màn.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi kiết già trên giường thất bảo. Bên trên các hoa sen đều có Phật ngồi. Các Tỳ kheo thấy đức Phật ngồi rồi, vì đức Phật làm lễ, nhiễu quanh bên phải bảy vòng. Tọa cụ trải ra Tỳ kheo ngồi đủ, chúng đều hóa thành tòa ngồi bằng lưu ly. Khi Tỳ kheo ngồi vào tòa thì tòa lưu ly, phóng ra ánh sáng lưu ly làm thành hang lưu ly. Những Tỳ kheo đều vào tam muội Hỏa Quang, thân trở nên màu vàng. Lúc đó, quốc vương thấy thần biến của đức Phật thì vui mừng, chắp tay nhiễu quanh đức Phật bảy vòng lễ Phật. Nhìn thấy thần hóa của đức Phật, quốc vương ngay tức thời phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sắc bảo các bề tôi đều phải phát tâm.

Lúc bấy giờ, vua rồng kinh sợ đại lực sĩ Kim Cương nên cũng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Năm nữ La sát cũng phát tâm Bồ đề.

Lúc bấy giờ, đại vương vì đức Phật và tăng chúng, muốn dọn bữa ngọ trai. Đức Phật bảo đại vương, chỉ bày biện đồ đựng thức ăn, không cần gì khác nữa. Nhà vua nhận lệnh của đức Phật cụ bị những bảo khí (đồ đựng báu). Nhờ thần lực đức Phật nên khiến cho bên trong những đồ đựng tự nhiên đầy tràn vị Thiên Tu Đà (một thứ đồ ăn của trời). Các đại chúng ăn đồ ăn đó rồi, tự nhiên được Niệm Phật tam muội, thấy thân Phật mười phương nhiều vô lượng vô biên, lại còn nghe âm thanh vi diệu nói pháp. Âm thanh ấy thuần khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ kheo tăng, đồng thời cũng có rộng nói sáu Balamật, ba mươi bảy phẩm trợ Bồ đề pháp. Nghe lời nói đó rồi lại hoan hỉ bội phần, họ nhiễu quanh đức Phật hàng ngàn vòng.

Lúc bấy giờ, quốc vương thỉnh đức Phật vào thành. Long vương nổi giận nói rằng :

– Ngươi đoạt lợi ích của ta, ta tiêu diệt nước của ngươi !

Đức Phật bảo đại vương :

– Đàn việt trước qui y Phật, tự biết phải thời !

Lúc đó, quốc vương lễ Phật, đi giật lùi mà lui ra. Khi ấy Long vương và La sát nữ năm vóc gieo xuống đất cầu đức Phật trao cho giới pháp. Đức Phật liền đúng như pháp vì họ nói pháp tam qui ngũ giới. Vua rồng nghe rồi lòng rất vui mừng. Năm trăm những rồng quyến thuộc của vua rồng từ long trì xuất hiện, vì đức Phật làm lễ. Đức Như Lai ngay tức thời tùy theo từng loại âm thanh của rồng mà vì chúng nói pháp. Chúng nghe pháp hoan hỉ, đức Phật sắc bảo ngài Mục Liên vì chúng mà trao giới pháp.

Lúc bấy giờ, ngài Mục Liên vào định Như Ý, liền tự hóa thân làm năm ngàn ức vua chim cánh vàng. Mỗi một vua chim chân quắp lấy năm con rồng, trụ ở trên hư không. Các con rồng nhỏ nói rằng :

– Đức Phật sắc bảo Hòa thượng vì chúng tôi thọ giáo. Tại sao Hòa thượng làm ra hình tượng khủng bố ?

Ngài Mục Liên bảo rằng :

– Đã nhiều kiếp, các ngươi ở trong sự chẳng khủng bố, ngang ngược phát sinh khủng bố tưởng, đối với không sân nhuế phát sinh sân nhuế tưởng, ở chỗ vô hại ngang ngược phát sinh hại tưởng… Ta chính thật là người, các ngươi lòng ác nên thấy ta là chim.

Lúc bấy giờ, Long vương do sợ sệt nên tự thề chẳng giết hại, chẳng gây não chúng sinh. Vì rồng phát thiện tâm nên ngài Mục Liên tức thời trở lại thân cũ, vì chúng nói năm giới.

Lúc bấy giờ, vua rồng quì dài, chắp tay khuyến thỉnh đức Thế Tôn rằng:

– Nguyện xin đức Như Lai thường trụ cõi này ! Đức Phật, nếu ngài chẳng ở lại, con phát lòng ác thì không còn được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nguyện xin đức Như Lai lưu ý rũ lòng luôn ở lại nơi đây.

Rồng ân cần ba lần thỉnh đức Như Lai như vậy, chẳng dừng. Vua trời Phạm lại đến lễ đức Phật, chắp tay khuyến thỉnh rằng :

– Nguyện xin đức Thế Tôn vì những chúng sinh đời vị lai, chớ riêng thiên vị một con rồng nhỏ này !

Hàng trăm ngàn Phạm vương, dị khẩu đồng âm, đều nói lên lời thỉnh nguyện đó !

Lúc bấy giờ, đức Như Lai liền mĩm cười, miệng ngài phát ra vô lượng trăm ngàn ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô lượng vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có hàng vạn ức vị Bồ tát làm thị tùng. Vua rồng kia ở trong Long trì hiện ra đài bảy báu dâng lên đức Như Lai, bạch rằng :

– Nguyện xin đức Thiên Tôn nhận đài này của con !

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo vua rồng rằng :

– Ta chẳng cần cái đài này ! Hôm nay ngươi chỉ cần đem hang đá La sát giao cho ta.

Tức thời vua trời Phạm và vô số thiên tử vào trong hang trước tiên. Vua rồng đó dùng những tạp bảo để trang hoàng hang động. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ông hãy dạy vua rồng quét dọn sach sẽ hang đá !

Chư thiên nghe rồi đều cởi áo báu tranh nhau lau quét hang. Lúc đó, đức Như Lai thu nhiếp ánh sáng của thân lại, thu các vị hóa Phật lại vào đỉnh đức Phật. Lúc này, đức Như Lai sắc bảo các vị Tỳ kheo đều ở ngoài động, chỉ riêng một mình đức Phật vào và tự trải tọa cụ. Khi đức Phật trải tọa cụ thì khiến cho núi đá này tạm trở thành bảy báu. Nữ La sát và vua rồng đó vì bốn vị đại đệ tử, tôn giả A-nan, tạo ra năm hang đá.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi trong hang vua rồng, chẳng dời khỏi chỗ ngồi. Đức Phật cũng nhận lời thỉnh của vua, vào thành Na Càn Ha, rồi ở núi Kỳ Xà Quật, ở thành Ca Tỳ La của nước Xá Vệ và ở các trụ xứ khác đâu đâu cũng đều thấy có đức Phật. Trên tòa hoa sen ở trong hư không có vô lượng hóa Phật. Tất cả thế giới, bên trong cũng đầy những vị hóa Phật. Vua rồng vui mừng phát đại thệ nguyện rằng :

– Nguyện cho con đời vị lai được thành Phật như thế này !

Đức Phật nhận lời thỉnh của vua trải qua bảy ngày rồi. Vua sai một người cỡi con voi đi tám ngàn dặm, đem những đồ cúng đi khắp tất cả nước, cúng dường chúng Tăng. Đến đâu, nơi đó đều thấy có Phật Thích Ca Văn. Tin tức hồi báo, bạch với vua rằng : “ Đức Như Lai Thế Tôn chẳng chỉ ở nước này mà nước khác cũng có. Các đức Phật ở nước khác cũng nói khổ, không, vô thường, vô ngã, sáu Balamật”. Nhà vua nghe lời nói này thì bỗng nhiên ý cởi mở được Vô sinh nhẫn.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thu nhiếp trở lại thần túc, ngài từ hang đá hiện ra, cùng các vị Tỳ kheo du hành. Đức Phật đời trước khi làm Bồ tát, có chỗ bố thí hai đứa trẻ, chỗ thì gieo thân cho cọp đói, chỗ thì dùng đầu bố thí, chỗ thì khoét thân làm một ngàn ngọn đèn, chỗ thì móc mắt bố thí, chỗ thì cắt thịt thay cho chim câu… Những chỗ như vậy, rồng đều đi theo. Lúc đó, Long vương nghe đức Phật trở lại đất nước, kêu khóc, nước mắt như mưa mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Con thỉnh đức Phật thường trụ, tại sao đức Phật bỏ con ? Con mà chẳng thấy đức Phật thì sẽ làm việc ác, bị đọa vào đường ác!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn an ủi vua rồng rằng :

– Ta nhận lời thỉnh của ngươi, ngồi trong hang động của ngươi trải qua một ngàn năm trăm năm.

Các con rồng nhỏ chắp tay, vòng tay khuyến thỉnh đức Thế Tôn vào trở lại trong hang. Các rồng thấy đức Phật đã ngồi trong hang rồi trên thân tuông ra nước, dưới thân tuông ra lửa, biến hiện mười tám cách. Rồng nhỏ thấy rồi lại càng tăng tiến đạo tâm kiên cố. Đức Thích Ca Văn Phật vọt thân vào đá giống như gương sáng thấy bóng dáng mặt người. Các rồng đều thấy đức Phật ở bên trong đá ánh hiện ra bên ngoài.

Lúc bấy giờ, các rồng chắp tay vui mừng, chẳng cần ra khỏi Long trì mà thường vẫn thấy mặt trời Phật.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi kiết già bên trong vách đá. Khi chúng sinh nhìn từ xa thì thấy, đến gần thì biến mất. Hàng trăm ngàn chư thiên cúng dường ảnh Phật. Ảnh Phật cũng nói pháp. Vua trời Phạm chắp tay cung kính, dùng kệ khen rằng :

Như Lai vào hang đá

Ở trong đá hiện thân

Như mặt trời không ngại

Đầy đủ tướng Kim quang

Con nay đầu diện lễ

Đấng Mâu Ni Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hóa ra năm trăm xe báu. Đức Phật ngồi trong xe, phân thân thành năm trăm. Khi ấy, xe báu trụ ở trong hư không, xoay trở tự tại. Ở vùng trục vành xe có trăm ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có vô số hóa Phật, chẳng chuyển chẳng động, mà đi đến thành Ca Tỳ La. Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử như vào tam muội. Trong một lỗ chân lông có một đức Phật xuất hiện. Trong một lỗ chân lông lại có một đức Phật nhập vào. Ra, vào như vậy đầy trong hư không, vô lượng vô biên vị hóa Phật ngồi kiết già. Đó gọi là cảnh giới khi đức Như Lai ngồi. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật nếu muốn biết Phật đi thì như trên đã nói, còn nếu muốn biết Phật ngồi thì phải quán tưởng ảnh Phật. Quán tưởng ảnh Phật thì trước tiên phải quán Phật tượng, tác khởi ý tưởng thân một trượng sáu, ngồi kiết già, trải cỏ làm tòa, thỉnh tượng Phật đặt ngồi. Hành giả thấy Phật ngồi rõ ràng, rồi lại phải dấy khởi ý tưởng, làm một hang đá cao một trượng tám, sâu hai mươi bốn bộ, bằng đá trắng trong. Quán tưởng này thành rồi thì thấy tượng Phật ngồi ở trong hư không, dưới chân có mưa hoa, lại thấy hành tưởng vào trong hang đá. Vào rồi, lại khiến cho hang đó trở thành tưởng núi bảy báu. Tưởng núi bảy báu này thành rồi, lại thấy tượng Phật vọt vào vách đá, vách đá không chướng ngại giống như tấm gương sáng. Tưởng này thành rồi thì như trước, trở lại quán tưởng ba mươi hai tướng tốt. Từng tướng, từng tướng quán tưởng cực cùng làm cho tỏ rõ. Tưởng này thành rồi thì thấy các vị hóa Phật ngồi kiết già trên hoa báu lớn, phóng ra ánh sáng của thân chiếu soi khắp tất cả. Trong mỗi lỗ chân lông của đức Phật ngồi, mưa xuống atăngkì các tràng bằng thất bảo. Đầu mỗi một bảo tràng có trăm ngàn bảo phan. Cái phan nhỏ nhất, dọc ngang bằng nhau, cũng bằng cả núi Tu di. Trong phan báu này lại vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật đều vọt thân vào trong hang đá này và hiện bày ảnh Phật. Khi tưởng này xuất hiện thì như đã nói ở phần tim đức Phật. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, người theo đúng lời ta nói mà quán tưởng ảnh Phật thì đó gọi là chân quán Như Lai tọa (ngồi). Người quán tưởng Như Lai tọa thì như người thấy được thân Phật, không có khác gì và trừ được trăm ngàn kiếp tội sinh tử. Nếu quán chẳng thấy được thì phải vào tháp, quán tất cả tượng. Thấy tượng Phật ngồi rồi, sám hối tội chướng. Nhờ công đức nhân duyên quán tượng nên khi đức Di Lặc ra đời, người này thấy đức Phật Di Lặc đầu tiên ngồi kiết già ở dưới gốc cây Long Hoa. Thấy rồi, người ấy vui mừng ba thứ Bồ đề theo nguyện hiểu biết rõ.

Sao gọi là quán tưởng đức Như Lai, khi đi đến thành Câu Thi Na hàng phục các lực sĩ – Đức Phật bảo với Phụ vương – Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ ở nước đó vào Bát Niết bàn.

Lúc bấy giờ, năm trăm lực sĩ đang dẹp tảng đá chẹn đường đi. Họ dùng hết sức lực sĩ nhưng chẳng thể dời đi. Khi ấy, đức Thế Tôn hóa làm vị Samôn, dùng tay gạt tảng đá, tảng đá liền bay lên trụ ở không trung. Đám lực sĩ kinh sợ, giả sử tảng đá này mà rơi xuống thì không biết chạy trốn vào đâu. Họ ngước lên xem thì tảng đá trên đã hóa thành vị hóa Phật, giống như núi vàng có các đức Phật vây quanh. Lực sĩ thấy rồi, lòng rất hoan hỉ. Vị hóa Samôn nằm dựa dưới gốc cây như người ngủ ngày, có ánh sáng mặt trời từ hông trái phát ra như có trăm ức mặt trời vào trong hông phải. Trong mỗi một mặt trời có hai cây báu, có giường báu lớn mà bên trên có các đức Phật nằm. Ánh sáng như vậy soi khắp mười phương, vô lượng thế giới. Mỗi một thế giới có vô lượng các đức Phật ngồi tựa dưới gốc cây và đều có ánh sáng từ hông phải vào theo hông trái mà ra. Ánh sáng như vậy biến thành đài báu. Hành giả đều thấy thế giới mười phương có một đài báu. Trên đài báu này có một vị Phật lớn mà thân lượng lớn nhỏ cùng mười phương ngang bằng, nằm tựa bên đài. Lúc ấy, đức Phật đó, hông bên trái tuông ra nước như ngọc lưu li mà mỗi một viên ngọc báu lớn như núi Tu di. Bên trong mỗi một núi có trăm ngàn đức Phật nằm. Mỗi một vị Phật nằm phóng ra ánh sáng lớn… cũng như trên đã nói. Hông bên phải đức Phật đó lại phát ra vạn ức dòng sông sữa chảy rót xuống mà từng giọt từng giọt hóa thành trăm ngàn những hóa hoa. Mỗi hoa có hóa Phật nằm ở trên hoa sen, đều dùng tay phải rót cam lồ xuống như mưa khiến cho tất cả mọi người đều được uống, chúng sinh ngã quỉ khi thấy tướng này thì tự nhiên no đủ.

Lúc bấy giờ, trong hư không có âm thanh vi diệu khen ngợi bốn vô lượng tâm, nhiên hậu phân biệt cảnh giới rỗng không, tâm tưởng không tâm, cảnh giới tịch diệt. Người tác khởi sự quán tưởng đó gọi là quán tưởng Như Lai nằm. Quán Như Lai nằm thì trước tiên phải quán tượng Phật nằm. Hành giả thấy tượng nằm rồi thì phải nghĩ rằng : “ Khi đức Phật tại thế, thân thể các đức Phật Như Lai không hề mệt mỏi, sở dĩ ngài hiện thân nằm chỉ vì hàng phục các lực sĩ cương cường và những chúng sinh tà kiến bất thiện. Hoặc ngài lại thương xót các vị Tỳ kheo nên hiện thân nằm nghiêng về hông phải. Như Lai nằm chính là năm Đại Bi. Muốn quán Phật nằm phải tu hành từ tâm. Người tu hành từ tâm, khi liên hệ với tất cả chúng sinh thấy họ chịu khổ thì chẳng tiếc thân phận, thành thục an lạc cho chúng sinh chịu khổ khiến cho họ không bị hoạn nạn. Người có tâm đại bi, khi thấy chúng sinh chịu khổ não thì như thấy chính cha mẹ, sư trưởng, bạn lành của mình nên sinh lòng bi ai, nước mắt rơi như mưa. Lòng bình đẳng như vậy gọi là Đại Bi. Thấy người khác hưởng thụ niềm vui mà sinh lòng vui mừng như vị Tỳ kheo được thiền thứ ba thì đó gọi là Hỷ.

Xả là tất cả không có tướng chúng sinh. Khi dấy khởi sự quán tưởng đó thì hành giả trước hết quán tưởng thân mình. Địa đại là chúng sinh sao ? Thủy đại, hỏa đại, phong đại là chúng sinh sao ? Sắc là chúng sinh sao ? Thọ, tưởng, hành, thức là chúng sinh sao ? Không là chúng sinh sao ? Chẳng phải không là chúng sinh sao ? Như là chúng sinh sao ? Chẳng phải Như là chúng sinh sao ? Thật tế là chúng sinh sao ? Chẳng phải thật tế là chúng sinh sao ? Hữu vi “không” là chúng sinh sao ? Vô vi “không” là chúng sinh sao ? Khi chiết giải phân biệt như vậy mà chẳng thấy chúng sinh, chẳng được chúng sinh, không có chúng sinh tưởng, lòng không gì tham trước, cũng không chí cầu. Hiểu rõ được pháp thanh tịnh như vậy.v.v… thì gọi là hành xả.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Nếu có chúng sinh ưa quán tưởng Phật nằm thì đó là chân quán Từ định thanh tịnh. Nếu có chúng sinh nghe pháp Phật nằm và các Tỳ kheo thuận theo lời nói của đức Phật, chẳng hủy hoại oai nghi, nằm nghiêng về hông phải thì phải biết những người đó mặc áo tàm quí, uống thuốc nhẫn nhục. Như Tỳ kheo này hiện thế ngồi thiền thì thấy chư Phật mười phương vì mình nói đại pháp. Nếu họ chẳng ngồi thiền mà chẳng hủy phạm giới nên ở đời vị lai được thấy chư Phật mười phương. Các đức Phật mười phương sẽ vì họ nói Đại pháp. Họ nghe pháp dễ giác ngộ, giống như khoảnh khắc người tráng sĩ co duỗi cánh tay, ngay tức thời được đạo A la hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám giải thoát. Như Lai nằm đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh. Do đem lại lợi ích nhiều nên gọi là Từ Bi Hỷ Xả. Bốn pháp này sinh ra các đức Phật, là mẹ của các vị Bồ tát.

Khi nói lời đó rồi, đức Phật ở trong chúng toàn thân phóng ra ánh sáng. Phía trước tám muôn bốn ngàn, bên phải tám muôn bốn ngàn, bên trái tám muôn bốn ngàn, phía sau tám muôn bốn ngàn, trên cổ tám muôn bốn ngàn là những lỗ chân lông. Mỗi một lỗ chân lông mọc ra một sợi lông xoắn. Đầu mỗi một sợi lông có trăm vạn ức hoa sen nhiều như bụi. Trên mỗi hoa sen có vô lượng vô số vị hóa Phật nhiều như vi trần. Thân các vị hóa Phật cao hiển trang nghiêm như ngàn vạn ức những núi Tu di. Trong rốn của mỗi một vị Phật có năm trăm vạn ức con sư tử. Mỗi một con sư tử phun ra năm trăm vạn ức những đồ cúng dường. Mỗi một đồ cúng dường có năm trăm vạn ức đám mây hoa bảy báu. Mỗi một đám mây hoa báu có năm trăm vạn ức tiếng những lời kệ tụng. Từng tiếng từng tiếng tiếp theo nhau giống như những giọt mưa rơi.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại hiển rõ tám mươi vẻ đẹp. Ánh sáng màu vàng từ tướng Bạch Hào phát ra. Mỗi một ánh sáng soi khắp mười phương, hóa thành những vị Phật. Những vị Thế Tôn đó, vị đi vô số, vị đứng vô số, vị ngồi vô số, vị nằm vô số. Các vị hóa Phật đó nói về Đại Từ Bi, nói về ba mươi bảy phẩm trợ Bồ đề pháp, nói về sáu Balamật, nói về mười lực, bốn vô úy, mười tám bất cộng pháp của Phật Như Lai. Khi tướng này hiện thì một ức những Thích tử (Đế thích ?), lòng không sở trước, ngộ Vô sinh nhẫn. Đức Phật vì họ thọ ký : Vào đời vị lai, qua vô số kiếp, sẽ được làm Phật, hiệu là Tam Muội Thắng Tràng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… đầy đủ mười hiệu, theo thứ lớp làm Phật có đến một ức vị. Khi những đức Phật đó xuất hiện thì thế giới Ta Bà thanh tịnh trang nghiêm giống như cõi của đức Phật Quang Minh ở thế giới Thánh Phục Tràng, ngang bằng không có khác. Các vị Bồ tát đó khi được Phật đạo thì đất nước không có những danh xưng như hủy cấm, loạn ý, bất thiện, thuần là Bồ tát, tuy có Thanh văn nhưng chẳng bài báng Đại thừa. Các Thích tử nghe đức Phật thọ ký, lòng rất vui mừng, đều cởi chuỗi ngọc tung lên trên đức Phật. Những chuỗi ngọc đó đang trụ bên trên đức Phật hóa thành cây hoa. Mỗi một cây hoa có hằng hà sa số hoa. Trên mỗi một hoa có hằng hà sa số lầu báu. Trong mỗi một lầu có hằng hà sa số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật diễn nói tám muôn bốn ngàn những Balamật.

Lại có vị hóa Phật dạy các Thanh văn phép Sổ tức an bát (phép thiền đếm hơi thở ra vào), tuông ánh sáng vào xương trắng, xương trắng tuông ra ánh sáng, tưởng tâm tịnh, tưởng tâm bất tịnh, khởi tưởng kết sử, diệt tưởng kết sử, đoạn tưởng sử chi, giết tưởng sử căn… Chín mươi ức vi trần số những tưởng như vậy. Như nói Sổ tức an bát thì đó gọi là pháp Thanh văn. Còn pháp Bồ tát thì chỉ có bốn pháp. Những gì là bốn ?

– Một là ngày đêm sáu thời nói lên tội lỗi để sám hối.

– Hai là thường tu niệm Phật chẳng lừa dối chúng sinh.

– Ba là tu sáu hòa kính, lòng chẳng sân nhuế kiêu mạn.

– Bốn là tu hành sáu niệm như cứu lửa cháy đầu.

Đức Phật bảo với Phụ vương rằng :

– Như vậy.v.v… gọi là tam muội quán Phật đời vị lai, cũng gọi là phân biệt thân Phật, cũng gọi là biến sắc tướng của Phật, cũng gọi là Niệm Phật tam muội, cũng gọi là ánh sáng chư Phật che chở chúng sinh.

Khi nói lời đó thì trời, rồng, dạ xoa, tám bộ quỉ thần, mười hai ức chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và tự phát thề nguyền rằng : “ Nguyện đời sau thường vào Tam muội, thấy sắc thân đức Phật như hôm nay không khác”.

Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, vô số thiên tử lễ Phật, quì dài chắp tay, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Chúng con hôm nay được thấy hình sắc tối thượng trong mọi hình sắc của đức Như Lai ! Nguyện xin cho chúng sinh trược ác đời đương lai ràng buộc ý niệm, tư duy thấy sắc thân của đức Phật ! Nguyện này chẳng hư dối, lời nói của con và sự nhìn thấy của con hôm nay chân thật chẳng hư dối thì nguyện xin khiến cho con và các thiên chúng giống như thân Phật.

Khi nói lời đó thì họ tự thấy trong lòng có trăm vạn ánh sáng phát ra. Mỗi một ánh sáng hóa thành vô lượng trăm ngàn vị hóa Phật. Họ tự thấy thân mình là thân màu vàng ròng giống như Nan Đà.v.v… không có khác.

Các Phạm thiên bạch đức Phật rằng :

– Đấng Thế Hùng Như Lai xuất hiện ở đời, nhất định sẽ đem lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lời thề nguyền rộng lớn xưa, hôm nay đã được viên mãn, chẳng bỏ chúng sinh. Lời nói này chẳng hư dối nên con tự thấy tâm tưởng cảnh giới chúng sinh đời vị lai cũng sẽ như vậy mà quán tưởng chân thân của đức Phật.

Đức Phật bảo Phạm thiên rằng :

– Đúng như lời nói của ông, chân thật chẳng hư dối ! Chúng sinh đời vị lai chỉ dấy lên ý niệm đó thì được phước không lường, thân tướng đầy đủ, huống gì nhớ tưởng.

Khi đức Phật nói lời đó thì vua Tịnh Phạn và các Thích tử, Tỳ kheo ni, Ưu bà di đồng thời đều đứng dậy làm lễ đức Phật mà lui ra.

Lúc bấy giờ, Phụ vương trở về đến trong cung vì các thể nữ nói về tướng tốt của đức Phật. Một ngàn hai trăm năm mươi thể nữ nghe về tướng Bạch Hào của đức Phật, lòng phát sinh vui mừng, trừ được trăm vạn ức nadotha tội sinh tử. Ở trong hư không có tiếng bảo các thể nữ rằng :

– Các ngươi nghe tướng của đức Phật trừ được các tội lỗi ! Hãy phát tâm Vô Thượng Tam Bồ đề đi !

Nghe lời nói đó rồi, họ liền thấy ở không trung có vô lượng các đức Phật. Thấy các đức Phật rồi, họ đều đồng thời được Niệm Phật định. Các Tỳ kheo ni liền đứng dậy, lễ kính dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, lui về đứng một bên.

Lúc bấy giờ, ngài A-nan trật áo vai phải, chắp tay quì dài bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Phật nói ba mươi hai tướng, mà còn một tướng vì sao đức Như Lai chẳng nói rõ vậy ?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sắc bảo các Tỳ kheo ngồi xuống trở lại. Lúc ấy, đức Thế Tôn tự hóa ra năm trăm ức núi báu ở bên trái, bên phải ngài. Mỗi một núi báu có bốn đức Phật ngồi. Bốn đức Phật Thế Tôn khen ngợi niệm Phật. Đức Phật liền mĩm cười, miệng có năm sắc ánh sáng, lưỡi có mười bốn ánh sáng. Như ánh sáng này hóa thành một đức Phật. Trong rốn đức Phật ấy tuông ra năm dòng nước mà màu sắc đều khác. Trong mỗi một màu có chín ức vị Bồ tát. Trên đỉnh mỗi một vị Bồ tát đều có ánh sáng Phạm ma ni mà trong ánh sáng có hằng hà sa số vị hóa Phật. Trong rốn mỗi một vị hóa Phật phát ra nước cũng lại như vậy. Những dòng nước như vậy chảy vào rốn của đức Phật. Các vị hóa Phật và hóa Bồ tát đó đều vào rốn của đức Phật. Lúc đó, thân đức Phật phơi bày đều thanh tịnh hơn cả ngọc lưu ly thanh tịnh thắng diệu. Ở bên trong thân đức Phật có tòa Sư tử. Mỗi một tòa sư tử lớn như núi Tu di. Trên mỗi một tòa có một đức Như Lai và chín mươi ức Bồ tát làm thị giả. Trên đỉnh đầu các vị Bồ tát đó có các đức Phật lớn như núi Tu Di. Như vậy vô lượng các đức Phật mười phương mà trong rốn tuông ra nước đều cùng với nước đến vào hết trong rốn của đức Phật Thích Ca Văn. Các đức Phật chẳng lớn, đức Thích Ca chẳng nhỏ. Đức Thích Ca chẳng lớn, các đức Phật chẳng nhỏ. Trong tim bên trong thân của đức Phật Thích Ca Văn có vô lượng đức Phật mà mỗi một đức Phật chẳng ngăn che nhau, lỗ chân lông của toàn thân nói giảng pháp niệm Phật. Các vị hóa Phật đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan nói rằng :

– Ngươi nay khéo giữ gìn quán Phật tam muội, chớ để cho quên mất ! Ngươi phải một lòng nhớ nghĩ, vì chúng sinh đời vị lai mở mắt ánh sáng !

Khi nói lời đó thì hình tượng Thất Phật đời quá khứ đứng ở trong hư không, đều duỗi tay phải xoa đầu ngài A-nan mà chúc lụy việc đó. Lúc đó trong hư không, có vô số ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số hóa Phật, khác miệng đồng lời, chúc lụy pháp ấy.

***

PHẨM THỨ BẢY : QUÁN MÃ VƯƠNG TÀNG.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Chúng sinh đời vị lai phải quán tướng âm mã tàng của đức Như Lai ra sao? Tướng âm mã tàng là khi ta ở nhà, Gia Du Đà La và năm trăm thị nữ đều nghĩ rằng: “Thái tử sinh ra đời, có nhiều những việc đặc biệt kỳ lạ, chỉ có một việc đối với ta có sự nghi ngờ”. Trong chúng thể nữ có một thể nữ tên là Tu Mạn Na liền bạch với thái tử phi rằng: “Thái tử là thần nhân vậy! Kinh Tỳ Đà (Vệ Đà) nói : Nếu có thể chất thần nhân thì tính thanh tịnh, do phạm hạnh nên thân căn đầy đặn. Thái tử giống như người phạm hạnh, nạp phi đã lâu, các thể nữ ấy phụng sự trải qua nhiều năm, chẳng thấy được thân căn, huống là có “sự đời”. Lại có một người con gái tên là Tịnh Ý bạch rằng : “ Thưa đại gia! Con phụng sự thái tử trải qua mười tám năm, chưa từng thấy thái tử có hoạn nạn về tiện lợi (ý nói bệnh về thân căn) huống là có các dục”. Lúc bấy giờ, những người con gái, mỗi mỗi đều nói khác, đều cho thái tử là bất năng nam. Ban ngày nằm ngủ thái tử đều nghe các người con gái muốn thấy tướng Âm mã tàng của thái tử. Lúc đó, thái tử, do lực thệ nguyện nên ứng cho những người con gái, quần áo bên trong thân từ từ chuyển phát, khiến cho họ thấy ánh sáng thân màu vàng rực rỡ. Rồi hai gối tạm mở ra, họ đều nhìn thấy thánh thể đầy đặn như vầng trăng tròn, có ánh sáng màu vàng giống như vầng mặt trời. Các người con gái hoan hỉ nói rằng : “ Như thần nhân này thật đáng kính yêu, nhưng đối với chúng ta thì hy vọng thế tình dứt tuyệt!”. Nói lời đó xong, họ buồn khóc nước mắt như mưa. Lúc ấy, thái tử, ở chỗ thân căn xuất hiện hoa sen trắng, màu hoa ấy trắng hồng, trên một dưới hai, ba hoa liền nhau. Các người con gái thấy rồi lại nói với nhau rằng : “ Như thần nhân này có tướng hoa sen thì lòng người này làm sao có nhiễm trước?” Nói lời đó xong, họ nghẹn lời chẳng thể nói nữa. Lúc đó, trong hoa bỗng có thân căn như hình dạng của đồng tử. Các người con gái thấy rồi lại nói với nhau rằng : “ Thái tử nay hiện việc đặc biệt kỳ lạ, bỗng nhiên có thân căn!” Như vậy thân căn lớn dần dần như hình dạng của bậc trượng phu. Các người con gái thấy “của này” đầy đặn rồi thì tình nguyện chẳng kiềm chế được vui mừng. Khi tướng này hiện thì mẹ của La Hầu La thấy thân căn đó, từng hoa từng hoa tiếp theo nhau, như đồ trang sức kiếp bối của trời (như thiên kiếp bối?). Trên mỗi một hoa có vô số Bồ tát thân lớn, tay cầm hoa trắng vây quanh thân căn. Hiện rồi trở lại biến mất, như vừng mặt trời trước đó. Đây gọi là tướng âm mã tàng của Bồ tát. Như Lai, nay đã thành đạo Bồ đề là đầy đủ thân nam tử của bậc Đại Trượng Phu, lại sẽ vì ông hiển hiện tướng nam.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Khi ông chưa xuất gia, vua Ma Thâu La có một người nhũ mẫu tên là Đầu Mâu Bà, đã nuôi dưỡng vua đó trải qua mười lăm năm. Khi nhà vua đã trưởng thành, bà chắp tay quì dài theo nhà vua cầu nguyện mà bạch rằng :

– Tâu Đại vương! Tôi tuy ti tiện, nhưng đã nuôi nấng đại vương cần cù trải nhiều năm, chỉ xin Đại vương ban cho một nguyện.

Nhà vua bạch rằng :

– Nhũ mẫu muốn cầu điều gì?

Nhũ mầu liền tâu rằng :

– Ở tại trong cung như một trời công đức, tất cả không thiếu thốn, chỉ có một việc khiếm khuyết. Đó là sự hạnh phúc của nguyện tình nữ nhân.

Nhà vua bạch rằng :

– Thưa nhũ mẫu! Tôi sẽ đem nhũ mẫu gả cho một vị Đại thần, kết nghĩa vợ chồng.

Nhũ mẫu chẳng chịu, bạch rằng :

– Tâu đại vương! Người cao quí nhiều việc, chẳng phải là sự ưa thích của tôi! Nguyện xin nhà vua sắc bảo tất cả con trai trong nước từ mười lăm tuổi trở lên, ba mươi tuổi trở lại đều phải theo tôi. Nếu người có khả năng đến thì tôi cho người đó một đồng tiền vàng lớn. Người hình dung xấu xí thì sẽ cho một ngân tiền.

Vị quốc vương đó báo ơn người nhũ mẫu, tạo dựng một ngôi lầu cao, rồi tuyên lệnh trong nước, sắc cho các nam tử, theo sở nguyện nêu trên, đều đến tập họp. Trải qua nhiều năm, nhũ mẫu già yếu, chiêu tập nhiều những con gái, có đến năm trăm. Mỗi một người con gái lại mua các tỳ nữ với đủ thứ trang sức, số tròn tám ngàn. Vị quốc vương kia gặp bệnh băng hà (chết mất), thái tử kế vị, vị bề tôi trí tuệ bạch rằng :

– Đức tiên vương vì báo ơn nên buông lõng lão tỳ này khiến cho đất nước của vua có thêm thôn dâm nữ, làm tổn nhục quốc vọng, thật sự chẳng nhỏ, để ở đây làm gì nên tức thời đuổi đi chỗ khác.

Bạch xong, ông ra ngoài thiêu đốt ngôi lầu cao, xua đuổi bọn con gái. Bọn con gái sợ hãi đi đến nước Xá Vệ. Đã đến nước Xá vệ, ở tại ngã tư đường, chúng tạo dựng dâm xá, tác quái như trước. Xá vệ là nước lớn, người đông, họ kéo đến nhà những dâm nữ qua một đêm nộp hai trăm tiền vàng. Nước ấy có ông trưởng giả tên là Như Lư Đạt, tích chứa của cải hàng trăm ức. Ông trưởng giả có người con tên là Hoa Đức. Anh em hắn ba người là những du đảng vô độ, giành nhau chạy đến dâm xá. Đầu tiên một lần mỗi mỗi đều nộp mười lăm tiền vàng. Ngày ngày đêm đêm chúng thường nộp tiền vàng hơn gấp bội người thường. Trải qua một tháng mà một kho hết vàng. Ông trưởng giả cha chúng đi xem xét các kho, thấy một kho rỗng không, hỏi người giữ kho, vàng trong kho này ở đâu? Người quản lý kho bạch rằng : “ Các con của đại gia ngày ngày đem vàng đến nhà dâm nữ, nếu chẳng bắt dừng lại thì vàng sẽ hết”. Ông trưởng giả nghe rồi, đấm ngực gào khóc to rằng : “ Ô hô! Tặc tử phá gia cư của ta!” Rồi ông cầm gậy lớn đánh vào đầu mẹ đứa con. Bà ấy gào khóc rằng : “ Ô hô! Tặc tử! Sinh đứa trẻ vô ích, trộm hết kho vàng! Cha không giáo huấn khuôn phép, vốn chẳng dạy bảo nghiêm thì đánh đập làm gì?” Ông trưởng giả giận dữ gào khóc đi đến chỗ vua, vỗ bụng trước vua mà bạch rằng : “ Thưa đại vương! Trong nước hoang loạn, các nữ La sát của nước Ma Thâu La đến ở trong thành này, phá hại gia nghiệp của con”. Nhà vua nói với trưởng giả rằng : “ Ngươi giàu có rất lớn mà kho vàng còn hết, huống là kẻ phàm hạ khác chắc chẳng khốn đốn sao?” Ông trưởng giả bạch vua rằng : “ Nguyện xin Đại vương mau chóng giết kẻ ác!” Nhà vua bảo ông trưởng giả rằng : “ Ta thọ giới của đức Phật, con kiến còn chẳng làm tổn thương, huống là muốn giết người”. Ông trưởng giả nghe lời này, giơ tay vỗ đầu mà bạch rằng : “ Tâu Đại vương! Thần nghe, làm vua giết phạt người ác vì nước trừ hoạn nạn đâu có tội gì? Ngày nay, đại vương cùng người ác làm bạn. Giả sử các dâm nữ hoại loạn chánh pháp, nước hoang, dân cùng thì giới còn đâu?” Nhà vua bảo ông trưởng giả rằng : “ Đức Như Lai ra đời điều phục được nhiều thứ. Ương Quật Ma La, Khí Hư Chiên Đà La, Đại Lực Quỉ Vương, La sát Khôi Hôi… tất cả đều đã thuần hóa, nay đang đi đến chỗ đức Phật khải bạch việc này. Ngươi có thể chịu nhịn một chút!” An ủi bề tôi rồi, vua ngồi xe do danh tượng kéo, cùng các thị tùng đi đến tinh xá Kỳ Hoàn, lễ Phật, nhiễu quanh đức Phật ba vòng, chắp tay quì dài mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Các dâm nữ của nước Ma Thâu La, nay đã đến vùng này mê hoặc các thiếu niên, nguyện xin đức Phật hóa độ họ!

Đức Phật bảo rằng :

– Này đại vương! Lùi sau bảy ngày! Phật tự biết điều đó!

Vua Ba Tư Nặc lễ Phật mà lui về.

Đức Phật bảo ngài Đại Ca Diếp rằng :

– Ông hãy đến nhà ông trưởng giả Tu Đạt thưa rằng : “ Thưa đàn việt! Sau đây bảy ngày, đức Phật đi đến thí trường (nơi thử thách, thi đua) hóa độ các dâm nữ”!

Ông Tu Đạt nghe rồi vui mừng hớn hở, bày biện những đồ cúng dường. Ông làm hoa thất bảo cao mười một trượng đặt chỗ ngồi của đức Phật, treo các bảo cái bằng lụa năm màu, nước thơm tưới đất… Ngày ấy đã đến, nhà vua đánh trống vàng, lệnh cho các luận nghị sư trong nước đều đến Thí trường. Ông Tu Đạt trưởng giả thỉnh các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, tất cả đều tập họp để thiết lễ cúng dường. Sáng ngày hẹn đã đến, nhà vua cùng mọi người đi đến luận nghị trường. Ông trưởng giả Như Lư Đạt sai chiên đà la kêu các dâm nữ. Ông trưởng giả Tu Đạt cũng bạch đức Phật là, thời gian đã đến. Lúc đó, đức Như Lai sắc bảo một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo rằng :

– Này các Tỳ kheo! Các ông đều theo định ý mà hiện đại thần thông đi!

Thượng tọa Kiều Trần Như cùng bốn Tỳ kheo hóa làm một hang động lớn như Hương Sơn với trăm ngàn hoa sen. Trên mỗi một hoa sen có năm Tỳ kheo ngồi kiết già, thân phát ra ánh sáng vàng, khiến cho thân toàn màu vàng, đoan nghiêm khả ái giống như ngài Di Lặc. Lại có hóa nhân tạo tác mười tám biến hóa. Trong mỗi một biến hóa có mười tám Tỳ kheo tạo tác mười tám biến hóa thần thông đáng xem mà bên trong có người vào tam muội, bên trong có người đi kinh hành. Ánh sáng xoắn trở lại giống như núi vàng phát sinh những hoa báu. Tỳ kheo ở trong hang, thân tâm chẳng tán loạn, bay đến thí trường. Ngồi ở vị trí bên trên. Uất Tỳ Ca Diếp vọt thân lên không trung hóa làm sáu con rồng, cuộn thân kết nhau làm tòa ngồi cho Tỳ kheo. Ở trên tòa ấy ngài tạo tác mười tám biến, bay đến thí trường. Hai người anh em Già Gia Na Đề vọt thân lên hư không hóa làm hang đá lớn, vào định Hỏa Quang, tạo tác mười tám biến hóa mà bay đến thí trường. Đại đức Đại Ca Diếp mặc áo ngàn mảnh ghép (thiên nạp y), tay bưng bình bát, nắm giữ uy nghi, chân bước vào hư không. Trong mỗi bước chân, bước chân, hóa ra mỗi cây báu. Dưới mỗi một cây báu đều có vị hóa Ca Diếp đi kinh hành trong rừng cây và tạo tác mười tám biến hóa, cũng đến thí trường. Ngài Đại trí Xá Lợi Phất vọt thân lên không trung tạo tác mười tám biến hóa, trên thân phát ra ngàn ánh sáng mặt trời rực rỡ mà chẳng che chắn nhau. Bên dưới thân phát ra ngàn ánh trăng như trăng thu tròn vành vạnh khả ái. Ngài tạo tác mười tám biến hóa rồi bay đến thí trường. Ngài Đại Mục Kiền Liên vọt thân lên không trung, hóa làm tám muôn bốn ngàn tòa sư tử. Mỗi một con sư tử nhắm mắt phủ phục dưới đất trắng như Tuyết Sơn. Ngài Đại Mục Kiền Liên ngồi trên lưng sư tử ấy tạo tác mười tám biến hóa mà đi đến thí trường. Tôn giả Ưu Ba Ly vọt thân lên không trung, ở trong hư không trải tọa cụ, ngồi kiết già, vào Từ tam muội. Các lỗ chân lông của thân ngài tuông ra ánh sáng vàng. Ngài tạo tác mười tám biến hóa mà đi đến thí trường. Ngài Đại Ca Chiên Diên vọt thân lên không trung, hóa làm mười lăm vị Ma Ê Thủ La. Mỗi một thiên tử cưỡi một con trâu chúa mà trên đầu nó mọc ra hoa. Ngài Đại Ca Chiên Diên ngồi trên tòa hoa này tạo tác mười tám biến hóa, bay đến thí trường. Ngài Tu Bồ Đề vọt thân lên không trung, biến mất trong vùng tối, chỉ nghe tiếng nói, nói kệ như vầy :

Tính Chân Như mọi pháp

Không ngã không chúng sinh

Cũng không dâm dục tưởng

Giáo hóa ai tu hành?

Các pháp vốn không tính

Cũng không tưởng tự danh

Ái trước nên khởi dục

Giáo hóa ai tu hành?

Nói kệ đó rồi, ngài tạo tác mười tám biến hóa, bay đến thí trường. Ngài A Na Luật vọt thân lên không trung hóa ra một vạn Phạm vương, tạo tác các cung Phạm mà Tỳ kheo ngồi bên trong làm mười tám biến hóa, bay đến thí trường. Ngài La Hầu La và ngài Nan Đà, hai Tỳ kheo vọt thân lên không trung hóa làm Bảo Lâu (ngôi lầu báu) mà Tỳ kheo ngồi bên trong vào thiền định sâu, tạo tác mười tám biến hóa bay đến thí trường. Như vậy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo đều thị hiện biến hóa dị thường, cũng tạo tác mười tám thứ thần thông, bay đến thí trường.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đem theo một mình ngài A-nan vai mang tọa cụ, tay cầm gáo múc nước tắm. Đức Thế Tôn đi trước, ngài A-nan theo sau. Từ trong bình bát của đức Phật có sáu đóa hoa sen. Mỗi một hoa sen phóng ra ánh sáng màu vàng, chiếu soi nước Xá Vệ tạo thành màu vàng. Trong gáo múc nước tắm có tràng phan lớn bằng vàng, đầu tràng phan vàng ấy có năm trăm luồng ánh sáng. Mỗi một luồng ánh sáng hóa ra một ngàn vị hóa Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, bước chân lên hư không, bay đến thí trường. Vua Ba Tư Nặc và các đại chúng tung hoa, đốt hương, làm lễ đức Phật. Hàng trăm ngàn âm nhạc nhà trời chẳng tấu mà tự kêu lên ca vịnh công đức không lường của đức Như Lai. Vua Ba Tư Nặc quì dài, chắp tay khuyến thỉnh đức Như Lai hóa độ dâm nữ. Đức Phật ngồi trên tòa hoa vì các đại chúng, lược nói về khổ, không, vô thường… các Balamật. Các dâm nữ chẳng thọ hóa. Trong nữ chúng, có một dâm nữ tên là Khải Ái bảo các dâm nữ rằng :

– Samôn Cù Đàm bản tính vô dục, người ta nói, ông chẳng phải là đàn ông nên ở trong chúng diễn nói khổ, không… chê bai dục là bất tịnh. Nếu ông ấy có thân phận đầy đủ thì ở trong đại chúng nên bỏ xấu hổ như bọn Ni Kiền Tử, bày thân ra cho chúng ta xem xét. Nếu ông có tướng này thì chúng ta chịu qui phục làm đệ tử ông ấy. Nếu không có tướng này nói bất tịnh là hư dối. Người không có căn này, tính vốn vô dục thì sao chẳng nói dục là bất tịnh.

Khi nói lời đó, đức Như Lai, bấy giờ, hóa làm một con voi như con voi báu của Chuyển Luân Thánh Vương. Chỗ chân voi mọc ra một đóa hoa trắng giống như chi của voi, dần dần dài chống đất. Những dâm nữ thấy rồi vui mừng cả cười, đều nói với nhau rằng : “ Samôn giỏi huyễn thuật mới hóa làm cái của này”. Đức Phật lại hóa làm hình dáng một ngựa chúa bày ra “mã vương tàng” như ống lưu ly thòng xuống đến gối. Các dâm nữ thấy rồi thì chúng cho là huyễn hóa. Phu nhân Mạt Lợi thấy hóa tướng này thì bạch với các vị Tỳ kheo ni và các Ưu bà di rằng :

– Chúng ta, những người nữ, nên đều lui trở về đi! Lời nói của bọn dâm nữ chẳng nên nghe ngóng! Đức Thế Tôn Đại Từ, nay muốn hóa độ chúng nhất định còn làm nhiều biến hóa dị thường nữa. Chúng ta nên tránh, lễ Phật mà lui thôi!

Đức Phật sắc bảo ngài A-nan rằng :

– Ông hãy bảo vua Ba Tư Nặc và các Tỳ kheo đều tự đi chơi đi!

Vua Ba Tư Nặc bạch các đại đức rằng :

– Đức Như Lai Đại Từ muốn giáo hóa dâm nữ, nay chúng ta nên đều đi xa.

Nói lời đó xong, ngài lui bước mà đi, chỉ còn một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ kheo đứng hầu sau đức Phật. Đức Phật bảo ngài Kiều Trần Như :

– Hãy đem đồ chúng của ông vào trong rừng mà kinh hành!

Năm trăm vị Tỳ kheo mà ngài Đại trí Xá Lợi Phất làm thượng thủ còn đứng chắp tay hầu bên trái, bên phải đức Phật. Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất :

– Ông cũng tùy ý cùng với các luận sư luận giảng những điều cần yếu!

Năm trăm vị Tỳ kheo theo sau ngài Xá Lợi Phất đến trong rừng hoa, vì vua Ba Tư Nặc, lại nói Tứ Đế, chỉ còn ngài A-nan ở lại. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ông để lại tọa cụ cho ta! Rồi ông cũng nên đi!

Nói lời đó xong, lúc đó đức Thế Tôn một mình đi đến chỗ dâm nữ. Lúc đó, các dâm nữ thấy đức Phật còn một mình thì lớn tiếng cả cười bạch rằng :

– Thưa Samôn! Ông nay có thân phận không vậy?

Đức Phật nói rằng :

– Ta đầy đủ nam thân, là đại trượng phu.

Các dâm nữ nghe rồi che miệng mà cười. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trải tọa cụ. Thần đất Kim cương hóa làm cái giường vàng, bảy báu làm chân giường ở bên dưới tọa cụ. Đức Phật ngồi trên giường vàng tọa cụ ấy, xếp áo tăng già lê, vạch tăng kỳ chi, bày chữ vạn ở ngực cho dâm nữ nhìn thấy. Các dâm nữ nhìn thấy chữ như trăm ngàn nam tử mạnh mẽ, nhân mạo lạ lùng rất vừa lòng họ. Đức Phật lại vạch Nê hoàn tăng, họ thấy thân thể đức Phật hầu hết đầy đặn, có ánh sáng màu vàng giống như ngàn mặt trời. Các dâm nữ thấy rồi đều nói rằng, ông Cù Đàm là người không có thân căn. Đức Phật nghe lời này thì như phép mã vương dần dần xuất hiện. Khi mới xuất hiện giống như thân căn của đứa trẻ tám tuổi. Dần dần lớn lên như hình dạng của người thiếu niên. Các dâm nữ thấy rồi đều vui mừng. Âm mã tàng dần dần lớn lên như tràng hoa sen. Trong mỗi một tầng có trăm ức hoa sen. Mỗi một hoa sen có trăm ức màu sắc báu. Trong mỗi một màu sắc có trăm ức vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có trăm ức Bồ tát và vô lượng đại chúng làm thị giả. Các vị hóa Phật khác miệng đồng lời, hủy báng lỗi hoạn ác dục của các dâm nữ mà nói kệ rằng :

Nếu có các nam tử

Tuổi mười sáu, mười lăm

Mạnh mẽ nhiều sức lực

Nhiều như cát sông Hằng

Đem cung cấp dâm nữ

Giây lát chẳng thỏa lòng.

Các người con gái nghe lời này xong, lòng mang xấu hổ, áo não, ngã lăn ra đất, giơ tay vỗ đầu mà nói rằng :

– Ô hô! Vì ái dục mới khiến cho các đức Phật nói lên việc thế này! Chúng ta ôm lòng ác, đắm trước uế dục, chẳng biết là khổ hoạn mới khiến cho các đức Phật nghe sự tệ ác như thế này, giống như lửa mạnh thiêu đốt chúng ta.

Khi nói lời đó, chúng thấy trong hư không, tất cả các vị hóa Phật rộng vì các dâm nữ nói về Bất tịnh quán. Đó là chín tưởng, mười tưởng, ba mươi tưởng và sổ tức an ban. Các người con gái nghe nói Bất tịnh quán thì ưa pháp, ưa thiền định, chẳng ưa ái dục nữa.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thu nhiếp ánh sáng thân trở lại, ngồi ngay ngắn trên giường vàng. Đại chúng vân tập trở lại chỗ đức Phật. Vua Ba Tư Nặc bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Đức Như Lai ra đời đem lại nhiều lợi ích mới ở chỗ này hiện ánh sáng lớn, huống là công đức không lường ở những phần thân khác. Tất cả chư thiên ở trong hư không, cũng ngợi khen trăm ngàn phạm hạnh của đức Như Lai. Như Lai phạm hạnh mới được như thế này, thắng “âm mã tàng” lặn mất không xứ sở, hiển bày ra hoa vàng với vô số vị hóa Phật. Đó là quả báo công đức lồng lộng của trì giới.

Những người con gái nghe lời nói này rồi thì bốn ngàn con gái phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai ngàn người con gái xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh, hai ngàn người con gái vào đời vị lai qua mười hai kiếp lần lượt sẽ được đạo Bích Chi Phật. Ông trưởng giả Như Lư Đạt thấy đức Phật thị hiện hóa độ những người con gái ác ma, khen rằng :

– Hay thay! Hay thay! Đức Như Lai, xưa phá quân ma Ba Tuần, nay hóa độ những người con gái, cùng với việc xưa không khác.

Khi tướng này hiện thì vô lượng chư thiên phát tâm Bồ đề. Những tướng sĩ mà vua Ba Tư Nặc đem theo, có năm trăm người cầu Phật xuất gia thì râu tóc tự rụng, áo đang mặc trên thân biến thành áo cà sa, ngay tức thời được đạo A la hán. Lúc đó, đại chúng thấy được âm mã tàng, lòng hoan hỷ, trừ được năm mươi ức kiếp tội sinh tử, họ lễ đức Phật, lui ra. Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Lúc trước, ta an cư vào mùa hạ, nước Ba La Nại có một dâm lâu (lầu bán dâm), trên lầu có người con gái tên là Diệu Ý. Ngày xưa, đối với Phật nàng có nhân duyên nặng. Ta cùng với Nan Đà và đem theo ông đi đến nhà dâm nữ này, ngày ngày khất thực. Người con gái này đối với ta chẳng từng cung kính mà đối với Nan Đà thiên lệch sinh ái trước. Đã qua bảy ngày, lòng người con gái nghĩ rằng : “ Samôn Cù Đàm nếu có thể sai em Nan Đà hay A-nan đến thì ta nguyện rằng, ta sẽ đem đủ thứ cúng dường cho Samôn”.

Đức Phật bảo A-nan và Nan Đà rằng :

– Các ông từ ngày hôm nay chớ đi đến thôn đó nữa!

Đức Thế Tôn, một mình cầm bát mà đi. Ngài đến chỗ lầu người con gái, từ một ngày đến ba ngày phóng ra ánh sáng màu vàng giáo hóa những trời, người, nhưng người con gái này chẳng giác ngộ. Ngày hôm sau, đức Thế Tôn lại đem theo A-nan và Nan Đà, đi đến dưới lầu. Dâm nữ ái kính hai vị Tỳ kheo nên từ xa đem mọi thứ hoa tung xuống đức Phật và hai vị Tỳ kheo. Ngài A-nan bảo rằng :

– Ngươi nên làm lễ đức Phật.

Người con gái yêu kính A-nan tức thời làm lễ. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hóa ra ba đồng tử tuổi đều mười lăm, diện mạo đoan chính hơn tất cả loại người của các thế gian. Người con gái này thấy rồi, thân tâm hoan hỉ, vì những hóa niên thiếu, năm vóc gieo xuống đất, kính lễ người thiếu niên mà bạch rằng :

– Thưa trượng phu! Nay nhà này của tôi như trời công đức, phước lực tự tại, mọi báu trang nghiêm. Tôi nay đem thân cùng với nô tỳ dâng lên trượng phu có thể đủ nâng khăn sửa túi cho chàng. Nếu chàng có thể đoái hoài thu nạp theo sở nguyện của tôi thì tất cả cung cấp cho chàng không có gì ái tiếc.

Nói lời đó rồi, chưa kịp hết bữa ăn, người con gái đã thân cận bạch rằng :

– Thưa trượng phu! Nguyện xin thỏa ý của tôi!

Hóa nhân chẳng trái ý, theo sở dục của mình, người con gái đã cận kề rồi, một ngày một đêm lòng chẳng chán mệt. Khi đến hai ngày, ái tâm dứt dần, đến ngày thứ ba thì người con gái bạch rằng :

– Trượng phu nên dậy ăn uống!

Hóa nhân liền dậy nhưng quấn quít chẳng thôi. Người con gái sinh chán chường hối tiếc mà bạch rằng :

– Người trượng phu là dị nhân mới vậy!

Hóa nhân bảo rằng :

– Phép đời trước của ta, phàm cùng con gái thông giao phải qua mười hai ngày mới ngưng nghỉ!

Người con gái nghe lời nói này như người mắc nghẹn, nhả ra chẳng được, nuốt vào chẳng xong, thân thể đau khổ như bị chày giả. Đến bốn ngày thì như bị xe nghiến, đến ngày thứ năm thì như hòn sắt vào thân thể, sang ngày thứ sáu thì chi tiết đều đau như tên bắn vào tim. Người con gái nghĩ rằng : “ Ta nghe người ta nói, con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, thân màu vàng tía với ba mươi hai tướng tốt, thương xót kẻ mù tối, cứu tế người khổ sở, luôn ở thành này, thường làm phước khánh, phóng ra ánh sáng màu vàng, cứu giúp tất cả mọi người. Hôm nay tại sao ngài chẳng đến cứu ta”. Nghĩ thế rồi, nàng áo não tự trách rằng : “ Ta từ ngày hôm nay cho đến trọn đời, nhất định chẳng tham sắc dục nữa! Ta thà cùng với cọp, sói, sư tử, ác thú ở chung một hang chẳng tham sắc dục, chịu sự khổ não này”. Nói lời đó xong, nàng trở dậy ăn uống, đi, ngồi chung đụng mà không thể đòi hỏi gì nữa. Người hóa nhân cũng nổi giận la lên rằng : “ Nay ma nữ tệ ác! Ngươi đã phế bỏ sự nghiệp của ta! Ta nay chung với ngươi giao hợp thân thể một chỗ, chẳng bằng như chết sớm! Nếu cha mẹ, bà con đến tìm thì ta biết trốn vào đâu? Ta thà chết đi, chẳng cam chịu nhục!” Người con gái nói : “ Này vật tệ ác! Ta chẳng cần! Ngươi muốn chết thì tùy ý”. Khi ấy, hóa nhân lấy dao đâm vào cổ, máu chảy lênh láng bôi bẩn thân thể người con gái, lăn lộn dưới đất. Người con gái chẳng thể tự kiềm chế, cũng chẳng được miễn. Thây chết qua hai ngày, xanh sình thối đen, ba ngày thì trương phình lên, bốn ngày thì tan rữa ra với nước đại, tiểu tiện và các ác trùng, vung vãi những máu, mủ… trây trét giàn giụa thân người con gái. Người con gái rất chán ghét mà chẳng được lìa khỏi. Đến ngày thứ năm thì da thịt rả dần, đến ngày thứ sáu thì thịt đều rơi ra hết, đến ngày thứ bảy thì chỉ có bộ xương thối mà như keo như sơn dán chặt vào thân người con gái. Người con gái phát thề nguyền rằng : “ Nếu các thiên thần cùng với tiên nhân, con vua Tịnh Phạn, có thể miễn khổ cho tôi thì tôi đem tất cả trân bảo của nhà này để cấp thí hết!” Khi người con gái khởi ý niệm đó thì đức Phật đem ngài A-nan, ngài Nan Đà đi theo. Ở trước ngài Đế Thích bưng lò hương báu, đốt hương thơm vô giá. Ở sau ngài Phạm vương nâng đại bảo cái. Vô lượng chư thiên tấu lên kỹ nhạc của trời. Đức Phật phóng ra ánh sáng chiếu soi trời đất. Tất cả đại chúng đều thấy đức Như Lai đi đến lầu của người con gái này. Người con gái thấy đức Phật, lòng mang xấu hổ, không chỗ che giấu bộ xương, nàng lấy những miếng vải trắng và mọi thứ hương thơm nhiều không lường, gói bọc bộ xương thối, nhưng mùi thối vẫn như cũ, chẳng thể che giấu. Người con gái thấy đức Thế Tôn, nàng đảnh lễ. Do xấu hổ nên thân ánh lên trên xương, xương thối bỗng nhiên ở trên lưng người con gái. Người con gái vô cùng xấu hổ, rơi nước mắt mà nói rằng :

– Đức Như Lai công đức từ bi không lường! Nếu có thể giúp con lìa khỏi sự khổ này thì con nguyện làm đệ tử, lòng nhất định chẳng thoái lui!

Do thần lực của đức Phật nên bộ xương thối biến mất. Người con gái vui mừng lắm, làm lễ đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Hôm nay, con đem tất cả đồ trân quí cúng dường đức Phật!

Đức Phật vì người con gái chú nguyện bằng Phạm âm lưu loát. Người con gái nghe lời chú nguyện, lòng rất vui mừng, ngay tức thời được đạo Tu đà hoàn. Năm trăm thị nữ nghe âm thanh của đức Phật đều phát tâm đạo Vô Thượng Bồ đề. Vô lượng Phạm chúng thấy thần biến của đức Phật được Vô sinh nhẫn. Những thiên tử của Đế thích đem theo thì có người phát tâm Bồ đề, có người được A na hàm.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Trước đây, khi ta mới thành đạo trụ ở bên dòng sông Hi Liên cạnh thành Già Gia, có năm người Ni Kiền. Người Ni Kiền thứ nhất tên là Tát Xà Đa với năm trăm đồ chúng. Bốn người khác đều có hai trăm năm mươi đệ tử. Các người Ni Kiền đều tự xưng là đắc đạo. Họ đến chỗ của ta, dùng thân căn quấn quanh thân bảy vòng. Đến chỗ của ta, họ trải cỏ mà ngồi rồi nói rằng : “ Này ông Cù Đàm! Ta vô dục nên tướng Phạm hành thành, thân căn của ta mới có thể như thế này, như trời Tự Tại. Ta nay thần thông vượt quá Samôn trăm ngàn vạn bội. Samôn làm một, ta làm hai!” Tức thời ở trong đất, hắn hóa làm một cây lớn, rồi dùng thân căn của mình quấn quanh cây đến bảy vòng, khiến cho cây mây mù như hơi khí của vua rồng. Rồi hắn lớn tiếng cả kêu giơ tay xướng lên rằng : “ Này ông Cù Đàm! Việc tướng Phạm hạnh của ta chứng nghiệm như thế này! Ông xưng là nam tử, nói là đại trượng phu thì lấy gì làm chứng đây?” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hóa làm cái cùm báu, hai đầu cùm báu có mười bốn hạt ngọc. Mỗi một hạt ngọc sáng có một ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa thành hóa Phật tạo tác mười tám biến hóa đứng ở không trung. Đức Thế Tôn hiện hóa, đứng lộn ngược trong hư không, chân ở trên cùm. Hai chân đức Phật hiện ra một ngàn hoa sen. Mỗi một hoa sen có vạn ức ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có trăm ức đài báu. Trong mỗi một đài báu có vô số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật đều thu nhiếp một chân giống như cuốn pha lê khiến cho chân biến mất. Tất cả các vị hóa Phật và đức Thích Ca Văn đều treo một chân, đứng lộn ngược trong hư không. Chỉ có các Ni kiền là thấy đức Phật đứng lộn ngược, còn vô lượng trời, rồng, tám bộ quỉ thần thì thấy đức Phật Thế Tôn an tọa nơi giảng đường, diễn bày đại pháp, đó là pháp vô tướng, vô ngã.v.v… Ở trong không có tiếng bảo các Ni kiền rằng : “ Đức Phật đã làm một, ngươi hãy làm hai đi!” Các Ni kiền liền tự ném mình vọt lên, bám lấy cành cây, ôm cây mà đứng. Dù cho dùng hết thuật Ni kiền, họ chẳng thể đứng lộn ngược. Thần cây hiện thân, tay tát tai chúng mắng rằng : “ Này mấy người điên! Các người loài trùng nhỏ mà dám cùng với vua thú sư tử chung đánh nhau. Ngươi dám kêu lớn, nếu Phật làm một, ta sẽ làm hai, đức Phật nay đã trụ ở đại thần thông lực, sao ngươi chẳng làm gì cả?” Thần cây mắng rồi, thần đất cứng chắc liền từ dưới đất hiện ra đứng ở không trung, dùng khóa sắt lớn khóa chân Ni kiền treo ngược trong hư không, có năm quỉ dạ xoa dùng gậy đánh đập. Ni kiền đau quá tự kéo rơi xuống đất. Trong thời gian chưa đến đất, có một Ni kiền xưng lên “ Nam mô Phật”, đức Thế Tôn đưa tay tiếp lấy Ni kiền, khiến cho thân hắn chẳng đau đớn. Các Ni kiền đã đến đất rồi thì lòng ganh ghét chẳng thôi nên nói với thần đất rằng : “ Ông không lòng từ, thiên vị ông Cù Đàm. Ông phạm tội đời trước nên chịu thân dạ xoa ở dưới đất này. Ngày nay lại không từ ái đều khắp, chỉ vì ông Cù Đàm mà làm khốn khổ chúng ta!” Thần sông Hằng bay đến trụ ở không trung, tay cầm đá lớn bảo rằng : “ Này Ni kiền! Ngươi như người si dại, ăn uống phân trâu, tro đá bôi đầu khiến cho tóc rụng rơi, trần truồng không xấu hổ, giống như lừa, ngựa, cũng như con rồng nghèo khốn chẳng thể thấm nhuần lợi ích gì. Đức Như Lai mặt trời Phật chiếu soi khắp tất cả, ngươi hôm nay sao còn đem tấm thân đen tối cùng vầng mặt trời tranh sáng?” Khi ấy, thần nước xướng lên lời đó rồi thì khuyến thỉnh đức Thế Tôn hàng phục các Ni kiền.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Ni kiền rằng :

– Các ngươi chẳng biết thân phận của Như Lai. Nếu ai muốn thấy thì tùy ý quan sát đi! Như Lai nhiều kiếp tu hành phạm hạnh, lúc tại gia không tà dục tưởng, lòng chẳng nhiễm lụy nên được quả báo ấy, giống như con ngựa báu ẩn hiện không thường. Nay ta vì các ngươi sẽ hiện một phần nhỏ thân phận.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ trên không mà xuống, liền hóa ra bốn dòng nước ở trên mặt đất, giống như bốn biển lớn. Trong bốn biển có núi Tu di, đức Phật ở dưới núi, chánh thân nằm ngửa, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy rực rỡ chói mắt chư thiên, rồi từ từ hiện ra “âm mã tàng” quấn quanh núi bảy vòng, như hoa sen vàng từng hoa từng hoa tiếp theo nhau lên đến cõi Phạm thế. Từ thân đức Phật hiện ra một ức nadotha hoa sen tạp bảo, giống như hoa tràng che phủ âm mã tàng. Tràng hoa sen này có mười ức từng. Mỗi từng có trăm ngàn vô lượng vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có trăm ức Bồ tát và vô số Tỳ kheo làm thị giả. Các vị hóa Phật phóng ra ánh sáng soi chiếu cõi mười phương. Các Ni kiền thấy rồi, cả kinh, lòng khuất phục nói rằng : “ Tướng phạm hạnh của đức Phật đến như thế này thì chẳng thể nghĩ bàn! Hình dáng chẳng xấu xí giống như hoa sen. Con nay đảnh lễ Phật Công Đức Hải! Phật Trí Vô Biên chẳng thể cùng tận! Xin đức Phật nhận sự sám hối của con, nhiếp lấy chúng con!” Nói lời nói này xong thì năm trăm Ni kiền chắp tay, vòng tay, quì dài dưới đất, cầu đức Phật xin xuất gia. Đức Phật dạy rằng :

– Thiện lai Tỳ kheo!

Đức Phật sắc bảo ngài Ca Diếp vì họ chuẩn bị y phục. Ngài Ca Diếp lúc ấy, đến chỗ tiên nhân bảo các vị Đại tiên rằng :

– Ngày nay, đức Thế Tôn hàng phục các Ni kiền, nguyện xin tiên sĩ bố thí cho một ít quần áo!

Các tiên nhân chọn lấy vỏ cây tốt, lá cây Đa la, cắt may làm áo. Thầy của các tiên nhân tên là Quang Mục chắp tay, vòng tay bảo các đệ tử rằng :

– Đức Phật phước đức không lường, thệ nguyện rộng lớn khắp cùng, mới nhiếp lấy những người tà kiến này! Ta phải chuẩn bị quần áo cung cấp cho những kẻ trần truồng. Họ cũng kính Phật bảo đáng được thoát các khổ.

Nói lời này xong, họ theo sau đức Ca Diếp đến chỗ đức Thế Tôn. Năm trăm tiên nhân thấy đài hoa sen từ thân đức Phật hiện ra như mọi hoa sen vây quanh núi Tu di, lên đến cõi Phạm thế. Những tiên nhân thấy việc này rồi, vui mừng chắp tay kính lễ đức Thế Tôn. Quan sát kỹ đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời bỏ, thấy ánh sáng tướng Bạch Hào vùng chân mày của đức Phật uyển chuyển xoáy về bên phải, và thấy tất cả mọi tướng của thân đức Phật, họ tác khởi suy nghĩ : “ Tướng này tốt, nhất định từ đời trước ngài không phược, không trước, không ngã, không tác, không tâm, không thức, không người, không vật, không thí, không thọ… thanh tịnh Đàn Balamật (bố thí) mà sinh ra. Tướng ấy cũng theo Nhất Thiết Bình Đẳng Vô Tướng Đại Trí Tuệ Bát Nhã Balamật sinh ra”. Khi tư duy nghĩa đó xong thì liền chứng được Vô sinh pháp nhẫn, năm trăm Ni kiền mặc Tăng già lê lễ Phật, khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên, ngay tức thời đã được đạo A la hán với ba minh, sáu thông đủ tám giải thoát. Mỗi một Ni kiền thề nguyền sẽ độ năm trăm Ni kiền. Khi tướng này hiện, vô lượng những chúng trời, rồng, dạ xoa thấy quả báo phạm hạnh thanh tịnh của đức Phật, thân tâm hoan hỷ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, chúng trời, rồng, chúng dạ xoa, chúng Samôn, chúng Bà la môn… có hỏi đức Thế Tôn thuở đời quá khứ, thanh tịnh vô dục, tu những phạm hạnh được quả báo gì? Thì ông phải đáp rằng, đức Phật có Mã vương tàng tướng, cùng với thân bằng phẳng, bảy hợp (?) tràn đầy như đồ kim cương, trong ngoài đều sạch. Vì hóa độ chúng sinh nên xuất hiện tướng này : ánh sáng hóa Phật, nâng hoa sen vi diệu… số ấy không lường. Thân như thế này được sinh ra từ vô số đời vô nhiễm yên ổn giỏi trì trí tuệ Thi Balamật – Đức Phật sắc bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật, nếu muốn quán tướng âm mã tàng của Như Lai, phải tác khởi sự quán tưởng đó. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có người ràng buộc tâm chánh niệm tư duy tướng phạm hạnh của Phật, ánh sáng của hóa Phật thì thường ở trong mơ thấy mười phương các đức Phật. Người này đời đời luôn tu phạm hạnh, trừ khước hai mươi vạn kiếp tội sinh tử.

Khi nói tướng đó thì tám ngàn Dạ xoa trong chúng Dạ xoa, thân tâm hoan hỷ, khen ngợi đức hạnh không lường của đức Như Lai và ngay tức thời phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

***

PHẨM THỨ TÁM : BẢN HẠNH

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng:

– Như Lai có ba mươi hai tướng bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp kèm theo và ánh sáng màu vàng. Mỗi một ánh sáng có vô lượng vị hóa Phật. Những lỗ chân lông trên thân, tất cả đều biến hiện – Sắc thân của Phật, ta đã lược nói. Hôm nay ta vì lúc hội đại chúng này và vua Tịnh Phạn, lược nói về tướng tốt. Phật sinh ra ở nhân gian thị hiện đồng việc với con người. Nhân đồng tướng với con người nên nói Phật có ba mươi hai tướng hơn cả chư thiên, nói có tám mươi vẻ đẹp và vì các vị Bồ tát nói tám muôn bốn ngàn những tướng đẹp vi diệu, tướng tốt chân thật của Phật. Ta lúc mới thành đạo tại đạo tràng Tịch Diệt ở nước Ma Già Đà, vì những vị Đại Bồ tát Phổ Hiền, Hiền Thủ.v.v…, ở kinh Tạp Hoa đã phân biệt rộng rãi. Trong tôn pháp này, ta sở dĩ lược nói là vì các phàm phu và bốn bộ đệ tử bài báng kinh Phương Đẳng, tạo tác tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm, trộm vật của tăng kỳ, dâm Tỳ kheo ni, phá tám giới trai… làm các việc ác, đủ thứ tà kiến. Những người như vậy, nếu có thể chí tâm trong một ngày một đêm ràng buộc ý niệm ở trước Phật quán tưởng một tướng tốt của Như Lai thì những tội chướng ác đều diệt hết. Vậy nên Như Lai gọi là Bà Già Bà, gọi là A La Ha, gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà, gọi là Mặt trời Công Đức, gọi là Trí Nguyệt Mãn, gọi là Thanh Lương Địa, gọi là Ngọc Trừ Tội, gọi là Quang Minh Tạng, gọi là Núi Trí Tuệ, Sông Giới Phẩm, gọi là Dẫn Đường Mê, gọi là Đèn Soi Tà Kiến, gọi là Phá giặc phiền não, gọi là Cha Mẹ của tất cả chúng sinh, gọi là chỗ Qui Y lớn. Nếu có người qui y Phật Thế Tôn, hoặc xưng danh thì trừ được nghiệp chướng nặng phiền não của trăm ngàn kiếp, huống gì là chính tâm tu niệm Phật định.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Như Lai, thuở xưa vô lượng vô biên atăngkì kiếp đã dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não, tu định vô tướng, chẳng chứng phi thời (chứng quả chẳng phải lúc). Vậy nên thu hoạch được thắng tướng như vậy. Trong mỗi một tướng có vô lượng vị hóa Phật, huống gì là nhiều tướng. Nếu có thể ràng buộc lòng quán tưởng một lỗ chân lông thì người đó gọi là hành Niệm Phật định. Do Niệm Phật nên các đức Phật mười phương thường đứng trước mặt vì họ nói chánh pháp. Người này có thể sinh ra trong dòng giống các đức Như Lai ba đời, huống gì niệm tưởng sắc thân Phật đầy đủ. Như Lai cũng có vô lượng pháp thân, mười lực, vô úy, tam muội giải thoát, các việc thần thông. Những chỗ vi diệu như thế này chẳng phải cảnh giới sở học của hạng phàm phu các ông mà chỉ phải thâm tâm khởi lên tư tưởng tùy hỷ. Khởi tưởng đó rồi, ông lại sẽ phải ràng buộc ý niệm nghĩ đến công đức của Phật. Nghĩ đến công đức Phật là nghĩ đến giới, định, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, màu vàng, ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại bi, ba (?) niệm xứ… đó. Nếu có chúng sinh một lần nghe thân Phật công đức tướng hảo quang minh như trên thì ức ức ngàn kiếp chẳng đọa vào đường ác, chẳng sinh ra nơi tà kiến, uế tạp, thường được chánh kiến, siêng năng tu hành chẳng dứt, chỉ nghe danh xưng Phật, thu hoạch phước như vậy, huống gì là ràng buộc ý niệm quán tưởng Phật tam muội.

Lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói lời này, ở trong hư không có đài thất bảo. Trên mỗi một đài có hàng trăm ức bảo cái, trời mưa xuống hoa báu cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử ngồi kiết già trong đài báu, cùng mười ức Bồ tát trụ ở trong hư không khen rằng :

– Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca Mâu Ni, bậc Đại Bi Thế Tôn, nói về tướng thân của Phật! Thị hiện uy nghi của Phật! Hiện lên ánh sáng của Phật! Hiển bày các vị hóa Phật! Vì chúng sinh phàm phu đời vị lai chẳng thấy Phật mà tạo tác nhân duyên thấy Phật! Hay thay! A-nan, vị pháp tử từ bi! Tên ngài Hoan Hỷ! Nương tên ngài định thật! Ngài giỏi giữ gìn lời nói của đức Phật, thận trọng chớ quên mất. Chúng sinh đời vị lai nghe Ngài nói tức là thấy Phật! Tư duy ý nghĩa này là thấy sắc thân vi diệu của Phật đầy đủ.

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù nói lời này rồi thì cùng với các đại chúng Bồ tát quyến thuộc từ trên hư không mà xuống, kính lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, lui về đứng một phía.

Đức Phật bảo ngài Văn Thù rằng :

– Này Phật tử! Ông nay tại tòa ngồi, khi tác khởi sự quán tưởng này thì đất mọc ra hoa sen dọc ngang bằng tròn một do tuần. Này Văn Thù Sư Lợi và các Bồ tát hãy ngồi lên đài hoa sen!

Lúc ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đã ngồi rồi, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Con nay tự muốn nói về nhân duyên bản sinh thuở xưa! Nguyện xin đức Thế Tôn gia thêm uy thần cho con!

Đức Phật bảo ngài Văn Thù rằng :

– Hãy mau nói đi! Chớ nghi ngờ!

Ngài Văn Thù Sư Lợi bảo các đại chúng và đáp lại tôn giả A-nan rằng :

– Thưa ngài A-nan! Ngài phải biết, tôi nhớ thuở quá khứ vô lượng số kiếp, lại gấp bội số chẳng thể nghĩ tính atăngkì kiếp đó. Ở thế giới kia có đức Phật hiệu là Bảo Oai Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Đức Phật kia khi ra đời, chúng sinh thuở ấy cũng tệ ác như nay không khác. Đức Phật Thế Tôn đó cũng thân một trượng sáu, màu vàng tía, cũng nói pháp ba Thừa như đức Thích Ca Văn. Lúc đó, nước kia có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Vị trưởng giả có đứa con tên là Giới Hộ, khi ở trong thai mẹ thì người mẹ tin kính nên vui mừng vì đứa con ấy thọ ba qui y. Đứa con đã sinh ra rồi, năm đến tám tuổi, cha mẹ thỉnh đức Phật đến nhà cúng dường. Đức trẻ thấy đức Phật từ từ bước đi an tường, sau chân mọc lên hoa có ánh sáng lớn. Nó thấy rồi vui mừng vì đức Phật làm lễ, lễ rồi quan sát kỹ càng, mắt chẳng tạm rời bỏ. Một khi thấy đức Phật rồi liền có thể trừ khước được trăm vạn ức nadotha kiếp tội sinh tử. Từ đó trở về sau luôn luôn được gặp trăm ức nadotha hằng hà sa số đức Phật, ở chỗ các đức Phật gieo trồng mọi gốc đức. Các đức Thế Tôn đó đều nói về Quán Phật tam muội như vậy, cũng khen ngợi ánh sáng tướng đại nhân Bạch Hào, khuyên nhiều chúng sinh sám hối, ràng buộc ý niệm. Qua hết thời gian đó, về sau lại được gặp đức Phật hiệu là Ma Ni Quang Đa Đà A Già Độ A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà. Khi đức Phật Ma Ni Quang xuất hiện ở đời thì thường phóng ra ánh sáng để làm Phật sự, độ thoát nhân dân. Cứ như vậy, hai vạn đức Phật đồng một hiệu danh là Ma Ni Quang, những đức Thế Tôn đó đều dùng ánh sáng vi diệu của vị Hóa Phật mà dẫn dụ chúng sinh. Tiếp theo, có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Ma Ni Quang với mười hiệu đầy đủ, cứ như vậy có trăm ức đức Phật đều hiệu là Chiên Đàn Ma Ni Quang, các đức Thế Tôn đó, do sức thệ nguyện nên chỉ dùng ánh sáng tướng Bạch Hào vùng chân mày che chở hộ trì chúng sinh trừ diệt mọi tội. Lại có đức Phật ra đời hiệu là Chiên Đàn Hải Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… cứ như vậy, một trăm vạn đức Phật đều đồng một danh hiệu là Chiên Đàn Hải, các đức Thế Tôn đó dùng ánh sáng in chữ Vạn, chữ Đức ở ngực mà hóa độ chúng sinh. Đồng tử đó gần gũi hầu hạ các đức Phật không rỗng khuyết, lễ bái, cúng dường, chắp tay quán tưởng đức Phật. Nhờ sức nhân duyên công đức quán tưởng Phật nên lại được gặp trăm vạn atăngkì đức Phật. Các đức Thế Tôn đó cũng dùng sắc thân hóa độ chúng sinh. Từ đó về sau, đồng tử liền được trăm ngàn ức Niệm Phật tam muội, được trăm vạn atăngkì Toàn Đà La Ni. Đã được những điều này rồi thì các đức Phật hiện tiền nói pháp Vô tướng, chừng trong khoảnh khắc đồng tử được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Đồng tử kia thọ Tam qui y chỉ một lần lễ Phật, quan sát kỹ càng tướng Phật, lòng không mệt chán. Do cái nhân duyên này được gặp vô số đức Phật, huống gì là ràng buộc ý niệm tư duy, quán tưởng sắc thân của đức Phật đầy đủ. Vị đồng tử lúc đó đâu phải ai khác ư ? Chính là thân của tôi hôm nay đó!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Văn Thù Sư Lợi rằng :

– Hay thay! Hay thay! Này Văn Thù Sư Lợi! Ông thuở xưa chỉ một lần lễ Phật mà được gặp vô số các đức Phật như vậy, huống gì là đời vị lai, các đệ tử của ta tinh cần quán tưởng Phật – Đức Phật sắc bảo ngài A-nan – Ông hãy đem lời nói của ông Văn Thù Sư Lợi bảo khắp đại chúng và chúng sinh đời vị lai, nếu có người hay lễ bái, hoặc hay niệm Phật, hoặc hay quán tưởng Phật thì phải biết rằng, người này cùng với Văn Thù Sư Lợi ngang bằng không có khác. Văn Thù Sư Lợi .v.v… các vị Đại Bồ tát là Hòa thượng của người ấy.

Khi nói lời đó, trong chúng Bồ tát có một Phật tử tên là Tài Thủ liền đứng dậy, nhiễu quanh đức Phật bảy vòng, cung kính lễ bái, cùng lễ dưới chân ngài Văn Thù Sư Lợi, dùng hoa Mạn đà la, hoa Đại Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Đại Mạn thù sa của trời mà tung lên trên đức Phật và tung lên trên ngài Văn Thù Sư Lợi, cũng tung lên trên tôn giả A-nan. Những hoa trời đó đang ở trên dức Phật hóa làm đài bằng hoa. Ở bên trong đài bằng hoa, có chư Phật mười phương ngồi kiết già.

Phương Đông, đức Phật Thiện Đức bảo đại chúng rằng :

– Các ông phải biết rằng, ta nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… Khi đức Phật đó ra đời, cũng như ngày hôm nay, ngài nói pháp ba thừa. Đức Phật đó có một vị Tỳ kheo có chín người đệ tử. Ông cùng với các đệ tử đi đến tháp Phật, lễ bái tượng Phật, thấy một tượng báu nghiêm hiển khả quan. Đã lễ bái xong, mắt nhìn kỹ tượng, nói kệ khen ngợi, rồi tùy theo thọ mạng ngắn dài, họ đều tự mạng chung. Đã mạng chung xong, họ sinh vào đất nước của đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương ở phương Đông. Họ bỗng nhiên hóa sinh ngồi kiết già tại trên hoa sen. Từ đây về sau, họ luôn luôn được gặp vô lượng các đức Phật, ở chỗ các đức Phật tịnh tu phạm hạnh và được Niệm Phật tam muội hải. Đã được tam muội này rồi thì các đức Phật hiện tiền liền cùng trao ký cho, ở mười phương diện tùy ý làm Phật. Đức Phật Thiện Đức ở phương Đông chính là thân ta đó. Đức Chiên Đàn Đức ở phương Nam, đức Phật Vô Lượng Minh ở phương Tây, đức Phật Tương Đức ở phương Bắc, đức Phật Vô Ưu Đức ở phương Đông nam, đức Phật Bảo Thí ở phương Tây nam, đức Phật Hoa Đức ở phương Tây bắc, đức Phật Tam Thừa Hạnh ở phương Đông bắc, đức Phật Quảng Chúng Đức ở thượng phương, đức Phật Minh Đức ở hạ phương… Mười đức Phật Thế Tôn như vậy nhân do lễ tháp, một lần dùng kệ khen ngợi nên ở mười phương diện được làm Phật. Những vị Phật ấy đâu phải ai khác ư ? Chúng ta là những vị Phật của mười phương đó. Những vị Phật mười phương từ trên không mà hạ xuống, phóng ra hàng ngàn ánh sáng, hiển hiện ánh sáng tướng Bạch Hào của sắc thân, mỗi mỗi đều ngồi trên giường của đức Phật Thích Ca, đều duỗi tay phải xoa đầu ngài A-nan bảo rằng:

– Này Pháp tử! Hòa thượng Thích Ca Mâu Ni của ông, trăm ngàn khổ hạnh, vô số tinh tấn, cầu trí tuệ của Phật, kết quả được sắc tướng quang minh của thân đó! Nay ngài vì ông diễn nói, ông hãy đem lời nói của đức Phật vì trời, rồng, đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di ở đời vị lai mà nói rộng rãi phép quán tưởng Phật và tam muội niệm Phật.

Nói lời đó xong, các đức Phật thăm hỏi sự sinh hoạt yên ổn của đức Phật Thích Ca Văn. Thăm hỏi xong rồi, các đức Phật phóng ra ánh sáng lớn, đều trở lại bản quốc.

Bấy giờ, đại chúng trong hội nhìn thấy đất nước lớn nhỏ của các đức Phật mười phương và các vị Bồ tát như ở trước gương sáng nhìn thấy mọi sắc tượng. Những hoa đã tung lên của Bồ tát Tài Thủ, đang ở trên ngài Văn Thù, liền biến hóa thành đài báu bốn trụ. Ở bên trong đài ấy có bốn đức Thế Tôn nghiễm nhiên ngồi, phóng ra ánh sáng của thân, phương Đông Phật A Súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Vi Diệu Thanh. Bốn đức Thế Tôn dùng hoa sen vàng tung lên trên đức Phật Thích Ca, hoa chưa đến bên trên đức Phật đã hóa làm trướng hoa, có vạn ức cánh. Trong mỗi một cánh có trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật phóng ra ánh sáng, trong ánh sáng lại có vô số vị hóa Phật. Trướng báu thành rồi thì bốn đức Phật Thế Tôn từ trên không mà xuống ngồi trên giường của đức Phật Thích Ca khen rằng :

– Hay thay! Hay thay! Chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể vì chúng sinh ác trược đời vị lai mà nói lên tướng ánh sáng Bạch Hào của Phật ba đời, khiến cho các chúng sinh được diệt trừ tội lỗi. Sở dĩ vì sao ? Vì, ta nhớ thuở xưa, đã từng ở chỗ đức Phật Không Vương, xuất gia học đạo. Có bốn vị Tỳ kheo cùng là đồng học, học tập chánh pháp của chư Phật ba đời. Do phiền não che lấp tâm nên chẳng thể kiên trì kho báu Phật pháp, chúng ta tạo nhiều nghiệp chẳng lành, phải rơi vào đường ác. Bấy giờ có tiếng trong hư không nói rằng : “ Này bốn Tỳ kheo các ông! Đức Như Lai Không Vương tuy đã Niết bàn, nhưng sự sai phạm của các ngươi chẳng phải là không cứu được! Nay các ông phải vào tháp quán tưởng Phật, so với Phật còn tại thế bằng nhau không có khác”. Chúng ta theo tiếng nói trên không, vào tháp quán tưởng tướng Bạch Hào vùng chân mày của tượng, liền nghĩ rằng : “ Thân sắc quang minh của đức Như Lai lúc còn tại thế so với tượng này nào có khác! Tướng Đại nhân của đức Phật, nguyện xin tiêu trừ tội của con”. Nói lời đó xong, như núi lớn lở, họ gieo năm vóc xuống đất, sám hối các tội, quán tưởng vùng chân mày đức Phật. Do nhân duyên sám hối nên từ đó về sau, tám mươi ức atăngkì kiếp, chẳng bị đọa vào đường ác, đời đời thường thấy chư Phật mười phương, ở chỗ các đức Phật thọ trì Niệm Phật tam muội thậm thâm. Được tam muội rồi, bốn vị Tỳ kheo được các đức Phật hiện tiền thọ ký.

Ở phương Đông có đất nước tên là Diệu Hỷ. Cõi ấy có đức Phật hiệu là A Súc, tức là vị Tỳ kheo thứ nhất đó. Ở phương Nam có đất nước tên là Hoan Hỷ, có đức Phật hiệu là Bảo Tướng, tức là vị Tỳ kheo thứ hai đó. Ở phương Tây có đất nước tên là Cực Lạc, có đức Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, tức là vị Tỳ kheo thứ ba đó. Ở phương Bắc có đất nước tên là Liên Hoa Trang Nghiêm, có đức Phật hiệu là Vi Diệu Thanh, tức là vị Tỳ kheo thứ tư đó. Lúc này, bốn vị Như Lai đều duỗi tay phải xoa đầu ngài A-nan bảo rằng :

– Này pháp tử! Ông hãy đem lời nói của đức Phật vì những chúng sinh đời vị lai diễn nói rộng rãi!

Nói ba lần lời này xong, các đức Phật đều phóng ra ánh sáng, rồi trở về bản quốc. Những hoa của Bồ tát Tài Thủ đã tung lên đang trụ ở bên trên ngài A-nan thì hóa thành đám mây hoa cùng khắp mười phương. Mỗi một đám mây có vô số vị hóa Phật, đều duỗi cánh tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan, bảo rằng :

– Này Pháp tử! Những hóa thân của các đức Phật Như Lai cũng như của chúng ta ngang bằng không có khác! Nay ông gần gũi nhìn thấy thì hãy vì tất cả chúng sinh đời vị lai mà phân biệt diễn nói rộng rãi, khiến cho các chúng sinh tu hành niệm Phật. Nếu người niệm Phật thì được thấy hóa Phật so với hôm nay không khác. Nếu có chúng sinh nghe lời của ông nói tức là thấy Phật, trừ được vô lượng tội.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Tài Thủ bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Con nhớ thuở vô lượng đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn cũng hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau khi đức Phật đó diệt độ, có một vương tử tên là Kim Tràng, kiêu mạn, tà kiến, chẳng tín chánh pháp. Có vị tri thức Tỳ kheo tên là Định Tự Tại bảo vương tử rằng : “ Đời có tượng Phật nghiêm sức bằng mọi thứ báu, rất là khả ái, có thể ngài tạm vào tháp để quan sát hình tượng đức Phật”. Vị vương tử đó theo lời nói của bạn lành vào tháp, quán tưởng tượng. Thấy tướng tốt của tượng, vương tử bạch rằng : “Thưa Tỳ kheo! Tượng Phật mà còn đoan nghiêm như thế này, huống là thân Phật chân thật”. Nói lời đó xong thì vị Tỳ kheo bảo rằng : “ Ngài nay thấy tượng nếu chẳng thể lễ bái thì hãy xưng Nam mô Phật”. Lúc đó, vị vương tử chắp tay, cung kính xưng : “ Nam mô Phật”, rồi trở về cung, ràng buộc ý niệm, nghĩ đến tượng Phật trong tháp. Tức thời, vào đêm sau, vương tử mơ thấy tượng Phật. Thấy tượng Phật rồi nên lòng vui mừng, vương tử lìa bỏ tà kiến, qui y Tam Bảo, theo tuổi thọ mạng chung. Do công đức nhân duyên vào tháp, xưng Nam mô Phật ngày trước nên luôn luôn được gặp chín trăm vạn ức nadotha Phật, ở chỗ các đức Phật thường siêng tinh tấn, chứng được Niệm Phật tam muội thậm thâm. Nhờ tam muội lực nên các đức Phật hiện tiền vì vương tử ấy thọ ký. Từ đó đến nay, qua trăm vạn atăngkì kiếp chẳng bị đọa vào ba đường ác, cho đến ngày hôm nay thu hoạch được Thủ Lăng Nghiêm tam muội thậm thâm. Vị vương tử lúc bấy giờ là Tài Thủ ta hôm nay đó. Những vị đại Bồ tát như vậy.v.v… số ấy nhiều không lường đều nói về nhân duyên xưa, nương vào phép niệm Phật mà được, như kinh Bản Sinh đã nói.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các đại chúng rằng :

– Ta nhớ thuở quá khứ, vô số kiếp, bấy giờ có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Quật Trang Nghiêm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, mười hiệu đầy đủ, ở trong núi Chư Đức tại cõi Diêm Phù Đề. Ngài ở trong núi đó, xuất gia học đạo đủ trọn bảy kiếp, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, cõi đời đó có hai đồng tử nghe nhiều (ham học nhiều) không chán, du hành khắp nước tham hỏi các Bàlamôn. Có một vị Bàlamôn tên là Lao Độ Xoa Già bảo rằng : “ Này đồng tử! Thế gian có đức Phật hiệu là Chiên Đàn Quật, hai người các ông nên đi đến chỗ đó mà cầu luận pháp nghĩa”. Hai đồng tử trưởng giả, một tên là Nhất Thiết Hỷ Kiến, đồng tử thứ hai tên là Dũng Mãnh Khải (giáp đồng) đều đến chỗ đức Phật, đều đem hoa trời cùng tung lên đức Như Lai. Lúc ấy, đức Thế Tôn lặng yên thiền định, vào tam muội vua của tam muội, thân tâm chẳng động, khắp hiện sắc thân của tất cả chư Phật với vô số ánh sáng như kinh Bát nhã Balamật đã nói. Hai đồng tử thấy sắc thân của Phật và thấy ánh sáng tức thời vượt qua khỏi nadoatha hằng hà sa số atăngkì kiếp tội sinh tử, luôn luôn được gặp vô lượng vô số trăm ngàn các đức Phật, ở chỗ các đức Phật tu hành Niệm Phật tam muội thậm thâm, hiện tiền được thấy các đức Phật mười phương vì mình diễn nói pháp luân chẳng thoái chuyển. Vị đồng tử thứ nhất đâu phải ai khác ư ? Là Bồ tát Di Lặc hôm nay đó! Vị đồng tử thứ hai chính là ta, Thích Ca Mâu Ni hôm nay đó! Ta cùng với các vị Bồ tát của kiếp Hiền đã từng ở chỗ của đức Phật Chiên Đàn Quật trong quá khứ nghe quán Phật Tam Muội Hải biến hóa sắc thân của chư Phật đó. Do sức công đức nhân duyên đó nên siêu việt chín trăm vạn ức atăngkì kiếp tội sinh tử, và ở kiếp Hiền này theo thứ lớp thành Phật mà sau cùng là đức Như Lai Lâu Thí cũng ở xứ này nói Quán Phật Tam muội.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Tam muội Quán Phật này chính là thuốc của tất cả chúng sinh phạm tội, là hộ của người phá giới, là sự dẫn đường của kẻ lạc đường là mắt của kẻ mù tối, là tuệ của người ngu si, là đèn của kẻ tối đen, là tướng dũng kiện trong giặc phiền não, là sự du hí của các đức Phật Thế Tôn. Đó là chỗ của Thủ Lăng Nghiêm… các đại tam muội xuất sinh – Đức Phật bảo ngài A-nan – Ông nay khéo giữ gìn thận trọng chớ quên mất! Quá khứ, vị lai, các đức Phật ba đời…, những đức Thế Tôn đó đều nói tam muội Niệm Phật như vậy. Ta cùng với các vị đại Bồ tát của Kiếp Hiền nhân sức của tam muội Niệm Phật đó nên được Nhất Thiết Trí, uy thần tự tại. Như vậy, vô lượng các đức Phật trong mười phương đều do pháp này mà thành Chánh Giác.

Lúc bấy giờ, tôn giả A-nan, nhờ thần lực của đức Phật nên tự biết việc đời trước vô số kiếp, bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Con nhớ vô số ức kiếp đời quá khứ, có đức Phật Thế Tôn hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh với mười hiệu đầy đủ. Con ở cõi đời đó, thấy đức Phật Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương thế giới, đều tạo thành màu vàng. Trong mỗi một ánh sáng có các vị hóa Phật, con thấy vậy rồi, thân tâm hoan hỷ, xưng lên Nam mô Phật. Từ đó về sau, con thường được gặp trăm ngàn các đức Phật và nghe Phật nói pháp giống như rót nước đựng sang đồ chứa khác con ghi nhớ, giữ gìn chẳng quên. Vậy nên hôm nay con được thấy đức Thế Tôn, gần gũi cúng dường hầu hạ.

Nói lời đó xong, ngài A-nan nói các bài kệ tụng, khen ngợi sắc thân vi diệu của chư Phật.

Lúc bấy giờ, trong hư không có vô số đức Phật đều hiện ánh sáng. Trong lỗ chân lông của từng thân, từng thân chư Phật đều hiện ra hóa Phật giống như Phật Thích Ca Văn, đều bảo ngài A-nan rằng :

– Này Pháp tử! Nay ông hãy đem Quán Phật tam muội đó vì tất cả đại chúng phân biệt rộng rãi, khiến cho các giống phàm phu có được nhân duyên thấy Phật.

Nói lời này xong, các vị hóa Phật biến mất.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì chúc lụy việc này nên đứng trong hư không, uy nghi tự tại, làm mười tám biến hóa, hiển hiện tất cả ánh sáng, bảo ngài A-nan rằng :

– Nếu có chúng sinh muốn quán tưởng Phật thì phải quán như thế này!

Khi đức Phật nói lời này thì mười hai ức thiên tử được tam muội Niệm Phật và được hiện tiền thọ ký.

PHẨM THỨ CHÍN : QUÁN TƯỢNG

Lúc bấy giờ, trong hội có vị đại Bồ tát tên là Di Lặc liền đứng dậy, trật áo vai phải, đảnh lễ dưới chân đức Phật, cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên đức Như Lai, dùng hoa trân châu tung lên đức Phật Thế Tôn và ngài Văn Thù Sư Lợi. Số chuỗi ngọc đã tung ra tự nhiên vọt lên trụ ở trong hư không, hóa thành tám muôn ức bảo đài. Trong mỗi một đài có trăm ức Phật Thích Ca Văn, đều phóng ánh sáng, khắp hiện sắc thân. Núi rừng sông biển, sở hữu diệu sắc của tất cả chúng sinh, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các núi Tu di, những trời, rồng, thần và các cung điện cũng hiện ở trong đài ấy. Tiên năm thần thông, trăm ức chú thuật, chín mươi sáu thứ những đạo tà kiến, phương thuốc, kỹ nghệ khéo léo, văn chương, ca vịnh… đều ở trên một sợi lông hiển hiện việc này. Uế dục tà kiến của thế gian mà chúng sinh mong được thấy cũng đều ở trong ánh sáng ấy tự vọt ra Địa ngục, súc sinh, các A tu la, tám nạn, bốn điên đảo, những việc chẳng lành, thọ quả báo đẹp, xấu… cũng ở tướng này tự được hiểu biết. Hoa ngọc tung lên trụ bên trên đức Phật hóa làm hàng trăm ức ánh sáng màu trắng. Hoa ngọc ở bên trên ngài Văn Thù hóa làm hàng trăm ức ánh sáng màu sắc vi diệu. Những ánh sáng này đan xen lẫn nhau như những vua rồng lớn cuộn quấn thân hướng vào nhau. Trong mỗi một ánh sáng có năm ức ánh sáng báu như y Tăng già lê cắt rời phân minh, rồi dùng ánh sáng màu vàng may lại cho liền vào nhau. Chỗ đường may vào ra sinh ra hoa bốn báu. Trong mỗi một hoa có Bồ tát của kiếp Hiền ngồi kiết già. Chư Phật mười phương và các vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu vì các vị đại Bồ tát của kiếp hiền này nói Bát Chu tam muội thậm thâm, cũng khen ngợi Quán Phật Tối Sơ Nhân Duyên Duy Vô Tam Muội và Niệm Phật Cảnh Giới Kim Cương Thí Định. Nói pháp đó xong, các đức Như Lai này đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan, bảo rằng :

– Này pháp tử! Nay ông nên phải khéo giữ gìn lời nói của Phật thận trọng chớ quên mất.

Lúc bấy giờ, ngài Di Lặc Bồ tát bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đấng Thiên Tôn Đại Từ Đại Bi thương xót tất cả chúng sinh tạo nghiệp bất thiện trong đời vị lai, khi mà đức Phật chẳng còn hiện tại thì nương cậy vào chỗ nào có thể trừ diệt tội lỗi ?

Đức Phật bảo ngài Di Lặc rằng :

– Này A Dật Đa! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghĩ cẩn thận! Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều chúng sinh do chẳng thấy Phật nên làm các pháp ác. Những người như vậy phải bảo họ quán tưởng tượng Phật. Nếu người quán tưởng tượng thì so với sự quan sát thân ta ngang bằng không có khác.

Khi nói lời đó thì trong hư không có hoa và chư Phật mười phương đứng ở không trung, vòng tay, chắp tay khen ngợi rằng :

– Hay thay! Này Phật tử! Ông khéo hỏi việc này! Chỉ đức Thích Ca Văn cứu khổ cho đời và vì các chúng sinh mù tối sau rốt mà nói pháp Quán Tượng. Hôm nay chính là lúc thận trọng chớ nghi ngờ, nghĩ ngợi.

Bồ tát Di Lặc một lần nữa ân cần thỉnh đức Thế Tôn nói pháp Quán Tượng.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn phóng ánh sáng thường soi chiếu tinh xá Ni Câu Lâu Đà và đất nước mười phương, đều trở thành màu vàng. Do thần lực của đức Phật nên khiến cho đất màu vàng chia làm hai phần. Trong mỗi một phần có năm trăm ức Phật từ thế giới hạ phương, đều vọt lên đứng ở không trung, chắp tay khen ngợi đại Bồ tát Di Lặc rằng :

– Hay thay! Này Phật tử! Chỉ ông mới có thể thương xót chúng sinh đời vị lai sinh vào thời mạt pháp mà khuyến thỉnh đức Thế Tôn nói pháp Quán Tượng!

Các vị hóa Phật nói lời này xong, vọt thân lên hư không, làm mười tám sự biến hóa. Đức Phật Thích Ca Văn liền tự mĩm cười. Khi cười, trong miệng ngài sinh ra hoa sen lớn. Hoa ấy có ánh sáng như tập họp hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng và tinh tú. Ở vùng trời, trăng, sao ấy có hàng trăm ức vị hóa Phật ngồi kiết già trên giường Sư tử.

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Văn bảo ngài Di Lặc Bồ tát rằng :

– Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghĩ kỹ càng! Như Lai hôm nay vì chúng sinh năm đường khổ đời vị lai như Tỳ kheo phạm cấm, người ác chẳng lành, ngũ nghịch, bài báng, người làm mười sáu thứ ác luật nghi… Ta vì những người như vậy nói pháp trừ tội.

Khi ấy, ngài A-nan bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Sau khi đức Phật vào Niết bàn, những người ngu này không chỗ nương, không chỗ cậy, không chỗ qui y thì làm sao đức Như Lai nói pháp trừ tội.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ông đối với Phật pháp, lòng chưa thông giải đầy đủ. Như ta còn tại thế thì người qui y ta gọi là qui y Phật, gọi là qui y Pháp, gọi là qui y Tăng. Sau khi Phật diệt độ, ở trong đời trược ác, các chúng sinh muốn tiêu trừ tội lỗi, muốn ngay ở hiện thế được Tu đà hoàn cho đến A la hán, muốn phát tâm Bồ đề, muốn giải được mười hai nhân duyên… thì phải siêng tu tập Quán Phật tam muội.

Ngài A-nan bạch đức Phật rằng :

– Thưa đức Thế Tôn! Đức Như Lai tại thế thì chúng sinh hiện nhìn thấy ngài mà quan sát tướng tốt của đức Phật, quan sát ánh sáng của đức Phật còn chẳng rõ ràng, huống là sau khi đức Phật diệt độ. Đức Phật chẳng còn hiện tại thì phải quán ra sao ?

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật thì phải quán tưởng tượng Phật. Quán tượng là nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, tám bộ, tất cả chúng sinh muốn quán tưởng tượng Phật thì trước hết vào tháp Phật dùng bùn hương thơm và đất nung tô bồi nền đất cho sạch, rồi tùy theo sức, có thể đốt hương, tung hoa cúng dường tượng Phật và nói lên việc ác đã qua, làm lễ Phật, sám hối. Điều phục tâm như vậy từ một đến bảy ngày, rồi lại đến trong chúng bồi đắp, quét dọn đất của tăng chúng, trừ các phân dơ và hướng về tăng mà sám hối, làm lễ dưới chân chúng Tăng. Lại trải qua bảy ngày, cúng dường như vậy, lòng chẳng mệt chán. Nếu là người xuất gia thì nên tụng Tì ni cho hết sức thông lợi, nếu là người tại gia thì hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sư trưởng. Rồi điều phục tâm cho nhu nhuyến, nếu tâm chẳng nhu nhuyến thì phải chiết phục mạnh mẽ khiến cho tâm điều thuận, như điều phục voi, ngựa chẳng để cho mất sự chế ngự. Tâm đã nhu thuận rồi thì trụ ở chỗ vắng lặng, đốt mọi thứ hương thơm, lễ đức Phật Thích Ca Văn mà nói lên rằng : “ Nam mô đại đức hòa thượng của con, Ứng Cúng Chánh Biến Tri Đại Bi Thế Tôn! Nguyện ngài dùng mây lành che chở hộ trì đệ tử!” Nói lời đó xong, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc rơi lệ trước tượng. Rồi đứng dậy chỉnh đốn y phục, ngồi kiết già, ràng buộc ý niệm một chỗ. Tùy theo chúng sinh, hoặc ràng buộc tâm ở đầu mũi, hoặc ràng buộc tâm ở trên trán, hoặc ràng buộc tâm ở ngón chân… Đủ chủng loại như vậy, hành giả tùy ý ràng buộc ý niệm chuyên đặt vào một chỗ, chớ cho chạy tán loạn khiến cho tâm dao động. Tâm nếu dao động thì cất lưỡi chống vòm miệng, ngậm miệng, nhắm mắt, vòng tay ngồi ngay thẳng, từ một ngày đến bảy ngày, khiến cho thân được yên ổn. Thân yên ổn rồi nhiên hậu mới quán tưởng tượng.

Người ưa quán tưởng ngược thì từ ngón chân của tượng quán lên. Đầu tiên quán ngón chân là ràng buộc tâm cho chuyên, duyên vào ngón chân của Phật trải qua bảy ngày, khiến cho nhắm mắt, mở mắt đều rõ ràng thấy ngón chân của tượng vàng. Dần dần tiếp đến lại quán lên hai mu bàn chân làm cho thấy rõ ràng. Tiếp theo quán đến đùi nai chúa… Tâm đã chuyên rồi thì theo thứ lớp quán đến đỉnh kế. Từ đỉnh kế, quán tưởng mặt, nếu chẳng sáng tỏ thì lại sám hối nữa, thêm tự khổ công sách tấn mình. Do giới thanh tịnh nên thấy mặt tượng Phật như tấm gương vàng ròng tỏ rõ phân minh. Tác khởi sự quán tưởng đó rồi thì quán tưởng sợi lông ở mi gian như ngọc pha lê uyển chuyển xoắn về bên phải. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy lông mày, mắt của Phật như bức họa của họa sư nhà trời. Thấy việc đó rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng ánh sáng đỉnh đầu cho phân minh rõ ràng. Quán mọi tướng như vậy gọi là nghịch quán.

Thuận quán tượng là quán từ vùng hoa văn tóc xoăn trên đỉnh đầu đức Phật. Mỗi hoa văn tóc xoăn, ràng buộc lòng quán tưởng kỹ càng, khiến cho lòng thấy rõ ràng từng hoa văn tóc xoăn của đức Phật giống như tơ đen uyển chuyển xoắn về bên phải. Tiếp theo quán tưởng mặt đức Phật. Quán mặt Phật rồi thì quán tưởng đầy đủ thân, dần dần xuống đến chân. Như vậy, qua lại đến mười bốn lần, quán tưởng kỹ càng một tượng cho thật tỏ rõ. Quán một tượng thành rồi thì dù xuất định hay nhập định luôn luôn hành giả thấy tượng đứng trước mặt mình. Thấy một tượng rõ ràng lại tưởng đến hai tượng. Thấy hai tượng rồi, tiếp theo tưởng đến ba tượng… cho đến tưởng mười tượng đều thấy rõ ràng. Thấy mười tượng rồi, hành giả tưởng bên trong một nhà chứa đầy tượng Phật, không còn một chỗ trống. Quán đầy một nhà tượng Phật rồi, hành giả lại tinh tấn đốt hương, tung hoa, quét tháp, tô đường, lấy nước tắm gội cho chúng Tăng…. Vì cha mẹ, sư trưởng xoa bóp điều phục thân, tắm gội thân thể, xoa dầu lên chân… đi bốn phương xin ăn, được món ăn ngon thì dâng lên sư trưởng, phân ra phụng dưỡng cha mẹ. Làm hạnh đó xong, hành giả phát đại thệ nguyện rằng : “ Con nay quán tưởng đức Phật, bằng công đức này, con chẳng nguyện cầu làm người trời, Thanh văn, Duyên giác mà chính là muốn chuyên cầu đạo Bồ đề của Phật”. Phát nguyện đó rồi, nếu hành giả thật hết lòng cầu Đại thừa thì phải hành sám hối, hành sám hối rồi tiếp theo hành thỉnh Phật, hành thỉnh Phật rồi tiếp theo hành tùy hỉ, hành tùy hỉ rồi tiếp theo hành hồi hướng, hành hồi hướng rồi tiếp theo hành phát nguyện. Hành phát nguyện rồi, hành giả chính thân ngồi ngay thẳng, ràng buộc ý niệm ở trước, quán tưởng cảnh giới của Phật khiến cho to rộng dần thành tượng Phật đầy trong một tăng phường mà mỗi tượng đều phương thân một trượng sáu, dưới chân có hoa sen, vừng ánh sáng tròn một tầm và ánh sáng thân như tướng lửa sáng ma ni cùng những vị hóa Phật và thị giả của hóa Phật… mọi màu sắc của ánh sáng trở nên tỏ rõ. Quán Phật trong một tăng phường rồi thì khiến cho lòng lại mở rộng đến trong khoảnh đất chứa đầy tượng Phật. Sự quán tưởng này thành rồi thì lòng được yên ổn, thân thể khoái lạc. Nếu hành giả dừng tâm tưởng nhạy bén thì thấy tượng Phật đầy trong một khoảnh đất với hương hoa, đồ cúng và các tràng phan đều đi theo tượng. Do tâm nhạy bén nên bên trái bên phải, đàng trước, đàng sau đều thấy tượng đi. Rồi tâm rộng lớn dần dần, hành giả thấy tượng Phật đầy trong hàng trăm khoảnh đất, nhắm mắt mở mắt đều khiến cho tâm quán tưởng. Tưởng tưởng chẳng dứt, tâm tâm nối nhau như khát nghĩ đến uống. Sự quán tưởng này thành rồi thì hành giả thấy tượng Phật đầy trong một do tuần, dần dần xa rộng thêm một trăm do tuần, thấy ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo hình của tất cả tượng đều rực sáng lên. Tưởng này thành rồi thì hành giả quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn do tuần của một cõi Diêm Phù Đề. Tưởng này thành rồi thì hành giả tiếp theo quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn sáu mươi do tuần của cõi Phất Bà Đề ở phương Đông. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng tượng Phật đầy trong tám ngàn chín trăm do tuần của cõi Cù Gia Ni ở phương Tây. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại quán tưởng tượng Phật đầy trong một vạn sáu ngàn do tuần của cõi Uất Đan Việt ở phương Bắc. Tưởng này thành rồi thì hành giả lại thấy xa rộng, thấy tượng Phật đầy trong một trăm cõi Diêm Phù Đề. Tưởng này thành rồi, hành giả lại thấy tượng Phật đầy trong một trăm ức bốn thiên hạ. Tưởng này thành rồi thì chỉ trừ khi ăn, trừ khi đại tiểu tiện, trong tất cả lúc hành giả luôn luôn thấy tượng Phật, tượng Phật đầy trong hư không và trên mặt đất, tượng tượng thứ lớp xen nhau không chỗ trống. Niệm tưởng thành rồi, thân tâm hoan hỉ, bồi thêm tinh tấn, hành giả đầu đội cung kính mười hai bộ kinh, đối với người nói pháp dấy lên Đại Sư tưởng, đối với Phật Pháp Tăng dấy lên phụ mẫu tưởng, khiến cho lòng điều hòa nhu nhuyến, chẳng khởi lên sân hận tưởng. Giả sử khi sân nhuế thì phải ở trước Bát nhã Balamật, năm vóc gieo xống đất, thành tâm sám hối. Như trên đã nói, hành giả theo năm pháp thứ lớp mà làm. Niệm tưởng thành rồi, hành giả nhắm mắt, vòng tay, ngồi thẳng chánh thọ, lại tác khởi niệm tưởng xa hơn, thấy tất cả tượng Phật đầy trong cõi mười phương, thân thuần một màu vàng, phóng ra ánh sáng lớn. Nếu có người phạm giới làm điều chẳng lành, do thân đời trước phạm giới nên thân đời nay thấy những tượng Phật hoặc đen hoặc trắng thì dùng pháp sám hối, tượng dần dần thấy hiện màu hồng, thấy màu hồng rồi dần dần thấy màu vàng. Thấy màu vàng rồi thì thân tâm hoan hỉ, khuyến thỉnh các tượng Phật phóng ra ánh sáng. Khi khởi lên sự quán tưởng này thì niệm tưởng linh lợi nên thấy tất cả tượng Phật, lỗ chân lông của toàn thân đều phóng ra ánh sáng. Mỗi một ánh sáng có trăm ức màu sắc báu. Trong mỗi một màu sắc có vô lượng sắc xen lẫn mà cảnh giới vi diệu đều từ đó vọt ra. Tưởng niệm này thành gọi là quán Lập Tượng.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Còn tướng khác hiện ra là cảnh giới khác sinh ra phải mau chóng trừ diệt chúng. Người quán pháp quán đó thì trừ khước được sáu mươi ức kiếp tội sinh tử, cũng gọi là thấy Phật. Vào đời vị lai, nhờ tâm tưởng linh lợi nên hành giả gặp được một ngàn đức Thế Tôn của kiếp Hiền. Vì những hòa thượng ấy, hành giả ở trong Phật pháp thứ lớp xuất gia. Ở mỗi một chỗ Phật, người ấy thấy thân tướng đức Phật tỏ rõ phân minh, nghe Phật nói pháp nhớ giữ chẳng quên. Ở chỗ đức Phật Quang Minh thuộc Kiếp Tinh Tú hành giả được hiện tiền thọ ký. Lòng thô thiển quán tưởng tượng Phật mà còn được công đức vô lượng như vậy, huống là ràng buộc ý niệm quán tưởng ánh sáng tướng Bạch Hào vùng chân mày của đức Phật.

Khi nói lời nói đó thì vua trời Đại Phạm với vô lượng Phạm chúng đem những hoa cõi trời tung lên cúng dường đức Thế Tôn. Họ cởi chuỗi ngọc trên thân dâng lên đức Phật. Những hoa trời ấy như đám mây trụ ở không trung, trên chỗ chuỗi ngọc, biến thành đài vàng. Ở trong đài vàng có ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy biến làm tôn tượng của Thất Phật với sắc tướng đoan nghiêm vi diệu đều đủ Phạm Vương Loa Kế quì dài chắp tay khuyến thỉnh đức Thế Tôn mà bạch rằng :

– Kính thưa đức Như Lai Đại Bi từ mẫn chúng sinh! Nguyện xin ngài vì chúng sinh mù tối đời sau mà diễn nói đầy đủ pháp quán tưởng tướng tượng, khiến cho chúng sinh y vào lời đức Phật nói, luôn luôn được gặp các đức Phật Thế Tôn, được Niệm Phật tam muội. Nhờ sức tam muội nên khiến cho những chúng sinh xa lìa tội ác. Do tội diệt nên hiện thấy các đức Phật.

Đức Phật bảo Phạm vương rằng :

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nói của ông!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại vì những chúng sinh đời sau nên lại nói phép quán tưởng tượng Phật ngồi. Quán tưởng tượng ngồi là chí tâm ràng buộc ý niệm khiến cho đứng trước tượng thấy dưới chân tượng sinh ra hoa. Khi hoa này sinh ra thì hành giả phải khởi lên niệm tưởng khiến cho đại địa này trở thành màu hoàng kim, trở thành màu bảy báu, tùy theo sự quán tưởng mà hiện ra. Mỗi một màu báu lấy hoàng kim làm giới hạn. Trong mỗi một giới hạn sinh ra hoa sen báu. Khi tác khởi sự quán tưởng này thì có hoa sen báu ngàn cánh đầy đủ ứng theo tưởng niệm mà hiện ra. Đã thấy hoa rồi hành giả thỉnh các tượng tưởng (tượng Phật do ý tưởng sinh ra) ngồi lên hoa báu. Khi các tượng ngồi thì đại địa tự nhiên phát ra ánh sáng trắng lớn như màu lưu ly trắng sạch khả ái. Trong vùng ánh sáng trắng có trăm ức Bồ tát trắng như núi Tuyết, từ trong lỗ chân lông của thân tượng tưởng hiện ra. Trong lỗ chân lông của thân mỗi một Bồ tát phát ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy như núi vàng Diêm Phù Đàn với trăm ngàn màu vàng. Ánh sáng rực rỡ tính chẳng thể biết được ứng theo niệm tưởng mà hiện ra. Trên đỉnh mỗi một ngọn núi có một tượng tưởng cao hiển khả quan màu vàng Diêm Phù Đàn. Ánh sáng rất thịnh ấy soi chiếu làm cho cõi mười phương đều trở thành màu vàng, thấy đất và hư không cũng trở thành màu vàng mà bên trong đầy tượng vàng, ánh sáng vàng, táng che vàng, đài vàng, hoa vàng, phướn vàng. Hành giả thấy Bồ tát tưởng thuần màu ngọc trắng, tay cầm phất trắng hay cầm hoa trắng thì phải khởi lên hết tưởng niệm làm cho tươi trắng. Nếu hành giả thấy còn tạp tưởng, cảnh giới khác hiện ra thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu chẳng trừ diệt mà đuổi theo tưởng khác, vui mừng theo cảnh giới khác thì phát ra phong bệnh (Phong bệnh). Niệm Phật tưởng này chính là đại cam lộ lợi ích cho chúng sinh. Quán Phật tam muội như uống thuốc hay lợi ích cho bốn đại. Người uống thuốc này thì chẳng già chẳng chết.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Nếu có chúng sinh muốn quán tượng ngồi thì quán tưởng như vậy. Người tác khởi sự quán tưởng đó gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Nếu có chúng sinh quán tượng ngồi thì trừ được năm trăm ức kiếp tội sinh tử, đời vị lai được gặp một ngàn đức Phật của kiếp Hiền. Qua khỏi Kiếp Hiền rồi, trong kiếp Tinh Tú người ấy được gặp trọn số mười vạn các đức Phật, ở chỗ mỗi một đức Phật thọ trì lời dạy của Phật, thân tâm yên ổn trọn chẳng lầm lẫn rối loạn, được mỗi một đức Thế Tôn thọ ký hiện tiền, qua vô số kiếp được thành Phật.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài A-nan rằng :

– Như có chúng sinh quán tượng ngồi rồi thì phải quán tượng đi (tượng Phật đi). Quán tượng đi là thấy tượng Phật đi đầy trong mười phương thế giới. Hành giả thấy trong hư không và trên đất tất cả tượng đều đứng dậy. Khi mỗi một tượng đứng dậy thì năm trăm ức hoa báu hiện ra. Trong mỗi một hoa có vô số ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số vị hóa Phật theo tâm tưởng hiện ra. Tượng ngồi đứng dậy, trong khoảng thời gian chưa dậy, khi thân đang cử động thì sợi lông xoắn trắng vùng chân mày duỗi ra ngắn dài giống như đức Phật thật sự phóng ra ánh sáng trắng làm cho trăm ngàn màu sắc ánh lên ánh sáng vàng đẹp đẽ. Trong những ánh sáng trắng xen vô số tượng bạc, thân màu bạc trắng, ánh sáng bạc, hoa bạc, táng che bạc, phướn bạc, đài bạc… hết thảy đều là bạc. Lúc đó, mọi tượng vàng cùng tượng bạc đều động thân sắp đứng dậy thì trong rốn các tượng đều sinh ra hoa sen. Trong hoa sen ấy vọt ra vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra ánh sáng vàng soi chiếu thân của hành giả. Lúc đó là lúc hành giả vào định tự thấy nước bẩn ba mươi sáu vật của thân mình, chẳng sạch. Khi bất tịnh hiện thì hành giả phải mau chóng diệt trừ mà nghĩ rằng : “ Các đức Phật ba đời, thân tâm thanh tịnh, ta nay học theo pháp thân chân tịnh của đức Phật, sự bất tịnh này xem ra từ tham ái phát sinh, hư ngụy chẳng thật thì ta theo sự quan sát này làm gì ?” Tác khởi ý niệm đó rồi, hành giả phải tự quán thân, khiến cho các việc bất tịnh biến làm bạch ngọc. Tự thấy thân mình như cái bình bạch ngọc, trong ngoài đều rỗng không. Khi tác khởi sự quán tưởng đó thì phải uống thuốc sữa chớ khiến thân trống rỗng. Khi tưởng này thành thì các tượng đều dậy như đứng trước mặt hành giả. Khi thấy tượng đứng, hành giả phải tác khởi tưởng niệm mời thỉnh tượng đi. Tượng đã đi rồi thì trong từng bước từng bước, dưới chân mọc ra hoa, rồi biến thành đài hoa sen. Hành giả thấy trong cõi mười phương đầy tượng đi, đồ cúng dường, kỹ nhạc, chư thiên đại chúng cung kính vây quanh. Tượng đi phóng ra ánh sáng soi chiếu đại chúng khiến trở nên màu vàng. Tượng bạc phóng ra ánh sáng soi các đại chúng đều trở thành màu bạc. Bồ tát bạch ngọc phóng ra ánh sáng bạch ngọc khiến cho các đại chúng trở thành màu bạch ngọc. Các tượng tạp sắc phóng ra ánh sáng tạp sắc ánh chói đẹp vùng ấy. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả lại khởi lên tưởng niệm thỉnh các hành tượng đang đi đều dùng tay xoa đầu mình. Bấy giờ, các tượng đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Lúc đó, mọi tượng đều phóng ra ánh sáng lớn chiếu vào thân hành giả. Khi ánh sáng chiếu vào thân, hành giả tự thấy thân màu hoàng kim. Sự quán tưởng này thành rồi, hành giả ra khỏi định, vui mừng, lại chí tâm lễ kính các đức Phật, tu các công đức và đem công đức đó hồi hướng đạo Bồ đề.

Lúc bấy giờ, hành giả lại phải khởi lên tưởng niệm rằng : “ Ta nay tưởng niệm, thấy nhiều tượng vàng đi, ngồi tùy ý mà chưa thấy thần thông”. Hành giả dấy lòng tưởng niệm thỉnh các tượng đang đi và tượng Bồ tát làm mười tám phép biến hóa. Ứng theo niệm tưởng, các tượng liền tạo tác mười tám thứ biến hóa. Hành giả thấy đầy trong mười phương tất cả mọi tượng, vọt thân lên không trung làm mười tám biến hóa, uy thần tự tại, khắp hiện sắc thân. Thấy rồi, hành giả vui mừng, thỉnh tất cả tượng chuyển bánh xe pháp. Ứng theo niệm tưởng, tức thời tất cả mọi tượng, khác miệng đồng lời, khen ngợi trì giới, khen ngợi niệm Phật. Niệm tưởng nghe điều này rồi, lòng rất vui mừng, hành giả lại càng thêm tinh tấn. Do tinh tấn nên tâm tưởng được thành. Khi tâm tưởng thành thì hành giả thấy ở cõi mười phương, tất cả đất đai, sông núi, vách đá… đều biến hóa làm đất Kim cương. Trên đất Kim cương vọt ra ánh sáng trắng. Ở trong mọi ánh sáng trắng có vô số vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Mỗi một vị hóa Phật phóng ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng. Mỗi một ánh sáng lại hóa ra vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Khi tưởng này hiện thì hành giả tự thấy những lỗ chân lông của thân mình phát ra ánh sáng màu vàng soi khắp tất cả. Nếu cảnh giới khác khởi lên thì phải mau chóng diệt trừ. Nếu tâm tưởng này nhanh chóng như gió mạnh thì trong giây lát, hành giả thấy vô số vị hóa Phật. Tâm hành giả linh lợi như người mắt sáng cầm gương pha lê tự xem hình dáng mặt của mình. Hành giả quán tượng cũng lại như vậy. Niệm tưởng này thành rồi, hành giả phải khởi ý niệm rằng : “ Các đức Phật Thế Tôn trụ ở Đại Tịch Diệt, thân tâm thanh tịnh, không lại không đi! Như thân ta đây là do bốn đại, năm uẩn chung hợp thành như trong thân cây chuối không chắc thật, như bọt trên mặt nước, như trăng đáy nước, như dáng trong gương, như khi lửa cháy bùng, như ngựa rừng chạy đi, như thành Càn thát bà. Tác khởi niệm tưởng đó rồi các tượng liền diệt, có ánh sáng màu vàng hiện ra. Ở vùng ánh sáng vàng có ảnh Phật vàng như hình dáng trong gương, hiển hiện tất cả hình sắc trong bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Khi niệm tưởng này thành thì hành giả phải nghĩ đến thân giới của Như Lai. Khi nghĩ thân giới (giới cấm) thì hành giả thấy ánh sáng vùng chân mày của ảnh chư Phật giống như sợi tơ trắng từ không trung thanh tịnh đến trước hành giả. Hành giả thấy rồi, phải dấy lên ý nghĩ rằng : “ Đức Thích Ca Mâu Ni Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thuở đời quá khứ đã dùng đại giới thân mà tự trang nghiêm. Vậy nên ngày nay ngài được Giới, Định, Tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến!” Khi tác khởi niệm tưởng đó thì đức Phật Thích Ca Văn ngồi trong hang Lưu li, thân màu vàng tía, đoan nghiêm vi diệu cùng với những đại chúng Tỳ kheo Bồ tát làm quyến thuộc trụ ở trước mặt hành giả mà bảo rằng : “ Này pháp tử! Ông tu quán Phật tam muội lực nên ta dùng lực tướng Niết bàn thị hiện sắc thân cho ông khiến cho ông quan sát kỹ càng. Nay ông ngồi thiền chẳng được quan sát nhiều. Ong, người đời sau làm nhiều những việc ác, chỉ cần quán ánh sáng tướng Bạch hào vùng lông mày. Khi tác khởi sự quán tưởng này thì được thấy cảnh giới như đã nói trên”. Lúc bấy giờ, hành giả một niệm tình cũng không tham trước, lòng rất vui mừng, ngay tức thời được Niệm Phật tam muội. Niệm Phật tam muội là thấy sắc thân đức Phật rõ ràng phân minh, cũng thấy tất cả cảnh giới của tâm Phật như trên đã nói quán tâm Phật, cũng thấy tất cả ánh sáng của thân Phật như trên đã nói quán ánh sáng thân Phật, cũng thấy tất cả lỗ chân lông thân Phật mà mỗi một lỗ chân lông đều mọc ra tám muôn bốn ngàn hoa sen. Trong mỗi một hoa có tám muôn bốn ngàn vị hóa Phật, từng vị Phật từng vị Phật tiếp theo nhau đầy mười phương thế giới.

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca mâu Ni liền duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Tất cả các vị hóa Phật cũng duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Được sự quán tưởng này gọi là Phật Hiện Tiền tam muội, cũng gọi là Niệm Phật tam muội, cũng gọi là Quán Phật Sắc Thân tam muội.

Lúc bấy giờ, các đức Phật, khác miệng đồng lời, mỗi một đều vì hành giả nói pháp. Tuy chưa đắc đạo nhưng thấy Phật, nghe pháp tổng trì chẳng mất thì đây gọi là phàm phu Niệm Phật tam muội. Người được tam muội này thì từng sát na từng sát na luôn luôn thấy các đức Phật, ở trong từng niệm từng niệm đều nghe Phật nói pháp. Như là kinh điển Đại thừa Phương Đẳng chỉ trong một ngày một đêm liền được thông lợi. Cha mẹ sinh ra thân trong đời ác não trược nhưng nhờ niệm Phật nên được nghe tổng trì, xả thân qua đời khác nhất định được thấy Phật, ở chỗ các đức Phật được ngàn vạn ức Toàn Đà La Ni. Được Đà La Ni rồi thì tám mươi ức đức Phật đều duỗi tay phải xoa đầu hành giả. Tất cả các đức Phật đều nói lời quyết rằng : “ Ông niệm Phật nên qua kiếp Tinh Tú sẽ được thành Phật có ánh sáng thân tướng so với ta không khác”. Nói lời đó xong, tám mươi ức đức Phật cùng một lúc phóng ra ánh sáng. Trong ánh lại có vô lượng vị hóa Phật mà mỗi một vị hóa Phật đều nói lời nói đó.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Như vậy, mọi pháp gọi là pháp quán tượng. Như khi quán tượng, hành giả tự sẽ có vô lượng trăm ngàn những cảnh giới thù thắng. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.

***

PHẨM THỨ MƯỜI : NIỆM THẤT PHẬT.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Nếu có chúng sinh quán tâm của tượng thành tựu thì tiếp đến phải lại quán tưởng tượng Thất Phật đời quá khứ. Người quán tưởng Thất Phật phải siêng tinh tấn, ngày đêm sáu thời siêng tu hành sáu pháp, ngồi ngay chánh thọ, phải ưa ít nói, trừ khi đọc tụng kinh, diễn giải rộng pháp giáo, nhất định chẳng tuyên nói lời nói vô nghĩa, thường nghĩ đến các đức Phật, tâm tâm tiếp nối nhau thậm chí không có một niệm nào mà chẳng thấy Phật. Do lòng chuyên tinh nên chẳng lìa khỏi mặt trời Phật. Thuở quá khứ xa xưa có đức Phật Thế Tôn hiệu là Tỳ Bà Thi Phật, thân cao hiển lớn sáu mươi do tuần. Vừng ánh sáng tròn của đức Phật ấy rộng đến một trăm hai mươi do tuần, thân màu vàng tía với tám muôn bốn ngàn tướng. Trong mỗi một tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp. Trong mỗi một vẻ đẹp có vô số ánh sáng vàng. Trong mỗi một ánh sáng có hằng hà sa số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật có hằng hà sa ánh sáng màu. Trong mỗi một ánh sáng có vô số các trời, Thanh văn Tỳ kheo, đại chúng Bồ tát làm thị giả. Người người đều cầm một cành hoa báu lớn. Trên hoa đều có hàng trăm ngàn ức lưới báu ma ni rực rỡ. Lưới ngọc rực rỡ tiếp theo nhau cao đến một trăm ngàn trượng dùng làm ánh sáng của Phật. Lúc đó thân Phật càng thêm minh hiển như hàng trăm ngàn mặt trời chiếu soi núi vàng tía. Ánh sáng rực rỡ khơi lên hóa Phật nhiều vô số. Mỗi một vị hóa Phật giống như hàng trăm ức mặt trời, mặt trăng đều xuất hiện, khiến cho hành giả thấy đức Phật Tỳ Bà Thi trật áo vai phải, đưa ra cánh tay vàng, xoa đỉnh đầu hành giả mà bảo rằng : “ Này Pháp tử ! Ông hành Quán Phật tam muội, được tâm niệm Phật nên ta đến làm chứng cho ông ! Ông nay có thể quan sát sắc thân chân thật của ta. Ông theo thứ lớp từng tướng từng tướng mà quán tưởng. Ông phải chí tâm lập lời thề Kim cương ! Chúng ta thuở xa xưa khi làm Phật đạo so với ông không khác gì”.

Lúc bấy giờ, đức Phật Tỳ Bà Thi an ủi hành giả rồi, tức thời hóa làm hoa sen báu lớn như núi Tu di. Đức Phật ngồi kiết già trên hoa vì hành giả giảng nói niệm Phật, niệm Pháp và nói hàng trăm ức Toàn Đà la ni. Hành giả thấy rồi, thêm bội phần hoan hỉ, kính lễ đức Phật đó. Đức Phật đó bảo rằng : “ Nếu có chúng sinh nghe tên ta, lễ bái ta thì trừ khước được năm trăm ức kiếp tội sinh tử. Ông nay thấy được ta thì tiêu trừ được các chướng ngại, được vô lượng ức Toàn Đà la ni, ở đời vị lai sẽ được làm Phật.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Lúc bấy giờ, hành giả thấy đức Phật Tỳ Bà Thi, lòng vui mừng nên ta cùng sáu đức Phật hiện ra ở trước mặt người ấy. Đức Phật Tỳ Bà Thi ngồi trên tòa vì pháp tử này giảng nói Niệm Phật tam muội. Đức Thế Tôn Thi Khí, thân lớn bốn mươi hai do tuần, thân màu vàng tía, vừng hào quang tròn rộng bốn mươi lăm do tuần, ánh sáng thông thân một trăm do tuần. Trong lưới ánh sáng ấy có vô số vị hóa Phật và các đại chúng Bồ tát Thanh văn, chư thiên làm quyến thuộc vây quanh, đi theo sau đức Phật, uyển chuyển xoay quanh về bên phải. Lúc đó, hành giả thấy đức Phật Thi Khí lại càng tăng thêm vô lượng Đà la ni môn, lại càng được thấy rộng thêm trăm ngàn vô số vi hóa Phật. Vào đời vị lai qua vô số kiếp, ở trong khoản giữa ấy hành giả luôn luôn được gặp các đức Phật Thế Tôn và sinh vào nhà Bồ tát”. Khi nói lời nói đó, lại có vô số trăm ngàn vị thiên tử nghe việc đó rồi, đều thấy sắc thân đức Phật đoan nghiêm vi diệu. Đồng thời họ đều phát tâm Tam Bồ đề.

Đức Thế Tôn Tỳ Xá, toàn thân phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn ba mươi hai do tuần, vừng sáng tròn rộng bốn mươi hai do tuần, ánh sáng thông thân sáu mươi hai do tuần, thân màu vàng tía, tướng ánh sáng uy nghiêm như vị Phật trước không khác. Hành giả thấy đức Phật này rồi, lại càng tinh tiến các đà la ni tam muội môn, vào đời vị lai nhất định sẽ sinh vào nhà của chư Phật, chẳng gì ngăn ngại được.

Đức Phật Câu Lưu Tôn cũng phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn hai mươi lăm do tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi hai do tuần, ánh sáng thông thân năm mươi do tuần, tướng tốt đầy đủ như núi vàng tía. Người thấy đức Phật này thì thường sinh vào đất nước thanh tịnh, chẳng ở trong bào thai, lúc sắp mạng chung, các đức Phật Thế Tôn nhất định đến nghênh tiếp.

Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni phóng ra ánh sáng lớn trụ ở trước mặt hành giả. Thân đức Phật ấy lớn hai mươi do tuần, vừng sáng tròn rộng ba mươi do tuần, ánh sáng toàn thân lớn bốn mươi do tuần, tướng tốt ánh sáng đầy đủ. Người thấy đức Phật này thì liền được trăm ức các tam muội môn, vô số Đà la ni môn. Nếu khi xuất định thì thường được tam muội chư Phật hiện tiền. Như tam muội này chứng minh cho hành giả thì sở dĩ gọi là tam muội chư Phật hiện tiền là vì người được tam muội này, dù xuất định hay nhập định, đi, đứng, ngồi, nằm, luôn luôn được nhìn thấy tất cả các đức Phật, vì chư Phật dùng sắc thân vi diệu hiện ra trước mặt người ấy.

Đức Thế Tôn Ca Diếp phóng ra ánh sáng lớn trụ ở trước mặt người ấy. Thân đức Phật ấy lớn mười sáu trượng, thân màu vàng tía, tướng tốt đầy đủ. Người thấy đức Phật này, được tam muội Tịch Diệt Quang Vô Ngôn Tướng, vào đời vị lai, luôn luôn trụ ở trong biển Tam muội Đại Không.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thân một trượng sáu, phóng ra ánh sáng vàng tía, trụ ở trước mặt hành giả. Đức Thế Tôn Di Lặc, thân lớn mười sáu trượng… Như vậy chư Phật đều vào tam muội Phổ Hiện Sắc Thân để thị hiện trước mặt người ấy, khiến cho hành giả ấy, lòng được hoan hỉ. Do hoan hỉ nên các vị hóa Phật đó đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả. Hành giả thấy Thất Phật rồi, thấy đến đức Di Lặc; thấy đức Di Lặc rồi, thấy Bồ tát của kiếp Hiền, thấy từng vị từng vị theo thứ lớp cho đến đức Lâu Chí. Các vị ấy đều phóng ra ánh sáng trụ ở trước mặt hành giả. Một ngàn vị Bồ tát, mỗi mỗi đều khen ngợi tam muội Niệm Phật và vì hành giả diễn nói tính của các Bồ tát, diễn nói giải thoát của các Bồ tát, diễn nói tuệ của các Bồ tát. Đó gọi là quán tưởng tượng tâm được tam muội Niệm Phật – Đức Phật bảo ngài A-nan – Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người tu tam muội này tuy có đủ phiền não nhưng chẳng bị sự sai khiến của phiền não. Do sức tam muội niệm Phật đó nên chư Phật mười phương phóng ánh sáng lớn thị hiện trước mặt người ấy. Ánh sáng này đặc biệt tôn quí, ba cõi không gì sánh bằng.

Đức Phật nói lời nói đó rồi thì vua trời Phạm lại khuyến thỉnh :

– Nguyện xin đức Phật Thế Tôn nói về chư Phật mười phương trụ ở trước mặt hành giả, hiện sắc tướng ánh sáng !

PHẨM THỨ MƯỜI MỘT : NIỆM THẬP PHƯƠNG PHẬT

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sao gọi là hành giả quán tưởng Phật mười phương ? Quán tưởng Phật mười phương thì trước hết là phương Đông. Phương Đông có thế giới mà đất nước tên là Bảo An Ẩn, do vô lượng ức báu với hàng ngàn ức màu sắc hợp thành. Đức Phật ở đó hiệu là Thiện Đức cũng phóng ra vô số ánh sáng soi khắp trăm ngàn nước, cũng cùng với vô số ức những hóa Phật phân thân, trụ ở trước mặt hành giả. Thân sắc như núi vàng, đoan nghiêm không gì so sánh được, ngồi trong động Kim cương lớn với nhà cửa lầu các trang nghiêm bằng vô số ánh sáng đủ thứ báu. Dưới mỗi một nhà, gác có vô lượng vi trần số trăm ức các cây báu. Dưới mỗi một cây báu có tám muôn bốn ngàn tòa sư tử mà trên mỗi một tòa sư tử có một đức Phật phân thân ngồi kiết già, vào tam muội ở dưới cây báu. Đức Phật Thế Tôn Thiện Đức, thân lớn hai trăm năm mươi ức nadotha do tuần. Mỗi một lỗ chân lông của thân ngài có vô số ức vi trần những thắng tướng tốt. Trong mỗi một tướng tốt có vô số vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật cao hiển lồng lộng như núi Tu Di, phóng ra ánh sáng lớn, ngồi trên hoa sen báu, trụ ở trong hư không. Các đức Phật phân thân mỗi mỗi đều khai hiện ánh sáng nhiệm mầu, hiển xuất vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật ngồi trên hoa sen báu. Mỗi một hoa sen có hàng ngàn tràng phan. Mỗi một tràng phan diễn ra hàng trăm ức âm thanh nhiệm mầu. Trong những âm thanh đó dạy quán tưởng mười phương vô số thân Phật. Khi tướng này hiện thì hành giả thấy mười phương thế giới giống như Kim cương với hàng trăm ức màu báu chẳng diệt chẳng hoại. Thấy tướng này rồi, hành giả, ở trước mặt chư Phật, thọ ngôi vị Pháp vương tử. Cảnh giới như vậy gọi là Tánh địa Bồ tát.

Phương Nam có đức Phật Chiên Đàn Đức, thân tướng cao hiển. Đất nước của đức Phật ấy, lưu ly làm đất với hằng sa màu báu. Ở trong ánh sáng của đức Phật cũng có vô số trăm ngàn nhà cửa lầu gác, hàng cây báu, bày tòa sư tử… Trên tòa, chư Phật ngồi kiết già, bảo tràng phan cái với âm thanh nói pháp… Như nói Phật Hải tam muội…

Phương Tây có đức Phật Vô Lượng Minh, đất nước thanh tịnh với đất bằng hoàng kim, năm trăm ức màu báu, ánh sáng thân Phật, lầu gác giảng đường, từng hàng cây báu, bày tòa sư tử báu, các đức Phật phân thân ngồi kiết già dưới cây báu, trong tràng phan báu cũng nói Niệm Phật hải..

Phương Bắc có đức Phật Tướng Đức. Đất cõi Phật ấy màu pha lê, có năm trăm ức ánh sáng báu, từng hàng cây báu, bày tòa sư tử báu, lầu các giảng đường, tràng phan, ánh sáng… so với trên không khác.

Phương Đông nam có đức Phật Vô Ưu Đức. Đất cõi Phật ấy màu thất bảo. Trên mỗi một màu có bảy trăm ức tạp sắc (màu xen lẫn), từng hàng cây báu, lầu gác, ánh sáng… hàng trăm ức vạn thứ. Mỗi một ánh sáng nói lên biển công đức của Phật, như nói về biển Phật…

Phương Tây nam có đức Phật Bảo Thí. Đất của cõi Phật ấy màu năm báu. Trên mỗi một báu có năm trăm ức ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm năm trăm ức mây hoa sen. Trên mỗi một đám mây hoa sen có hàng trăm ức lầu gác mà mỗi một lầu gác như trăm ngàn vạn ức cung vua Phạm. Trong mỗi một cung vua Phạm có vô số giường, tòa ngồi do ánh sáng hoa sen hợp thành. Trên những tòa đó có các đức Phật phân thân ngồi kiết già, diễn nói pháp Đại Từ Bi của chư Phật. Ánh sáng, tràng phan cùng diễn nói về Phật hải.

Phương Tây bắc có đức Phật Hoa Đức. Đất nước của đức Phật ấy màu lưu ly, pha lê. Trên mỗi một màu có vô số trăm ngàn ánh sáng mà mỗi một ánh sáng hóa làm năm trăm ức hang động báu. Trong mỗi một hang động có vô số bảo cái. Trong mỗi một bảo cái có hàng trăm ức ánh sáng. Trong mỗi một ánh sáng có vô số đức Phật phân thân ngồi kiết già, phóng ra ánh sáng lớn. Trong ánh sáng ấy diễn nói niệm Phật tam muội. Nhân ở trong niệm Phật tam muội, hành giả lại được thấy vô số các đức Phật.

Phương Đông bắc có đức Phật Tam Thừa Hạnh. Đất nước của đức Phật ấy thuần một màu bạch ngân với hàng trăm ức vạn ánh sáng. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu sắc trang nghiêm khắp cùng bờ cõi đất nước rất là thanh tịnh. Phân thân hóa Phật, cây báu, tràng phan… hàng lối la liệt, trang nghiêm… tính chẳng thể biết được.

Thượng phương có đức Phật Quảng Chúng Đức. Đất của cõi Phật ấy có năm trăm ức màu báu. Mỗi một màu báu có vô số ánh sáng. Mỗi một ánh sáng hóa làm vô số trăm ức vị hóa Phật. Trong mỗi một ánh sáng Phật có vô lượng hàng cây báu la liệt trang nghiêm. Dưới mỗi một cây có hàng trăm ức tòa sư tử báu mà các đức Phật ngồi kiết già ở bên trên với vô số Bồ tát làm thị giả. Tất cả đại chúng đều trụ ở trong đám mây ánh sáng của đức Phật.

Hạ phương có đức Phật Minh Đức. Đất của cõi Phật ấy màu vàng, ánh sáng vàng, mây vàng… Ở trong mây ánh sáng có vô số nhà vàng, lầu gác thất bảo, hàng cây trăm báu la liệt trang nghiêm, số tràng, phan, cái báu có đến ức ngàn vạn. Dưới mỗi một cây có trăm ức tòa báu. Những nhà cửa lầu gác vô số tọa cụ hình dạng như hoa báu… vô số tất cả các đức Phật phân thân ngồi trên tòa lưu li dưới gốc cây báu. Ở vùng những màu hoa có vô số Phật hội. Những đức Thế Tôn đó đều giảng nói pháp hạnh của Bồ tát.

Như vậy mười phương có vô số vị hóa Phật mà mỗi một vị hóa Phật hiển hiện ánh sáng. Các đức Phật mười phương, mỗi mỗi đều ngồi trong hang động Kim cương mà thân lượng, ánh sáng như đức Phật Thiện Đức và những vị hóa Phật, uy thần, đất nước… khiến cho hành giả nhìn thấy như ở trước gương sáng tự nhìn thấy hình dáng mặt mình. Hành giả thấy Phật mười phương tỏ rõ phân minh, lòng vui mừng nên chẳng nhiễm các pháp, trụ ở sơ tâm (lòng trong sach ban đầu). Lúc đó, các đức Phật mười phương rộng vì hành giả đều nói giống nhau về sáu Balamật. Nghe pháp đó rồi thì mười cảnh giới tâm ở dưới bậc Sơ địa, hành giả không có nghĩ ngợi nghi ngờ. Người thấy sự việc này thì nhất định nghe các đức Phật diễn nói Bát nhã Balamật, nghe “đệ nhất nghĩa không”, lòng chẳng kinh hãi, nghi ngờ. Ở trong các pháp, người ấy được vào “Không Tam muội”. Đó gọi là Tương Tợ Không Tướng Tam muội.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật muốn quán tưởng mười phương Phật, ở trong Niệm Phật tam muội chỉ biết tướng thô, rồi sẽ tự nhiên biết được vô lượng diệu tướng. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Người được sự quán tưởng này thì thấy Phật nhiều vô số, không thể hạn lường. Người vào định này gọi là người thấy sắc thân của tất cả chư Phật, cũng được vào dần dần cửa ba không. Người đi dạo cửa ba không này, nhờ sức của chư Phật, nên lòng chẳng chấp trước không, vào đời vị lai sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được chẳng thoái chuyển. Đó gọi là tâm chẳng quên Bồ đề, chánh thuận Phật đạo. Khi nói pháp quán tưởng Phật mười phương thì Phật mười phương ngồi trong hang trăm báu ở núi Kim cương đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu A-nan mà bảo rằng : “ Này Pháp tử ! Ông đem lời nói của đức Phật vì những chúng sinh đời vị lai mà diễn nói rộng rãi, cẩn thận chớ vọng truyền. Ông phải vì người kiên cố phát tâm Tam Bồ đề, tu hành Niệm Phật định chánh thọ mà tuyên nói.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Tam muội Niệm Phật này, nếu muốn thành tựu thì có năm nhân duyên. Những gì là năm ?

– Một là trì giới chẳng phạm.

– Hai là chẳng khởi tà kiến.

– Ba là chẳng sinh kiêu mạn.

– Bốn là chẳng sân nhuế, chẳng tật đố.

– Năm là dũng mãnh tinh tiến như cứu đầu cháy.

Làm năm việc này, chánh niệm sắc thân vi diệu của các đức Phật, khiến cho lòng chẳng thoái lui, chẳng phải đọc kinh điển Đại thừa. Do sức niệm Phật công đức này nên nhanh chóng được thấy vô lượng các đức Phật. Người thấy chư Phật, riêng một lòng thanh tịnh chẳng cùng người khác chung đụng thì nên phải cúng dường các đức Phật mười phương. Sao gọi là cúng dường ? – Người đó ra khỏi định, vào tháp thấy tượng, khi niệm trì kinh, hoặc lễ một đức Phật phải nghĩ rằng : “ Tâm trí chư Phật Chánh Biến Tri, không có gì ngăn ngại ! Con nay làm lễ một đức Phật tức là làm lễ tất cả các đức Phật”. Nếu tư duy một đức Phật liền thấy tất cả Phật thì hành giả thấy trước mỗi một đức Phật có một hành giả tiếp tục làm lễ đều chính là thân mình. Nếu khi dùng một cành hoa cúng dường thì phải nghĩ rằng : “ Pháp thân chư Phật công đức không lường, chẳng trụ, chẳng hoại, sáng rỡ thường an. Con nay dùng hoa dâng hiến chư Phật ! Nguyện xin Phật nhận cho ”. Nghĩ vậy rồi hành giả lại phải khởi lên ý tưởng : “ Hoa của con cầm là từ cỏ cây sinh ra. Con đem hoa này cúng dường thì có thể dùng ý tưởng giống như hoa”. Hành giả liền phải tác khởi ý tưởng các lỗ chân lông của thân khiến cho mỗi lỗ chân lông hiện ra vô số mây hoa. Hành giả dùng mây hoa này vận dụng ý tưởng mô phỏng theo hoa mà cúng dường tất cả Phật. Bên trên mỗi một đức Phật hóa thành đài hoa mà các đức Phật đã nhận. Ở mười phương thế giới để thi hành Phật sự, khi hành giả cúng dường hương thơm cũng lại như vậy. Khói hương, mây hương làm Phật sự ở thế giới mười phương, khi làm Phật sự rồi thì chúng trở lại biến thành đài vàng ở trước mặt hành giả. Nếu người phàm phu muốn cúng dường thì tay bưng lò hương, cầm cành hoa cúng dường cũng phải khởi lên ý làm “hoa hương tưởng”, phải phát nguyện rằng : “ Nguyện cho hoa hương này đầy trong thế giới mười phương, cúng dường tất cả Phật, hóa Phật cùng Bồ tát và vô số chúng Thanh văn. Nguyện chư Phật thọ nhận mây hương hoa này để làm đài ánh sáng rộng đến vô biên thế giới, làm Phật sự nhiều không lường”. Người lễ Phật hoặc ngồi thiền mà khởi lên tâm cúng dường đó thì phải phát lời nguyện này. Nếu hành giả cúng dường táng che, tràng, phan bằng lụa ngũ sắc, âm nhạc, kệ tụng thì phải phát nguyện rằng : “Con nay thiết bày một phần ít đồ cúng này, nguyện đem những đồ cúng này cúng dường khắp cùng tất cả các đức Phật ở mười phương. Các đức Phật thọ đồ cúng đó thì ở trong tràng phan hóa ra mây ánh sáng; ở trong kỹ nhạc, trong kệ tụng diễn ra âm thanh diệu pháp”. Phát nguyện đó rồi, khi ngồi nên tưởng niệm đến lỗ chân lông của thân, khiến cho trong mỗi một lỗ tạo ra vô lượng tràng phan tưởng. Trong mỗi một tràng phan tạo ra vô lượng mây kệ tụng tưởng. Khi tác khởi tưởng đó thì lòng như lò hương tuông ra khói hương, mây hương màu vàng. Trong lỗ chân lông của thân như cây hoa đẹp vọt ra atăngkì vô lượng mây đủ thứ hoa. Những đám mây hoa đó ở bên trên các đức Phật của thế giới mười phương hóa làm tất cả những đồ cúng dường.

Lúc bấy giờ, ở trong từng phần thân tâm sẽ dấy lên tưởng tất cả đồ cúng dường. Nếu được ăn uống hoặc bố thí cho người một tiền, hành giả phải khởi lên tư tưởng không, vô ngã Đàn Balamật ( bố thí). Như vậy.v.v… vô lượng sự cúng dường đều do tâm khởi khởi lên, đều từ tâm tưởng xuất hiện để cúng dường tất cả các đức Phật mười phương. Đó gọi là khi ngồi mà vô lượng công đức từ biển tâm tưởng sinh ra. Như vậy, khi ngồi, nhập vào thiền định thậm thâm thì vô lượng cảnh giới, các tam muội hải chỉ ở trong lòng. Thở ra hít vào, niệm niệm, tưởng tưởng nối tiếp nhau chẳng dứt. Ở trong một lòng vận dụng tâm ý mình tạo tác mây vô số đồ cúng dường để trên cúng dường các đức Phật, dưới bố thí cho tất cả. Người tác khởi ý niệm đó gọi là người học Phổ thí (Bố thí khắp cùng). Khi tưởng niệm này thành thì dần dần giảm thiểu các kết phiền não, hành giả quán pháp vô tướng. Rồi nhờ sức của vô tướng nên hành giả sẽ được sáu Balamật thậm thâm.

***

PHẨM THỨ MƯỜI HAI : QUÁN MẬT HẠNH CỦA ĐỨC PHẬT

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Chúng sinh đời vị lai, nếu họ có người được tam muội Niệm Phật thì người quán tướng tốt của chư Phật được tam muội Chư Phật hiện tiền. Ông phải dạy người đó kín thân, miệng, ý chớ khởi lên tà mạng, chớ sinh ra cống cao. Nếu họ khởi lên tà mạng và cống cao thì phải biết người này chính là người tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, phần nhiều sai khiến chúng sinh dấy lên lòng bất thiện, làm loạn hòa hợp Tăng, hiển thị điều khác lạ mê hoặc mọi người. Người như vậy là bạn ác của ma. Người ác như vậy tuy họ niệm Phật nhưng mất vị cam lồ. Nơi sinh của người này, vì cống cao nên thân luôn luôn hèn mọn, sinh vào nhà hạ tiện bần cùng, suy bại, nghiêm sức bằng vô lượng nghiệp ác. Đủ chủng loại những việc ác như thế này, hành giả phải tự phòng hộ khiến cho mãi mãi chẳng sinh ra. Nếu người khởi lên nghiệp tà mạng như vậy thì nghiệp tà mạng này giống như con voi điên phá hoại ao hoa sen. Nghiệp tà mạng này cũng lại như vậy, nó làm bại hoại hết căn lành.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Người có niệm Phật phải tự phòng hộ chớ để cho buông lung. Người Niệm Phật tam muội, nếu chẳng tự phòng hộ, sinh ra cống cao thì gió dữ tà mạng thổi, lửa kiêu mạn đốt, tiêu diệt thiện pháp. Thiện pháp là tất cả vô lượng thiền định, các pháp niệm Phật từ các tâm tưởng sinh ra. Đó gọi là công đức tạng.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ví như ông trưởng giả có rất nhiều của báu mà chỉ có một đứa con. Ông trưởng giả tự biết sắp chết, chẳng còn bao lâu nữa, đem những kho tàng giao phó cho người con ấy. Người con ấy được của rồi tùy ý rong chơi. Bỗng, vào một lúc, gặp phải nạn vua, có vô lượng giặc cướp từ bốn phía kéo đến, tranh nhau lấy của cải trong kho mà người con ấy chẳng thể ngăn cản giữ gìn. Chỉ có một thỏi vàng mới chính là Diêm Phù Đàn Na Tử Kim, nặng mười sáu lượng, chiều dài chiều rộng của đỉnh vàng cũng đều mười sáu tấc. Một lượng vàng này trị giá bằng trăm ngàn vạn lượng của báu khác. Bị giặc bức bách, không biết làm gì với thỏi vàng, ông ấy liền dùng vật dơ bẩn bọc gói vàng ròng, đặt vào bên trong cục bùn. Bọn giặc nhìn thấy nó, chẳng biết đó là vàng, chân dẫm lên mà đi. Sau khi giặc đi rồi, tài chủ giữ được vàng, lòng rất vui mừng. Niệm Phật tam muội cũng lại như vậy, phải giấu kín nó.

Lại nữa, này A-nan ! Ví như có người nghèo cùng, bạc phước nương vào những bậc hào phú hiền đức để bảo tồn tính mạng. Có vị vương tử ngẫu hứng đi xuất du, cầm bình báu lớn. Ở bên trong bình báu đựng túi ấn vua. Lúc đó, có kẻ nghèo trà trộn đến gần bên, lấy được bình báu của vua bưng chạy trốn. Vương tử hay được, sai sáu người lính lớn cưỡi sáu con voi đen, tay cầm gươm báu, mau chóng đuổi theo người đó. Người cầm bình chạy vào trong đầm hoang cỏ ngút ngàn. Người đó thấy rắn độc đầy trong đầm Khoáng dã, từ bốn mặt chúng phun ra độc, hút lấy người cầm bình. Người nghèo cùng bàng hoàng, kinh sợ bương chạy khắp nơi mà rắn cũng đuổi theo, không chỗ trốn tránh. Ở trong đầm trống, người ấy thấy một cây lớn um tùm giúp đỡ nên rất vừa ý, đầu đội bình báu, vin cây mà leo lên. Đã lên trên cây rồi thì sáu người lính cưỡi voi, chạy nhanh như gió lại vừa đến nơi. Người nghèo thấy rồi, nuốt cái ấn báu của vua, đem bình làm mũ đội đầu, dùng tay che mặt, ngồi tham tiếc nên chẳng nỡ nhìn thấy. Sáu con voi đen dùng vòi quấn lấy cây khiến cho cây ngã nhào, người nghèo rơi xuống đất, thân thể hoại tan, chỉ có cái ấn vàng ở tại bình báu hiện lên ánh sáng. Các con rắn thấy ánh sáng vội vàng chạy tứ tán – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người trụ ở tam muội niệm Phật thì tâm ấn chẳng hoại cũng lại như vậy.

Lại nữa, này A-nan ! Ví như ông trưởng giả có nhiều của cải báu vật mà không con trai, chỉ có một người con gái. Lúc đó, ông trưởng giả tuổi hơn một trăm, tự biết quá suy yếu sắp chết, chẳng còn bao lâu, nên nghĩ rằng : “ Của cải báu vật này của ta mà không có con trai nên của cải phải thuộc về vua”. Suy nghĩ vậy rồi, ông gọi người con gái mà mật bảo rằng : “ Nay có món diệu bảo đứng trên tất cả báu, cha sẽ đem cho con ! Con được món báu này phải giấu kín cho chắc chắn, chớ để cho vua biết !” Người con gái nhận lệnh của cha, đem ngọc ma ni và các trân bảo giấu vào phân dơ bẩn, cả nhà lớn nhỏ cũng đều chẳng ai biết. Gặp đời đói kém, chồng người con gái bảo vợ rằng : “ Nhà ta nghèo cùng, khốn quẩn về ăn mặc, nàng có thể đi nơi khác tìm chỗ sống cho mình !” Người vợ nói với chồng rằng : “ Cha tôi là trưởng giả, lúc sắp mạng chung, đem của báu ban cho tôi. Nay ở tại chỗ đó đó (mỗ xứ) chàng có thể lấy chúng !” Người chồng đào lấy, thu hoạch lớn trân báu cùng ngọc Như ý. Người ấy đem ngọc Như ý ra, đốt hương lễ bái, trước phát nguyện rằng : “ Xin ngọc vì ta mưa xuống đồ ăn !” Theo lời phát nguyện liền mưa xuống đồ ăn thức uống trăm vị. Cứ như vậy từng món từng món theo ý người được ngọc báu. Người chồng được rồi bảo vợ mình rằng : “ Nàng như thiên nữ có thể ban cho ta ngọc báu ! Nàng giấu ngọc báu này, ta còn chẳng biết, huống lại là người khác” – Đức Phật bảo ngài A-nan – Niệm Phật tam muội bền chặt, lòng chẳng động cũng lại như vậy.

Lại nữa, này A-nan ! Ví như có ông vua bạo ngược trái đạo. Dân mắc phải sự độc ác của vua ấy, người sợ, thần giận. Nước gặp đại hạn thỉnh cầu thần đất, chẳng thể được mưa, có người bề tôi bạch rằng : “ Thưa đại vương ! Ngài phải biết, hiện nay bên trong đất nước này ở miền Lâm đẩu có một vị tiên nhân ngũ thông vô ngại. Nhà vua nên thỉnh mời vị ấy chú nguyện rồng !” Nhà vua nghe xong, hớn hở không lường, sai người đến rừng thỉnh vị tiên nhân. Vị tiên xuất thần bay đến trước điện đại vương, lớn tiếng xưng lên rằng : “ Đại vương vô đạo ! Các trời, rồng, thần đều đi tứ tán, chẳng ủng hộ đất nước của vua nữa thì làm sao sai ta cầu mưa ?’ Nhà vua nghe lời nói này lấy làm rất xấu hổ, cải hối việc làm ác của hành động trước đây. Vị tiên nhân ấy biết lòng nhà vua đã nhu nhuyến tốt lành nên niệm tụng chú. Nhờ sức thần thông nên trời mưa xuống cam lộ, đất trào ra suối nước thấm nhuần tất cả – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người muốn niệm Phật như vị vua bỏ điều ác. Người được niệm Phật như người giỏi chú nguyện.

Lại nữa, này A-nan ! Ví như người lực sĩ tự thị sức lực lớn vi phạm vương pháp. Nhà vua sai năm người bắt lấy lực sĩ giam vào ngục tối với gông cùm rất là bền chắc. Lực sĩ giận vung sức mạnh, toàn thân rướm máu, gông cùm nát tan, vượt tường chạy trốn. Hắn đi đến bên bờ biển, mở viên ngọc sáng trên đỉnh kế đem thuê người lái thuyền (thuyền sư). Người lái thuyền nói rằng : “ Cái này như đá trắng ở trong biển nhiều vô số, ta lấy nó làm gì ?” Người lực sĩ quì dài bạch thuyền sư rằng : “Ngọc sáng này của tôi có sáu thứ màu !” Ông liền dùng lụa vàng gói viên ngọc đặt vào trong nước, nước liền thành màu vàng. Ông lại thâu hồi viên ngọc, dùng lụa trắng gói đặt vào trong nước, nước liền biến ra màu trắng. Ông lại thu lấy viên ngọc, dùng lụa màu xanh lục gói lại, đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu lưu ly xanh lục. Ông thu lấy ngọc dùng lụa màu ngọc bích gói lại đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu chơn kim tinh. Ông thu lấy viên ngọc lại dùng lụa đỏ gói đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu xa cừ. Ông lại thu lấy ngọc, dùng lụa màu tía gói, đặt vào trong nước, nước liền biến thành màu kim cương trời, trên nước lại có ánh sáng ma ni tía. Vị thuyền sư thấy rồi liền lấy ngọc báu, dùng kiệu báu lớn, khiêng người dũng mãnh, đặt lên thuyền lớn, nhờ gió cất buồm lướt nhanh như tên bắn, đến bờ bên kia. Đến bờ kia rồi, lòng dạ thư thái yên ổn, không sợ, người ấy đem nhiều trân bảo đền ơn thuyền sư – Đức Phật bảo ngài A-nan – Người hành niệm Phật như vị đại lực sĩ, thoát khỏi gông cùm tâm vươn đến được bờ kia trí tuệ.

Lại nữa, này A-nan ! Ví như khi kiếp sắp hết, hai mặt trời cùng xuất hiện. Núi rừng, cây cối, sông ao… đều khô cạn. Khi ba mặt trời xuất hiện thì mọi màu lửa dậy. Khi bốn mặt xuất hiện thì biển lớn tiêu giảm, ba phần còn một. Khi năm mặt trời xuất hiện thì biển lớn cạn hết. Khi sáu mặt trời xuất hiện thì núi Tu di ngã nhào tan vỡ. Khi bảy mặt trời xuất hiện thì đại địa cháy suốt cho đến Sắc giới, chỉ có núi Kim cương chẳng thể đổ vỡ, trụ lại chốn cũ. Niệm Phật tam muội cũng lại như vậy. Người hành cái định đó là trụ ở trong biển thật tế của Phật đời quá khứ.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Ta nay muốn cùng với các đức Phật mười phương báo đền ơn Niệm Phật tam muội.

Đức Thế Tôn nói lời đó rồi, bấy giờ ngài và các đức Phật mười phương cùng Bồ tát của Kiếp Hiền nhập vào tam muội Nhất Thiết Sắc Thân Quang Minh. Từ mỗi một lỗ chân lông của thân chư Phật vọt ra những đám mây hóa Phật vi diệu nhiều chẳng thể xưng tính. Những vị hóa Phật đó ngồi kiết già ở trong hư không. Vô số tất cả những vị hóa Phật như vậy đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu ngài A-nan và lệnh cho ngài Thích Đề Hoàn Nhân rằng :

– Hai người các ông hãy giữ gìn diệu pháp đó cẩn thận chớ quên mất ! Vì chúng sinh trược ác đời vị lai diệt mọi tội chướng nên đức Như Lai Chánh Biến Tri, hôm nay, ở trong đại chúng, nói thân tướng của tất cả Phật.

Lúc bấy giờ, tôn giả A-nan liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Kinh này sẽ gọi là gì ? Pháp yếu này sẽ hành trì ra sao ?

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Kinh này tên là Hệ Tưởng Bất Động ! Như vậy mà thọ trì ! Cũng tên là Quán Phật Bạch Hào Tướng ! Như vậy mà thọ trì ! Cũng tên là Nghịch Thuận Quán Như Lai Thân Phận ! Cũng tên là Nhất Nhất Mao Khổng Phân Biệt Như Lai Thân Phận ! Cũng tên là Quán Tam Thập Nhị Tướng Bát Thập Tùy Hình Hảo Chư Trí Tuệ Quang Minh ! Cũng tên là Quán Phật Tam Muội Hải ! Cũng tên là Niệm Phật Tam Muội Môn, cũng tên là Chư Phật Diệu Hoa Trang Nghiêm Sắc Thân ! Cũng tên là Thuyết Giới Định Tuệ Giải Thoát Giải Thoát Tri Kiến Thập Lực Tử Vô Sở Úy Thập Bát Bất Cộng Pháp Quả Báo Sở Đắc Vi Diệu Sắc Thân Kinh ! Ông hãy thọ trì tốt, cẩn thận chớ quên mất !

Khi đức Phật nói lời nói đó thì đại chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ tát cùng trời rồng… tám bộ, tất cả quỉ thần nghe đức Phật nói thân tướng vi diệu đó, có người được Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, có người được A la hán, có người gieo trồng nhân duyên đạo Bích Chi Phật, có người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người được Vô sinh pháp nhẫn… Số người ấy nhiều chẳng thể xưng nói hết. Các đại chúng nghe đức Phật nói pháp, cung kính đảnh lễ, phụng hành lời dạy của đức Phật, làm lễ xin lui ra. Lúc đó ngài A-nan liền đứng dậy, chắp tay quì dài bạch rằng :

– Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai, hôm nay tất cả thân tướng đều đã nói xong ! Chỉ có tướng Vô Kiến đảnh là ngài chưa hiển nói thôi. Nguyện xin đấng Thiên Tôn ! Nói một ít về điềm ứng của ánh sáng tướng đảnh, khiến cho chúng sinh, phàm ngu đời vị lai biết được thắng tướng của đức Phật !

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền vào Đảnh Tam Muội Hải khiến cho trong nhục kế trên đảnh đức Phật, mỗi một lỗ chân lông vọt ra ánh sáng lưu li. Ánh sáng ấy như “duyên văn” (hình dáng tóc xoăn) bằng nước xoắn về bên phải đầy khắp vô lượng thế giới mười phương như số biển vi trần của trăm ức thế giới. Như vậy trong tám muôn bốn ngàn những lỗ chân lông đều hiện ra tướng nước đó. Mỗi một tướng nước lại hơn nước đó trăm ngàn vạn bội số, chẳng thể biết. Trên những nước lưu li đó, sinh ra nhiều những hoa sen trời quí báu. Mỗi hoa có vô số trăm ngàn ức cánh. Mỗi cánh hoa tạo ra vô số trăm ngàn ức màu sắc báu. Cánh hoa cực nhỏ cũng che khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Trong mỗi một tua hoa trên mỗi hoa như vậy có vô lượng atăngkì trăm ngàn vạn ức hằng hà sa số vị hóa Phật. Tướng nhục kế trên đảnh của mỗi một vị hóa Phật tuông ra mọi thứ ánh sáng cũng lại như vậy. Thân lượng của các đức Phật đồng với hư không, chẳng thể được biết. Như vậy các đức Phật, từng đức Phật, đức Phật tiếp theo nhau đến tận mép biển của thế giới. Khi tướng này hiện thì ở mười phương diện đều có hàng trăm ức Bồ tát nhiều như vi trần mà thân vọt lên hư không, thị hiện đại thần biến, đi đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Các vị Bồ tát nhờ thần lực đức Phật nên tạm thay một phần nhỏ tướng điềm ứng trong mỗi lỗ chân lông, ngay tức thời được vô lượng trăm ngàn Đà la ni Kim cương tướng. Khi đức Phật hiện ra tướng đó thì một ngàn vị Bồ tát của Kiếp Hiền và các đức Phật mười phương đều thị hiện tướng này. Đại chúng trong hội thấy được phần nhỏ tướng này thì người Tu đà hoàn trong khoảnh khắc trở thành A la hán, người quán nhân duyên chẳng duyên các duyên trở thành A la hán, Bồ tát phát tâm thì vượt qua cảnh giới tăng tiến cửa tam muội hải thậm thâm, trụ ở tính địa. Bồ tát vô sinh thì bội thêm tăng tiến vô lượng thắng pháp, trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội.

Đức Phật bảo ngài A-nan rằng :

– Sau khi Phật diệt độ, trong đời ác trược, nếu có chúng sinh nghe thắng tướng của Phật, lòng chẳng kinh nghi, chẳng sinh sợ sệt thì phải biết người đó có thể diệt tất cả nghiệp chướng phiền não. Người nghe Thắng tướng của Phật sinh lòng tùy hỉ thì trừ khước được một ngàn ức kiếp nghiệp ác rất nặng, chỗ sinh ra đời sau chẳng rơi vào ba đường, chẳng sinh vào chỗ tám nạn.

Khi đức Phật nói lời đó thì trưởng lão Kiều Trần Như.v.v… các vị đại Tỳ kheo, Bồ tát Di Lặc.v.v… các vị Đại Bồ tát, vô lượng đại chúng nghe lời nói của đức Phật đều rất vui mừng đảnh lễ cung kính phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Ngài Ma Ha Ca Diếp Độ Bà Lão Nghèo - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Xây Tháp Bồ Tát Hiến Thân Cho Hổ Đói - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 26 – Dối Trá - Kinh Tạng
  • Kinh Tôn Thượng - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Quở Trách Sắc Dục - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm Như Ý Ma Ni Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà-ra-ni - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 15 – Báo Ân - Kinh Tạng
  • Kinh Thụ Thập Thiện Giới - Kinh Tạng
  • Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ - Kinh Tạng
  • Kinh Nguyệt Ðăng Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Kinh chú Đà La Ni Thỉnh Bồ Tát Quán Thế Âm Tiêu Phục Độc Hại - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Thiền Tông Vĩnh Gia Tập - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Tập Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 122 – Kinh Ðại Không (Mahàsunnata sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Tu Tập Của Thiên Tử Đại Tự Tại - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Quả Trong Đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Chúng Hứa Ma Đế - Kinh Tạng