Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn
Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn Kinh
Thất dịch
Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
***
PHẨM THỨ NHẤT: TU HÀNH.
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở trong cung điện Hoan Hỷ, vườn Phất Bà La của Di Già La Mẫu (Tỳ Xá Khư Mẫu). Lúc này, Tỳ Xá Khư Mẫu cùng một ngàn năm trăm thanh tín cận sự nữ đến chỗ Phật cúi đầu lạy sát chân Ngài, rồi lui ngồi qua một bên.
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Sáng sớm con đến đây có duyên sự gì?
Tỳ Xá Khư Mẫu thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nghe Như Lai nói lược qua về pháp vô thượng sâu xa khó hiểu tên là Ưu Bà Di Tịnh hạnh. Cúi xin Thế Tôn hãy thương xót chúng con mà giảng nói phân biệt tướng pháp vi diệu ấy. Sau khi nghe pháp này để về sau chúng con sẽ thường yên ổn và an lạc trong cõi trời, người cho đến khi giác ngộ.
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Lành thay! Lành thay! Này thiện nữ! Về vô lượng kiếp thuở xa xưa, con luôn thích nghe pháp và đã cùng quyến thuộc từng thỉnh cầu ta giảng pháp này.
Nghe Phật nói nhân duyên thuở trước, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng khôn xiết và thưa Phật.
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai giảng nói để con được hiểu rõ.
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Hãy lắng nghe. Ta sẽ giảng rõ cho con. Này thiện nữ! Trong vô lượng kiếp lâu xa về quá khứ, có nước tên Ba La Nại, vua hiệu Phạm Dự, phu nhân tên Bạt Đà La. Vua có một người con gái tên là Liên Hoa với dung mạo xinh đẹp, bẩm tính nhu mì, hiền dịu, thông minh, sáng suốt, chí thích học hỏi, siêng năng dõng mãnh, thường tu hạnh lành, những kỹ thuật ở đời cô đều thông đạt và luôn được cha mẹ yêu chuộng.
Bấy giờ, trong núi tuyết có một Phạm chí tên Na La Đà siêng năng tu phạm hạnh, đắc được năm thần thông, luôn giảng pháp cho các đại chúng nên tiếng tốt đồn xa lan khắp bốn phương. Bấy giờ cô gái ấy nghe bạn bè khen ngợi Phạm chí có thần thông và những công đức khó lường như vậy, còn tuyên dương diệu pháp cho đại chúng nữa, nên cô ta rất vui mừng và tự nghĩ: “Người thiện khó gặp, pháp cũng khó nghe, thân mạng khó bảo tồn, cho nên ta phải mau đến đó để lễ lạy hỏi pháp”. Nghĩ vậy rồi, cô đến thưa cha mẹ:
– Con nghe mọi người khen ngợi Phạm chí tu hành có đạo đức cao vòi vọi. Cúi xin cha mẹ hãy cho phép con đến chỗ Phạm chí để hưởng thọ pháp vị.
Cha mẹ cô nói:
– Tuổi con còn nhỏ dại, lớn lên trong thâm cung, tánh tình lại yếu mềm, chưa từng ra khỏi cung. Nay núi tuyết xa xôi, đường sá gian nan làm sao có thể đến đó được?
Nước ta có nhiều Phạm chí kỳ cựu, thần thông trí tuệ vô song giỏi giảng nói diệu pháp sâu xa. Vì con, ta sẽ thỉnh mời họ vào cung nội để giảng dạy đạo pháp, con sẽ tha hồ mà học hỏi, không cần phải đi xa.
Cô gái lại xin:
– Thưa cha mẹ! Các Phạm chí kỳ cựu trong nước Ba la Nại đều tôn trọng và suy tìm đạo thuật của họ. Cúi xin cha mẹ hãy cho phép con được nghe pháp giải thoát.
Vì quá yêu thương nên vua không muốn trái ý con, đành miễn cưỡng cho phép. Vua cha liền ra lệnh bốn vị quan thần và thể nữ trong cung chuẩn bị đầy đủ vật cúng dường.
Quan thần tâu vua:
– Những gì đại vương ra lệnh, chúng thần đều chuẩn bị xong rồi.
Khi ấy Vương nữ nghĩ: “Ta cầu nghe được pháp nay đã đúng lúc”.
Rồi cô cùng một ngàn năm trăm thể nữ trong cung chở hương hoa đến chỗ Phạm chí để nghe pháp.
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Vương nữ thuở đó chính là con, còn Phạm chí ở núi tuyết chính là ta vậy. Lúc xưa, con đã từng cầu nghe pháp cũng như nay vậy. Bây giờ ta sẽ phân biệt giảng nói pháp môn Tịnh hạnh cho con.
Tỳ Xá Khư thưa:
– Lành thay! Bạch thế Tôn! Như Lai có lòng đại bi thương xót chúng sinh, cúi xin ngài giảng nói con sẽ tu hành theo.
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Các ngươi hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ giảng nói rõ pháp môn Ưu Bà Di Tịnh hạnh cho các con. Pháp ấy được chư Phật hộ niệm, con cần phải tinh tấn tu hành. Này Tỳ Xá Khư! Nếu thiện nữ nào lìa bỏ ác tri thức, gần gũi bạn lành, người đáng cúng dường thì nên cúng dường, đó gọi là Ưu Bà Di Tịnh hạnh.
Nhờ nhân đời trước ở đất nước yên ổn, cũng gọi là Tịnh hạnh.
– Cúng dường cha mẹ, chăm sóc con cái, cũng gọi là Tịnh hạnh.
– Đừng khinh thường tội nhỏ, việc cần làm thì làm theo thứ lớp, cũng gọi là Tịnh hạnh.
Ưa thích bố thí, tu tập thực hành theo pháp, yêu mến quyến thuộc bạn bè, gọi là Tịnh hạnh.
– Tránh xa rượu chè, không làm các điều ác, tu hành ái ngữ, gọi là Tịnh hạnh.
– Học nhiều kỹ thuật, rất giỏi về oai nghi. Nghe điều gì thì nghiên cứu, không để quên mất, gọi là Tịnh hạnh.
– Có lòng cung kính tôn trọng mọi người, ít muốn biết đủ, thọ ân luôn phải báo đáp, gọi là Tịnh hạnh.
– Không bị tám pháp làm động tánh tình hòa nhã, gọi là Tịnh hạnh.
– Không lo buồn, thường được an ổn. Tất cả những việc như vậy mà không lùi bước và làm việc không ngừng nghỉ, gọi là Tịnh hạnh.
– Đối với pháp thiện không biếng nhác, mau chứng vô thượng giải thoát Niết bàn, gọi là Tịnh hạnh.
– Nhẫn nhục, vâng lời, thường muốn gần gũi Sa môn, thân hành động chân chánh, làm theo gia nghiệp, gọi là Tịnh hạnh.
– Dùng lửa trí thiêu đốt phiền não, đầy đủ pháp lành, dõng mãnh không thối lui, gọi là Tịnh hạnh.
– Không chê bai người, không đánh đập, khéo hộ trì các căn, giữ tâm không tán loạn, gọi là Tịnh hạnh.
– Tâm chân thật không tham lam, ưa thích ở chỗ thanh vắng, siêng năng tu tập, không bao giờ thối chuyển, gọi là Tịnh hạnh.
– Làm tăng trưởng đạo Bồ đề, không để thối lui, nhàm chán ba cõi như cái thây chết, quán sát sâu xa như vậy, gọi là Tịnh hạnh.
– Ưa bỏ những gì khó bỏ, những giới cấm khó giữ thì giữ hoàn hảo, thích tu thiền định, không bị tán loạn, gọi là Tịnh hạnh.
– Với đạo Bồ đề thì vô lượng chúng sanh có tư tưởng thối lui, nhưng ta tiến tới; còn tất cả người tiến tới thì ta không thối lui, đi đứng cũng như vậy, gọi là Tịnh hạnh.
– Tất cả chúng sinh bị thiêu đốt căn lành thì ta làm cho chúng phát sanh, mọi người thích làm phát sinh căn ác thì ta liền diệt nó. Sanh tử không cùng mà ta ở một bên ấy, gọi là Tịnh hạnh.
Sau khi nghe Phật dạy, Tỳ Xá Khư vui mừng hớn hở chưa từng có và thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Ưu Bà Di pháp môn có bao nhiêu hạnh?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Có mười pháp lành mà con phải tu học. Thế nào là mười?
1.- Gặp người có lỗi xan tham thì phải thích tu hạnh bố thí.
2.- Gặp người có lỗi năm giác quan thì phải thích giữ cấm giới.
3.- Gặp người có lỗi tại gia thì phải thích xuất gia.
4.- Gặp người có lỗi nghi ngờ thì phải thích tu trí huệ.
5.- Gặp người có lỗi giãi đãi thì phải thích siêng năng tinh tấn.
6.- Gặp người có lỗi sân giận thì phải thích tu hạnh nhẫn nhục.
7.- Gặp người có lỗi vọng ngữ thì phải thích trung tín.
8.- Gặp người có lỗi loạn tâm thì phải thích thiền định.
9.- Gặp người có lỗi tội khổ thì phải thích tu từ bi.
10.- Gặp người có lỗi khổ vui thì phải thích tu thực hành tâm xả.
Muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Bố thí được phước lớn
Xả bỏ thân yêu quý,
Lìa dục muốn xuất gia
Giữ giới hộ các căn
Tu học được trí tuệ
Tinh tấn đoạn biếng nhác.
Nhẫn nhục trừ sân giận
Nói thật không hư dối
Gặp tám pháp thế gian
Tâm an trụ bất động
Tâm luôn thích thiền định
Không bao giờ tán loạn
Từ bi lợi chúng sanh.
Tu xả ly khổ lạc
Nếu ai hành pháp này
Gọi là đại dõng mãnh.
Được qua bờ biển pháp
Mà chứng đạo Bồ đề.
Nghe Phật nói vậy, Tỳ Xá Khư rất vui mừng và thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu điều cần phải xả ly? Có bao nhiêu pháp cần phải gần gũi?
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Có 58 pháp cần phải tu học cũng cần xả ly. Đó là gì? Nghĩa là xa lìa tất cả các pháp bất tịnh, gần gũi pháp tịnh. Nên xa lìa pháp ác, gần gũi pháp thiện. Không đáng nuôi dưỡng thì không nuôi dưỡng. Chỗ không nên đến thì đừng đến gần gũi. Chỗ đáng đến thì nên đến. Việc không nên làm thì không bao giờ làm ẩu. Việc đáng làm thì tạo mọi cách để làm. Cầu được phi pháp thì không nên dùng. Nếu đúng như pháp thì nên thọ dụng, điều phục thân tâm thích ở nơi thanh vắng, từ bỏ lời lừa dối, thực hành chánh ngữ, tránh xa giãi đãi thích hành tinh tấn, thâu nhiếp các căn không cho phóng túng. Tâm khiêm nhường cung kính, bỏ cống cao ngã mạn, thường thực hành nhẫn nhục không sân giận, không tranh cãi kiện tụng, hòa hợp với đại chúng, xả bỏ không ở nơi che giấu nhưng sống ở nơi hiển lộ ra, lìa bỏ lời vô nghĩa luôn nói lời đúng nghĩa, tránh tà mạng mà sanh sống bằng chánh mạng, khéo lượng thân mình mà thọ nhận thức ăn uống, không thích cầu nhiều mà luôn biết đủ, không cứng cõi mà sống mềm mại như đất, tu tập lời hòa nhã, tránh xa lời cộc cằn, tránh xa chỗ không an lạc mà sống nơi an lạc, bỏ sự bất đồng ý kiến để cùng nhau sống chung, lìa chỗ không có học vấn để đi đến chỗ có học vấn, nhàm chán ba cõi không sống trong ba cõi, tránh tất cả tạo tác nên trụ vào vô sở tác, bỏ ngã kiến tu học pháp không.
Này Tỳ Xá Khư! Trên đây là năm mươi tám pháp đầu tiên con cần phải tu hành.
Vì muốn tuyên lại nghĩa trên nên Thế Tôn nói kệ:
Thuận tất cả sở học
Đầu cuối không còn dư
Nên viễn ly, gần gũi
Làm xong được an lạc
Đã học tất cả pháp
Sở nguyện đều đầy đủ
Bỏ thân mạng yêu quý
Mà chứng đạo Vô thượng
Nếu ai học như vậy
Đối với môn Tịnh hạnh
Không chỉ riêng Thanh Văn
Duyên Giác và Bồ tát
Ở trong vô lượng kiếp
Khen công đức người ấy.
Sau khi Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng hớn hở hỏi thêm:
– Bạch Thế Tôn! Lại pháp môn Tịnh hạnh có bao nhiêu loại gọi là Đại hạnh.
Phật dạy:
– Có ba đại hạnh, con phải tu hành. Ba đại hạnh đó là:
1.- Đại tín tâm.
2.- Đại tinh tấn.
3.- Đại trí tuệ.
Tỳ Xá Khư thưa:
– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là đại tín tâm?
Phật dạy:
– Đai tín tâm là tin Phật. Phật là bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Đây gọi là đại tín tâm.
Tỳ Xá Khư hỏi:
– Sao gọi là đại tinh tấn?
Phật dạy:
– Nếu trong lúc hành tinh tấn có thể xa lìa vứt bỏ tất cả pháp ác, cần phải giữ gìn tất cả pháp thiện. Với pháp thiện thì dõng mãnh không dừng nghĩ. Đây là đại tinh tấn.
Tỳ Xá Khư hỏi:
– Sao gọi là đại trí tuệ?
Phật dạy:
– Người nào có trí tuệ mắt thấy pháp sanh diệt mà là bậc thánh đã vượt qua diệt hết khổ vô thường. Đó gọi là đại trí tuệ.
Trên đây là ba đại hạnh.
Để tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Với đại tín tâm
Ghi sâu không lìa
Các hạnh đầy đủ
Để cầu Bồ đề
Với đại tinh tấn
Kiên cố không bỏ
Cần tu viên mãn
Để cầu Bồ đề
Với đại trí tuệ
Hiểu rõ rốt ráo
Đủ Ba La Mật
Để cầu Bồ đề
Pháp đã tăng trưởng
Biết đại danh văn
Tăng trưởng tận rồi
Tùy ý tu hành
Nhờ biết như vậy
Hiểu rõ nhơn pháp.
Sau khi Phật nói bài kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu lòng rất vui mừng, lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Pháp môn Ưu Bà Di tịnh hạnh muốn bước lên Phật địa thì có mấy hạnh?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Có bốn hạnh để bước lên Phật địa. Đó là:
1.- Tinh tấn không biếng nhác.
2.- Trí huệ không mê hoặc.
3.- Định tâm không thối lui.
4.- Hành từ bi làm lợi ích chúng sinh.
– Này Tỳ Xá Khư! Nhờ bốn pháp này mà bước lên Phật địa.
Để tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Siêng năng không biếng nhác
Trí tuệ không mê hoặc
Thiền định không thối lui
Hành từ lợi chúng sinh
Nhờ bốn pháp này đây
Mà chứng Nhất Thiết Trí.
Sau khi Phật nói kệ này. Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Có mấy pháp để an trụ đắc quán? Làm thế nào để pháp tập hợp lại không bị phân tán và pháp hợp có mấy pháp?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Có bốn pháp để an trụ đắc quán. Đó là Từ, Bi, Hỷ và Xả. Trong đó pháp tập hợp không bị phân tán là khi đắc trí Thanh Văn, trí Bích Chi Phật, trí Bát Nhã và trí Phật. Pháp hợp có ba mươi hai quán pháp đó là:
1.- Niệm Phật.
2.- Niệm Pháp.
3.- Niệm Tăng.
4.- Niệm Giới.
5.- Niệm Thí.
6.- Niệm Thiên.
7.- Niệm A Na.
8.- Niệm Bát Na.
9.- Quán diệt tưởng.
10.- Quán tưởng thân.
11.- Quán tưởng tịch tịnh.
12.- Quán tưởng địa.
13.- Quán tưởng thủy.
14.- Quán tưởng hỏa.
15.- Quán tưởng phong.
16.- Quán tưởng xanh.
17.- Quán tưởng vàng.
18.- Quán tưởng đỏ.
19.- Quán tưởng trắng.
20.- Quán tưởng hư không.
21.- Quán tưởng thức xư.
22.- Quán tưởng phình trướng.
23.- Quán tưởng hôi thối.
24.- Quán tưởng kĩ chảy.
25.- Quán tưởng hư nát.
26.- Quán tưởng…?
27.- Quán tưởng rơi rớt tứ tung.
28.- Quán tưởng xương thịt ngỗn ngang.
29.- Quán tưởng xương ướt.
30.- Quán tưởng xương màu trắng.
31.- Quán tưởng tất cả vô thường.
32.- Quán tưởng tất cả các pháp là vô ngã.
Đó là ba mươi hai pháp quán, với bốn vô thượng tâm gọi là an trụ đắc quán trí Thanh Văn, trí Bạch Chi Phật, trí Tát Bà Nhã và trí Phật là pháp tập hợp không bị phân tán.
Thế Tôn nói lại bằng bài kệ:
Nếu dùng hạ quán
Đắc trí Thanh Văn
Khéo tu trung quán
Đắc trí Duyên Giác
Thượng quán viên mãn
Đắc trí Bồ đề.
Phật nói kệ này xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng và lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đối với pháp môn bất tịnh nên trụ tâm như thế nào để mau lìa phiền não và thông đạt lục môn?
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Có ba mươi hai pháp môn mà đối với bất tịnh thì tâm được lạc trú, mau lìa phiền não thông đạt lục môn, ba mươi hai pháp môn đó là gì? – Nghĩa là trong thân có: lông, tóc, móng, ghèn, răng, da, thịt, gân, xương, thận, mỡ lá, mở miếng, tủy, não, tim, lá lách, thận, gan, mật, đại trường, tiểu trường, lá lách, phổi, dạ dày, bụng, máu, đàm, mồ hôi, nước giải, nước mắt, nước mũi và phân rất là bất tịnh.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là ba mươi hai điều quán bất tịnh làm cho tâm thích trụ vào pháp môn tịnh hạnh, mau xả bỏ phiền não, được thông đạt lục môn.
Để tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Giống như dòng sông
Đều vào biển cả
Trong pháp môn này
Dòng quán cũng vậy
Khéo quán thô tế
Tịnh và bất tịnh
Pháp vô thượng trí
Phật đều thông đạt.
Nghe Phật nói bài kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng và lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đối với pháp môn tịnh hạnh, Bồ tát có bao nhiêu sự ràng buộc trụ vào thế gian mà không được giải thoát?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Pháp môn tịnh hạnh trước các Bồ tát có bảy dây ràng buộc trụ vào thế gian. Bảy pháp đó là:
1.- Nếu ta được độ mà thế gian chưa độ thì ta sẽ độ họ.
2.- Nếu ta đã giải thoát mà thế gian chưa giải thoát thì ta sẽ giải thoát cho họ.
3.- Nếu ta đã giác ngộ mà thế gian chưa giác ngộ thì ta sẽ giác ngộ cho họ.
4.- Nếu ta đã điều phục mà thế gian chưa điều phục thì ta sẽ điều phục họ.
5. – Nếu ta đã an lạc mà thế gian chưa an lạc thì ta sẽ làm cho họ an lạc.
6. – Nếu ta thành đạo mà thế gian chưa thành đạo thì ta sẽ dẫn dắt cho họ.
7. – Nếu ta đã đắc Niết Bàn mà thế gian chưa đắc Niết Bàn thì ta sẽ tạo điều kiện để họ nhập Niết Bàn.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là bảy sự ràng buộc mà Bồ tát phải trụ thế gian không được giải thoát.
Để tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Độ rồi, độ chúng sanh
Thoát rồi, thoát chúng sanh
Giác rồi, giác chúng sanh
Điều rồi, điều chúng sanh
An rồi, an chúng sanh
Đạt rồi, dạy chúng sanh
Ta đã đắc Niết bàn
Khiến chúng sinh được đắc
Ba cõi như nhà lửa
Tham dục như lưới bùn
Tất cả đều diệt sạch
Để chứng đạo Bồ đề.
Thế Tôn nói kệ này xong, Tỳ Xá Khư rất vui mừng lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Với pháp môn Tịnh hạnh thì phải tu bao nhiêu hạnh lành để viên mãn tất cả pháp?
Phật dạy:
– Tu ba hạnh lành để tất cả pháp được viên mãn. Ba pháp lành là:
1.- Hạnh lành thuộc thân.
2.- Hạnh lành thuộc khẩu.
3.- Hạnh lành thuộc ý.
Ba hạnh lành này viên mãn thì tất cả pháp được viên mãn, nghĩa là bố thí được viên mãn, trì giới được viên mãn, xuất gia được viên mãn, được trí tuệ viên mãn, được tinh tấn viên mãn, được nhẫn nhục viên mãn, được chân thật viên mãn, được thệ nguyện viên mãn, được Từ, Bi, Hỷ, Xả viên mãn, được bốn tư viên mãn, được bốn định viên mãn, được bốn thần túc viên mãn, được năm căn viên mãn, được năm lực viên mãn, được thất Bồ đề viên mãn, được Bát chánh đạo viên mãn, được chín trí viên mãn, được mười trí lực viên mãn, được trí đạo Tu đà hoàn viên mãn, được trí quả Tu đà hoàn viên mãn, được trí đạo Tư đà hàm viên mãn, được trí quả Tư đà hàm viên mãn, được trí đạo A na hàm viên mãn, được trí quả A na hàm viên mãn, được trí đạo A la hán viên mãn, được trí quả A la hán viên mãn, được bốn trí viên mãn đó là pháp trí, vị tri trí, danh tự trí và tha tâm trí viên mãn, được tận trí viên mãn, được vô sanh trí viên mãn, được song thần lực viên mãn, được đại bi tam muội trí viên mãn, được nhất thiết trí viên mãn, được Vô ngại trí viên mãn.
Này Tỳ Xá Khư! Nhờ ba hạnh lành viên mãn này mà làm cho tất cả các pháp được viên mãn.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:
Tu ba hạnh lành rồi
Viên mãn tất cả pháp
Các pháp viên mãn rồi
Thì chứng đạo Bồ đề.
Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Trong pháp môn Tịnh hạnh có bao nhiêu niệm cho bậc đại nhân?
Phật dạy:
– Có tám niệm cho bậc đại nhân. Tám niệm đó là:
1.- Ít muốn chứ chẳng phải không ít muốn.
2.- Biết đủ chẳng phải không biết đủ.
3.- Tịch tịnh chẳng phải không tịch tịnh.
4.- Viễn ly chẳng phải không viễn ly.
5.- Tinh tấn chẳng phải không tinh tấn.
6.- Thiền định chẳng phải không thiền định.
7.- Trí tuệ chẳng phải không trí tuệ.
8.- Vô ngại chẳng phải không vô ngại.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là tám niệm của bậc đại nhân.
Để tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:
Khéo định các niệm
Niệm phi thiện pháp
Nếu bỏ niệm này
Để rồi chán xa
Khéo định các niệm
Niệm phi thiện pháp
Quán rõ pháp tướng
Bước tới vô thượng.
*
PHẨM THỨ HAI: TU HỌC.
Đức Phật nói kệ xong, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Đối với pháp môn Tịnh hạnh, Bồ tát sơ học phải tu học như thế nào để đắc Bồ đề?
Phật dạy:
– Bồ tát sơ học có năm mươi điều tu học để đắc Bồ đề, năm mươi điều đó là gì?
Nghĩa là: Thể nhập sâu vào pháp tánh, không xả bỏ, không giảm, không đọa, không thối lui, tu học tâm xả, tu học đa văn, tu học oai nghi, tu học chiến thắng quân ma, tu học ánh sáng, tu học tướng tốt của Phật , tu học giới cấm, tu học tam muội, tu học Bát nhã, tu học đại Bát nhã, tu học hạnh lành, tu học đại hạnh lành, tu học sắc tướng, tu học không hai lời, tu học như ý túc, tu học thượng như ý túc, tu học đại như ý túc, tu học diệu như ý túc, tu học dĩ như ý hành, tu học đại ý hành, tu học những điều quy định, tu học tự tại, tu học tướng tâm Phật, tu học tướng tâm viên mãn, tu học thần thông, tu học đại thần thông, tu học chân thật, tu học làm vua thống lãnh bằng chánh pháp để được lâu dài, tu học đến chỗ cùng cực, tu học cõi Phật, tu học thọ mạng của Phật, tu học cây Bồ đề, tu học hoa sen, tu học pháp Phật giảng, tu học đại pháp luân, tu học chuyển pháp luân, tu học thiện tri thức, tu học lìa bỏ chúng sinh, tu học tay viên mãn, tu học áo bằng cây kiếp ba, tu học tòa sư tử, tu học nằm nghiêng hông bên phải, tu học vị thức ăn của Phật, tu học trú xứ, tu học tướng thủy của Như Lai.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là năm mươi học pháp mà Bồ tát sơ học cần phải tu học để thể nhập sâu vào không bỏ, không giảm, không đọa, không thối lui, con nên biết điều ấy.
Thế Tôn liền nói kệ:
Đầy đủ tất cả hành
Để cầu pháp tịch tịnh
Ánh sáng chiếu cõi Phật
Vì thương xót chúng sinh
Thoát khỏi nạn ba cõi
Tất cả pháp không cùng
Như Lai đã thấu đạt.
Sau khi Thế Tôn đã nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Như Lai có bao nhiêu ánh sáng, sơ học Bồ tát phải tu hành như thế nào?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Như Lai có sáu loại ánh sáng. Sáu loại đó là:
1.- Ánh sáng xanh.
2.- Ánh sáng vàng.
3.- Ánh sáng đỏ.
4.- Ánh sáng trắng.
5.- Ánh sáng hồng.
6.- Màu ánh sáng chiếu sáng.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là sáu loại ánh sáng của Như Lai. Sơ học Bồ tát phải tu hành như thế nào để được ánh sáng này.
Này Tỳ Xá Khư! Vì Bồ tát nhờ ánh sáng màu xanh nên luôn dùng hoa xanh, hương xoa, hương bột xanh, vải xanh, châu báu xanh, để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì thường quán màu xanh. Làm vậy xong, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu xanh.
Bồ tát tu học ánh sáng màu vàng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa vàng, hương xoa, hương bột màu vàng, vải vàng, châu báu vàng, để cúng dường. Nếu vào thiền định thì thường quán màu vàng. Sau khi làm vậy nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu vàng.
Bồ tát tu học ánh sáng đỏ như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa đỏ, hương xoa, hương bột màu đỏ, vải đỏ, châu báu đỏ để cúng dường. Nếu khi nhập thiền định thì luôn quán màu đỏ. Làm như vậy rồi nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu đỏ.
Bồ tát tu học ánh sáng màu trắng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa trắng, hương xoa, hương bột màu trắng, vải trắng, châu báu trắng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì thường quán màu trắng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu trắng.
Bồ tát tu học ánh sáng màu hồng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa màu hồng, hương xoa, hương bột hồng, vải hồng, châu báu hồng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì luôn quán màu hồng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng màu hồng.
Bồ tát tu học màu ánh sáng chiếu sáng như thế nào? Nghĩa là thường lấy hoa màu ánh sáng, hương xoa ánh sáng, hương bột ánh sáng, vải ánh sáng, và châu báu ánh sáng để cúng dường. Nếu nhập thiền định thì luôn quán ánh sáng. Làm vậy rồi, nguyện đời tương lai được có ánh sáng rực rỡ.
Này Tỳ Xá Khư! Đó gọi là Bồ tát tu học sáu thứ ánh sáng của Như Lai.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:
Ánh sáng Phật có sáu
Ánh sáng màu xanh, vàng
Màu đỏ, trắng và hồng
Tướng sáng chiếu rất sáng
Nếu người có trí huệ
Luôn siêng năng tu hành
Ai thích ánh sáng đẹp
Nên học hạnh rộng lớn
Cúng dường hoa, hương, đèn
Dâng lên Đấng Vô thượng
Tu học sáu món hạnh
Nguyện chi cũng thành tựu.
Sau khi Phật nói kệ. Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng, lại hỏi Phật:
– Bạch Thế Tôn! Tướng đại nhân có bao nhiêu loại và sơ học Bồ tát phải tu học như thế nào?
Phật dạy:
– Tướng đại nhân có ba mươi hai. Bồ tát tu học thì có hai mươi hạnh hợp lại với tướng đại nhân thành hai đạo và không có thừa.
Hai đạo nghĩa là: Nếu người tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương cai trị (làm vua) bốn thiên hạ, chiến thắng các nước và đầy đủ bảy báu.
1.- Kim luân báu.
2.- Voi trắng báu.
3.- Ngựa trắng báu.
4.- Ma ni báu.
5.- Ngọc nữ báu.
6.- Tạng thần báu.
7.- Chủ binh báu.
Lại có ngàn người con dõng mãnh oai hùng có thể chiến thắng quân địch, tận cùng bờ biển lớn đều dùng chánh pháp để chiến thắng chứ không dùng binh trượng.
Còn như người xuất gia thì được thành Phật là bậc tối tôn, đệ nhất trong cõi trời và người, có đầy đủ 32 tướng của bậc đại nhân.
Ba mươi hai tướng đó là gì? Đó là thân màu vàng ròng, ánh sáng tròn chiếu một tầm giống dung kim, thân như Phạm thiên cao thẳng, sau cổ có ánh sáng như mặt trời, đỉnh có nhục kế, tóc xanh biếc, thân Phật tròn đầy như cây Ni câu luật, giữa chặng mày có lông như Đâu la miên, mí mắt trên dưới khép kín nhau, tròng con mắt màu xanh biếc, lưỡi che cả mặt, tiếng như Phạm thiên có tám loại như tiếng Ca lăng tần già, miệng có bốn mươi cái răng, răng trắng đều khít, má như sư tử, da dẻ mịn màng không bị trần cấu, mỗi lỗ chân lông có một sợi mềm mại màu xanh biếc và đều xoay về bên phải, ngực như sư tử, ngực có chữ vạn, bảy chỗ đầy đặn, kẽ tay và kẽ chân có màng mỏng dính lại, ngón tay thon dài, hai tay nắm khít nhau, đứng tay dài quá đầu gối, tướng âm mã tàng, gót chân đầy đặn có bánh xe một ngàn căm. Đó là ba mươi hai tướng thân của bậc đại nhân.
Này Tỳ Xá Khư! Hai mươi điều để tu được tướng bậc đại nhân là gì?
Về thuở xa xưa, khi Như Lai còn là người phàm, đối với pháp thiện ta thành tựu kiên cố không phải dễ thọ trì. Thân hành thiện, khẩu hành thiện, tâm niệm hành thiện, đem tất cả bố thí cho chúng sanh, giữ kỹ giới cấm, luôn an trú trong thanh tịnh, cúng dường cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, bậc kỳ cựu đức lớn, lục thân quyến thuộc. Đối với pháp thiện ta đều thực hành đủ. Ta tu tập trọn vẹn và tích trữ nghiệp lành rất nhiều, sanh tử vô lượng lần cho đến còn một đời nữa thôi (Nhất sanh bổ xứ) thì tự tại như ý, luôn hưởng khoái lạc ở cõi trời như: Thọ mạng, sắc lực, ngôi vua, danh văn, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sau khi thọ khoái lạc cõi trời, sanh xuống nhân gian được tướng đại nhân, chân đạp đất, khi để chân xuống đất thì khít với mặt đất, dở chân lên còn lại dấu bánh xe, mu bàn chân đầy đặn giống như mu rùa. Nhờ tướng này, nếu là tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương, nếu xuất gia thì được chứng Vô thượng Bồ đề không còn sanh tử, đắc Niết bàn thường lạc. Oan gia trong ngoài, phạm ma, Sa môn, Bà la môn không thể làm hại được. Đó gọi là Phật.
Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Các pháp đều nhu hòa
Luôn giữ trai giới cấm
Bố thí tâm bình đẳng
Quán sâu pháp vô thường
Tất cả nghiệp đã tạo
Tâm thọ trì kiên cố
Nhờ có hành nghiệp này
Thường sanh lên cõi trời
Sau sanh vào loài người
Hưởng phước báu thế gian
Dưới chân được bằng phẳng
Đạp xuống đều khít đất
Đất in hình bánh xe
Tại gia hay xuất gia
Đều có tướng như vậy
Dù Phạm Thiên, ma vương.
Sa môn, Bà la môn
Tất cả các oan gia
Đều phải bị hàng phục
Xuất gia hành học đạo
Đoạn hẳn gốc sanh tử
Các hành đã đầy đủ
Chứng đắc bậc Vô thượng.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng bánh xe ngàn căm? Thuở xa xưa khi Như Lai còn là người phàm luôn gánh vác cho chúng sinh, dẹp trừ sự sợ hãi cho họ, bố thí niềm vui vô úy. Nếu được ai bố thí ta đều đem cho chúng sanh chứa nhóm nghiệp lành cao lớn không thể tính kể. Sau khi qua đời sanh lên cõi trời hưởng diệu lạc. Lần lượt như vậy qua vô lượng vô biên lần, sau đó sanh làm người, được tướng đại nhân, dưới bàn chân có bánh xe ngàn căm. Tướng bánh xe tròn đầy giống như chơn kim luân. Được tướng này rồi nếu là tại gia thì Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, có đầy đủ bảy báu, luôn có Sa môn, Bà la môn, cư sĩ, đại thần, trưởng giả và bốn binh vây quanh. Nếu xuất gia thì được thành Phật, có đại chúng vây quanh được Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la già… cung kính tôn trọng.
Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Ta trong vô lượng kiếp
Giúp cho chúng sanh vui
Giúp họ không lo sợ
Bảo hộ không dừng nghĩ
Nhờ nghiệp công đức này
Thường sanh lên cõi trời
Đến nhất sanh bổ xứ
Dưới chân xe ngàn căm
Sáng rực như kim luân
Nhờ tạo ngàn hành nghiệp
Được chứng nhơn trung tôn
Có đại chúng vây quanh
Chiến thắng các ma oán
Nếu là dòng Sát lợi
Thì làm vua Chuyển luân
Nếu xuất gia học đạo
Thì thành Vô thượng tôn
Trời người A tu la
Ma hầu la vân vân
Loài bốn chân phi nhân
Đều cung kính cúng dường
Tiếng đồn khắp mười phương
Làm ruộng phước cho người.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có ba tướng đại nhân? Về thuở xa xưa, khi Như Lai còn là người phàm, không giết hại chúng sinh, không đánh đập, không bao giờ cất chứa những khí cụ để đánh đập luôn sanh lòng tàm quý, tu tập từ bi, nghiệp lành chứa cao xa không thể nghĩ bàn trải qua sanh tử vô lượng kiếp cho đến nhất sanh bổ xứ vào làm người thì được ba tướng đại nhơn:
1.- Gót chân đầy đặn.
2.- Ngón tay thon dài.
3.- Thân tròn và thẳng như Phạm thiên.
Nhờ tướng này mà được thọ mạng lâu dài, hiện tướng sống lâu, giữ gìn mạng sống không sợ chết yểu. Nếu xuất gia thì được thành Phật, thọ mạng lâu dài. Tất cả thế gian, trời, người, Sa môn, Bà la môn, không ai có thể phá hoại tuổi thọ của Như Lai được.
Bấy giờ Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Ai cũng sợ chết sợ đao trượng
Lấy mình ví dụ chớ đánh đập
Cho nên xa lìa sao suy nghĩ
Nhờ hạnh lành này sanh cõi trời
Hưởng quả báo trời vui vô lượng
Qua đời làm người được ba tướng
Tay, chân dài, thân tròn đầy
Đi trên đất vững như rùa vàng
Ngón tay thon dài như búp măng
Thân thể sáng rỡ như Tu di
Ba tướng này thành Thiên nhân tôn
Biểu hiện Như lai sống dài lâu.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có bảy chỗ viên mãn? Về thuở xưa, khi Như Lai còn là người phàm luôn luôn làm thí chủ, đem những thứ thức uống ăn, trái ngọt, hương thơm, nước uống, siêng tu bố thí, chứa nhóm nghiệp này cao xa không thể nghĩ bàn cho đến đạt Nhất sanh bổ xứ, thường hưởng khoái lạc cõi trời, sau sanh làm người được tướng bảy chỗ viên mãn. Môi, cằm, tay, chân đều đầy đặn. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, đều có đầy đủ món ăn thượng hạng trong thế gian. Còn nếu xuất gia thì được thành Phật, thọ thức ăn, uống tối thượng bằng vị ngon nhất trong trời, người.
Bấy giờ, Thế Tôn nói lại nằng kệ:
Ăn uống ngửi nếm món vô thượng
Thí chủ luôn tu hành như vậy
Vì hạnh lành này không thể lường
Hưởng khoái lạc như vườn hoan hỷ
Thọ nghiệp báo sanh xuống làm người
Được bảy tướng đại nhơn bảy chỗ đầy
Tay chân mềm mại không ai bằng
Nhờ tướng này được món thượng hạng
Tại gia hay xuất gia đều như vậy
Như Lai đoạn hẳn lậu ba cõi
Cho nên đắc thành Vô thượng tôn.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để tay chân mềm mại có tướng màng lưới mỏng dính lại với nhau? Vào thuở xa xưa khi Như Lai còn là người phàm, luôn dùng Tứ nhiếp pháp để giáo hóa chúng sanh, đó là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Có ai cầu xin điều gì cũng không làm trái ý họ, tích chứa nghiệp này cao xa cho đến Nhất sanh bổ xứ, luôn hưởng khoái lạc của cõi trời, sau sanh xuống làm người thì được hai tướng đại nhân:
1- Tay chân mềm mại.
2- Tay chân có màng lưới mỏng dính lại nhau.
Nhờ tướng này nếu tại gia thì được làm Chuyển luân thánh vương, cai trị bốn thiên hạ, còn nếu xuất gia thì thành Pháp vương, giáo hóa vô lượng chúng sanh như: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, phi nhơn.v.v…
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Tu bố thí, ái ngữ
Lợi hành cùng đồng sự
Luôn dùng bốn nhiếp pháp
Giáo hóa không bỏ ai
Do nhờ hành nghiệp này
Thường sanh lên cõi trời
Rồi sanh xuống làm người
Được hai tướng đại nhơn
Tay chân đều mềm mại
Và màng lưới dính nhau
Vi diệu mỏng nhỏ đẹp
Nhờ có hai tướng này
Tại gia làm Chuyển luân
Lấy pháp lành giáo hóa
Ai nấy đều thuận theo
Giữ gìn không vi phạm
Vui mừng khen Thánh vương
Ban ân không ai bằng
Lòng từ thấm bốn phương
Nếu lìa bỏ năm dục
Xuất gia được thành Phật
Vì chúng sanh giảng pháp
Người nghe đều lãnh thọ.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng cổ chân Như Lai thẳng tròn và lông trên thân xoay về phía phải?
Phật dạy:
– Này Tỳ Xá Khư! Về thuở xưa, khi Như Lai còn là người phàm, luôn dùng pháp lành để giáo hóa chúng sanh, thường thực hành pháp thí không bao giờ nói lời vô nghĩa. Nhờ nghiệp này mà được tăng trưởng lớn mạnh cho đến đạt Nhất sanh bổ xứ. Sau sanh làm người được hai tướng đại nhơn:
1- Chân cao thẳng không thấy mắc cá.
2- Lông xoay tròn phía phải.
Nhờ tướng này, nếu tại gia thì được làm Chuyển Luân Thánh Vương, bậc tôn quí cao nhất trong loài người, vui vẻ khoái lạc trong năm dục, có bảy báu, có một ngàn người con theo hầu bên cạnh. Nếu bỏ nhà vào núi học đạo thì được thành Phật, là bậc tôn quí tối thượng nhất trong trời người không có ai sánh bằng, tất cả chúng sanh đều cung kính tôn trọng:
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Luôn dùng pháp lành
Lợi ích chúng sanh
Luôn dùng lời hay
Giáo hóa chúng sanh
Luôn dùng lực tốt
Giữ gìn chúng sanh
Hoan hỉ khoái lạc
Luôn ban pháp thí
Không còn ganh ghét
Nhờ có nghiệp này
Tích chứa vô lượng
Sanh làm loài người
Được tướng đại nhơn
Một: chân tròn thẳng
Không có mắt cá.
Hai: Lông xoay tròn
Đều quay bên phải
Nếu là tại gia
Làm Chuyển Luân Vương
Làm vua thiên hạ
Nếu là xuất gia
Được chứng thành Phật
Bậc tôn quí nhất
Trong cõi trời người.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để chúng sanh tướng bắp chân như nai? Về vô lượng kiếp xa xưa khi Như Lai còn là người phàm, thường dạy bảo người về tất cả những sách vở, oai nghi, nghề nghiệp, thuốc men, chú thuật, dạy giữ cấm giới dạy cho họ đều đầy đủ, ta luôn suy nghĩ “làm thế nào để mọi người hiểu hoàn hảo về ý nghĩa mà mau thông đạt, không có tâm mệt mỏi nhàm chán”. Nhờ cất chứa nghiệp này rộng lớn cho đến Nhất sanh bổ xứ hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người được tướng đại nhơn có bắp chân giống như nai. Nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn thiên hạ, tất cả vật cần dùng để cúng dường hễ nghĩ đến thì có ngay. Nếu xuất gia thì được thành Phật, hễ cần những vật cúng dường trong cõi trời hay cõi người thì cũng đều có ngay.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Các sách đều chỉ dạy
Công xảo và chú thuật
Phương thuốc để trị bệnh
Luôn tự suy nghĩ rằng
Sao để họ chóng thành
Học tập không mệt mỏi
Lần lượt dạy người khác
Do nhờ hành nghiệp này
Chứa nhóm không thể lường
Đến Nhất sanh bổ xứ
Thành tướng tốt đại nhơn
Có bắp chân như nai
Thon đẹp và đầy đặn
Da mỏng lại mềm mại
Lông đứng xoay bên phải
Nhờ tướng đại nhơn này
Ký thành nhơn trung tôn
Tại gia làm Luân vương
Sở cầu mau thành tựu
Nếu xuất gia thành Phật
Tất cả vật cúng dường
Nghĩ ra có đầy đủ.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng da bóng láng trơn không bị dính bụi trần? Vào thuở xưa khi Phật còn là người phàm. Nếu có Sa môn, Ba la mật, Sát lợi, cư sĩ đến chỗ ta hỏi rằng: “Bạch Đại đức! Những gì là hạnh thiện và những gì là bất thiện? Những gì là nên gần gũi và những gì nên tránh xa? Những hành nghiệp gì được hưởng an lạc và hành nghiệp gì phải thọ khổ não?” Thuở ấy ta phân biệt cho họ rằng:
Pháp này nên làm, pháp này không nên làm.
Pháp này nên hành, pháp này không nên hành.
Pháp này được khoái lạc, pháp này không khoái lạc.
Nhờ tích chứa vô lượng nghiệp này cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ mà thọ hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người được tướng đại nhân có làn da bóng mịn, không bị dính bụi nước. Ví như hoa sen tuy ở trong nước mà không bị nước làm ô nhiễm. Thân tướng của Như Lai cũng như vậy. Nhờ tướng này ở tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, thông minh trí tuệ, còn nếu ở thế gian làm Sa môn, Ba la mật, Sát lợi, cư sĩ thì không ai sánh bằng, còn nếu xuất gia học đạo thì sẽ thành Phật, có trí tuệ rộng lớn, trí tuệ lanh lợi tối thượng hơn hết, dù chư thiên, trời, người, Phạm, ma, Sa môn, Bà la môn có trí tuệ cũng không thể sánh bằng.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Phật ở vô lượng đời
Làm người phàm tu hành
Nếu có ai đến hỏi
Khuyến khích dạy mau thành
Thường sống đời xuất gia
Khéo phân biệt nghĩa lý
Do nhờ hành nghiệp này
Được sanh lên cõi trời
Có trí tuệ rất lớn
Một khi sanh làm người
Được da bóng mịn màng
Nhờ có tướng tốt này
Thành tựu đại trí tuệ
Nếu làm dòng Sát lợi
Tại gia làm Chuyển Luân
Nếu không ở tại gia
Xuất gia được thành Phật
Đại nhất thiết chủng trí
Trên trời và cõi người
Không ai sánh bằng ngài.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để thân có màu vàng rực, ánh sáng chiếu rực rỡ giống như núi vàng? Trong vô lượng kiếp xa xưa, Như Lai thường thích tu tập điều thiện, không sân, không giận. Nếu có chúng sanh nào mắng đập thì Như Lai nhẫn nhục không sân giận, luôn luôn thấy xấu hổ và luôn có lòng đại bi. Vì đó đều là quả báo kiếp trước ở quá khứ nên thường tự trách mình, hay thực hành bố thí, đem những loại y phục mềm mại như: lông cù, ma kiếp bối, kiêu xa da để bố thí cho người. Như thế, cứ trải qua vô lượng đời tích trữ công đức sâu dày như vậy nên thường hưởng sự vui sướng ở cõi trời, sau sanh làm người thì được tướng màu vàng rực của bậc đại nhân, màu vàng là màu tối thượng nhất. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn thiên hạ. Ở trong bốn thiên hạ nếu có những loại y phục mềm mại như: Cù lâu, tọa cụ, sô ma, kiếp bối, kiêu xa da, khâm bà la và tất cả vật mềm mại nào trong thế gian thì vua đều có tất cả. Nếu xuất gia thì được thành Phật. Hễ trong nhân dân có các y phục mềm mỏng như: ngọa cụ, kiếp bối, sô ma, khâm bà la thì Như Lai cũng đều có cả những vậy như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Tâm không có sân giận
Luôn xấu hổ tự trách
Bố thí áo mềm đẹp
Cúng vải, vật vô giá
Luôn bố thí chúng sanh
Cho rồi lòng vui mừng
Sung sướng không luyến tiếc
Như người gặp lửa cháy
Cứu vật ra rất vui
Nghiệp tốt không thể lường
Sanh thêm hưởng khoái lạc
Sau đó sanh làm người
Được thân tướng đại nhân
Thân thể màu vàng rực
Giống như núi chúa vàng
Tại gia làm Chuyển Luân
Cai trị bốn thiên hạ
Được thân thể mịn màng
Một áo giá ngàn vạn
Nếu học đạo thành Phật
Độ trời, người, rồng, thần
Y phục cũng như vậy.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có tướng âm mã tàng? Trong vô lượng kiếp trong kiếp quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm. Như Lai thích tu hành vui vẻ và hòa hợp với mọi người, như cùng với cha mẹ, nam nữ, anh em, chị em, dòng họ, bạn bè, quyến thuộc, thiện hữu tri thức cho đến loài súc sanh. Nếu có người chia ly thì mong họ được hòa hợp, làm theo sở thích của họ để họ hòa hợp hoan hỷ. Nhờ nghiệp tích trữ nhiều phước đức này mà thường sanh lên cõi trời, hưởng phước lạc cõi trời. Sau sanh vào nhân gian, cứ lần lượt vô lượng, vô biên kiếp như vậy cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ được tướng Âm mã tàng. Nhờ tướng này được làm Chuyển Luân Vương có một ngàn người con, cai trị bốn thiên hạ. Ngàn con dõng mãnh có thể đánh bại kẻ địch. Nếu xuất gia thì được thành Phật. Từ pháp sanh con hơn ngàn vạn, dõng mãnh nhiều sức mạnh có thể đẩy lùi ma oán.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Trải qua vô lượng kiếp
Khi ta làm người phàm
Luôn hòa hợp với chúng
Để được sống an lạc
Như cha mẹ, nam nữ
Anh em và chị em
Thân thích các quyến thuộc
Và thiện hữu tri thức
Ai khổ vì xa lìa
Khéo hòa để an vui
Nhờ tạo hành nghiệp này
Thường sanh trong trời người
Hưởng khoái lạc cõi trời
Sau sanh vào loài người
Được tướng âm mã tàng
Dõng mãnh không ai bằng
Đánh bại kẻ địch thù
Luôn cúng dường cha mẹ
Để được vui hoan hỷ
Nếu xuất gia thành Phật
Con pháp có ngàn vạn
Giới, định sức thần thông
Đánh dẹp bọn ma oán.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có thân tròn đầy giống như cây Ni Câu Luật, thân đứng thẳng như Phạm thiên, tay đụng đầu gối? Xưa kia, khi Như Lai còn là người phàm, luôn luôn tu lòng từ rộng lớn, quán sát rất rõ về những pháp bất đồng thô tế, thiện ác, đây là trí tuệ, kia là ngu si, đây là tinh tấn đây là biếng nhác, đây là sân giận, kia là nhẫn nhục, phân biệt rõ ràng như vậy rồi theo từng loài mà ta giáo hóa hướng dẫn họ. Nhờ nghiệp này mà đã vô lượng lần sanh vào cõi người, cõi trời cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ. Khi sanh vào loài người thì được hai tướng đại nhân:
1- Thân Phạm thiên tròn đầy giống như cây Ni Câu Luật.
2- Thân cao thẳng tay đụng đầu gối.
Nhờ tướng này nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ của cải giàu có vô lượng như vàng, bac, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu… ngũ cốc dồi dào tươi tốt, kho tàng đầy ắp. Nếu như xuất gia thì được thành Phật, đầy đủ thất tài: Tín, giới, thí, văn, huệ, tàm và quí. Như Lai cũng có vô lượng vô biên những vật như vậy.
Khi ấy, Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Ta trong đời quá khứ
Hay cân nhắc chúng sanh
Chọn lựa phân biệt rồi
Quán sát đều bình đẳng
Phân biệt các chúng sanh
Tùy loài mà ban bố
Do nhờ hành nghiệp này
Thường sanh vào cõi trời
Sau sanh vào loài người
Chân ngay thẳng không cong
Hai tay đụng đầu gối
Giống như cây Ni Câu
Từ đất mọc tròn đều
Thân Phật cũng như vậy
Vô lượng kiếp đến nay
Sanh từ đất hành nghiệp
Hiện hai tướng giàu có
Khiến thiên hạ thái bình
Tại gia thọ năm dục
Được làm Chuyển Luân Vương
Xuất gia bỏ năm dục
Được thành đấng Vô thượng.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để được ba tướng của bậc đại nhân?
1- Ngực như sư tử.
2- Sau ót có tỏa ánh sáng.
3- Vai cổ tròn trịa.
Thuở quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm luôn luôn làm lợi ích cho chúng sanh để họ có cuộc sống an lạc, có lòng tin, giữ giới, đa văn, trí tuệ, bố thí, tài của, lúa mạch, ruộng vườn, nô tỳ, trâu dê, voi ngựa, xe cộ, vợ con, nam nữ, thị tùng, quyến thuộc, thân thích làm cho được phát triển. Nhờ nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời, sau sanh làm người được ba tướng đại nhân:
1- Ngực như Sư tử.
2- Sau ót phóng ánh sáng.
3- Vai cổ tròn trịa.
Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, pháp thường tăng trưởng, tài vật, ruộng nhà, ngũ cốc dồi dào sung túc, vợ con, quyến thuộc, nô tỳ, thị tùng, thiện hữu tri thức, tất cả đều đầy đủ không có giảm bớt. Nếu xuất gia thì được thành Phật, đầy đủ thất tài và bốn bộ quyến thuộc cũng không giảm bớt.
Bấy giờ, Thế Tôn nói lại bằng kệ:
Tín tâm trì giới
Đa văn trí tuệ
Nô tỳ, voi ngựa
Trâu, dê, ruộng nhà
Vợ con, quyến thuộc
Thiện hữu tri thức
Luôn nghĩ điều thiện
Làm sao khiến họ
Sắc, lực, an lạc
Tăng trưởng rất lớn
Do nhờ nghiệp này
Thường sanh lên trời
Sau sanh làm người
Được tướng Đại nhân
Ngực như Sư tử
Ót phóng ánh sáng
Vai cổ tròn trịa
Thành tựu ba tướng
Nếu là tại gia
Quyến thuộc vợ con
Nô tỳ voi ngựa
Đều được hưng thịnh
Nếu là xuất gia
Được thành quả Phật
Quyến thuộc tăng trưởng
Pháp luôn trường tồn.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để ngực có chữ Vạn. Về thuở xa xưa, khi là người phàm Như Lai không bao giờ làm não loạn chúng sanh, không đánh đập cũng không nhốt trói. Nhờ tích chứa hành nghiệp lành này rộng lớn nên thường sanh lên cõi trời. Sau sanh làm người, được tướng đại nhân, ngực có chữ Vạn. Nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, không có các tật bệnh, bốn mùa điều hòa thích hợp, không nóng, không lạnh. Nếu xuất gia thì được thành Phật, cũng không có các bệnh hoạn, luôn được điều hòa, không lạnh không nóng, thân thể nhẹ nhàng, nhập vào tam muội.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Không nhốt, trói chúng sanh
Cũng không đánh đập họ
Không dùng những đao, gậy
Làm não hại chúng sanh
Do nhờ hành nghiệp này
Thường sanh trong trời người
Hưởng khoái lạc cõi trời
Đến Nhất Sanh Bổ Xứ
Sau sanh vào nhân gian
Được tướng của Đại nhân
Giữa ngực có chữ Vạn
Do nhờ tướng tốt này
Không có các bệnh hoạn
Tại gia hay xuất gia
Thường thọ hưởng khoái lạc
Nếu là dòng Sát lợi
Làm vua bốn thiên hạ
Nếu xuất gia học đạo
Đắc thành đấng Vô thượng
Luôn dược vui thượng diệu.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào mà mắt có màu biếc giống như hoa sen xanh. Trong vô lượng kiếp về quá khứ, khi Phật còn người phàm, luôn tu tập hạnh lành, không đem tâm ác độc mà phùng man trợn mắt nhìn chúng sanh không đem tâm dục mà ngó liếc, luôn đem tâm xả lìa bỏ ái si mà nhìn thẳng chúng sanh. Nhờ nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời hưởng khoái lạc trời, sau sanh làm người được hai tướng đại nhân:
1- Mắt màu xanh biếc, hai mí trên dưới đều nháy một lượt.
2- Tròng mắt khi nháy hiện ra ánh sáng mau xanh biếc.
Nhờ tướng này, nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ làm cho tất cả nhân dân Sa môn, Bà la môn, Sát lợi, cư sĩ, vợ con quyến thuộc, quần thần, người hầu cận đều ngắm nhìn vua không biết chán. Nếu xuất gia thì được thành Phật, làm cho các chúng sanh trong bốn bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, người, A tu la, Ma hầu la già, Càn thát bà… Tất cả các chúng sanh đều phát sanh tâm thiện hoan hỉ giống như chiêm ngưỡng Như Lai không biết chán.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Trải bao kiếp quá khứ
Khi Phật làm người phàm
Thường tu các hạnh lành
Không đem tâm sân giận
Và phùng man trợn mắt
Cũng không vì ái nhiễm
Tâm dục nhìn chúng sanh
Mắt tịnh lìa cấu dục
Tâm hoan hỉ nhìn thẳng
Do nhờ hành nghiệp này
Được sanh vào cõi trời
Đến Nhất Sanh Bổ Xứ
Sau sanh làm loài người
Mắt, lông mi xanh biếc
Mắt như hoa sen xanh
Trên dưới nháy một lượt
Nhờ tướng đại nhân này
Được thông minh trí tuệ
Tất cả các chúng sanh
Thích nhìn không biết chán
Tại gia làm Chuyển Luân
Thành tựu đại trí tuệ
Có đầy đủ bảy báu
Cai trị bốn thiên hạ
Xuất gia được thành Phật
Chứng được Nhất thiết trí.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào mà trên đảnh có nhục kế, tóc xanh biếc? Đời quá khứ, khi Như Lai còn là người phàm, luôn tạo công đức cho người, giữ thân, khẩu, ý, nghiệp, bố thí, trì giới, mỗi tháng tu sáu ngày trai giới, cúng dường cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, bạn bè quyến thuộc, những vị tuổi cao đức lớn. Lại có hành nghiệp thiện không thể đếm xuể. Nhờ tích chứa vô lượng hạnh này mà thường hưởng khoái lạc ở cõi trời, cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ. Sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân: Một là trên đảnh có nhục kế, hai là tóc xanh biếc. Nhờ tướng này nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, làm chỗ nương tựa cho nhân dân. Nếu là xuất gia thì được thành Phật, làm chỗ nương tựa cho bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la già, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và phi nhơn.
Khi ấy, Thế Tôn nói kệ:
Ta ở đời quá khứ
Người đứng đầu tu thiện
Luôn tu hành phạm hạnh
Làm chỗ dựa cho người
Qua đời sanh lên trời
Hưởng khoái lạc chư thiên
Sau sanh vào nhân gian
Được hai tướng đại nhân
Trên đảnh có nhục kế
Tóc xoắn màu xanh biếc
Tại gia làm Chuyển Luân
Cai trị bốn thiên hạ
Dùng năm giới thập thiện
Cứu giúp cho nhân dân
Nếu xuất gia học đạo
Chứng thành đấng vô thượng
Thường lấy giới – định – huệ
Chỉ dạy các chúng sanh
Luôn làm chỗ nương tựa
Cho các trời, người, rồng
Thần, Dạ xoa, Càn thát
A tu la vân vân.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để mỗi lỗ chân lông có mỗi sợi lông, giữa chặn mày có lông trắng giống như Đâu La Miên? – Thuở xưa, khi còn là người phàm, Phật luôn tu hành không vọng ngữ, tránh xa vọng ngữ, luôn tu hành lời nói thật, tâm chân chánh với lời nói thật, cũng không có lời nói thêu dệt, lời nói luôn luôn dịu dàng, nhỏ nhẹ tùy thuận với chúng sanh. Do hành nghiệp này nên thường sanh lên cõi trời hưởng khoái lạc, sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân.
1- Mỗi lỗ chân lông chỉ có mỗi sợi lông. Lông ấy mềm mại và đều xoay về phía bên phải, không dính bụi nước.
2- Giữa chặn mày lông đẹp đẽ giống như Đâu La Miên chiếu sáng.
Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, nhân dân hưng thịnh phát triển vô cùng khoái lạc. Nếu xuất gia thì làm Phật, làm cho bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tăng trưởng vô lượng vô biên khắp thế gian.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ta ở đời quá khứ
Luôn tu không vọng ngữ
Mở miệng chưa từng nói
Lời dối gạt không thật
Thích ứng với thế gian
Nói năng không lầm lỗi
Nhờ những hành nghiệp này
Luôn sanh vào cõi trời
Sau sanh làm loài người
Được hai tướng đại nhân.
Lông trắng sáng chặn mày
Mềm mại như Đâu Miên
Lỗ lông chân một sợi
Tất cả đều xoay phải
Nhờ có hai tướng này
Tại gia làm Chuyển Luân
Cai trị bốn thiên hạ
Nhân dân phát triển mạnh
Nếu bỏ nhà học đạo
Chứng đắc đại pháp vương
Chỉ dạy các trời người
Khiến chánh pháp tăng trưởng.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào mà miệng có bốn mươi cái răng, răng trắng đều khít? – Trong vô lượng kiếp thuở xưa Như Lai luôn tu hành không nói lời hai lưỡi. Nghe người này không đến nói với người kia. Nghe người kia không đến nói với người này. Sau khi nghe hai bên vì lợi ích hoan hỉ mà đến nói với họ. Nhờ nghiệp này nên luôn hưởng khoái lạc của cõi trời, sau sanh làm người được hai tướng đại nhân: Một là miệng có bốn mươi cái răng; hai là răng trắng đều và khít. Nhờ tướng này nếu ở tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, không có trộm cướp, quyến thuộc thanh tịnh, vững vàng không hư hoại. Nếu xuất gia thì được thành Phật, có bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di kiên cố thọ trì pháp tạng của Như Lai, không bị bốn ma phá hoại.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Như Lai đời quá khứ
Tu hành không hai lưỡi
Không não loạn chúng sanh
Luôn hòa hợp mọi người
Hành nghiệp sanh lên trời
Hưởng khoái lạc chư Thiên
Sau sanh làm loài người
Được hai tướng đại nhân
Miệng có bốn mươi răng
Răng trắng đều và khít
Tại gia dòng Sát lợi
Cai trị bốn thiên hạ
Vua có bốn binh chủng
Kiên cố khó phá hoại
Sát lợi, Bà la môn
Không thể lay chuyển được.
Nếu xuất gia thành Phật
Đầy đủ bốn bộ chúng
Luôn được hàng trời người
Cung kính và tôn trọng.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào mà có tướng lưỡi rộng dài phát ra tiếng Phạm âm giống như tiếng chim Ca lăng tần già? – Vào thuở xưa, khi đức Phật còn là người phàm, không nói lời thô, xả bỏ lời nói thô, tránh xa lời nói thô, luôn nói những lời nói tốt đẹp, lời nói dịu dàng để thấm sâu vào tâm người khiến họ thích nghe và dùng những lời đại từ bi, lời nhất quyết, lời nói ân nghĩa sâu xa, được người yêu mến nhớ nghĩ. Nhờ siêng năng tu tập nghiệp này cao rộng nên thường hưởng khoái lạc ở cõi trời. Sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân:
1- Lưỡi rộng dài liếm phủ cả mặt.
2- Tiếng Phạm âm dịu dàng như tiếng Ca lăng tần già khiến ai cũng thích nghe.
Nhờ tướng này nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, nói ra điều gì hết thảy nhân dân đều thích nghe vui vẻ và tuân làm theo. Nếu không thích tại gia lại xuất gia học đạo thì được thành Phật, nói ra lời gì thì Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, dạ xoa, người, phi nhơn đều cung kính lãnh thọ hoan hỷ phụng hành.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Phật vào đời quá khứ
Tu tập lời nói thiện
Không sanh cũng không giận
Không nói lời thô bạo
Luôn nói lời từ bi
Lời chính xác dịu dàng
Lời nhất vị như vậy
Sau đó mới phát ngôn
Nhờ hành nghiệp như vậy
Được tướng lưỡi rộng dài
Tiếng Phạm âm hòa nhã
Như tiếng chim Ca Lăng
Nhờ hai tướng đại nhân
Tại gia làm Chuyển Luân
Nếu nói ra lời gì
Nhân dân đều tuân theo
Nếu xuất gia thành Phật
Chuyển bánh xe Vô thượng
Diệu pháp được nói ra
Khiến trời, người, tu la
Rồng, thần và dạ xoa
Nghe rồi đều phụng hành.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có cằm như sư tử? Vào thời quá khứ, khi Phật làm người phàm luôn tu tập không nói lời thêu dệt, xả bỏ lời nói thêu dệt, mà luôn nói lời hợp thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời oai nghi, lời thường trụ, lời hữu biên. Nhờ tích tụ vô lượng công đức nghiệp này nên thường hưởng khoái lạc của cõi trời. Sau sanh làm người thì được tướng đại nhân có cằm như Sư tử. Với tướng này, nếu là tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ, tất cả nhân dân không ai dám nổi loạn. Nếu xuất gia thì được thành Phật, trời, người, A tu la, phạm, ma, Sa môn, Bà la môn, oan gia trong hoặc ngoài nước không ai dám chống lại Như Lai.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ta ở đời quá khứ
Không nói lời thêu dệt
Cũng không tự khen mình
Và nói lời tạp ngữ
Đoạn diệt lời vô nghĩa
Luôn nói lời hợp thời
Nói ra cốt làm vui
Lợi ích cho chúng sanh
Do có hành nghiệp này
Luôn hưởng khoái lạc trời
Sau sanh làm loài người
Có cằm giống Sư tử
Tại gia làm Chuyển Luân
Cai trị bốn thiên hạ
Với tướng đại nhân này
Không ai dám nổi loạn
Xuất gia được thành Phật
Sa môn, Phạm, Ma vương
Trời, người, A tu la
La hầu, Khẩn na la
Các oan gia trong ngoài
Không ai dám chống lại.
Lại nữa, này Tỳ Xá Khư! Tu hành như thế nào để có bốn răng đều, khít, trắng sạch và tỏa sáng? – Vào thuở xưa, khi Phật còn là người phàm, xả bỏ cuộc sống xấu ác mà luôn nghĩ nghề chân chánh để sinh sống, cũng không làm những việc cân lường lừa gạt người, dùng vật hư dối để lừa gạt người, dùng biến hóa để lừa gạt, yêu thương để lừa gạt. Tất cả những cách lừa gạt như vậy đều đoạn tận. Nhờ hành nghiệp này mà tích tụ được phước sâu dày, nên sau khi qua đời sanh lên cõi trời, hưởng khoái lạc ở mười chỗ. Thế nào là mười?
1- Tuổi thọ của trời.
2- Sắc đẹp của trời.
3- Âm nhạc của trời.
4- Tiếng tốt đồn xa của trời.
5- Vua trời.
6- Sắc trời.
7- Âm thanh của trời.
8- Hương thơm của trời.
9- Mùi vị của trời.
10- Xúc chạm của trời.
Sau khi hưởng khoái lạc về mười chỗ ở cõi trời rồi, sau sanh làm người thì được hai tướng đại nhân.
1- Răng không lớn, không nhỏ.
2- Màu răng trắng sạch.
Nhờ tướng này, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ. Bốn bộ chúng: Chúng Bà la môn, chúng Sát lợi, nơi xóm làng thành ấp, đại thần, trưởng giả, phi hậu, thể nữ và chư thiên đều nghiêm tịnh. Nếu xuất gia thì được thành Phật cũng có bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và trời, người, A tu la, Càn thát bà đều thanh tịnh.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ta ở đời quá khứ
Xả bỏ mưu sinh ác
Lợi bằng pháp thanh tịnh
Chánh mạng để nuôi thân
Trừ bớt khổ chúng sanh
Để họ được an vui
Nhờ có hành nghiệp này
Hưởng mười khoái lạc trời
Thường được các trời người
Tôn trọng và khen ngợi
Vua thú khoái lạc trời
Sau sanh làm loài người
Nhờ quả tu nghiệp lành
Được hai tướng đại nhân
Răng không bị to nhỏ
Màu răng trắng tỏa sáng
Sanh vào dòng Sát lợi
Tại gia làm Chuyển Luân
Có bốn binh vây quanh
Thanh tịnh không nhơ bẩn
Xuất gia được thành Phật
Thường được các bốn chúng
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni
Ưu bà tắc, Ưu bà di
Trời, người, A tu la
Rồng, thần và Dạ xoa
Thanh tịnh không cấu nhiễm
Đều cung kính vây quanh.
Này Tỳ Xá Khư! Đó gọi là hai mươi cách tu hành để được ba mươi hai tướng đại nhân. Nhờ tướng này mà trang nghiêm thân vi diệu của Như Lai. Lại nữa, Tỳ Xá Khư! Thân Phật lại có tám mươi vẻ đẹp, tám mươi vẻ đẹp đó là:
1- Móng tay đỏ hồng.
2- Móng tay nổi tròn lên đẹp.
3- Móng tay bóng láng.
4- Móng tay đầy đặn.
5- Ngón tay tròn trịa.
6- Ngón tay thon thẳng.
7- Ngón tay khép kín.
8- Ngón tay sạch sẽ.
9- Tay chân nõn nà.
10- Phía trong tay chân đỏ hồng.
11- Tay chân bằng phẳng.
12- Bên trong tay chân đầy đặn.
13- Vân tay hiện lên sâu.
14- Vân tay thẳng đẹp.
15- Vân tay nhỏ dài.
16- Tay chân mịn màng.
17- Vân tay không rối.
18- Xương mắt cá không lồi ra.
19- Đầu gối tròn đầy.
20- Bắp chân đều đặn.
21- Bước đi bằng phẳng.
22- Đi như Sư tử chúa.
23- Đi như chim ngỗng trời.
24- Tướng đi như Long vương.
25- Tướng đi như Ngưu vương.
26- Đi không nhìn ra sau.
27- Bước đi không nghiệp ngã.
28- Nửa thân cao thẳng.
29- Thân Phật cao hơn người.
30- Toàn thân đầy đủ.
31- Thân Phật đều đẹp.
32- Thân thể cân đối.
33- Thân thể đầy đặn.
34- Thân thể thẳng đứng.
35- Thân thể bóng sáng.
36- Thân lớn nhỏ đều đặn.
37- Thân thể sạch đẹp.
38- Thân thể mềm mại.
39- Thân thể tịch tịnh.
40- Thân thể chắc chắn.
41- Thân thể chắc nịch.
42- Thân thể đoan nghiêm.
43- Các căn đều đặn.
44- Sắc thân không đen.
45- Thân thể không tối.
46- Lông trên thân sạch sẽ.
47- Tướng bụng tròn trịa.
48- Bụng không có ngấn ngang.
49- Thân thể sáng sạch thấy các sắc tướng.
50- Rốn sâu.
51- Lỗ rốn tròn.
52- Vân rốn xoay về bên phải.
53- Lỗ rốn không trủng.
54- Miệng rốn không dài.
55- Miệng rốn không ngắn.
56- Lông rốn hướng về phía dưới.
57- Có tướng răng của rồng.
58- Môi che kín răng.
59- Bốn răng giữa tròn đều.
60- Bốn răng nanh sắc bén.
61- Bốn răng nanh nhọn dài.
62- Bốn răng nanh đều khít.
63- Lưỡi rộng mềm mại.
64- Màu lưỡi hồng đẹp.
65- Tiếng Phạm âm rõ vi diệu.
66- Tiếng như voi chúa.
67- Tiếng như chim Ca lăng tần già.
68- Nứu răng thịt đầy.
69- Mũi không dài xuống.
70- Mũi cao nhỏ dài.
71- Lỗ mũi sạch sẽ.
72- Mũi suông rộng.
73- Mắt đẹp sáng long lanh.
74- Mắt đen sáng.
75- Lông mi mắt có thứ lớp.
76- Lông mày dài như nữa vầng trăng.
77- Lông mày đen mướt dài ngắn có thứ lớp.
78- Lông mày sáng sạch mướt.
79- Tai thòng xuống trong ngoài sạch sẽ.
80- Tóc mềm mại quay về bên phải không rối dài theo thứ lớp, rất đẹp.
Này Tỳ Xá Khư! Đó là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Ngày đêm thọ trì
Tất cả giới cấm
Vô lượng khổ hạnh
Là đại Phạm chí
Ba mươi hai tướng
Tám mươi vẻ đẹp.
Anh lạc nghiêm thân
Đấng thiên nhân tôn
Ánh sáng rực rỡ
Chiếu diệu vô cùng
Xanh đỏ vàng trắng
Xen lẫn với nhau
Uyển chuyển xoay tròn
Khắp cả hư không
Phóng ánh sáng lớn
Chiếu vô lượng cõi
Ba ngàn thế giới
Như Lai thường sáng
Chiếu tới một tầm
Khi phóng ánh sáng
Che lấp nhật nguyệt
Như mặt trời mọc
Không thấy các sao
Nếu phóng ánh sáng
Chiếu cả thế giới
Nhật quang như trăng
Màu trắng như sao
Nhờ nói vạn hạnh
Được thân như vậy
Được các chúng sanh
Ưa thích ngắm nhìn
Vui vẻ chiêm ngưỡng
Không bao giờ chán.
*
PHẨM THỨ BA: ĐIỀM LÀNH
Sau khi đức Phật nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu vui mừng khôn xiết bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Khi Bồ tát ở trong thai mới sanh có bao nhiêu tướng điềm lành kỳ lạ tốt đẹp hiện ra thế gian.
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Khi1 sinh ra có mười sáu tướng kỳ lạ tốt đẹp, mười sáu tướng đó là:
Nghĩa là xả thân ở cõi trời Đâu Suất ở trong thai nhớ biết rất rõ ràng. Đây là pháp kỳ lạ hiếm có thứ nhất.
Sau khi Bồ tát xả thân ở cõi trời vào thai mẹ tự nhiên ánh sáng chiếu khắp thế gian. Chỗ tối tăm ở giữa thế giới, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, sao, không thể chiếu tới thì đều có ánh sáng lớn. Chúng sanh trong đó đều nhìn thấy lẫn nhau, và họ nói rằng: “Trong đây vì sao bỗng nhiên có chúng sanh. Tất cả ánh sáng của tất cả thế gian phạm, ma, Sa môn, Bà la môn đều không thể sánh kịp. Ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách, các núi Tu Di đều chấn động không ngừng. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ hai.
Bồ tát ở trong thai có bốn thiên tử giữ đúng oai nghi ở ngay bốn phương hộ vệ Bồ tát và mẹ của Bồ tát, không để các người, phi nhơn ở thế gian làm não hại. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ ba.
Bồ tát ở trong thai tự nhiên làm cho người mẹ giữ giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ tư.
Bồ tát ở trong thai mẹ, người mẹ thanh tịnh không có tâm dục. Người ngoài thấy bà cũng không sanh tâm nhiễm. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ năm.
Bồ tát ở trong thai thường khiến người mẹ được rất nhiều lợi dưỡng về sắc, hương, vị, xúc tự nhiên đem đến. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ sáu.
Bồ tát ở trong thai, người mẹ luôn an vui, không có các hoạn nạn về tật bệnh, đói khát, lạnh nóng, mệt mỏi, Bồ tát cũng vậy. Người mẹ luôn thấy Bồ tát ở trong thai, giống như ngọc ma ni Tỳ lưu ly quí báu đều suốt trong ngoài sáng rực nhìn thấy rõ ràng, dùng chỉ năm màu để xâu. Người mắt sáng cầm trong tay thì thấy tám cạnh của viên châu và chỉ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng rất rõ ràng. Người mẹ thấy tất cả bộ phận của Bồ tát rõ ràng không bị ngăn che. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ bảy.
Này Tỳ Xá Khư! Sau khi Bồ tát sanh được bảy ngày, thì người mẹ qua đời sanh lên cõi trời Đâu Suất, hưởng khoái lạc của trời. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ tám.
Người phàm phu thọ thai là chín tháng hoặc đến mười tháng mới sanh, Bồ tát thành tựu không như vậy, mà phải đủ mười tháng sau đó mới sanh. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ chín.
Ở thế gian khi phụ nữ sắp sanh thì thân thể đau đớn, ngồi nằm không yên, sau đó mới sanh. Còn khi Bồ tát sanh ra người mẹ an lạc, không có các bệnh đau, mà còn hoan hỷ vui tươi đứng giơ tay lên để sanh. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười.
Khi Bồ tát sanh ra khỏi thai được chư thiên đón lấy, sau đó được người bồng ẵm. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười một.
Sau khi được người đời bồng rồi bốn thiên tử đón bồng cung kính đặt trước người mẹ và tâm họ rất vui mừng cùng nói: “Lành thay thưa phu nhân: Người đã sanh một thái tử dõng mãnh đại oai đức”. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười hai.
Khi Bồ tát mới sanh ra, không có nước máu và thai nhau với các vật không sạch sẽ. Thân của Bồ tát thanh tịnh, như châu ma ni được bọc trong tấm nhung già tư, nhưng không ố lẫn nhau. Vì sao? Vì hai bên đều sạch sẽ, Bồ tát mới sanh cũng vậy, thanh tịnh không nhiễm giống như châu ma ni. Còn người mẹ đẹp đẽ giống như tấm nhung kia. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười ba.
Khi Bồ tát sanh ra, ở trong hư không tự nhiên có hai dòng nước chảy xuống, một là lạnh, hai là ấm để tắm thân Bồ tát. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười bốn.
Sau khi sanh ra đi về hướng Bắc bảy bước. Bấy giờ, trên hư không tự nhiên có lọng che Bồ tát. Sau khi đi bảy bước rồi Bồ tát nhìn khắp mười phương rống tiếng sư tử xướng như vầy: “Trong tất cả thế gian chỉ có Ta là tối thượng, Ta là tối tôn trong trời người chấm dứt đời này ta không trở lại nữa”. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười lăm.
Khi Bồ tát sanh ra, tất cả chúng sanh cho đến loài côn trùng trong ba ngàn đại thiên thế giới đều rất vui vẻ. Đây là pháp kỳ lạ chưa từng có thứ mười sáu.
Này Tỳ Xá Khư! Đó gọi là Như Lai ở trong thai mới sanh ra thì có mười sáu pháp kỳ lạ như vậy.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Từ Đâu Suất qua đời
Sau sanh làm loài người
Ở trong thai mới sanh
Thanh tịnh không cấu nhiễm
Mười sáu pháp kỳ lạ
Vi diệu chưa từng có
Khi trong thai sanh ra
Không giống với chúng sanh
Khi sanh không mê muội
Tiếng tăm là số một
Hiện rất nhiều tướng lành
Điềm Phật sanh như vậy.
Sau khi Thế Tôn nói kệ này, Tỳ Xá Khư Mẫu rất vui mừng càng hỏi nữa:
– Bạch Thế Tôn! Khi Bồ tát sanh ra thì có bao nhiêu điềm lành hiện ra cùng một lúc?
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Khi Bồ tát sanh ra có ba mươi hai điềm lành hiện cùng một lúc. Ba mươi hai điềm lành ấy là gì?
1- Đại địa trong ba ngàn đại thiên thế giới chấn động, tự nhiên có ánh sáng lớn chiếu cả thế giới.
2- Tất cả nhạc cụ tự nhiên trỗi lên.
3- Không gõ mà kêu.
4- Tất cả tật bệnh tự nhiên hết hẳn.
5- Tất cả người bị trói buộc tự nhiên được giải thoát.
6- Tất cả oan gia đều sanh lòng từ bi.
7- Người mù được mắt sáng thấy tất cả màu sắc.
8- Người điếc được nghe các âm thanh.
9- Người què được đi lại tùy ý.
10- Người điên được trí nhớ rõ ràng.
11- Câm ngọng được nói.
12- Đi thuyền bị trôi dạt thì được trở về chỗ cũ.
13- Tất cả bảy báu ở mặt đất và hư không tự nhiên phát ánh sáng.
14- Các sông vạn dòng đều đứng yên không chảy.
15- Tất cả loài chim bay có cánh rất vui mừng và đứng yên.
16- Gió không lay động, tất cả đều lặng yên.
17- Tất cả chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau đều sanh lòng từ.
18- Tất cả chư thiên trở về cung điện của mình chơi khoái lạc.
19- Lửa dữ ở địa ngục A tỳ tự nhiên dập tắt.
20- Đói được no nên.
21- Tất cả ngạ quỉ không bị đói khát.
22- Bốn thiên hạ đều nổi mây lớn và mưa lớn.
23- Ánh sáng mặt trăng sáng dịu dàng.
24- Các vì sao mọc ban ngày.
25- Mặt trời tròn sáng ngời.
26- Tất cả cây có hoa đều trổ hoa.
27- Tất cả cây có trái tự nhiên kết trái.
28- Ba ngàn đại thiên thế giới phát ra hương thơm cõi trời không có mùi hôi thối.
29- Khi Bồ tát sanh đi bảy bước.
30- Trên hư không có lọng trắng tự nhiên che mát.
31- Sau khi đi bảy bước rồi nhìn khắp mười phương.
32- Rống tiếng như Sư tử.
Này Tỳ Xá Khư! Đó gọi là khi Bồ tát mới sanh có ba mươi hai pháp xuất hiện cùng một lúc.
Tỳ Xá Khư Mẫu bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Khi Bồ tát sanh vì lý do gì mà chấn động ba ngàn đại thiên thế giới?
Phật dạy Tỳ Xá Khư:
– Khi Bồ tát sanh làm cho đại địa chấn động là vì khi Bồ tát thị hiện sanh ở cõi đời này thì đã chấm dứt không còn phiền não. Những chúng sanh nào sắp đắc đạo thì phiền não sẽ diệt trừ cho nên đất chấn động.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh tự nhiên có ánh sáng chiếu khắp thế giới, vì Bồ tát đắc Tam Đạt Trí.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh những nhạc cụ ở thế gian tự nhiên trỗi lên, vì Bồ tát được nhập Tam muội.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh vật không gõ mà tự nhiên kêu, vì Bồ tát sắp đánh trống đại pháp.
Này Tỳ Xá Khư! Tất cả những người bị trói buộc tự nhiên được giải thoát, vì Bồ tát sắp độ thoát tất cả chúng sanh trong cảnh già, bệnh, chết.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh tất cả oan gia đều sanh lòng từ. Vì Bồ tát đắc bốn tâm vô lượng.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh tật bệnh đều hết hẳn, vi Bồ tát sắp diệt trừ tất cả các phiền não.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người mù được sáng, vì Bồ tát đắc Thánh Trí Nhãn.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh người điếc được nghe, vì Bồ tát đắc Thánh Thiên Nhĩ.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người què đi được, vì Bồ tát đắc lực bốn thần túc.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người điên được nhớ lại, vì Bồ tát đắc niệm An na bát na.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người câm được nói, vì Bồ tát đắc pháp thần thông mà Như Lai đã biết.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người đi thuyền trôi được trở về, vì Bồ tát đắc Bát Chánh Đạo để dạy chúng sanh.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì bảy báu trên mặt đất và hư không tỏa ánh sáng, vì Bồ tát đắc bốn vô ngại trí.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì các sông vạn dòng đều ngưng chảy, vì Bồ tát đã làm ngưng đọng bốn sông phiền não.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì tất cả chim bay rất mừng đứng yên, vì Bồ tát sắp phá các tà kiến.
Này Tỳ Xá Khư! Sau khi Bồ tát sanh gió ngừng thổi vì Bồ tát được thường lạc diệt tận tam muội.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì những chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau đều sanh lòng từ, vì Bồ tát được bốn bộ quyến thuộc dù tôn quí hay ty tiện giàu sang hay nghèo hèn đều được hòa hợp.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh ra thì chư thiên về cung điện vui chơi, khi Bồ tát thành Phật thì các thiện nam, thiện nữ xuất gia học đạo đến đắc A la hán, việc làm đã xong dứt tận nguồn sanh tử trong ba cõi xả bỏ gánh nặng thành vô vi vô dục luôn thích nơi tịch tịnh vui vẻ hoan hỉ. Họ nói với nhau: Chúng ta nay đã được thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết không còn bị sanh tử ở trong thai nữa, mà là tịch tịnh vô nhiễm, như nước đọng trên lá sen, không bị dính mắc.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì lửa dữ ở địa ngục A tỳ đều dập tắt, vì Bồ tát sắp diệt trừ lửa dữ ba độc phiền não của chúng sanh.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì người đói được no nê, vì Bồ tát đắc thân niệm tam muội.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì ngạ quỉ không còn đói khát nước, vì Bồ tát được nước giải thoát.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì có mây lớn trút mưa lớn vì Bồ tát sắp mưa đại pháp thấm nhuần chúng sanh.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh mặt trăng tỏa sáng dịu, vì khi Bồ tát thành Phật chúng sanh vui mừng chiêm ngưỡng.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì các vì sao mọc ban ngày, vì Bồ tát khi thành Phật làm cho đệ tử Thanh văn hiện ra nơi đời.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì ánh sáng mặt trời rực rỡ, vì Bồ tát đại Thanh văn đắc lục thông.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh cây có hoa đều trổ hoa, vì Bồ tát khiến cho đệ tử Thanh văn đắc hoa giải thoát.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì cây có trái đều kết trái. Vì Bồ tát khiến cho đệ tử Thanh văn đắc bốn quả Sa môn.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì cả đại thiên thế giới tỏa ra mùi thơm, vì Bồ tát được hương giới của Như Lai tỏa khắp thế gian.
Này Tỳ Xá Khư! Khi Bồ tát sanh thì đi bảy bước, vì Bồ tát đắc bảy đạo Bồ đề.
Này Tỳ Xá Khư! Sau khi Bồ tát đi thì có lọng trắng trên vì Bồ tát được bóng mát Niết bàn, Bồ tát đi rồi chỉ về phương Đông, vì làm người dẫn đường cho các chúng sanh.
Này Tỳ Xá Khư! Bồ tát chỉ phương Nam vì làm ruộng phước lành cho chúng sanh.
Này Tỳ Xá Khư! Bồ tát chỉ phương Tây vì đời này của Bồ tát đã tận, đây là thân cuối cùng.
Này Tỳ Xá Khư! Chỉ về phương Bắc, vì với tất cả chúng sanh thì Bồ tát đã đắc Vô thượng Bồ đề.
Này Tỳ Xá Khư! Chỉ phương dưới vì muốn phá tan binh ma để chúng thối lui.
Này Tỳ Xá Khư! Chỉ phương trên vì làm chỗ qui y cho trời, người.
Này Tỳ Xá Khư! Rống tiếng Sư tử vì là bậc tối thượng, tối tôn trong trời người tất cả chúng sanh không ai sánh bằng.
Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:
Đấng dẫn đường thế gian
Bậc đại thánh vô thượng
Khi sanh hiện điềm lành
Làm ruộng phước chúng sanh
Luân chuyển trong ba cõi
Đây là thân cuối cùng
Như Lai tối đệ nhất
Trí tuệ trong thế gian
Đã phá chúng binh ma
Ứng Cúng vang tiếng tốt
Thế gian chưa từng có
Làm chỗ tựa trời người
Khi Thế Tôn mới sanh
Hiện ba hai điềm lành
Tướng kỳ lạ vi diệu
Đều hiện cùng một lúc
Bồ tát ra khỏi thai
Đất chấn động sáu cách
Tự nhiên ánh sáng lớn
Chiếu khắp cả mười phương
Chúng sanh rợn tóc gáy
Đều nói với nhau rằng
Nguyện mau được thành Phật
Hãy mưa trận đại pháp
Tẩy trừ cấu phiền não
Để con được giải thoát
Nên nay con chí thành
Đảnh lễ đấng Vô thượng.
Sau khi nói kệ này xong
Thế Tôn dạy Tỳ Xá Khư:
– Chư Phật Như Lai không thể nghĩ bàn, pháp Phật nói ra không thể nghĩ bàn, các thiện nam thiện nữ tin những gì Phật nói cũng không thể nghĩ bàn, được đắc quả báo cũng không thể nghĩ bàn, như mưa lớn thấm nhuần sung mãn cho tất cả người, phi nhơn… và các cây cỏ cũng được phát triển, mưa pháp của Như Lai cũng vậy, thấm nhuần tất cả vô lượng chúng sanh. Người đáng được độ sau khi nghe pháp này đều được đắc đạo quả. Nếu ai hưởng quả báo trong trời người theo sở nguyện mà được tùy ý, cho nên nay con hãy chuyển tâm thọ trì pháp này, làm cho bốn chúng đời vị lai đều được tu hành.
Khi Phật nói pháp này có sáu vạn trời người đắc pháp nhãn tịnh, các chư thiên khác và rồng, A tu la, Càn thát bà, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, phi nhơn đều phụng hành. Riêng Tỳ Xá Khư Mẫu đắc pháp nhãn tịnh. Ngàn năm trăm người quyến thuộc thì đối với Phật, Pháp, Tăng có lòng tin kiên cố không thối chuyển. Tất cả đều hoan hỉ làm lễ Phật rồi lui ra.