Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 51 Đến Phẩm 60
Tùy Xà Na Quật Đa dịch
Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
***
Phẩm 51: ĐOẠN TRỪ NIỆM BẤT TÍN VỚI VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI
Theo thuyết của các thầy Ma-ha Tăng-kỳ nói: “Lúc ấy Đức Như Lai độ Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng năm trăm môn đồ đều được xuất gia thọ giới Cụ túc. Sau đó Ngài từ nước Ma-già-đà tuần tự đi từ làng này đến làng khác, tùy ý du hành qua các thôn ấp, lần lần đến thành Vương xá.”
Theo thuyết của các thầy thuộc bộ Ca-diếp-di lại nói khác: “Đức Như Lai đến núi phương Nam, du hành các xứ, rồi sau đó trở về thành Vương xá.”
Thuở ấy có nhiều thiện nam oai quyền thế lực lớn, ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội, theo Như Lai tu tập phạm hạnh. Nhưng ngược lại cũng có những người chê trách Thế Tôn, họ nói:
-Sa-môn Cù-đàm luôn khiến chúng ta không có con cái, khiến chúng ta tán gia bại sản, làm cho chúng ta tuyệt tự. Sa-môn Cù-đàm đã độ một ngàn Phạm chí búi tóc xuất gia. Sa-môn Cù-đàm cũng cướp đoạt năm trăm đệ tử của San-xà-đa Ba-ly-bà-xà-ca khiến họ xuất gia. Nay tại nước Ma-già-đà cũng có nhiều thiện nam oai đức thế lực lớn, đang hướng về Như Lai tu phạm hạnh.
Các người hủy báng này khi thấy các Tỳ-kheo sắp đến trước mặt mình, họ cùng nhau nói kệ.
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Khi ấy chúng Tỳ-kheo nghe họ nói những lời như vậy, lấy làm xấu hổ, trở về Trúc lâm trình lên Phật bài kệ ấy. Khi đó Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Các thầy phải biết, những lời nói như vậy không tồn tại lâu dài, chỉ trong vòng bảy ngày. Sau bảy ngày, những lời nói ấy tự tiêu diệt, mọi nơi không còn nghe. Này các Tỳ-kheo, nếu có người đến với các thầy nói bài kệ như vầy:
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Nếu họ nói như vậy thì các thầy dùng kệ như sau đáp lại:
Thế Tôn Đại Trượng Phu
Như pháp dẫn người đi
Đã đi như pháp rồi
Kẻ trí nào không theo.
Một hôm, vào lúc bình minh, mặt trời còn ở phương Đông, các Tỳ-kheo đắp y mang bình bát vào thành khất thực. Khi ấy các người hủy báng cùng đem bài kệ chế diễu các Tỳ-kheo:
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Khi ấy các Tỳ-kheo dùng kệ như trên đáp lại. Lúc ấy các người kia nghe kệ rồi, suy nghĩ: “Phàm Sa-môn Thích tử độ người đều dạy họ thực hành đúng như chánh pháp, không phải là không đúng chánh pháp.”
Do đó, những lời kệ của họ chỉ tồn tại trong bảy ngày. Qua bảy ngày, tất cả sự việc trên không còn, ở mọi nơi đều không còn nghe nữa.
***
Phẩm 52: NGHI THỨC THUYẾT PHÁP
Một thuở nọ, tại đại thành Vương xá có chúng ngoại đạo Ba-ly-bà-xà-ca, thường cứ mỗi năm ngày tập hợp quần chúng thuyết pháp. Thính giả đến nghe pháp rất đông. Vì vậy, trong thời gian này, hàng ngoại đạo Ba-ly-bà-xà-ca ấy được cung kính tôn trọng và nhiều lợi dưỡng.
Khi ấy quốc vương Tần-bà-sa-la ở thành Vương xá, nước Ma- già-đà rất chánh tín Phật pháp, suy nghĩ: “Ngày nay ngoại đạo Ba-ly-bà-ca thường thường cứ mỗi năm ngày tập họp quần chúng thuyết pháp, thính giả đến nghe pháp rất đông. Vì vậy hàng ngoại đạo này được người đời quý trọng, cung kính cúng dường, được nhiều lợi dưỡng. Ngày nay, ta cũng tập hợp các thầy Tỳ-kheo, khuyến thỉnh các thầy cứ mỗi năm ngày thuyết pháp một lần, rồi ta đích thân đi dự đại hội. Nếu chúng hội thấy ta đến, thì tất cả dân chúng cũng đều đến dự. Vì vậy sẽ khiến thầy của ta được người thế gian tôn trọng, cung kính cúng dường, được nhiều lợi dưỡng.”
Nghĩ như vậy rồi, nhà vua liền đem mọi việc đến bạch Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn nhân sự việc này tập hợp chúng Tỳ-kheo, bảo:
-Này các Tỳ-kheo, Ta đã hứa với đại vương Tần-bà-sa-la, cứ mỗi năm ngày các Tỳ-kheo được phép tổ chức đại hội, vì quần chúng mà thuyết pháp, luận bàn nghĩa lý các pháp.
Các Tỳ-kheo lúc ấy bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, chúng con sẽ thuyết những pháp gì? Và không nên thuyết những pháp gì?
Khi các Tỳ-kheo hỏi như vậy, Đức Phật bảo đại chúng Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta đã hứa với đại vương Tần-bà-sa-la, cứ mỗi năm ngày, khi tập họp đại chúng xong, các thầy nên tán thán công đức của Phật, công đức của Pháp, công đức của Tăng, công đức của chánh tín, cho đến tán thán sơ lược các công đức trì giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, tri túc, thiểu dục, đầu đà, xa lia làng xóm thành ấp, thường ưa ở chỗ vắng lặng, hành diệu hạnh, lợi ích, tinh tấn; các công đức cúng dường cha mẹ, tôn trưởng, Sa-môn và Bà-la-môn, cúng dường thiện hữu tri thức; tán thán thiện ngôn, tán thán chế ngự các căn, tán thán ăn uống có tiết độ, tán thán đầu đêm cuối đêm tỉnh thức không ngủ nghỉ, tán thán sinh chánh niệm, tán thán cùng phục vụ nhau, tán thán công đức cùng nhau học hỏi, tán thán công đức nghe pháp được lãnh ngộ, tán thán công đức đã làm theo điều đã nghe thầy dạy, không chông trái; tán thán công đức nghe chánh pháp rồi sinh chánh tri kiến, nghe pháp rồi tùy thuận tu tập; tán thán công đức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thiên, niệm thí, niệm tịch diệt, niệm quán sổ tức, niệm thân, thường niệm quán tưởng bất tịnh, niệm tử tưởng, niệm ăn uống khởi tưởng bất tịnh. Tán thán quán tưởng thế gian không an lạc, tưởng vô thường, tưởng khổ không, tưởng vô ngã. Tán thán công đức của tưởng từ bỏ diệt, tưởng ly dục, tưởng diệt, tưởng tướng xương trắng, tưởng xương phân tán, tưởng sình trướng, tưởng sắp rã nát, tưởng mất nửa thân người, tưởng thân tan rã. Tán thán tưởng thiêu cháy nửa thân, tưởng thiêu cháy đỏ, tưởng thân đáng ghét, cũng nên tán thưởng niệm các công đức. Cũng nên tán thán tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác, bát đạo phần, tán thán pháp môn giải thoát và các phần giải thoát, tán thán tám thắng xứ, tán thán tam minh. Cũng tán thán công đức sáu phép thần thông.
Bấy giờ các Tỳ-kheo suy nghĩ: “Như Lai đã cho phép chúng ta, cứ mỗi năm ngày nhóm họp quần chúng để tán thán công đức của chư Phật…, tán thán sáu phép thần thông.”
Sau đó, các Tỳ-kheo cứ năm ngày lại nhóm họp một lần, rồi các thầy thuyết pháp bằng cách đồng thanh tán thán công đức chư Phật…, tán thán công đức sáu phép thần thông. Khi ấy thính giả nghe pháp đều bàn tán chê bai, nói:
-Tại sao các thầy của ta thuyết pháp cùng một âm điệu, giống như bọn con nít mới tập học, cùng nhau tập đọc.
Các Tỳ-kheo nghe thính giả chê bai như vậy, đem việc này về trình lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, từ nay trở đi, Ta không cho các thầy đồng thanh tán thán giáo pháp, chỉ cho phép các thầy thỉnh một vị nào có biện tài khả năng thuyết pháp.
Lúc ấy các Tỳ-kheo hoặc thỉnh các thầy kém khả năng, thiếu uy nghi, giới đức bị hủy phạm, không được thanh tịnh, làm người thuyết pháp. Thính giả lại chê bai bằng những lời không vui lòng đẹp ý. Họ chê rằng:
-Các pháp sư mà còn nói lời như vậy, huống gì không phải pháp sư!
Các Tỳ-kheo nghe như vậy, trình lại đầy đủ lên Đức Phật. Đức Phật dạy:
-Này các Tỳ-kheo, từ nay về sau, Ta dạy các đệ tử không được thỉnh các thầy kém khả năng, thiếu uy nghi, giới đức không thanh tịnh làm vị pháp sư. Nếu có thỉnh vị pháp sư thì phải thỉnh thầy đầy đủ khả năng, phải là thầy ở trong chúng thành tựu giới hạnh.
Cho đến Đức Phật quy định:
-Cần phải thỉnh thầy hiểu giáo pháp và có tài thuyết pháp, tuần tự hiểu rõ các kinh A-hàm làm vị Pháp sư.
Trong chúng có nhiều thầy hiểu các kinh A-hàm, Đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:
-Chẳng những chỉ thỉnh các thầy hiểu các kinh A-hàm làm vị Pháp sư, mà vị ấy cần phải hiểu các luận khác. Nếu được thế thì mới nên thỉnh vị ấy đại diện chúng làm Pháp sư. Nếu trong đại chúng có nhiều Tỳ-kheo hiểu nghĩa lý các kinh, luật và luận thì chọn trong chúng những vị hiểu rõ văn tự, giỏi diễn giảng. Nếu trong chúng đang có những vị hiểu rõ văn tự, giỏi cá diễn giảng thì Ta cho phép thỉnh trong số ấy theo thứ lớp từ hạ tọa lần lên, thay đại chúng làm vị Pháp sư. Nếu vị thứ nhất bị ốm yếu thì lại thỉnh vị thứ hai. Nếu vị thứ hai bị ốm yếu thì thỉnh vị thứ ba. Nếu vị thứ ba bị ốm yếu thì nên thỉnh vị thứ tư. Nếu vị thứ tư ốm yếu thì nên thỉnh vị thứ năm. Như vậy lần lượt thỉnh các thầy Tỳ-kheo có khả năng thuyết pháp, thay đại chúng làm vị Pháp sư.
Lúc bấy giờ có những Tỳ-kheo thuyết pháp ngoài trời, hoặc bị nóng hay bị lạnh. Đức Phật liền cho phép cất giảng đường ở trong đó thuyết pháp. Tuy có giảng đường mà không có bốn vách, bị gió thổi bụi rác làm nhơ nhớp các thầy, Đức Phật lại cho phép xây tường chung quanh giảng đường ngăn chận bụi rác.
Các Tỳ-kheo thuyết pháp trong giảng đường như vậy, nhưng nền giảng đường không bằng phẳng, nên dừng các thứ đay hoặc cỏ rải trên mặt đất, hoặc dùng bùn tô trên mặt nền để được sạch sẽ.
Khi ấy các Tỳ-kheo xây cất giảng đường tráng nền đất xong, ở trong đó tu tập, đọc tụng, kinh hành. Bị bụi làm dơ chân nên Đức Phật cho các thầy Tỳ-kheo được phép rửa chân.
Khi ấy các Tỳ-kheo thường xuyên rửa chân nên gót bị đau nhức, Đức Phật mới dạy các Tỳ-kheo nên dùng nước nóng thơm rưới trên nền để quét sạch bụi.
Sạch bụi rồi, thì nền nhà khô trở lại, làm dơ chân nên Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Ta nay cho phép các thầy dùng phân bò và nước hương thơm trét trên nền giảng đường.
Khi nước hương thơm khô rồi thì phân bò bị bong nát làm dơ chân như trước. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo nên dùng cỏ mềm hoặc đay trải lên mặt nền.
Khi thấy các Pháp sư đầy đủ biện tài thuyết pháp, quần chúng liền đem hoa thơm rải trên mình Pháp sư. Khi ấy các Pháp sư không nhận pháp cúng dường này, lại xa lánh. Vì sao? Vì Đức Phật cấm người xuất gia không được dùng hương thơm và các tràng hoa thơm. Khi ấy thính giả nghe thấy việc như vậy mới chê trách các Tỳ-kheo này:
-Đối với đồ cúng dường tầm thường như vậy mà không dám nhận, huống nữa là vật tốt đẹp hơn.
Các Tỳ-kheo đem việc này trình lên Đức Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nếu có đàn việt cư sĩ vì cầu an lành, hoan hỷ đem các loại hoa thơm, bột thơm và tràng hoa rải lên người Pháp sư thì các thầy nên thọ lãnh.
Khi ấy lại có kẻ đàn việt cư sĩ đem của cải quý giá áo ca-sa cúng dường, vị Pháp sư lo sợ, xấu hổ nên không nhận lãnh. Người đời thấy vậy bàn tán, chê bai:
-Hàng Sa-môn Thích tử này đối với đồ vật tầm thường như vậy còn không dám thọ nhận, huống nữa là vật tốt hơn.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe việc như vậy, đem việc này trình lên Đức Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Nếu có người đời đem của cải và ca-sa… dâng cúng cho vị Pháp sư với tấm lòng hoan hỷ, thì Ta cho phép các thầy xả thí. Nếu thầy nào cần dùng thì cho phép nhận lãnh. Nếu thầy nào không cần dùng, thì được phép cho lại.
Bấy giờ các Tỳ-kheo trong thời thuyết pháp lại đem bộ kinh lớn, nên tụng thầm hoặc một tháng mà không xong, chỉ muốn mau xong, lo sợ xâu hổ, chỉ muốn mong tụng mau hết, nên thân tâm mỏi mệt.
Khi ấy các Tỳ-kheo đem việc này trình lên Đức Phật. Bấy giờ Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Vì đại chúng thuyết pháp phải hợp thời.
Thuở ấy các Tỳ-kheo thuyết pháp dùng giọng truyền cảm, lời lẽ văn chương diễn thuyết. Khi ấy các Tỳ-kheo lo sợ, xấu hổ, liền đem việc này bạch lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Ta cho phép các thầy dùng lời văn chương truyền cảm diễn thuyết nghĩa lý các pháp.
Thuở ấy có các thầy lược lấy các nghĩa chính trong kinh mà thuyết pháp cho đại chúng nghe, không thuyết theo thứ lớp. Khi ấy các Tỳ-kheo lo sợ, xấu hổ, lo trái với kinh luật, đem đầy đủ việc này trình lên Đức Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Ta cho phép tùy tiện trích lấy nghĩa cốt yếu trong các kinh, sắp đặt theo câu văn mà thuyết pháp, nhưng phải lấy đúng nghĩa, không được sai ý bổn kinh.
Thuở ấy các vị Pháp sư trong khi thuyết pháp, vì đại chúng nhóm họp đông đảo, tiếng thuyết pháp nghe không được rõ ràng, làm cho đại chúng không được hoan hỷ vừa lòng. Khi ấy các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Phật một cách đầy đủ. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Ta nay cho phép ở trong đại chúng được thiết lập tòa cao, rồi thỉnh Pháp sư thăng tòa thuyết pháp để mọi thính giả được nghe.
Một hôm các thầy Tỳ-kheo tổ chức đại hội thuyết pháp, quần chúng nhóm họp đông đảo, tiếng thuyết pháp của Pháp sư cũng không cùng khắp. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật lại dạy:
-Cần phải thiết tòa cao gấp bội, mời Pháp sư lên tòa ấy thuyết pháp.
Đại chúng thiết tòa cao gấp nhiều lần mà tiếng của vị Pháp sư vẫn không vang khắp. Các Tỳ-kheo lại bạch Phật. Đức Phật dạy:
-Ta cho phép các thầy tùy tiện hoặc đi hoặc đứng mà thuyết pháp.
Thuở ấy, các Tỳ-kheo tập trung trong một giảng đường mà có đến hai thầy diễn nói kinh pháp nên làm trở ngại lẫn nhau. Do đó liền cất hai giảng đường, ở trong mỗi giảng đường có một Pháp sư thuyết pháp khác nhau, nhưng vẫn còn trở ngại lẫn nhau. Vì chúng Tỳ-kheo ở trong giảng đường này đi đến giảng đường kia, rồi Tỳ kheo giảng đường này rủ Tỳ-kheo giảng đường kia thay nhau trở lại giảng đường này. Hoặc có Tỳ-kheo không thích nghe pháp môn này nên thính giả có kẻ qua giảng đường này, kẻ lại giảng đường kia, làm cho pháp hội ồn ào, sự nghe pháp không được liên tục. Lúc ấy các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật một cách đầy đủ. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Từ nay trở đi, không được hai người thuyết pháp chung một giảng đường, lại cũng không được xây cất hai giảng đường gần nhau khiến tiến? nói giảng đường này làm ồn giảng đường kia. Cũng không được chúng giảng đường này đến giảng đường kia, chúng giảng đường kia đến giảng đường này, không được chê bai pháp môn, không ưa thích nghe thuyết. Ai chê bai phải theo đúng như luật mà xử trị.
Một hôm, trong chùng không có Pháp sư, các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Nếu không có Pháp sư, nên thỉnh một vị lên tòa tụng kinh.
Lúc ấy trong chúng không có người biết tụng kinh, các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Ta cho phép các thầy theo thứ lớp mà tụng kinh: Hoặc từ hàng Thượng tọa theo thứ lớp sai tụng kinh, hoặc từ hàng hạ tọa theo thứ lớp sai tụng kinh, cho đến đọc một bài kệ bốn câu.
Bấy giờ có những Pháp sư tụng kinh giống như người đời, ca ngâm các pháp, nên người nghe bàn luận chê bai:
-Tụng kinh như vậy giống chúng ta ngoài đời ca vịnh. Sa-môn cạo tóc đâu được ca vịnh như vậy mà nên thuyết pháp.
Các Tỳ-kheo nghe việc như vậy, liền đem việc này trình lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
-Nếu thầy Tỳ-kheo dùng giọng ca vịnh theo đời để thuyết pháp thì mắc phải năm lỗi. Năm lỗi ấy là gì? Một là nhiễm thói quen giọng ca vịnh. Hai là người nghe sinh nhiễm tâm, không nhận được nghĩa chánh pháp. Ba là do giọng trầm bổng làm mất chữ trong câu kinh. Bốn là người đời nghe được, bàn tán chê bai. Năm là người đời tương lai nghe việc như vậy liền căn cứ vào việc làm thế gian cho là nguyên tắc thông lệ.
Nếu có Tỳ-kheo nào dựa vào giọng ca vịnh của thế tục mà thuyết pháp thì người ấy bị năm lỗi như vậy. Vì vậy, không được dùng giọng ca vịnh mà thuyết pháp.
Này các Tỳ-kheo, nếu thầy nào chưa hiểu các pháp như trên, đến ở nơi nào, trước phải thỉnh ý vị Hòa thượng hay A-xà-lê…
Khi ấy các có Tỳ-kheo muốn du hành tha phương đến thành ấp, xóm làng. Các vị Hòa thượng và A-xà-lê bảo các Tỳ-kheo đó:
-Này các thầy, các thầy không nên đến đó.
Khi ấy các Tỳ-kheo không tuân lời, cứ ra đi. Khi đi đến giữa đường gặp phái bọn cướp, chúng bắt lấy các Tỳ-kheo này. Họ dùng tay chân đánh đập, các thầy đau khổ vô cùng, chỉ còn lại mạng sống thoi thóp. Bọn cướp đoạt lấy y bát, rồi sau đó mới thả ra. Sau đó, các Tỳ-kheo trở về chùa, đem việc này thuật lại đầy đủ với các thầy khác. Bây giờ Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Phật. Đức Thế Tôn nhân việc này cho triệu tập chúng Tăng, hỏi các thầy:
-Thật sự các Hòa thượng và A-xà-lê của các thầy không đồng ý cho các thầy viễn du đến các xóm làng đó phải không?
Các Tỳ-kheo đó trả lời:
-Bạch Thế Tôn, thật sự như vậy.
Đức Phật lại hỏi:
-Này các Tỳ-kheo, các thầy phải biết việc làm như vậy là không tốt. Hòa thượng và A-xà-lê của các thầy đã không cho, tại sao các thầy tự tiện đi đến xóm làng ấy?
Đức Phật bảo:
-Này các Tỳ-kheo, vì sao có chuyện như vậy? Ta nhớ trong quá khứ, ở trong cõi Diêm-phù-đề này, trong đoàn thương nhân năm trăm người, có một thương chủ tên là Từ Giả, là người dẫn đầu. Lúc ấy các thương nhân tập trung bàn luận với nhau:
-Chúng ta ngày nay nên sắm đầy đủ tất cả dụng cụ lương thực để đi vào biển cả tìm kiếm bảo vật, quyết sẽ được nhiều trân bảo như ma-ni, chân châu, kha ngọc, san hô, vàng, bạc… đem về nhà, khiến bọn chúng ta giàu có trong bảy đời liên tiếp, trở thành đại phú gia, giữ lấy tài vật này, nuôi dưỡng quyến thuộc, kinh doanh sự nghiệp.
Lúc ấy năm trăm thương nhân sắm đầy đủ các dụng cụ phương tiện, hàng hóa để đi vào biển, tổn phí lên đến ba ngàn vạn tiền. Một ngàn vạn lo việc lương thực trong khi đi đường. Một ngàn vạn cho thương nhân làm vốn buôn bán. Một ngàn vạn lo vào việc tu bổ và thuê người lái thuyền.
Chuẩn bị đầy đủ như vậy rồi, mỗi người đều an tâm thọ Bát quan trai. Thọ Bát quan trai rồi, mỗi người đều về nhà mình từ biệt cha mẹ, vợ con, quyến thuộc.
Lúc ấy thương chủ Từ Giả đem việc này thỉnh ý mẹ. Khi đó mẹ ông ta đang ở trên lầu, vừa mới tắm rửa xong, thọ Bát quan trai giới được yên tĩnh. Từ Giả đến trước cha mẹ thưa:
-Lành thay! Thưa cha mẹ, con muốn vào đại dương tìm của báu. Đến nơi đó con tìm được nhiều của cải như ma-ni, chân châu, pha lê cho đến vàng, bạc, rồi sẽ trở về, sẽ khiến nhà mình giàu có trong bảy đời, mọi vật dụng đều được đầy đủ, vô cùng giàu có, cúng dường cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, lại đem bố thí tạo các công đức.
Lúc ấy mẹ của thương chủ Từ Giả bảo:
-Con cần gì phải vào trong biển cả. Trong nhà con ngày nay đầy đủ tài sản, hết sức giàu có, hễ cần thứ gì thì đều có đầy đủ, không thiếu hụt đến bảy đời nữa có thể sinh sống và cứu tế, làm việc cúng dường và bố thí để tạo các công đức. Này con yêu quý, trong biển cả có nhiều điều khủng bố như phong ba bão chướng dữ dội, cá Đê-di-la, Thần biển gây khủng bố, cùng quỷ nữ La-sát. Này con yêu quý, trong biển cả có nhiều tai nạn như vậy. Mẹ tuổi đã già, sự suy yếu đã đến, con yêu quý nếu ra đi thì việc mẹ con tái ngộ thật khó khăn. Mạng sống của mẹ ngày nay thật mong manh, ngày chết gần kề.
Mẹ Từ Giả tha thiết nói ba lần như vậy. Từ Giả lại thưa mẹ:
-Lành thay! Thưa mẹ, con đã quyết định đi vào biển để tìm của báu. Đến đó, con sẽ thâu được nhiều ngọc quý rồi quyết định sẽ trở về, mang theo các thứ ma-ni, chân châu, vàng, bạc… đem dâng cha mẹ, Sư trưởng, cứu tế, bô thí, tạo nhiều công đức.
Nói lời này rồi, Từ Giả ra đi. Lúc ấy mẹ Từ Giả rời khỏi chỗ ngồi, đi đến ôm lấy Từ Giả, nói:
-Từ Giả, con yêu quý của mẹ! Mẹ không đồng ý cho con vào biển tìm châu báu. Vì sao trong nhà mình đang có rất nhiều của cải mà con còn đi tìm?
Khi ấy Từ Giả thầm nghĩ: “Mẹ ta không vui với việc của ta đã là tổn hại rồi. Hôm nay lại không cho ta vào biển tìm châu báu thì ta sẽ bị tai họa thất bại.” Vì vậy, Từ Giả nổi giận, đánh mẹ mình té nằm trên đất, đạp vào đầu rồi bỏ đi.
Từ Giả cùng đoàn thương nhân đi đến bờ biển. Đến nơi, họ tổ chức lễ tế Thần biển. Tế lễ xong, họ sửa soạn thuyền bè nghiêm chỉnh. Ngoài ra, họ còn thuê riêng năm người giá gấp ba lần. Năm người này lo các việc sau: Một người giữ dây buồm, một người nắm bánh lái, một người tu bổ tàu, một người có tài bơi lặn, một người có tài đi biển.
Mọi việc được sắp đặt xong, họ liền lên thuyền ra khơi, vào trong biển cả để tìm của báu.
Khi đoàn người đi vào trong biển, tàu bè bị vỡ tan, năm trăm thương nhân đều bị chết đuối, chỉ còn một mình thương chủ Từ Giả sống sót. Lúc ấy Từ Giả bám vào mảnh thuyền vỡ, nương vào mảnh gổ này dùng sức tay chân bơi lội hết sức lực, nhờ sức gió thổi nên sóng đưa vào bờ, lạc đến một hòn đảo nhỏ tên là Tỳ-thi-đề-bà (nhà Tùy dịch là Hóa chủ).
Lúc ấy Từ Giả ở trên đảo chỉ ăn trái cây và rau cỏ. Sống ở đây một thời gian ngắn, sau đó Từ Giả dạo khắp nơi, đến phía Nam đảo thấy có một lối đi, liền đi theo lối này chừng một khoảng ngắn, xa xa trông thấy một thành bằng bạc, thành này rất hấp dẫn, đẹp đẽ ít có, xem hoài không chán. Nào lầu gác, vọng gác đẩy lui quân địch, hào lũy bao quanh, có lan can cửa chắn. Các cửa đó đều làm bằng ngọc quý, cung điện lầu đài, thềm thang lót ván, trên giăng bảo trướng, trang hoàng ngọc quý, treo đủ phướn lọng, dùng những bảo phan, bàn án, lư hương, xông hương thơm ngát. Chung quanh thành có nhiều vườn rừng, hồ ao, sông rạch đều là chỗ đầy đủ thú vui chơi.
Chính giữa thành có một bảo điện tên là Hỷ lạc. Điện này được làm bằng bảy báu như là vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, chân châu… Lúc ấy có bốn phụ nữ tuyệt thế giai nhân từ trong thành đi ra, dung nhan kiều diễm, khả ái, trang điểm bằng chuỗi anh lạc, nhìn hoài không chán. Họ hướng về thương chủ Từ Giả thưa:
-Lành thay! Từ Giả đã tới đây. Làm sao có thể mạo hiểm lặn lội đến đây? Thành này vô chủ, lại đầy đủ của cải không thiếu vật gì. Trong thành có một bảo điện tên là Hỷ lạc, làm bằng thất bảo. Chúng em đang sống trong đó. Tối ngủ, sáng thức dậy tâm ý trong sạch, ăn nói chân thật, dung hạnh thùy mỵ, giọng nói dịu hiền. Do vậy, ngày nay chàng có thể vào thành này, đi lên bảo điện. Nơi đó không có đàn ông, mặc tình chàng đi, đứng, nằm, ngồi. Chúng ta cùng nhau hòa hợp thọ hưởng dục lạc. Chúng em đem tất cả phẩm vật dâng hiến, cung phụng cho chàng.
Khi ấy Từ Giả liền vào thành, đến cung điện không có đàn ông, cùng bốn nàng này mặc tình thọ hưởng năm dục. Sống như vậy trải qua vài năm, rồi trải qua một trăm năm, trải qua một ngàn năm buông lung hưởng thụ khoái lạc.
Vào một hôm, bốn nàng lại thưa với Từ Giả:
-Lành thay! Này Thánh tử, chàng cứ ở trong thành này, không được đi đến các thành khác.
Từ Giả liền sinh nghi: “Tại sao các nàng ấy lại nói với ta lời thế này: “Ngày nay Thánh tử chỉ ở trong thành này, không được đi đến các thành khác.” Ta không nên nghe lời các nàng, sẽ lén đi. Chờ cho các nàng ngủ say, ta theo con đường này đi khắp mọi nơi để biết việc này đích thực thế nào, hoặc lành hoặc dữ, khi đó ta tùy nghi xử lý.”
Từ Giả chờ các cô gái nằm ngủ say, từ từ đứng dậy, ra khỏi bảo điện, tuần tự đi ra khỏi cửa thành phía Đông rồi đi quanh bốn phía thành. Khi đến mặt phía Nam thành thấy một con đường, liền theo đường này lần lần tiến tới, lại thấy từ xa một thành bằng vàng đẹp đẽ, hấp dẫn…, có nhiều sông ngòi, suối ao đầy nước bao quanh. Trong thành có một bảo điện tên là Thường túy được làm bằng bảy báu vàng, bạc, xa cừ, chân châu… nguy nga tráng lệ đẹp mắt. Lúc ấy có tám cô gái hình dung xinh đẹp, trang điểm bằng chuỗi anh lạc đẹp đẽ tuyệt vời từ trong thành này đi ra, hướng về thương chủ Từ Giả thưa:
-Lành thay! Từ Giả, làm sao chàng có thể từ xa đến đây?
Họ lại thưa thương chủ:
-Thành này làm toàn bằng vàng ròng, đầy đủ tài sản bảo vật, ở chính giữa thành có một bảo điện tên là Thường túy, làm bằng bảy báu. Chúng em tôi ngủ sáng dậy…
Từ Giả cũng vào thành, lên bảo điện, nơi không đàn ông, cùng với tám nàng này mặc tình vui chơi hoan lạc thú vui ngũ dục. Như vậy, trải qua vài năm, trăm năm sông tự do. Một hôm nọ, tám cô gái lại thưa với Từ Giả:
-Này Thánh tử, Thánh tử chớ nên ra khỏi thành này mà đi đến thành khác.
Khi ấy Từ Giả cũng lại sinh nghi, rồi tìm cách trốn ra khỏi thành, du hành quán sát mọi nơi… Lại từ xa trông thấy một thành làm bằng pha lê, đẹp đẽ hấp dẫn, xem hoài không chán. Trong thành có một bảo điện tên là Ý lạc, làm bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, chân châu… trang nghiêm tráng lệ, đẹp mắt. Lúc đó có mười sáu cô gái dung mạo đẹp đẽ tuyệt vời, với bảo châu anh lạc trang điểm trên thân, nhìn hoài không chán, từ trong thành đi ra, hướng về chỗ Từ Giả và cũng thưa:
-Lành thay! Từ Giả, sao chàng lại mạo hiểm đến đây. Thành này làm toàn bằng pha lê, đầy đủ tài sản bảo vật. Trong thành có một bảo điện tên là Ý lạc, cũng làm toàn bằng bảy báu. Mười sáu chúng em tối ngủ sáng dậy…
… như trước, thỉnh Từ Giả ở trong bảo điện. Từ Giả liền vào thành, lên bảo điện, nơi không có đàn ông, cùng với mười sáu nàng này vui chơi, thọ hưởng thú vui ngũ dục. Trải qua vài năm, vài ngàn năm, rồi vào một hôm nọ, các nàng lại thưa với Từ Giả:
-Cẩn thận, chớ nên đi đây đó.
Từ Giả cũng sinh nghi, liền không nghe lời, ra khỏi thành này, lần lần tiến bước dạo khắp các nơi. Lại xa xa trông thấy một thành làm bằng lưu ly, bốn tường kiên cố, tráng lệ, hấp dẫn, suối ao, sông hồ đầy nước bao vây. Trong thành có một bảo điện tên là Phạm đức, làm bằng bảy báu, nguy nga, hấp dẫn. Lúc ấy có ba mươi hai mỹ nhân trang sức bằng chuỗi anh lạc, dung nhan đẹp đẽ tuyệt vời, ra khỏi thành này, hướng đến Từ Giả, thưa:
-Lành thay, làm sao thánh giả từ xa đến đây được?
Họ lại nói:
-Thành này làm bằng lưu ly, đầy đủ của cải vật báu, chúng em hoàn toàn trong trắng, sống với nhau không chống trái, hễ làm một việc gì, trước phải hội ý rồi sau mới thực hiện, tâm ý hòa thuận, lời nói thanh nhã, phong lưu. Chúng em đến thỉnh thánh tử vào trong thành, lên bảo điện để cùng chúng em hòa hợp vui chơi, thọ hưởng thú vui ngũ dục. Hễ Thánh tử cần những thứ gì, chúng em cung phụng đầy đủ.
Khi ấy Từ Giả vào thành, lên bảo điện, là nơi không có đàn ông, cùng với ba mươi hai mỹ nhân thọ hưởng đủ thú vui ngũ dục. Trải qua vài năm, vài trăm năm, vài ngàn năm sống cuộc đời thích thú. Một hôm nọ, ba mươi hai nàng lại thưa Từ Giả:
-Lành thay! Thưa Thánh tử, chàng hãy thận trọng, không được rời thành này mà đi đến các thành khác.
Lúc ấy Từ Giả lại sinh nghi, suy nghĩ: “Tại sao các nàng lại nói với ta: ‘Thánh tử nên thận trọng, không nên rời thành này mà đi đến các thành khác.” Ta nay có thể chờ các nàng ngủ say, sẽ lén đứng dậy, theo con đường này mà đi đến đó để biết việc lành hay việc dữ. Biết rồi tùy nghi xử lý.”
Sau đó, Từ Giả chờ các nàng ngủ say, lén đứng dậy, xuống khỏi bảo điện, ra khỏi cửa thành phía Đông, tuần hành khắp quanh thành. Đến mặt Nam thấy một con đường, rồi theo đường này mà đi, chỉ trong chốc lát xa xa chàng trông thấy một tòa thành bằng sắt, các mặt thành đều có cửa, bên trong không có một người, hoặc đàn ông hay đàn bà, đồng nam hay đồng nữ ra nghinh tiếp. Chỉ nghe tiếng như thế này: “Ai đói, ai khát, ai lõa thân, ai chạy nhanh, ai đi xa về mỏi mệt, ta nương vào ai!”
Lúc ấy Từ Giả lại nghĩ thế này: “Từ trước ta đã gặp thành bằng bạc, trong thành này có bốn nàng ra tiếp rước ta. Lại khi ta đi đến thành vàng, trong thành này có tám nàng ra tiếp rước ta. Lại khi ta đến thành pha lê, trong thành này có mười sáu nàng ra tiếp rước ta. Lại khi ta đến thành lưu ly, trong thành này có ba mươi hai nàng ra tiếp rước ta. Mà nay thành này không có một người đàn ông hay đàn bà, đồng nam hay đồng nữ ra tiếp rước ta, chỉ nghe những tiếng chẳng vui: “Ai đói, ai khát, ai lõa thân, ai chạy nhanh, ai đi xa về mỏi mệt, ta nương vào ai.” Ta nên vào thành này coi thử ai nói lời như vậy.” Bấy giờ Từ Giả liền bước vào thành. Vừa vào trong thành thì bốn cửa thành liền đóng kín. Từ Giả kinh hồn hoảng vía, toàn thân dựng chân lông, chạy khắp đó đây kêu la thế này: “Ta nay thất bại chăng? Ta nay bị hủy hoại chăng?” Trong khi Từ Giả tìm lối thoát bỗng thấy một người đầu đội bánh xe sắt, bánh xe đỏ rực giống như lửa hừng đang bốc cháy, thật đáng kinh hoàng. Từ Giả liền đến hỏi: -Thưa nhân giả, người là ai? Tại sao trên đầu có bánh xe xoay chuyển, đốt cháy đỏ rực, đáng sợ, giống như đống lửa như vậy?
Tội nhân đáp:
-Này nhân giả, người có biết chăng, tôi là thương chủ Cù-tần-bà.”
Từ Giả lại hỏi:
-Trước kia do nhân duyên tạo nghiệp gì mà ngày nay người bị vòng sắt đốt cháy đỏ rực xoay chuyển trên đầu như vậy?
Tội nhân đáp:
-Ngày trước do tôi sân hận đánh, đạp trên đầu mẹ tôi. Vì nhân duyên tội nghiệp như vậy nên ngày nay bị bánh xe sắt cháy đỏ rực xoay chuyển trên đầu.
Từ Giả nghe nói như vậy, buồn khóc kêu la, tự trách, sám hối, nhớ lại nghiệp mình thuở trước, rồi thốt lên:
-Ta đang bị giam cầm như con nai trong chuồng!
Đang lúc ấy có một quỷ Dạ-xoa quản thủ thành này tên là Bà-lưu-ca, đến gỡ vòng sắt trên đầu thương chủ Cù-tần-bà, đến chụp dính trên đầu Từ Giả. Lúc đó, vòng sắt đốt cháy đỏ rực làm cho Từ Giả đau khổ vô cùng, không thể chịu nổi. Chàng dùng kệ hỏi Dạ-xoa:
Thành này chu vi có bốn cửa
Thường rực ánh lửa khủng bố người
Ta đã thành giam hãm rồi
Giống như nai nọ sập vào bẫy.
Lành thay Dạ-xoa, ta xin hỏi:
Vòng lửa cớ gì dính đầu ta
Bùng cháy phừng phực như đống lửa
Làm cho mạng ta sắp từ trần?
Ta trước trải qua điện Hỷ lạc
Lại vào thành vàng, cung Thường túy
Đến thành pha lê, cung Ý lạc
Cuối cùng đến sống cung Phạm đức.
Trước vào thành bạc có bốn nàng
Sau đến thành vàng lại gặp tám
Pha lê thành nọ mười sáu nàng
Thành lưu ly ba mươi hai cô
Như vậy gặp đây, lại gặp kia
Tuần tự trải qua càng tốt đẹp.
Nay chẳng may gặp việc thế này
Nay sao vòng lửa khủng bố ta?
Do ta tham dục không biết đủ
Nay gặp khổ ách nạn như đây.
Hay là trước kia tạo nghiệp gì?
Nay bị vòng sắt cháy trên đầu
Bốc cháy đỏ rực như đống lửa
Làm mạng ta sắp lìa trần.
Xin vua Dạ-xoa thương nói rõ
Trải bao nhiêu năm chịu vòng này?
Khi ấy Dạ-xoa quản thủ thành sắt liền dùng kệ giải đáp cho Từ Giả:
Xưa kia, mẹ ngươi giữ tịnh giới
Ngươi dùng gót chân đạp đầu bà
Do vì nhân duyên nghiệp như vậy
Nay bị vòng sắt xoay trên đầu
Bốc cháy giống như đống lửa đỏ
Ngọn lửa cháy đỏ thật ghê mình.
Vòng lửa chuyển động trên đầu ông
Làm cho mạng ông chết rồi sống
Như vậy trải đủ sáu vạn năm
Số năm như vậy không giảm bớt
Vòng lửa thường ở trên đầu ông
Sự thật như vậy quyết không nghi.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:
Như có người quen giúp ích người
Người lại đền ân bằng tai họa
Người ấy về sau mắc tai ương
Giống như Từ Giả nổi sân si.
Chẳng nên gây ác lại gây ác
Chẳng nên tạo tội lại tạo tội
Người ấy về sau mắc tai ương
Giống như Từ Giả nổi sân si.
Như khởi từ tâm sau đổi ỷ
Với chỗ ân đức không báo ân
Người ấy về sau mắc tai họa
Giống như Từ Giả nổi sân si
Nghiệp lực quá khứ dẫn đến nay
Nghiệp lực hôm nay sẽ tiếp diễn
Nghiệp lực dẫn người sinh các xứ
Tùy người tạo nghiệp thọ khổ vui.
Chẳng phải trong biển, đất, hư không
Cũng không giữa núi hay trong đá
Không thể ở bất kỳ chỗ nào
Có thể thoát ly không thọ nghiệp.
Đức Phật báo các Tỳ-kheo:
-Ý các thầy thế nào? Chẳng nên nghĩ gì khác. Từ Giả lúc ấy là thân Ta ngày nay. Lúc ấy, trước khi vào biển Ta thọ Bát-quan-trai, do vì sức nhân duyên tạo nghiệp này nên được phước báo là bốn lần gặp thành báu, tất cả các vật đều được đầy đủ không thiếu hụt như vậy. Do nhân duyên ác tâm, tức giận đạp đầu mẹ mình nên tròn sáu vạn năm thọ quả báo bị vòng sắt đốt cháy rất cực khổ.
Này các Tỳ-kheo, do nhân duyên nghiệp báo, không phải vô cớ mà thọ khổ. Chỉ vì chúng sinh tạo nghiệp thiện ác, rồi theo nhân duyên ấy mà thọ quả báo. Do vậy các thầy cần phải tạo nghiệp thân khẩu, ý thanh tịnh.
Này các Tỳ-kheo, nếu thầy nào ngu si không rõ được tội phước thiện ác, cần phải thưa hỏi Sư trưởng, Hòa thượng, A-xà-lê, rồi sau đó mới đi vào xóm làng. Nếu Hòa thượng, A-xà-lê không cho phép mà tự ý ra đi thì theo pháp mà trị Tỳ-kheo ấy về tội bất kính không hiếu thuận.
***
Phẩm 53: BỔN SINH CỦA PHẬT THI-KHÍ
Khi Bồ-tát còn tu khổ hạnh ở bên bờ sông Ưu-lâu-tần-loa, ngồi nằm theo hoàn canh, mặc áo xấu cũ, chỉ nhận vật dùng cần thiết. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, hoặc một hạt lúa canh, hoặc một hạt tiểu đậu, hoặc một hạt đại đậu, hoặc một hạt lục đậu, hoặc một hạt đậu đỏ, hoặc một hạt đậu xanh.
Lúc đó vua Thâu-đầu-đàn tìm kiếm Bồ-tát, không biết ở đâu nên hỏi mọi người:
-Hiện giờ con ta ở xứ nào? Làm công việc gì?
Vào tháng, năm ấy vua thầm sai một sứ giả đi thăm hỏi chỗ ở của Bồ-tát. Nhà vua dặn sứ giả:
-Khanh ngày hãy tìm kiếm con ta đang ở đâu? Làm việc gì? Báo tin cho ta biết.
Khi ấy các sứ giả lãnh sứ mạng, tâu vua:
-Hạ thần sẽ y như lệnh Đại vương dạy, không dám trái lời.
Họ vội đi khắp nơi hỏi thăm tin tức, lần lần đi đến xứ Ưu-lâu-tần-loa, thấy Bồ-tát ở nơi đây tu hạnh khổ hạnh khó tu. Sứ giả vội trở về báo tin cho vua Thâu-đầu-đàn:
-Bạch Đại vương, lành thay! Hiện nay đồng tử đang tu khổ hạnh tại xứ ưu-lâu-tần-loa, chỗ ở của người đều tùy theo hoàn cảnh, mỗi ngày ăn một hạt đậu xanh…
Đại vương Thâu-đầu-đàn nghe tâu như vậy, lòng buồn áo não không vui, cất tiếng than:
-Ôi thôi, con ta ơi! Thân con mềm mại yếu đuối, vì việc gì con phải làm như thế!
Tuần tự trong vòng sáu năm, sứ giả luôn luôn đem những tin tức lành dữ tâu lên cho Đại vương biết. Thuở ấy, nàng Da-du-đà-la dòng họ Thích nghe sứ giả tâu: “Đồng tử đang ở chỗ khổ sở, tu khổ hạnh, chỗ ở ngủ nghỉ tùy hoàn cảnh, mỗi ngày ăn một hạt đậu xanh…” Nàng nghe việc như vậy rồi suy nghĩ: “Vì sao chồng ta đang tu khổ hạnh mà ta an nhiên hưởng thọ. Thật là điều không tốt. Ta cũng tùy thuận pháp tu của đồng tử mà hành khổ hạnh.” Nàng suy nghĩ như vậy rồi, liền cởi bỏ tất cả các đồ trang sức quý giá như chuỗi anh lạc, vàng, bạc, lưu ly, chân châu, ma-ni, phấn sáp, tràng hoa… rồi mặc toàn đồ trắng, chỉ để lại búi tóc trên đầu. Đồ nằm tầm thường, ăn cơm dỡ chỉ sao cho đủ sống. Người đời khổ hạnh không hơn như vậy được.
Sau khi Đức Thế Tôn đã thành đạo rồi, Ưu-đà-di bạch Phật: -Tại sao Da-du-đà-la khi biết Thế Tôn tu khổ hạnh trong rừng núi, nàng khéo tùy thuận Thế Tôn mà tu khổ hạnh, các người thế gian không thể sánh bằng?
Đức Phật bảo Ưu-đà-di:
-Này Ưu-đà-di, nàng Da-du-đà-la dòng họ Thích, chẳng chỉ mới đời này khi thấy Ta tu khổ hạnh trong rừng núi, nàng có thể theo pháp của Ta mà tu khổ hạnh, nhưng trong đời quá khứ, khi thấy Ta lâm ách nạn nàng cũng theo Ta vào nơi đại khổ nạn.
Ưu-đà-đi bạch Phật:
-Việc ấy như thế nào, xin Ngài kể rõ.
Đức Phật bảo Ưu-đà-di:
-Ta nhớ thuở quá khứ lâu xa, trong vùng núi rừng khe thác vô cùng vắng vẻ, yên tĩnh. Ở đó có một con nai chúa dẫn đầu bầy nai, ăn cỏ lá để sống. Vào một hôm nọ, nai tuần tự dạo khắp đó đây, bị sa vào bẫy lưới của một thợ săn. Bầy nai hoảng hốt bỏ chạy tứ tản. Khi ấy chỉ còn một con nai cái thây nai chúa sa bẫy, liền đứng lại không chạy. Thuở ấy bầy nai biết tiếng người, nên nai cái dùng kệ nói với nai chúa:
Nai chúa phải nỗ lực
Đầu và chân phải mạnh
Thợ săn rập bủa lưới
Lúc này họ chưa đến.
Nai chúa dùng kệ đáp lại nai cái:
Ta nay tuy dùng sức
Không thể phá bẫy này
Vì da làm dây lưới
Trói buộc lại càng chặt.
Núi rừng cảnh tuyệt đẹp
Suối ngọt, cỏ xanh ngon
Nguyện cho đời vị lai
Chẳng còn tai ương này.
Có kệ:
Thuở ấy hai nai này
Sợ hãi lệ tuôn trào
Do vì thợ săn đến
Cầm gậy lại cầm dao.
Thấy thợ săn cầm gậy đến, nai chúa dùng kệ bảo nai cái:
Kia là thợ săn, họ sắp đến
Mặc áo da nai, thân đen sạm
Nay đến quyết lột lấy da ta
Chặt nhỏ thân ta, họ mang về.
Khi ấy nai cái ngước nhìn thợ săn đang tiến đến trước mặt mình, nói kệ:
Lành thay bác thợ săn.
Nay nên trải cỏ ra
Trước mổ da thịt ta
Rồi giết nai chúa sau.
Thợ săn hỏi nai cái:
-Nai chúa này cùng với ngươi thân thuộc thế nào?
Nai cái đáp:
-Nai chúa này là chồng của tôi, hết sức yêu kính nhau. Vì vậy nên tôi nghĩ thế này: “Mong rằng chúng tôi chẳng bị cảnh ái biệt mà phân ly.” Vì vậy xin bác giết tôi trước, sau mới giết nai chúa.
Lúc ấy tên thợ săn nghĩ: “Hiền phụ này thật là ít có. Là loài nai mà có lòng chung thủy sâu nặng như vậy!”
Thợ săn đối với nai cái hết sức vui lòng, dùng kệ đáp:
Từ nhỏ đến nay chưa từng nghe
Thấy có loài thú biết tiếng người
Việc này thế gian thật ít có
Ta nào nỡ sinh tâm sất hại.
Ta nay chẳng những không giết ngươi
Chồng ngươi ta cũng đều phóng thích
Vậy mạng hai ngươi đều được sống
Nguyện vợ chồng ngươi hường đoàn tụ.
Thợ săn đến chỗ bẫy, thả nai chúa ra. Nai cái thấy chồng mình được tự do, rất vui mừng hớn hở toàn thân, không thể tự chế, lại dùng kệ thưa thợ săn:
Lành thay thợ săn thật cao cả!
Thân quyến thấy bác đều hoan hỷ
Như ta thấy được chồng giải thoát
Vui mừng hớn hở cũng như nhau.
Đức Phật bảo Ưu-đà-di:
-Thầy phải biết, nai chúa thuở ấy đâu phải người nào khác, là thân Ta ngày nay. Nai cái thuở đó là tiền thân của nàng Da-du-đà-la ngày nay. Da-du-đà-la thuở ấy còn theo Ta chịu đại khổ ách, huống chi là ngày hôm nay tùy thuận Ta thực hành đại khổ hạnh. Đối với việc người đời không thể làm được mà nàng có thể làm được.
Nói về La-hầu-la, do bị nghiệp nhân quá khứ làm khổ sở nên ở trong thai mẹ sáu năm. Còn Da-du-đà-la vì Bồ-tát nên chịu buồn khổ, không trang điểm. Khi Như Lai mãn sáu năm tu khổ hạnh, chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vua Thâu-đầu-đàn vẫn sai sứ giả theo dõi tin tức. Khi sứ giả thấy Đức Phật Thế Tôn rời chỗ ngồi thì vội vã trở về hoàng cung, tâu vua Thâu-đầu-đàn:
-Bạch Đại vương, ngày nay Thái tử đã thỏa mãn tâm ý, rời khỏi chỗ ngồi, không còn tu khổ hạnh nữa.
Vua Thâu-đầu-đàn nghe tâu như vậy, liền sai sứ giả khác và dặn:
-Các khanh phải đi đến chỗ Thái tử. Đến đó truyền lời của ta như thế này: “ Con không còn tu khổ hạnh, vậy mau trở về thống lãnh quốc gia, làm Chuyển luân thánh vương đầy đủ bảy báu.”
Hai sứ giá vâng lãnh sắc lệnh, như lời vua dạy theo đúng sắc lệnh, đi đến chỗ Thái tử. Đến nơi, họ đầu mặt đảnh lễ sát chân Thái tử, đứng lui về một bên, bạch Thái tử:
-Lành thay! Thưa Thái tử, Đại vương Thâu-đầu-đàn sai hạ thần đến đây truyền lời Đại vương cho Thái tử biết: “Con không còn tu khổ hạnh, nên mau trở về thống lãnh quốc gia, làm Chuyển luân thánh vương đầy đủ bảy báu.”
Nghe hai sứ giả thưa như vậy, Thế Tôn nói kệ:
Người nào đã điều phục
Người đời không lay chuyển
Cảnh chư Phật vô biên
Đến đi không tung tích.
Nếu người không sa lưới
Ái không do đâu sinh
Cảnh chư Phật vô biên
Đến đi không tung tích.
Khi ấy Da-du-đà-la ở trong cung, nghe tin Thái tử hết tu khổ hạnh, hy vọng chẳng bao lâu chắc chắn sẽ trở về thọ lãnh vương vị, làm Chuyển luân thánh vương cai trị dân chúng. Bà lại nghĩ: “Thái tử làm Chuyển luân thánh vương, ta sẽ làm đệ nhất phi.” Vì vậy bà vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, đem các loại dầu thơm thoa vào thân, mặc y phục quý giá và trang sức bằng chuỗi anh lạc, ăn toàn thức ăn thượng vị, nằm ngủ trên bảo sàng với đồ mềm mại. Làm như vậy là để chờ đón Thái tử.
Khi La-hầu-la ở trong thai mẹ đã sáu năm, nghiệp báo trong quá khứ đã mãn, cũng chính là lúc Da-du-đà-la tự bổ dưỡng cho mình. Do vậy, La-hầu-la mới chào đời. Khi La-hầu-la ra đời, mọi người trong cung vội vã đến tâu lên vua Thâu-đầu-đàn:
-Lạ thay! Tâu Đại vương, Da-du-đà-la đến nay mới sinh con! Nhà vua nghe tâu như vậy, hết sức phẫn nộ, nói:
-Thái tử con ta xả tục xuất gia đã sáu năm, đến nay Da-du-đà-la mới sinh con, ở đâu có vậy?
Lúc ấy Thích Đề-bà-đạt-đa thưa:
-Đứa bé đó là con tôi.
Đại vương Thâu-đầu-đàn lại càng tức giận, liền cho triệu tập tất cả người trong Hoàng gia, tuyên bố:
-Này các khanh phải biết, Da-du-đà-la không giữ gìn thanh danh Thái tử con ta, cũng không giữ gìn thanh danh ta, cũng không giữ danh dự. Tâm ý nàng buông lung làm ô nhục tôn tộc chúng ta, ngày nay chúng ta phải làm gì để phạt nó?
Bấy giờ tất cả hoàng tộc đồng thanh nói:
-Da-du-đà-la làm ô nhục gia tộc chúng ta. Chúng ta phải đem khổ nhục pháp của hoàng gia mà trị phạt.
Lúc ấy trong cuộc họp có một đại thần đề nghị:
-Nên cắt tóc nó! Dùng gậy đánh nó, đánh rồi gây thương tích trên người.
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Phải cắt tai, mũi nó quăng đi!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Nên móc hai con mắt nó!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Đâm lủng thân nó rồi xỏ cột trên cây!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Ném nó xuống dưới giếng lạng!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Ném nó trong đống lửa!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Bắt nó ôm cột sắt nung cháy!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Cột tay chân nó rồi cho bầy bò giậm đến chết!
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Bắt nó nằm trên đất cho voi lớn giậm qua.
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Dùng cưa xả ra từ đầu đến chân.
Lại có một đại thần khác đề nghị:
-Chặt thân nó làm tám khúc.
Bấy giờ Đại vương Thâu-đầu-đàn tuyên bố với các đại thần: -Ngày nay ta ra lệnh cho Da-du-đà-la và con của nó đều phải chết.
Thuở ấy Thái tử đã thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên nhìn thấy nàng Da-du-đà-la và con nàng bị ách nạn. Do lòng từ bi nên nơi nào khổ nạn Ngài cũng đều thấy. Có trời Tỳ-sa-môn cách Đức Phật chẳng xa, Thiên vương này biết được ý của Như Lai, liền cầm bút mực và lá kè dâng lên Như Lai. Lúc ấy tự tay Thế Tôn viết thư cho phụ vương: ‘Thưa Đại vương, đứa bé Da-du-đà-la sinh ra là con của con. Xin phụ vương chớ nghi.”
Lúc ấy Thiên vương Tỳ-sa-môn vội vã đi đến giữa đám quần thần của vua Thâu-đầu-đàn, đưa thư này cho nhà vua. Có bức thư làm chứng rõ ràng, vua Thâu-đầu-đàn xem xét mới thấy rõ ràng những dòng chữ trong bức thư này chính là tay Thái tử Tất-đạt-đa, con mình viết. Vua Thâu-đầu-đàn và các vị đại thần vì bức thư này mới hoan hỷ đối với Da-du-đà-la.
Thuở ấy, Da-du-đà-la nghe người nói lại: “Đại vương ra sắc lệnh sắp giết hai mẹ con mình.” Vì để bảo tồn thân mạng nên nàng vội vã đi đến cung điện của Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di tâu lên:
-Lành thay! Thưa Tôn hậu, việc này con vô tội. Hài nhi này là dòng máu của Thái tử. Nghe rằng một thời gian ngắn nữa, Thái tử sẽ trở về. Khi Thái tử về thì sự vụ này sẽ rõ. Nếu nay tính giết mẹ con con, thật là oan uổng!
Khi Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Da-du-đà-la tâu lên như vậy, rất hoan hỷ, liền cho tỳ nữ đến thỉnh vua Thâu-đầu-đàn đến vườn cây A-du-ca. Khi nhà vua giá lâm thì Ma-ha Ba-xà-ba-đề tâu lên nhà vua:
-Cúi xin Đại vương xét cho. Nay nàng Da-du-đà-la dòng họ Thích đến đây tâu với thiếp: “Việc này con vô tội. Hài nhi này là dòng máu của Thái tử. Nếu Thái tử về đây thì việc này hư thật tự rõ.” Vì vậy, xin Đại vương đừng ra lệnh giết mẹ con họ. cần phải đợi Thái tử về liền biết việc này sự thật thế nào.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn nghe Ma-ha Ba-xà-ba-đề tâu những điều hợp tình hợp lý như vậy, liền bảo Ma-ha Ba-xà-ba-đề:
-Lời này thật có lý, nên y như lời của tôn hậu, chúng ta nên đợi Thái tử về. Nếu không đúng như vậy thì việc này chẳng biết xác định thế nào.
Tuy như vậy, nhưng nhà vua đối với Da-du vẫn chưa hoan hỷ. Do vậy, nên chỉ cấp một ít y phục và chuỗi anh lạc, đồng thời ra lệnh an trí sống một mình.
Sau đó Da-du-đà-la lại đi đến Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di tâu lên:
-Lành thay! Thưa Tôn hậu, ngày nay con muốn đến trong vườn để tế lễ đền đáp nguyện nhỏ với chư Thiên, không biết Tôn hậu có cho phép hay không?
Lúc bấy giờ Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng Da-du-đà-la đem theo La-hầu-la, sắm đầy đủ lễ vật đi đến đền thờ Thiên thần. Vị thần này tên là Lô-đề-la-ca nên lâm viên cũng lấy tên Thiên thần là Lô-đề-la- ca. Nơi đây thuở xưa, khi còn tại gia Bồ-tát thường đến vui chơi an nghỉ nơi vườn này. Trong vườn có một tảng đá lớn, là nơi khi xưa Bồ-tát ngồi trên đó. Lúc ấy Da-du-đà-la đặt La-hầu-la nằm nghỉ trên tảng đá này, rồi sau đó xô tảng đá xuống nước, thề nguyện:
-Ta nay phát lời thề chân thật không giá dối. Việc này chỉ với Thái tử, ngoài ra không với một người đàn ông nào khác. Đứa con của tôi thật là dòng máu của Thái tử. Nếu điều này không hư dối thì khiến tảng đá này nổi lên mặt nước, không chìm.
Lúc ấy tảng đá lớn đúng như lời thề, nổi trên mặt nước, giống như tàu lá chuối nổi trên nước, không bị chìm.
Bấy giờ mọi người thấy việc như vậy cho là điều hy hữu, xôn xao, vui mừng hớn hở không thôi, reo hò, ca múa, xướng hát, vung vạt áo, tay áo rồi lại trổi các kỹ nhạc…
Khi vua Thâu-đầu-đàn nghe việc này, hết sức vui mừng tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, liền ra lệnh trong hoàng thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô dọn dẹp gai góc, sạn sỏi, đất đá và các vật bất tịnh ô uế… Lại dùng nước thơm rưới mặt đường, quét dọn sửa sang bằng phẳng, tại các nơi, an trí lư hương được đốt bằng các loại hương thơm tuyệt diệu. Xen lẫn giữa các lư hương đặt những bình quý đựng đầy nước hoa với những cành hoa thơm ngát. Lại giữa các hư hương và bình hoa có trồng các cây chuối thành hàng dài, trên đó treo những dải lụa sặc sỡ, với những cờ phướn đầy đủ màu sắc cùng những chuỗi ngọc quý tung bay khắp nơi, cùng với mành lưới gắn linh vàng bủa khắp phía trên. Lại tạo những hình mặt trời, mặt trăng, tinh tú treo trên hư không với những chuỗi hoa bằng ngọc rủ xuống. Lại dùng các đuôi mao ngưu xen lẫn bên trong.
Khi thành Ca-tỳ-la được trang hoàng xong, tráng lệ giống như thành Càn-thát-bà. Sau khi trang hoàng xong, nhà vua liền rước La-hầu-la vào thành. Sau đó vua lại triệu tập thân bằng quyến thuộc hoàng gia họ Thích, tất cả đều tề tựu đông đủ rồi mới trần thiết các vật cần dùng, tài vật, đồ ăn uống… Lại tổ chức một ngày sinh nhật riêng cho La-hầu-la.
Khi Da-du-đà-la lâm bồn thì thần La-hầu-la A-tu-la vương dùng tay che ánh sáng mặt trăng trong khoảng thời gian ngắn, chốc lát rồi buông ra. Do vậy, các quần thần quyến thuộc họ Thích nhóm họp lại bàn luận: “Khi thần A-tu-la che mặt trăng trong thời gian ngắn thì nhằm lúc sinh đồng tử, vì vậy đặt tên cho đồng tử là La-hầu-la.”
La-hầu-la khôi ngô dễ thương, mọi người trông thấy ai cũng hoan hỷ. Da thịt trắng vàng như màu vàng chân kim, đầu tròn như chiếc lọng, mũi cao thẳng như chim anh vũ, đôi cánh tay dài thon duỗi dài quá gối. Tất cả các bộ phận trên người không có khuyết giảm. Các căn đều hoàn hảo, không một căn nào là không hoàn bị.
Bấy giờ vua Thâu-đầu-đàn vì La-hầu-la chọn bốn di mẫu. Bốn di mẫu làm những gì? Một bà bồng bế, một bà tắm rửa, một bà bú mớm, một bà dẫn dạo chơi. Bốn di mẫu này tùy theo thời tiết nuôi dưỡng nên chẳng bao lâu La-hầu-la đã được khôn lớn.
Thuở đó Đức Thế Tôn chuyển pháp luân tại thành Ba-la-nại, tiếng thuyết pháp được chư Thiên các cõi trời truyền nhau lên đến cõi Phạm đảnh. Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn nghe Thái tử thành đạo, sau khi thành đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Thế Tôn đến thành Ba-la-nại chuyển đại pháp luân, vì chư Thiên và dân chúng mà thuyết giảng diệu pháp.
Bấy giờ vua Thâu-đầu-đàn đối với Thế Tôn nhớ nhung gấp bội, suy nghĩ: “Ta phải dùng phương tiện gì để khiến Thái tử thương xót quyến thuộc, mau trở về thành Ca-tỳ-la?.” Rồi vua lại nghĩ: “Phải sai ai làm sứ giả? Ai là người có trí lược thông thạo trong việc này?” Vua lại nghĩ thế này: “Ưu-đà-di, con của Quốc sư, kế đến là Xa-nặc. Hai người này từ nhỏ đến lớn đã cùng với Tất-đạt-đa luôn luôn gần gũi thân thiết, giao du với nhau. Hai người này có khả năng đi đến chỗ Tất-đạt-đa. Vậy nay ta có thể sai hai người này làm sứ giả.”
Nhà vua liền đòi ưu-đà-di con Quốc sư và Xa-nặc đến, bảo: -Này hai khanh, nay hai khanh phải biết, ngày nay Thái tử đã thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Người đã đến thành Ba-la-nại chuyển pháp luân, vì chư Thiên, dân chúng mà diễn nói các pháp. Nay các khanh nên mau đến đó, đọc sắc lệnh của ta, truyền ý muốn của ta: “Ngày nay Thái tử tu khổ hạnh đã đến chỗ cùng tột, thỏa mãn tâm ý, đã chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đã chuyển Vô thượng pháp luân, vì chư Thiên, dân chúng diễn thuyết các phấp. Lành thay! Thưa Thái tử, hãy thương xót quyến thuộc mà trở về thành Ca-tỳ-la.”
Bấy giờ Ưu-đà-di, con của Quốc sư cùng với Xa-nặc tâu vua: -Đại vương phải biết, nếu Thái tử Tất-đạt-đa không về thì chúng tôi không biết phải dùng kế gì?
Đại vương bảo:
-Hai khanh chỉ nghe lời Thái tử dạy bảo. Ưu-đà-di, con Quốc sư và Xa-nặc liền tâu nhà vua:
-Theo như lời Đại vương dạy, kẻ hạ thần này không dám trái lệnh.
Hai người lãnh chiếu chỉ, đảnh lễ dưới chân nhà vua, rồi mỗi người trở về gia đình mình từ giã cha mẹ, quyến thuộc.
Hai người lần lần đi đến vườn Nai, chỗ ở của chư Tiên nhân, thuộc nước Ba-la-nại. Đến nơi, hai người đảnh lễ dưới chân Thế Tôn rồi đứng lui về một bên và bạch:
-Ngày nay chúng tôi phụng lệnh Đại vương Thâu-đầu-đàn mang thánh chỉ đến đây. Thánh chỉ dạy: “Lành thay Thái tử, ngày nay Thái tử tu khổ hạnh đã được siêu việt, đã mãn nguyện chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển đại pháp luân, lại vì chư Thiên, dân chúng diễn thuyết các pháp. Lành thay Thái tử, nay vì thương xót tất cả thân bằng quyến thuộc có thể trở về thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô.”
Đức Thế Tôn nghe nói như vậy liền nói kệ:
Nếu người đã điều phục
Người đời không lay chuyển
Cảnh chư Phật vô biên
Đến đi không tung tích.
Nếu người không sa lưới
Ái không do đâu sinh
Cảnh chư Phật vô biên
Đến đi không tung tích.
Lúc bấy giờ Ưu-đà-di con Quốc sư và Xa-nặc bạch:
-Thế Tôn muốn chúng tôi nên làm gì?
Đức Phật dạy:
-Các ông có thể học pháp xuất gia như các đệ tử này của Ta được không?
Tuy Thế Tôn hỏi hai người như vậy nhưng trước họ đã đối với Phật có ý ngưỡng mộ xuất gia, nhân đấy họ bạch Phật:
-Hai chúng tôi đều hâm mộ xuất gia.
Khi ấy Đức Thế Tôn liền cho họ xuất gia thọ giới Cụ túc.
Từ khi Đức Thế Tôn xuất gia cho đến khi thành đạo, rời khỏi tòa chưa từng xoay mặt về hướng quê hương thành Ca-tỳ-la, cho đến khi chưa hóa độ năm Tỳ-kheo thiện hữu tri thức và cho đến thân bằng thiện hữu của Da-du-đà, bốn vị trưởng giả ở thành Ba-la-nại: một là Tỳ-ma-la, hai là Tô-bà-hầu, ba là Phú-lâu-na và bốn là Bà-bà-bát- đế.
Bấy giờ Tôn giả Da-du-đà có trên năm mươi bạn thân. Trưởng lão Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử có đồ chúng là ba mươi mốt người. Trưởng lão Ma-ha Ca-chiên-diên lại có tám vạn bốn ngàn đệ tử. Trưởng lão Bà-tỳ-da cũng có đệ tử lớn, là ba mươi người và số bạn thân đồng hành là sáu mươi người. Tại làng Mê-kỳ-da có Trưởng lão Na-tỳ-ca-tê-na-da-na.
Lại một Bà-la-môn có hai người con gái, một người là Nan-đà, một người là Bà-la. Lại có vợ chồng Bà-la-môn Đề-bà, Trưởng lão Tần-loa Ca-diếp gồm có năm trăm Phạm chí Loa kế. Lại có Trưởng lão Phạm chí Loa kế Na-đề Ca-diếp gồm ba trăm đồ chúng. Lại có Trưởng lão Dà-da Ca-diếp với số đồ chúng là hai trăm người. Lại có Trưởng lão Ưu-ba-tư-na có hai trăm năm mươi người. Lại có năm trăm Tiên nhân tu khổ hạnh trong rừng Thọ lâm. Vì họ mà Đức Phật đã tuôn trận mưa pháp. Lại vua Tần-bà-sa-la và bá quan, dân chúng trong thành Vương xá gồm có chín mươi hai na-do-tha người. Lại có Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp, Trưởng lão Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và năm trăm đệ tử của ngoại đạo San-xà-da Ba-lê-bà-xà-ca.
Khi Đức Thế Tôn giáo hóa những người ấy rồi, sau đó Ngài mới ngồi xoay mặt về hướng quê hương thành Ca-tỳ-la. Bấy giờ Ưu-đà-di thấy Thế Tôn ngồi xoay mặt về quê hương thành Ca-tỳ-la. Lúc ấy chư Thiên thưa Trưởng lão ưu-đà-di:
-Lành thay! Thưa Tôn giả, giờ đây ngài có thể thỉnh Thế Tôn về thành Ca-tỳ-la, nơi quê hương, vì thương xót thân bằng quyến thuộc.
Lúc ấy Trưởng lão Ưu-đà-di hiểu được thánh ý là Như Lai sắp về quê, liền rời chỗ ngồi, bày áo vai hữu, sửa sang y phục, chắp tay khom lưng cúi đầu, nói kệ thưa:
Ví như cây cối chẳng phải mùa
Muốn ra hoa, quả đợi thời tiết
Hoa quả trái thời không tươi tốt
Nay Phật có thể vượt sông Hằng.
Chính lúc ngàn cây khoe sắc thắm
Hương hoa tỏa khắp mười phương cõi
Hoa nở rồi lại kết quả ngon
Chính lúc Thế Tôn về đất mẹ.
Lúc này vi diệu thật tuyệt vời
Sông hồ nước biếc, hương thanh khiết
Ngàn nội trăm chim hót ví von
Hân hoan hạnh phúc chính lúc này.
Xưa kia họ Thích phát tâm nguyện
Tất cả đại địa thuộc của ta Thấy
Ngài xuất gia càng buồn khổ
Không vừa ý nguyện càng uất hận.
Quyến thuộc Thế Tôn đang mong đợi
Do Ngài sinh hạ La-hầu-la
Nguyện Ngài về lại giải điều nghi
Mọi người khắt ngưỡng trông gặp mặt.
Như Lai nên nghĩ ân di mẫu
Vì bà Ngài khởi lòng thương xót
Nếu thấy Đại thánh đi xa về
Vui mừng hớn hở hết ưu tư.
Đại vương họ Thích Thâu-đầu-đàn
Xưa nay phát nguyện lòng tha thiết
Ước sao gặp lại thân vàng ròng
Con ta trở lại Ca-tỳ-la.
Thời tiết lúc này trời ấm áp
Hợp lúc Thế Tôn đi an lạc
Ngàn vạn thân bằng chờ chiêm ngưỡng
Giống như sao Tất đợi trăng về.
Đức Thế Tôn liền bảo ưu-đà-di:
-Này ưu-đà-di, nếu việc ấy thật như vậy thì hai thầy về thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô báo tin trước cho thân bằng quyến thuộc dòng họ Thích của Ta thế này: “Việc tu hành khổ hạnh của Thái tử nay đã xong, vì thương xót quyến thuộc, chẳng bao lâu nữa Thái tử sẽ trở vẽ.
Ưu-đà-di và Xa-nặc được Phật chỉ dạy, liền bạch Phật:
-Cúi xin Đức Thế Tôn, chúng con xin vâng lời.
Hai người đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi từ tạ ra đi. Lần hồi đã về đến thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, hai người dừng chân lại trong xóm, nơi khu rừng Ni-câu-đà.
Thuở ấy, nhằm lúc vua Thâu-đầu-đàn trang hoàng bảo xa tứ mã, ra khỏi thành, hướng về khu rừng Ni-câu-đà thưởng ngoạn mảnh đất tươi mát này. Khi ấy nhà vua từ xa trông thấy Trưởng lão Xa-nặc và Trưởng lão Ưu-đà-di cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, tay bưng bình bát. Thấy vậy, nhà vua liền hỏi các đại thần:
-Đó là người gì mà cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, tay bưng bình bát vậy?
Các đại thần liền tâu vua:
-Hai người này là môn đồ của Thái tử Tất-đạt-đa.
Khi ấy trong lòng vua Thâu-đầu-đàn âu sầu áo não chẳng vui, nói:
-Con ta dung nghi đoan chánh dễ thương, giống như tượng vàng, người ta trông thấy không chán mà ngày nay thân hình hai người này như vậy, ta chẳng muốn thấy chút nào! Này các khanh, các khanh phải đuổi hai người này cho khuất mắt.
Nhà vua nói vậy rồi mới tiến vào trong hoa viên. Bấy giờ các đại thần suy nghĩ: “Hai người này, một người là con Quốc sư, người thứ hai là kẻ hầu cận Thái tử Tất-đạt-đa.” Suy nghĩ như vậy nên không đuổi họ đi.
Vua Thâu-đầu-đàn dạo chơi trong vườn, lại muốn trở ra. Bấy giờ các đại thần sợ vua thấy hai vị Trưởng lão này mà sinh khó chịu, cho nên đưa hai vị này vào căn nhà trống.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nay phải nhanh chóng sắm đầy đủ y bát. Ta sắp du hành quan sát xóm làng, thành ấp, các nước. Nhân đó Ta sẽ ghé thăm quê hương là thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, vì thương xót tất cả quyến thuộc.
Bấy giờ Trưởng lão Xá-lợi-phất rời khỏi tòa, sửa sang y phục, trịch áo vai bên phải, đầu gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:
-Hy hữu thay Thế Tôn! Chưa từng có như vậy! Thưa Thế Tôn, ngày nay chính là lúc Thế Tôn du phương. Thật là vi diệu! Ngày nay Đức Thế Tôn sắp du hành quán sát các nước, thật là đúng lúc!
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
-Nay thầy muốn nghe việc này chăng? Ta sẽ nói cho thầy biết. Đức Thế Tôn Thi-khí Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khi sắp du hành thăm quê hương sinh ra Ngài, quán sát xóm làng thành ấp mọi nơi, lúc ấy có nhân duyên vi diệu thật là thích thú.
Khi ấy Xá-lợi-phất bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, nay đã đúng lúc, xin Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà nói việc Như Lai Thi-khí thuở xưa, khi sắp về lại quê hương, nơi sinh ra Ngài, quán sát xóm làng, thành ấp, để các Tỳ-kheo nghe việc đó ghi nhận.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng kệ nói việc Đức Như Lai Thi-khí du hành mọi nơi, quán sát quê hương sinh ra Ngài:
Hay thay tuyệt diệu Xá-lợi-phất.
Thầy nay cần phải nhất tâm nghe
Ngày xưa Như Lai Phật Thi-khí
Đi lại quán sát vùng đất mẹ:
Du hành tất cả thành, thôn ấp
Xưa thấy Như Lai Phật Thi-khí
Nơi nơi đều sinh dòng suối ngọt
Nước đầy mùi vị tám công đức.
Du hành tất cả thành, thôn ấp
Xưa thấy Đại Thánh Phật Thi-khí
Nơi nơi đều có các rừng hoa
Cành lá sum suê rủ sát đất.
Du hành ngang qua dưới rừng cây
Như Lai Thi-khí nghỉ ở đâu
Cây ấy tự nhiên tuôn hoa đẹp
Phủ kín một vùng trên mặt đất.
Tất cả rừng cây Ngài bước đến
Như Lai Thi-khí đứng ở đâu
Quả ngọt cây ấy tự nhiên rụng
Cành lá uốn mình đều sát đất.
Có cây người ta vừa vói tới
Hoa quả chen nhau thật tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Cây nào người ta vói không tới
Hoa tươi, quả ngọt tự nhiên rơi
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên trên đất hoặc trên không
Cùng lúc rải hoa thật tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Đều rải hoa thơm đẹp tươi mát
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Mưa hoa tên gọi Mạn-đà la
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Hoa Ba-lê-da được rải xuống
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Mưa hoa tên gọi Tỳ-bà-già
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải xuống loại hoa thơm ngào ngạt
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải xuồng các hoa thơm tuyệt đẹp
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải các loài hoa hương tỏa khắp
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư .
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải các hoa thơm nhiều loại khác
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải toàn hoa vàng màu tuyệt đẹp
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải hoa bảy báu màu tuyệt đẹp
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải toàn loại hoa cọng vàng ròng
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải toàn loại hoa cộng quý báu
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải toàn hoa cánh Ưu-ba-la
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải toàn bột thơm gỗ chiên-đàn
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Rải bột hoa thơm xích chiên-đàn
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không .
Rải toàn bột hương gỗ ngưu đầu
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở tại hư không
Tấu lên các thứ âm nhạc trời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Phi nhân hiện ở tại hư không
Tung vãi các loại y trời đẹp
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phất sình việc như vậy.
Chư Thiên tùy thuận đường Phật đi
Mang các loại hoa mùi thơm diệu
Hoa đó long lanh ánh sáng ngời
Mưa hoa xuống đường ngập đến gối.
Thuở ấy khí hậu trời ấm áp
Cũng không ruồi nhặng, các độc trùng
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Đại địa mọi nơi đều chuyển động
Tất cả đại hải và núi lớn
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Tất cả đại địa đều êm dịu
Sạch sẽ gai góc đều không có
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Bao nhiêu hầm hố đều bằng phẳng
Núi non, gò nổng chẳng gồ ghề
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Vua chúa Sát-lợi đầy oai đức
Số ấy tám vạn lẻ sáu ngàn
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Các hàng Phạm chí tu tịnh hạnh
Số ấy tám vạn lẻ sáu ngàn .
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Trưởng giả phú quý đầy oai đức
Số ấy tám vạn lẻ sáu ngàn
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Chư Thiên Địa cư cũng hiện diện
Trang nghiêm thanh tịnh đẹp tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Lại có chư Thiên cõi hư không
Oai đức trang nghiêm thật thù thắng
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Bốn Đại thiên vương và thiên chúng
Oai đức thù thắng đẹp tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó, theo hầu hạ.
Các vị Đại vương trời Hộ thế
Lại đầy oai thế đẹp tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ
Chúng trời Đao-lợi ba mươi ba
Oai lực vi diệu càng thù thắng
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Vua trời Đế Thích đảnh Tu-di
Cùng các thân hữu hàng quyến thuộc
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ
Chư Thiên Thiện phần trời Dạ-ma
Oai nghiêm thanh tịnh đẹp tuyệt vời
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Chư Thiên Hỷ lạc trời Đâu-suất
Công đức oai nghiêm thật nhiệm mầu
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Lại có chư Thiên trời Hóa lạc
Công đức tu hành càng vi diệu
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Lại có chư Thiên trời Tha hóa
Oai đức trang nghiêm rất rực rỡ
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Lại có chư Thiên Đại phạm cung
Màu sắc oai lực xoay rực rỡ
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Bao nhiêu chư Thiên trời sắc giới
Tất cả thần, rồng, chim cánh vàng
Thần Càn-thát-bà, A-tu-la
Dạ-xoa, quỷ thần và La-sát
Ma-hầu-la-già, Khẩn-na-la
Đầy đủ oai đức thật nhiệm mầu
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Tất cả chúng sinh nơi thế gian
Đã kể trên đây và chưa kể
Như Lai Thi-khí Đại Thánh Sư
Đứng ngồi đây đó theo hầu hạ.
Thế Tôn Thi-khí hạnh như vậy
Điều phục vô lượng chúng trời, người
Chánh giác nhập vào Đại Niết-bàn
Dứt hẳn luân hồi không sinh lại.
Đức Phật lại nói với Xá-lợi-phất:
-Đức Thi-khí Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thê Tôn lần đầu tiên sắp trở về thăm quê hương của Ngài, có vô lượng vô biên những sự việc hy hữu như vậy.
***
Phẩm 54: NHÂN DUYÊN ƯU-ĐÀ-DI
Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
-Này Xá-lợi-phất, Ta sắp du hành các nước, trước tiên sẽ đến mảnh đất tươi đẹp, nơi quê hương của Ta.
Xá-lợi-phất liền rời tòa đứng dậy, sửa y phục, bày vai bên phải, chắp tay bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, khi nào Đức Thế Tôn du hành các nước để quán sát xóm làng?
Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:
-Này Xá-lợi-phất, vào tháng này, khi kỳ Bố tát giữa tháng xong, sau đó Ta sẽ du hành các nước.
Sau khi Đức Thế Tôn Bố-tát giữa tháng xong, Ngài cùng các Tỳ-kheo đi bộ trải qua các nước. Khi Đức Thế Tôn đến thành Vương xá, Ngài thọ trai xong, xoay lại đưa chân bước lên cửa ngoài thành. Khi ấy quả đất chấn động sáu cách, động rồi lại động, nổi lên chìm xuống, nổi lên.
Lúc ấy vua Tần-bà-sa-la cùng với dân chúng nước Ma-già-đà liền đi đến chỗ Phật rồi theo Phật du hành các quốc gia để quán sát các xóm làng. Khi ấy trên hư không có vô lượng ngàn ức chư Thiên thấy Đức Phật sắp du hành các nước, họ đều nhóm họp vui mừng hớn hở cả toàn thân không thể tự chế. Miệng họ xướng lên những âm thanh rất hay, ca hát, huýt gió vui nhộn, kêu la rộn rịp, ngồi xoay tròn, múa tay áo, tung rải Thiên y, lại tung rải các loại hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng lớn trên mình Đức Phật, lại đem các loại phấn thơm, dầu thơm và các tràng hoa thơm rải đi rải lại trên mình Đức Phật.
Lúc bấy giờ, quốc gia xứ sở nào mà Đức Thế Tôn quang lâm đến thì tất cả dân chúng ở vùng ấy đều cung kính tôn trọng cúng dường. Như Lai đến chỗ nào đều được các thứ y phục tốt đẹp, đồ ăn uống, thuốc thang, mền mùng, giường nệm… tất cả những vật như vậy không thể kể xiết, lợi dưỡng tuyệt vời không thể thiếu một món gì. Danh tiếng đồn khắp thế gian, nhưng Đức Phật đối với danh dự và lợi dưỡng này không sinh tâm tham đắm, giống như hoa sen mọc nơi bùn lầy.
Bấy giờ vô lượng oai đức của Thế Tôn như vậy, so với tất cả oai đức tối thắng trong thế gian, thì oai đức của Ngài thù thắng đệ nhất.
Bấy giờ Đức Như Lai, Ứng Cúng, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, ở thế giới này hay thế giới khác, đối với chư Thiên hay Ma, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn…đối với tất cả cảnh giới thiên nhân, Ngài đều dùng thần thông chứng biết, nên Đức Thế Tôn vì thế gian mà thuyết pháp bằng văn nghĩa hay đúng, trước, giữa và sau đều hoàn hảo, khiến chúng sinh được đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh.
Đức Thế Tôn biết chúng sinh nào có khả năng nhận sự giáo hóa thì Ngài liền giáo hóa, nơi nào nên kiến lập Phật pháp thì Ngài dạy bảo kiến lập, tùy họ ở các xứ sở đều được thành tựu. Ai nên thọ Tam quy thì Ngài trao cho pháp Tam quy. Ai nên thọ Ngũ giới thì Ngài trao cho pháp Ngũ giới. Ai nên thọ pháp Bát quan trai thì Ngài trao cho pháp Bát quan trai. Ai nên thọ pháp Thập thiện thì Ngài trao cho pháp Thập thiện. Ai nên xuất gia thì Ngài độ cho xuất gia. Ai nên thọ giới Cụ túc thì Ngài trao cho giới Cụ túc. Cứ như vậy, lần lượt trên hành trình, Ngài đến thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô dừng chân trong hoa lâm viên.
Khi Đức Thế Tôn đã về đến thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, ngự trong hoa lâm viên Ni-câu-đà. Có kệ trình bày những sự việc hết sức huyền diệu trong khi Ngài du hành qua các nước:
Như Lai họ Thích sư tử chúa
Cù-đàm Bậc Oai Đức Tối Thắng
Thành ấp, xóm làng Ngài đi đến
Đều hiện rất nhiều điều kỳ lạ.
Xóm làng, thành ấp Ngài sắp đến
Vừa thấy Như Lai Đại Thánh Sư
Tất cả dân chúng khắp mọi xứ
Cung kính, tôn trọng đến rước Ngài.
Xóm làng, thành ấp Ngài sắp đến
Vừa thấy Như Lai Đại Thánh Sư
Bao nhiêu cây cỏ, hoa cùng lá
Tất cả nghiêng mình lễ Thế Tôn.
Cho đến ngang qua dưới các cây
Thế Tôn an nghỉ hoặc đứng đi
Cây ấy tự nhiên tuôn hoa xuống
Vùng đất nơi đây rực cả hoa.
Dưới những tàng cây Như Lai đến
Bất cứ nơi nào Phật nghỉ ngơi
Quả ngọt cây này tự nhiên rụng
Cành lá uốn mình rủ sát chân.
Có cây cao độ cỡ tầm tay
Hoa quả xen nhau trông đẹp mắt
Thế Tôn Cù-đàm Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Có cây người ta không vói tới
Hoa thắm quả ngọt tự nhiên rơi
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Mưa xuống loài hoa Cương-ca-la
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Mưa xuống loài hoa Mạn-thù-sa
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Oai đức cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải các loài hoa đẹp tuyệt trần
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thế Tôn
Oai thần cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải các loài hoa Mạn-dà-la
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Oai đức cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống loài hoa Ba-lợi-da
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy,
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống loài hoa Tỳ-bà-la
Sư tử Cù-đàm Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống loài hoa thơm bậc nhất
Sư tử Cù-đàm trời người trọng
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống loài hoa thơm bát ngái
Đại thánh Cù-đàm mắt trời người
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống hoa thơm tỏa khắp nơi
Cù-đàm dũng mãnh Đại Tôn Thánh
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống hoa vàng màu tuyệt diệu
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Sư
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xuống hoa báu màu tuyệt diệu
Đại Thánh Cù-đàm Đấng Thập Lực
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải hoa cộng báu màu tuyệt đẹp
Cù-đàm dũng mãnh mắt trời người
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải hoa sen xanh màu tuyệt đẹp
Cù-đàm dũng mãnh Thầy trời người
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải bột trầm thủy thơm bát ngát
Cù-đàm ba cõi trời người trọng
Oai đức cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải xích chiên-đàn hương vi diệu
Sư tử Cù-đàm Đại Thánh Sư
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Rải bột ngưu đầu thơm bát ngát
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thế Tôn
Du hành oai đức việc như vậy.
Chư Thiên hiện ở trên hư không
Trổi lên các bản âm nhạc trời
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thánh Tôn
Du hành oai đức việc như vậy.
Phi nhân hiện ở trên hư không
Tung rải các loại Thiên y đẹp
Sư tử Cù-đàm Đại Thánh Sư
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Chư Thiên hộ vệ đi theo Phật
Đều đem theo hoa đầy hương sắc
Vì Bậc Đại Thánh trời trong trời
Đi theo rải hoa ngập đầu gối.
Lúc ấy khí hậu trời ấm áp
Không có muỗi mòng cùng trùng độc
Đại Thánh nhiệm mầu nhất chư Thiên
Cảm ứng phát sinh việc như vậy.
Tất cả cõi đất đều bằng phẳng
Núi non, gò nổng chẳng gồ ghề
Cù-đàm mười lực Đại Thánh Tôn
Du hành cầm ứng việc như vậy.
Khắp cõi đại địa thật trong sạch
Không có bụi bặm cùng gai độc
Cù-đàm oai đức nhất trời người
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Khắp cõi đại địa đều chuyển động
Sông dài biển cả với núi non
Cù-đàm cao tột nhất ba cõi
Du hành cảm ứng việc như vậy.
Tất cả vua chúa, Bà-la-môn
Cùng hàng Tỳ-xá, Thủ-đà-la
Số ấy lớp lớp ngàn vận chúng
Luôn luôn hầu cận Đức Thế Tôn.
Lại trời Địa cư đẹp hơn hết
Sắc đẹp, sức lực thật oai nghiêm
Cù-đàm dũng mãnh Đại Thế Tôn
Đi đứng, nghĩ ngơi đều hầu Phật.
Lại có bốn vua trời Hộ thế
Đều có oai lực hơn tất cả
Cù-đàm vi diệu Đại Thánh Tôn
Đi đứng, nghỉ ngơi đều hầu Phật.
Vua trời Đế Thích đảnh Tu-di
Cho đến Phạm vương, vua Ta-bà
Cù-đàm đặc biệt thật tối thắng
Chúng ấy luôn luôn hầu bên Phật.
Lại có chư Thiên cảnh giới Dục
Cho đến Tứ thiền, chúng sắc giới
Cù-đàm oai mãnh Đại Thánh Sư
Chúng ấy luôn luôn hầu bên Phật.
Lại có loài rồng, chim cánh vàng
Thần Càn-thát-bà, A-tu-la
Cho đến Dạ-xoa, chúng La-sát
Cùng nhau theo hầu Đức Như Lai.
Bao nhiêu chúng sinh ở thế gian
Đã kể ở trên hoặc chưa kể
Tất cả theo hầu Đức Thế Tôn
Du hành các nước và thành ấp.
Như vậy, Thế Tôn khi du hành
Giáo hóa vô lượng chúng trời người
Thương mến quê hương cùng thân tộc
Về lại thành xưa Ca-tỳ-la.
Lúc ấy hai vị Trưởng lão Ưu-đà-di và Xa-nặc đồng đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân rồi đứng lui về một bên, bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, vua Thâu-đầu-đàn không có tín tâm, không có tịnh tâm, không muốn thấy các vị Tỳ-kheo…
Thế Tôn biết sự việc này nên bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, thầy nào có khả năng đến giáo hóa vua Thâu-đầu-đàn, khiến nhà vua sinh tâm thanh tịnh?
Lúc ấy trong chúng có một Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Xá-lợi-phất có khả năng đến chỗ vua Thâu-đầu-đàn dùng phương tiện giáo hóa, khiến nhà vua sinh tâm tín kính.
Lại có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Mục-kiền-liên có khả năng đến chỗ vua Thâu-đầu-đàn dùng phương tiện giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm tín kính.
Lại có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp có khả năng đến giáo hóa, khiến nhà vua sinh tâm kính tín.
Lại có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Ca-chiên-diên có khả năng đến giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm tín kính.
Lại có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Trong chúng này có Trưởng lão Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp có khả năng đến giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm kính tín.
Lại có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, trong chúng này có Trưởng lão Na-đề Ca-diếp có khả năng đến giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm tín kính.
Lại Có Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Ưu-ba-tư-na có khả năng đến chỗ vua Thâu-đầu-đàn dùng phương tiện giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm kính tín.
Bấy giờ Đức Thế Tôn báo Ưu-đà-di:
-Này Ưu-đà-di, lúc này thầy có thể đến chỗ vua Thâu-đầu-đàn giáo hóa, khiến nhà vua sinh tâm kính tín hay không?
Ưu-đà-di bạch Thế Tôn:
-Thưa Thế Tôn, con có thể làm được việc này.
Đức Phật liền bảo:
-Này Ưu-đà-di, thầy nên đến vua Thâu-đầu-đàn dùng phương tiện giáo hóa khiến nhà vua sinh tâm kính tín.
Khi ấy, Trưởng lão Ưu-đà-di nghe Thế Tôn dạy như vậy liền bạch Phật:
-Dạ vâng. Thưa Thế Tôn, y như lời Ngài dạy, con xin làm theo.
Vào sớm mai, mặt trời vừa ló dạng, Ưu-đà-di đắp y, mang bình bát, đi đến cung điện của vua Thâu-đầu-đàn. Đến nơi, ngài hỏi người lính gác cổng:
-Thưa nhân giả, người có biết hiện giờ Đại vương Thâu-đầu-đàn ngự ở đâu chăng?
Tên lính gác thưa:
-Hiện giờ nhà vua ngự tại cung điện Trị lý vương vụ.
Khi ấy Ưu-đà-di đi đến chỗ vua Thâu-đầu-đàn. Đến nơi, đứng yên tại hiên nhà. Lúc ấy các vị đại thần tả hữu thấy ưu-đà-di đứng một bên hiên, liền bảo lính gác bốn cửa:
-Mau đến đuổi người xuất gia kia đi ra, không được đứng ở đây. Đừng để nhà vua thấy mà khó chịu.
Lính gác cửa nghe các đại thần nói như vậy, vội đến chỗ người xuất gia. Khi đến nơi mới phát hiện vị này là con của Quốc sư mà thuở thiếu thời là bạn thân tình và luôn luôn giao du vui chơi bên cạnh Thái tử Tất-đạt-đa, nên không nỡ đuổi và đi trở vào.
Khi ấy, các đại thần hỏi người giữ cửa:
-Tại sao các ngươi không đuổi người xuất gia kia ra khỏi chỗ này?
Lính gác cửa đáp:
-Thưa các đại thần, vị ấy là con của Quốc sư. Từ khi sinh ra cho đến ngày nay là bạn tâm giao thường lui tới vui chơi với Thái tử Tất-đạt-đa. Vì vậy chúng tôi không nỡ đuổi đi.
Khi vua Thâu-đầu-đàn ở nơi cung điện bàn việc chánh trị xong rồi, nhà vua đứng dậy, sắp ra khỏi cửa, các đại thần hộ vệ hai bên đưa vào nội cung. Lúc ấy Ưu-đà-di vội đi thẳng đến và nắm lấy tay vua Thâu-đầu-đàn. Nhà vua im lặng không nói, chỉ suy nghĩ: “ Nếu nay ta bảo thì người gác cổng sẽ đuổi người này ra. Người gác cổng lại nghĩ: “Các đại thần tự phải đuổi đi.” Các đại thần lại nghĩ: “Kẻ giữ cửa nội cung phải ngăn chận đuổi ra.” Những kẻ giữ cửa nội cung lại nghĩ: “Người này vốn được Đại vương thương tưởng, nay lại cầm tay nhau mà đi.” Họ đều có ý nghĩ như vậy nên không có người nào chịu đuổi đi cả.
Đại vương Thâu-đầu-đàn tiến lần vào thâm cung rồi lên nội điện ngự trên ngai vàng. Khi ấy Ưu-đà-di thấy nhà vua vào nội cung rồi thẳng lên nội điện thì Trưởng lão cũng đi vào điện này, đứng trước mặt nhà vua chẳng bao xa. Vua Thâu-đầu-đàn thấy Ưu-đà-di đứng cách trước mặt mình chẳng bao xa, thấy vậy tâm sinh bực dọc, thầm than:
-Ôi thôi, đau khổ thay! Con ta hình dung cũng gầy ốm như thế này chăng? Thật đáng nhàm chán! Các người nên mau đuổi kẻ xuất gia này. Kẻ nào đã cho phép nó vào đây?
Lúc ấy các đại thần tâu:
-Tâu Đại vương, theo bọn hạ thần chúng tôi, đối với việc này không nên làm như vậy. Đại vương không nên đuổi người xuất gia này đi. Vì lý do gì? Vì người này là con của Quốc sư, lại là bạn thâm tình, thường giao du với Thái tử từ thuở nhỏ.
Khi ấy Ưu-đà-di dùng lời kệ buồn thương mà không làm phật ý nhà vua nói:
Muốn lúa tốt cần cày, giống tốt
Muốn tìm châu báu phải vào biển
Ý ta đến đây, ở mãi đây
Chỉ mong việc ấy mau thành tựu.
Con đường như vậy thường lợi ích
Hết nỗi buồn lo, hưởng an lạc
Muốn đến tha phương cầu lợi ích
Cần đến Cù-đàm, thành tựu lợi.
Mọi người luôn luôn cày đất ấy
Luôn luôn gieo giống trong ruộng này
Chư Thiên luôn luôn mưa cam lộ
Quốc gia luôn luôn ngũ cốc đầy,
Khất sĩ luôn luôn hành khất thực
Thí chủ luôn luôn hành bố thí
Đời này luôn luôn làm bố thí
Luôn luôn được quả tốt trên trời.
Bò sữa luôn luôn vú căng sữa
Bê con luôn luôn bên mẹ mình
Đàn bà luôn luôn mang thai nghén
Sinh nở luôn luôn bị khổ đau.
Thây ma luôn luôn chôn nghĩa địa
Thân thích buồn tiễn thường khóc vang
Nếu chứng thánh đạo hết luân hồi
Ở trong phiền não chẳng thọ sinh.
Bấy giờ vua Thâu-đầu-đàn nghe Ưu-đà-di đọc những lời kệ buồn thương như vậy, nhưng vẫn còn chút ít nghi ngờ, liền hỏi Ưu-đà-di:
-Tôn giả xuất gia ở nơi vị nào? Đại sư của Tôn giả là ai? Ưu-đà-di dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Cha Thầy ta: Vua Thâu-đầu-đàn
Mẹ của Thầy ta tên Ma-da
Mang Thầy trong thai qua mười tháng
Sinh xong mẹ chết, sinh Đao-lợi.
Như vậy, Thầy ta sinh nhà Ngài
Đại Thánh đức lớn trời trong trời
Nhà này bảy đời thường cứu tế
Danh tiếng lưu truyền khắp mười phương
Trong hàng Trượng phu thật ít có
Lại không sinh vào nhà nào khác
Đại Thánh chỉ sinh nhà như vậy.
Nhà này hưởng phước thật an nhàn
Thân tộc họ Thích danh tiếng lớn
Ngài được trăm phước trang nghiêm thân
Thích tử như vậy hơn loài trời
Ta ở bên Ngài xin xuất gia.
Lúc ấy vua Thâu-đầu-đàn lại hỏi Trưởng lão Ưu-đà-di:
-Hay thay! Này Tỳ-kheo, thầy thật sự theo người nào xuất gia, mà vị Thầy ấy có chánh tín, có chánh ý tu phạm hạnh hay không? Thầy của Tôn giả ngồi dưới gốc cây vắng vẻ, tâm có được an lạc hay không?
Trưởng lão Ưu-đà-di lại dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Vua hỏi theo ai được xuất gia?
Vị này chánh tín tu phạm hạnh
Ở đâu, Ngài cũng chẳng lo sợ
Ngồi dưới gốc cây thường an lạc
Không sợ tiếng khác, như sư tử
Không bị lưới ngăn, như gió mạnh
Chỉ dạy người học, mình không học
Cứu khổ cho người, mình không khổ.
Vua Thâu-đầu-đàn lại hỏi Trưởng lão ưu-đà-di:
-Vị Tỳ-kheo như vậy nay ở đâu?
Ưu-đà-di đáp:
-Theo lời hỏi của Đại vương thì hiện giờ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác hiện đang ngự trong vườn Ni-câu-đà, nơi thành Ca-tỳ-la này.
Lúc ấy vua Thâu-đầu-đàn nghĩ: “Ưu-đà-di là đệ tử của con ta. Vì vậy ta phải bảo các đại thần mời ưu-đà-di ngồi.” Rồi nhà vua bảo:
-Này các khanh, nay các khanh nên mời vị Tỳ-kheo này lên tòa an tọa.
Các đại thần nghe vua dạy như vậy, liền tâu:
-Thưa Đại vương, chúng tôi không dám trái lời.
Các quan liền mời Ưu-đà-di ngồi. Vua Thâu-đầu-đàn lại bảo các quan:
-Này các khanh, nên dọn cơm cho vị Tỳ-kheo này ăn. Các quan nghe lời vua dạy, liền mang nước sạch cho Ưu-đà-di rửa tay rồi dâng thức ăn cho Ưu-đà-di. Ưu-đà-di nhận thức ăn mà không ăn, ý định đem thức ăn này về cúng cho Thế Tôn.
Vua Thâu-đầu-đàn lại hỏi Trưởng lão Ưu-đà-di:
-Tại sao thầy không ăn cơm? Ưu-đà-di đáp:
-Thức ăn này tôi để dành dâng cúng Thế Tôn, vì vậy mà không ăn.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn lại càng áo não, buồn khóc, nước mắt ràng rụa mà than:
-Ôi thôi! Con ta thân thể mềm mại, xưa ở trong cung thường hưởng khoái lạc, thân không bị các khổ. Ngày nay vì cớ gì bị khổ như vậy? Đến nỗi bảo Tỳ-kheo đi khất thực, được đồ ăn về mới có ăn!
Vua Tịnh Phạn cất tiếng than vãn như vậy, buồn khóc nghẹn ngào, lại bảo Ưu-đà-di:
-Thầy cứ dùng phần ăn này. Ta sẽ cho người lấy một phần ăn khác đem cho Thầy của thầy.
Ưu-đà-di lại tâu Đại vương:
-Như thế này, thưa Đại vương, phần ăn này tôi đã có ý định dâng cúng Thế Tôn rồi, thì bất cứ chúng sinh nào ăn phần ăn này đều không tiêu. Tại sao vậy? Vì Đức Thế Tôn giới hạnh hơn mọi người, thiền định hơn mọi người, trí tuệ cũng hơn mọi người.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn bảo các đại thần:
-Các khanh nên đem phần ăn khác dâng cho Tỳ-kheo này và dặn Tỳ-kheo ăn xong nên mau đem phần ăn này cho Thái tử.
Các đại thần lập tức đem phần ăn khác dâng cho Ưu-đà-di. Khi ưu-đà-di ăn xong, lại tâu vua:
-Đúng vậy! Thưa Đại vương, Đức Như Lai Thế Tôn, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác là Bậc được hàng vua chúa cho đến vô lượng vô biên chúng sinh đều cung kính. Như vậy, ngày nay Đại vương cũng nên đến đó.
Ưu-đà-di nói như vậy rồi, liền rời chỗ ngồi, định ra khỏi hoàng cung. Vua Thâu-đầu-đàn lại bạch Trưởng lão Ưu-đà-di:
-Tôn giả về trước báo cho Thái tử Tất-đạt-đa là chẳng bao lâu ta sẽ đến thăm Thái tử.
Ưu-đà-di cung kính nhận lời vua. Ưu-đà-di mang phần cơm ra khỏi thành, về lại rừng Ni-câu-đà. Đến nơi, ngài bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, con đã giáo hóa vua Thâu-đầu-đàn, khiến nhà vua hoan hỷ nên Đại vương sắp đến thăm Đức Thế Tôn.
Khi ưu-đà-di vừa rời khỏi hoàng cung, vua Thâu-đầu-đàn lại bảo các đại thần:
-Này các khanh phải biết, ngày nay Thái tử Tất-đạt-đa đã đến thành này rồi. Chúng ta phải làm gì bây giờ?
Các đại thần tâu:
-Lành thay! Tâu Đại vương, nếu có các Sa-môn khác đến thành của Đại vương, chúng ta còn phải cúng dường, cung cấp, huống nữa nay là Thái tử Tất-đạt-đa cùng với bản thân chúng ta không khác, đâu được thản nhiên không sinh tâm cung kính. Chúng ta chỉ theo ý của Đại vương, rồi sau mới đến đó.
Vua Thâu-đầu-đàn liền ra lệnh rung chuông thông báo mọi người trong nội thành đều hay biết. Thông báo rằng: “Ta nay sắp đi đến quán sát chỗ ở của Thái tử Tất-đạt-đa. Mọi người đều phải trang hoàng một cách hoàn bị, rồi đi theo ta.”
(Đây là lời nói của các thầy thuộc bộ Ca-diếp-di. Theo các thầy thuộc bộ Ma-ha Tăng-kỳ lại nói: “Lúc bấy giờ vua Thâu-đầu-đàn bạch Ưu-đà-di:
-Theo ý của Tỳ-kheo thì nên làm những món ăn gì để cúng dường Thái tử?
Ưu-đà-di thưa Đại vương:
-Như thế này, thưa Đại vương, nếu muốn làm thức ăn cho Thế Tôn, thì nên làm món ăn ngon ngọt, trong sạch thanh khiết.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn ra lệnh các đại thần:
-Các khanh phải biết, vì Thái tử các khanh nên mau mau làm các thức ăn ngon, trong sạch thanh khiết.
Các đại thần nghe vua phán như vậy, lại tâu:
-Y như lời Đại vương dạy, chẳng dám sai trái.
Họ cùng nhau làm các món ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết, làm xong giao cho Ưu-đà-di. Khi Ưu-đà-di ăn xong, mang các thức ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết vừa mới làm xong, ra khỏi thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, trở về rừng Ni-câu-đà. Sau khi đến nơi, Trưởng lão bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, con đã giáo hóa vua Thâu-đầu-đàn, khiến nhà vua sinh tâm hoan hỷ. Ngài sắp đến thăm Phật. Xin Phật nhận lãnh món ăn như pháp này).
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, tại sao Trưởng lão Ưu-đà-di giáo hóa được vua Thâu-đầu-đàn, khiến cho nhà vua được hoan hỷ? Lại có thể khiến nhà vua làm các món ăn uống sơn hào hải vị ngon ngọt thơm tho, trong sạch thanh khiết đem về dâng cho Thế Tôn?
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ưu-đà-di chẳng chỉ ngày nay giáo hóa được vua Thâu-đầu-đàn và đem món ăn uống ngon ngọt cho Ta, mà thuở xưa cũng giáo hóa khiến vua Thâu-đầu-đàn sinh tâm hoan hỷ và đem món ăn ngon ngọt dâng cho Ta.
Khi ấy các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
-Việc ấy như thế nào, cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng con mà kể rõ. Chúng con nay nguyện muốn nghe.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ vào đời quá khứ lâu xa, tại nước Ba-la-nại có một con chim chúa tên là Tô-phất-đa-la (nhà Tùy dịch là Thiện tử) cùng bầy chim tám vạn con hòa hợp với chim chúa đồng sống tại nước này. Chim chúa có một chim mái tên là Tô-phất-thất-lợi (nhà Tùy dịch là Thiện nữ). Thuở ấy, chim mái giao hợp với chim chúa đã có mang, chim mái bỗng sinh ý nghĩ: “Ta muốn được thức ăn uống thơm ngon, trong sạch như thức ăn của vua loài người ngày nay vậy.” Nhưng vì sợ mơ ước không toại nguyện nên chim mái lần lần buồn rầu, thân thể tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững. Chim chúa Thiện Tử thấy vợ mình lăn lộn trên đất, buồn rầu tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững nên hỏi: “Vì lý do gì nàng lăn lộn trên đất, thân thể tiều tụy ốm o, đứng run rẩy không vững như vậy?”
Chim mái đáp: “Lành thay! Thưa thánh tử, thiếp đang có mang, bỗng nghĩ muốn được thức ăn sơn hào hải vị thơm ngon trong sạch như thức ăn nhà vua vậy.”
Lúc ấy chim chúa than với vợ: “Lạ thay! Này hiền thê, ta làm sao được thức ăn uống thơm ngon như vậy. Cung vua thì kín đáo sâu xa, không thể đến được. Nếu ta có vào đó sẽ sa vào tay họ, nhất định bỏ thây.”
Chim mái lại thưa với chim chúa: “Này thánh tử, nếu ngày nay thiếp không được thức ăn uống như vậy, nhất định sẽ chết và bào thai nhất định sẽ không còn sống.”
Chim chúa lại nói với chim mái: “Lạ thay! Này hiền thê, ngày chết của nàng sắp đến, nên mới nghĩ đến thức ăn khó được như vậy.” Chim chúa nói như vậy rồi, ưu sầu khổ não đứng suy nghĩ: ‘Theo ý ta nghĩ, thức ăn uống thơm ngon trong sạch như thức ăn của nhà vua, thật là khó được.”
Lúc ấy trong bầy chim của chim chúa có một con thấy sự việc này, bay đến chỗ chim chúa thưa: “Lạ thay! Thưa thánh giả, vì cớ gì ngài đứng suy tư sầu não như vậy?”
Chim chúa Thiện tử nói rõ chi tiết nguyên nhân sự việc vừa qua. Chim kia lại thưa với chim chúa Thiện tử: “Lành thay! Thưa thánh tử, xin chớ ưu sầu. Tôi nay sẽ vì ngài đi tìm thức ăn sơn hào hải vị thơm ngon khó tìm của nhà vua.”
Lúc ấy, chim chúa lại nói: “Lành thay! Này thiện hữu, nếu người có năng lực vì ta làm việc này, ta sẽ đền đáp công đức ấy.”
Lúc bấy giờ chim nọ từ chỗ của chim chúa bay vọt lên hư không, thẳng đến cung vua Phạm Đức, đậu trên đọt cây, cách nhà bếp chẳng bao xa để quán sát thức ăn của vua nơi nhà bếp. Chim thấy thức ăn nhà vua nấu xong, có một phụ nữ chuẩn bị đầy đủ các thứ sơn hào hải vị. Đến giờ ăn, nàng mang sớt vào đồ bằng bạc đầy ắp thức ăn uống, sắp dâng lên nhà vua. Ngay lúc ấy chim nọ từ trên cây cao hạ cánh đậu trên đầu người phụ nữ, dùng mỏ mổ vào mũi cô ta. Nàng này lỗ mũi bị chim mổ đau nhức nên lỡ tay làm đồ ăn rơi xuống đất. Khi ấy chim vội đớp lấy thức ăn bay về cho chim chúa. Chim chúa được thức ăn liền đem cho chim vợ Thiện nữ. Chim vợ được thức ăn liền ăn no nê, thân thể an ổn, sau đó sinh nở.
Chim nọ vào những ngày khác, thường lui tới cung vua đoạt lấy thức ăn dâng cho chim chúa. Khi ấy, vua Phạm Đức thường thấy xảy ra việc này nên mới suy nghĩ: “ Quái lạ thay! Tại sao con chim này thường đến đây làm ô uế thức ăn của ta? Lại dùng móng mỏ làm phụ nữ ta bị thương!” Nhà vua không chịu nổi việc này, liền kêu thợ bẫy chim đến bảo:
-Các khanh mau mau đi đến đó, bắt sống con chim này cho ta.
Các thợ bẫy chim nghe lời vua phán, liền tâu:
-Y như lời Đại vương dạy, chúng tôi không dám sai trái.
Các thợ bẫy chim đến nơi, bắt sống được con chim này đem giao cho vua Phạm Đức. Vua Phạm Đức hỏi chim:
-Vì cớ gì ngươi thường đến đây làm ô uế thức ăn của ta? Lại dùng mỏ móng làm thương tổn phụ nữ của ta?
Chim đáp:
-Lành thay! Tâu Đại vương, xin nhà vua nghe tôi kể việc ấy, ngài sẽ bằng lòng.
Khi ấy vua Phạm Đức hoan hỷ, vì lại nghĩ thế này: “Việc này thật hy hữu. Tại sao loài chim lại biết nói tiếng người?” Nghĩ như vậy rồi, nhà vua bảo chim:
-Hay thay! Hay Thay, người nên vì ta nói ý nghĩa việc này để ta được hoan hỷ.
Bấy giờ chim dùng kệ đáp lời vua Phạm Đức:
Vua phải biết, thành Ba-la-nại
Có chim chúa thường ngày ở đó
Cùng chim bạn tám vạn bủa vây
Đều tuân thủ lệnh của vua chim.
Vợ chim chúa có điều mơ ước
Hướng đến chồng bày tỏ khúc lòng
Nàng ước ao cao lương mỹ vị
Đúng là thức ăn của Đại vương.
Vì vậy tôi thường bay đến đây
Đoạt thức ăn mỹ vị của ngài
Nay vì phục vụ chúa chim tôi
Đến nỗi bị Đại vương bắt giữ.
Lành thay! cầu mong đại thánh vương
Mở lòng từ bi thả tôi ra
Bởi vì tôi phụng sự vợ vua chim
Thường cướp lấy thức ăn của ngài.
Nhớ từ nhỏ cho đến bây giờ
Chưa bao giờ làm điều như vậy
Xin được lệnh Đại vương dung thứ
Mãi về sau không dám tái phạm.
Khi vua Phạm Đức nghe chim nói như vậy, trong lòng hoan hỷ nói: “Việc này thật hy hữu! Loài người đối với chủ nhân còn không có tâm ái trọng như loài chim này vậy.”
Nói như vậy rồi, vua Phạm Đức nói kệ:
Nếu có những đại thần như vậy
Biết đáp ân nặng lộc phong hầu
Giống như chim nọ thật dũng kiện
Vì chủ tìm mồi chẳng tiếc thân.
Vua Phạm Đức nói kệ rồi, lại bảo chim:
-Lành thay! Này chú chim, từ nay trở đi ngươi hãy thường tới đây lấy thức ăn mỹ vị. Nếu có người nào ngăn đón không cho, ngươi hãy đến báo ta biết, ta sẽ cho ngươi phần ăn của ta để ngươi đem về.
Đức Phật nói với các Tỳ-kheo:
-Các thầy phải biết, con chim chúa thuở ấy là thân Ta ngày nay. Chim đi ăn cắp thức ăn thuở ấy là Ưu-đà-di ngày nay. Còn vua Phạm Đức thuở ấy tức là vua Thâu-đầu-đàn ngày nay. Thuở ấy, Ưu-đà-di làm cho nhà vua hoan hỷ và cũng vì Ta đi tìm thức ăn. Ngày nay cũng lại như vậy, Ưu-đà-di làm cho vua Thâu-đầu-đàn sinh tâm hoan hỷ và lại vì Ta mang thức về.
Sau đó, vua Thâu-đầu-đàn mới ra lệnh rung chuông, rung linh thông báo tất cả dân chúng trong thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô không được một ai đến thăm Thái tử trước. Ai muốn đi thăm Thái tử sẽ cùng đi theo vua đến đó yết kiến.
Bấy giờ, vua Thâu-đầu-đàn đem tất cả những người trong cung của mình, những người trong cung của Thái tử Tất-đạt-đa, ngoài ra còn đem theo các quyến thuộc khác, là đồng tử dòng họ Thích và các thuộc hạ, lại đem bốn binh chủng, trăm quan đại thần, các tướng soái hộ vệ và các cư sĩ, trưởng giả kỳ cựu nơi các xóm làng, thành ấp. Để thể hiện oai thế của nhà vua và hiển bày tinh thần đức độ của mình nên nhà vua đem theo các đại thần, thân tộc, binh chủng hộ vệ chung quanh như vậy.
Bấy giờ tôn tộc của họ Thích có chín vạn chín ngàn người, cùng dân chúng trong thành Ca-tỳ-la-bà-tô-đô muốn đến chiêm ngưỡng Như Lai.
Đức Như Lai trông thấy Đại vương Thâu-đầu-đàn cùng với quần chúng hàng ngũ chỉnh tề đang hướng đến, nên suy nghĩ: “Nếu Ta thấy phụ vương mà không đứng dậy nghênh tiếp thì người ta sẽ cho rằng: “Người này không đủ đức hạnh quả báo làm người. Tại sao thấy cha mà không đứng dậy nghênh tiếp?”
Nếu Ta thấy phụ vương và đại chúng mà đứng dậy nghênh tiếp thì họ sẽ bị vô lượng tội lớn.
Nếu Ta giữ tư thế ngồi yên như cũ thì họ đối với Ta không sinh tâm cung kính.”
Như Lai suy xét ba trường hợp như trên, thấy mỗi trường hợp đều có khuyết điểm như vậy. Như Lai suy nghĩ ý nghĩa của ba trường hợp như vậy rồi, Ngài từ chỗ ngồi dùng sức thần thông bay vọt lên hư không, ở trong hư không, Ngài hóa hiện các thứ thần thông, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngủ, hoặc tỏa khói, hoặc phóng lửa ngọn, hoặc ẩn, hoặc hiện…
Các vị thần ở thành Ca-tỳ-la-bà-tô-đô như thần bảo vệ thành, thần giữ cổng… hiện ra trước mặt vua Thâu-đầu-đàn rồi đằng vân lên hư không, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng lui về một bên, nói kệ thưa Thế Tôn:
Hôm đêm Thái tử đi xuất gia
Các thần Dạ-xoa hộ mở cửa
Vua Tỳ-sa-môn dẫn dường đi
Thế Tôn là Bậc Công Đức lớn.
Khi ấy Thái tử ra khỏi cửa
Phát đại thệ nguyện như thế này:
“Nếu chẳng thu phục được ma quân
Thành này, Ta không vào trở lại. ”
Ngày nay nguyện ấy đã thành công
Thế Tôn thu phục lũ ma quân
Chứng quả Bồ-đề Vô thượng đạo
Nguyện xưa nay đã được viên thành.
Phật vì làm phước hiện ra đời
Đã chứng Bồ-đề Vô thượng đạo
Do vì thương mến hàng thân tộc
Vì vậy ngày nay lại vào thành.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn từ xa trông thấy Thế Tôn dùng sức thần thông bay lên hư không, thể hiện các thứ thần thông biến hóa, nên suy nghĩ: “Ta nhớ thuở trước Thái tử Tất-đạt-đa xả tục xuất gia, mà nay đã thành Bậc Đại Tiên có nhiều oai đức, có đại thần thông.” Vua Thâu-đầu-đàn suy nghĩ như vậy rồi liền xuống xe đi bộ đến chỗ Phật. Khi nhà vua từ từ tiến gần đến chỗ Phật ngồi thì Đức Phật cũng từ hư không từ từ hạ xuống. Khi vua Thâu-đầu-đàn đến sát chỗ ngồi của Phật, thì ngay lúc đó Đức Phật cũng từ hư không đã đến chỗ ngồi của mình.
Vua Thâu-đầu-đàn thấy trên đầu Phật không có mão thiên quan, lại cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, vì lòng thương con nên nhà vua ngã xỉu. Trong giây lát mới tỉnh dậy, vua nằm lăn trên đất buồn khóc, nước mắt đầm đìa. Lúc ấy chín vạn chín ngàn người trong hoàng gia cùng với tất cả dân chúng trong thành cũng như ngoài thành đều ngã xỉu trên đất, buồn khóc lăn lộn, nước mắt ràn rụa cả mặt mày, buồn rầu áo não, đau khổ vô cùng.
Khi ấy đại chúng nói kệ:
Đại vương dẫn chúng đến bên Phật
Phụ vương thấy Phật chưa thăm hỏi
Vua muốn gọi con nhưng e ngại
Muốn gọi Tỳ-kheo cũng ngượng ngùng.
Vua thấy Thái tử dạng Sa-môn
Tự ở ngôi vua thấy hổ thẹn
Than ngắn thở dài lòng tức giận
Xỉu ngã trên đất, kể đủ điều.
Như Lai im lìm ngồi thiền định
Vua thấy như vậy vẫn ưu sầu
Giống người khát nước từ xa đến
Đã thấy nước rồi, vẫn chịu khát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nghĩ: “Hoàng gia họ Thích rất tự thị cống cao ngã mạn. Nếu đặt đầu xuống đất để lễ Ta thì họ chẳng muốn làm.” Ngài nghĩ như vậy, liền bay lên hư không cách đất khoảng một trượng. Ngài lại nghĩ: “Nay Ta ở cách cất chừng ấy, để họ đủ khom người cúi đầu làm lễ.”
Có kệ:
Phật biết vua tôi lòng ngã mạn
Bay lên hư không cao một trượng
Thương mến tất cả người đến đây
Vì vậy Ngài trú nơi hư không.
Khi ấy vua Thâu-đầu-đàn từ dưới đất ngồi dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và nói kệ:
Ta lạy ba lần Đấng Chân Như
Lễ Phật khi vừa mới đản sinh
Khỉ xưa trong cung tướng sư đoán
Khi ngồi gốc cây che mát thân
Nay thấy thể hiện việc hơn người
Mặt mày tươi sáng như hoa nở
Khiến thân tâm ta rất vui mừng
Thế nên ta nay lễ ba lạy.
Bấy giờ, vua Thâu-đầu-đàn đảnh lễ dưới chân Phật, rồi sau đó tuần tự quyến thuộc hai cung đều lễ Phật. Kế đến quyến thuộc bên ngoại cũng lễ dưới chân Phật. Các đồng tử dòng họ Thích cũng lễ dưới chân Phật. Các tướng sĩ hộ vệ và trăm quan đại thần cũng tuần tự lễ Phật. Những cư sĩ dòng đại tộc cũng đảnh lễ dưới chân Phật. Tuần tự những vị kỳ túc đại phú trưởng giả cũng lễ dưới chân Phật.
Đức Thế Tôn có những giáo pháp sâu xa vi diệu nhưng e ngại đại chúng chưa sinh tâm hoan hỷ, khát ngưỡng, chưa sinh ý tưởng hy hữu đặc biệt nên Như Lai chưa nói pháp này.
Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn đại chúng hiện tiền sinh tâm hoan hỷ kính tin nên Ngài vận dụng thần thông bay lên hư không, trụ tại phương Đông cao khoảng một cây Đa-la, rồi Ngài biến hiện các thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, hoặc nhiều thân hợp thành một thân, đi lại chân không đụng đất, từ dưới đi lên, từ trên đi xuống, đi xuyên qua núi, vách đá không bị chướng ngại, vào trong đất như vào trong nước, đi trên mặt nước như trên mặt đất, ngồi kiết già trên hư không an nhiên bất động, hoặc đi kinh hành giống như chim bay, hoặc trên thân bốc khói, dưới thân phun nước, hoặc thân như đổng lửa lớn, như vầng nhật nguyệt có oai đức lớn, có thần thông lớn, oai đức lẫy lừng quang minh chiếu khắp, hoặc có khi dùng tay nắm bắt mặt trời, mặt trăng, thân hình cao lớn đụng đến cõi Phạm thiên…
Sau khi hiện những thần thông như trên, Ngài lại hiện cùng một lúc hai thần thông đối nhau, nghĩa là nửa thân phía trên bốc khói, nửa thân phía dưới phun lửa. Hoặc nửa thân phía dưới bốc khói, nửa thân phía trên phun lửa. Hoặc hông bên trái phun lửa, hông bên phải tỏa khói. Hoặc hông bên phải phun lửa, hông bên trái tỏa khói. Hoặc lại nửa thân phía trên bốc khói, nửa thân phía dưới phun nước lạnh trong mát. Hoặc nửa thân phía trên phun nước lạnh trong mát, nửa thân phía dưới bốc khói. Hoặc hông bên trái bốc khói, hông bên phải phun nước lạnh trong mát. Hoặc trong chốc lát hông bên phải bốc khói, hông bên trái phun nước lạnh trong mát. Hoặc nửa thân phía dưới bốc lửa nóng, nửa thân phía trên phun nước mát lạnh. Hoặc nửa thân phía trên bốc lửa nóng, nửa thân phía dưới phun nước trong mát lạnh. Hông bên trái phun lửa, hông phải phun nước mát. Hoặc hông bên trái bốc lửa, hông bên phải phun nước trong mát lạnh. Hoặc hông bên trái phun nước mát lạnh, hông bên phải bốc ra lửa đỏ. Hoặc toàn thân bốc lửa, khoảng giữa hai con mắt phun nước mát lạnh. Hoặc khoảng giữa hai con mắt bốc lửa đỏ, toàn thân phun nước mát lạnh.
Bấy giờ Đức Như Lai để hiện nửa thân phía dưới, ẩn mất nửa thân phía trên mà thuyết pháp. Rồi để hiện nửa thân phía trên, ẩn mất nửa thân phía dưới mà thuyết pháp.
Như Lai nhập vào định Hỏa quang, trên mỗi lỗ chân lông phát ra các đạo hào quang; có loại hào quang màu xanh, có loại hào quang màu vàng, có loại hào quang màu đỏ, có loại hào quang màu trắng, có loại hào quang màu cỏ biếc, có loại hào quang màu pha lê..
Như Lai có khi ở trên hư không, cách mặt đất chừng một cây Đa-la mà hiện thần thông, có khi cách đất khoảng hai cây Đa-la, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc bảy cây Đa-la, ở trong hư không mà hiện thần thông. Những thần thông hiện ra là một thân hiện ra nhiều thân… hào quang màu pha lê.
Bấy giờ Như Lai ẩn thân nơi phương Nam, xuất hiện nơi phương Tây, cao cách mặt đất khoảng một cây Đa-la, biến hóa đủ các thứ thần thông. Hoặc Thế Tôn ẩn thân ở phương Tây, hiện nơi phương Bắc, cao cách đất khoảng một cây Đa la, rồi trụ trong hư không biến hóa đủ các loại thần thông. Những thần thông đó như: một thân phân thành nhiều thân… phóng hào quang màu pha lê. Cho đến mỗi phương khác cũng như vậy, đều trụ trong hư không cao cách mặt đất khoảng một cây Đa-la… bảy cây Đa-la, biến hóa đủ các loại thần thông. Những thần thông đó như: một thân phân ra nhiều thân… phóng hào quang màu pha lê.
Bấy giờ, đại chúng thấy Đức Thế Tôn thể hiện những thần thông như vậy, liền sinh tâm hoan hỷ, tín kính Đức Phật, cho là việc chưa từng có.
Khi thấy đại chúng đã hoan hỷ, tín kính, cho là việc chưa từng có rồi, Đức Thế Tôn mới từ hư không hạ xuống, trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, rồi vì đại chúng, tuần tự giảng các pháp. Ngài nói: “Chúng sinh từ lâu ở trong phiền não”, khiến cho người nghe xa lìa phiền não. Do vậy, Ngài khuyên tu các pháp bố thí, giữ giới, tinh tấn, nhẫn nhục sẽ được sinh vào thiện xứ. Ngài lại dạy xa lìa dục lậu, hữu lậu… để được thoát ly phiền não. Ngài cũng ca ngợi công đức xuất gia. Ngài tán thán các pháp giải thoát như vậy.
Khi Đức Như Lai thuyết pháp, Ngài biết đại chúng vui mừng hớn hở, nhu hòa và tâm không phóng dật.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn cũng thuyết các pháp truyền thừa của chư Phật như Khổ, Tập, Diệt, Đạo…
Khi Đức Thế Tôn vì đại chúng theo phương tiện thị hiện thần thông, tuyên dương chánh pháp, thì có vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần cấu, không còn phiền não, đoạn các kết sử, được pháp nhãn thanh tịnh, đốì với pháp tập khởi đều diệt các tướng, chứng được thật trí. Ví như y phục sạch, không chút vết nhơ, có thể tùy ý nhuộm màu sắc gì thì thành màu sắc đó.
Đức Phật nói những pháp như vậy rồi, trong đại chúng có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các chúng sinh, ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần câu, không còn phiền não, đoạn các kết sử, được pháp nhãn thanh tịnh… tịch diệt tất cả tướng, chứng trí như thật. Đại chúng này tự thấy các pháp, đã được các pháp, đã chứng các pháp, đã nhập vào các pháp, vượt qua các nghi, các hoặc đã diệt, không còn tâm nghi, đã được vô úy, tất cả nhân duyên sinh ra thân kiến đều diệt sạch. Họ biết như vậy rồi quy y Phật, Pháp, Tăng, thọ trì năm giới cấm, làm người cư sĩ.
Vua Thâu-đầu-đàn vì lưới phiền não thương con bao phủ nên không chứng quả, ngồi trước Thế Tôn, buồn thương than thở, nghẹn ngào ấm ức mà nói kệ:
Mũ bằng bảy báu xưa con đội
Trang nghiêm đẹp đẽ bỏ nơi nào?
Minh châu trong tóc lạc đi đâu
Đầu trần hủy thể không oai đức?
Xưa mặc Ca-thi áo tuyệt vời
Nay con cũng bỏ nó ở đâu?
Y phục vứt bỏ thô xấu này
Con yêu của ta sao lại mặc?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Trung thần danh tiếng của Đại vương
Ta gởi thiên quan cho bạn ấy
Vì muốn trừ bỏ tâm ngã mạn
Lại muốn thành tựu pháp cam lộ.
Chế ra ca-sa y hoại sắc
Do vậy Ta bỏ áo Ca-thi
Thân này lại mặc y hoại sắc
Chứng quả Vô thượng diệu Bồ-đề.
Đại vương Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ bạch Như Lai:
Ta xưa tại cung cầu trăm nguyện
Nguyện được sinh con làm Chuyển luân
Nay thấy cạo đầu, tay bưng bát
Con nói với ta được hơn gì?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Luân vương được cả vẫn không chán
Tuy được sống lâu không tự tại
Tâm Ta tự tại không biên giới
Muốn con Luân vương thật không hay.
Đại vương Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ bạch Thế Tôn:
Giày da bảy báu xưa con mang
Nệm êm chăn mịn đủ loại hàng
Cung điện lầu gác nơi an ổn
Trên đầu được che tàng lọng trắng
Chân trắng mềm mại như hoa sen
Làm sao chịu nổi gai, cát sỏi.
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Ta đã chứng Bậc Nhất Thiết Trí
Không nhiễm các pháp, như hoa sen
Vượt qua các cõi không tham đắm
Như vậy, khổ ấy Ta chẳng còn.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ bạch Phật:
Xưa ở cung điện dùng chiên-đàn…
Với các hương thơm mát như trăng
Tùy thời thoa ướp trên thân thể .
Thoa xong thân thể thấy lâng lâng.
Ngày nay hạ đến, bị nóng bức
Rừng vắng đi bộ khổ dường nào
Xưa ở nội cung nhạc êm dịu
Nay không thể nữ vui với ai?
Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Tôi có ao pháp nước trong mát
Người trí hân hoan, chỗ an lạc
Ao báu công đức rửa sạch thân
Không bị đắm chìm, lên bờ giác.
Vua Thâu-đầu-đàn dùng kệ nói:
Xưa ở trong cung mặc Ca-thi
Thân xông Chiêm-bặc với hương sen
Nhiều lớp hoa mềm lót trong áo
Ngự trong cung điện thật oai nghiêm.
Nay mặc áo gai vải vứt bỏ
Màu sắc tùy xứ nhuộm vỏ cây
Chỉ để che thân thật xấu hổ
Bậc Đại Trượng Phu sao chẳng chán?
Đức Thế Tôn lại dùng kệ trả lời vua Thâu-đầu-đàn:
Y phục, đồ nằm, thức ăn uống…
Xưa Ta tham đắm các thứ này
Thân hình kiều diễm sắc đáng yêu
Ta nay chánh niệm nên không dùng.
Vua Thâu-đầu-đàn dùng kệ nói:
Xưa ở trong cung vật bảy báu
Đồ dùng, bàn ăn nạm bạc vàng
Sơn hào hải vị thơm ngon ngọt
Vương tử tùy ý mặc sức dùng.
Nay thức ăn dở, lại hôi ê
Nhạt nhẽo chẳng ngon sao ăn được?
Tại sao chẳng chê thức ăn này
Chẳng sinh ý giận vật hôi thối?
Đức Phật lại dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Tương truyền quá khứ đến ngày nay
Cùng đời vị lai, các Thánh giả
Tuy ăn đồ dở, vị chẳng ngon
Thương xót thế gian nên không chê.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Khi xưa người ở trong điện ta
Nằm ngồi trên chỗ thật êm dịu
Vượt trội thế gian không ai sánh
Tựa gối vừa ý, chẳng chê bai.
Nay nằm trên đất, đồ nhám nhúa
Chỉ trải cỏ rác với lá cây
Tại sao nằm ngủ mà không chê
Thân thể mềm mại chẳng đau sao?
Thế Tôn dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Ta đã chứng được trí tự tại
Thoát khỏi tất cả các khổ đau
Đã nhổ các gai phiền não khổ
Thương mến người đời nên chẳng chê.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói với Phật:
Thuở xưa người ở nhà vừa ý
Trên sàn rải các loài hoa đẹp
Phòng kín không gió, đèn sáng choang
Cho đến lầu gác và cửa sổ
Vòng hoa anh lạc trang điểm thân
Thê thiếp đoan trang như ngọc nữ
Nói năng dịu ngọt theo hầu hạ
Kính ngưỡng chẳng trái lệnh phu quân.
Thế Tôn lại dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Phụ vương, Ta có pháp tân học
Phạm hạnh vi diệu trong cõi trời
Do Ta chứng được tâm tự tại
Những gì Ta muốn đều thành tựu.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Tiếng trống, không hầu cùng đàn sắt
Ca ngâm tuyệt diệu làm người thức
Giống như Đế Thích tại Thiên cung
Người ở trong cung xưa cũng vậy.
Đức Phật lại dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Lời kinh, liếng kệ âm vi diệu
Như ý giải thoái giác ngộ Ta
Ta có thiện hữu hạnh thanh tịnh
Đại vương, Ta sống giữa chúng này.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Thống lãnh biên cương cùng sông núi
Hưởng dục đủ cả ngàn người con
Bảy báu tuyệt vời sao chẳng tưởng
Tại sao tu lấy hạnh Sa-môn?
Đức Phật dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Tam-muội trí tuệ đất của Ta
Ngàn pháp thiền định là con Ta
Bảy báu giác chi là thất bảo
Đại vương, pháp ấy Ta chứng đắc.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Xưa con đi xe với tuấn mã
Xe ấy trang hoàng bằng các báu
Tàng lọng như tuyết để che thân
Quạt lụa trắng tinh, cán bằng ngọc.
Đức Phật lại dùng kệ đáp lời vua Thâu-đầu-đàn:
Tôi lấy chánh cần làm ngựa giỏi
Lấy tuệ, tư, tàm quý làm xe
Vận chuyển tinh tấn, dũng mãnh tu
Ta cỡi xe này vào vô úy.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Người xưa tại cung cỡi Kiền-trắc
Bạch mã trắng tinh hơn tất cả
Yên cương trang trí bằng bảy báu
Cỡi ngựa này đi theo ý muốn.
Đức Phật dùng kệ đáp lời Đại vương:
Bao nhiêu loài ngựa trong thế giới
Vô số thế gian người cỡi nó
Chúng nó đều bị luật vô thường
Quán xong, tùy ý cỡi thần thông.
Vua Thâu-đầu-đàn lại dùng kệ nói:
Khi xưa người ở trong cung điện
Lầu gác khác nào cảnh chư Thiên
Cung tên, giáo mác cầm hộ vệ
Thân mặc chiến bào thật oai nghi.
Nay ở trong rừng không ai hộ
Dạ-xoa, La-sát thật hãi hùng
Thú rừng gầm hét trong đêm tối
Làm sao ở mà không sợ hãi.
Đức Phật lại dùng kệ đáp lời nhà vua:
Bao nhiêu Dạ-xoa, Tỳ-xá-giá
Những loại thú dữ đáng sợ kia
Trong rừng đêm tối luôn đi lại
Không thể động đến một lông Ta
Không sợ tiếng gầm, dù sư tử
Như gió không thể bị lưới ngăn
Cũng như hoa sen không dính nước
Ta ở thế gian nào ô trược.
Bấy giờ vô lượng đại chúng: Trưởng lão Mục-kiền-liên, Trưởng lão Ma-ha Ca-diếp, Trưởng lão Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Ma-ha Câu-hy-la, Thôn-đà-la, Ly-bà-đa… ngồi hai bên Đức Phật. Các Đại đức trưởng lão này do tu khổ hạnh nên thân thể không tươi sáng, ốm gầy uể oải, sắc diện kém tươi, khí lực sút giảm, chỉ còn da bọc xương. Lúc ấy, vua Thâu-đầu-đàn bạch Đức Phật:
-Thưa Thế Tôn, những vị ngồi bên phải Thế Tôn, họ từ đâu theo Thế Tôn xuất gia?
Lúc ấy Đức Phật đưa cánh tay màu vàng chỉ từng vị Tỳ-kheo và nêu danh tánh giới thiệu cho vua biết:
-Đây là Xá-lợi-phất, đây là Ma-ha Ca-diếp, đây là Ưu-lâu-tần- loa Ca-diếp, đây là Na-đề Ca-diếp, đây là Già-da Ca-diếp, đây là Ưu-ba-tư-na, đây là Ly-bà-đa. Những vị đó đều thuộc dòng họ đại quý tộc Bà-la-môn ở nước Ma-già-đà.
Vua Thâu-đầu-đàn lại hỏi:
-Hiện giờ những vị ngồi bên trái là ai? Từ đâu đến theo Thế Tôn xuất gia?
Đức Phật bảo vua:
-Đây là Ma-ha Mục-kiền-liên, đây là Ma-ha Ca-chiên-diên, đây là Ma-ha Thuần-đà… Những vị ấy cũng thuộc dòng đại quý tộc thuộc nước Ma-già-đà.
Khi vua Thâu-đầu-đàn nghe Đức Phật giới thiệu như vậy, trong lòng buồn bã chẳng vui, lại suy nghĩ: “Con ta tuy thật là đồng tử thuộc dòng đại quý tộc Sát-đế-lợi, hình dung khôi ngô giống như tượng vàng, người ta trông thấy không chán. Nhưng đã là đồng tử dòng đại tộc Sát-đế-lợi mà để hàng Bà-la-môn hầu hạ hai bên là điều phi lý. Đã là đồng tử dòng Sát-đế-lợi cao quý thì lẽ ra phải có hàng Sát-đế-lợi hầu hạ chung quanh mới phải lẽ.”
Nghĩ như thế rồi, vì muốn việc này được thành tựu, nhà vua liền rời chỗ ngồi, đứng dậy trở về hoàng cung.
***
Phẩm 55: NHÂN DUYÊN CỦA ƯU-BA-LY
Sau khi vua Thâu-đầu-đàn trở về hoàng cung, liền có một đồng tử tên là Ưu-ba-ly, từ đại chúng ở trước đi đến chỗ Phật. Người mẹ dắt tay đồng tử đi đến Đức Phật. Bà ta cất tiếng nói:
-Ưu-ba-ly này đã từng cạo râu tóc cho Thế Tôn.
Khi đó Ưu-ba-ly liền cạo râu tóc cho Thế Tôn.
Mẹ đồng tử Ưu-ba-ly bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, đồng tử Ưu-ba-ly cạo râu tóc cho Phật có khéo không?
Đức Phật bảo người mẹ của đồng tử Ưu-ba-ly:
-Tuy cạo bỏ râu tóc đã sạch nhưng thân đồng tử cúi quá thấp. Khi ấy mẹ đồng tử Ưu-ba-ly lại nói với Ưu-ba-ly:
-Này ưu-ba-ly, con cạo bỏ râu tóc cho Như Lai, chớ nên cúi quá thấp khiến tâm Tôn Giả loạn động.
Ngay khi ấy Ưu-ba-ly nhập vào Sơ thiền.
Mẹ đồng tử Ưu-ba-ly lại bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, đồng tử Ưu-ba-ly đã cạo râu tóc cho Thế Tôn có khéo léo không?
Đức Phật liền bảo mẹ đồng tử Ưu-ba-ly:
-Tuy đã cạo bỏ râu tóc nhưng đồng tử ngước quá cao.
Mẹ đồng tử Ưu-ba-ly bảo đồng tử:
-Này ưu-ba-ly, chớ ngước quá cao, khiến tâm Tôn Giả loạn động.
Khi ấy Ưu-ba-ly nhập vào Thiền thứ hai.
Mẹ Ưu-ba-ly lại bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, đồng tử Ưu-ba-ly cạo bỏ râu tóc có khéo léo không?
Đức Phật bảo mẹ đồng tử Ưu-ba-ly:
-Tuy đã cạo bỏ râu tóc nhưng hơi thở vào quá gấp.
Mẹ đồng tử Ưu-ba-ly lại bảo đồng tử:
-Con cạo bỏ râu tóc cho Như Lai chớ nên thở vào quá gấp, khiến cho tâm Tôn Giả loạn động.
Liền khi ấy Ưu-ba-ly nhập vào Thiền thứ ba.
Mẹ đồng tử Ưu-ba-ly lại bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, đồng tử Ưu-ba-ly cạo bỏ râu tóc có khéo léo không?
Đức Phật bảo mẹ đồng tử Ưu-ba-ly:
-Tuy khéo cạo bỏ râu tóc nhưng hơi thở ra quá gấp.
Khi ấy mẹ đồng tử Ưu-ba-ly nói với đồng tử:
-Con cạo bỏ râu tóc cho Như Lai, chớ nên thở ra quá gấp như vậy, khiến tâm Tôn Giả loạn động.
Liền khi ấy Ưu-ba-ly nhập vào Thiền thứ tư.
Lúc ấy Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, các thầy nên mau đến lấy con dao cạo trong tay Ưu-ba-ly, chớ để rơi xuống đất. Tại sao? Vì đồng tử đã nhập vào Thiền thứ tư.
Khi ấy mẹ Ưu-ba-ly liền lấy con dao từ nơi tay đồng tử.
Khi vua Thâu-đầu-đàn về đến thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, liền triệu tập tất cả hoàng tộc nơi đại điện và tuyên cáo:
-Này tất cả các vị, các vị cần phải biết: Thái tử Tất-đạt-đa con của trẫm nếu không xuất gia nhất định sẽ làm Chuyển luân thánh vương thì các khanh phải phục vụ. Nay, Thái tử xuất gia thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đã chuyển pháp luân Vô thượng hơn tất cả trời người. Đã là Vương tử dòng Sát-đế-lợi, có dung nhan đoan chánh giống như tượng vàng, mọi người thích trông ngắm, tại sao người lại dùng người dòng Bà-la-môn làm đệ tử hầu hạ. Điều này thật chẳng đúng pháp. Đã là Vương tử dòng họ Thích Sát-đế-lợi phải có Sát-đế-lợi họ Thích hầu hạ mới đúng pháp.
Bấy giờ hoàng tộc cùng nhau tâu vua Thâu-đầu-đàn:
-Thưa Đại vương, ngày nay ý Đại vương muốn chúng tôi trước phải làm gì?
Lúc bấy giờ vua Thâu-đầu-đàn bảo các vị Thích tử:
-Này các người dòng họ Thích, nếu các khanh thấy hợp thời thì mỗi gia đình cần có một người xuất gia. Hay gia đình họ Thích nào có năm anh em trai thì cho ba người xuất gia, hai người ở nhà. Nếu có bốn người thì hai người xuất gia, hai người ở nhà. Nếu gia đình có ba anh em trai thì hai người xuất gia, một người ở nhà. Nếu gia đình có hai anh em trai thì một người xuất gia, một người ở nhà. Nếu gia đình nào chỉ có một con trai thì không được xuất gia. Vì sao? Vì không được để dòng họ Thích tuyệt tự.
Bấy giờ hoàng gia họ Thích đồng tâu vua Thâu-đầu-đàn:
-Thưa Đại vương, nếu như vậy thì phải lập giấy tờ rõ ràng.
Vua Thâu-đầu-đàn liền triệu tập hoàng gia và tuyên bố:
-Con ta đã xuất gia, có ai theo con ta xuất gia hay không? Nếu ai muốn xuất gia thì nêu tên mình để ghi danh.
Bấy giờ có năm trăm đồng tử họ Thích đều tự ghi danh theo Thái tử xuất gia. Năm trăm đồng tử này bỏ chuỗi anh lạc trang sức trên thân ra và bàn với nhau:
-Ai là người xứng đáng để nhận lấy chuỗi anh lạc của chúng ta?
Rồi họ nghĩ: “Ưu-ba-ly từ xưa đã trải qua thời gian dài khó nhọc phụng sự chúng ta nên Ưu-ba-ly là người xứng đáng nhận chuỗi anh lạc của chúng ta.” Bấy giờ tất cả năm trăm đồng tử đều cởi chuỗi anh lạc trao cho Ưu-ba-ly. Sau khi trao xong, mỗi đồng tử trở về gia đình mình thưa cha mẹ để từ giã.
Khi ấy Ưu-ba-ly suy nghĩ: “Nay cấc đồng tử họ Thích đã cởi bỏ châu báu và chuỗi anh lạc, nếu ta nhận dùng thì điều này không nên. Các vị đồng tử họ Thích có oai đức thế lực lớn, đã xả bỏ của báu và địa vị quan quyền trọng vọng để đi xuất gia, còn ta ngày nay vì lý do gì mà không xuất gia?.”
Thuở ấy Ưu-ba-ly là thợ cắt tóc, thấy các đồng tử về thưa cha mẹ để từ giã. Ưu-ba-ly cũng bỏ lại tất cả chuỗi anh lạc đã được các đồng tử bố thí, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi đứng lui về một bên. Sau khi đứng lui về một bên, Ưu-ba-ly bạch Phật:
-Lành thay! Bạch Thế Tôn, xin Ngài cho con được theo Phật xuất gia.
Khi ấy Đức Phật cho phép Ưu-ba-ly xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nói về năm trăm đồng tử họ Thích, sau khi về nhà từ giã cha mẹ rồi liền trở lại triều đình thưa vua Thâu-đầu-đàn:
-Tâu Đại vương, nay Đại vương có thể cùng chúng tôi đi đến chỗ Thế Tôn. Thái tử xuất gia thì chúng tôi cũng nên theo Thái tử xuất gia.
Vua Thâu-đầu-đàn cùng với năm trăm đồng tử họ Thích đồng đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, họ đảnh lễ dưới chân Ngài và lui ngồi về một bên. Sau khi an tọa xong, vua Thâu-đầu-đàn bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, lành thay Đại Đức! Dòng Sát-đế-lợi không nên dùng người dòng Bà-la-môn hầu hạ chung quanh, điều này thật không đúng phép. Ngày nay Thế Tôn lẽ ra đem dòng Sát-đế-lợi trở lại hầu hạ chung quanh Sát-đế-lợi mới là phải phép. Nay, dòng họ Thích của Thế Tôn có năm trăm đồng tử muốn ở trong giáo pháp của Thế Tôn xin xuất gia thọ giới Cụ túc. Xin Thế Tôn thương mến cho phép họ được xuất gia thọ giới Cụ túc.
Bấy giờ, năm trăm đồng tử được Thế Tôn cho phép xuất gia thọ giới Cụ túc. Ngài lại dạy cho họ các oai nghi và bảo:
-Này năm trăm Tỳ-kheo họ Thích, các thầy đều phải đến đảnh lễ Tỳ-kheo Thượng tọa Ưu-ba-ly.
Khi ấy năm trăm vị Tỳ-kheo trước đảnh lễ dưới chân Phật, rồi sau đảnh lễ Tỳ-kheo Thượng tọa Ưu-ba-ly. Đảnh lễ xong, họ theo thứ lớp an tọa.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với vua Thâu-đầu-đàn:
-Nay Đại vương nên đảnh lễ Ưu-ba-ly, rồi theo thứ lớp đảnh lễ năm trăm Tỳ-kheo.
Lúc bấy giờ, nhà vua nghe Thế Tôn dạy như vậy, liền thưa:
-Thưa Thế Tôn, vâng, trẫm không dám trái lời.
Rồi nhà vua liền đảnh lễ dưới Phật, kế đó lễ Tỳ-kheo Thượng tọa Ưu-ba-ly và cuối cùng theo thứ lớp đảnh lễ năm trăm vị Tỳ-kheo. Đức vua theo thứ lớp đảnh lễ xong, lại trở về ngồi chỗ cũ.
Lúc ấy nhan sắc của Thế Tôn tươi sáng, Ngài nói:
-Ngày nay dòng họ Thích đã tự chiến thắng được lòng tự kiêu về dòng họ quý phái và phá tan sự ngạo mạn về bản thân.
Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, ngày nay Ưu-ba-ly nhờ Thế Tôn nên được năm trăm Tỳ-kheo họ Thích và Đại vương Thâu-đầu-đàn cung kính tôn trọng đảnh lễ.
Nghe các Tỳ-kheo nói như vậy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, Ưu-ba-ly không chỉ riêng đời này nhờ Ta mà được năm trăm Tỳ-kheo họ Thích và Đại vương Thâu-đầu-đàn cung kính tôn trọng lễ bái. Này các Tỳ-kheo, trong quá khứ, Ưu-ba-ly cũng nhờ Ta mà đã từng được năm trăm đại thần quỳ lạy và cũng được vua Phạm Đức thuở ấy cung kính lễ bái.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Việc này như thế nào, cúi xin Thế Tôn vì chúng con nói rõ bổn nghiệp của Ưu-ba-ly.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ thời quá khứ, tại nước Ba-la-nại, có hai người bạn thân, họ đều nghèo hèn, không có tên tuổi trong xã hội. Một hôm, hai người này mang theo một thăng đậu xanh từ nhà mình ra khỏi thành Ba-la-nại để đi làm mướn. Bấy giờ có một vị Bích-chi-phật thường lui tới thành Ba-la-nại.
Vào buổi sớm, vị Bích-chi-phật đắp y, mang bình bát vào thành khất thực. Hai người bạn nghèo này từ xa trông thấy vị Bích-chi-phật đi đến, thân đắp y Tăng-già-lê tề chỉnh ngay ngắn, tay bưng bình bát, ung dung chậm rãi, im lặng nhìn thẳng, tiến tới trước. Hai người thấy vậy sinh tâm thanh tịnh, kính tin Bích-chi-phật, tâm họ hết sức vui mừng nói với nhau:
-Ngày nay chúng ta bần cùng, do đời trước chưa từng gặp ruộng phước như vậy, hoặc có gặp cũng không chiêm ngưỡng, cung kính, hầu hạ, cúng dường. Nếu khi ấy ta gặp được ruộng phước Vô thượng tối thắng mà biết cung kính cung dường, thì ngày hôm nay chúng ta khỏi bị sự khốn khổ không tài sản, luôn luôn đi làm thuê để độ nhật. Nên hôm nay, ta cần phải đem một thăng đậu xanh này cúng dường cho Tiên nhân. Nếu ngài thương xót nạp thọ thì chúng ta thoát khỏi ách nghèo khổ.
Nghĩ như vậy rồi, họ liền đem thăng đậu xanh cúng cho vị Bích-chi-phật và thưa:
-Cúi xin Tôn giả khởi lòng thương nhận vật cúng dường này của chúng con.
Vị Bích-chi-phật thương mến hai người này nên nhận lấy vật cúng dường. Nhận rồi, nhưng Bích-chi-phật muốn giáo hóa chúng sinh, chỉ có một pháp duy nhất là thị hiện thần thông, ngoài ra không có phương tiện nào khác. Khi ấy vì thương mến hai người này, sau khi thọ sự cúng dường rồi, vị Bích-chi-phật từ ngay mặt đất bay lên hư không mà đi.
Bấy giờ hai người bạn thân thấy vị Bích-chi-phật bay đi trong hư không mọi cách tự do, trong tâm hết sức hoan hỷ, tràn ngập toàn thân không thể tự chế, chắp tay cung kính đảnh lễ dưới chân vị Bích-chi-phật, phát lời thệ nguyện: “Hôm nay, chúng con nguyện ở đời vị lai thường gặp được vị Giáo sư như vậy hoặc hơn thế nữa. Những giáo pháp của Giáo sư nói ra, chúng con nghe rồi đều thông đạt và nguyện không sinh vào các đường ác.”
Nguyện như vậy rồi, một trong hai người lại nguyện: “Nguyện nhờ sức công đức này, ở đời vị lai con thường sinh trong dòng đại tộc Bà-la-môn, nguyện tụng được bốn bộ luận Duy-đà và biết sáu thứ kỹ nghệ.”
Có kệ:
Chẳng phải trực tâm giữ chánh tín
Mà được gọi là ruộng phước tốt
Cần phải cúng dường Phật cùng Tăng
Cho đến nhờ gặp Bích-chi-phật.
Sau khi hai người này qua đời, một người sinh tại thành Ba-la-nại, trong dòng Sát-đế-lợi, kế nghiệp ngôi vua, tên Phạm Đức. Người thứ hai sinh làm đồng tử trong nhà Bà-la-môn rất thanh tịnh, tên là Ưu-ba-già, thông hiểu các luận. Đồng tử Ưu-ba-già có một người vợ tên là Ma-na-tỳ-ca, dung nhan kiều diễm, mọi người nhìn ngắm không chán, ở thế gian không ai sánh bằng. Nàng được đồng tử Ưu-ba-già yêu quý nên vắng mặt trong giây lát thì tâm chàng chẳng an.
Vào một hôm, nàng Ma-na-tỳ-ca vì có chút hờn giận đồng tử nên không nói năng với chồng. Đồng tử Ưu-ba-già buồn rầu khổ não, than thở: “Ngày nay Ma-na-tỳ-ca không nói gì với ta, làm thinh như vậy!
Sau đó, bốn tháng mùa hạ đã qua, đến tiết thu sang, nàng Ma-na-tỳ-ca thưa với đồng tử:
-Lành thay! Thưa thánh tử, chàng nên đi đến chợ búa mua sắm các thứ dầu thơm, phấn sáp và tràng hoa thật đẹp. Tại sao như vậy? Vì tiết mùa thu bốn tháng đã đến, mọi người cùng nhau hưởng thú ngũ dục, chúng ta cũng phải trang điểm để hưởng thú vui này.
Đồng tử Ưu-ba-già nghe vợ nói như vậy, vui mừng hớn hở khắp toàn thân, không thể tự chế, thầm nghĩ: “Ngày nay Ma-na-tỳ-ca vợ ta vì sao bỗng nhiên trò chuyện với ta?” Trước đó Ưu-ba-già có một tiền vàng, đã cho người thôn khác mượn nên giữa trưa hôm ấy, mặt trời chiếu xuống đất, nắng chan chan, mọi cảnh vật đỏ giống như mào gà, mà đồng tử vẫn ra khỏi nhà để đến thôn kia đòi nợ. Trên đường đi, vì dục tâm bức xúc, chàng cất tiếng hát bài dâm ca. Nơi ấy cách cung vua Phạm Đức chẳng bao xa.
Khi ấy vua Phạm Đức đang ngủ trưa trên lầu, vừa thức dậy ngồi hóng mát, bỗng nghe tiếng người bị nhiễm ngũ dục cất tiếng hát bài dâm ca. Nhà vua nghe như vậy liền phát khởi dục tâm.
Có kệ:
Hoặc do thói quen có từ trước
Hoặc bởi nhân cảnh động tâm tình
Đây do ái nhiễm nơi sắc dục
Giống tợ hoa sen từ nước sinh.
Khi vua Phạm Đức nghe bài dâm ca này, lấy làm kinh ngạc: “Không biết người này là ai, ở giữa trưa trời nắng chan chan như thiêu như đốt, mà tâm nhiễm ái dục, miệng hát dâm ca như vậy?.”
Nhà vua nghĩ như vậy rồi, vọng qua cửa sổ, xa xa trông thấy Ưu-ba-già ở trên đường vừa đi vừa hát dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa, liền gọi tùy quan đến bảo:
-Khanh mau đến bắt người đang hát kia về đây cho ta.
Vị quan nghe sắc lệnh, liền tâu Đại vương:
-Chẳng dám trái thánh chỉ.
Vị quan này đến chỗ Ưu-ba-già nói:
-Này đồng tử, đến đây, đến đây! Ngày nay nhà vua gọi ông đến.
Ưu-ba-già nghe nói vậy hết sức sợ hãi, toàn thân dựng chân lông, buồn rầu áo não, thầm nghĩ: “Nay sao lại có người biết ta? Không biết ta có lỗi gì với nhà vua? Điều này thật làm cho ta sầu não!
Khi đại thần dẫn Ưu-ba-già đến yết kiến, nhà vua có tâm thương mến với người này, nên nói kệ:
Giữa trưa nắng chan chan thiêu đốt
Cảnh vật đỏ rực như mào gà
Người đang nhiễm dục hát dâm ca
Tại sao trong nắng không thấy khổ?
Mặt trời tung lửa tỏa khắp nơi
Cát vàng trên đất càng thêm nóng
Ông đang say đắm hát dâm ca
Tại sao trong nắng không thấy khổ?
Bấy giờ đồng tử Ưu-ba-già dùng kệ tâu vua Phạm Đức:
Đại vương, hôm nay không nóng bức
Trên trời vầng nhật nóng là bao
Chỉ có cầu lợi và mất lợi
Trong khổ, khổ này là khổ nhất
Ánh sáng mặt trời tuy nóng bỏng
Khổ này trong khổ, ít khổ nhất
Kinh doanh tất cả các sự nghiệp
Như vậy gọi là hết sức khổ.
Bấy giờ vua Phạm Đức lại hỏi đồng tử Ưu-ba-già:
-Này đồng tử, ông nay kinh doanh sự việc gì mà đi trên đường trong vùng đất nóng bức như vậy?
Lúc ấy Ưu-ba-già trình lên nhà vua những sự việc của mình như trên một cách tường tận. Vua Phạm Đức lại bảo đồng tử:
-Này đồng tử, dừng lại, đừng có đi. Ta nay sẽ cho ngươi hai đồng tiền (tức tiền vàng bên Ấn độ).
Nhà vua liền lấy tiền trao cho đồng tử. Đồng tử nhận hai đồng tiền rồi tâu vua Phạm Đức:
-Lành thay! Thưa Đại vương, tuy được Đại vương cho hai đồng tiền, tôi lại xin Đại vương một đồng tiền nữa, tổng cộng trước sau ba đồng tiền, rồi tôi đến thôn nọ đòi một tiền, cộng với tiền Đại vương cho, tất cả là bổn đồng tiền, để tôi cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca thọ hưởng ngũ dục trong tiết thu này.
Vua Phạm Đức lại bảo đồng tử Ưu-ba-già:
-Ngươi dừng lại chớ đi. Ta sẽ cho ngươi tám đồng tiền.
Nhà vua trao tiền cho đồng tử. Ưu-ba-già nhận tám đồng tiền rồi lại thưa vua:
-Lành thay! Thưa Đại vương, xin ngài hoan hỷ, nay xin Đại vương cho tôi một đồng tiền nữa tức thành chín đồng tiền, rồi tôi đến thôn kia đòi một đồng tiền nữa, tổng cộng thành mười đồng tiền. Nếu được như vậy, tôi cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca thọ thú vui ngũ dục trong tiết thu này.
Vua Phạm Đức lại bảo đồng tử Ưu-ba-già:
-Thôi chớ đi, ngày nay ta sẽ cho ngươi tất cả mười sáu đồng tiền.
Vua liền trao cho đồng tử mười sáu đồng tiền. Đồng tử nhận tiền rồi lại thưa vua:
-Lành thay! Lành thay! Thưa Đại vương, ngài đã hoan hỷ cho tôi mười sáu đồng tiền, nay ngài cho tôi một tiền thành mười bảy đồng tiền, rồi tôi đến thôn kia đòi một tiền, tổng cộng thành mười tám đồng tiền. Nếu được như vậy, tôi cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca thọ thú vui ngũ dục.
Vua Phạm Đức lại bảo đồng tử Ưu-ba-già:
-Này đồng tử, thôi chớ đi! Ta nay sẽ cho ngươi tổng cộng ba mươi hai đồng tiền.
Đồng tử được tiền rồi, lại thưa vua:
-Lành thay! Thưa Đại vương, ngài đã hoan hỷ cho tôi ba mươi hai đồng tiền, nay lại xin Đại vương cho tôi một đồng tiền nữa, rồi tôi lại đến thôn kia đòi một đồng tiền, tổng cộng thành ba mươi bốn đồng tiền, để cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca hưởng thụ thú vui ngũ dục.
Vua Phạm Đức lại bảo đồng tử:
-Này đồng tử, thôi chớ đi, ta nay cho ngươi sáu mươi bốn đồng tiền.
Khi ấy Ưu-ba-già nhận tiền rồi, lại bạch nhà vua:
-Lành thay Đại vương! Được ngài hoan hỷ, tôi đã nhận nơi Đại vương sáu mươi bốn đồng tiền. Nay xin Đại vương cho tôi một đồng tiền, rồi tôi đến thôn kia đòi một đồng tiền, tổng cộng thành sáu mươi sáu đồng tiền để cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca hưởng thụ thú vui ngũ dục trong tiết mùa thu.
Đại vương Phạm Đức lại bảo Ưu-ba-già:
-Này đồng tử, thôi chớ đi! Ta nay sẽ cho ngươi một trăm đồng tiền.
Ưu-ba-già nhận tiền rồi, lại thưa vua:
-Lành thay! Thưa Đại vương, tôi đã xin, ngài hoan hỷ cho tôi một trăm đồng tiền. Nay lại xin Đại vương cho tôi một đồng tiền, rồi tôi sẽ đến thôn kia đòi một đồng tiền nữa, tổng cộng là một trăm lẻ hai đồng tiền. Được vậy, để tôi cùng với nàng Ma-na-tỳ-ca thọ hưởng thú vui ngũ dục trong tiết mùa thu.
Vua Phạm Đức lại bảo Ưu-ba-già:
-Này đồng tử, thôi chớ đi. Ta sẽ phong cho ông hưởng lộc một thôn.
Đồng tử Bà-la-môn này càng được nhà vua cho lại càng tham, nên thường đến chỗ nhà vua. Do đó nhà vua chọn một thôn trù phú ban cho đồng tử. Đồng tử sau khi được phong ấp rồi, cần cù làm việc không biết mỏi mệt, giông như nô bộc phụng sự nhà vua, thức khuya dậy sớm, thao tác thuần thục, sự việc đều hợp với ý vua, tâm ý ngay thẳng. Phụng sự như vậy hoàn toàn không bị vua quở trách. Vì lý do đó được lòng nhà vua, khiến cho vua Phạm Đức hoan hỷ không thôi. Sau đó nhà vua chia hai giang san cho Ưu-ba-già cai trị, cho đến kho tàng của nhà vua cũng chia hai.
Bà-la-môn này được vua Phạm Đức sủng ái như vậy, thọ hưởng đầy đủ thú vui ngũ dục, không có thứ gì thiếu hụt. Tất cả việc làm tuần tự được nhà vua kiểm tra mới được hoàn tất. Hễ mỗi lần Bà-la-môn từ nhà đến hoàng cung, vua thường gối trên đùi Bà-la-môn này để ngủ.
Về sau này, vào hôm nọ, vua Phạm Đức nằm gối trên đùi Ưu-ba-già nên ngủ say. Ưu-ba-già nhân thấy nhà vua ngủ say, bỗng phát sinh ý nghĩ: “Làm sao một nước mà lại có hai vua đồng dùng một oai thế. Trong kho tàng lại cũng không nên hai người cùng sử dụng. Nay nhân cơ hội vua Phạm Đức ngủ say, ta ám sát nhà vua. Nếu sự ám sát thành công, một mình ta giữ lấy ngôi vua, trị hóa dân chúng.”
Ưu-ba-già nghĩ như vậy rồi, khi sắp cầm dao, lại nghĩ: “Vua Phạm Đức trước đã vì ta ban cho sự lợi ích lớn, đã chia hai giang san cho ta cai trị, tất cả kho tàng đều chia hai cho ta. Nếu nay ta giết vua, thành ra ta là kẻ vô ân nghĩa.”
Lần thứ hai Ưu-ba-già lại nghĩ thế này: “Làm sao hai người đồng cai trị một nước. Lại cũng không nên hai người đồng sử dụng một kho tàng.”
Cho đến lần thứ ba cũng nghĩ như vậy, rồi tự hối: “Nếu ta giết vua thì nhất định ta thành kẻ vô ân nghĩa.”
Khi Ưu-ba-già nghĩ như vậy, cất tiếng khóc vang. Vua Phạm Đức nghe tiếng khóc vang bỗng nhiên tỉnh giấc, thức dậy hỏi Ưu-ba-già:
-Này anh, vì cớ gì mà khóc to như vậy?
Ưu-ba-già trình bày tỉ mỉ mọi việc suy tính của mình vừa rồi. Vua Phạm Đức không tin Ưu-ba-già có việc như vậy, nên nói:
-Này Ưu-ba-già, nhất định anh không có việc như vậy. Này Ưu- ba-già, chớ nói lời như vậy!
Ưu-ba-già vội thưa vua Phạm Đức:
-Đại vương phải tin lời nói của tôi. Thật sự tôi có ác tâm như vậy.
Khi ấy Ưu-ba-già lại suy nghĩ: “Ta đang vì sự việc gì mà bỗng nhiên sinh ác tâm như vậy!” Chánh tư duy như vậy rồi liền nói:
-Ta sinh việc ác như vậy, chẳng phải là do ngũ dục hay sao? Hay chẳng phái là do ngôi vua hay sao? Ta cũng không nên tham, ngôi vua này, cũng không ham thú vui thế gian. Do những việc ấy mà ta sinh tâm ác này. Ta chỉ có một việc là cần phải xả tục xuất gia.
Ưu-ba-gia liền thưa với nhà vua:
-Thưa Đại vương, xin ngài biết cho, ngày nay tôi muốn xả tục xuất gia.
Vua Phạm Đức nói với Ưu-ba-già:
-Chớ nói như vậy! Ta đã chia nửa giang san cho anh cai trị, kho tàng cũng chia hai. Ta cùng anh rất tâm phúc, không có được người thứ hai như anh. Nếu nay anh xuất gia thì ta nhất định không vui. Ưu-ba-già lại thưa vua:
-Lành thay! Thưa Đại vương, xin ngài thương tình cho tôi xuất gia. Tôi nay nhất định xuất gia không còn do dự. Đối với việc làm của tôi, xin Đại vương không nên cản trở.
Vua Phạm Đức lại nói với Ưu-ba-già:
-Anh hãy thực hiện theo ý thích của mình. Thuở ấy, tại thành Ba-la-nại có một người thợ gốm, xuất gia trước đó, tu hạnh Tiên nhân, hiện cư ngụ nơi thành này. Tiên nhân ấy có oai đức lớn, đã chứng năm phép thần thông, có thể dùng tay rờ mặt trời, mặt trăng. Bấy giờ Ưu-ba-già cạo bỏ râu tóc xuất gia theo vị tiên này tu học. Sau khi xuất gia rồi, dũng mãnh tinh tấn đạt được tứ thiền và chứng năm phép thần thông, có oai đức lớn, cũng có thể dùng bàn tay rờ mặt trời, mặt trăng.
Vua Phạm Đức nghe Ưu-ba-già xuất gia thành tựu đại tiên, có oai đức lớn, cũng có thể dùng tay rờ mặt trời, mặt trăng. Nghe vậy nhà vua mỉm cười, đi vào nội cung dùng kệ nói với cung nhân:
Ưu-ba hành thiện chẳng bao lâu
Mà được lợi ích kết quả lớn
Lành thay! Ưu-ba được thân người
Xả bỏ ngũ dục đi xuất gia.
Khi các cung nhân nghe vua Phạm Đức nói bài kệ như vậy, tâm họ đều ưu sầu chẳng vui, đồng tâu vua:
-Đại vương nên biết, người đó trước làm nghề buôn bán cờ bạc, cầm gậy hành khất để tự nuôi thân. Kẻ Bà-la-môn này không có thế lực, do vậy mới xuất gia. Ngày nay Đại vương chẳng nên bắt chước người ấy, xả bỏ quốc gia mà xuất gia.
Vua Phạm Đức có một thợ hớt tóc tên là Căn-già-bà-la, từ xưa đến nay được vua yêu mến. Khi ấy vua Phạm Đức kêu người thợ hớt tóc đến bảo:
-Này Căn-già-bà-la, ngươi hãy cạo tóc cho ta.
Nói lời này rồi vua liền ngủ say. Khi thấy nhà vua ngủ rồi, người thợ cạo liền cạo râu tóc cho vua. Cạo xong, nhà vua vẫn ngủ chưa dậy.
Sau khi thức dậy, vua bảo thợ hớt tóc Căn-già-bà-la:
-Ta đã ra lệnh cho ngươi cạo râu tóc cho ta, tại sao ngươi không cạo?
Nghe nói lời ấy, thợ hớt tóc Căn-già-bà-la tâu vua Phạm Đức: -Tâu Đại vương, hạ thần đã cạo xong. Đại vương ngủ say không biết đó thôi.
Khi ấy vua Phạm Đức dùng gương soi, thấy mình đã được cạo râu tóc rồi, rất vui mừng, nhân đó bảo Căn-già-bà-la:
-Ông nên nhận lấy thôn làng trù phú nhất của ta và được quyền tự do sử dụng.
Thợ hớt tóc Căn-già-bà-la tâu vua Phạm Đức:
-Thưa Đại vương, xin cho hạ thần cùng với cung nhân quyến thuộc của Đại vương thảo luận chi tiết đã, sau đó hạ thần sẽ trả lời.
Nói lời ấy rồi ông ta bái biệt nhà vua. Xưa nay được tự do ra vào trong cung, nên thợ hớt tóc Căn-già-bà-la đi vào nội cung, trình bày với các cung nhân:
-Đại vương phong cho tôi thôn làng rất phong phú dùng làm phong ấp. Xin hoàng hậu cùng các phi cho ý kiến thế nào? Nên nhận hay không nên nhận?
Lúc ấy các hậu phi bảo Căn-già-bà-la:
-Này Căn-già-bà-la, ông nhận thôn làng trù phú đó làm gì! Hiện giờ chúng ta có thể cho ông đầy đủ vàng bạc, ngọc ngà. Nhưng ta chỉ nhờ ông một chuyện, ông có làm không?
Căn-già-bà-la hỏi cung nhân:
-Các phi ngày nay muốn bảo tôi làm việc gì? .
Các phi liền bảo người thợ hớt tóc:
-Đại vương mỗi khi vào nội cung thường nói kệ:
Ưu-ba hành thiện chẳng bao lâu
Mà được lợi ích kết quả lớn
Lành thay! Ưu-ba được thân người
Xả bỏ ngũ dục đi xuất gia.
Khi chúng ta nghe nhà vua nói bài kệ này, liền nghĩ: “E Đại vương bỏ ngôi đi xuất gia.” Lành thay! Này Căn-già-bà-la, ông đến thưa hỏi Đại vương bài kệ này ý nghĩa thế nào?
Căn-già-bà-la vội đi đến chỗ nhà vua Phạm Đức, tâu với vua:
-Đại vương đã hứa ban cho hạ thần thôn làng trù phú. Hạ thần không nhận ý đó, chỉ muốn biết tại sao mỗi khi Đại vương đi đến trước các phi hậu, lại nói bài kệ:
Ưu-ba hành thiện chẳng bao lâu
Mà được lợi ích kết quả lớn
Lành thay Ưu-ba được thân người
Xả bỏ ngũ dục đi xuất gia.
Lành thay! Thưa Đại vương, xin ngài giải thích ý nghĩa bài kệ này như thế nào? Hạ thần đến Đại vương chỉ mong muốn điều như vậy.
Vua Phạm Đức bảo Căn-già-bà-la:
-Ta từ khi nghe đồng tử Ưu-ba-già bỏ địa vị nửa quốc gia mà đi xuất gia, thành bậc Đại tiên nhân, có oai đức lớn, có thể dùng bàn tay rờ mặt trời, mặt trăng. Ta đang bị say đắm lệ thuộc ngũ dục thế này, do vậy ta muôn làm Tiên nhân, nên thường vào trong cung đọc bài kệ ấy.
Thợ hớt tóc Căn-già-bà-la liền trở lại nội cung trình ý này cho các phi hậu:
-Này các phi hậu, chớ lo Đại vương muốn xuất gia. Đại vương ngày nay nhất định không thể xuất gia.
Các phi hậu nghe thợ hớt tóc nói lời như vậy, đều vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, cởi các chuỗi ngọc anh lạc đang trang điểm trên thân và bảo Căn-già-bà-la:
-Những chuỗi anh lạc này của ta đều cho ông. Ông chẳng phải vì đời sống mà làm các nghề nghiệp khác.
Căn-già-bà-la thấy việc như vậy, phát sinh ý nghĩ: “Ưu-ba-già đã bỏ vương vị nửa quốc gia mà tìm lối xuất gia, nên vua Phạm Đức ngưỡng mộ nơi người. Ta vì cớ gì mà chẳng xuất gia, để tất cả thế gian ngưỡng mộ ta. Nếu ta chiều ý các phi hậu thì việc ấy nhất định không tốt. Ngày nay ta cũng bỏ các thứ đó mà đi xuất gia.”
Căn-già-bà-la nghĩ như vậy rồi, liền đi đến chỗ vua Phạm Đức, tâu lên nhà vua:
-Thưa Đại vương, ngài đã ban cho hạ thần những việc như trước, nay thần muôn bỏ những thứ đó đi xuất gia.
Vua Phạm Đức hỏi Căn-già-bà-la:
-Ý ông muốn theo ai xuất gia?
Căn-già-bà-la đáp:
-Tâu Đại vương, ý của hạ thần muốn theo Ưu-ba-già xuất gia.
Vua Phạm Đức lại nói:
-Căn-già-bà-la, tùy theo ý ông, tự do mà đi.
Lúc bấy giờ Căn-già-bà-la tự cạo râu tóc rồi đi đến chỗ ưu-ba-già, liền thành người xuất gia. Sau khi xuất gia rồi, người siêng năng tinh tấn, đạt Tứ thiền và đủ năm phép thần thông, được đại oai thần, có đại oai đức, cũng có thể dùng tay chạm mặt trời, mặt trăng.
Vua Phạm Đức nghe sau khi Căn-già-bà-la xuất gia, đã thành bậc đại tiên, có oai lực thần thông lớn, cũng có năng lực dùng bàn tay rờ lấy mặt trời, mặt trăng. Nghe việc như vậy, không thể ngăn chận lòng khao khát kính ngưỡng, nên muôn tìm đến chiêm ngưỡng, vua bảo các quần thần:
-Này các đại thần, nay trẫm muốn đi đến chỗ Tiên nhân Căn-già-bà-la. Vậy các khanh nên đi cùng trẫm.
Các đại thần tâu nhà vua:
-Đại vương không nến làm như vậy. Đại vương không nên giá lâm đến chỗ Tiên nhân kia. Chúng tôi sẽ cho sứ tới đòi người ấy đến.
Vua Phạm Đức bảo các đại thần:
-Nay các khanh không nên làm như vậy. Các khanh chớ nói lời như vậy. Từ xưa đến nay, không có phép mình không đi đến các đại Tiên nhân mà gọi các Tiên nhân đến yết kiến mình. Đích thân chúng ta phải đi đến chỗ các Tiên nhân, như vậy mới đúng pháp. Vì sao? Vì hàng Tiên nhân là ruộng đại phước, đáng nhận sự cúng dường, đích thân chúng ta nhất định phải đến đó.
Bấy giờ vua Phạm Đức lấy oai đức của mình ra lệnh trang hoàng năm trăm cỗ xe cùng với năm trăm đại thần hộ vệ, đồng khởi hành từ thành Ba-la-nại đi đến chỗ các Tiên nhân, vì muốn phô trương oai thế của nhà vua.
Khi Tiên nhân Căn-già-bà-la từ xa trông thấy nhà vua đến, tự đi đến trước mặt vua, nói:
-Lành thay! Đại vương Phạm Đức từ xa giá lâm đến đây, thật là hy hữu!
Lúc ấy năm trăm vị đại thần oán tức Căn-già-bà-la nên thốt ra những lời thô lỗ:
-Ngươi là kẻ hạ tiện, con nhà dâm nữ ô uế bất tịnh, luôn luôn phải tẩy rửa những cấu ghét. Tại sao ngày hôm nay ngươi dám kêu tên Đại vương!
Khi ấy vua Phạm Đức ngắt lời các đại thần:
-Các khanh không nên nói các lời như vậy. Theo phép Tiên, kêu tên người là việc thường. Vì Tiên nhân có giới hạnh, có đại oai lực.
Rồi vua Phạm Đức dùng kệ nói với các đại thần:
Các khanh chớ giận Tiên nhân này
Chư Tiên phạm hạnh được toàn vẹn
Bao nhiêu khổ hạnh họ tu hành
Vượt qua các khổ cùng sợ hãi
Ác tâm tiêu trừ, hết tội lỗi
Không còn là thợ hớt, thợ gốm.
Căn-già-bà-la đã khổ hạnh
Hàng phục ngã mạn nên gọi tên
Các khanh đang thấy sức nhẫn nhục
Thu phục các căn chứng quả tiên
Được hàng người trời đều kính trọng
Ở trong trời người vượt lên trên.
Lúc ấy vua Phạm Đức cùng các thể nữ trong cung của mình, đảnh lễ dưới chân các Tiên nhân trước, rồi đứng lui về một bên. Sau đó năm trăm vị đại thần vội đảnh lễ dưới chân các Tiên nhân ấy, rồi sau đó mới đảnh lễ dưới chân Tiên nhân Căn-già-bà-la, kế đến cũng đảnh lễ dưới chân Tiên nhân thợ gốm.
Đại vương Phạm Đức lui ngồi về một bên rồi mới hỏi những lời an ủi các Tiên nhân:
-Các Tôn giả thân thể có được an ổn khỏe mạnh không? Vật dụng cho đời sống có khó khăn không? Có ai làm phiền không?
Các Tiên nhân đáp lời vua Phạm Đức:
-Đúng như vậy, thưa Đại vương, việc ấy cần phải chịu đựng. Nhưng long nhan của Đại vương có an ổn không? Tất cả quyến thuộc và đại thần cùng hàng thứ dân trong nước, tất cả đều được bình yên không?
Hỏi thăm như vậy xong, các Tiên vì nhà vua mà thuyết pháp giáo hóa, khiến tâm nhà vua hoan hỷ, tăng trưởng công đức.
Bấy giờ Đại vương Phạm Đức được các Tiên nhân thuyết pháp giáo hóa khiến tâm hoan hỷ, tăng trưởng công đức, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân các Tiên nhân rồi trở về hoàng cung.
Bấy giờ Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Các thầy nếu phân vân Ưu-ba-già lúc ấy là người nào, thì chớ nên nghĩ gì khác, chính là thân Ta ngày nay.
Này các Tỳ-kheo, nếu có phân vân Tiên nhân hớt tóc Căn-già-bà-la thuở ấy là người nào, thì chớ nên nghĩ gì khác, tức là Ưu-ba-ly này vậy.
Này các Tỳ-kheo, hoặc các thầy phân vân không biết vua Phạm Đức thuở đó là ai, thì chớ nên nghĩ gì khác, nay là Thâu-đầu-đàn này vậy.
Này các Tỳ-kheo, hoặc các thầy phân vân không biết năm trăm vị đại thần thuở ấy là hạng người nào, thì chớ nên nghĩ gì khác, là năm trăm Tỳ-kheo này vậy.
Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ưu-ba-ly thuở ấy cũng nhờ Ta mà được năm trăm vị đại thần cùng vua Phạm Đức lễ bái. Ngày nay cũng nhân nơi Ta được năm trăm Tỳ-kheo và vua Thâu-đầu-đàn lễ bái.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nếu muốn biết rõ trong chúng Tỳ-kheo Thanh văn của Ta, ai là người trì giới luật hơn hết. Đó là Tỳ-kheo Ưu-ba-ly này vậy.
Bấy giờ các Tỳ-kheo suy nghĩ: “Ưu-ba-ly trước tạo nghiệp gì, mà nay theo nghiệp báo đó sinh trong nhà hạ tiện, làm nghề hớt tóc? Lại tạo nghiệp gì mà nay theo nghiệp báo đó được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán, lại được Như Lai thọ ký: “Này các Tỳ-kheo, trong chúng đệ tử Thanh văn của Ta, người trì giới đệ nhất là Tỳ-kheo Ưu-ba-ly?”
Các Tỳ-kheo nghĩ như vậy rồi, đến bạch Thế Tôn:
-Bạch Đức Thế Tôn, thuở xưa Ưu-ba-ly tạo nghiệp gì mà nay theo nghiệp báo đó sinh trong nhà hạ tiện, làm nghề hớt tóc? Lại tạo nghiệp gì mà nay theo nghiệp báo đó được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán, lại được Như Lai thọ ký: “Trong số đệ tử Thanh văn của Ta, Ưu-ba-ly là người trì giới đệ nhất?”
Bấy giờ Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta nhớ thuở xưa cũng tại thành này có một người thợ hớt tóc, người này cầu hôn với một cô gái, con của một nhà hớt tóc khác, tương xứng với gia đình mình để làm vợ. Chẳng bao lâu sau khi sinh được một đứa bé trai, người thợ hớt tóc bỗng nhiên lâm bệnh. Tuy mời thầy thuốc chữa trị nhưng bệnh không lành, do vậy mà vị ấy qua đời. Sau khi người thợ hớt tóc chết rồi, vợ anh ta đem bé trai giao cho anh (em) của nàng và nói: “Bé trai này là cháu bên ngoại của các anh, các cậu đó. Nay tôi đem giao cho các anh, các cậu. Các anh, các cậu phải dạy cháu học nghề của cha mình.”
Người thợ hớt tóc kia nghe em (chị) của mình nói như vậy, nên nhận lãnh đứa bé, rồi dạy nghề hớt tóc của cha nó. Người hớt tóc này thường ở trong cung vua, được vua trọng dụng để sửa râu tóc cho nhà vua nên hầu như không đi ra ngoài để hớt tóc cho dân.
Thuở ấy, nhà vua cấp cho thợ hớt tóc một con bạch tượng mặc tình sử dụng đi đó đây và cấp cho một hộp bằng vàng để đựng con dao cạo và các dụng cụ đồ nghề hớt tóc. Nhà vua lại dặn: “Hễ trong thời kỳ không có Phật ra đời, chỉ có Bích-chi-phật xuất hiện, giống như con tê ngưu ra đi một mình, ta phải làm điều lợi ích.”
Lúc đó, có một vị Bích-chi-phật tóc râu, móng tay đều ra dài, đi đến thợ cạo tóc, nói:
-Lành thay! Này hiền thủ, xin nhân giả cạo bỏ râu tóc giùm cho tôi.
Thợ cạo tóc đáp:
-Lành thay! Đại tiên, nếu muốn vậy, xin đợi đến sáng sớm mai, đến đây tôi sẽ cạo râu tóc cho Đại tiên.
Tôn giả Bích-chi-phật nghe nói như vậy liền trở về. Qua đêm ấy, sáng sớm ngày mai thức dậy, đắp y, mang bình bát trở lại nhà thợ cao tóc, nói:
-Lành thay! Này hiền thủ, hôm nay xin nhân giả cạo râu tóc giùm cho tôi.
Khi ấy người thợ cắt tóc lại bạch Bích-chi-phật:
-Lành thay! Đại tiên, nếu muốn vậy, xin đợi đến chiều, tôi sẽ cạo râu tóc cho Đại tiên.
Như vậy, ngày ấy, khi mặt trời đã ngã về Tây, Tiên nhân trở lạị chỗ người thợ hớt tóc. Thợ hớt tóc lại nói:
-Xin ngài đợi đến sáng mai.
Như vậy, sáng mai Tiên nhân lại đến chỗ người thợ hớt tóc. Người thợ hớt tóc lại nói:
-Xin ngài đợi cho đến chiều.
Cứ như vậy, buổi mai cũng không cạo tóc, buổi chiều cũng không cạo tóc.
Khi ấy thấy vị Bích-chi-phật, hoặc sáng sớm đến, hoặc chiều mát đến, liên tiếp các ngày như vậy, nên đồng tử thưa với vị Bích-chi-phật:
-Thưa Tôn giả Bích-chi-phật, vì lý do gì sáng sớm và chiều mát luôn luôn đến đây vậy?
Vị Bích-chi-phật tường thuật đầy đủ những việc vừa rồi cho đồng tử nghe. Đồng tử thưa Tiên nhân:
-Cậu tôi nhất định không cạo tóc cho Tiên nhân đâu. Tại sao? Vì cậu tôi ỷ mình được tự do ra vào trong cung vua nên sinh kiêu mạn. Tôi sẽ cạo tóc cho ngài.
Đồng tử liền cạo tóc cho Tiên nhân. Bấy giờ Tôn giả Bích-chi-phật thầm nghĩ: “Nay đồng tử này tạo công đức lớn, ta cần phải vì người biểu dương thị hiện công đức.” Nghĩ như vậy, Tôn giả này bảo đồng tử:
-Này đồng tử, nếu ngươi hiểu biết nên thâu cất râu tóc của ta, sau này sẽ đem lại lợi ích lớn cho ngươi.
Nói như vậy rồi, giống như nhạn chúa giương đôi cánh, vị Bích-chi-phật ấy vận dụng sức thần thông, bay vọt lên hư không mà đi.
Khi ấy đồng tử thâu lượm râu tóc của Bích-chi-phật để trên vai rồi hướng về Bích-chi-phật đem tâm thanh tịnh, chắp tay đảnh lễ, phát nguyện: “Con nguyện đời vị lai sẽ gặp được Tôn giả Bích-chi-phật như thế này hay hơn thế nữa, những giáo lý của Thế Tôn nói ra con nguyện đều mau hiểu biết tất cả. Lại nguyện đời sau con chẳng sinh vào các ác đạo. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp con làm thợ hớt tóc. Vì ruộng phước nên con vâng thờ cúng dường các Thánh giả như vậy.
Bấy giờ nơi thành ấy, bá quan đại thần hầu hạ hai bên nhà vua đang lâm triều trên đại điện trong nội cung, đều trông thấy vị Bích-chi-phật bay đi trong hư không. Quần thần thấy vậy liền tâu đức vua:
-Ngày nay có điềm lành lợi ích thật hy hữu, khó được thân người như vậy. Hôm nay trong nước có ruộng phước ra đời.
Khi ấy nhà vua ngước mặt trông thấy vị Bích-chi-phật như vậy, liền bảo quần thần:
-Người nào cạo bỏ râu tóc cho Bích-chi-phật sẽ được nhiều lợi ích.
Người sửa râu tóc cho nhà vua lúc đó đang đứng bên cạnh liền tâu vua:
-Chính hạ thần đã cạo bỏ râu tóc cho vị Tiên nhân ấy, ngoài ra có ai đâu?
Đồng tử nghe cậu mình nói lời như vậy, liền đến tâu với vua.
-Thưa Đại vương, Đại vương biết, vừa rồi cậu con nói lời giả dối không thật. Không phải cậu con cạo râu tóc cho Tiên nhân. Việc nhỏ như vậy, mà còn nói dối là ta cạo râu tóc cho Tiên nhân. Thật ra, người cạo bỏ râu tóc cho Tiên nhân chính là con.
Bấy giờ người thợ sửa tóc cho nhà vua quở trách đồng tử:
-Chao ôi! Kẻ ngu si kia! Ngươi có thế lực gì mà cạo râu tóc cho Tiên nhân?
Bấy giờ đồng tử lấy tóc của Tiên nhân đưa ra cho quần thần xem và nói:
-Đây là tóc của Tiên nhân, hiện giờ tôi đem theo đây, xin các vị thấy cho!
Khi ấy nhà vua thấy việc như thế, nổi giận bảo tên thợ sửa râu tóc cho mình.
-Chao ôi! Kẻ ngu si! Ngươi ở bên ta có thế lực như vậy, nay vì cớ gì nói dối ta? Ngươi mau ra khỏi nước, không được ở trong biên giới quốc gia ta.
Nhà vua đòi lại con bạch tượng cùng những dụng cụ hớt tóc rồi phong lộc cho đồng tử và sắc phong:
-Từ nay về sau, khanh luôn luôn sửa râu tóc và móng tay chân cho ta.
Đồng tử tâu vua:
-Vâng lệnh Đại vương! Hạ thần không dám trái lời. Từ nay về sau, hạ thần này luôn luôn sửa râu tóc và móng tay cho Đại vương.
Do công đức cạo râu tóc cho vị Bích-chi-phật, đồng tử tùy theo tuổi thọ ở đời, sau khi qua đời, đời đời kiếp kiếp không sinh vào ác đạo, thường qua lại trong cõi trời người. Rồi đời sau cùng sinh trong thành Ba-la-nại, nơi nhà thợ hớt tóc, hình dung khôi ngô, dễ thương, người xem thấy không chán. Đồng tử được cha mẹ nuôi dưỡng, dần dần khôn lớn, thành tựu nghề nghiệp.
Thuở ấy Đức Thế Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác Ca-diếp ra đời, làm vị Đại Giáo Sư Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Tịnh Hạnh Thế Tổn Chánh Đẳng Chánh Giác Ca-diếp đã chuyển pháp luân thuận nghịch, đã thọ pháp cùng bản nguyện đầy đủ, được xưng là Bậc Trượng Phu trí tuệ tối thắng, thiết lập tòa Liên hoa để giáo hóa, đem vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh đưa vào thiện đạo.
Thuở ấy Đức Phật Ca-diếp cùng hai vạn chúng Tỳ-kheo đồng ngự tại vườn Nai, là chỗ ở của chư vị Tiên nhân đời trước, thuộc thành Ba-la-nại. Bấy giờ cha của người thợ hớt tóc này thường đến vườn Nai cạo râu tóc cho các Tỳ-kheo. Do vậy đồng tử được cùng với cha đi đến Già-lam. Khi các Tỳ-kheo thuyết kinh hay giảng luận, đồng tử thấy mọi người được phép đến nghe pháp. Nhưng cho đến khi đọc luật thì thấy có người được nghe, có người không được nghe. Khi ấy đồng tử hỏi các thầy Tỳ-kheo:
-Tại sao tất cả giáo pháp là thiện ngôn mà con thấy có người được nghe, có người không được nghe? Ý đó như thế nào?
Các Tỳ-kheo giải đáp cho đồng tử:
-Này đồng tử, luật là pháp bí mật của hàng Tỳ-kheo. Nếu người nào chưa thọ giới Cụ túc thì nhất định không được nghe.
Đồng tử nghe nói như vậy, rất buồn rầu, suy nghĩ: “Ta phải làm sao sớm xuất gia để có thể nghe Luật tạng quý báu này?”
về sau, khi trưởng thành, đồng tử đến một vị Luật sư cầu xin xuất gia, được thọ giới Cụ túc, theo học hỏi nơi các thầy Tỳ-kheo trì giới và tụng luật, căn cứ vào pháp mà tu hành. Tuy vậy nhưng vị ấy vẫn không chứng được trí xuất thế. Về sau, thầy Tỳ-kheo lâm trọng bệnh, nằm tại giường, khi lâm chung lại phát nguyện: “Đức Như Lai Ca-diếp Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có một vị đệ tử Bồ-tát tên là Hộ Minh, đã được Phật Ca-diếp thọ ký: “Ông ở đời tương lai, khi con người tuổi thọ một trăm sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Như Lai Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác.” Tôi nay nguyện vào đời tương lai ấy gặp được Phật Thích-ca Mâu-ni. Nếu được như sở nguyện, tôi ở trong pháp của Ngài cũng xin xuất gia thọ giới Cụ túc. Đối với trong hàng đệ tử trì giới của Thế Tôn, tôi là người đệ nhất, như Hòa thượng của tôi ngày nay đối với hàng đệ tử trì luật của Phật Ca-diếp, Thầy tôi là tối thượng. Tôi cũng như vậy, ở trong giáo pháp của Đức Phật Thích-ca tương lai, là đệ nhất trong hàng đệ tử trì luật của Ngài.”
Khi đó vị Tỳ-kheo ấy khi ấy qua đời, về sau sinh lên trời cho đến ngày nay, thân sau cùng đầu thai trong gia đình thợ hớt tóc tại thành Ba-la-nại, tên là Ưu-ba-ly, tức là vị này vậy.
Này các thầy Tỳ-kheo, nếu các thầy có phân vân về đồng tử hớt tóc lúc ấy thì chớ có ý nghĩ gì khác, chính là Ưu-ba-ly này vậy. Thuở xưa, Ưu-ba-ly cạo râu tóc cho vị Bích-chi-phật đã phát nguyên: “Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp, nếu làm được thân người thì thường sinh trong nhà thợ hớt tóc.” Lúc đó vị ấy lại nguyện: “Tôi nguyện không sinh trong các ác đạo.” Do vì quả báo của sức phát nguyện ấy nên từ đó đến nay không sinh trong các ác đạo, chỉ sinh trong cõi trời và cõi người, hưởng nhiều hạnh phúc, hiện đã được tự lợi như vậy.
Vị ấy lại nguyện: ‘Ta nguyện ở đời vị lai thường gặp vị Giáo sư tối thắng như vậy. Những giáo pháp của vị Giáo sư chỉ dạy, tôi nguyện mau chứng biết rõ ràng.” Do nghiệp báo này, ngày nay Ưu-ba-ly gặp được Ta, tôn làm Giáo sư, được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán.
Lại thuở trước, vị ấy ở trong giáo pháp Như Lai Ca-diếp phát nguyện: “Ta nguyện ở đời vị lai gặp được Đức Như Lai Thích-ca Mâu-ni. Nếu được xuất gia, trong hàng đệ tử trì giới của Ngài, ta là trên hết.” Nhờ nghiệp báo đó mà ngày nay vị ấy ở trong giáo pháp của Ta được xuất gia…, trong hàng đệ tử trì giới của Ta, vị ấy là Tỳ-kheo trì giới hơn hết.
Này các Tỳ-kheo, Ưu-ba-ly ở trong thời quá khứ đã tạo nghiệp như vậy, nay được quả báo sinh trong nhà thợ hớt tóc. Lại do nhân duyên phát nguyện ấy, ngày nay được quả báo ở trong giáo pháp của Ta được xuất gia, cho đến thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán. Nay được Ta thọ ký. “Ở trong hàng đệ tử trì giới của Ta, Ưu-ba-ly là bậc Trì giới đệ nhất.”
***
Phẩm 56: NHÂN DUYÊN CỦA LA-HẦU-LA
Vào một hôm, vua Thâu-đầu-đàn bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn và đại chúng sáng mai nhận sự cúng dường trai phạn của tôi.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Vua Thâu-đầu-đàn thấy Đức Phật im lặng chấp nhận, liền rời chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi từ tạ ra về.
Khi nhà vua về đến nội cung, ngay trong đêm đó ra lệnh sắm sửa các thức ăn uống cao lương mỹ vị. Sau khi sắm sửa xong, qua đêm đó, trời vừa sáng, vua cho người rưới nước, quét dọn, trần thiết và vua cho sứ giả đi thỉnh Thế Tôn:
-Bạch Đức Thế Tôn, đã đến giờ thọ trai, phẩm vật sắm sửa đầy đủ. Cúi xin Thế Tôn và đại chúng quang lâm.
Khi ấy mặt trời còn ở phương Đông, Đức Thế Tôn đắp y, mang bình bát, Ngài đi đầu với đại chúng Tỳ-kheo theo sau, đồng đến nội cung vua Thâu-đầu-đàn. Đến nơi, Thế Tôn ngồi vào tòa đã bày sẵn, còn các Tỳ-kheo đúng như pháp, thứ lớp mà an tọa.
Đại vương Thâu-đầu-đàn thấy Đức Phật và đại chúng ngồi xong, nhà vua tự tay mang đủ thức ăn cao lương mỹ vị đến dâng cho Đức Phật và đại chúng, làm cho tất cả đều được no nê vừa ý. Thấy Đức Phật và đại chúng ăn uống xong và đã rửa cất bình bát, nhà vua bắt một chiếc ghế nhỏ ngồi bên cạnh Phật, bạch:
-Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy cho tôi. Nguyện Thế Tôn, Bậc Thiện Thệ giáo hóa cho chúng tôi, để chúng tôi được nhiều lợi ích an lạc lâu dài.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thưa với Đại vương Thâu-đầu-đàn:
-Thưa Đại vương, nếu ngày nay ngài biết thời, không nên bỏ qua những việc nghe pháp, cũng nên thường hỏi thăm các vị Tỳ-kheo. Chẳng bao lâu Đại vương sẽ chứng quả tối thắng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng phương tiện giáo hóa thuyết giảng các pháp khiến vua Thâu-đầu-đàn giải ngộ, tâm rất hoan hỷ, rồi đứng dậy từ giã trở về hoàng cung.
Vào khi khác nhờ Xá-lợi-phất mà Đại vương được pháp nhãn thanh tịnh và chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi Đại vương Tịnh Phạn đã được các pháp, đã chứng các pháp, đã nhập các pháp, đã vượt các nghi, tâm không còn hoặc, không còn sợ sệt, không còn nghi vấn về các pháp hạnh khác, tất cả đều chứng biết, vua liền đi đến chỗ Đức Phật và bạch:
-Lành thay! Bạch Thế Tôn, cúi xin Ngài độ cho tôi xả tục xuất gia, thọ giới Cụ túc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn quán căn cơ nhà vua, ở trong giáo pháp của Ngài xả tục xuất gia có được thắng pháp tối thượng hay không? Rồi Đức Thế Tôn tư duy tự biết: “Đại vương Thâu-đầu-đàn không thể xả tục xuất gia, cũng không thể chứng được thắng pháp tối thượng.”
Đức Phật quán biết như vậy rồi, liền nói với nhà vua:
-Đại vương, nếu ngày nay Đại vương biết thời, chỉ nên ở tại gia làm người đàn việt bố thí, tạo các phước nghiệp mà thôi.
Hôm sau, đại phu nhân Ma-ha Ba-xà-ba-đề lại thỉnh Đức Phật và đại chúng cúng dường ngọ phạn…, đều được đầy đủ.
Đến ngày thứ ba, các phi thuộc hàng quyến thuộc trong cung thứ nhất lại thỉnh Đức Phật và đại chúng cúng dường sơn hào hải vị…, tất cả đều được đầy đủ.
Đến ngày thứ tư, quyến thuộc trong cung thứ hai thỉnh Đức Phật và đại chúng cúng dường trăm thứ thức ăn mỹ vị, đều được đầy đủ.
Nói về La-hầu-la, sau khi Như Lai xuất gia được sáu năm, La-hầu-la mới ra đời. Khi Như Lai trở về hoàng cung thì lúc ấy La-hầu-la lên sáu tuổi. Khi Như Lai về đến thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, mẹ của La-hầu-la nghĩ thế này: “Xưa vì La-hầu-la mà ta bị hoàng tộc sỉ nhục, nay đến lúc ta phải làm sáng tỏ vấn đề để chứng tỏ bản thân ta trong sạch. Do vậy, ta phải quyết thỉnh Phật và đại chúng cúng dường ngọ phạn và cũng thỉnh hoàng tộc tham dự để việc này được sáng tỏ.” Da-du-đà-la nghĩ như vậy rồi, sáng ngày hôm sau liền cho sứ giả đến thỉnh Đức Phật, bạch:
-Bạch Đức Thế Tôn, tất cả thực phẩm đều được sắm sửa đầy đủ. Xin Ngài biết cho.
Và bà cũng sai sứ giả thỉnh tất cả quyến thuộc hoàng gia đến dự hội.
Sớm hôm ấy, khi mặt trời còn ở phương Đông, Đức Như Lai đắp y, mang bình bát cùng với chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Ngài dẫn đầu, đại chúng đi theo hai bên, đồng đến cung vua. Đức Phật và đại chúng đúng như pháp theo thứ lớp ngồi vào những tòa đã trần thiết sẵn.
Bấy giờ nàng Da-du-đà-la làm một viên tròn, đặt tên là viên đại hoan hỷ, rồi nàng gọi La-hầu-la đến, đặt viên này trong tay La- hầu-la và bảo:
-Này con La-hầu-la, con hãy đến trong chúng Tỳ-kheo xem vị nào là cha của con, thì hãy cúng dường viên hoan hỷ này.
Nàng Da-du-đà-la lại thưa với quyến thuộc:
-Hôm nay La-hầu-la đi tìm cha nó.
Khi đó La-hầu-la cầm viên hoan hỷ đi xem tất cả Tỳ-kheo rồi đi thẳng đến chỗ Đức Phật, bạch với Phật:
-Sung sướng thay dưới bóng mát của Sa-môn này! Sung sướng thay dưới bóng mát của Sa-môn này!
Bấy giờ Đại vương Thâu-đầu-đàn bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, việc này như thế nào? Đối với việc này Da-du-đà-la có tội chăng?
Lúc ấy Thế Tôn thưa Đại vương Thâu-đầu-đàn:
-Thưa đại vương, ngày nay Đại vương chớ nghi như vậy. Đối với việc này, Da-du-đà-la không có tội. La-hầu-la thật là con Ta, chỉ vì do nghiệp duyên đời trước ngăn cản nên phải ở trong thai mẹ sáu năm.
Đại vương Thâu-đầu-đàn và quyến thuộc nghe Đức Phật nói như vậy, tất cả đều vui mừng hớn hở khắp cả thân tâm. Mọi người tự tay bưng lấy thức ăn uống mỹ vị dâng cho Đức Phật và chúng Tỳ-kheo. Khi Đức Phật và đại chúng ăn uống, rửa tay và bình bát xong, tất cả hoàng gia mỗi người trải một tòa nhỏ ngồi quanh, hướng về Đức Phật.
Bấy giờ Đại vương Thâu-đầu-đàn do vì quá cung kính Đức Phật nên không thể thưa hỏi Phật về mọi việc, mà bạch chúng Tỳ-kheo.
-Cúi xin quý thầy thưa hỏi Đức Phật về nhân duyên quá khứ của La-hầu-la và Da-du-đà-la đã tạo nghiệp nhân gì?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, La-hầu-la tạo nghiệp nhân gì? Do nghiệp báo gì ở trong thai mẹ sáu năm? Bạch Đức Thế Tôn, Da-du-đà-la tạo nghiệp nhân gì mà mang thai đến sáu năm?
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ về quá khứ cách đây vô lượng kiếp. Thuở ấy có một vua tên là Nhân Thiên, thuộc dòng Bà-la-môn, sinh hạ hai vương tử: người lớn tên là Nhật, người nhỏ tên là Nguyệt. Vương tử lớn không thích việc thế gian, ý muốn xuất gia. Rồi trải qua thời gian chẳng bao lâu, vua Nhân Thiên mãn tuổi thọ, qua đời. Sau khi nhà vua băng hà rồi, hai vương tử Nhật, Nguyệt nhường ngôi cho nhau, người anh bảo người em: “Em phải làm vua, nắm lấy chính sự, cai trị quốc gia.”
Người em lại nói với người anh: “Anh phải làm vua, nắm lấy chính trị, cai trị quốc gia.”
Vương tử Nhật nói với vương tử Nguyệt: “Em nhất định phải làm vua, còn anh sẽ xả tục xuất gia.”
Vương tử Nguyệt lại thưa với anh: “Anh lớn hơn, ngôi vua phải là của anh, còn em thì không phải đạo.”
Vương tử Nhật lại nói với vương tử Nguyệt: “Phàm nhận lãnh ngôi vua, trước phải làm pháp gì?”
Vương tử Nguyệt đáp: “Trước phải ban hiệu lệnh.”
Vương tử Nhật lại hỏi: “Nếu có người phạm hiệu lệnh sẽ thuộc tội gì?”
Vương tử Nguyệt lại đáp: “Cần phải phạt trọng tội.”
Vương tử Nhật lại hỏi Vương tử Nguyệt: “Căn cứ vào đạo lý, ta phải làm vua, nhưng nay ta đem ngôi vua này trao cho em, em phải làm vua, vì ta muốn xả tục xuất gia.”
Khi ấy vương tử Nhật đem vương vị trao cho vương tử Nguyệt, rồi xả tục xuất gia, tìm lối tu học. Bao nhiêu quyến thuộc của vương tử Nhật đều theo vương tử đi xuất gia.
Bấy giờ vị Tiên nhân Nhật suy nghĩ: “Ngày nay những người này đã theo ta xuất gia, ta làm thầy những người này nên ta phải siêng năng tu học, cầu đạo nghiệp hơn họ.” Nghĩ như vậy rồi, Tiên nhân phát lời thệ nguyện: “Ta nguyện thân này từ nay về sau nếu vật của người ta không cho thì không lấy, cho đến nước uống và cây chà răng.”
Vào hôm nọ, Tiên nhân Nhật quên lời nguyện, tự lấy dùng rễ cây, dược thảo và các hoa quả mà người không cho. Một hôm khác, vào ban đêm, Tiên nhân khát nước, thấy bồn nước của người ta bên cạnh, tưởng là bồn nước của mình nên lấy uống. Khi vị chủ thấy bồn mình khô nước mới hỏi: “Ai đã lấy nước trong bồn của ta? Đây là chỗ ở của kẻ cướp, không phải là chỗ ở của Tiên nhân.”
Bấy giờ Tiên nhân Nhật đã uống nước thấy bồn của mình đầy nước ở bên cạnh, bồn kia liền thưa với người ấy: “Tôi lầm nên đã uống nước của nhân giả, vì cho là bồn nước của tôi.” Tiên nhân kia nói với Tiên nhân Nhật: “Nếu Tiên nhân uống, điều đó thật tốt, tôi rất vui mừng.”
Khi ấy Tiên nhân Nhật chánh tâm tư duy: “Ta đã trái lời thề thuở trước, là điều bất thiện. Hành động như vậy không phải là pháp của Tiên nhân. Tại sao ngày nay đối với những hoa quả, thảo dược, rễ cây, người ta không cho mà lại lấy dùng? Tại sao lại lấy nước của người khác mà uống?” Vì những sự việc này nên Tiên nhân buồn bã chẳng vui, ưu sầu khổ não, ngồi xổm trên đất chánh tâm suy nghĩ, âu sầu về việc này. Lúc ấy các đồng tử đệ tử của Tiên nhân Nhật đi đến đảnh lễ dưới chân Tiên nhân, phụng thờ đúng như pháp. Tiên nhân bảo các đồng tử đệ tử: “Này các đồng tử, ngày nay trở đi không nên đảnh lễ ta. Tại sao như vậy? Vì ngày nay ta đã trở thành kẻ trộm.” Các đồng tử hỏi Tiên nhân: “Thưa Hòa thượng, việc đó như thế nào?”
Tiên nhân Nhật lại bảo các đồng tử: “Này các đồng tử, các người phải biết, ta đã lấy dùng hoa quả, dược thảo, rễ cây không cho của người khác, lại lấy nước của người ta mà uống.”
Tiên nhân nói lời như vậy rồi, các đồng tử vội bạch: “Thầy không nên nói như vậy. Tất cả những thức ăn uống đó đều là của Hòa thượng.”
Tiên nhân Nhật lại bảo các đồng tử: “Các người phải biết, vật chẳng được người ta cho mà tự lấy dùng, việc ấy chẳng nên. Đối với dược thảo, hoa quả, rễ cây và nước trong bồn của người, không được cho mà ta tự lấy dùng, như vậy ta đã thành kẻ giặc. Do vậy, các ông phải phạt tội ta như trị giặc cướp.”
Các đồng tử đều thưa Tiên nhân: “Chúng con không dám trị tội Hòa thượng. Hiện giờ em Hòa thượng làm vua thống lãnh quốc gia này, như pháp trị hóa dân chúng, cho đến tận biên cương này, nhất định em Hòa thượng có thể trị tội Hòa thượng được.”
Lúc ấy Tiên nhân đi đến cung điện Nguyệt vương. Lúc ấy Nguyệt vương đã nghe việc này rồi, biết Tiên nhân Nhật sắp đến nên cho bốn đạo binh ra ngoài thành sẵn sàng nghinh tiếp. Khi Tiên nhân Nhật đến nơi, Nguyệt vương đảnh lễ dưới chân. Khi ấy Tiên nhân Nhật nói với Nguyệt vương: “Thôi đi, đừng đảnh lễ dưới chân tôi. Vì sao vậy? Vì tôi nay là tên giặc. Xin Đại vương trị phạt tội tôi như trị tội giặc.”
Bấy giờ nhà vua hỏi vương huynh Tiên nhân Nhật: “Ngày nay Thánh giả làm giặc gì vậy?”
Tiên nhân đáp: “Đại vương phải biết, khi ta tu hành nơi rừng cây yên tĩnh thanh vắng, đối với hoa quả, rễ cây, dược thảo và nước uống, không phải người khác cho mà tự lấy dùng.”
Đại vương Nguyệt nghe như vậy, buồn phiền áo não, khóc than ấm ức, nước mắt ràn rụa, suy nghĩ thế này: “Công đức bổn hạnh của Tiên nhân từ xưa đến nay thanh tịnh không có tội lỗi, tại sao ngày hôm nay lại có tội đáng trị phạt!”
Suy nghĩ như vậy rồi, vua bảo Tiên nhân: “Ta cho các Tiên nhân được phép lấy hoa quả, rễ cây, dược thảo, kể cả nước uống… tự do lấy dùng. Do vậy, những vật mà Tiên nhân đã lấy dùng đều là vật của ta, nên đại tiên không phải giặc, nên không trị phạt.”
Bấy giờ vua tiên Nhật lại bảo Nguyệt vương: “Lệnh này mới ban hành ngày nay, không phải có từ trước.”
Nhà vua liền nói: “Khi em mới lên ngôi liền ban lệnh này: “Ta bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn cây cỏ và nước uống, tùy ý sử dụng.” Do vậy, đại tiên không phải giặc, làm sao ngày nay em trị phạt được!’’
Vua tiên lại nói: “Hay thay! Này Đại vương, ngày nay ta đã tạo-tội bất thiện, tự nghĩ tội này không thể tiêu được, ta đã uống nước của người khác. Như vậy Đại vương phải trị tội ta như trị giặc không khác.”
Khi ấy Nguyệt vương có một người cháu ngoại đang ở trong đại chúng. Vị ấy thưa với Nguyệt vương: “Thưa Đại vương, Tiên nhân đã quyết định có tội, chớ để Tiên nhân buồn phiền áo não.”
Nguyệt vương thưa với Tiên nhân: “Sự việc nếu như vậy, Tiên nhân sẽ vào ở trong vườn của ta lo tu tập.”
Khi đã ra lệnh cho Tiên nhân vào ở trong vườn rồi, nhà vua liền quên mất không nhớ. Cho đến sáu ngày sau mới sực nhớ lại, Nguyệt vương vội gọi các quần thần: “Này các khanh, Tiên nhân ở trong vườn đã ra chưa?”
Quần thần tâu: “Thưa Đại vương, vị Tiên nhân ấy vẫn còn ở trong vườn.”
Khi ấy Nguyệt vương ra lệnh phóng thích tất cả tù nhân trong nước, kể cả các loài chim bay thú chạy, nhưng đặc biệt Tiên nhân được mời ở lại cúng dường các thức ăn cao lương mỹ vị. Vua nói: “Cúi xin đại tiên, ngài tùy ý đi.”
Sau khi thả Tiên nhân rồi, nhà vua chẳng an tâm, nói: “Ta có tội đối với Tiên nhân này. Do Tiên nhân này ta có tội.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Nếu ai phân vân vua tiên Nhật thuở ấy nay là người nào, chớ nên nghĩ gì khác, là thân Ta ngày nay vậy.
Này các Tỳ-kheo, nếu ai phân vân Nguyệt vương thuở ấy nay là người nào, chớ nên nghĩ gì khác, tức là La-hầu-la này vậy. Vì do nhân duyên nhốt Tiên nhân trong vườn sáu ngày nên chịu nghiệp báo ở trong sinh tử phiền não chịu vô lượng khổ. Do dư báo ấy, lại phải ở trong thai mẹ sáu năm.
Này các Tỳ-kheo, Ta nhớ thuở xưa trải qua vô lượng kiếp, chủ nông trại có một đàn bò. Vợ của người chủ đàn bò đem theo một người con gái đi đến chỗ đàn bò vắt sữa đựng vào hai chiếc bình. Người mẹ sai con gái mang bình lớn, còn bình nhỏ thì mình mang lấy. Khi đi được nửa đường, người mẹ nói với con gái: “Con đi mau lên, đoạn đường này đầy nguy hiểm, đáng sợ hãi.” Người con gái thưa với mẹ: “Cái bình này quá nặng, làm sao con có thể đi nhanh được?!” Người mẹ cứ nói như vậy đến hai ba lần: “Con đi mau lên, đoạn đường này có nhiều sự khủng bố!”
Người con gái lúc ấy suy nghĩ: “Tại sao bảo ta đội lấy bình quá nặng, lại thúc dục đi nhanh?” Do vậy, người con gái tức giận nên thưa với mẹ: “Mẹ có thể mang hộ luôn bình sữa này, con đi đại tiểu tiện trong chốc lát.”
Người mẹ nhận cả bình sữa lớn mà vác đi, người con gái từ từ đi theo sau. Lúc đó người mẹ mang cả hai bình sữa nặng đi đến sáu câu-lô-xá.
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Nếu các thầy phân vân người con gái tức giận, sai mẹ mang bình sữa nặng đi trong sáu câu-lô-xá, nay là người nào thì chớ nghĩ ai khác, chính là nàng họ Thích Da-du-đà-la này vậy. Thuở ấy nàng đã sai mẹ mình mang bình sữa nặng đi trên đoạn đường sáu câu-lô-xá. Do nghiệp báo ấy, ở trong sinh tử phiền não chịu vô lượng khổ. Do dư nghiệp ấy, ngày nay mang thai sáu năm.
Này các Tỳ-kheo, tất cả nghiệp báo chẳng phải do tự nhiên nhận lấy, mà tùy theo tác nghiệp thiện ác, rồi trở lại thọ lấy.
Do vậy, này các thầy Tỳ-kheo, phải từ bỏ các nghiệp ác bằng thân khẩu ý. Vì sao? Vì nhân duyên thiện ác nơi thân khẩu ý. Các thầy hiện đã thấy quả báo thiện ác như vậy, nên các thầy cần phải tu các thiện nghiệp.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì vua Tịnh Phạn và hoàng gia, mà tuyên dương diệu pháp, khai thị giáo hóa khiến nhà vua được hoan hỷ. Rồi Thế Tôn rời khỏi tòa, trở về chỗ ở của mình.
Lúc ấy Da-du-đà-la bảo La-hầu-la đi đến bên Thế Tôn, xin Thế Tôn phong tặng. Lúc bấy giờ La-hầu-la đi theo Phật, vừa đi vừa nói:
-Xin Sa-môn phong tặng cho con! Xin Sa-môn phong tặng cho con.
Khi ấy Đức Thế Tôn đưa ngón tay cho La-hầu-la nắm, La-hầu-la nắm ngón tay Phật đi theo một bên. Khi Đức Thế Tôn đem La-hầu-la về đến khu rừng yên tĩnh, vọng gọi Xá-lợi-phất:
-Này Xá-lợi-phất, thầy đem La-hầu-la cho nó xuất gia.
Xá-lợi-phất bạch Phật:
-Xin theo lời Phật dạy.
Xá-lợi-phất vâng lời Đức Phật, độ cho La-hầu-la xuất gia. Lúc Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo chế cấm giới. La-hầu-la rất vui mừng được thọ cấm giới, y theo pháp mà vâng giữ. Lý do tại sao? Vì giáo pháp thích ứng với vị này. Xá-lợi-phất theo sự chỉ dạy của Đức Phật, vâng lệnh chỉ dạy La-hầu-la.
Đương thời, bao nhiêu thiện nam tử đều được chánh tín, chánh kiến. Vì sao? Vì họ muốn xuất gia tu phạm hạnh, cầu đạo Vô thượng. Họ được lợi ích, được chứng biết các pháp. Tự chứng biết rồi, họ tự xướng lên: “Các lậu đã dứt, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn thọ thân đời sau.” La-hầu-la cũng như vậy, chứng lấy tự tâm, được chánh giải thoát. Thế Tôn liền ấn chứng:
-Này các Tỳ-kheo phải biết, trong hàng đệ tử Thanh văn trì giới của ta, La-hầu-la là hơn hết.
(Trên đây là thuyết của các sư thuộc bộ phái Ma-ha Tăng-kỳ).
Bộ phái Ca-diếp-duy thì nói:
Khi vua Thâu-đầu-đàn sắm sửa thức ăn xong, liền gọi các quyến thuộc trong nội cung và ra lệnh cho họ:
-Này các khanh, nay không được một ai nói với La-hầu-la biết Thế Tôn là cha của nó.
Vì sao? Vì vua sợ La-hầu-la biết được sẽ theo cha xuất gia.
Trong đêm ấy vua Tịnh Phạn cho sắm sửa hoàn tất các món ăn uống cao lương mỹ vị. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mới mọc, cho trần thiết các tòa ngồi, sai người đưa La-hầu-la cùng các đồng tử nam nữ ra chơi ở rừng A-thâu-ca và đồng thời cho sứ giả đến bạch Phật:
-Giờ ngọ trai đã đến, thức ăn uống đã bày biện xong, xin Thế Tôn biết cho.
Lúc mặt trời còn ở phương Đông, Thế Tôn đắp y, mang bình bát đi trước, cùng các Tỳ-kheo tùy tùng theo sau, cùng đi đến cung vua Thâu-đầu-đàn. Đến nơi, ngồi theo thứ lớp đã bày sẵn.
La-hầu-la thấy các đồng nam, đồng nữ đi nói giỡn cười mất trật tự mà các nhũ mẫu cũng không ngăn cản được. Chúng cùng nhau cười giỡn, đi từ rừng A-thâu-ca dần dần vào cung vua. Chúng thấy Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo liền đảnh lễ. Đảnh lễ xong, chúng vội lên lầu thượng. Mẹ La-hầu-la đã đứng sẵn nơi đây. Nàng thấy Thế Tôn cạo bỏ râu tóc, thân đắp ca-sa, thì buồn bã, rơi lệ.
Có kệ:
Vợ mới Đại vương dòng họ Thích
Tên nàng được gọi Du-đà-la
Thấy chồng dưới tướng kẻ xuất gia
Buồn rầu khóc lóc tâm áo não.
Khi ấy La-hầu-la hỏi mẹ:
-Thưa thánh mẫu, vì sao mẹ buồn khóc như vậy?
Da-du-đà-la nói với La-hầu-la:
-Người có thân vàng ròng trong chúng Sa-môn là cha của con.
La-hầu-la lại hỏi mẹ:
-Thánh giả ấy từ khi con sinh ra cho đến ngày nay, con chưa từng nghĩ đến, sao nay bỗng thấy an lạc.
La-hầu-la nói lời này rồi, từ trên lầu vội vã chạy xuống hướng đến Đức Phật, rồi chui trốn trong vạt y của Ngài. Khi ấy các Tỳ-kheo muốn ngăn cản lại. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, chớ nên ngăn cản, để nó đứng vào trong y của Ta.
Thấy Đức Phật và chúng Tăng theo thứ lớp ngồi xong, vua Thâu-đầu-đàn tự tay mình bưng các thức ăn sơn hào hải vị, đến dâng cho Đức Phật và chư Tăng. Tất cả đều được thọ trai đầy đủ.
Khi Đức Thế Tôn ăn rồi, rửa bát rửa tay xong. Nhà vua đem một chiếc ghế nhỏ ngồi một bên Thế Tôn. Thế Tôn vì Đại vương liền nói lời chúc phúc:
Cúng tế, lửa hơn hết
Các kệ, tán hơn hết
Loài người, vua hơn hết
Các sông, biển hơn hết
Các sao, trăng hơn hết
Sáng, mặt trời hơn hết.
Trên dưới và bốn phương
Chúng sinh bao nhiêu loại
Loài trời hay nhân loại
Chư Phật là hơn hết.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì vua Tịnh Phạn nói kệ xong, liền rời chỗ ngồi tự tại ra về.
Sau đó, vua Thâu-đầu-đàn đi khắp đó đây kiểm tra mọi việc. Lúc ấy La-hầu-la đã đi theo Thế Tốn, khi ra khỏi cung ý muốn trở vào. Thế Tôn đưa ngón tay cho La-hầu-la nắm, khi ấy trên nửa thân La-hầu-la cảm thấy an lạc, dễ chịu, giống như sợi dây buộc chân con chim, không thể rời được. La-hầu-la nương vào mình Thế Tôn như vậy, cùng nhau đi đến rừng Ni-câu-đà.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi La-hầu-la:
-Này La-hầu-la, con có thể theo Thế Tôn xuất gia được không?
La-hầu-la đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn, con thật có thể xuất gia được.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nay muốn cho La-hầu-la xả tục xuất gia, mời Xá-lợi-phất làm Hòa thượng.
Bấy giờ các Tỳ-kheo suy nghĩ: “Xưa Đức Thế Tôn thường dạy chúng ta, nếu ai tuổi chưa đủ hai mươi không được thọ giới Cụ túc, mà nay La-hầu-la tuổi mới mười lăm, chúng ta nên căn cứ lời Phật dạy thuở trước mà làm, hay sẽ làm khác đi.” Vì có ý nghĩ như vậy, họ đem việc này bạch lên Phật.
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, phải biết mười lăm tuổi mà được xuất gia, chỉ có thể làm Sa-di.
Các Tỳ-kheo được Phật chỉ dạy rồi, liền cho La-hầu-la xuất gia, cầu Xá-lợi-phất làm Hòa thượng.
Khi Đại vương Thâu-đầu-đàn đưa Thế Tôn và các Tỳ-kheo cùng quyến thuộc ra về, rồi sau đó ngồi vào bàn ăn. Nhà vua lại bảo cận vệ:
-Các khanh hãy bảo La-hầu-la đến cùng ăn với ta.
Khi ấy quan cận vệ tìm kiếm khắp nơi mà không thấy La-hầu- la, liền trở lại tâu đầy đủ với vua:
-Thưa Đại vương, hạ thần tìm La-hầu-la, nay không biết đồng tử ở đâu?
Đại vương Thâu-đầu-đàn lại bảo:
-Các khanh nên đến vườn A-thâu-ca và trong các cung. Nên tìm ở các nơi ấy.
Các quan cận vệ lập tức đi đến vườn A-thâu-ca và trong các cung, nhưng cũng không tìm thấy La-hầu-la đâu cả nên về tâu vua:
-Thưa Đại vương, hạ thần đã tìm các nơi ấy mà không thấy.
Đại vương Thâu-đầu-đàn liền bảo:
-Các khanh mau đến rừng Ni-câu-đà, có lẽ Thế Tôn đem theo, cho nó xuất gia nên nó đi như vậy chăng?
Khi các quan cận vệ nghe sắc lệnh của vua như vậy, vội vã đi đến rừng Ni-câu-đà, tìm kiếm khắp nơi mới thấy La-hầu-la được Thế Tôn cho xuất gia. Thấy vậy, họ vội chạy về cung tâu lên vua Thâu-đầu-đàn:
-Đại vương phải biết, nay La-hầu-la được Đức Thế Tôn cho xuất gia rồi.
Đại vương Tịnh Phạn nghe vậy, liền té nhào xuống đất chết giấc, giây lâu mới tỉnh, vội ra khỏi thành, đi đến rừng Ni-câu-đà. Đến nơi, nhà vua đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi về một bên, bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, khi xưa Thế Tôn còn tại gia, các thầy toán số Bà-la-môn đã từng dự đoán’ “Nếu Thế Tôn ở tại gia sẽ thành Chuyển luân thánh vương.” Ngày nay Thế Tôn đã xả tục xuất gia, sau khi Thế Tốn xuất gia rồi, tôi suy nghĩ: “Sắp truyền ngôi cho Nan-đà”. Sau đó Thế Tôn lại dạy Nan-đà xuất gia. Sau khi Nan-đà xuất gia rồi, tôi lại suy tính: “Sẽ ra lệnh A-nan-đà kế nghiệp vương vị.” Sau lại bị Thế Tôn dẫn đi xuất gia. Sau khi A-nan-đà xuất gia rồi, tôi lại suy tính: “Cần phải ra lệnh A-na-luật kế nghiệp ngôi vua.” Sau lại bị Thế Tôn dẫn đi xuất gia. Sau khi A-na-luật xuất gia rồi, tôi lại suy tính: “Ba-đề-lợi-ca sẽ nối ngôi vua.” Sau lại bị Thế Tôn đem đi xuất gia. Đến nay, chỉ còn kỳ vọng nơi La-hầu-la, sẽ trao ngôi vua cho nó, lại bị Thế Tôn dẫn đi xuất gia. Thế Tôn dẫn La-hầu-la đi xuất gia như vậy, há chẳng phải là đoạn chủng tộc làm vua của tôi hay sao?
Lại nữa, thưa Thế Tôn, chẳng những như vậy, mà còn quan hệ đến tình luyến ái con cái, thấu đến da thịt, gân cốt tủy xương. Vì vậy, xin Thế Tôn từ nay về sau phải chế điều kiện thế này: “Có ai muốn xuất gia làm Tỳ-kheo, phải dạy họ xin phép cha mẹ. Nếu cha mẹ đồng ý rồi sau mới cho phép xuất gia.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn thưa Đại vương Thâu-đầu-đàn.
-Ta không trái việc như vậy. Ta nhất định dạy họ làm việc này.
Nói lời như vậy rồi, Thế Tôn vì vua Tịnh Phạn giảng giải nghĩa các pháp để cho nhà vua được hoan hỷ, tăng thêm oai lực, khiến nhà vua lại càng hoan hỷ. Khi vua Thâu-đầu-đàn hoan hỷ rồi, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi từ tạ Thế Tôn trở về hoàng cung.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì nhân duyên này tập hợp chúng Tỳ-kheo và nói:
-Này các Tỳ-kheo, các thầy phải biết, làm con báo ân cha mẹ rất khó. Tại sao? Cha mẹ làm những điều khó làm, giới thiệu cho cuộc đời, nuôi dưỡng các ấm để con ra đời, rồi cho bú mớm, dưỡng dục thành người. Vì vậy các thầy từ nay trở đi, nếu có thiện nam tín nữ nào cầu xin xuất gia, trước phải dạy họ xin phép cha mẹ, rồi sau đó mới cho xuất gia. Nếu cha mẹ họ không đồng ý, thầy nào độ họ xuất gia, thì đúng như pháp mà xử trị. Từ nay về sau Ta lập quy chế như thế này: Hễ người đến cầu xin xuất gia, trước phải hỏi họ: “Cha mẹ người còn hay mất?” Người ấy nếu đáp: “Cha mẹ tôi nay còn sống.” Lại hỏi: “Cha mẹ ông đã cho ông xuất gia hay chưa?” về việc La-hầu-la, có các thuyết khác nhau:
-Hoặc có thuyết nói như thế này: La-hầu-la sau khi sinh được hai tuổi, Bồ-tát mới xuất gia, tu khổ hạnh sáu năm, sau mới thành đạo.
Hoặc có thuyết nói: Bồ-tát sau khi thành đạo bảy năm rồi mới trở về thành Ca-tỳ-la, tuần tự như trên. Thông thường các thuyết nói La-hầu-la xuất gia năm mười lăm tuổi.
Hoặc có thuyết nói: Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề thấy Bồ-tát xuất gia, nên ưu sầu khổ não, kêu khóc buồn rầu, mù hai con mắt. Nhưng khi Bồ-tát thành Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sau đó mười hai năm, vì Phật muốn thể hiện lòng thương xót quyến thuộc nên mới trở về thành Ca-tỳ-la. Lúc bấy giờ Đại vương Thâu-đầu-đàn đi đầu, với tất cả quyến thuộc trong các cung hộ vệ chung quanh. Như vậy, tất cả chủng tộc họ Thích gồm chín vạn chín ngàn người đồng đến yết kiến Phật.
Bấy giờ Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di đồng ở trong hội này, đi đến chỗ Phật vì muốn gặp được La-hầu-la. Lúc ấy Đức Như Lai cùng lúc hiện hai phép thần thông. Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di được nghe người khác nói lại: “Nay con bà thể hiện thần thông, những thần thông đó là: Nửa phần thân phía trên phóng ánh lửa, nửa phần thân phía dưới phun nước lạnh…” Bà nghe như vậy, hết sức vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân không thể tự chế, nên đi đến chỗ Phật. Đến nơi, cung kính lễ Phật, lấy nước từ thân Phật phun ra, rưới trên mình và rửa mặt.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì thương mến Ma-ha Ba-xà-ba-đề, khiến toàn thân bà cảm giác khoái lạc, đôi mắt mù của bà lập tức sáng tỏ hơn lúc trước, nên đối với Phật càng thêm cung kính. Khi ấy các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
-Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, tại sao ngày nay Ma-ha Ba-xà- ba-đề Kiều-đàm-di, trước vì Thế Tôn ưu sầu khổ não, buồn khóc mù hai con mắt. Nay cũng lại nhân Thế Tôn, cặp mắt bà được sáng tỏ?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di chẳng phải chỉ một đời này vì Ta buồn khóc mù hai con mắt; lại cũng vì Ta mà con mắt được sáng tỏ. Ở trong đời quá khứ cũng vì Ta mà buồn khóc mù hai con mắt; sau cũng nhân Ta, mắt được sáng lại.
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Thế Tôn, việc này như thế nào? Xin Thế Tôn thuật lại!
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta nhớ thuở xưa, cách đây rất lâu, gần làng nọ trong nước Ca-thi, có một đồi núi tên là uất-trưng-già. Phía Nam núi này có một khu rừng nhiều cây, số đến mười vạn loại, hoa quả sum suê, cành lá rậm rạp, từ xa trông thấy như đám mây xanh, ở trong rừng có rất nhiều hồ sen rải rác đó đây tô điểm khu rừng. Rừng này rộng lớn, hết sức yên tĩnh.
(Có thuyết nói rừng uất-trưng-già ở thành Ba-la-nại)
Thuở ấy, khu rừng này có bầy voi, một con voi cái sinh chú voi con, hình dáng rất đẹp, nhìn không chán. Chú voi con này làn da trắng nõn, đầy đủ sáu ngà, đầu thuần sắc đen, giống như chim Nhân-đà-la-cù-ba, bảy chi sát đất. Voi con được nuôi dưỡng chẳng bao lâu trở thành một con voi to lớn. Con voi lớn này sống đúng như pháp, hiếu thuận cha mẹ. Mỗi khi voi lớn có được những thức ăn như hoa quả, rễ lá… thì trước hết cung kính cúng dường cho cha mẹ, cha mẹ ăn uống no nê rồi sau đó nó mới ăn.
Một hôm, voi lớn dạo khắp nơi, kiếm thức ăn uống hoa quả. Tình cờ đám thợ săn thấy được, họ suy nghĩ: “Con voi lớn này không phải người thường có thể cỡi được. Chỉ có Đại vương Phạm Đức mới có thể cỡi được mà thôi.” Toán thợ săn liền đi đến hoàng cung, nơi bệ rồng, tâu lên vua Phạm Đức: “Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, tại một khu rừng ở xứ nọ có một con voi chúa hình dung đẹp đẽ, dễ thương, làn da trắng nõn, đầy đủ sáu ngà, đầu đen như đầu chim Nhân-đà-la-cù-ba, bảy chi sát đất. Theo chỗ nhận thấy của hạ thần, con voi này chỉ có Đại vương cỡi được mà thôi. Nếu như ý của Đại vương muốn thì nên cho người bắt voi đến đó, bắt con voi này dẫn về cho Đại vương xem.”
Khi ấy vua Phạm Đức liền đòi người bắt voi đến, bảo: “Trẫm nghe người ta mách bảo: Có một con voi chúa đầy đủ sáu ngà, thân hình đẹp đẽ dễ thương, người xem không biết chán… bảy chi đều sát đất. Các khanh phải mau đến đó bắt con voi chúa này đem về cho ta, chớ nên chậm trễ khiến nó đi mất.”
Những người bắt voi nghe sắc lệnh của vua Phạm Đức như vậy, liền tâu: “Y như lời Đại vương dạy, hạ thần không dám trái lệnh.”
Họ liền sắm đủ các dây thừng bằng da rồi đi đến chỗ ở của voi chúa, dừng chú thuật khiến voi chúa đến bên họ. Họ dùng dây da cột lấy voi chúa rồi dẫn về cho vua Phạm Đức.
Đức vua Phạm Đức từ xa thấy các người bắt voi dẫn voi chúa sắp đến nơi, vì lòng vui mừng nên đứng dậy ra tiếp nhận. Nhà vua nói: “Sung sướng thay được thớt voi to lớn tuyệt đẹp như vậy! Sung sướng thay được thớt voi to lớn tuyệt đẹp như vậy!”
Bấy giờ nhà vua đích thân nuôi voi. Tất cả những thức ăn gì voi có thể ăn được, nhà vua đều chăm sóc cho ăn. Tuy vậy mà voi chúa lại gầy ốm, thường gầm thét và rên rỉ, buồn khóc rơi lệ mãi. Đại vương Phạm Đức thấy voi gầy ốm tiều tụy, buồn khóc lệ trào như vậy, nên đi đến trước mặt voi, chắp tay nói: “Ta đem tất cả món ăn ngon cung phụng cho ngươi, không bổ dưỡng da thịt thân thể, ngược lại ốm gầy, sắc lực giảm sút, thân bệnh gầy gò. Ta thấy ngươi như vậy, rất lo lắng chẳng vui. Ta đã đem tâm thương ngươi, cung cấp thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng không chút nào rời, vì lý do gì ngươi không vui vẻ? Nay ngươi muốn những gì, ta đều cho để ngươi được hoan hỷ.”
Voi chúa thưa vua Phạm Đức: “Tôi xin trình bày một điều, để Đại vương hoan hỷ.”
Khi nhà vua nghe voi chúa nói như vậy, rất hoan hỷ, cho là việc ít có, nghĩ thế này: “Việc này thật hy hữu. Voi chúa này biết nói tiếng người!” Nghĩ vậy rồi, nhà vua bảo: “Này voi chúa, điều mà ngươi cho là ta hoan hỷ, thì ngươi cứ nói ra.”
Bấy giờ voi chúa tâu vua Phạm Đức: ‘Đại vương phải biết, nơi rừng kia tôi còn có cha mẹ già sức yếu ở trong đó. Tôi nghĩ: Trước khi chưa bị Đại vương bắt về, tôi nhớ chưa từng có khi nào tôi ăn trước rồi cha mẹ ăn sau, nước uống cũng vậy. Tôi dâng cho cha mẹ tôi ăn trước, rồi sau đó tôi mới ăn. Ngày nay tôi suy nghĩ: Tôi đang nhận sự nuôi dưỡng, cung cấp tất cả thức ăn không thiếu hụt, nhưng cha mẹ tôi ở trong rừng trở nên cô độc, chịu nhiều sự đau khổ. Vì không được ở gần cha mẹ nên tôi ưu sầu, khổ não chẳng vui.”
Vua Phạm Đức nghe nói như vậy, cho là việc quá đặc biệt, chưa từng có Vua lại suy nghĩ: “Việc này thật hy hữu, không thể nghĩ bàn! Trong loài người còn khó có việc như vậy, tại sao voi chúa này lại được như vậy?” Suy nghĩ rồi, nhà vua bảo Tượng vương: “Này voi chúa, ta thà tự giam hãm trong lao ngục, chứ chẳng dám gây nhiễu loạn cho kẻ giữ gìn giới luật diệu hạnh, hiếu dưỡng phụ mẫu đúng theo pháp như vậy.”
Vua nói với voi chúa: “Này voi chúa, ta thả ngươi về với cha mẹ, tự đem đồ ăn nuôi dưỡng cha mẹ, tùy ý hưởng lạc.”
Khi thả voi, vua có nói kệ:
Voi chúa tự do nay trở về
Đem lòng hiếu thuận nuôi cha mẹ
Ta thà xả bỏ thân mạng này
Với ngươi, ta không gây nhiễu loạn.
Sau khi voi chúa được vua Phạm Đức thả ra, lần lần về đến khu rừng cũ. Thuở ấy voi mẹ vì mất con, ưu sầu khổ não, buồn khóc kêu la thảm thiết, do vậy mù cả đôi mắt. Vì mù đôi mắt, nên voi mẹ từ chỗ ỏ của mình lần hồi đi khắp đó đây, lạc đến phương khác. Đến khi voi chúa khi trở lại quê nhà, tìm kiếm mẹ mình nhưng không biết ở đâu. Do không thấy mẹ nên voi chúa rống tiếng kêu la. Voi mẹ nghe tiếng kêu như vậy liền biết đó là tiếng của con mình nên rống tiếng khóc buồn thảm. Voi chúa nghe tiếng mẹ kêu, vội vã theo hướng tiếng kêu đi đến. Voi chúa thấy mẹ mình đang đứng nghỉ bên bờ ao. Để mẹ đứng yên trên bờ, voi chúa vào trong ao nước, dùng vòi hút đầy nước rồi lên khỏi ao thân tâm khoan khoái, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế. Voi chúa đem nước đến, phun nước tắm rửa cho mẹ mình. Khi voi mẹ được voi con đem nước tắm rửa thân thể, đôi mắt bỗng nhiên bừng sáng hơn xưa, voi mẹ trông thấy được con mình mới hỏi: “Con đi đâu ngày nay mới trở về, để suốt thời gian đằng đẳng vừa qua mẹ không thấy con?”
Bấy giờ voi chúa đem đủ mọi việc từ khi vua Phạm Đức cho người bắt đem về hoàng cung, nhân duyên nhà vua chăm sóc, nuôi dưỡng, thả ra, trở về đây… trình bày cho voi mẹ biết. Khi voi mẹ nghe con trình bày như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân không thể tự chế, nên nói lớn: “Con ơi! Con ơi, mẹ con chúng ta ngày nay chung sống sung sướng thế này, ta nguyện rằng Đại vương Phạm Đức cùng cha mẹ, vợ con, nam nữ quyến thuộc, cho đến tất cả thân bằng thiện hữu tri thức, trăm quan đại thần, phụ tá… cùng sống hạnh phúc khoái lạc như chúng ta ngày nay.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nếu các thầy có phân vân voi chúa thuở ấy nay là ai, thì chính là thân Ta vậy. Nếu các thầy có phân vân voi mẹ thuở ấy nay là người nào, các thầy chớ nghĩ gì khác, tức là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di này vậy. Các thầy cần phải biết, thuở ấy Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di cũng vì Ta ưu sầu khổ não, kêu khóc thảm thiết, nước mắt tuôn trào, mù đôi mắt. Lại cũng do Ta mà đôi mắt bà sáng lại. Ngày nay cũng vậy, Ma-ha Ba-xà-ba-đề cũng vì không thấy Ta nên ưu sầu khổ não kêu khóc, hai mắt bị mù. Lại cũng do Ta, đôi mắt bà sáng lại.
Này các Tỳ-kheo, thuở xưa còn ở địa vị tu nhân, chưa thành Phật, mà Như Lai còn làm lợi ích cho chúng sinh như vậy, huống nữa là ngày hôm nay thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do vậy, các thầy nếu là người có trí, đối với Phật phải luôn luôn có tâm hy hữu và kính trọng. Đối với Pháp bảo và Tăng bảo cũng phải sinh tâm kính trọng. Các thầy phải nương tựa theo đây mà tu học.
***
Phẩm 57: NHÂN DUYÊN NAN-ĐÀ XUẤT GIA
Một hôm, Đức Thế Tôn giáo hóa Thích tử Nan-đà xả tục xuất gia, nói về nhân duyên xuất gia, lại cũng ca ngợi nhân duyên xuất gia. Ngài nói:
-Này Nan-đà, lại đây! Ông nên đi xuất gia.
Nghe Đức Phật nói lời này rồi, Thích tử Nan-đà bạch Phật: -Bạch Đức Thế Tôn, con không xuất gia. Lý do tại sao? Vì con nguyện trọn đời đem bốn thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc thang cúng dường cho Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.
Đức Thế Tôn lại giáo hóa Nan-đà bằng cách tán thán công đức xả tục xuất gia…, thường nói nhân duyên xuất gia và cho đến dùng lời tán thán khuyên xuất gia.
Như vậy, đến lần thứ hai, lần thứ ba, mà Nan-đà không chịu xuất gia, vẫn nói:
-Con trọn đời đem bốn thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc thang cúng dường cho Thế Tôn và đại chúng Tỳ-kheo.
Sau đó một thời gian ngắn, Đức Thế Tôn sau khi thọ trai xong đem theo một thị giả, đi từ từ hướng về cung điện của Thích tử Nan-đà. Lúc ấy đồng tử Nan-đà cùng nàng Tôn-đà-lợi dạo chơi, ngồi trên lầu ngắm cảnh. Nan-đà ở trên lầu, xa xa trông thấy Thế Tôn hướng về cung điện mình, nên vội vã đứng dậy, xuống lầu nghinh tiếp Thế Tôn. Đến nơi, Nan-đà đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng về một bên và bạch Phật:
-Hay thay! Bạch Thế Tôn, Ngài từ phương xa nào đến đây? Cúi xin Thế Tôn rủ lòng vào nhà con, an tọa trên chỗ ngồi.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vào cung điện Nan-đà, ngồi trên tòa, an ủi ủy dụ Nan-đà. Ủy dụ xong, Ngài ngồi im lặng. Nan-đà bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thọ sự cúng dường trai phạn. Con sẽ cho người sửa soạn đủ thức ăn sơn hào hải vị.
Đức Phật bảo Nan-đà:
-Ta thọ trai rồi, không nên dọn thức ăn nữa.
Đồng tử Nan-đà lại bạch Phật:
-Con có ít mật phi thời, Ngài có dùng được chăng?
Đức Phật bảo Nan-đà:
-Tùy ý đồng tử.
Nan-đà bạch Phật:
-Dạ vâng, bạch Thế Tôn.
Nan-đà bưng bát mật phi thời dâng cho Thế Tôn. Thế Tôn lúc ấy không chịu tiếp lấy bát mật. Đồng tử Nan-đà lại đem bát mật trao cho thị giả của Đức Phật, nhưng vị thị giả cũng không tiếp lấy. Đức Thế Tôn cùng vị thị giả đứng dậy trở về rừng Ni-câu-đà, đồng tử Nan-đà cũng từ trên lầu bưng bát mật đi theo sau Phật.
Bấy giờ nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi đang chải đầu, thấy Nan-đà bưng bát mật đầy đi theo sau Phật, nàng vội cao giọng vọng gọi:
-Nan-đà ơi, Thánh tử muốn đi đâu đó?
Nan-đà tay chỉ vào bát mật mà nói:
-Đem bát mật này đến dâng cúng cho Đức Phật. Đến đó rồi, anh về liền.
Tôn-đà-lợi nói:
-Thánh tử mau về, không nên ở lâu bên đó.
Khi Đức Thế Tôn ra khỏi cung điện, Ngài vì Nan-đà nên đi khắp đó đây trên những ngã đường. Ý Phật là muốn tất cả dân chúng trong thành thấy Nan-đà bưng bát mật phi thời đi sau Như Lai.
Bấy giờ dân chúng thấy việc như vậy, đều nói với nhau: “Ngày nay Đức Thế Tôn đã quyết định khiến Nan-đà xả tục xuất gia.”
Khi về đến tự viện, Ngài đưa tay ra hiệu bảo một Tỳ-kheo đến tiếp lấy bát mật trong tay Nan-đà. Khi ấy vị Tỳ-kheo hiểu được ý Đức Phật, liền nhận bát mật từ tay Nan-đà. Lúc bấy giờ Nan-đà đảnh lễ dưới chân Phật và thưa:
-Bạch Đức Thế Tôn, con xin từ giã, muốn trở về nhà.
Đức Phật bảo Nan-đà:
-Ông không nên trở về.
Nan-đà lại bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, con suy nghĩ không muốn xuất gia. Tại sao? Vì con nguyện trọn đời đem bốn việc cúng dường cho Phật và chúng Tỳ-kheo.
Đức Thế Tôn lại bảo Nan-đà.
-Cõi Diêm-phù-đề này, bề dọc rộng bảy ngàn do-tuần, hướng Bắc rộng rãi, hướng Nam chật hẹp, giống như thùng xe. Ví dụ trong đó chứa đầy chư vị La-hán nhiều như mía lau, mè, lúa… Có thiện nam hay thiện nữ nào trọn đời đem bốn sự cúng dường cho những vị La-hán này. Sau khi các vị La-hán này nhập Niết-bàn, họ lại xây tháp thờ xá-lợi, ở trên mỗi tháp trang trí phướn lọng và bảo linh, lại dùng hương hoa, đèn dầu… để cúng dường, ông nghĩ thế nào? Công đức của người thiện nam hay thiện nữ ấy có nhiều không?
Nan-đà đáp:
-Phước ấy rất nhiều.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Nan-đà:
-Nếu có người trọn đời đem bốn sự…, hoa hương, dầu, đèn… cúng dường chư vị La-hán trong cõi Diêm-phù-đề như trên. Nếu có người cúng dường một Đức Phật, thì quả báo cúng dường một Đức Phật hơn công đức cúng dường các vị La-hán ở trước.
Lại nữa, này Nan-đà, nếu người nào có thể vào trong giáo pháp của Phật, xuất gia chỉ được một ngày một đêm, tu hành phạm hạnh thanh tịnh, thì quả báo của người này hơn quả báo của người cúng dường Phật. Do vậy Nan-đà nên quyết định xuất gia, chớ nên tham hưởng thú vui ngũ dục ở đời.
Lại nữa, này Nan-đà, các dục lạc thú vị ít, đau khổ lại nhiều. Dục lạc vô thường nên đáng xa lìa. Dục lạc là gốc của đại khổ, là ung nhọt lớn, là gai nhọn độc, là sự ràng buộc của ách nạn lớn, là đại khổ não, là tướng tổn giảm, là tướng phá hoại, vô thường, không đứng yên, không kiên cố, nguy hiểm, dễ tan vỡ, nhiều sự sợ sệt, là khổ, là không, là không có tự chủ. Ông nay cần phải quán sát tội lỗi đau khổ của ngũ dục như vậy.
Này Nan-đà, ông đã tư duy rõ ràng về tội lỗi đau khổ của ngũ dục, thì chớ nên tham đắm.
Được nghe Thế Tôn nói những tội lỗi đau khổ của ngũ dục như vậy, trong tâm Nan-đà tuy không thích xuất gia, nhưng vì kính nể Đức Phật nên ông cúi đầu bái lạy, bạch Thế Tôn:
-Con sẽ xuất gia.
Thế Tôn đang đi kinh hành, liền đưa tay ra hiệu vẫy một Tỳ- kheo đến và bảo:
-Thầy hãy kêu một thợ cạo tóc đến đây.
Bấy giờ vị Tỳ-kheo này liền kêu một thợ cạo tóc ở trong chúng đến trước mặt Nan-đà. Khi người này cầm dao cạo, sắp sửa cạo tóc cho Nan-đà. Thì Nan-đà nắm tay đưa trước mặt thợ cạo và nói:
-Ngươi có oai đức gì mà dám cạo đầu ta?
Bấy giờ Đức Thế Tôn chánh ý chánh niệm bảo Nan-đà:
-Tỳ-kheo hãy đến đây! Ở trong pháp của Ta tu phạm hạnh, vì để dứt sạch các khổ.
Khi Đức Như Lai nói lời như vậy xong, râu tóc của Nan-đà liền tự rụng, giống như vị Tỳ-kheo vừa cạo râu tóc cách đây bảy ngày, thân tự nhiên đắp ca-sa, tay bưng bình bát đúng như pháp, liền được xuất gia thọ giới Cụ túc, thành vị Trưởng lão.
Nan-đà cũng có ba mươi tướng tốt không thiếu, thân thể sắc vàng nhưng thấp hơn Đức Phật bốn ngón tay, tuấn tú dễ thương, người trông không chán. Nan-đà sắm ca-sa giống như y của Phật, may rồi dùng mặc. Có Tỳ-kheo từ xa trông thấy Nan-đà đi đến, đều lầm tưởng là Phật, nên đứng dậy nghinh tiếp. Khi đến nơi mới biết chẳng phải Phật, họ trở lại chỗ ngồi. Vì lý do này các Tỳ-kheo chê trách, suy nghĩ: “Tại sao Trưởng lão Nan-đà sắm y giống như Phật mà dùng!.”
Các Tỳ-kheo này đến bạch Đức Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn vì nhân duyên này, lập tức triệu tập đại chúng. Ngài hỏi Nan-đà:
-Thầy có may y Tăng-già-lê rộng bằng y của Phật mà dùng hay không?
Bấy giờ Nan-đà đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn, việc này sự thật là như vậy.
Đức Phật bảo Nan-đà:
-Như vậy là không đúng pháp. Tại sao thầy mặc y Tăng-già-lê rộng như y của Phật vậy?
Đức Thế Tôn răn dạy, quở trách Nan-đà như vậy rồi tuyên bố với chúng Tỳ-kheo:
-Từ nay trở về sau, các thầy không được may y rộng như y của Phật mà mặc. Nếu ai vi phạm thì như pháp mà trị tội.
Bấy giờ Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn cấm hẳn không cho phép Tỳ-kheo dùng y rộng dài như Phật. Y của ta phải giặt ủi cho bóng láng để mặc.” Nan-đà liền ủi y bóng láng mà dùng, rồi lấy thuốc tô điểm đôi mắt và kẻ mi, trang điểm thân hình, chân mang giày da, tay phải bưng bát, tay trái cầm dù, đi đến bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, con muốn vào làng để khất thực.
Đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Thầy chẳng phải có tâm chánh tín xả tục xuất gia hay sao?
Nan-đà đáp:
-Đúng như lời Thế Tôn nói, sự thật là như vậy.
Đức Thế Tôn lại bảo Nan-đà:
-Thầy đã là kẻ thiện nam chánh tín, xả tục xuất gia. Tại sao ủi y phục bóng láng mà mặc? Lại vì việc gì trang điểm thân thể, dùng thuốc tô điểm đôi mắt, kẻ mày, chân mang giầy da, một tay bưng bát, một tay cầm dù, muốn đi khất thực? Lại nữa, này Nan-đà, nếu như thầy ở chỗ vắng vẻ, đi khất thực để sống mặc y phấn tảo, như vậy mới là điều tốt.
Đức Thế Tôn vì sự việc này nói kệ:
Khi nào Ta thấy được Nan-đà
Ở nơi vắng lặng thường khất thực
Tri túc thiểu dục dùng vật bỏ
Lại thích xa lìa các tướng dục?
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì sự việc này, tập họp chúng Tỳ-kheo và tuyên bố:
-Này các thầy, từ nay trở về sau, không được giặt ủi y bóng láng mà dùng. Nếu thầy nào mặc y bóng láng, sẽ y như pháp mà trị tội. Lại nữa, các thầy không được dùng thuốc tô điểm đôi mắt, kẻ mày và mang giầy da tốt. Lại cũng không được cầm bát mỏng, đẹp và cũng không được cầm đù đi vào thành, xóm làng khất thực. Nếu Tỳ-kheo nào phạm những điều như vậy, thì y như pháp mà trị.
Bấy giờ Nan-đà tuy bị Thế Tôn cấm hẳn các việc ủi y bóng láng, không được dùng thuốc tô mắt, kẻ mày, không được mang giầy da tốt, không được dùng bát mỏng, đẹp và không được mang dù. Nhưng vẫn còn nghĩ đến thế lực và thú vui của cuộc đời vua chúa, không chịu tuân theo giới cấm, lại mơ tưởng nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi, nghĩ đến sắc dục, không tu tập phạm hạnh, ý muốn xả giới hoàn tục. Vì lý do này, Nan-đà thường vẽ tượng nàng Tôn-đà-lợi.
Vào một hôm, Nan-đà đi đến chỗ vắng vẻ, lấy đất sét hay tấm ván vẽ hình Thích nữ Tôn-đà-lợi, ngắm nhìn cả ngày. Có Tỳ-kheo khác thấy được, sinh tâm chê trách, nói với Nan-đà:
-Tại sao Trưởng lão ở nơi vắng vẻ, lấy đất sét hay ván vẽ hình phụ nữ rồi ngắm nhìn trọn ngày như vậy?
Bấy giờ các Tỳ-kheo đem việc này bạch với Đức Phật. Đức Thế Tôn vì nhân duyên này triệu tập các Tỳ-kheo. Ở trong chúng, Ngài hỏi Nan-đà:
-Thật sự thầy có ở chỗ vắng vẻ dùng đất sét hay ván vẽ hình phụ nữ rồi ngắm nhìn trọn ngày không?
Nan-đà bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, thật sự là như vậy.
Bấy giờ Đức Phật bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Thầy làm việc như vậy là tốt chăng? Ôi, kẻ xuất gia làm Tỳ-kheo đâu được vẽ hình phụ nữ để ngắm ngía!
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy Tỳ-kheo, từ nay trở đi, các thầy không được vẽ hình phụ nữ, dầu là hình của người có thật hay là hình người do mình tưởng tượng. Do vì tâm dục, vẽ rồi ngắm nhìn. Nếu có thầy nào vẽ hình phụ nữ mà ngắm nhìn, thì mắc tội trái với giới luật.
Vào một lúc khác, Trưởng lão Nan-đà theo thứ lớp đến ngày trực trông coi tu viện. Nan-đà nghĩ thế này: “Như Lai chẳng bao lâu sẽ vào thành khất thực. Hôm nay ta trở về hoàng cung.” Khi ấy biết được tâm niệm Nan-đà, Thế Tôn gọi Trưởng lão Nan-đà đến và bảo:
-Này Nan-đà, nếu thầy muốn đi thì đóng các cửa phòng lại rồi mới đi.
Thế Tôn nói như vậy rồi, liền đi vào xóm làng khất thực. Trưởng lão Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn đã đi vào làng khất thực rồi, ta sẽ được trở về nhà.”
Khi ấy Nan-đà thấy cửa phòng Thế Tôn bỏ trống, nên nghĩ: “Ta đóng cửa phòng của Đức Thế Tôn, rồi sau đó mới trở về nhà.”
Cửa phòng của Thế Tôn đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Xá-lợi-phất chưa đóng, Nan-đà liền đi đến đóng cửa phòng của ngài Xá-lợi-phất. Cửa phòng cửa Xá-lợi-phất đóng rồi, lại thấy cửa phòng của Mục-kiền-liên bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của Mục-kiền-liên. Cửa phòng của Mục-kiền-liên đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Đại Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Đại Ca-diếp. Cửa phòng của Đại Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Đại Ca-chiên-diên bỏ
trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Đại Ca-chiên-diên. Cửa phòng của Đại Ca-chiên-diên đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Cửa phòng của Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Na-đề Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Na-đề Ca-diếp. cửa phòng của Na-đề Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Già-da Ca-diếp bỏ trống. Nan-đà vội đi đến đóng cửa phòng của ngài Già-da Ca-diếp. Cửa phòng của Già-da Ca-diếp đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ưu-ba-tư-na bỏ trống… Cửa phòng của Ưu-ba-tư-na đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Câu-hy-la bỏ trống… Cửa phòng của Câu-hy-la đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ma-ha Chiên-đà bỏ trông… Cửa phòng của Ma-ha Chiên-đà đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Lợi-ba- đa bỏ trống… Cửa phòng của Lợi-ba-đa đóng rồi, lại thấy cửa phòng của ngài Ưu-ba-ly-ba-đa bỏ trống…
Cứ tuần tự như vậy, cửa thứ nhất đóng, cửa thứ hai bỏ trống, cửa thứ ba đóng rồi thì cửa thứ tư bỏ trống. Nan-đà thấy đóng một cửa thì một cửa bỏ trống, nên nghĩ thế này: “Ta tội lỗi gì mà các Tỳ-kheo hành ta như vậy! Dầu là cửa đóng hay bỏ trống, ta sẽ bỏ đi về nhà, vì e rằng chẳng bao lâu nữa Thế Tôn trở về.” Nghĩ như vậy rồi, ông liền từ rừng Ni-câu-đà sắp sửa ra về.
Khi ấy Đức Thế Tôn bằng Thiên nhãn xem thấy, biết ý Nan-đà muốn rời khỏi khu rừng Ni-câu-đà. Như Lai thấy vậy liền ẩn thân nơi thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, lập tức xuất hiện nơi rừng Ni-câu-đà. Khi ấy Nan-đà thấy Đức Phật có mặt trong rừng, liền vội ngồi núp dưới thân cây Ni-câu-đà lớn. Lúc ấy Đức Thế Tôn dùng sức thần thông đưa vị đại thọ này lên hư không. Đức Phật thấy Nan-đà ngồi núp dưới gốc cây, Ngài hỏi:
-Này Nan-đà, hôm nay thầy muốn đi về đâu?
Nan-đà đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay con nhớ lại sự tự do khoái lạc của vương vị và lại nhớ Thích nữ Tôn-đà-lợi. Do vậy, chẳng thích tu phạm hạnh, ý muốn xả giới hoàn tục.
Nhân đây Đức Phật nói kệ:
Muốn ra khỏi rừng đã ra khỏi
Ra khỏi rừng rồi lại vào rừng
Thầy hãy quán sát người như vậy
Ra khỏi trói buộc, lại trói buộc.
Đức Thế Tôn vì Nan-đà nói kệ như vậy rồi, lại khuyên:
-Này Trưởng lão Nan-đà, thầy ở trong giáo pháp của Ta, phải phát tâm siêng năng tinh tấn, tu các phạm hạnh để diệt trừ các đau khổ.
Đức Thế Tôn đã giáo hóa Nan-đà như vậy nhưng Nan-đà vẫn không quên lạc thu về ngũ dục ngày trước và sự khoái lạc thỏa thích của vương vị, vẫn còn mơ tưởng nàng Tôn-đà-lợi, không thích chánh pháp tu theo phạm hạnh, muốn xả giới trở về hoàng cung.
Vào một hôm, có vị đại trưởng giả thỉnh Đức Phật cúng dường trai phạn. Hôm ấy cũng nhằm phiên Nan-đà giữ Già-lam. Lúc ấy Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn nhận lời mời của trưởng giả. Khi Ngài vào làng thọ trai, thì ta sẽ trở về hoàng cung.”
Biết tâm niệm của Nan-đà nên Đức Thế Tôn bảo:
-Này Nan-đà, nay thầy phải biết đến lúc rưới nước quét dọn vườn chùa và phải lấy đầy nước những bồn rửa của Tỳ-kheo.
Nói như vậy rồi, Đức Phật đi vào xóm làng để chứng trai theo lời mời trước.
Lúc ấy Trưởng lão Nan-đà suy nghĩ: “Thế Tôn nhận lời thỉnh, đi vào làng dự hội. Ta có thể tự do về nhà.” Nan-đà nghĩ như vậy, thấy trước phòng Như Lai nhiều đất dơ bẩn nên lại suy nghĩ: “Ta trước tiên đến quét dọn phẩn uế rồi sau đó trở về hoàng cung.”
Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà cầm chổi quét dọn trước phòng của Như Lai. Khi Nan-đà quét dọn bên này thì gió thổi cỏ rác tấp phủ nửa bên kia, nên phải quét trở lại. Bấy giờ Nan-đà nghĩ: “Ta thôi quét dọn, trước phải lấy đầy nước tất cả bồn rửa của chúng Tăng, sau mới quét sân.”
Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà đem tất cả bồn rửa của chúng Tăng đến giếng lấy đầy nước. Khi những bồn đã đựng đầy nước thì bị lật úp. Khi ấy Nan-đà lại nghĩ: “Ta làm sao quét sạch và lấy nước đầy các bồn được, như Lai không bao lâu sẽ trở về, ta nên mau mau trở về hoàng cung.” Nghĩ như vậy rồi, Nan-đà liền từ rừng Ni-câu-đà sắp trở về hoàng cung.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang thọ trai tại nhà trưởng giả, Ngài dùng Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt loài người, xem thấy Nan-đà đang từ rừng Ni-câu-đà sắp đi về nhà. Thấy vậy rồi, Ngài hóa một thân khác, từ nhà trưởng giả trong nháy mắt hiện ở rừng Ni-câu-đà, đứng trước mặt Trưởng lão Nan-đà.
Lúc ấy Nan-đà ở xa trông thấy Thế Tôn sắp đến gần mình, liền trèo lên bờ gộp cao lớn, rồi trèo xuống ngồi núp mình trong eo trũng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng sức thần thông biến bờ núi cao kia thành vùng đất bằng phẳng như bàn tay, Ngài thấy Nan-đà ngồi như vậy, mới bảo:
-Thầy ngồi ở đây để làm gì?
Nan-đà bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, con đã hứa với nàng Tôn-đà-lợi là con sẽ trở về nhà. Nay con nghĩ rằng không nến để mình trở thành kẻ nói dối. Do vậy, con muốn trở về nhà.
Đức Phật bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Thầy cần gì phải gặp Tôn-đà-lợi, thân nàng như da gói lấy xương, bên trong chứa đầy các thứ tủy, não, máu, mủ, phẩn tiểu, giống như hố xí, thật đáng ghê tởm! Thầy cần phải xa lìa.
Này Nan-đà, Ta nói đại khái, mỗi một chúng sinh cùng với vợ mình chung sống tiết ra đồ bất tịnh nhiều hơn nước biển cả, mà cũng không biết lấy làm đủ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì nhân duyên này, nói kệ:
Muốn ra khỏi rừng, đã ra khỏi
Ra khỏi rừng rồi, lại vào rừng
Thầy hãy quan sát người như vậy
Ra khỏi trói buộc, lại trói buộc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn giáo hóa Nan-đà, Ngài dạy:
-Này Nan-đà, thầy đang ở trong giáo pháp của Ta, tự do vui vẻ tu phạm hạnh thanh tịnh, là do muôn dứt tất cả khổ.
Lúc ấy Nan-đà tuy được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giáo hóa như vậy mà vẫn không ưa thích tu phạm hạnh nên cùng với Lục quần Tỳ-kheo kết làm bè bạn, thường lui tới bàn luận, từ sáng đến tối nói toàn chuyện tà mạng xâu xa.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy Nan-đà làm việc như vậy, nên suy nghĩ: “Ngày nay Nan-đà đã học theo đám Lục quần Tỳ-kheo, sợ tổn hại công đức hạnh nghiệp. Ta nên cắt đứt không cho Nan-đà giao du với họ.”
Ngài nghĩ như vậy rồi, liền bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Này Nan-đà, thầy đến đây, Ta cùng thầy đi vào thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô.
Nan-đà bạch Phật:
-Dạ vâng, như lời Thế Tôn dạy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng Nan-đà đi vào thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, lần lần đi đến cửa hàng bán cá. Khi ấy Thế Tôn thấy có đến trăm con cá hôi thôi trải trên tấm chiếu cỏ tại gian hàng. Thấy rồi, Ngài bảo Nan-đà:
-Nan-đà lại đây, thầy hãy cầm một cọng chiếu cỏ phơi cá. Nan-đà trả lời:
-Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ làm như lời Ngài dạy.
Nói lời ấy rồi, Nan-đà liền rút một cọng cỏ hôi tanh dưới tấm chiếu phơi cá nơi gian hàng. Khi Nan-đà cầm cọng cỏ tranh nơi tay rồi, Đức Phật lại bảo:
-Thầy cầm một lát rồi ném xuống đất.
Nan-đà bạch Phật:
-Y như lời Thế Tôn dạy.
Khi ấy Nan-đà nắm cọng cỏ tranh hôi tanh đứng trong thời gian ngắn, rồi ném xuống đất. Lúc ấy Đức Phật lại bảo Nan-đà:
-Thầy hãy ngửi tay của thầy.
Nan-đà liền ngửi bàn tay mình. Đức Phật lại hỏi:
-Này Nan-đà, thầy thấy bàn tay có mùi gì?
Trưởng lão Nan-đà đáp:
-Thưa Thế Tôn, chỉ có một mùi hôi thối bất tịnh.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Đúng vậy! Đúng vậy! Người nào gần gũi bạn xấu, cùng với họ kết làm bạn bè, giao du với nhau thì tuy kết bạn trong thời gian ngắn, sau do huân tập việc xấu, khiến cho tiếng xấu đồn xa.
Đức Thế Tôn nhân việc này mà nói kệ:
Từ tấm chiếu cỏ để phơi cá
Dùng tay rứt lấy cọng cỏ lát
Tay người bị thổi mùi cá chết
Gần gũi bạn xấu cũng như vậy.
Rồi một hôm, Đức Thế Tôn cùng Trưởng lão Nan-đà đồng đi đến hàng bán hương liệu, thấy nhiều túi hương ở nơi gian hàng. Thấy vậy, Ngài bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Này Nan-đà, thầy hãy cầm lấy túi hương nơi gian hàng này. Nan-đà y theo lời Phật dạy, cầm lấy các túi hương nơi cửa hàng. Đức Phật lại bảo Nan-đà:
-Thầy cầm túi hương này trong chốc lát rồi để nó xuống.
Nan-đà nghe Đức Phật bảo như vậy, đưa tay cầm lấy túi hương trong phút chốc rồi để xuống. Đức Phật lại bảo Nan-đà:
-Thầy hãy ngửi bàn tay thầy.
Nghe Đức Phật bảo, Nan-đà liền ngửi bàn tay mình. Đức Phật hỏi Nan-đà:
-Thầy ngửi bàn tay thấy có mùi gì?
Nan-đà đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn, bàn tay có mùi thơm dễ chịu vô cùng.
Đức Phật bảo Nan-đà:
-Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu người gần gũi bạn tốt, thường từng sống chung với hạng người này, nhờ đó mà được ảnh hưởng. Do gần gũi với nhau, tiếng tốt nhất định sẽ vang lừng.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nhân đây mà nói kệ:
Tay ai cầm lấy hương trầm thủy
Hoắc hương, xạ hương, các thứ hương
Cầm hương chốc lát người cũng thơm
Gần gũi bạn lành cũng như vậy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ra khỏi thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, về đến rừng Ni-câu-đà. Vì lý do này, Đức Phật tập hợp chúng Tỳ-kheo, bảo Nan-đà:
-Này Nan-đà, thầy đừng gần gũi lục quần Tỳ-kheo, không nên cùng với họ kết làm bạn bè. Vì sao? Người nào gần gũi bạn xấu như vậy, hoặc kết làm bạn bè, thì cùng làm việc với nhau, hoặc theo họ làm tất cả các sự việc xấu. Nếu gần gũi các người xấu thì tiếng xấu sẽ đồn khắp trong thế gian.
Này Nan-đà, nếu muốn tìm bạn thân tốt thì thầy nên gần gũi các Tỳ-kheo Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Ca-chiên-diên, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Ưu-ba-tư- na, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Tôn-đà, Ly-bà-đa… Ta khuyên thầy nên gần gũi, tùy thuận và phục vụ các Tỳ-kheo ấy. Tại sao? Nếu gần gũi bạn tốt, thân thiện phục vụ, thì tuy chưa chứng được sự lợi ích, nhưng giao du với nhau thì tiếng tốt sẽ được đồn khắp trong thế gian.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nhân đây nói kệ:
Người nào gần gũi với bạn xấu
Hiện tại không được nghe tiếng khen
Bởi vì gần gũi với bạn xấu
Tương lai sẽ đọa ngục A-tỳ.
Nếu người gần gũi với bạn tốt
Tùy thuận theo họ việc làm việc thiện
Tuy chưa chứng đắc lợi thế gian
Nhưng trong tương lai sẽ hết khổ.
Tuy được Thế Tôn dùng lời tốt đẹp giáo hóa, nhưng Nan-đà vẫn tham luyến thú vui phóng dật nơi vương triều, mơ tưởng dục lạc nơi nàng Tôn-đà-lợi, đối với Phật pháp không ưa thích, muốn bỏ phạm hạnh, xả giới hoàn tục.
Bấy giờ Đức Thế Tôn biết tâm niệm Nan-đà như vậy, Ngài nghĩ: “Nan-đà này phiền não quá mạnh, không thể giáo hóa bằng cách bình thường mà phá được phiền não ấy. Ta phải dùng phương tiện giống như người đời: Dùng lửa diệt lửa, dùng độc trị độc.”
Đức Thế Tôn nghĩ như vậy rồi, dùng thần lực nắm tay Nan-đà, ẩn thân khỏi rừng Ni-câu-đà, xuất hiện đứng trên đỉnh núi Hương túy. Bấy giờ ở núi này, do gió thổi hai cây cọ sát nhau, phát ra lửa đốt cháy khu rừng, tỏa ra khói lửa rất nóng. Trong núi này có nhiều khỉ vượn số đến năm trăm con, chúng bị lửa đốt cháy lông, nằm lăn thân trên đất để tắt lửa.
Lúc ấy Đức Thế Tôn thấy ở trong đàn vượn có một con vượn cái mù đôi mắt lấy tay phủi lửa trên thân, nên bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Thầy có thấy con vượn cái mù mắt, ở trong đàn vượn, đang dùng tay phủi lửa trên thân không?
Nan-đà bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, con đang thấy việc ấy.
Đức Thế Tôn lại bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Ý thầy nghĩ thế nào? Nàng Tôn-đà-lợi nhan sắc kiều diễm dễ thương, so với con vượn cái già này, ai đẹp hơn?
Nan-đà hướng về Thế Tôn xịu mặt im lặng không trả lời. Đức Thế Tôn lại nắm tay Nan-đà, ẩn thân nơi núi Hương túy, đi đến cõi trời Ba mươi ba, đứng dưới cây Ba-lợi-chất-đa. Dưới gốc cây này có một tảng đá lớn tên là Bà-nô-câm-ma-la (nhà Tùy dịch là Huỳnh hạt). Khi ấy vua Đế Thích đang đi du ngoạn trong vườn Y-ca-phân- đà-lợi cùng với năm trăm Cung nhân thể nữ, ca nhạc hầu hạ xung quanh.
Thấy vua Đế Thích nơi hoa viên Y-ca-phân-đà-lợi có đem theo năm trăm thể nữ, đang vui chơi ca nhạc, Đức Thế Tôn bảo Nan-đà:
-Thầy có thấy năm trăm thể nữ dạo chơi, ca múa, xướng hát hay không?
Nan-đà bạch Đức Thế Tôn:
-Nay con có thấy.
Đức Thê Tôn lại bảo Nan-đà:
-Ý thầy nghĩ thế nào? Nàng Thích nữ Tôn-đà-lợi đẹp hay là năm trăm thể nữ này đẹp?
Trưởng lão Nan-đà bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, nếu đem con vượn cái già mù mắt so với Tôn-đà-lợi thì không bằng một phần trăm, cho đến một phần ngàn, cho đến một phần trăm ngàn, hay dùng toán số thế gian cũng không thể so sánh được. Nếu đem nàng Tôn-đà-lợi so với năm trăm thể nữ này thì gấp trăm lần, gấp ngàn lần cũng không bằng, cho đến gấp trăm ngàn lần, hay toán số thế gian cũng khổng thể so sánh được. Con không thể làm cách nào so sánh được.
Đức Phật lại bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Thầy có thích cùng với các thể nữ này vui chơi không?
Nan-đà vui mừng hớn hở bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, ý con thật muốn cùng với năm trăm thể nữ này vui chơi hoan lạc.
Đức Phật lại bảo Nan-đà:
-Thầy không thể dùng thân phàm để cùng các Thiên nữ hưởng lạc. Nếu muốn vậy, thầy phải hoan hỷ ở trong pháp của Ta tu phạm hạnh. Ta sẽ cho thầy biết: Ngày nay nếu thầy tùy thuận theo pháp của Ta, tu hành thanh tịnh, sau khi qua đời, vào đời sau quyết định sẽ thọ báo thân sinh ở cõi này, cùng với năm trăm Thiên nữ vui chơi, hưởng lạc.
Nan-đà nghe Đức Phật dạy như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, bạch Phật:
-Con xin từ nay trở đi, ở trong giáo pháp của Đức Phật ham thích tu phạm hạnh thanh tịnh. Bạch Thế Tôn, con ngày nay đã có báo thân này, con thật sự muốn vào đời vị lai sinh nơi thế giới này để cùng với năm trăm Thiên nữ ấy hưởng lạc.
Đức Thế Tôn nắm lấy tay Trưởng lão Nan-đà biến mất nơi cõi trời Ba mươi ba, trở về rừng Ni-câu-đà. Khi ấy Nan-đà nghĩ thế này: “Đức Thế Tôn đã hứa cho ta ở đời vị lai cùng năm trăm Thiên nữ kia thọ hưởng thư vui.” Vì vậy, Nan-đà đem hết thân tâm chánh niệm tu phạm hạnh thanh tịnh, điều phục cấc căn, tiết chế ăn uống, đầu hôm cuối hổm tụng kinh hành thiền, dũng mãnh tinh tấn, không cùng với người khác đàm luận giỡn cười, tâm không rộn ràng dao động, miệng không nói lời thêu dệt, phát hạnh tinh tấn, giữ bốn oai nghi, ưa ở chỗ vắng lặng, điều phục các căn, thành tựu chánh niệm vi diệu tối thắng.
Thuở ấy Nan-đà muốn quán phương Đông, thân tâm an định, ý chí dũng mãnh, đã được chánh niệm rồi mới bắt đầu quán phương Đông. Trong khi quán như vậy không có sầu não, không có tối tăm, với các pháp bất thiện luôn luôn quán sát không bị rơi vào, cũng không bị mê hoặc.
Khi muốn quán phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương trên, phương dưới, thân tâm cũng an định, ý chí dũng mãnh. Khi quán các phương cũng không bị sầu não, tối tăm, đối với các pháp bất thiện luôn luôn quán sát không bị rơi vào, cũng không mê hoặc như trên.
Bấy giờ có các Tỳ-kheo đồng tu với Nan-đà nói:
-Này Trưởng lão Nan-đà, tại sao trước kia Trưởng lão không thúc liễm các căn, đối với sự ăn uống không biết tiết chế, thường tìm cầu đồ ngủ: giường nằm, mền nệm tuyệt hảo, ngủ nghỉ li bì không biết nhàm chán, hoặc có khi thì cười cợt vui đùa, tâm ý không an định, ăn nói ngang trái thêu dệt, chưa từng biết tinh cần, luôn luôn giải đãi, cũng không có chánh niệm, phần nhiều xao lãng, đánh mất oai nghi, không có thiền định, không được nhiếp tâm, các căn phóng dật… không thể kể xiết. Mà ngày nay Trưởng lão điều phục các căn, ăn uống tiết lượng, đầu hôm cuối hôm không từng ngủ nghỉ, lại không ngông nghênh, thúc liễm thân tâm, lại không nói thêm bớt, tinh tấn dũng mãnh, chánh niệm siêng năng, đã được thiền định, tâm không phóng dật, các căn không buông lung… ngày nay vì sao Trưởng lão được như vậy?
Bấy giờ Nan-đà thưa các Tỳ-kheo:
-Này các vị Trưởng lão, các vị phải biết, Đức Thế Tôn nói với ta rằng nếu muôn đời sau sống chung với năm trăm Thiên nữ đẹp ở cõi trời Ba mươi ba vui chơi hoan lạc thì nên siêng năng tu phạm hạnh trong giáo pháp của Ngài.
Bấy giờ các Tỳ-kheo thân hữu đồng hành của Nan-đà nhạo cười chế diễu, nói với nhau:
-Trưởng lão Nan-đà ra sức làm thuê cho Thế Tôn, ở trong giáo pháp của Ngài siêng năng tu phạm hạnh để mưu cầu quả báo tương lai. Sở dĩ Nan-đà ở trong giáo pháp của Phật tu phạm hạnh chỉ vì mưu cầu đời tương lai sông chung với năm trăm Thiên nữ đẹp mà thôi.
Từ đó về sau, các Tỳ-kheo bạn hữu Nan-đà thường gọi Nan-đà là người làm thuê.
Thuở ấy, Đức Thế Tôn thấy Nan-đà đã vì các Thiên nữ mà tu các phạm hạnh, Ngài cầm tay Nan-đà biến mất nơi rừng Ni-câu-đà, đi vào đại địa ngục. Ở đây, Đức Phật thấy dưới chảo đồng lửa đốt cháy phừng phực, chảo bị nung đỏ như lửa. Thấy vậy, Ngài bảo Nan-đà:
-Thầy đến hỏi các ngục tốt kia là chảo đồng này vì ai mà nấu sôi như vậy?
Trưởng lão Nan-đà nghe Đức Phật bảo như vậy, liền bạch:
-Thưa Thế Tôn, y như lời Ngài dạy.
Nan-đà đi đến chỗ các ngục tốt hỏi:
-Chảo đồng lớn này vì ai mà nấu sôi như vậy?
Ngục tốt trả lời Nan-đà:
-Đức Phật có người em con di mẫu tên là Nan-đà. Vì người ấy mà nấu đốt chảo này.
Nan-đà lại hỏi:
-Các ông không nghe Như Lai ngày trước có hứa với Nan-đà là nếu muốn thọ hưởng lạc thú với năm trăm Thiên nữ thì nên tu phạm hạnh, sau sẽ sinh lên cõi trời thứ Ba mươi ba hay sao?
Các ngục tốt nói:
-Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đã biết như vậy. Nhưng chúng tôi lại nghe rằng người ấy sau khi sống trên cõi trời Ba mươi ba bị đọa lạc sẽ đầu thai nơi xứ này.
Bấy giờ Nan-đà nghe nói như vậy hết sức sợ sệt, toàn thân dựng chân lông, suy nghĩ: “Theo tuần tự rồi ta sẽ bị cái khổ này. Vậy ta không cần quả báo thọ hưởng thú vui với năm trăm Thiên nữ đẹp.”
Lúc ấy Đức Thế Tôn nắm tay Trưởng lão Nan-đà biến mất nơi địa ngục, lại xuất hiện nơi rừng Ni-câu-đà.
Thuở ấy Nan-đà bị các bạn hữu gọi là người làm thuê cho Phật, bị trêu ghẹo chế diễu, chê cười, lại thêm thấy cảnh địa ngục nên Nan-đà lấy làm xấu hổ lo sợ, sinh nhàm chán, tự ăn năn hối cải, tìm chỗ vắng vẻ, đi đứng thiền tọa một mình, lại không còn phóng dật, tinh tấn dũng mãnh.
Người thiện nam chánh tín xả tục xuất gia, cầu phạm hạnh hết sức tinh tấn, tu các phạm hạnh ấy rồi, thì các lậu dứt sạch, thân chứng thần thông, tự xướng lên: “Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, dứt sạch sinh tử, không còn thọ thân đời sau.” Vị ấy chứng quả A-la-hán, tâm được giải thoát. Trưởng lão Nan-đà này cũng như vậy.
Sau khi chứng quả A-la-hán, Nan-đà mới đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi về một bên, lại bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, con nay xin trả lại cái ân mà Phật đã hứa ngày trước. Ngày trước con nhận lấy lời nói của Như Lai chính là vì năm trăm Thiên nữ đẹp. Vậy con xin Thế Tôn từ bỏ việc ấy.
Bấy giờ Đức Phật lại bảo Trưởng lão Nan-đà:
-Chẳng phải đến ngày nay Ta mới xả bỏ việc ấy cho ông, mà từ khi ông bắt đầu xướng lên: “Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thân đời sau”, ngay khi ấy Ta đã xả bỏ việc ấy cho ông rồi.
Khi ấy các Tỳ-kheo cùng sống với Nan-đà chưa biết Nan-đà đã dứt sạch các lậu, nên vẫn đối xử với Nan-đà như ngày nào như diễu cợt, biếm nhẽ, nói thế này: “Trưởng lão Nan-đà ở nơi Thế Tôn để làm thuê vì cầu quả báo, muốn sống chung với năm trăm Thiên nữ đẹp, nên siêng tu phạm hạnh.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Các Tỳ-kheo này chưa biết Nan-đà đã dứt sạch các lậu, vẫn đối xử như khi còn các lậu, như rêu rao: “Trưởng lão Nan-đà chỉ vì năm trăm Thiên nữ đẹp mà tu phạm hạnh.” E rằng các thầy này mắc những tội lỗi. Hôm nay, Ta nên ở trước đại chúng tuyên bố việc Nan-đà đã dứt sạch các lậu.”
Đức Thế Tôn do nhân duyên này cho nhóm họp tất cả Tỳ-kheo Tăng mà tuyên bố:
-Này các Tỳ-kheo, nếu người ta nói: có nam tử tốt đẹp nào, thì Nan-đà chính là người ấy. Nếu có người nào tuấn tú cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đại dũng mãnh nào, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người thân thể dịu dàng, lại cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người các căn vắng lặng không tán loạn nào, lại cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đối với sự ăn uống biết tiết chế, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người đầu hôm cuối đêm không ngủ nghỉ nào, thì cũng chính là Tỳ-kheo Nan-đà ngày nay. Nếu họ nói có người nào sinh từ ba chủng tộc thanh tịnh thì cũng chính là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu họ nói có người chứng sáu phép thần thông nào, thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này. Nếu nói có người được tám định giải thoát nào thì cũng là Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.
Đức Thế Tôn cũng bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn thì Tỳ-kheo Nan-đà này là bậc nhất.
Lúc ấy các Tỳ-kheo hỏi Đức Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, như vậy Tỳ-kheo Nan-đà này đời trước đã trồng căn lành gì, nhờ căn lành ây mà ngày nay sinh trong nhà họ Thích hết sức giàu sang, của cải rất nhiều, thân thể đẹp đẽ dễ thương, đến nay được Thế Tôn thọ ký: ‘Trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn bậc nhất là Tỳ-kheo Nan-đà này.”?
Nghe các Tỳ-kheo hỏi như vậy, Đức Phật bảo:
-Này các Tỳ-kheo, Ta nhớ đời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, thuở ấy có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi, Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kinh đô, nơi vua ở tên là Bàn-đồ-ma-để. Bấy giờ Đức Phật Tỳ-bà-thi cùng với chúng Tỳ-kheo sáu ngàn người đều là bậc A-la-hán, ngự trong thành này. Vị vua thuở ấy tên là Bàn-đầu. Vua tôn trọng, cung kính cúng dường Đức Phật và chưng Tỳ-kheo đủ các thứ y phục, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc thang và phòng xá.
Thuở ấy, trong thành Bàn-đầu-ma-để có một đồng tử Bà-la-môn xây cất căn phòng tắm ấm, cúng dường cho Đức Phật và chư Tăng sử dụng. Đồng tử Bà-la-môn thấy các Tỳ-kheo từ phòng tắm ấm đi ra, thân thể thanh tịnh, hết sức thơm tho trong sạch, không chút mùi hôi. Thấy vậy vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế, đồng tử phát tâm: “Nguyện ở đời vị lai, thân tôi được thanh tịnh, không có chút cấu uế, hôi hám, giống như thân các Tỳ-kheo này, thanh tịnh thơm tho không chút mùi hôi.”
Sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhập Niết-bàn, nhà vua Bàn-đầu xây tháp bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê để thờ xá-lợi Phật. Lúc ấy đồng tử Bà-la-môn chỉ huy công trình xây tháp. Sau khi xây tháp xong, đồng tử phát nguyện: “Ở đời vị lai tôi thường được gặp Đức Thế Tôn như thế này. Bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi đều lãnh hội, chứng biết không trái pháp ấy. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh các đường ác.” Do vậy sau khi đồng tử này qua đời, thường sinh lên cõi trời hay trong nhân gian. Sau đó, có đời đồng tử ấy sinh vào nhà trưởng giả đại phú, được cha mẹ nuôi dưỡng, lần lần lớn khôn, mọi mặt đều được thành tựu.
Thuở ấy, nhà của đồng tử có một vị Bích-chi-phật làm vị thầy trong nhà nên thường lui tới. Vị Bích-chi-phật ấy đoan chánh dễ thương, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu. Đồng tử thường đem bốn việc cúng dường cho Bích-chi-phật suốt đời không thiếu. Vị Bích-chi-phật mãn tuổi thọ, sau đó nhập Niết-bàn.
Bấy giờ trưởng giả thấy vị Bích-chi-phật nhập Niết-bàn, đem thi hài đủng như pháp làm lễ hỏa thiêu, thâu xá-lợi, dùng đất đá xây tháp và tô tro bùn bên ngoài. Trên tháp, trưởng giả treo các chuỗi anh lạc để trang nghiêm, rồi phát lời thệ nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai gặp được Đức Bích-chi-phật Thế Tôn như vậy và giáo pháp của Ngài thuyết giảng, tôi nghe rồi liền được chứng ngộ, ghi nhớ không quên. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác. Cũng nguyện thân tôi đoan chánh dễ thương, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu, được mọi người trông thấy hoan hỷ, không biết chán, như vị Đại tiên này.”
Trưởng giả ấy sau khi qua đời, chưa từng sinh vào các đường ác, luôn luôn sinh vào cõi trời, người, lưu chuyển như vậy trong một thời gian lâu, sau lại sinh làm con vua Cát-lợi-thi (nhà Tùy dịch là Sậu Tế) ở nước Ba-la-nại. Thuở ấy có Đức Phật hiệu là Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Thế Tôn ấy tùy cơ trụ ở đời rồi sau đó diệt độ.
Bấy giờ vua Cát-lợi-thi dùng toàn bảy báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích chân châu, san hô và mã não để xây tháp. Bên ngoài tháp được xây bằng gạch lớn. Tháp này cao một do-tuần, ngang dọc Đông, Tây rộng nửa do-tuần. Có khấc bài minh gọi là Đạt-xá-bà-lăng-ca (nhà Tùy dịch là Thập tướng).
Lúc bấy giờ vua Cát-lợi-thi có bảy vương tử, họ đồng tâu vua: “Lành thay! Tâu Đại vương, xin phụ vương biết cho, chúng con muốn mỗi người cúng một chiếc lọng lớn để che lên trên tháp xá-lợi của Đức Phật Ca-diếp Thế Tôn Như Lai Vổ Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lành thay! Tâu Đại vương, xin ngài cho phép.”
Nhà vua bảo: “Ta cho phép, tùy ý các con.”
Bấy giờ bảy vương tử, mỗi người làm một chiếc lọng: Hoặc bằng vàng, hoặc bằng bạc, bằng mã não… che trên tháp.
Vị vương tử thứ hai trong số bảy vương tử làm chiếc lọng bằng vàng che trên tháp và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai thường gặp được Đức Bích-chi-phật Thế Tôn. Những giáo pháp của Ngài dạy, tôi nguyện được lãnh hội, nhớ mãi không quên. Nguyện đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác và nguyện được sắc thân như vàng.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, nếu ai phân vân về đồng tử Bà-la-môn ở trong thành Bàn-đầu-ma lúc ấy cúng dường phòng tắm ấm cho Đức Phật và chúng Tăng và phát nguyện: “Ở đời vị lai được thân thanh tịnh, thơm tho không cấu uế, giống như những Tỳ-kheo ấy”, rồi sau khi Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác diệt độ, đồng tử này xây tháp cung dường, thì các vị chớ nghĩ gì khác, đồng tử đó tức là tiền thân của Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.
Này các Tỳ-kheo, nếu ai có tâm nghi ngờ vị trưởng giả trọn đời cúng dường vị Bích-chi-phật, rồi sau khi vị Bích-chi-phật diệt độ, trưởng giả dùng đất đá, tro xây tháp và các chuỗi anh lạc trang hoàng cúng dường xá-lợi, lại nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai được báo thân đoan chánh, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu không thiếu, giống như vị Tiên nhân Bích-chi-phật này”, đó là người nào? Các thầy chớ phân vân gì khác, trưởng giả này cũng là tiền thân của vị Tỳ-kheo Nan-đà này.
Này các Tỳ-kheo, nếu ai phân vân vị vương tử thứ hai của vua Cát-lợi-thi, vì Đức Phật Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác làm một chiếc lọng bằng vàng che trên tháp, chớ có nghi ngờ gì khác, vương tử đó cũng là tiền thân của Tỳ-kheo Nan-đà này.
Tỳ-kheo Nan-đà thuở xưa đã vì Đức Phật Tỳ-bà-thi và chúng Tỳ-kheo xây nhà tắm ấm, đúng như pháp cúng dường và nhân đó phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được thân thanh tịnh, thơm tho, không cấu uế, giống như thân các Tỳ-kheo ấy.”
Tỳ-kheo Na-đà lại trọn đời cúng dường Đức Bích-chi-phật Thế Tôn, sau khi Đức Bích-chi-phật Thế Tôn diệt độ, dùng đất đá tro xây tháp và các chuỗi anh lạc trang nghiêm cúng dường xá-lợi và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được báo thân đoan chánh, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu không thiếu, giống như thân Tiên nhân này vậy.”
Đối với tháp xá-lợi của Đức Phật Ca-diếp Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vị ấy làm một chiếc lọng toàn bằng vàng che lên trên và phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai được sắc thân như vàng ròng.” Nhờ nghiệp duyên ấy, vị ấy ngày nay được sắc thân màu vàng, đoan chánh, đủ ba mươi tướng đại trượng phu.
Lại thuở ấy, Tỳ-kheo Nan-đà đã phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai không sinh vào các đường ác.” Nhờ nghiệp báo phát nguyện này nên không sinh vào các ác đạo, thường được sinh lên cối trời hay trong nhân gian.
Lại thuở trước, vị ấy đã coi xây tháp thờ xá-lợi Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trọn đời đem bốn sự cúng dường cho Đức Bích-chi-phật; nhờ nhân duyên nghiệp báo ấy, ngày nay được sinh trong nhà họ Thích.
Lại thuở ấy Tỳ-kheo Nan-đà đã khởi tâm phát nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai được gặp Đức Thế Tôn như vậy, hoặc hơn thế nữa. Đối với các giáo pháp mà Đức Thế Tôn ấy nói ra, tôi nguyện nghe rồi mau được giải ngộ. Nhờ sức nghiệp báo nhân duyên đó, ngày nay vị ấy được gặp được Ta và xuất gia thọ giới Cụ túc, lại được Ta thọ ký: “Này các Tỳ-kheo, nếu muốn biết hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn hơn hết là ai? Đó là Tỳ-kheo Nan- đà này vậy.”
Này các Tỳ-kheo, các thầy phải biết, ngày xưa Tỳ-kheo Nan-đà đã trồng các căn lành như vậy. Nhờ nhân duyên đó, nay sinh trong nhà họ Thích, thân màu vàng, đầy đủ ba mươi tướng đại trượng phu, được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán, lại được Ta thọ ký: “Nếu muốn biết trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người điều phục các căn hơn hết là ai? Đó là Tỳ-kheo Nan-đà này vậy.”
***
Phẩm 58: NHÂN DUYÊN CỦA BÀ-ĐỀ-LỢI-CA
Thuở nọ, đồng tử Đề-bà-đạt-đa dòng họ Thích thấy năm trăm đồng tử họ Thích xả tục xuất gia, khởi lên ý nghĩ: “Ta cũng có thể theo Thế Tôn xả tục xuất gia.” Nghĩ vậy rồi, đồng tử đến thưa cha mẹ:
-Lành thay! Thưa song thân phụ mẫu, con muốn phát tâm xuất gia theo Phật, cúi xin song thân cho phép.
Nghe nói như vậy, cha mẹ liền bảo đồng tử Đề-bà-đạt-đa:
-Cha mẹ nghĩ thế này: Cha mẹ phải nương vào con, con phải nương vào cha mẹ, nhưng con đã có ý định như vậy, thì tùy theo ý con muốn, cho phép con được xuất gia.
Khi ấy đang mặc y phục tuyệt đẹp vô giá, cỡi voi tốt, đi ra cửa thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, Đề-bà-đạt-đa bị cái móc hai bên cửa, móc vào làm rách hết y phục. Có một vị đại Bà-la-môn hiểu rõ tướng số, ở gần bên thấy vậy, nên huyền ký cho đồng tử Đề-bà-đạt-đa:
-Sự nghiệp xuất gia của đồng tử sẽ bất thành.
Đồng tử Đề-bà-đạt-đa ra khỏi thành, đi đến tòng lâm, lễ dưới chân Phật, đứng về một bên, bạch Phật:
-Cúi xin Thế Tôn cho con xuất gia.
Bấy giờ Đức Thế Tôn chánh niệm quán sát sự nghiệp đời trước và đời sau của Đề-bà-đạt-đa để biết được tâm hạnh của đồng tử. Đức Phật bảo Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, ông nên cẩn thận, không nên xả tục xuất gia, chỉ nên về nhà tu tập, đem của cải dùng vào việc bố thí, tạo các công đức, không nên xuất gia trong pháp của Ta.
Khi ấy, bị Đức Phật quở trách, đồng tử Đề-bà-đạt-đa đi đến Trưởng lão Xá-lợi-phất, bạch:
-Thưa Thánh giả Xá-lợi-phất, cho con được xuất gia.
Trưởng lão Xá-lợi-phất hỏi Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, ông đã đến thưa với Đức Phật chưa? Đề-bà-đạt-đa thưa:
-Con đã thưa với Đức Phật rồi.
Trưởng lão Xá-lợi-phất hỏi:
-Này Đề-bà-đạt-đa, Đức Thế Tôn đã nói với ông thế nào? Đề-bà-đạt-đa đáp:
-Thưa Thánh giả, Đức Phật nói thế này: “Ông không nên xả tục xuất gia, nên ở nhà tu hạnh bố thí, tạo các công đức. Nếu xuất gia ở trong pháp của Ta, ông sẽ không được lợi ích.”
Bấy giờ Xá-lợi-phất mới nghĩ: “Ngày nay Đức Thế Tôn đã không cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia. Nếu ta cho xuất gia thì ta không đúng.” Nghĩ như vậy rồi, ngài Xá-lợi-phất liền bảo Đề-bà-đạt-đa: -Này Đề-bà-đạt-đa, ông nên làm theo lời Thế Tôn dạy. Lúc ấy đồng tử Đề-bà-đạt-đa bị Xá-lợi-phất khước từ, lại đi đến chỗ Trưởng lão Mục-kiền-liên. Đến nơi đảnh lễ, đứng lui về một bên, đồng tử bạch:
-Kính bạch Trưởng lão Mục-kiền-liên, cúi xin ngài cho con được xuất gia.
Mục-kiền-liên lại hỏi Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, ông đã đến thưa Đức Phật chưa? Đề-bà-đạt-đa trả lời:
-Con đã đến thưa Đức Phật rồi.
Trưởng lão Mục-kiền-liên lại bảo Đề-bà-đạt-đa:
-Đức Thế Tôn đã nói với ông những gì?
Đề-bà-đạt-đa đáp:
-Thế Tôn bảo con: “Ông chớ nên bỏ tục xuất gia ở trong pháp của Ta, nến sống tại gia đúng như pháp mà tu hành, dùng của cải bố thí, tạo các công đức. Chẳng nên xuất gia ở trong pháp của Ta. Nếu xuất gia thì không lợi ích cho ông.”
Bấy giờ Trưởng lão Mục-kiền-liên cũng bảo Đề-bà-đạt-đa: -Ông cần phải nghe lời Thế Tôn dạy, nên trở về nhà, cần phải
làm những việc ấy.
Lúc ấy Đề-bà-đạt-đa cũng bị Mục-kiền-liên không cho xuất gia, lại đi đến chỗ Trưởng lão Đại Ca-diếp… Sơ lược như trên.
Kế tiếp, Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ ngài Ca-chiên-diên, rồi đi đến chỗ ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Kế tiếp đi đến Trưởng lão chỗ ngài Na-đề Ca-diếp. Kế tiếp đi đến chỗ Trưởng lão Ưu-ba-tư-na, cho đến chỗ của các ngài Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Tôn-đà-ly-ba-đa… đều không được cho xuất gia.
Đề-bà-đạt-đa đi đến chỗ Trưởng lão Ưu-ba-ly Ba-đa, đảnh lễ dưới chân, đứng lùi về một bên. Đồng tử Đề-bà-đạt-đa lại cầu Ưu-ba-ly Ba-đa xin xuất gia.
Trưởng lão Ưu-ba-ly Ba-đa lại hỏi Đề-bà-đạt-đa:
-Ông đã đến chỗ Đức Phật chưa?
Đề-bà-đạt-đa đáp:
-Thưa Thánh giả, trước đây con đã đến chỗ Đức Phật rồi.
Bấy giờ Trưởng lão Ưu-ba-ly Ba-đa hỏi:
-Ông đã đến chỗ Đức Phật, Ngài đã dạy ông những gì?
Đề-bà-đạt-đa đáp:
-Thế Tôn bảo con không nên xả tục xuất gia, chỉ nên ở tại nhà y như pháp tu tập, dùng của cải bố thí, tạo các công đức, chẳng nên ở trong pháp của Ngài xuất gia. Nếu xuất gia thì con không được lợi ích.
Bấy giờ Trưởng lão Ưu-ba-ly Ba-đa suy nghĩ: “Nay Thế Tôn đã không cho đồng tử Đề-bà-đạt-đa xuất gia, nếu ta vội cho xuất gia thì ta không đúng.” Nghĩ như vậy rồi liền bảo Đề-bà-đạt-đa:
-Đồng tử phải nghe lời Thế Tôn dạy, cần phải làm những việc như vậy.
Đề-bà-đạt-đa tuần tự đã đi đến chỗ các Tỳ-kheo Thượng tọa, Đại đức cầu xin xuất gia mà các vị Tỳ-kheo Thượng tọa, Đại đức đều nói với Đề-bà-đạt-đa:
-Đức Thế Tôn đã có lời dạy như vậy, đồng tử nên làm theo lời dạy đó.
Bấy giờ Đề-bà-đạt-đa bị các Tỳ-kheo từ chối không cho xuất gia, nên cỡi voi trắng trở về thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô, sống lại cảnh vương cung.
Đồng tử A-nan khi vừa thấy năm trăm đồng tử họ Thích đều được xuất gia, liền nghĩ thế này: “Ngày nay ta phải xả tục xuất gia.” Nghĩ như vậy rồi đến thưa cha mẹ:
-Thưa cha mẹ, ý con ngày nay muốn xả tục theo Đức Phật xuất gia, cúi xin cha mẹ hoan hỷ cho con được toại nguyện.
Mẹ A-nan vốn có tâm bất tịnh đối với Đức Phật. Vì lý do gì bà ta có tâm như vậy? Vì khi Đức Thế Tôn còn là Bồ-tát tại gia, bà ta thấy Bồ-tát có công đức oai lực sáng ngời, nên đối với Bồ-tát bà sinh nhiễm tâm, nói nhiều lời bất chánh. Khi ấy Bồ-tát vì người thân của bà ấy là di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, nên đối với lời bất chánh ấy, Ngài im lặng không quan tâm.
Vì bà không có tịnh tâm nên nhất định không cho A-nan xả tục xuất gia. Khi nghe nói lại là A-nan muốn xuất gia, nhưng cha mẹ không cho, Đề-bà-đạt-đa đến nói với A-nan:
-Tâm đồng tử thật sự muốn xuất gia nhưng cha mẹ chưa cho phải không?
A-nan đáp lời Đề-bà-đạt-đa:
-Đúng như lời vương tử nói. Tôi không biết làm cách gì để cha mẹ cho phép xuất gia, được thọ giới làm Tỳ-kheo.
Đề-bà-đạt-đa nói với A-nan:
-Nếu sau này cha mẹ đồng tử cho đồng tử xuất gia thì nói cho ta biết, để cùng người đi xuất gia.
A-nan liền đáp:
-Như lời vương tử nói, tôi không dám thất hứa.
Bấy giờ A-nan nghĩ thế này: “Cha mẹ ta chắc chắn không cho ta xuất gia” Nghĩ như vậy rồi, liền ở trong nhà lấy năm trăm đồng tiền lén đi đến nước Tỳ-đề-da, nơi làng nọ có một trưởng giả, trước kia là bạn tốt của phụ vương, đem năm trăm tiền giao cho trưởng giả và dặn:
-Tôi đem số tiền này giao cho nhân giả để dùng vào việc ăn uống cho tôi. Khi nào muốn ăn thì tôi đi đến nhà nhân giả, lúc ấy đem tiền này mua đồ ăn cho tôi. Nhân giả cũng đừng hỏi tôi từ đâu đến. Khi tôi đến là nhân giả biết tôi cần thức ăn.
A-nan nói như vậy rồi, liền đi đến chỗ hoang vắng, thọ giới “không nói”, đi-đứng-nằm-ngồi im lặng không nói. Mỗi khi cần thức ăn, A-nan đi đến nhà trưởng giá ngồi ăn uống im lặng. Ăn uống xong rồi, im lặng ra về.
Bấy giờ dân cư ở làng này thường thấy đồng tử Thích A-nan đi đứng nằm ngồi, tới lui im lặng. Thấy vậy, họ mới hỏi A-nan:
-Nhân giả là ai?
Bấy giờ A-nan không đáp một lời, lại im lặng bỏ đi. Khi ấy dân làng nói với nhau: “Vị Tiên nhân này có lẽ phát xuất từ nước Tỳ-đề-da.” Vì vậy, họ đặt tên A-nan là Tiên nhân nước Tỳ-đề-da.
Một hôm, cha mẹ A-Nan nghe nói thế này: “A-nan trốn khỏi thành Ca-tỳ-la, đi đến xóm làng thuộc nước Tỳ-đề-da, thọ giới “không nói”, tu hạnh tiên, nay đã thành Tiên nhân.” Nghe được tin này cha mẹ A-nan, liền sai sứ giả đến nói:
-Con ơi! Con ơi, nếu con quyết định không chịu ở nhà, chỉ muốn xuất gia thì nên theo đồng tử họ Thích mà xuất gia.
A-nan nghe vậy trở về nhà, rồi đến nói với Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, vương huynh phải biết, cha mẹ tôi đã cho tôi xuất gia rồi.
Đề-bà-đạt-đa lại hỏi A-nan:
-Ý vương tử nay muốn xuất gia với ai?
A-nan đáp:
-Nay ý tôi muốn theo Đức Phật xuất gia.
Đề-bà-đạt-đa lại nói:
-Ta trước đây đã đến Đức Phật cầu xin xuất gia, mà Ngài không cho ta xuất gia.
A-nan lại nói:
-Nên đến chỗ thánh giả Xá-lợi-phất cầu xin xuất gia.
Đề-bà-đạt-đa lại đáp:
-Trưởng lão này cũng không cho ta xuất gia. Như vậy cho đến Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Đại Ca-chiên-diên, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Ưu-ba-tư-na, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Chuyên-đà, Ưu-ba-ly Ba-đa…, bao nhiêu chư vị Tỳ-kheo Thượng tọa, Đại đức như vậy đều không cho ta xuất gia.
A-nan lại hỏi Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, như theo ý vương huynh thì nên đi đâu?
Đề-bà-đạt-đa đáp:
-Này A-nan, chúng ta nên đi đến chỗ nào mà không ai biết.
A-nan lại nói:
-Tôi cũng tùy theo ý của vương huynh.
Mỗi gia đình họ Thích trong hoàng gia phải có một người xuất gia, nên có nhiều đồng tử họ Thích đầy oai thế xuất gia theo Phật.
Khi ấy tại thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô có một gia đình họ Thích nọ chỉ có hai anh em. Người em tên là Ma-ni-lâu-đà (bổn cũ gọi là A-ni-lâu-đà). Người anh tên là Ma-ha Na-ma. Đồng tử Ma-ni-lâu-đà đã nhiều kiếp trồng các căn lành, tu các hạnh giải thoát, dứt các phiền não, hướng về Niết-bàn, không muốn sinh trong các cõi hữu lậu, ở trong tam giới chỉ muốn diệt sạch các hoặc lậu. Do vì trong quá khứ đồng tử chứa nhiều công đức nên ngày nay sinh trong nhà họ Thích. Từ khi đồng tử sinh trong nhà họ Thích ấy thì gia nghiệp của nhà này lần lần phát triển, như là của cải, vàng bạc, lúa gạo, chân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, các loại bích ngọc… cho đến vàng bạc, nhân sự, súc sinh đều được đầy đủ, năm trăm thứ tài vật ẩn tàng dưới đất tự nhiên được xuất hiện. Khi đồng tử nằm ngủ, nơi giường lại có chư Thiên đem năm trăm trân bảo vô giá trải trên giường.
Quyến thuộc thấy những điều kỳ lạ như vậy nên cùng nhau bàn: “Khi đồng tử này ngủ, có chư Thiên đem vật báu vô giá trải trên giường. Vì vậy, chúng ta nên đặt tên đồng tử này là Ma-ni-lâu-đà.”
Đồng tử này khôi ngô dễ thương, người ta nhìn thấy không chán, làn da vàng tươi giống như vàng ròng, đầu tròn như chiếc lọng, mũi cao lớn đầy đặn giống như mũi chim Anh võ, hai cánh tay duỗi dài quá gối, thân thể ngang dọc trên dưới cân phân, các căn hoàn hảo không khuyết. Cha mẹ đặt riêng bốn bảo mẫu chăm sóc: Một bà bồng bế, một bà tắm rửa, một bà bú mớm và một bà dẫn dạo chơi. Bốn bảo mẫu này chăm nom nuôi dưỡng, đồng tử dần dần được lớn khôn, đã có hiểu biết. Thấy đồng tử rong chơi đây đó, đã đến lúc có khả năng tiếp thu sự giáo dục nên cha mẹ dạy các kỹ nghệ để giao phó gia nghiệp. Những môn đó là toán số, ấn ký, âm nhạc, ca vũ, trào phúng, hài hước, khôi hài, nhảy múa, duyên dáng, gọt sửa các ngọc ma ni, may cắt, nhuộm áo, pha chế các mùi thơm, tô vẽ hoa lá và chân dung; dạy các loại cờ vi kỳ, lục bát, xu bồ cùng các trò vui khác…, dạy học văn chương, cỡi voi, cỡi ngựa và các loại xe; nghệ thuật bắn tên, cử chỉ cúi xuống ngước lên, thu sức, ra sức, xoa bóp…, dạy phép xua đuổi giặc loạn, điều voi lao nhanh, tu sửa hoa viên, cung cách đi đứng ra vào, biết rõ điềm tốt xấu, vi tế ẩn tàng, phá các quân trận, nắm tay người khác họ gỡ không ra, đứng yên trên đất người xô không lay động, chải đầu sửa tóc, cầm dao đẽo gọt, dùi thủng các vật, chẻ bửa gỗ đá, bắn đích không sai, bắn đúng các phần trên người trong chân lông sợi tóc; bắn cung nhanh như tiếng động, giương cung rất mạnh… Bao nhiêu nghề như vậy đều được am tường, thành tựu đầy đủ, không gì là không biết, ý chí sâu xa, tinh thần sáng suốt, tâm trí tuyệt vời, trí tuệ thông minh.
Sau đó, đồng tử Ma-ni-lâu-đà đi theo thân phụ kiểm tra nông nghiệp, cho đến việc mưu sinh. Khi đến đó, vì khát nước nên đồng tử đi đến bờ suối múc nước để uống, thì nước suối biến thành cam lộ chư Thiên. Thân phụ không biết, thấy vậy lập tức cản ngăn, kêu lên: -Này con! Này con! Không nên uống nước đó, sợ e thân con chẳng an.
Khi đồng tử Ma-ni-lâu-đà đã nếm thử nước suối, thưa thân phụ: -Cha ơi! Nước suối này rất ngon ngọt.
Vì thân phụ không tin nên đồng tử dùng tay bụm nước dâng cho cha và thưa:
-Nếu không tin, xin cha nếm thử nước này.
Vì vậy cha đồng tử nếm thử rồi nói:
-Con ơi! Con ơi, cha tuy sống ở vương cung nhưng chưa từng được uống nước ngon ngọt như vậy!
Nói lời ấy rồi, người cha rất vui mừng vì thấy việc chưa từng có, tự nói:
-Con ta thật kỳ lạ, có phước báu rất lớn. Từ khi sinh ra cho đến ngày nay, bao nhiêu nhu cầu ăn uống, sắc, hương, vị, xúc, mỗi khi người ta đem đến cho con ta đều biến thành tốt hơn gấp bội lần.
Bấy giờ người anh là Ma-ha Na-ma thấy thức ăn uống của em mình như vậy mới sinh tâm ganh tị nên nói:
-Vì sao những thức ăn ngon trong sạch thơm tho chỉ dành riêng cho em ấy mà chẳng cho mình?
Người mẹ nghe con lớn nói như vậy, liền bảo:
-Con ơi! Con ơi, con có biết chăng, từ trước đến giờ những thức ăn uống làm xong, đem cho Ma-ni-lâu-đà, thường thường biến ngon hơn gấp mười lần.
Nhưng Ma-ha Na-ma vẫn nhất định không tin.
Lại một hôm nọ Ma-ni-lâu-đà dạo chơi trong lâm viên, sai người hầu về nhà lấy đồ ăn và bảo:
-Người đến chỗ mẹ ta nhận đồ ăn đem đến đây.
Khi ấy mẹ đồng tử sắp đồ ăn trên mâm, rồi dùng lụa trắng phủ lên trên, sai người mang đến cho đồng tử Ma-ha Na-ma trước, rồi sau đó mới sai người mang đến cho đồng tử Ma-ni-lâu-đà.
Khi mang thức ăn đến, đồng tử Ma-ni-lâu-đà thấy màu sắc hương vị ngon hơn gấp bội phần, thức ăn trong các tô dĩa cũng tràn đầy. Tuy sự việc như vậy, nhưng Ma-ha Na-ma vẫn không tin, lại nói: -Tuy thức ăn từ nhà mang đến nhưng thức ăn ngon dở đầy vơi là do người nhà sắp xếp, ai biết được việc này?
Một lúc khác, Ma-ni-lâu-đà du ngoạn quang cảnh trong viên lâm, sai người hầu về thưa với mẹ mình: “Xin mẹ cho người mang đồ ăn đến.” Bấy giờ người mẹ lấy các bát dĩa không đặt trên mâm rồi dùng khăn phủ lên trên, cho người mang đến đứa con lớn xem trước, sau đó mới mang đến cho Ma-ni-lâu-đà. Bà ta nói với đồng tử lớn:
-Con tự xem đó, hư thật thế nào?
Ma-ha Na-ma nghe nói như vậy, liền đi theo chiếc mâm đến chỗ Ma-ni-lâu-đà, thấy bát dĩa trong mâm chứa đầy đồ ăn màu sắc hương vị thơm ngon. Khi thấy việc như vậy đồng tử Ma-ha Na-ma, rất vui mừng, thốt lên thế này:
-Kỳ lạ thay! Chưa từng thấy! Em ta có phước đức lớn như vậy!
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà qua thời gian khôn lớn, sức lực tráng kiện, cha mẹ vì đồng tử xây ba tòa nhà. Tòa thứ nhất dùng vào mùa Đông, tòa thứ hai dùng vào mùa Xuân thu và tòa thứ ba dùng vào mùa Hè. Tòa nhà ở vào mùa Đông thì hoàn toàn ấm áp. Tòa nhà ở vào mùa Hè thì hoàn toàn mát mẻ và tòa nhà ở vào mùa Xuân và Thu thì nhiệt độ ôn hòa hợp ý. Chỗ ở của đồng tử không có một người đàn ông nào khác, duy nhất một mình đồng tử, tự ý đi lại thọ hưởng đủ thứ vui ngũ dục.
Bấy giờ đồng tử Ma-ha Na-ma suy nghĩ: “Ngày nay các đồng tử họ Thích đều có thế lực lớn, mỗi gia đình phải có một người đi xuất gia mà gia đình ta chưa có người đi xuất gia. Vậy ta nên xả tục xuất gia. Nếu không thì phải bảo em ta Ma-ni-lâu-đà xuất gia.” Ma-ha Na-ma nghĩ như vậy rồi, liền đi đến nói với đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này Ma-ni-lâu-đà, các gia đình thuộc họ Thích có đầy thế lực, mỗi nhà phải có một người xuất gia, mà trong nhà chúng ta chưa có ai xuất gia. Anh suy nghĩ là hoặc em hoặc anh phải có một người xuất gia.
Bấy giờ đồng tử Ma-ni-lâu-đà thưa với anh Ma-ha Na-ma:
-Anh hãy xuất gia, em không thể xuất gia.
Ma-ha Na-ma lại nói:
-Này Ma-ni-lâu-đà, nếu như vậy, anh sẽ giao phó gia nghiệp cho em. Phàm nguyên tắc canh tác, trước phải cày đất, sau đó ban cho bằng, kế đến dọn sạch cỏ cây gạch đá, rồi mới gieo giống. Sau khi gieo giống, nếu trời không mưa phải tùy thời tiết mà tưới nước. Em phải theo phương pháp cày bừa trồng tỉa thật kỹ và đợi thu hoạch. Sau đó, dọn sạch cỏ rác chôn lấp dưới đất và đem phần thu gặt cất vào kho. Làm như vậy rồi, cho đến năm sau cũng như thế, từ năm này sang năm khác cứ theo thứ lớp như vậy mà làm, không được dừng nghỉ.
Bấy giờ đồng tử Ma-ni-lâu-đà thưa với Ma-ha Na-ma:
-Như vậy thì em ở nhà làm các công việc không ngớt, cũng không có thời gian nghỉ ngơi. Làm việc như vậy, không có ngày hoàn tất thì thời gian nào em được ở nơi ba tòa nhà hưởng thụ thú vui ngũ dục?
Đồng tử Ma-ha Na-ma lại bảo đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này em, việc làm ấy quả thật không có ngày xong, cũng không có thời gian chấm dứt. Cha mẹ chúng ta dành dụm của cải ông bà để lại, nên làm việc cũng như vậy, công việc chưa xong mà đã kết liễu cuộc đời.
Bấy giờ đồng tử Ma-ni-lâu-đà nói với anh Ma-ha Na-ma:
-Nếu biết được việc làm không bao giờ xong, không có ngày chấm dứt, cha mẹ mình đã ham tiếc sự nghiệp tổ tiên, làm lụng không có thời gian thôi nghỉ mà đã bỏ thân mạng thì cũng không nên ở. Em nghĩ anh phải ở lại nhà kinh doanh sự nghiệp, để em xả tục xuất gia tu tập.
Lúc ấy đồng tử Ma-ni-lâu-đà đến thưa cha mẹ:
-Kính thưa song thân, con nay muốn xả tục xuất gia, đến thỉnh ý cha mẹ cho phép con được xả tục xuất gia, đến tu học với Như Lai.
Bấy giờ cha mẹ bảo Ma-ni-lâu-đà:
-Con phải biết, cha mẹ chỉ có hai con, nên đối với hai con cha mẹ rất yêu quý, không muốn xa lìa. Nếu xa lìa trong giây lát thì cha mẹ ưu sầu khổ não. Giả sử ta có chết rồi, vẫn mong muốn không xa lìa hai con. Huống chi ngày nay cha mẹ còn sống mà lại cho con đi xuất gia hay sao!
Cứ như vậy, đồng tử Ma-ni-lâu-đà xin đến lần thứ hai, rồi đến lần thứ ba, thưa:
-Con muốn xả tục xuất gia ở trong giáo pháp của Như Lai. Cúi xin cha mẹ cho phép.
Thuở trước, khi Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia tu phạm hạnh thì Đại vương Thâu-đầu-đàn vì Bồ-tát mà ưu sầu khổ não, bức xúc nên triệu tập hoàng gia, tuyên bố:
-Này các quyến thuộc, quý vị phải biết, nay Thái tử Tất-đạt-đa con ta đã xuất gia rồi, ta không muốn ở ngôi vua, lại cũng không muốn đội mão Thiên quan. Trong hoàng gia, vị nào có thể nhận lãnh ngôi vua, ta sẽ làm lễ quán đảnh trao mão Thiên quan truyền ngôi cho.
Bấy giờ trong hội có đồng tử Bà-đề-lợi-ca, con của bà Hắc-Cù-đà-di, tâu vua:
-Tâu Đại vương, hạ thần có thể nhận ngôi vua và Thiên quan.
Lúc ấy vua Thâu-đầu-đàn và tất cả hoàng gia họ Thích liền làm lễ quán đảnh trao Thiên quan truyền ngôi vua cho đồng tử Bà-đề-lợi-ca. Từ đó về sau, Bà-đề-lợi-ca họ Thích làm vua, quyến thuộc gọi là vua Thích Bà-đề-lợi-ca. Vua Thích Bà-đề-lợi-ca làm vua trải qua mười hai năm, đúng như pháp trị hóa dân chúng. Quyến thuộc hoàng tộc họ Thích vốn trước đó có lập lời cam kết: “Nếu người nào nhận được Thiên quan làm vua thì vị ấy phải vì tất cả quyến thuộc họ Thích mà thết đãi bữa tiệc sơn hào hải vị đủ trăm thức ăn uống.” Vua Thích Bà-đề-lợi-ca với đồng tử Ma-ni-lâu-đà khi xưa còn thời thơ ấu vọc đất chơi với nhau, kết làm bạn bè, nên nay nhà vua thiết hội, ra lệnh đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này đồng tử, anh giúp đỡ ta thết đãi quyến thuộc trước, xong rồi ta với anh cùng ăn.
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca:
-Y theo lệnh Đại vương, thần không dám trái lời.
Khi nhà vua cùng với đồng tử lo thết đãi quyến thuộc xong, sau đó mới cùng ăn. Ăn xong, nhà vua mời đồng tử lưu lại nghỉ tại hoàng cung.
Đêm ấy sắp qua, trời gần sáng, vua Thích Bà-đề-lợi-ca đến vấn an đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này đồng tử, đêm rồi có ngủ ngon không?
Ma-ni-lâu-đà đáp:
-Thưa Đại vương, đêm qua tôi ngủ không ngon.
Nhà vua hỏi:
-Lý do gì khanh ngủ không ngon?
Ma-ni-lâu-đà đáp:
-Đêm rồi tôi bị đau bụng và nóng lạnh.
Nhà vua hỏi:
-Lý do gì đau bụng và nóng lạnh?
Ma-ni-lâu-đà lại đáp:
-Thưa Đại vương, thức ăn uống ngày hôm qua gia vị không thích hợp, do vậy hiện giờ tôi còn đau bụng. Lại chiếc chăn đắp này, khi xưa thợ dệt dệt chăn, thân họ bị nóng lạnh nên tôi cũng mắc bệnh nóng lạnh.
Bấy giờ vua Thích Bà-đề-lợi-ca kêu người đầu bếp hỏi:
-Khanh vừa rồi làm món ăn trăm vị là có quá nhiều hay quá ít hay là vừa phải?
Người đầu bếp tâu:
-Thưa Đại vương, đúng như vậy, đúng như vậy! Khi hạ thần làm thức ăn, có vị hơi nhiều, có vị hơi ít. Vì khi ấy hạ thần bận rộn không được như ý, lo đi kiểm tra nhiều việc. Lại người phụ tá không biết xử dụng nên gia vị đều bị lầm lộn.
Vua Thích Bà-đề-lợi-ca lại cho người đòi thợ dệt chăn đến hỏi:
-Khi khanh vì ta dệt chiếc chăn này, vì sao không chuyên tâm? Thợ dệt đáp:
-Tâu Đại vương, đúng như lời ngài nói. Khi hạ thần dệt tấm chăn đó thân thể bị bệnh nóng lạnh, mà Đại vương lại sai sứ giả đến thôi thúc. Lúc ấy hạ thần chưa hết nóng lạnh, sợ Đại vương tức giận nên hạ thần dệt vội đưa cho sứ giả, cho nên tấm chăn không được tinh xảo.
Bấy giờ vua Thích Bà-đề-lợi-ca cho việc này thật kỳ lạ chưa từng có, không thể nghĩ bàn, nên nghĩ: “ít có! ít có! Ma-ni-lâu-đà lại có trí tuệ thù thắng vi diệu như vậy!.”
Vua Thích Bà-đề-lợi-ca nói với đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này Ma-ni-lâu-đà, từ nay về sau, nếu có cần gì ở ta đồng tử khỏi phải đích thân đến, chỉ cho người đến. Ta không phụ nhau đâu.
Lúc đó mẹ đồng tử Ma-ni-lâu-đà nghĩ: “Thích Bà-đề-lợi-ca này thuở thơ ấu đã cùng con ta vọc đất chơi với nhau, đồng kết bạn thân thiện, nên ngày nay đồng tử chắc không xuất gia.” Nghĩ như vậy rồi, bà gọi con mình về và nói:
-Này Ma-ni-lâu-đà, nếu vua Thích Bà-đề-lợi-ca xả tục xuất gia thì khi ấy con có xuất gia không?
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà nghe mẹ hỏi như vậy, nên đi gặp vua Thích Bà-đề-lợi-ca. Trong lúc này, nhà vua rời cung điện đến dự hội tại Na-tra-ca (nhà Tùy dịch là Dĩ ca thuyết cát sự) và đang ngồi xem. Bấy giờ đồng tử Ma-ni-lâu-đà suy nghĩ: “Nếu ta đi vào hội thì nhất định sẽ cản trở sự du hý thưởng ngoạn của nhà vua.” Nghĩ như vậy rồi, nên ngồi ngoài ngõ, đợi hội vui Na-tra-ca tan, sau đó mới vào.
Khi ở trong hội, lúc hội vui nhộn nhất, nhà vua thấy một nữ ca sĩ tay cầm đàn không hầu. Khi ấy đàn bỗng đứt một dây, nàng lẹ tay nối lại mà trong hội vui Na-tra-ca không có một ai hay biết, chỉ một mình nhà vua thấy mà thôi. Nhưng đồng tử Ma-ni-lâu-đà ở ngoài ngõ cũng biết việc này.
Khi đồng tử thấy hội vui Na-tra-ca-sắp hết, mới đến gặp nhà vua Thích Bà-đề-lợi-ca. Đến nơi, chàng lấy tay choàng cổ nhà vua rồi sau đó mới ngồi về một bên. Nhà vua Thích Bà-đề-lợi-ca nói với đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này Ma-ni-lâu-đà, trước đây ta có nói với đồng tử, nếu có cần việc gì khỏi phải thân hành đến, chỉ cho người đến, ta không phụ đâu. Nay vì việc gì đồng tử đích thân đến đây?
Ma-ni-lâu-đà đáp:
-Tâu Đại vương, sự việc như thế này, không thể cho người khác đến được.
Nhà vua hỏi đồng tử:
-Này Ma-ni-lâu-đà, sự việc theo người nói là việc gì? Là do đồng tử hay là do ta?
Ma-ni-lâu-đà đáp:
-Tâu Đại vương, việc này do tôi, cũng có liên quan đến Đại vương.
Nhà vua lại hỏi:
-Nếu có liên quan đến ta thì xin đồng tử nói rõ.
Ma-ni-lâu-đà đáp:
-Tâu Đại vương, Đại vương phải biết, ý tôi muốn xả tục xuất gia. Như vậy, việc ấy có liên quan đến Đại vương.
Nhà vua lại đáp:
-Này đồng tử Ma-ni-lâu-đà, đồng tử muốn xả tục xuất gia, tất có quan hệ đến ta, ta sẽ đồng ý cho đồng tử xuất gia. Đồng tử đối với ta chớ nên lo âu. Nếu muốn xuất gia thì tùy ý đồng tử.
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca:
-Đại vương phải cùng tôi xuất gia. Vì sao? Vì cha mẹ tôi nói với tôi: “Này Ma-ni-lâu-đà, nếu vua Thích Bà-đề-lợi-ca xả tục xuất gia thì con cũng theo nhà vua mà xuất gia.”
Lúc đó đồng tử Ma-ni-lâu-đà thấy vua Thích Bà-đề-lợi-ca ở trước đại chúng nói lời chân thật:
-Này Ma-ni-lâu-đà, đồng tử muốn xả tục xuất gia, nếu có quan hệ đến ta thì ta không làm ngược lại, sẽ tùy thuận với đồng tử mà xuất gia.
Lúc đó mọi người trong hoàng gia họ Thích đều nói lời thành thật:
-Như vậy, xin thỉnh Đại vương cùng đi xuất gia với Ma-ni-lâu-đà.
Bấy giờ Đại vương Thích Bà-đề-lợi-ca nói với đồng tử Ma-ni- lâu-đà:
-Nếu quyết định như vậy, đồng tử phải đợi ở nhà bảy năm, để ta sắp đặt quốc sự xong xuôi rồi sau đó ta sẽ cùng đồng tử xả tục xuất gia.
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà lại tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca:
-Tâu Đại vương, chớ nói như vậy. Tôi không thể đợi đến bảy năm. Tại sao? Tâu Đại vương, bảy năm quá lâu. Biết đâu trong khoảng thời gian đó việc xuất gia của chúng ta bị trở ngại. Nhà vua lại nói với đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Đồng tử có thể đợi ta trong vòng sáu năm, để ta thu xếp quốc sự xong rồi, sau đó ta sẽ cùng với đồng tử xả tục xuất gia.
Đồng tử Ma-ni-lâu-đà lại tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca:
-Đại vương, không nên nói như vậy. Tôi cũng không thể đợi sáu năm. Vì sao vậy? Vì sáu năm quá lâu, biết đâu trong thời gian đó, có việc gây chướng ngại cho việc xuất gia của chúng ta.
Nhà vua Bà-đề-lợi-ca lại nói với đồng tử Ma-ni-lâu-đà:
-Này đồng tử, nếu nhất định như vậy, xin đồng tử đợi ta trong vòng năm năm, để ta thu xếp quốc sự.
Cứ như vậy, giảm xuống bốn năm, ba năm, hai năm mà đồng tử Ma-ni-lâu-đà đều không chịu. Bấy giờ nhà vua lại nói:
-Nếu không chịu như vậy, thì xin đợi ta trong vòng một năm để ta thu xếp quốc sự, sau đó ta sẽ cùng đồng tử xuất gia.
Ma-ni-lâu-đà vẫn tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca:
-Tôi cũng không thể đợi đến một năm. Tại sao? Vì một năm vẫn còn lâu. Biết đâu trong thời gian ấy có việc của nhà vua làm trở ngại.
Bấy giờ vua Thích Bà-đề-lợi-ca nói với Ma-ni-lâu-đà:
-Này đồng tử, nếu nhất định không chịu, xin đồng tử đợi cho tôi trong vòng sáu tháng để tôi thu xếp quốc sự.
Cứ như vậy giảm xuống ba tháng, hai tháng, một tháng mà đồng tử Ma-ni-lâu-đà đều không chịu. Khi ấy vua Thích Bà-đề-lợi-ca nói với Ma-ni-lâu-đà:
-Này đồng tử, nếu đồng tử nhất định không chịu, xin đồng tử đợi cho tôi bảy ngày bảy đêm để tôi thu xếp quốc sự, rồi sau đó sẽ cùng đồng tử xả tục xuất gia.
Ma-ni-lâu-đà liền tâu vua Thích Bà-đề-lợi-ca.
-Lành thay! Tâu Đại vương. Lành thay Bà-đề-lợi-ca! Vâng theo ý Đại vương, tôi sẽ đợi bảy ngày bảy đêm.
Thuở ấy, Đức Thế Tôn ngự tại làng A-nô-di-ca-da. Trong bảy ngày đêm nơi hoàng cung nhà vua dùng các thứ trang hoàng như chuỗi anh lạc trang sức trên thân, cho đến ở hoa viên thọ hưởng thú vui ngũ dục. Như người sắp đi đến nhà khác dự đại hội, họ gội đầu, chải tóc, mặc y phục, dùng chuỗi anh lạc trang điểm trên thân, sau đó mới đi. Khi vua Thích Bà-đề-lợi-ca sắp đến hoa viên du ngoạn vui chơi cũng như vậy.
Có một đồng tử tên là Bạt-phù-đà (nhà Tùy dịch là Đa Mi). Lại có một đồng tử khác tên là Cung-tỳ-la. Lại có một đồng tử khác tên là Nan-đề-ca. Lại có một đồng tử họ Thích khác tên là A-nan. Lại có một đồng tử họ Thích khác tên là Đề-bà-đạt-đa. Thân thể các đồng tử này cũng trang điểm như vị vua nói trên, các đồng tử này cũng mặc y phục, trang sức bằng chuỗi anh lạc, lại đem theo một thợ cắt tóc giỏi, đồng đi đến làng A-nô-di-ca-da.
Bấy giờ vua Thích Bà-đề-lợi-ca có các bảo vật giá trị đến ba trăm lượng vàng. Giá trị y phục một trăm lượng vàng, giá trị chuỗi anh lạc một trăm lượng vàng và giá trị yên cương, đồ trang bị cho ngựa một trăm lượng vàng. Đồng tử Ma-ni-lâu-đà cũng như vậy.
Các đồng tử họ Thích: Bạt-phù-bà, Cung-tỳ-la, Nan-đà-ca, A-nan-đà, Đề-bà-đạt-đa, mỗi vị cũng có nhiều thứ bảo vật giá trị đến ba trăm lượng vàng…. giá trị trang bị cho ngựa. Tổng giá trị bảo vật của các đồng tử lên đến hai ngàn một trăm lượng vàng.
Khi các đồng tử ra khỏi thành Ca-tỳ-la Bà-tô-đô rồi, mọi người xuống ngựa, đều cởi hết chuỗi anh lạc trên thân cho thợ hớt tóc và nói:
-Các chuỗi anh lạc này chúng ta đều cho ông để sinh sống, ông hãy nhận lấy làm vốn sinh sống, không nên mong cầu gì khác.
Các đồng tử trao chuỗi anh lạc rồi đồng đi đến làng A-nô-di-ca. Bấy giờ người thợ hớt tóc nghĩ thế này: “Những người họ Thích oai đức lẫy lừng có khi sẽ cho rằng ta đưa các đồng tử đi trốn khắp đó đây. Vì lý do đó, e rằng họ đến bức hiếp làm tổn hại ta. Các đồng tử đã mửa bỏ các vật này, tại sao ta lại ăn vào? Ngày nay, ta không nên nhận lấy các bảo vật này, các đồng tử đã giàu sang phú quý, đầy oai đức lẫy lừng như vậy, vẫn còn vứt bỏ vô lượng tài sản, bảo vật cùng vương vị để xả tục xuất gia. Huống gì như ta ngày nay vì cớ gì mà không theo họ xuất gia?.”
Suy nghĩ như vậy rồi, người thợ hớt tóc liền đem các bảo vật, chuỗi anh lạc… móc trên cành cây và thầm nghĩ: “Nếu ai thấy được vật này, tự do lấy dùng, hoàn toàn không phải ăn cắp.”
Tự nghĩ như vậy rồi, người thợ hớt tóc đi đến chỗ các đồng tử họ Thích. Các đồng tử họ Thích từ xa trông thấy người thợ hớt tóc hướng đến, hỏi vị ấy:
-Vì sao ông không trở về nhà?
Người thợ hớt tóc trả lời các đồng tử họ Thích:
-Thưa các Thánh tử, tôi nghĩ thế này: “Những người họ Thích rất hùng cường, có đầy oai đức thế lực như vậy, có thể cho rằng ta đưa các đồng tử đi trốn đó đây. Vì lý do đó, e sợ họ đến làm tổn hại thân mạng ta. Các đồng tử đã mửa bỏ bảo vật, ta vì sao lại ăn vào, ta hông nhận lấy các vật báu. Vì sao? Vì các đồng tử họ Thích cường thạnh, có nhiều oai thế mà vẫn xuất gia, huống chi ta ngày nay vì sao lại không xuất gia?” Thưa các thánh tử! Vì lý do đó tôi không trở về nhà.
Bấy giờ các đồng tử họ Thích nghe nói như vậy nên bảo:
-Ông đã suy nghĩ, quyết định như vậy thì không nên trở về nhà. Vì lý do gì? Đúng như lời ông nói. Các người họ Thích của ta oai nghiêm rực rỡ, tất sẽ cho rằng ông dẫn các đồng tử đi trốn đó đây. Đã có lời nói như vậy, nhất định họ sẽ đến làm hại thân mạng ông.
Bấy giờ các đồng tử họ Thích cùng với người thợ hớt tóc đồng đi đến chỗ Phật, đến nơi lễ dưới chân Phật, rồi ngồi về một bên và bạch:
-Bạch Đức Thế Tôn, xin cho chúng con được xả tục xuất gia thọ giới Cụ túc.
Họ lại bạch:
-Bạch Đức Thế Tôn, nếu Ngài cho chúng con xuất gia thì nên độ cho người thợ hớt tóc xuất gia trước. Vì sao? Vì người thợ hớt tóc này đã trải qua thời gian lâu dài cần khổ phụng sự chúng con, chưa từng sơ xuất, nên cho người thợ hớt tóc xuất gia và thọ giới Cụ túc trước. Ông ta xuất gia rồi, chúng con mới xuất gia thọ giới Cụ túc sau, để có dịp chúng con đứng dậy nghinh tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ ông ta, thể hiện sự tôn trọng. Vì sao? Vì các đồng tử họ Thích chúng con công cao kiêu mạn, nay do người này chúng con hồi tâm, từ bỏ tâm kiêu mạn thuở trước.
Bấy giờ Đức Thế Tôn độ cho người thợ hớt tóc xuất gia thọ giới Cụ túc trước. Sau đó kế tiếp độ vua Thích Bà-đề-lợi-ca xuất gia thọ giới Cụ túc. Ngoài ra, các đồng tử khác đều theo thứ tự được xuất gia thọ giới Cụ túc. Lúc đó A-nan và Đề-bà-đạt-đa vẫn chưa được xuất gia vì hai vị này rời Thế Tôn đi đến dưới chân núi Tuyết.
Bấy giờ dưới chân Tuyết sơn có một vị Trưởng lão họ Bạt-da-sắc-tra, tên là Tăng-già. Vị này tu hành đã chứng ba quả, thành tựu Tứ thiền, thường sống dưới chân Tuyết sơn.
Bạt-da-sắc-tra Tăng-già thấy hai đồng tử A-nan và Đề-bà-đạt đa đi đến, Trưởng lão tiếp đón hỏi han:
-Các đồng tử họ Thích có nhân duyên gì đến đây?
Hai đồng tử đáp:
-Hôm nay, hai chúng con muốn xuất gia, vì vậy mới đến Trưởng lão. Lành thay! Thưa Thánh giả, cúi xin ngài độ cho chúng con xuất gia.
Bấy giờ Bạt-da-sắc-tra Tăng-già chưa quán sát đức hạnh và cũng chưa từng biết căn tánh của đồng tử Đề-bà-đạt-đa nên Trưởng lão liền cho hai người xuất gia và thọ giới Cụ túc.
Trưởng lão A-nan xuất gia chưa được bao lâu, ở chỗ vắng vẻ tọa thiền tư duy, suy nghĩ thế này: “Hôm nay, có lẽ Thân Giáo sư cho ta đi gặp Đức Phật. Ta cũng nên đến yết kiến Đức Phật.”
Nghĩ như vậy rồi, trời vừa sáng, A-nan từ phòng đi ra, hướng về Bạt-da-sắc-tra Tăng-già, đảnh lễ dưới chân, đứng về một bên rồi bạch Trưởng lão Bạt-da-sắc-tra Tăng-già:
-Bạch Trưởng lão, ý con nay muốn đến gặp Đức Phật, không biết Trưởng lão có cho phép hay không?
Bạt-da-sắc-tra Tăng-già bảo A-nan:
-Nếu thấy đúng lúc thì thầy cứ đi. Khi đến nơi, thầy sẽ thay ta lễ dưới chân Đức Phật, thay ta hỏi lời vấn an Đức Thế Tôn rằng Ngài có ít bệnh, ít não, thân có được an ổn không? Đi đứng có được dễ dàng không? Du hành giáo hóa có khó nhọc không? Thân thể khí lực có được dồi dào không?
A-nan nghe Thân Giáo sư nói như vậy, lại bạch:
-Y như lời Trưởng lão, con không dám trái lời.
A-nan đảnh lễ dưới chân Bạt-da-sắc-tra Tăng-già, nhiễu quanh ba vòng rồi từ tạ ra đi.
Bấy giờ Trưởng lão Đề-bà-đạt-đa thấy A-nan đi gặp Đức Phật nên hỏi:
-Trưởng lão A-nan, thầy đi đâu đó?
A-nan đáp:
-Tôi định đến yết kiến Đức Phật.
Đề-bà-đạt-đa nói:
-Này A-nan, nếu thầy nhất định đi, xin đợi tôi chốc lát, tôi cũng sẽ đến xin phép Thân giáo sư, rồi tôi cùng thầy đi đến Đức Phật.
Đề-bà-đạt-đa liền đi đến chỗ Tôn giả Bạt-da-sắc-tra Tăng-già đảnh lễ dưới chân, đứng về một bên, bạch:
-Thưa thầy, con muốn yết kiến Đức Phật. Cúi xin thầy thương mến cho phép.
Bấy giờ Trưởng lão Bạt-da-sắc-tra bảo Đề-bà-đạt-đa:
-Nếu thầy thấy đến lúc, khi đi đến chỗ Phật sẽ thay ta đảnh lễ dưới chân Phật và vấn an Thế Tôn: ít bệnh, ít não, thân thể có an ổn không? Đứng ngồi có dễ dàng không? Đi lại hóa đạo có khó khăn không? Thân thể khí lực có dồi dào không?
Đề-bà-đạt-đa thưa Bạt-da-sắc-tra Tăng-già:
-Như lời Tôn sư dạy, con không dám trái phép.
Đề-bà liền đảnh lễ Tôn sư, nhiễu quanh ba vòng, từ tạ ra đi.
Bấy giờ hai vị Trưởng lão A-nan-đà và Đề-bà-đạt-đa rời khỏi chân Tuyết sơn, đồng đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, hai người đảnh lễ dưới chân Đức Phật và đứng lui về một bên.
Trưởng lão Đề-bà-đạt-đa bạch Thế Tôn:
-Khi trước con cầu xin Như Lai xuất gia mà Như Lai không cho. Nay Như Lai không thấy con được xuất gia rồi hay sao?
Đức Phật bảo Đề-bà-đạt-đa:
-Này Đề-bà-đạt-đa, người vì mục đích gì mà xuất gia vậy? Xuất gia rồi, xin người không nên phản lại.
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
-Kỳ lạ thay! Bạch Thế Tôn, khi trước Ngài thường răn dạy Đề-bà-đạt-đa làm việc lợi ích. Ngược lại nay Đề-bà-đạt-đa lại đem oán thù đến với Phật.
Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, chẳng chỉ đời này Ta dạy Đề-bà-đạt-đa làm điều lợi ích, mà người lại oán thù Ta, ở trong quá khứ cũng như vậy. Ta dạy điều lợi ích, ngược lại, ông ấy oán thù Ta.
Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, việc ấy thế nào, xin Ngài dạy rõ cho.
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ trong thời quá khứ dưới chân Tuyết sơn có con chim một thân hai đầu, thường ở tại nơi đây. Một đầu gọi là chim Ca-lâu-trà, một đầu gọi là chim Ưu-ba-ca-lâu-trà. Chim hai đầu này, một đầu ngủ, một đầu thức.
Một hôm nọ, đầu chim Ưu-ba-ca-lâu-trà đang ngủ thì gần bên đầu chim thức có một cây ăn quả tên Ma-đầu-ca. Cây này gió thổi làm hoa rơi nơi đầu chim thức. Lúc ấy với ý nghĩ: “Nếu một mình ta ăn hoa này, khi nuốt vào bụng thì cả hai đầu đều được sắc đẹp và sức lực, được hết đói khát”, nên dầu chim thức không đánh thức đầu chim ngủ, cũng không báo cho biết, im lặng ăn hoa.
Sau đó, đầu chim ngủ thức dậy, thấy trong bụng no nê, ho hắt hơi ra ngoài, liền nói với đầu chim thức: “Anh ăn uống thức ăn tuyệt vời này ở đâu, khiến cho thân thể tôi no nê thoải mái, làm cho âm thanh của tôi trong trẻo?”
Đầu chim Ca-lâu-trà đáp: “Khi anh ngủ say, nơi đó cách đầu tôi chẳng xa, có hoa của cây ăn quả Ma-đầu-ca, lúc ấy một hoa rơi trên đầu tôi. Bấy giờ với ý nghĩ: “Chỉ một mình ta ăn hoa này, đến khi vào bụng thì cả hai đầu đều khỏi đói khát, đều có sắc đẹp và sức lực”, nên tôi không đánh thức anh dậy, cũng không nói cho anh biết, mà ăn hoa ấy.”
Đầu chim ngủ nghe nói như vậy, liền oán giận, hiềm trách, nghĩ thế này: “Người được thức ăn không nói ta hay, không gọi ta dậy, tự ăn một mình. Như vậy, từ nay về sau nếu được thức ăn ta cũng khổng gọi, không cho biết.”
Chim hai đầu ấy vào một hôm nọ bay đi đó đây, bỗng nhiên gặp một bông hoa độc. Với ý nghĩ: “Ta ăn hoa này để cả hai đầu đều chết.” Nên đầu kia nói với đầu Ca-lâu-trà: “Giờ này anh ngủ đi, tôi sẽ thức.”
Ca-lâu-trà nghe đầu Ưu-ba-ca-lâu-trà nói như vậy liền ngủ say. Đầu chim Ưu-ba-ca-lâu-trà vội ăn hoa độc. Đầu chim Ca-lâu-trà ngủ xong thức dậy, ho hắt hơi ra ngoài, biết đây là hơi độc, liền hỏi đầu chim kia: “Khi thức, anh ăn thức ăn độc nào khiến cho thân thể ta không an, mạng sống sắp chết, làm cho âm thanh ta khàn khàn, muốn nói ra nhưng cổ họng nghẹt cứng không thông!”
Lúc ấy đầu chim Ưu-ba-ca-lâu-trà nói với đầu chim Ca-lâu-trà: “Khi anh ngủ say, tôi ăn hoa độc, muốn cho hai đầu đều chết.”
Ca-lâu-trà nói với Ưu-ba-ca-lâu-trà: “Việc làm của anh thật bộp chộp vội vàng! Tại sao anh làm việc như vậy?”
Liền nói kệ:
Ngày xưa anh đang yên giấc ngủ
Tôi ăn hoa lành mùi ngon ngọt
Hoa kia gió thổi rớt bên tôi
Anh lại phát sinh tâm sân hận.
Nguyện chẳng muốn thấy kẻ ngu này
Cũng nguyện chẳng sống chung với họ
Sống chung người ngu không lợi ích
Người ngu tự hại, hại người khác.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Nếu các thầy có tâm nghi ngờ chim Ca-lâu-trà ăn hoa thơm thuở ấy là ai thì chớ nên nghĩ gì khác, tức là thân Ta vậy. Chim Ưu-ba-ca-lâu-trà ăn hoa độc thuở ấy là ai? Tức là Đề-bà-đạt-đa này vậy. Thuở ấy Ta làm việc lợi ích, Đề-bà-đạt-đa ngược lại sinh sân hận. Ngày nay cũng vậy, Ta dạy điều lợi ích, ngược lại oán thù Ta.
Khi Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca đã xuất gia rồi, ở trong ba tháng hạ thành tựu ba pháp thần thông, Ma-ni-lâu-đà chứng được Thiên
nhãn, Trưởng lão Bạt-phù-bà, Trưởng lão Nhân Kỳ, Trưởng lão Nan-đề-ca… những vị này đắc quả A-la-hán. A-nan lại chứng quả Tu-đà-hoàn, Đề-bà-đạt-đa chứng được thần thông phàm phu thế gian.
Khi Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca đắc quả A-la-hán, hoặc ở dưới gốc cây hay trong phòng vắng, hoặc ở nơi đất trống, hoặc ở trong vườn Kỳ-đà, ngày đêm ba thời thường xướng lên ba lần thế này: “Thật là an lạc!”
Lúc ấy các vị Tỳ-kheo đến bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca Kiều-cù-di không thích ở trong pháp Thế Tôn, không vui không mừng, luôn luôn nhớ đến thú vui phú quý khi còn vương vị. Vì thường nhớ nghĩ đến việc ấy nên hoặc ở dưới gốc cây, hoặc ồ trong phòng vắng, hoặc ở nơi đất trông, thường ba thời xướng lên ba lần: “Thật là an lạc!.”
Khi ấy Đức Phật gọi một Tỳ-kheo đến và bảo:
-Thầy đến đây. Hãy vì Ta, thầy đến gặp Tỳ-kheo Bà-đề-lợi-ca và nói rằng Thế Tôn cần gặp thầy.
Tỳ-kheo ấy bạch Phật:
-Y như lời Thế Tôn dạy, con xin vâng lời.
Đi đến chỗ Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca, vị ấy nói:
-Thưa Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca, Đức Thế Tôn gọi thầy đến.
Bà-đề-lợi-ca nghe nói như vậy, liền đi đến chỗ Đức Phật, đến nơi đảnh lễ rồi đứng lui về một bên.
Đức Phật bảo Bà-đề-lợi-ca:
-Này Bà-đề-lợi-ca, thầy không thích ở trong pháp của Ta tu phạm hạnh phải không? Thầy luôn luôn tưởng đến ngôi vua phải không? Vì tưởng nhớ như vậy nên hoặc ở dưới gốc cây, hoặc nơi phòng vắng, hoặc nơi đất trống, trong ba thời xướng lên thế này: “Thật là an lạc! Thật là an lạc!”, phải không?
Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca bạch Phật:
-Đúng vậy, bạch Thế Tôn. Đúng vậy, bạch Như Lai.
Đức Phật lại bảo:
-Thầy thấy lợi ích gì, hoặc ở dưới gốc cây… ba thời xướng lên: “Thật là an lạc! Thật là an lạc!”?
Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, khi xưa con ở tại cung vua, nhận lễ quán đảnh, lên làm vua trị vì, được bảy lớp tường thành bao bọc cung điện bảo vệ con, lại có bảy lớp tượng quân hộ vệ, lại có bảy lớp chiến mã, như vậy. Lại có quân xa, bộ binh, mỗi loại đều có bảy lớp, đều mặc áo giáp, tay cầm binh khí cung, tên, giáo, mác, mâu, thuẫn, chày kim cang lớn và gậy sắt lớn, khóa sắt, vòng sắt, chĩa ba, búa rìu… Bao nhiêu binh khí như vậy hộ vệ chung quanh con. Ngoài tường lại có bảy lớp hào nước. Giữ gìn như vậy, che chở như vậy, nhưng ban đêm nếu nghe tiếng động, con vẫn hồi hộp không yên, toàn thân dựng chân lông, thường sinh hổ thẹn, các căn biến động.
Bạch Đức Thế Tôn, ngày nay hoặc con ở dưới gốc cây, hoặc trong phòng vắng, hoặc nơi đất trống, ban đêm nghe bao tiếng thú dữ, con không còn sợ sệt, thân không dựng chân lông, không có hổ thẹn, các căn không biến động. Do vậy, con thường tư duy, nghĩ thế này: “Ta đã được điều lợi ích lớn! Ngày nay Thế Tôn là Bậc Đạo Sư của ta, thuyết các pháp mà Ngài đã được giác ngộ, ở trong pháp ấy ta được xuất gia, tu hành phạm hạnh, có nhiều cấm giới hộ trì ta để trở thành bậc diệu hạnh. Ta đang được đời sống tốt đẹp, khi qua đời cũng tốt đẹp.”
Bạch Đức Thế Tôn, con đem sự sung sướng giàu sang thuở xưa nơi vương vị, so với sự an lạc xuất gia ngày hôm nay như cái vui ngồi chỗ vắng, cái vui giác quán, cái vui tịch tịnh, những cái vui của bậc Sa-môn… do con nghĩ đến những cái vui này nên khi đang ở dưới gốc cây, hoặc trong phòng vắng, hoặc nơi đất trống, tri túc thiểu dục, đi khất thực, mà thân không sợ hãi dựng chân lông, giống như nai rừng tâm được tự tại, đi đứng nằm ngồi không bị chướng ngại. Cho nên ba thời thường reo lên ba lần: “Thật là an lạc!.”
Lúc bấy giờ, Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca ở trước Đức Phật vì đại chúng mà nói kệ:
Thâm cung ngày xưa tôi đang ngự
Bảy lớp tường thành cao chót vót
Lầu canh đuổi giặc thật vững bền
Thành lũy bao quanh đến bảy lớp
Quân sĩ luôn luôn cầm khí giới
Suốt cả ngày đêm hộ vệ tôi
Nhiều cách như vậy để phòng thủ
Nhưng thân tâm vẫn sợ chẳng an.
Ngày nay tôi sống với Thế Tôn
Không có một người theo hộ vệ
Cho đến sống nơi thật hoang vắng
Hoặc dưới gốc cây trong rừng núi
Tôi: Ba-đề-ca, đệ tử Phật
Mọi người cùng nhau đồng che chở
Đi đứng nằm ngồi thường an lạc
Do vậy tâm không còn lo nghĩ.
Tôi xưa trong cung cỡi voi chúa
Thân mặc y phục lụa tuyệt vời
Ăn uống canh cơm đồ ngon ngọt
Canh cháo hòa với vị thịt ngon,
Tôi nay nằm ngồi tùy ý trải
Phấn tảo che thân nơi hoang vắng
Cắt ái từ bỏ gốc khổ đau
Muốn làm việc gì đều tùy ý.
Khi ấy vì việc này Đức Thế Tôn nói kệ:
Biết thân mạng, không lo khi sống
Cũng không buồn khi mạng lâm chung
Người nào dũng mãnh thấy chân đế
Tuy trong biển khổ nào có sợ.
Tỳ-kheo nào đã đoạn hữu ái
Thì đoạn trừ hết tất cả trần
Phiền não sinh tử đều diệt sạch
Như vậy không luân hồi đời sau.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người giàu sang quyền quý nhất xuất gia, đó là Tỳ-kheo Bà-đề-lợi-ca này.
Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca này ngày trước tạo thiện nghiệp gì, nay sinh trong nhà đại hào quý họ Thích, được nhiều của cải, sản nghiệp không thiếu? Tạo nghiệp gì được thừa kế lên ngôi vua họ Thích? Tạo nghiệp gì được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán? Được Thế Tôn ghi nhận: “Này các Tỳ-kheo, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, xả bỏ sự hào quý danh vọng đi xuất gia, thì Bà-đề-lợi-ca là người đệ nhất”?
Bấy giờ Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta nhớ thuở quá khứ, có một người nghèo cùng đi ăn xin để sống. Người này từ một thành nọ đi đến thành Ba-la-nại. Khi đến nơi, những ăn mày ở nơi đây đều quở trách tên ăn mày đó: “Ngươi từ đâu đến đây? Ta ngăn cấm ngươi không được đi ăn xin.” Bấy giờ người ăn mày này thấy có sự trở ngại nên suy nghĩ: “Ta với bọn họ không tội lỗi gì, tại sao họ ngăn cấm không cho ta đi xin?.”
Thuở ấy, tại thành Ba-la-nại có một vị trưởng giả mất một cái bát bằng đồng, nên ông ta đi tìm kiếm. Tìm tại nơi đây không có, ông mới đi đến các thôn khác tìm bát đồng.
Khi ấy người ăn mày kia lượm được bát đồng nơi đống phân, treo bát trên đầu cây gậy, đi vào thành Ba-la-nại, đi từ đường phố này đến đường phố nọ, đi từ đường hẻm nọ đến đường hẻm kia, từ ngã tư đường hẻm này đến ngã tư đường hẻm kia, từ góc đường này đến góc đường nọ, miệng rao lên: “Bát đồng này là vật của ai? Ai là người chủ, xin nhận lãnh!”
Người ăn mày đi khắp đó đây để tìm người chủ, nhưng rốt cuộc không tìm ra chủ nó nên đến giao cho vua Phạm Đức. Sau đó, trưởng giả mới nghe: “Có người lượm được bát đồng từ nơi đống phân, treo bát trên đầu gậy đi vào thành Ba-la-nại, từ đường phố này đến đường phố kia, từ đường hẻm kia đến đường hẻm nọ và miệng rao lên: Bát đồng này của ai?… Đi khắp mọi nơi không biết chủ nó ở đâu. Vì không tìm được người chủ nên họ đến giao cho vua Phạm Đức.”
Trưởng giả nghe như vậy, đến gặp vua Phạm Đức và tâu: “Đại vương biết cho! Bát đồng mà trước đây tên ăn mày dâng cho Đại vương là chiếc bát của tôi.”
Lúc ấy vua Phạm Đức cho sứ giả đi gọi tên ăn mày đến, nhà vua hỏi: “Chiếc bát trước kia người mang đến đây, nay trưởng giả này nói là của trưởng giả. Việc ấy như thế nào?”
Người ăn mày tâu vua Phạm Đức: “Như thế này, thưa Đại vương, tôi không biết bát đồng này là vật sở hữu của ai. Nó ở nơi
đống phân, tôi lượm được rồi treo trên đầu cây gậy, đi vào thành Ba-la-nại này, đi khắp đó đây hỏi không biết chủ của nó ở đâu. Do không biết chủ, nên tôi mới đem dâng cho Đại vương. Nay tùy ý Đại vương sử dụng.
Bấy giờ vua Phạm Đức nghe nói như vậy, rất vui mừng, trao bát đồng lại cho trưởng giả và nói với người ăn mày: “Này nhân giả, đối với ta, người muốn cầu mong những gì ta sẽ ban cho người.”
Người ăn mày tâu vua Phạm Đức: “Tâu Đại vương, nếu ngày nay Đại vương thật sự hoan hỷ đáp ứng nguyện vọng của tôi thì xin Đại vương cho tôi làm chúa trong đám ăn mày nơi thành Ba-la-nại này.”
Vua Phạm Đức lại nói: “Ngày nay, ngươi xin làm chúa đám ăn mày đó làm gì! Nên xin các điều ước muốn khác hoặc là vàng bạc, hoặc xin phong ấp một thôn trù phú nhất nước ta… ta sẽ ban ngay cho người.”
Người ăn mày lại tâu: “Tâu Đại vương, nếu Đại vương hoan hỷ xin ban cho tôi được ước nguyện đó, tôi chỉ muốn được như thế thôi” Nhà vua liền phán: “Theo ý ông muốn, ta chấp thuận.”
Bấy giờ tại thành Ba-la-nại tổng cộng có năm trăm người ăn mày. Người ăn mày được ước nguyện ấy tập họp tất cả các ăn mày và tuyên bố: “Ta được Đại vương cho làm chúa các ngươi, các ngươi phải nghe lệnh ta phân xử.”
Năm trăm ăn mày hỏi người ăn mày chúa: “Nay chúa phân chia chúng tôi làm những gì?”
Người ăn mày chúa phán: “Các ngươi phải cùng nhau khiêng ta trên vai, hoặc đặt ta trên lưng mà cõng đi, còn bao nhiêu hầu hạ chung quanh hai bên mà đi.”
Bọn ăn mày năm trăm người nghe nói như vậy, liền theo sự xử phân đó: Hoặc người kiệu trên vai, hoặc người cõng trên lưng, du hành khắp đó đây. Đến xin những nơi có đồ ngồi, đồ nằm, thức ăn uống… rồi đem về một chỗ, vị ăn mày chúa phân chia rồi cùng nhau đồng sử dụng. Sự sinh hoạt như vậy, sống qua thời gian khá lâu.
Hôm nọ, có một người ngồi chỗ vắng, ăn Ma-hồ-trà-ca (nhà Tùy dịch là Hoan hỷ hoàn). Lúc ấy tên ăn mày chúa cướp lấy thức ăn Ma-hồ-trà-ca của người này rồi bỏ chạy, năm trăm ăn mày đồ chúng đồng đuổi theo ăn mày chúa. Chạy được quảng đường xa, mọi người đều mỏi mệt. Do vì mỏi mệt nên họ đều trở về, còn tên ăn mày chúa thân thể sức lực tráng kiện nên chạy mà không mệt. Chạy đến chỗ xa, xoay đầu nhìn lại không thấy năm trăm ăn mày. Thấy vậy người này đi vào một khu rừng, dùng nước rửa tay, ngồi bên mé bờ, ý sắp ăn Ma-hồ-trà-ca. Nhưng khi sắp ăn, anh ta hối hận: “Ta chẳng tốt, Ta vì cớ gì đoạt thức ăn của người khác, đoạt được rồi lại giấu đám tùy tùng của ta. Đồ ăn đã nhiều, ta ăn không hết. Nếu trong thế gian có các Thánh nhân, xin rõ được lòng tôi mà đến đây, tôi sẽ phân cho thức ăn này.”
Phát tâm như vậy rồi, có một vị Bích-chi-phật tên là Thiện Hiền, từ hư không bay đến, hạ xuống đứng trước mặt ăn mày chúa, cách người này chẳng bao xa. Ăn mày chúa từ xa trông thấy vị Bích-chi-phật oai nghi chậm rãi, bước đi chững chạc, cử chỉ đúng phép, không gấp không hoãn. Thây vậy rồi, anh ta đối với vị Bích-chi-phật sinh tâm tịnh tín. Đã được lòng tin thanh tịnh rồi, người này suy nghĩ: “Ở trong quá khứ và cho đến hiện tại, ta chịu cảnh nghèo hèn đều do không gặp được ruộng phước như thế. Ta chưa từng biết cung kính cúng dường người như vậy. Giả sử trong quá khứ ta đã gặp được ruộng phước như vậy thì ngày nay lẽ ra không gặp cảnh khốn khổ này, lẽ ra không sống dưới sự áp bức. Ta nay đem thức ăn Ma-hồ-trà-ca dâng cho vị Tiên nhân này, không biết Tiên nhân có nhận lấy hay không? Nếu được người nhận lấy thì nguyện ở đời vị lai ta thoát khỏi thân khốn ách bần tiện này.” Nghĩ như vậy rồi, anh ta đem Ma-hồ-trà-ca dâng cho Tiên nhân.
Bích-chi-phật chỉ có một pháp duy nhất là hiện thần thông làm phương tiện giáo hóa chúng sinh, ngoài ra không có pháp nào khác. Vị Bích-chi-phật nhận thức ăn Ma-hồ-trà-ca rồi, vì thương mến người này, từ đây bay vọt lên hư không mà đi.
Người ăn mày chúa thấy vị Bích-chi-phật bay đi trong hư không như vậy, vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế. Do hoan hỷ nên anh ta chắp tay trên đầu, từ xa lễ dưới chân Tôn giả Bích-chi-phật, rồi phát nguyện: “Nguyện thân ta ở đời vị lai gặp được Bậc Thế Tôn như vậy, hoặc hơn thế nữa, với bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi nguyện khi nghe qua rồi liền được tỏ ngộ. Lại nguyện rằng ta ở đời vị lai sinh trong nhà hào tộc, có đại oai đức, làm vua trị hóa dân chúng, chớ sinh trở lại trong đám ăn mày khổ sở. Lại nguyện rằng đời đời kiếp kiếp không sinh vào các đường ác.”
Đức Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nếu có ai nghi ngờ tên ăn mày chúa ở thành Ba-la-nại cúng dường Ma-hồ-trà-ca cho vị Bích-chi-phật thuở nọ là người nào thì chớ nghĩ gì khác, đó là Tỳ-kheo Bà-đề-lợi-ca này vậy. Khi xưa tên ăn mày chúa cúng dường Ma-hồ-trà-ca cho vị Bích-chi-phật, do nhân duyên đó nên ngày nay được phước báo sinh trong dòng họ Thích, một đại hào quý tộc, cho đến của cải không thiếu một vật gì.
Lại thuở đó, tên ăn mày phát nguyện: “Ở đời vị lai được sinh trong hào tộc đại oai đức, làm vua trị hóa dân chúng.” Do nghiệp nhân đó, nay được phước báo sinh trong nhà họ Thích, nhận lãnh ngôi vua.
Lại thuở ấy tên ăn mày chúa lại nguyện: “Vào thời vị lai, đời đời kiếp kiếp không đọa vào các đường ác, thường được lưu chuyển qua lại trong cõi trời người, hưởng nhiều diệu lạc.”
Lại thuở ấy tên ăn mày chúa lại nguyện: “Ở đời vị lai thường gặp được vị Bích-chi-phật Thế Tôn như vậy, hoặc là hơn thế nữa, những giáo pháp Thế Tôn nói ra, tôi nguyện nghe qua liền tỏ ngộ.” Do nhân duyên ấy, ngày nay được phước báo gặp Ta, được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán. Ta lại ghi nhận: Trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người hào quý nhất xuất gia, đó là Tỳ-kheo Bà- đề-lợi-ca.
Này các Tỳ-kheo, Bà-đề-lợi-ca xưa tạo các nhân duyên thiện căn như vậy, do nhân duyên thiện căn ấy nên nay sinh trong nhà họ Thích, thuộc chủng tộc hào quý, hết sức giàu sang, cho đến của cải không thiếu hụt, ở trong dòng họ Thích được nối ngôi vua, mà xả bỏ ngôi vua đi xuất gia, thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán. Cho nên Ta ghi nhận: ở trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, kẻ thuộc dòng họ hào quý xuất gia thì Bà-đề-lợi-ca là người bậc nhất.
Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca-sau khi chứng quả A-la-hán, thường ở chỗ vắng vẻ, đi khất thực để sống, đắp y phấn tảo, thường ngồi không nằm, ngồi nơi thuận tiện, chỉ giữ ba y, lại không cất chứa vật gì khác.
Một lúc nọ, Trưởng lão ở chỗ vắng vẻ trong rừng cây thuộc thành Xá-bà-đề. Trưởng lão tìm cỏ và lá cây nhưng không có nên lượm phân khô của bạch tượng, nhóm lại làm chỗ ngồi. Trưởng lão ngồi kiết già trên đống phân voi, thân thể ngay ngắn, nhiếp tâm chánh niệm trải qua một đêm.
Sáng sớm hôm sau, Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca đắp y, mang bình bát, sắp vào thành Xá-bà-đề khất thực. Bấy giờ trong thành này có nhiều ăn mày xin được đồ ăn xong, nên đi ra khỏi thành chẳng bao xa, mỗi người sắp ăn thức ăn của mình vừa mới xin được.
Lúc ấy Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca từ xa trông thấy các người ăn mày, sau khi xin thức ăn xong, rời khỏi thành chẳng bao xa, mỗi người ngồi mỗi chỗ sắp sửa ăn. Trưởng lão đến bên những người này đứng yên lặng.
Bấy giờ tất cả ăn mày suy nghĩ: “Vị Tỳ-kheo này cố ý thương mến chúng ta, cho nên đến đây khất thực.” Nghĩ như vậy rồi, mỗi người tự giảm bớt một ít phần ăn của mình để cúng dường Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca.
Bấy giờ vua Ba-tư-na, nước Kiều-tát-la cỡi con bạch tượng tên là Nhất-phân-đà-lợi ra đi từ thành Xá-bà-đề cùng với một đại thần tên Thi-lợi-bạt-đà (nhà Tùy dịch là Bĩ Hiền), khi ấy vua Ba-tư-na nước Kiều-tát-la xa xa trông thấy Bà-đề-lợi-ca khất thực nơi những người ăn mày để ăn, liền nói với đại thần Thi-lợi-bạt-đà:
-Này Thi-lợi-bạt-đà, đây là Tỳ-kheo nào mà xin thức ăn từ đám ăn mày để ăn như vậy?
Bấy giờ vị đại thần quán sát thấy rõ là Tỳ-kheo Bà-đề-lợi-ca, biết chắc chắn không sai, nên tâu vua:
-Tâu Đại vương, xin ngài biết cho, đây là Tỳ-kheo Thích Bà-đề-lợi-ca.
Nhà vua bảo vị đại thần:
-Nếu quả thật như vậy, khanh đánh bạch tượng đến chỗ Bà-đề-lợi-ca.
Đại thần Thi-lợi-bạt-đà nghe vua truyện lệnh, tâu:
-Y như lời Đại vương dạy, xin vâng lệnh.
Nhận lệnh rồi, vị đại thần đánh bạch tượng chở vua đến chỗ Bà-đề-lợi-ca. Khi vua Ba-tư-na nước Kiều-tát-la đến gần Bà-đề-lợi- ca, liền xuống voi, đảnh lễ dưới chân Trưởng lão, rồi đứng lui về một bên. Vua Ba-tư-na nước Kiều-tát-la thưa Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca:
-Thánh giả, ngày nay vì lý do gì có ý bần tiện, xin thức ăn ở nơi những kẻ ăn mày để ăn như vậy.
Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca nói với vua Ba-tư-na Kiều-tát-la:
-Này Đại vương, tôi không phải bần cùng mà theo họ xin ăn. Tôi có bảy món của báu, ý tôi muốn theo những người nghèo đó xin ăn để cho họ được thoát cảnh bần cùng.
Đại vương phải biết, tôi đã có con mắt trí tuệ, chỉ vì muốn phá màn vô minh cho chúng sinh nên đến đó xin ăn để mở con mắt tuệ cho họ.
Lại nữa, này Đại vương, tôi đã thoát khỏi tất cả sự ràng buộc, chỉ vì chúng sinh bị tham dục, sân hận trói buộc nên tôi đến đó xin ăn để mở trói buộc cho họ.
Này Đại vương, nay tôi đã vượt đến bờ giải thoát, chỉ vì muốn cứu vớt chúng sinh chìm đắm trong vũng bùn lầy phiền não nên tôi đến đó xin ăn.
Lại nữa, này Đại vương, tôi nay đã đạt được đến chỗ không bệnh, chỉ vì muốn trị bệnh phiền não cho chúng sinh nên đến đó ăn xin.
Khi ấy vua Ba-tư-na nước Kiều-tát-la lại bạch Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca:
-Thưa Thánh giả, trẫm cũng bần cùng không có bảy thứ báu. Trẫm cũng tối tăm, sống trong hắc ám. Trẫm cũng bị chìm đắm trong vũng bùn lầy phiền não. Trẫm nay cũng bị bệnh tham dục. Cúi xin Thánh giả thương mến thường đến nội cung của trẫm.
Bấy giờ Trưởng lão Bà-đề-lợi-ca nói với vua Ba-tư-na Kiều-tát-la:
-Này Đại vương, Đại vương chẳng cần làm như vậy.
Nói như vậy rồi, Trưởng lão từ giã nhà vua mà đi.
***
Phẩm 59: MA-NI-LÂU-ĐÀ
Một hôm, Đức Thế Tôn vì hàng Tỳ-kheo mà diễn thuyết các pháp. Khi ấy Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà ngủ gục không biết nên Đức Phật quở trách Ma-ni-lâu-đà:
-Này Ma-ni-lâu-đà, tại sao thầy đối với giáo pháp này mà ngủ gục như vậy? Việc làm của thầy như vậy không tốt. Thầy đứng dậy, đừng ngủ nữa!
Từ đó về sau, Ma-ni-lâu-đà không ngủ. Vì trải qua thời gian lâu không ngủ nên cặp mắt bị mù, chỉ dùng Thiên nhãn thấy cảnh vật thế gian.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người phạm hạnh trên hết là Tỳ-kheo Ma-ni-lâu-đà.
Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà thường hay may vá y phục. Có đôi lúc năm ngón tay nắm tất cả năm cây kim.
Lại một hôm nọ, Trưởng lão Mục-kiền-liên đến nói với Ma-ni-lâu-đà:
-Nay Trưởng lão hãy cùng tôi du hành đây đó.
Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà đáp lời Trưởng lão Mục-kiền-liên:
-Xin Tôn giả nán lại, nán lại. Đợi tôi may y xong.
Trưởng lão Mục-kiền-liên lại nói với Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà:
-Nếu Trưởng lão dùng thần thông mà may thì y sẽ mau xong, nếu muốn dùng ý để mau thành thì nguyện mau thành.
Khi Ma-ni-lâu-đà may y này, sợi chỉ thoát khỏi lỗ kim, Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà tự nói một mình: “Ở trong thế gian có ai muốn làm công đức xỏ giùm sợi chỉ cho ta?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn ngồi thiền, nhiếp tâm một mình trong phòng, với Thiên nhĩ thanh tịnh nghe Ma-ni-lâu-đà nói như vậy. Ngài nghe rồi, giống như lực sĩ duỗi cánh tay, liền hiện đứng trước mặt Ma-ni-lâu-đà mà không hiện thân, lấy chỉ luồn kim. Lúc ấy Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà liền hỏi:
-Ai xỏ giùm chỉ cho ta vậy?
Đức Phật bảo:
-Này Ma-ni-lâu-đà, Ta xỏ giùm chỉ cho Trưởng lão.
Bấy giờ tất cả Tỳ-kheo truyền nhau nói: “Đức Thế Tôn xỏ chỉ giùm cho Ma-ni-lâu-đà.” Nghe rồi, mỗi người tự nghĩ: “Đức Thế Tôn còn vì người phạm hạnh giúp đỡ không ngừng, cớ gì chúng ta lại làm ngơ không giúp đỡ lẫn nhau?” Do vậy, từ đó về sau các Tỳ-kheo có ai làm việc gì, đều giúp đỡ cùng nhau.
Khi ấy các Tỳ-kheo vì nhân duyên này đi đến bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà ngày trước trồng thiện nghiệp gì, nay được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán? Được Thế Tôn ghi nhận: “Này các Tỳ-kheo, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người được Thiên nhãn thanh tịnh bậc nhất, đó là Tỳ-kheo Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà.”
Nghe các Tỳ-kheo bạch như vậy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: -Ta nhớ ở đời quá khứ lâu xa, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, có một Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Khi vì hàng Tỳ-kheo mà thuyết pháp, Đức Phật ấy tán thán các công đức của Thiên nhãn.
Thuở ấy, có một cư sĩ tên là Đại Tài đến dự hội. Khi nghe nói đến pháp này, vị ấy suy nghĩ: “Ta nay tuy không xin cha mẹ xuất gia, nhưng ta nay chỉ vì muốn đời tương lai được Thiên nhãn nên lúc này ta phải tạo các căn lành.”
Suy nghĩ như vậy rồi, Đại Tài sắm đầy đủ dầu mỡ được năm trăm đấu, cúng cho Đức Phật Nhiên Đăng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và phát nguyện: “Ta nguyện đời vị lai gặp được Đức Phật như thế này, giáo pháp của Ngài nói ra, ta đều mau chứng ngộ. Đối với hàng đệ tử Thanh văn có Thiên nhãn của Ngài, ta là người đệ nhất.”
Lại nguyện: “Đời đời kiếp kiếp không rơi vào các cõi ác.”
Bấy giờ Đức Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn bảo cư sĩ Đại Tài: “Ở đời vị lai có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni đầy đủ mười hiệu: Như Lai Thế Tôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác… ở trong hàng Thanh văn chứng Thiên nhãn của Ngài, người là đệ nhất.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, các thầy có tâm nghi ngờ cư sĩ Đại Tài vô cùng giàu có ở nơi Đức Phật Nhiên Đăng thuở ấy là ai không? Tức là Ma-ni-lâu-đà này vậy.
Bấy giờ Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ thời quá khứ lâu xa có tên giặc cướp, trong đêm tối đang đi trên đường hẻm, ý muốn đi ăn cướp, đi giữa đường dây giày bị đứt. Thuở ấy nơi đó có một tháp thờ xá-lợi Bích-chi-phật. Nơi tháp này, có một người phụng thờ, thắp đèn cúng dường cầu phước, mà dầu ngọn đèn sắp cạn. Tên giặc đến, thấy đèn sắp cạn dầu, vì để nối dây giày bị đứt nên đổ thêm mỡ vào đèn, dùng đầu mũi tên nhọn khêu tim, đèn sáng rực trở lại.
Bấy giờ tên giặc thấy đèn sáng tỏ, nối lại dây giày. Do ánh đèn chiếu sáng, thấy cạnh đó có ngôi tháp ấy nên tâm được thanh tịnh. Tâm được thanh tịnh rồi phát nguyện: “Tháp này của ai? Ta nguyện ở đời vị lai gặp được Thế Tôn bản thể của tháp này, hoặc hơn thế nữa. Với giáo pháp Thế Tôn nói ra, tôi nguyện nghe rồi mau tỏ ngộ. Trong hàng đệ tử Thanh văn của Thế Tôn, người chứng Thiên nhãn, tôi là trên hết.”
Lại nguyện: “Đời đời kiếp kiếp tôi không rơi vào các đường ác.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, tên ăn trộm thêm dầu ngọn đèn trước tháp Bích-chi-phật thuở ấy là ai? Chớ nên nghĩ gì khác, đó là Tỳ-kheo Ma-ni-lâu-đà này.
Ma-ni-lâu-đà thuở xưa là cư sĩ Đại Tài, kiếp sau lại làm tên ăn trộm, vì nhân duyên thêm dầu vào đèn tháp thờ Bích-chi-phật, với tâm thanh tịnh, phát nguyện: “Nguyện đời vị lai ta không rơi vào các đường ác, thường sinh trong cõi trời và người.” Nhờ nghiệp báo đó, sinh ra đời chưa từng ở trong cõi ác, thường được an lạc ở cõi trời người.
Lúc đó, vị ấy có nguyện: “Vào đời vị lai ta thường gặp Đức Thế Tôn như vậy hay hơn thế nữa. Bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi nguyện mau tỏ ngộ” Do nghiệp đó nên ngày nay được gặp Ta và xuất gia, thọ giới Cụ túc.
Lại thuở ấy phát nguyện: “Trong hàng đệ tử chứng Thiên nhãn của Thế Tôn ấy, ta là người đệ nhất.” Do nghiệp báo này nên ngày nay, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta chứng Thiên nhãn thì Ma-ni-lâu-đà là người đứng đầu.
Này các Tỳ-kheo, Ma-ni-lâu-đà ngày xưa do trồng các thiện căn như vậy nên nhờ phước báo đó ngày nay được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng quả A-la-hán. Này các Tỳ-kheo, Ta lại ghi nhận: ‘Trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta chứng Thiên nhãn thì Ma-ni-lâu-đà là người đứng đầu.”
Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại vườn Nai, là chỗ ở của các cựu Tiên nhân, thuộc thành Ba-la-nại. Gặp lúc trời đang mưa, Trưởng lão A-nan đến đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, rồi đứng lui về một bên, bạch:
-Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay trời mưa không đi khất thực được, nên làm cách gì để các Tỳ-kheo đỡ đói qua một ngày một đêm?
Đức Phật bảo A-nan:
-Thầy khỏi phải lo. Tỳ-kheo Ma-ni-lâu-đà hiện có phước lực rất lớn, hôm nay, Tỳ-kheo ấy có thể làm cho chúng Tăng khỏi đói qua một ngày một đêm.
Khi ấy Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà đến đảnh lễ Đức Phật, rồi đứng lui về một bên, bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận lễ mọn cúng dường của con. Nếu Ngài nhận lấy thức ăn của con thì có thể khiến đại chúng khỏi đói qua được một ngày một đêm.
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.
Vào sớm mai hôm ấy, Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà đắp y, mang bình bát đi đến thành Ba-la-nại, khi vừa vào thành chưa đi khất thực, lại cũng không gặp người quen cựu thân tình nào. Bỗng nhiên, lúc ấy có năm trăm bồn đựng đầy thức ăn hiện trước mặt Trưởng lão. Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà liền đưa năm trăm bồn thực phẩm về vườn Nai, sắp đặt trước các chỗ ngồi, trần thiết xong rồi, đi đến thỉnh Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, giờ ăn đã đến, thức ăn đã xong, cúi xin Ngài quang lâm thọ trai.
Khi ấy mặt trời còn ở phía Đông, Đức Thế Tôn mặc y mang bát cùng các Tỳ-kheo đồng đi đến trai đường, thấy thức ăn đã dọn sẵn, theo thứ lớp mà an tọa.
Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà thấy Thế Tôn và đại chúng theo thứ lớp an tọa xong, tuần tự bưng năm trăm bồn thức ăn, trước dâng cho Đức Phật, sau dâng cho đại chúng. Đức Phật và đại chúng ăn xong rồi, sau đó Ma-ni-lâu-đà mới ăn. Sau khi ăn rồi, Trưởng lão cùng các Tỳ-kheo đồng đến giảng đường, trải tòa mà ngồi.
Khi Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà ngồi xong, bạch các Tỳ-kheo: -Thưa chư vị Trưởng lão, thật hiếm có! Thật hiếm có! Chưa từng thấy việc như vậy. Có phước báo rất lớn, công đức rất lớn, oai đức rất lớn như vậy là do đâu?
Thưa chư Trưởng lão, tôi nhớ thuở quá khứ lâu xa, tại thành Ba-la-nại này có một người bần cùng, không có của cải kho chứa. Nơi thành này có một vị Bích-chi-phật tên là Ba-tư-tra. Thành ấy lúc đó gặp thời kỳ lúa gạo rất quý, phần nhiều dân chúng đói khát, thiếu hụt. Trong thành ngoài thành có nhiều người chết đói, xương trắng ngổn ngang khắp nơi. Lúc ấy các vị xuất gia không thể khất thực được. Do bị đói khát bức xúc nên họ không thể tu tập.
Hôm nọ, mặt trời còn ở phương Đông, vị Bích-chi-phật Ba-tư-tra đắp y, mang bình bát, vào thành Ba-la-nại theo thứ lớp khất thực, qua khắp các nhà trong thành mà không khất thực được, trở ra khỏi thành mà bát vẫn không có gì.
Bấy giờ tôi thấy Tôn giả Bích-chi-phật Ba-tư-tra, liền đến bên Ngài thưa: “Lành thay! Thưa Đại tiên, nơi đây Ngài có khất thực được không?”
Tôn giả trả lời: “Thưa nhân giả, hôm nay tôi không khất thực được.”
Bấy giờ tôi lại bạch: “Thưa Tôn giả, nếu như vậy, xin ngài đến nhà con, hiện giờ trong nhà con có một phần cơm nấu bằng lúa ty.”
Tôi liền mời Tôn giả Bích-chi-phật về nhà rồi vào nhà lấy cơm ty dâng cúng cho Ngài. Khi vị Bích-chi-phật nhận sự cúng dường rồi tùy ý ra về. Bấy giờ tôi ra khỏi thành để kiếm củi. Nơi tôi kiếm củi cách rừng tha ma chẳng bao xa. Trong khi lấy củi, nơi bãi tha ma có một bộ xương trắng, bỗng nhiên đứng dậy, đi đến ôm lấy cổ tôi. Tôi cố gắng hết sức gỡ bộ xương, mãi đến chiều tối mà không được. Khi mặt trời sắp lặn, tôi đành mang bộ xương vào thành. Dân chúng thấy vậy nên họ bảo tôi: “Quái lạ! Người này mang xương người chết vào thành làm gì?”
Tôi đáp: “Này các anh, tôi nay cố gắng hết sức gỡ bộ xương mà rốt cuộc không được. Nếu các anh có khả năng, xin gỡ giùm tôi.”
Khi ấy các người này xúm nhau nắm lấy bộ xương dùng hết sức hy vọng sẽ gỡ được, nhưng cũng không ra.
Bấy giờ, tôi lần lần vào trong nhà với ý định sẽ gỡ được xương trắng tử thi. Ngay lúc đó, xương trắng đều biến thành vàng, tự nhiên rơi xuống đất. Tôi thầm nghĩ: “Riêng ta không nên dùng vàng này.” Nghĩ vậy rồi, tôi liền đi đến vua Phạm Đức tâu: “Đại vương biết cho, ngày nay chỗ đất nhà hạ thần có kho vàng, xin nhà vua thâu nhận sung vào của báu nhà vua.”
Vua Phạm Đức đòi các quan tả hữu đến phán: “Các khanh phải đi theo người này và người này sẽ chỉ cho kho vàng. Các khanh phải nhận lấy đem về đây.”
Khi ấy quan tả hữu nhận sắc lệnh nhà vua, lập tức họ theo tôi về nhà. Tôi liền chỉ vàng cho sứ giả. Sứ giả lại thấy toàn xương trắng người chết. Họ thấy vậy, nói với tôi: “Quái lạ! Này người ngu si, ông có phải là kẻ điên cuồng không? Cớ gì cho xương trắng của người chết là vàng?” Sứ giả trở về tâu đầy đủ sự việc lên nhà vua.
Vào một lúc sau, tôi lại đến tâu nhà vua: “Đại vương phải biết, hạ thần được kho vàng, sự thật không có nói dối. Cúi xin Đại vương sớm thâu nhận.”
Lúc ấy, vua Phạm Đức đích thân đến nhà tôi để quán sát kho vàng thì lúc ấy vàng cũng biến thành xương trắng như trước. Nhà vua lại bảo tôi: “Quái lạ! Này kẻ ngu si, ông mắc bệnh điên chăng? Cớ gì ông cho xương trắng là vàng?”
Tôi lại thưa vua Phạm Đức: “Đại vương phải biết, đây là vàng thật, không phải là xương người chết.”
Tôi nói vậy đến hai lần, rồi lúc ấy tay tôi cầm vàng phát lời thề: “Nếu vàng quý này vì ta đến đây là do phước báo thiện nghiệp, xin cho vua Phạm Đức cũng thấy như vậy.” Phát lời thề rồi, thì nhà vua liền thấy xương người chết biến thành vàng, như tôi thấy vàng quý không khác.
Đại vương Phạm Đức liền nói với tôi: “Lành thay! Này nhân giả, người do tạo phước nghiệp gì? Hay đã thờ vị thần nào? Hay là cúng dường cho vị Thiên thần nào? Hay đã cúng dường vị Tiên nhân nào mà có thể cho người toại nguyện như vậy?”
Bấy giờ tôi thưa vua Phạm Đức: “Đại vương biết cho, hạ thần đã từng cúng dường thức ăn cho một vị Tiên nhân, chắc có lẽ do thần lực của vị Tiên nhân này khiến ngày nay hạ thần được phước báo như thế.”
Vua Phạm Đức lại nói với tôi: “Nhân giả đã tạo thiện nghiệp như vậy nên ngày nay được phước báo này. Đây là phước báo của nhân giả, người khác không thể đoạt được. Nhân giả không nên phân vân, tùy ý sử dụng.”
Thưa chư vị Trưởng lão, thuở ấy, tôi nhờ cúng dường vị Bích-chi-phật một bữa ăn nên trong đời ấy được phước báo nhu cầu của cải tùy ý được đầy đủ.
Do cúng dường một bữa ăn mà bảy lần sinh lên cõi trời Ba mươi ba. Nơi đây, tôi thọ phước báo làm vua Đế Thích. Sau đó, tôi sinh trong nhân gian làm vị Quốc vương và sau lại làm Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ, làm chủ thế giới, hộ trì thế gian, đầy đủ bảy báu, cho đến chinh phục giặc thù, y như pháp trị hóa muôn dân.
Do phước báo cúng dường một bữa ăn, sau khi qua đời, tôi sinh lên trời, rồi từ trời giáng xuống nhân gian, từ nhân gian qua đời lại sinh lên trời. Cứ như vậy, tôi lưu chuyển lên xuống, không sinh vào các cõi khổ khác. Chỗ tôi sinh ra, cung điện đều được tốt đẹp vô cùng. Nếu tôi sinh trong nhân gian thì sinh trong nhà hào quý, của cải dẫy đầy, cho đến tất cả nhu cầu không thiếu hụt. Nếu tôi sinh làm chư Thiên, thì thân hưởng thọ nhiều khoái lạc, sinh xuống nhân gian cũng như vậy.
Do nhân duyên cúng dường một bữa ăn nên nay tôi được phước báo sinh trong nhà họ Thích. Ngày sinh nhật của tôi, chư Thiên giáng hạ, đem năm trăm y phục trời quý báu đắp trên thân tôi. Dưới đất lại có năm trăm kho tàng tự nhiên xuất hiện… đều do quả báo của sự cúng dường một bữa ăn. Vì tôi mà cha mẹ tôi đã cho xây ba cung điện, tòa thứ nhất nghỉ vào mùa hạ, tòa thứ hai nghỉ vào mùa đông và tòa thứ ba nghỉ vào mùa xuân thu.
Do nhân duyên cúng dường một bữa ăn, ngày nay tôi được phước báo sinh trong nhà họ Thích. Các kho lúa gạo trong nhà tôi lúc bấy giờ dần dần mỗi ngày thêm tràn ngập. Các thứ ngọc chân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, vàng, bạc… vô lượng trân bảo, người và vật, không có gì thiếu hụt.
Lại do nhân duyên cúng dường một bữa ăn thuở ấy, ngày nay được phước báo. Một hôm, tôi ở hoa viên, mẹ tôi muốn thử tôi nên bày biện các bát dĩa không trên mâm, rồi dùng khăn phủ kín, sai người bưng đến cho tôi. Trên đường đi, chư Thiên đem các thức ăn uống rất thơm ngon, đầy đủ chất bổ dưỡng đặt đầy trong bát.
Lại cũng do sức phước báo cúng dường đó, một hôm tôi theo cha tôi kiểm tra công việc đồng áng. Khi ấy tôi khát nước, đi đến dòng suối múc nước, sắp uống thì nước ấy biến thành cam lộ diệu vị của chư Thiên.
Lại do nhân duyên cúng dường bữa ăn đó, nay phước báo thành thục, đi vào thành Ba-la-nại, chưa từng quen biết một ai, tự nhiên có năm trăm bồn thức ăn hiện đến trước mặt. Tôi nhận lãnh thức ăn này và mang về tòng lâm, thỉnh Đức Phật và chư Tăng cúng dường, làm cho Đức Phật và đại chúng đều được no nê.
Nhờ phước báo cúng dường một bữa ăn, ngày nay đối với bốn sự nhu cầu tôi không thiếu hụt. Phước báo do nhân duyên cúng dường bữa ăn, đối với dục lạc ở đời tôi cũng không thiếu. Nay xuất gia, đối với niềm vui xuất gia tôi cũng đều đầy đủ.
Lại do phước báo cúng dường một bữa ăn, nay đoạn sinh tử, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân đời sau, đạt đến chỗ vô úy, ngay trong đời này, chứng nhập Niết-bàn. Sau khi vào Niết-bàn rồi, tự nhiên chứng biết, không còn khổ vui.
Thưa chư Trưởng lão, thuở ấy tôi không biết vị tiên ấy là Tôn giả Bích-chi-phật. Nếu tôi biết Bích-chi-phật một cách rõ ràng, thì ngay khi ấy tôi cầu quả thù thắng, cầu đại uy đức, sẽ cầu quả vô thượng quảng đại.
Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà tóm tắt sự việc trên qua bài kệ:
Tôi tự suy nghĩ nhớ thuở xưa
Đang sống tại thành Ba-la-nại
Làm nghề bán củi sống qua ngày
Gặp được Tôn giả Bà-tư-tra
Thấy rồi cúng dường một bữa ăn
Nên sinh họ Thích nhà hào quý.
Ma-ni-lâu-đà tức tên tôi
Ca hát, vũ thuật đều tài giỏi
Đánh phách, phúng tụng và ca ngâm
Cho đến tất cả các kỹ thuật.
Tôi nay tự biết đời quá khứ
Cho đến thuở trước sinh ở đâu
Sinh lên cõi trời ba mươi ba
Lên xuống nơi đây đến bảy lần.
Nơi đây có lần làm Đế Thích
Sống trong cung trời rất tự tại
Tất cả đều theo lệnh của tôi
Như vậy trị hóa hàng thiên chúng.
Làm vua nhân gian đến bảy lần
Làm lễ quán đảnh lên ngôi vua
Quyền lực sức mạnh thu phục người
Không dùng vũ lực cùng binh khí
Như pháp trị hóa khắp mặt đất
Có nhiều trân bảo số vô lượng,
Quốc độ của tôi đều giàu có
Sinh ra trong nhà đại cự phú
Của cải tăng thêm không kể xiết
Đối với mọi người, tôi bậc nhất,
Ngũ dục thế gian đều đầy đủ
Ngọc quý bảy báu không thiếu gì
Đều do tôi tạo nghiệp như vậy.
Chưa từng sinh vào ba đường ác
Nay thuộc họ Thích được xuất gia
Được pháp cam lộ ba giải thoát.
Tôi lại nhờ đâu được xuất gia?
Xả bỏ gia nghiệp đến nơi đây
Chính vì tôi được lợi ích ấy
Nên đến đền đáp ân Đức Phật.
Thế Tôn biết tôi đã thuần thục
Vì tôi diễn thuyết pháp vô thường
Nếu tôi nghĩ đến thân huyễn hóa
Phật dùng thần thông đến chỗ tôi.
Tâm tôi nếu có điều nghi hoặc
Như vậy thật giải nghi cho tôi
Pháp Phật nói ra không phân biệt.
Nói pháp vì tôi không phân biệt
Tôi nay nghe được lời chân thật
Yêu thích chánh pháp mà thọ trì
Như vậy liền được ba giải thoát
Tức là kính đền ân chư Phật.
Tôi chẳng muốn mạng sống chấm dứt
Cũng không muốn tuổi thọ kéo dài
Tuổi thọ của tôi đến lúc hết
Chánh niệm tư duy xả thọ mạng.
Tôi biết sinh tử đời vị lai
Chúng sinh qua lại tôi cũng biết
Đã biết nơi đây qua đời rồi
Cũng biết chỗ đến của chúng sinh
Thành Tỳ-xá-ly nơi rừng Trúc
Tôi ở Trúc lâm xả thọ mạng
Ở trong rừng ấy, nơi rậm rạp
Xả thân hữu lậu vào Niết-bàn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh hơn loài người, nghe Trưởng lão Ma-ni-lâu-đà nói nhân duyên tạo nghiệp trong quá khứ, nên ngày nay được phước báo như vậy, rồi lại dùng diệu kệ mà trình bày. Nghe như vậy rồi, Ngài hân hoan ca ngợi.
***
Phẩm 60: NHÂN DUYÊN CỦA A-NAN
Một hôm, các vị Đại đức phạm hạnh thỉnh Trưởng lão A-nan làm thị giả cho Đức Phật. Từ ấy về sau, Trưởng lão A-nan đem hết tâm lực của mình làm vừa ý Như Lai. Những gì Như Lai nói ra, Trưởng lão đều ghi nhớ. Những việc thế gian hay xuất thế gian, khi được nghe Đức Phật nói ra, Trưởng lão đều ghi nhớ vào lòng không quên. Nếu có ai đến hỏi chỗ nghi ngờ, cũng đều giải thích, khiến tâm họ được hoan hỷ.
Do vậy, Đức Thế Tôn họp chúng, tuyên bố với các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, trong số thị giả hàng Thanh văn đệ tử của Ta, người có Trí tuệ đa văn, đó là Tỳ-kheo A-nan này vậy.
Khi ấy các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn, Trưởng lão A-nan ở trong quá khứ đã trồng thiện căn gì, mà nay nhờ thiện căn đó được sinh trong nhà đại hào tộc họ Thích, rất nhiều của cải, có nhiều thế lực, cho đến tất cả nhu cầu không thiếu một thứ gì? Do thiện nghiệp gì ngày nay được xuất gia thọ giới Cụ túc, được các Thánh pháp, khi nghe Thế Tôn nói những pháp thế gian hoặc xuất thế gian, nhớ mãi không quên? Có ai đến hỏi chỗ nghi ngờ, Trưởng lão cũng giải đáp khiến tâm họ được hoan hỷ. Được Thế Tôn ghi nhận: “Này các Tỳ-kheo, các thầy phải biết, trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người có trí tuệ đa văn nhớ mãi không quên đệ nhất, đó là Tỳ-kheo A-nan này vậy.
Nghe các Tỳ-kheo hỏi như vậy, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ trong thời quá khứ xa xưa, cũng nơi thành Ba-la-nại này, có vị vua trị vì tên Phạm Đức. Nhà vua có hai vương tử, người thứ nhất tên Hỷ Căn, người thứ hai tên Bà-nô (nhà Tùy dịch là Nguyệt).
Trong hai người này, Hỷ Căn là vương tử lớn, bản tánh hiền lành điềm đạm, chất trực nhu hòa, từ tâm quảng đại, biết sợ tội lỗi, xa lìa ái dục. Vương tử Hỷ Căn thấy cảnh phép vua trị tội trong thành, quan lại gây khổ não giết hại, nhiều cảnh trói buộc giam cầm như gông cùm, xiềng xích, nhà giam, hầm nhốt rất kiên cố, chặt đứt tay chân, xẻo tai, xẻo mũi, móc mắt… Vương tử thấy vậy liền suy nghĩ: “Khi phụ vương ta trăm tuổi, băng hà rồi, ta làm sao trị vì? Ta biết dùng vương vị như thế này để làm việc gì? Thân mạng ta cũng không biết dùng làm việc gì? Vì sao vậy? Ta đã thấy tất cả chúng sinh bị bao nhiêu khổ não bức xúc thân thể. Như vậy ngày nay tốt nhất là xuất gia tu đạo.” Nghĩ như vậy rồi, chàng đi đến thưa với phụ vương và mẫu hậu: “Kính thưa cha mẹ, con muốn xả tục xuất gia học đạo.”
Bấy giờ phụ vương và mẫu hậu nói với vương tử: “Con là đứa con yêu dấu của cha mẹ, tâm ý cha mẹ luôn luôn nghĩ đến con, mắt nhìn hoài không biết chán. Cha mẹ thà chịu chết chứ không thể xa con, hễ cha mẹ còn sống ngày nào thì nhất định không cho con xuất gia.” Nói lời như vậy đôi ba lần, vương tử Hỷ Căn thưa phụ vương và mẫu hậu: “Kính thưa cha mẹ biết cho, ngày nay con quyết định xuất gia. Cúi xin cha mẹ thương xót cho phép.”
Vương tử luôn thưa phụ vương và mẫu hậu lời như vậy nên phụ vương và mẫu hậu cho phép vương tử xuất gia và bảo vương tử: “Con là con của ta, hãy làm theo ý muốn của con.”
Bấy giờ vương tử Hỷ Căn được phụ vương và mẫu hậu cho phép được xuất gia.
Vào một ngày kia, vương tử Hỷ Căn sau khi đã xả tục xuất gia, cạo bỏ râu tóc, tuần tự tu tập thành bậc Duyên giác, đầy đủ các pháp thần thông biến hóa, phóng quang, phun nước, xoay chuyển mặt trời, chấn động đại địa, nổi mây, phát mưa… mọi việc biến hóa một cách tự tại.
Vị Bích-chi-phật suy nghĩ: “Ta vì việc gì mà xuất gia? Sự việc như vậy, ta đã làm hoàn tất, đã được tự lợi, bổn phận đã xong. Ta nên thương xót cha mẹ và quyến thuộc cùng các chúng sinh, mà trở về hoàng cung, làm ruộng phước cho họ.” Bấy giờ Tôn giả Bích-chi-phật Hỷ Căn đi dần về thành Ba-la-nại. Khi đến nơi, Bích-chi-phật dừng chân nơi rừng A-la, trong thành của phụ vương Phạm Đức.
Khi ấy vua Phạm Đức nghe nói: “Đồng tử Hỷ Căn đã thành Tiên nhân, đang về nơi đây, hiện ở trong thành.” Nên suy nghĩ: “Vậy ta nên đến gặp Hỷ Căn, hỏi thăm an ủi.” Lúc ấy vua Phạm Đức dùng oai thế của mình, trang nghiêm oai phong với bốn binh chủng hộ vệ đưa ra khỏi thành, để thể hiện thần đức của mình.
Bấy giờ Tôn giả Bích-chi-phật Hỷ Căn từ xa trông thấy phụ vương đến, thầm nghĩ: “Những người này và vua Phạm Đức… có oai quyền thế lực rất lớn, nên họ ngã mạn cống cao. Nếu ở trước vua Phạm Đức… ta thủ lễ thì nhất định họ không cung kính ta.”
Nghĩ như vậy rồi, Bích-chi-phật bay vọt lên hư không hiện các phép thần thông biến hóa như nằm, ngồi, đi kinh hành, nửa thân bốc khói, nửa thân phun lửa, nửa thân phía trên phun lửa, nửa thân phía dưới phun nước…
Khi ấy Đại vương Phạm Đức cùng bá quan quần thần thấy Tôn giả đại thánh Bích-chi-phật bay vọt lên hư không thị hiện các thần thông biến hóa. Nhà vua thấy vậy, lại nghĩ: “Đồng tử của ta xả bỏ vương vị đi xuất gia, nay đã thành đại tiên, có đại oai đức, có đại thần thông” nên hết sức vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, không thể tự chế. Nhà vua đi đến chỗ ngồi của Bích-chi-phật. Khi nhà vua gần đến nơi thì Bích-chi-phật từ hư không từ từ hạ xuống. Nhà vua đến nơi, hoan hỷ cung kính lễ bái, vừa lúc Bích-chi-phật hạ xuống, ngồi trên tòa cũ.
Khi ấy vua Phạm Đức đảnh lễ dưới chân Bích-chi-phật rồi đứng lui về một bên. Bấy giờ Bích-chi-phật thuyết một ít diệu pháp, khiến nhà vua vô cùng vui mừng hớn hở, thể hiện an lành.
Khi vua được nghe Bích-chi-phật thuyết pháp, vui mừng hớn hở, thưa: “Lành thay! Thưa Đại tiên, xin nhận lời mời của tôi, Tiên nhân ở luôn trong cung, tôi sẽ vì Tôn giả tạo cảnh chùa và nhà kinh hành, cung cấp bốn sự cúng dường. Tôn giả muốn gì, tôi đều cung ứng đầy đủ. Nếu Tôn giả vì thương xót chúng sinh nơi thôn xóm, thành ấp muốn đi khất thực thì Tôn giả tự do đi, tôi không cản trở.”
Tôn giả Bích-chi-phật im lặng nhận lời mời của phụ vương. Khi ấy nhà vua thấy Tôn giả Bích-chi-phật Hỷ Căn im lặng nhận lời mời, nên vội vã sắm sửa các thứ cúng dường: nhà kinh hành, bốn sự cúng dường… tất cả được sắm sửa bài trí xong. Còn bao nhiêu nhu cầu khác đều được cung cấp đầy đủ.
Một hôm, Bích-chi-phật vì thương xót chúng sinh, đi vào thành khất thực. Vào lúc Bích-chi-phật vào thành khất thực, vương tử Bà-nô đi đến chỗ Tiên nhân Bích-chi-phật Hỷ Căn phụng sự cúng dường. Những điều nghi ngờ trong tâm vị ấy thường đến hỏi Bích-chi-phật. Bích-chi-phật bị vương tử Bà-nô hỏi thì im lặng không đáp, chỉ nơi các ngón tay phóng ra lửa sáng. Bấy giờ vương tử Bà-nô thầm nghĩ: “Bích-chi-phật này có đại thần thông mà không có biện tài.”
Bích-chi-phật Hỷ Căn nói với vương tử Bà-nô: “Này vương tử, vương tử nên xuất gia. Nếu ngày nay vương tử không chịu xuất gia, ta biết chắc chắn sau khi chết vương tử sẽ rơi vào đường ác. Nếu vương tử xuất gia, thì ta cũng biết vương tử thành bậc Đại tiên có đại thần thông.”
Bấy giờ vương tử Bà-nô về thưa với phụ vương và mẫu hậu: “Lành thay! Thưa cha mẹ, Tiên nhân Hỷ Căn nay đã xuất gia. Ý con ngày nay cũng muốn xuất gia. Cúi xin cha mẹ thương xót cho con toại ý-”
Nhà vua và hoàng hậu không cho phép, nhưng vương tử Bà-nô vẫn thường luôn đến chỗ Tiên nhân Hỷ Căn thờ phụng cúng dường. Bích-chi-phật cũng lại thường nói với vương tử Bà-nô:
-Vương tử phải xuất gia…
Vương tử Bà-nô đáp lời Bích-chi-phật: “Phụ vương và mẫu hậu ngày nay nhất định không cho em xuất gia. Việc ấy phải làm thế nao?”
Bấy giờ Tiên nhân Bích-chi-phật thấy trên mặt vương tử Bà-nô hiện tử tướng, chắc chắn bảy ngày nữa sẽ chết, nên Tiên nhân bảo vương tử: “Này vương tử Bà-nô, đến đây! Vương tử nhất định phải xuất gia. Vì lý do gì? Vì tướng chết của vương tử đã hiện, trong bảy ngày nữa vương tử sẽ qua đời.”
Vương tử Bà-nô trở về thưa cha mẹ: “Kính bạch phụ vương và mẫu hậu, cúi xin song thân cho con xả tục xuất gia.”
Lúc ấy Tôn giả Bích-chi-phật Hỷ Căn cũng đến thưa cha mẹ. “Bạch phụ vương cùng mẫu hậu, cha mẹ phải cho em xuất gia. Vì sao? Vì em Bà-nô đã xuất hiện tử tướng, trong vòng bảy ngày nữa sẽ qua đời. Vì nhân duyên này, cha mẹ nhất định sẽ biệt ly em con. Vì vậy, thà cho em đi xuất gia, chết trong pháp xuất gia, chớ nên để ở nhà.”
Phụ vương và mẫu hậu nói: “Nếu nhất định trong bảy ngày nữa vương tử Bà-nô sẽ chết, vĩnh biệt chúng ta, nên chúng ta phải cho xuất gia.”
Ngay lúc ấy vương tử Bà-nô liền cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa, thành người xuất gia. Ở trong bảy ngày cung kính phụng thờ Bích- chi-phật. Vị Bích-chi-phật dạy cho Bà-nô các pháp oai nghi. Mãn ngày thứ sáu, sang đến ngày thứ bảy, Bích-chi-phật biết Bà-nô nhất định phải chết. Do vì thương xót nên Bích-chi-phật rời khỏi tòa, bay vụt lên hư không, thể hiện các thần thông đi kinh hành, nằm, ngồi, phun khói, phun lửa, ẩn thân không hiện… Tiên nhân Bà-nô thấy Bích-chi-phật Hỷ Căn ở trong hư không biến hóa các thần thông như vậy. Thấy vậy Bà-nô rất vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân, khổng thể tự chế, chắp tay hướng về Bích-chi-phật đảnh lễ; đảnh lễ rồi, phát nguyện: “Tôi nguyện đời vị lai thường được gặp vị Thánh nhân Bích-chi-phật như thế này, hay hơn thế nữa. Bao nhiêu giáo pháp của Ngài nói ra, tôi nguyện nghe rồi đều được thông suốt’.
Lại nguyện: “Tôi được làm thị giả hầu hạ cúng dường Thánh nhân ấy.”
Lại nguyện: “Ở đời vị lai tôi được các thần thông, bao nhiêu oai lực đều như Bích-chi-phật này. Nếu có ai đến hỏi tôi nghĩa lý các pháp, tôi đều vì họ giải thích, khiến họ được hoan hỷ.”
Lại nguyện: “Đời đời kiếp kiếp không rơi vào các đường ác.”
Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, nếu ai có tâm nghi ngờ vương tử Bà-nô ở trong bảy ngày thọ pháp và cung kính cúng dường Bích-chi-phật thuở ấy là người nào thì chớ nên nghĩ gì khác, tức là Tỳ-kheo A-nan này vậy.
Vương tử Bà-nô thuở ấy do tâm hoan hỷ cúng dường Bích-chi- phật Hỷ Căn nên nay được phước báo sinh trong nhà họ Thích.
Lại đối với Bích-chi-phật phát nguyện: “Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp không đọa vào các cõi ác”, do phước báo ấy nên chưa từng rơi vào các cõi ác, chỉ lưu chuyển sinh lên trời và nhân gian, hưởng khoái lạc tuyệt diệu.
Lại thuở ấy nhờ phát nguyện: “Nguyện đời vị lai gặp bậc Thánh nhân giáo thọ sư như thế này, hoặc hơn thế nữa, những giáo pháp của Thánh nhân nói ra, tôi nguyện nghe qua một lần liền được thông suốt.” Do vì nghiệp báo này nên ngày nay gặp Ta là Vị Giáo Sư, lại ở bên Ta được xuất gia thọ giới Cụ túc, chứng được Thánh pháp.
Lại thuở ấy phát nguyện: “Tôi nguyện ở đời vị lai gặp được vị giáo sư như vậy, tôi nguyện được làm thị giả cúng dường Thánh giả.” Nhờ phước báo của nghiệp duyên này, nên nay làm thị giả cung kính cúng dường Ta.
Lại thuở ấy phát nguyện thế này: “Tôi nguyện ở đời vị lai được đại thần thông, có đại oai lực.” Nhờ phước báo nghiệp nhân này nên ngày nay thành bậc Đại thánh, có đại oai lực.
Lại thuở ấy phát nguyện thế này: “Nếu đời vị lai có ai đến hỏi những điều nghi ngờ, tôi sẽ vì họ giải thích, phân tích rõ ràng, khiến tâm họ được hoan hỷ.” Nhờ phước báo nghiệp nhân đó, nên ngày nay nếu có ai đến hỏi điều nghi ngờ, thì vì họ giải thích, khiến họ được hoan hỷ.
Bấy giờ Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta nhớ thuở quá khứ lâu xa, tại thành Ba-la-nại này, có một vị đại phú trưởng giả tên là Tăng-tát-đà-na (nhà Tùy dịch là Vương An). Vị trưởng giả này rất nhiều của cải, gia nghiệp vĩ đại giống như cung điện Thiên vương Tỳ-sa-môn không khác. Trong nhà mỗi ngày thường có đến năm trăm Bích-chi-phật lui tới khất thực. Thuở ấy có một bình bát của một Bích-chi-phật đáy nhọn như hình vú bò, nên bình bát mỗi khi để lên cỏ hay trên tấm thảm, liền ngã, không thể đứng vững.
Trưởng giả Tăng-tát-đà-na có một cô con gái, hình dung đoan chánh dễ thương, đầy đủ đức tướng của nữ nhi. Cô nàng thấy bình bát của Bích-chi-phật để không vững, liền cởi chiếc vòng của mình dâng cho Bích-chi-phật, bạch: “Cuối xin Đại tiên nhận lấy chiếc vòng này, dùng lót đáy bát.”
Bấy giờ Tiên nhân vì thương xót cô ta, nên nhận lấy chiếc vòng dùng để lót đáy bát, nên bình bát không bị nghiêng ngã. Khi ấy cô gái thấy chiếc bát của Bích-chi-phật đứng yên trên chiếc vòng không bị nghiêng ngã, nên vui mừng hớn hở tràn ngập toàn thân không thể tự chế, nên phát nguyện: “Như bình bát của Tiên nhân đặt trên chiếc vòng này không ngã không nghiêng, thì ta nguyện ở đời vị lai, nếu nghe những pháp thế gian hay xuất thế gian của Thánh nhân nói ra, ta đều ghi nhớ hoàn toàn.”
Khi ấy Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Này các Tỳ-kheo, nếu có thầy nào nghi ngờ cô gái nhà trưởng giả thuở ấy nay là ai thì chớ nên có ý nghĩ gì khác, tức là Tỳ-kheo A-nan này vậy. Do thuở ấy hoan hỷ cởi chiếc vòng trên tay, dâng cho Tôn giả Bích-chi-phật để lót đáy bình bát, nhân đây phát nguyện: “Như Tiên nhân đặt bát trên chiếc vòng thì không ngã không nghiêng, ta nguyện ở đời vị lai, nếu nghe được bao nhiêu pháp thế gian hay xuất thế gian, tất cả đều ghi nhớ hoàn toàn không quên.” Do nghiệp nhân đó, nay được phước báo những gì nghe được không quên.
Lại một hôm nọ, mặt trời còn ở phương Đông, Trưởng lão A-nan đắp y mang bình bát, đi vào thành Xá-bà-đề khất thực. Khi đi khỏi khu lâm viên Kỳ-đà, cấp cô độc, nhưng chưa đến thành Xá-bà-đề, trên khoảng đường đi có một đại thọ tên là Thi-xa-ba, dưới tàng cây này có nhiều vị Bà-la-môn đang dừng nghỉ. Từ xa, trông thấy Trưởng lão A-nan sắp đi đến nơi, các Bà-la-môn ấy nói với nhau:
-Các người phải biết, vị Sa-môn em Cù-đàm này, trong hàng thông minh đa văn trí tuệ, thì người này là bậc nhất.
Họ nói lời như vậy rồi thì Tôn giả vừa đến nơi. Họ hỏi:
-Thưa Nhân giả, nay xin ngài quán sát cây Thi-xa-ba này có bao nhiêu lá?
Quán đại thọ rồi, Tôn giả A-nan bảo họ:
-Cành cây phía Đông tổng cộng gồm có chừng ấy trăm ngàn lá…
Lần lượt như vậy cho đến cành cây phía Nam, phía Tây, phía Bắc, Tôn giả đều nói:
-Tổng cộng gồm có chừng ấy trăm ngàn lá.
Nói như vậy rồi, Tôn giả bỏ đi. Sau khi Tôn giả A-nan đi rồi, các Bà-la-môn lặt cây ấy chừng trăm lá rồi giấu đi một nơi khác. Khi Tôn giả A-nan trở lại, các vị Bà-la-môn lại chận hỏi:
-Thưa Tôn giả A-nan, ngài đã trở lại. Xin ngài quán sát cây Thi-xa-ba có bao nhiêu lá?
Bấy giờ Tôn giả A-nan ngước xem cây rồi liền biết Bà-la-môn rút dấu chừng trăm lá, liền nói với họ:
-Cành phía Đông có chừng ấy trăm ngàn lá…
Như vậy cho đến cành phía Nam, cành phía Tây, cành phía Bắc cũng nói chừng ấy trăm ngàn lá. Tôn giả nói như vậy rồi liền bỏ đi.
Lúc bấy giờ các vị Bà-la-môn cho là việc ít có, chưa từng thấy. Họ nói với nhau:
-Vị Sa-môn này trí tuệ hết sức thông minh.
Các Bà-la-môn do vì nhân duyên này sinh tâm chánh tín. Đã có chánh tín rồi, sau đó chẳng bao lâu họ đều được xuất gia, thành A-la- hán.
Lúc bấy giờ có Trưởng lão Phân-na-bà-tố (nhà Tùy dịch là Phi Túc), Trưởng lão Cung-tỳ-la (nhà Tùy dịch là Giao Long), Trưởng lão Nan-đề-ca. Ba người này chỉ biết nguyên nhân mình xuất gia mà không biết nguyên do mình từ đâu sinh ra, cũng không biết các đời quá khứ tạo nghiệp gì. Họ hỏi kinh này đặt tên gì?
Đáp rằng:
-Các thầy thuộc bộ phái Ma-ha Tăng-kỳ gọi là Bổn Sự.
-Các thầy thuộc bộ phái Tát-bà-đa gọi là Đại Trang Nghiêm. -Các thầy thuộc bộ phái Ca-diếp-di gọi là Nhân Duyên Phật
Sinh.
-Các thầy thuộc bộ phái Đàm-vô-đức gọi là Bổn Hạnh Của Phật Thích-ca Mâu-ni.
-Các thầy thuộc bộ phái Ni-sa-tắc gọi là Căn Bổn Của Tạng Tỳ-ni.