Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ
Dao Tần Trúc Phật Niệm dịch
Bản Việt dịch của Thích Nữ Diệu Châu
***
QUYỂN 1
PHẨM THỨ 1: THIÊN CUNG
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, đức Phật ở giữa rừng Song thọ, phía Bắc thành Ca-Tỳ-La-Bà-Đâu, thuộc dòng họ Thích Ca, sắp xả thân mạng để nhập Niết-bàn. Vào giữa đêm mồng tám tháng hai, Ngài đích thân gấp Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng và A-đà-la-bạt-tát làm ba lớp rồi trải trong kim quan mà nằm lên trên, chân xếp chồng lên nhau, lấy bát, tích trượng trao cho A-Nan.
Tám vua ở nước lớn đều đem năm trăm tấm vải trắng tẩm hương chiên-đàn đặt hết trong kim quan, dùng năm trăm tấm vải quấn kim quan lại rồi đem năm trăm cỗ xe chở hương tô-du để rưới trên vải trắng.
Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương đưa các Phạm chúng đứng bên phải, Thích Đề Hoàn Nhơn dẫn chư thiên Đao Lợi đứng bên trái, đại Bồ tát Di-Lặc và các Bồ tát có thần thông ở mười phương đứng phía trước Ngài.
Khi sắp nhập Kim-cang tam muội nghiền nát thân xá-lợi, Thế tôn nghĩ rằng: “Lành thay pháp bất tư nghì! Ta đã chuyển pháp chân thật ấy ở thế giới Ta-bà”.
Sau khi suy nghĩ như vậy, thế giới khắp mười phương chấn động sáu cách. Khi ấy, Thế tôn trong kim quan duỗi ra cánh tay vàng, hỏi A-Nan:
– Tỳ kheo Ca-Diếp đã đến chưa?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn, chưa.
Thế tôn lại hỏi:
– Tỳ kheo Ngưu Úc đã đến chưa?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Vị ấy đã bát Niết-bàn trên cõi trời, chỉ đem đến ba y và bình bát.
Phật bảo bốn chúng:
– Nay Ta vĩnh viễn diệt độ.
Ngài liền vén vải vào trong kim quan, im lặng không nói, như vậy ba lần, rồi Ngài thò tay ra hỏi A-Nan và bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, cùng tám vua nước lớn, trời, rồng, quỷ thần, A-tu-la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la gà, Càn thát bà, nhân và phi nhân:
– Thế nào, này A-Nan! Kinh Phương Đẳng đại thừa Ma Ha Diễn mà Ta đưa ra từ đầu đến cuối, ông có thông đạt hết không?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Con biết.
Phật nói như vậy ba lần và hỏi A-Nan:
– Khi ở cung trời Đao-Lợi, Ta giảng pháp cho mẫu hậu Ma-Gia, ông có biết không?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Con không biết.
Phật hỏi A-Nan:
– Thế nào, này A-Nan! Khi ở trong cung, Ta nói pháp cho rồng, có vô số ức ngàn con rồng đều đắc đạo, lưu lại toàn thân xá lợi một trăm ba mươi trượng, ông có biết không?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Con không biết.
Phật dạy:
– Thế nào, này A-Nan! Ta ở trong thai mẹ mười tháng. Ta nói cho các Bồ tát về pháp bất thối chuyển khó có, là hạnh bất tư nghì, ông có biết không?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Con không biết.
Phật dạy A-Nan:
– Ông hãy lắng nghe cho rõ và suy nghĩ cho thật kỹ. Bây giờ Ta sẽ phân biệt rõ ràng từng chi tiết về hạnh khó có của Bồ tát đại sĩ.
A-Nan bạch Phật:
– Bạch Thế tôn! Con xin muốn được nghe.
Phật dạy A-Nan:
– Cách đây về phương Đông-nam một ức một vạn một ngàn sáu mươi hai hằng hà sa cõi, có thế giới tên Tư Lạc, Phật hiệu là Hương Diễm Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn, hiện bát Niết-bàn mà đến cung trời Đao Lợi này; trải qua vô số a tăng kỳ kiếp đã ba mươi sáu lần làm Đại Phạm Thiên Vương, ba mươi sáu lần làm thân Đế Thích, ba mươi sáu lần làm Chuyển luân vương; chúng sanh được độ không rơi vào Nhị thừa và các đường ác. Vì sao? – Vì tất cả đều do thần thông trí tuệ của Phật cảm vời ra.
Thế nào, này A-Nan! Như Lai có ở trong thai hay không ở trong thai?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Thân Như Lai không ở trong thai.
Phật dạy A-Nan:
– Nếu Như Lai không ở trong thai thì làm sao nói Như Lai mười tháng ở trong thai để chỉ dạy giảng pháp?
A-Nan thưa:
– Bạch Thế tôn! Có ở trong thai là hư tịch, còn không ở trong thai cũng lại là hư tịch.
Khi ấy, Thế tôn dùng thần túc hiện trong thân mẫu Ma-Gia nằm, ngồi, kinh hành, trải đại cao tòa ngang rộng tám mươi do-tuần, lan can bằng vàng bạc, dùng lụa trời, lọng trời treo trên hư không, trỗi những kỹ nhạc không thể tính kể; lại dùng thần túc đi từ phương Đông đến thế giới Ta-bà này có cả một vạn tám ngàn cõi, Bồ tát đại sĩ đều đến vân tập.
Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc cũng vậy.
Ở phương dưới có sáu mươi hai ức cõi, các Bồ tát dùng thần thông đến dự đại hội.
Phương trên có bảy mươi hai ức không giới Bồ tát cũng đến tập họp ở trong thai.
Bấy giờ, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đứng dậy, đến bạch Phật:
– Bạch Thế tôn! Các đại sĩ Bồ tát đến đây vân tập là muốn nghe Ngài nói pháp bất tư nghì, các môn tam muội: môn Không tam muội, Đạo tánh tam muội, Chơn thật tam muội, Hư không vương tam muội, Thệ tập chữ tam muội, Thọ tánh tam muội, Hành tích tam muội, Hàng ma tam muội, Trừ uế ô tam muội… Cả ức ngàn na do tha tam muội như vậy thì hôm nay Như Lai nhập vào thai với tam muội nào để nói pháp bất tư nghì cho các đại sĩ?
Phật dạy Văn Thù:
– Ông hãy quán sát Bồ tát các nơi Nhất trụ, Nhị trụ, cho đến Thập trụ nhất sanh bổ xứ; tất cả đều đứng theo địa vị của mình, không có lẫn lộn nhau. Vì sao? – Vì nay Ta sắp nói pháp bất tư nghì cho các đại sĩ. Đại chúng này đều thanh tịnh, không tạp nhiễm, dù cho các vị nhỏ nhất cũng không ô uế.
Bấy giờ, Thế tôn nói kệ với âm thanh thanh tịnh:
– Xưa nay vô số kiếp
Thành vô số thân Phật
Nay nhập lại bào thai
Muốn độ các chúng sanh
Thân hành tịnh, không ác
Khẩu hành không dối trá
Ý hành luôn từ bi
Đạo Bồ tát thanh tịnh
Thương xót loài chúng sanh
Luôn ở bốn sông lớn
Chấp thường và đoạn diệt
Hồi hướng đạo Bồ-đề
Được thân này rất khó
Đừng sanh tưởng ô uế
Nghĩ thân như gò mã
Nơi dã-can rình rập
Kẻ ngu quá chấp trước
Đắm vào ái không bỏ
Thân này không trở lại
Ngày đêm dục rúc rỉa
Chín khổ là then chốt
Như bình đẹp đựng phân
Bị khát dục hành hạ
Vì sao sanh khổ não
Như biển chứa các sông
Kẻ ngu cho là thật
Thân chẳng phải kim cang
Đừng làm nhiều ác hạnh
Thọ thân thì phải chết
Sao không mau hành đạo
Nếu người sống ức kiếp
Họ còn phải bỏ dục
Huống sống chẳng đủ trăm!
Sao không biết dừng lại?
Người ngu luôn khen mình
Thân này nhờ phước trước
Mình nên hưởng khoái vui
Nhưng chưa vui liền chết
Dục này không lâu dài
Người trí không nắm giữ
Người nào muốn bỏ dục
Tuệ quán mười vô tưởng
Dục là pháp chẳng thật
Sanh diệt như bọt nước
Là vật ảo thuật tạo
Biến hiện rất nhiều hình
Kẻ ngu cho là thật
Tìm sự thật không được
Tánh không vốn nó không
Đầu cuối không sanh diệt
Phân biệt định vô tưởng
Dẹp sạch lậu chúng sanh
Văn Thù! Ông nên biết
Hội vô lậu mười phương
Ta nhập định lưu ly
Giảng rộng pháp phương đẳng
Hà sa Phật mười phương
Nói như Ta không khác
Thương các loài quần manh
Ở mãi trong nhà lửa
Ra khỏi thai, vào lại
Chết đây lại sanh kia
Chư Bồ tát mười phương
Chứa hạnh hằng sa kiếp
Dù ở cõi Ta-bà
Kiếp năm trược khổ não
Như mười phương cõi Ta
Phương ấy bằng cõi này
Xoay tròn trong năm đường
Thọ khổ đau đớn này
Giải không tướng vô định
Cũng không có bổn tế
Nghĩa hàn toàn một tướng
Tánh nó vốn không tịch
Luôn tưởng không sanh diệt
Hữu dư và vô dư
Xưa Ta phát nguyện lớn
Thọ thai khắp năm đường
Trong hóa, thấp, noãn, thai
Cũng nói pháp hiếm có
Ai đắm trước năm ấm
Dạy họ vô sở hữu
Mười hai pháp móc nhau
Si, hành gốc sanh tử
Rơi trong bốn điên đảo
Dạy họ bốn chân thật
Khổ đế không có đế
Tập, tận, đạo cũng vậy
Dục, ngã, giới, kiến, thọ
Cũng giống như bốn ái
Phân biệt tánh chân thật
Hư không tịch vắng lặng
Tuy qua bờ sanh tử
Không trụ vào Niết-bàn
Nay ở trong thai mẹ
Nói pháp độ quần sanh
Trong quốc độ Ta-bà
Có vô số hằng sa
Ở trong thai nói pháp
Cứu độ a tăng kỳ
Hư không không ranh giới
Cõi Phật cũng như vậy
Chúng sanh thọ thần thức
Tánh chân thật khác nhau
Đem huệ sáng giáo hóa
Tùy theo loại mà độ
Hoặc hiện thân để độ
Nghe tiếng được giải thoát
Hoặc tư duy về khổ
Tập đế tận gốc đạo
Tư duy bốn ý chỉ
Đoạn ý, bốn thần túc
Năm căn và năm lực
Lấy bảy giác làm hoa
Tám phẩm đạo hiền thánh
Dùng để trang nghiêm thân
Phân biệt ngã không kia
Vô tưởng tịch tịnh huệ
Không mong cầu đều có
Luôn trụ không, vô huệ
Sơ nhập hữu giác định
Quán ba mươi bất tịnh
Nghịch thuận đều tỉnh giác
Nhập định giải vô quán
Chín định nhập lần lượt
Phân biệt không giác quán
Lại vui diệt tận đạo
Sơ định đủ năm pháp
Ý hỷ lạc đã diệt
An ổn nhập bốn pháp
Các đại sĩ trí tuệ
Không hành theo điều này
Vì các ma phiền não
Ứng trực trước chúng sanh
Qua nhiều kiếp thiền định
Thân gầy như cây khô
Xông ướp hương Tam thiền
Năm chi không rời rã
Huệ Phật không thể lường
Là hữu, là bất hữu
Bậc Vô thượng chánh giác
Không sanh, cũng không tử
Khi thành Phật đến nay
Ta du quán Tam thiền
Nếu nhập vào Tứ thiền
Không nói nhưng được độ
Ta quán cõi hư không
Chúng sanh không chỗ tựa
Thần – lực – trí chư Phật
Mới biết tận nguồn gốc
Những vị học đoạn lậu
Chưa phân biệt được hết
Phẩm đạo rất thâm diệu
Nhị thừa không thể biết
Ta quán bằng thiên nhãn
Huệ nhãn và Phật nhãn
Do bốn thức thọ hình
Nếu hóa hiện trong đó
Địa, thủy, hỏa hình sắc
Cũng không thể quán thấy
Chư Phật có thần lực
Mới đến bờ bên kia
Các cõi Phật mười phương
Hằng sa a tăng kỳ
Lấy đạo huệ làm gốc
Dạo ở cõi hư không
Nếu như dùng nhục nhãn
Quán không giới chúng sanh
Miệng thở hơi ra vào
Vô số chúng sanh vào
Khi ấy những loài này
Đều được thành kiến đạo
Nên biết pháp thân Phật
Chơn thật không nghĩ bàn
Phật chủ tướng ba cõi
Thương cứu thảy chúng sanh
Cõi Dục – Sắc – Vô sắc
Để chứng được đạo huệ
Không còn lòng dâm, nộ
Và dòng họ nhà si
Thấy hình liền nhập đạo
Đâu cần học, vô học
Vô lượng các cõi Phật
Thành đạo đều khác nhau
Có vị từ hữu tưởng
Có vị từ vô tưởng
Không tu tập lại nữa
Chơn như bốn Thánh đế
Bồ tát thanh tịnh quán
Nhập thiền không chướng ngại
La-hán, Bích-chi Phật
Nhập định đều khác nhau
Đời đời không còn sanh
Thì đâu có gốc sanh
Kẻ ngu si chấp trước
Cho sanh đó là ngã
Chúng ta tự xưng ngã
Không thấy có ngã sở
Bồ tát hành Tứ thiền
Duyên-giác không thể biết
Bồ tát nhập Sơ thiền
Ba mươi hạnh vô lậu
Trăm bảy định tam muội
Thở ra vào đều đặn
Nhị định bảy mươi hai
Tự quán vô ngã tưởng
Dù qua bao kiếp khổ
Cũng không lìa thiền hành
Bốn trụ đoạn các lậu
Mới đạt Nhị thiền này
Vì do dự sáu trụ
Nhập định như sóng nước
Tám vạn bốn ngàn hạnh
Vẫn còn không kềm chế
Vốn ta đối sáu trụ
Thối chuyển mười hai kiếp
Luôn sanh khởi tưởng lạc
Luân hồi vực sanh tử
Được đức Phật Định-Quang
Ký biệt tâm kiên cố
Lập chí không thối lui
Nên mới đạt Tam thiền
Đoạn trừ bảy vạn cấu
Diệt sạch hết gốc rễ
Sư tử vô úy bước
Xiển dương đại pháp điển
Dạo hết các cõi Phật
Lễ lạy, thờ cung kính
A tăng kỳ quá khứ
Chư Phật đức Thế tôn
Đều ở cõi của mình
Thệ nguyện làm Phật sự
Dù tâm không thối chuyển
Nhưng luôn sợ sa-đọa
Cả ức ngàn chúng sanh
Không làm động mảy lông
Hành vượt qua bát trụ
Thẳng vào đạo Bồ-đề
Những thú vui tham đắm
Diệt hẳn, không tưởng nhớ
Trừ thầy, tổ, mẹ cha
Còn lại không luyến nhớ
Mới thành hạnh Nhất thiền
Gọi: Thí độ vô cực
Tập quán không ai bằng
Cửu địa thông bổn huệ
Không nhập vào diệt tận
Đến nơi tòa thành Phật
Làm duyên cho chúng sanh
Đi đến dưới cây Phật
Độ cả a tăng kỳ
Tập họp tại đạo tràng
Mười phương vô lượng cõi
Chư đức Phật Thế tôn
Đều duỗi thả tay phải
Lành thay Đại Sư tử!
Mười lực, vô sở úy
Nhập sâu vào Tứ thiền
Thương xót loài quần manh
Xin mau ra khỏi thiền
Để độ người chưa độ
Cứu thoát người chưa thoát
Bốn thức xứ tối tăm
Khao khát vị thiền duyệt
Không trái lời Phật dạy
Rồi liền tự ngợi khen
Lại tự mình suy nghĩ
Do thân này tạo ra
Chắc chắn nhập Niết-bàn
Để độ cho chúng sanh
Chư Phật đều hiện ra
Lành thay Thích Ca Văn
Lập ra ý nguyện lớn
Đừng sanh tâm thối lui
Chuyển pháp luân vô thượng
Đánh vào trống đại pháp
Người nghe mau giải thoát
Qua kiếp số không khó
Kiện trí, vô ngại trí
Biện trí, thông đạt trí
Đạo trí, minh huệ trí
Đoạn trí, vô sanh trí
Bất khởi tận diệt trí
Tiêu trí, chín bậc trí
Vô úy Sư tử trí
Điện khổng âm hưởng trí
Đoạn tọa bất động trí
Đại bi vô ngại trí
Thân tướng trang nghiêm trí
Bạt khổ mẫn hộ trí
Kiết giải vô phược trí
Thọ biệt thủ chứng trí
Hàng ma phá quân trí
Thành vô ngã mạn trí
Ý dõng tinh tấn trí
Thí bất vọng báo trí
Hành nhẫn thọ nhục trí
Kim cang thập lực trí
Trụ kiếp bất động trí
Tập chúng hòa hợp trí
Tối thượng đạo sư trí
Tàm quý pháp phục trí
Bồ tát thệ nguyện trí
Thần túc biến hiện trí
Cảnh giới vô ngại trí
Đoạn ý diệt kiết trí
Thanh tịnh chiếu minh trí
Tự thức túc mạng trí
Huyền giám tha tâm trí
Phụ mẫu chân tịnh trí
Phân thân sát độ trí
Xử thai vô uế trí
Thức định bất loạn trí
Nhất hướng tín thọ trí
Nhập định quán sát trí
Phân biệt thân tướng trí
Tam thập bất tịnh trí
Diệt tai trừ hoạn trí
Bồ tát thứ đệ trí
Siêu việt giáo hóa trí
Diệt thập nhị duyên trí
Duyên giác thời ngộ trí
Thanh văn thọ hóa trí
Xuất thập nhị nhập trí
Quán huệ vô ngại trí
Thọ đạo huyền giám trí
Nhất dạ vi kiếp trí
Dĩ kiếp vi nhật trí
Niệm Phật Phật hiện trí
Sát độ thanh tịnh trí
Vô hữu Nhị thừa trí
Độc bộ vô úy trí
Duyệt khả chúng ý trí
Sở tác dĩ biện trí
Bất tạo tiền hậu trí
Diệt cố vô tận trí
Nhập định trừ tưởng trí
Quán nội ngoại thân trí
Như Lai thọ huệ trí
Hiền thánh mặc nhiên trí.
Khi đức Phật nói kệ này, cả ức trăm ngàn vô lượng chúng sanh đều tiến hết vào Tín địa. Lại có mười hai na-do-tha Bồ tát ở Quán hạnh địa, không trụ vào Tam trụ mà thành tựu cõi Phật.
Ở phía bên phải có bảy vạn bảy ngàn ức chúng sanh đạt đến A-duy-việt trí bất thối chuyển.
Phật dạy Văn Thù:
– Nay giữa đại hội này không có một người nào có cáu bẩn, ô uế xen lẫn, bị thối chuyển. Vì sao? – Vì tất cả đều là những hàng lợi căn, không còn sanh tử, không còn bị trói buộc, không vướng mắc, không diệt, không sanh, tu đạo thanh tịnh, thọ chứng thành tựu, mong muốn ưa thích nghe chánh pháp bất khả tư nghì của chư Phật. Các vị đã chiến thắng chúng ma, khử trừ tâm kiêu mạn, bên ngoài mặc dù giáo hóa a tăng kỳ chúng sanh trong các cõi Phật nhưng bên trong tâm du hý vô lượng trăm ngàn tam muội, những tam muội ấy là:
– Sư tử phấn chấn tam muội
– Siêu hành đăng vị tam muội
– Quảng tấn siêu bộ tam muội
– Đồng chơn nhạo pháp tam muội
– Tứ đạo sanh diệt tam muội
– Vô tưởng đẳng hành tam muội
– Vãng nghệ bất thối đạo tràng tam muội
– Quán sát chúng tâm tam muội
– Niệm nhất sanh bổ xứ tam muội
– Vô hình tượng tam muội
– Địa trung dõng xuất tam muội
– Giải phược chiến đấu tam muội
– Đảnh thọ tối thắng tam muội
– Chúng sanh hỷ kiến tam muội
– Nhập bất tư nghì tam muội
– Phật giới bất tư nghì tam muội
– Pháp giới trừ uế bất tư nghì tam muội
– Thánh chúng bất tư nghì tam muội
– Chúng sanh khởi diệt bất tư nghì tam muội
– Long lực hưng giáng bất tư nghì tam muội
– Tại chúng thượng trung vương bất tư nghì tam muội
– Dõng mãnh hàng phục oán bất tư nghì tam muội
– Thọ mạng vô lượng bất tư nghì tam muội
– Tại ngũ đạo năng thọ khổ bất tư nghì tam muội
– Chư Phật hiện tại bất tư nghì tam muội
– Tứ sự cúng dường bất tư nghì tam muội….
Các vị ấy trang nghiêm thân với một ức một ngàn tam muội như vậy.
Lại còn có Tốc tật bất tư nghì tam muội. Trong một ngày, các vị ấy xuất gia hành đạo, đến dưới gốc cây thành Phật, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi Phật.
Lại có Lưu trú đãi duyên bất tư nghì tam muội, được sống lâu vô lượng a tăng kỳ kiếp. Chúng sanh nào có duyên thì được độ vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn, nhưng Như Lai không vào Niết-bàn, mà lại tạo nhân duyên để hành Bồ tát đạo.
Lại có Thật lực bất tư nghì tam muội, nghĩa là từ cõi Phật này đến cõi Phật kia trong khoảng thời gian chốc lát như người khảy móng tay mà đã thọ ký cho vô lượng hằng hà sa chúng sanh và cũng làm cho họ trong ngày đó đều thành Phật.
Đó là thần lực của Bồ tát ở trong thai.
***
PHẨM THỨ 2: DU BỘ
Bấy giờ, Bồ tát Di-Lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, thưa Thế tôn:
– Lành thay! Lành thay! Như Lai đã nói pháp bất tư nghì. Nay trong chúng đây có vị thấy đạo, có vị chưa thấy đạo, có vị trụ vào Tín địa, có vị chưa trụ vào Tín địa, có Bồ tát từ cõi trời Quang Âm, trời Hạp, trời Ba Lợi Đà, trời A Ba Na Ma, trời A Hội Đản Tu, trời Đạo A, trời Tu Càn, trời Tu Phất Kỳ Hâu, trời Kiết Ma, cho đến trời Nhất Cứu Cánh, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại; hoặc có Bồ tát ở Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, cho đến Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ. Các vị ấy làm sao nhập vào thai để giáo hóa?
Thế tôn dạy:
– Ông chớ nên hỏi như vậy. Vì sao? – Vì Như Lai không bao giờ nói nghĩa như thế. Ta hỏi ông, ông hãy trả lời ngay cho ta. Thế nào, này Di-Lặc! Hư không có hình chất hay không có hình chất?
Di-Lặc trả lời:
– Bạch Thế tôn! Không có hình chất.
Thế tôn hỏi:
– Thế nào, này Di Lặc! Nếu hư không không có hình chất thì tại sao chúng sanh có sanh, có già, có bệnh và có chết?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Với Nhất nghĩa đế thì không có sanh, già, bệnh, chết. Do đó mà hư không không có hình chất.
Phật dạy Di Lặc:
– Nếu nó không có hình chất thì những chúng sanh này ai trao và ai nhận? Vì sao Bồ tát đến dưới gốc cây có lúc kinh hành, có lúc nhập định? Làm sao Bồ tát quán thân tướng của mình và quán thân tướng người khác? Làm sao Bồ tát hiện đi bảy bước, tự xưng mình thành Phật chiến thắng quân ma? Và làm sao Bồ tát tu sửa đạo tràng để mời thỉnh chúng sanh trong mười phương?
Di-Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Như vậy, nếu hư không không hình chất thì thân tướng của Như Lai cũng là danh hiệu giả, cho đến nghĩa nhất cứu cánh đều không và không có sở hữu?
Phật hỏi Di Lặc:
– Nếu Bồ tát hành về không thì làm sao đi đến mười phương để giáo hóa chúng sanh?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Bồ tát hành về không vì không thấy quốc độ, cũng không thấy có Phật. Chính Phật không phải Phật thì làm sao có địa, thủy, hỏa, phong và thức giới? Vì ngã, người, thọ mạng đều là không tịch. Do đó mà không có thai phần.
Phật dạy Di Lặc:
– Ông ở cõi trời Ba mươi ba nói pháp không hành cho các thiên chúng, trong số đó có ai thấy đạo, và ai chưa thấy đạo?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Chúng trời ấy do tưởng thường, tưởng lạc, tưởng tịnh, tưởng chấp ngã là ngã, cho nên không có sự thấy đạo và cũng không có bậc thấy đạo.
Phật dạy Di Lặc:
– Chư thiên kia hữu sắc hành ấm hay vô sắc hành ấm? Hữu báo ứng ấm hay vô báo ứng ấm? Có phá hữu ấm hay không phá hữu ấm? Có thọ nhập ấm hay không thọ nhập ấm? Thanh hưởng ấm hay không thanh hưởng ấm? Có trung gian ấm hay không trung gian ấm? Có bỉ thử ấm hay không bỉ thử ấm? Có cứu cánh ấm hay không cứu cánh ấm? Có mặc nhiên ấm hay không mặc nhiên ấm? Thế nào, này Di Lặc! Ở cõi trời nói chơn pháp cho chúng trời, ông có nói danh hiệu của các ấm này hay không?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Không.
Thế tôn dạy:
– Thế nào, này Di Lặc! Chư Phật mười phương đã thọ ký cho ông thành đạo Vô thượng chánh chơn, như vậy có đạo chánh chơn hay không có đạo chánh chơn?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Không có đạo chánh chơn.
– Nếu có đạo chánh chơn thì đây cũng là danh hiệu giả. Nói về Di Lặc cũng là tên giả. Cũng như bổn tế của tự tánh cũng là danh hiệu giả. Sắc thân của Như Lai, tự thân ấy là không tướng, tự tướng cũng không, gốc ngọn thì gốc ngọn không, bỉ thử thì bỉ thử cũng không. Vậy làm sao ông biết chắc có biệt hiệu là Di Lặc? Nói tánh thì tự tánh không, nói hữu thì chính hữu là không. Nói vô thì chính vô là không. Vô vốn thường trụ, làm sao khiến cho nó bất trụ? Nói trụ thì chính trụ là không. Nói tự tướng thì tự tướng không. Nói ấm thì chính ấm là không. Nói thai thì chính thai ấy là không, cho đến đạo tràng nói hành thì hành ấm không. Bạch Thế tôn! Do đó mà không có sự thấy đạo và chưa ai thấy đạo.
Phật lại dạy Di Lặc:
– Sự thấy đạo và người không thấy đạo thì có quả chứng hay không có quả chứng? Là tánh hữu vi hay chẳng phải tánh hữu vi? Là tánh vô vi trong hữu vi hay tánh vô vi trong vô vi? Là tánh vô lậu trong hữu lậu hay tánh vô lậu trong vô lậu? Là tánh hữu tận trong Dục giới hay tánh vô tận trong Dục giới? Là tánh hữu tận trong cõi Sắc, cõi Vô sắc hay là tánh vô tận trong cõi Sắc, cõi Vô sắc? Không giới là tánh diệt thức hay không giới chẳng phải tánh diệt thức; cho đến hữu vi không, vô vi không, tự tánh không. Hữu cho hữu là không, vô cho vô là không, đại không, thủ không, một tướng vô tướng không. Hữu dư Niết-bàn không, Vô dư Niết-bàn không, là tánh chứng đắc hay chẳng phải tánh chứng đắc?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Pháp chứng đắc chẳng phải pháp, phi pháp không phải pháp chứng đắc.
Phật dạy:
– Thế nào, này Di Lặc! Nếu pháp hữu vi chẳng phải vô vi, pháp vô vi chẳng phải hữu vi, vậy sao ông nói pháp có chứng đắc là không chứng đắc và pháp không chứng đắc cũng không chứng đắc?
Di Lặc bạch Phật:
– Bạch Thế tôn! Theo đệ nhất nghĩa thì trong pháp hữu tướng, vô tướng tìm cầu hữu vi chẳng phải vô vi hay tìm cầu vô vi chẳng phải hữu vi?
Phật dạy Di Lặc:
– Nay Ta hỏi ông: Căn luận chân thật, chẳng phải Vô căn luận, vậy thì hữu vi vô vi từ đâu sanh? Nếu có thì tên nó là gì?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Hư không là tánh tịch diệt. Chữ nghĩa, tên gọi đều chẳng phải chân thật, đó là Vô căn luận, chứ chẳng phải Hữu căn luận.
Phật dạy Di Lặc:
– Vậy làm sao nghĩa căn sanh ra Vô căn luận?
Di Lặc thưa:
– Bạch Thế tôn! Đối với nghĩa thế tục thì căn là pháp tánh, vô căn là chứng tịnh, bất động cũng không phải bất động, là một tướng, vô tướng, cho đến pháp hữu vi – vô vi, pháp hữu lậu – vô lậu, pháp hữu đối – vô đối, pháp sắc – pháp vô sắc, pháp khả kiến – pháp bất khả kiến, bất trụ cũng không phải bất trụ. Đó là nghĩa của vô căn.
Phật dạy:
– Lành thay! Bồ tát hành về không đã hiểu rõ về vô căn, bất sanh không phải bất sanh; vị lai chưa đến, hiện tại không trụ; quá khứ đã diệt; không chấp trước, không đoạn; không trụ, cũng không phải không trụ.
Khi ấy, trong đại hội có Bồ tát tên Phân Biệt Thân Quán, bạch Phật:
– Bạch Thế tôn! Con nghe Như Lai nói nghĩa Vô căn: nói có thân tướng, nói không có thân tướng; nói có tự tánh không, nói không có tự tánh không. Vậy nói về nghĩa vô căn là từ trong Như mà sanh hay không phải từ trong Như sanh ra? Nghĩa vô căn có sanh diệt hay không có sanh diệt? Pháp hữu đối hay chẳng phải pháp vô đối? Pháp hữu sắc hay pháp vô sắc? Pháp hữu vi hay pháp vô vi? Pháp hữu lậu hay pháp vô lậu? Pháp hữu tướng hay pháp vô tướng? Có thân quán hay không thân quán?
Phật dạy Bồ tát Phân Biệt Thân Quán:
– Cái gì là thân? Cái gì là quán? Thân làm sao để hành quán này?
Bồ tát Phân Biệt Thân Quán thưa:
– Bạch Thế tôn! Địa, thủy, hỏa, phong là thân ấm. Thức phân biệt là quán.
Phật dạy:
– Nói địa thì tự thể của địa là không, nói thủy thì tự thể của thủy là không, nói hỏa thì tự thể của hỏa là không, nói phong thì tự thể của phong là không, nói thức thì tự thể của thức là không, nói không thì tự thể của không là không… thì cái gì là thân, cái gì là quán?
Bồ tát Thân Quán thưa:
– Bạch Thế tôn! Đúng vậy. Theo như lời của Ngài nói: Nếu pháp giới hư không đều không tịch, không có Phật mà nói Phật, không có Pháp mà nói Pháp, không có Tăng mà nói Tăng, không có đời này, đời sau, không có tội, không có phước thì sẽ khác với Đại sư dạy không?
Phật dạy Bồ tát Phân Biệt Thân Quán:
– Khi nhập vào định Diệt tận, ông có thấy Nhãn quán Sắc, cho đến Ý quán Pháp không?
Bồ tát Thân Quán thưa:
– Bạch Thế tôn! Không. Vì sao? – Vì trong định diệt tận không sanh cũng không diệt.
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói thì: Nhãn quán Sắc. Sắc chẳng phải sắc của ngã, ngã chẳng phải sắc của nó. Thức chẳng phải thức của ngã, ngã chẳng phải thức của nó… cho đến Xúc.
Thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều như vậy. Vì pháp chẳng phải pháp của ngã, ngã cũng chẳng phải pháp của ngã nên đối với nghĩa vô căn nó không tăng không giảm.
Nếu căn thanh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Nếu tướng không mà thanh tịnh thì cho đến cứu cánh không cũng đều thanh tịnh.
Nếu một mà thanh tịnh thì không có hai.
Nếu năm ấm tịnh, hành tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Nếu hữu đối tịnh, vô đối tịnh, sắc tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Nếu Bồ tát tịnh, sáu trần tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Nếu quyến thuộc tịnh, dòng họ tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Nếu địa tịnh, trụ tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Đó là nghĩa vô căn của đại Bồ tát.
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Nếu khổ tịnh, không khổ không lạc tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Nếu môn tịnh, chủng tịnh, sanh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Đó là nghĩa vô căn của đại Bồ tát.
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Nếu đạo tràng tịnh, quốc độ tịnh, chúng sanh tịnh thì đạo cũng thanh tịnh. Đó là nghĩa vô căn của đại Bồ tát.
Nếu căn tịnh, lực tịnh, giác ý tịnh, đạo phẩm tịnh thì đạo cũng thanh tịnh.
Thế nào, này Bồ tát Thân Quán! Nay Ta hỏi ông, ông hãy trả lời cho Ta: Như Lai tu sửa đạo tràng, ngồi dưới gốc cây thọ vương, làm thế nào để phân biệt những loài chúng sanh theo pháp hữu ký hay pháp vô ký? Nếu pháp hữu ký thì là dơ cấu của trần lao, còn pháp vô ký cũng là dơ cấu của trần lao. Vậy chẳng lẽ nên lấy vô ký để thọ ký cho chúng sanh sao?
Bồ tát Thân Quán thưa:
– Pháp hữu ký chẳng phải dơ cấu của trần lao, mà pháp vô ký cũng chẳng phải trần lao. Vì sao? – Vì dơ cấu trần lao là pháp thấp hèn mà pháp hữu ký vô ký là pháp cao thượng. Vậy không thể lấy vô ký mà đối trị với trần lao. Vì sao? – Vì pháp trần lao là hạt giống Như Lai.
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Thôi, thôi! Ông chớ nói như vậy. Ông nói trần lao là pháp sanh tử, sao bây giờ lại nói là hạt giống của Như Lai?
Bồ tát Thân Quán thưa:
– Bạch Thế tôn! Thân của Như Lai là biến hóa chứ chẳng phải chúng sanh. Nếu là biến hóa thì không có cõi chúng sanh trong trần lao. Giả sử chúng sanh mà có thân Như Lai thì dơ cấu trần lao chẳng phải là hạt giống Như Lai sao?
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Vì mượn danh hiệu tên chữ để có trần lao nhưng trong đệ nhất nghĩa không có trần lao.
Phật dạy Bồ tát Thân Quán:
– Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn thường dùng thiên nhãn quán ý thức sanh niệm trong một a tăng kỳ chúng sanh khắp mười phương thế giới: Có người nhiều tâm dục, có người ít tâm dục; có người nhiều tâm sân, có người ít tâm sân; có người nhiều tâm si, có người ít tâm si. Người có tâm giải thoát, người không có tâm giải thoát. Người có tăng thượng mạn, người không có tăng thượng mạn. Người dễ cứu cánh, người khó cứu cánh… Những hạng người này Bồ tát đều biết, đều quán hết tất cả rồi đến độ họ.
Làm thế nào mà Bồ tát dùng thiên nhãn quán biết người dục ít, biết người dục nhiều? Nghĩa là trong số người ấy, Bồ tát hiện hình dâm nữ nói việc dâm dục với họ, làm cho họ khoái lạc khó quên, nhìn không nhàm chán, khiến cho ý dục của họ càng thêm hỷ lạc. Sau đó từ từ nói với họ rằng: “Thân là ô uế, vô thường, vô ngã, khổ, không, chẳng phải là thân; dục là hầm lửa thiêu cháy tâm thức…” để họ nhàm chán, lo sợ, không còn dâm dục nữa. Những chúng sanh này ở trong thai liền được thọ ký đạo vô thượng.
Này Bồ tát Thân Quán! Ông nên biết rằng: nếu như chúng sanh này không sân giận, ngu si, đoạn dục thì họ được đắc dạo. Hoặc có Bồ tát kết bạn cùng với bọn người ấy, nói nghiệp sát sanh để họ khoái lạc khó quên: “Ôi, vui thay! Sát sanh là làm giảm tuổi thọ của ông, còn tôi thì tăng tuổi thọ”. Sau đó từ từ nói cho họ nghe rằng: “Sát sanh thì mắc tội rất nặng”, nói cho họ một trăm lẻ tám tội nặng sát sanh rất là khổ não, đau đớn, rồi dìu dắt họ vào đạo, không còn chút dục si. Những người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát kết bạn cùng với chúng, người kia nói mười đạo bất thiện, thân giáo, khẩu giáo, ý giáo đều bất thiện, cho chơn thật là hư ngụy, vô thường cho là thường, không cho là thật có, không có thân nói rằng có thân, khổ cho là vui, không có thế gian nói rằng có thế gian. Sau đó, từ từ nói với họ về vô lượng biện tài, trí sâu rộng lớn, thấu triệt hết tất cả pháp, dựng cờ pháp cho họ rồi từ từ dẫn vào rừng trí huệ: “Các người nên biết, nếu có ai còn nghi ngờ về ta thì nên lấy lửa trí huệ đốt tâm nghi ngờ của người ấy. Nếu người bố thí tay cầm của cải, có người thọ nhận mà hiểu rõ ba việc ấy là không, không có sở hữu, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng”.
Thấy người giữ giới, giới phẩm thành tựu, không phạm một mảy may nào, hiểu rõ tất cả là không tịch, vắng lặng, không có sở hữu, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có chúng sanh lòng nhẫn nhục, không sân giận, nếu có người đến cắt, xẻ, giết nhưng lòng không chút tưởng giận, cho đến đầu, mắt, tủy, não vẫn không chút thương tiếc. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có chúng sanh tâm như kim cương, không có gì làm cản trở, hư hoại được, giả sử có người dùng lời dịu ngọt dụ dỗ: “Kiếp số khó lường, luân hồi trong sanh tử khó có thể tránh khỏi, sao không tự độ mà lại thay thế chịu khổ nhọc cho chúng sanh kia”, nhưng tâm Bồ tát vẫn tiến lên, không bao giờ thối chuyển để rơi vào sanh tử. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có người hành thiền, tâm thức bất động, ma Ba-tuần ở trên hư không làm sấm sét dữ dội, nhưng tâm Bồ tát không bị lay động một mảy lông nào cả, huống chi làm cho vị ấy thối bỏ đạo thiền. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Nếu có chúng sanh phân biệt các hành, điều này có thể hành, điều kia không thể hành. Nếu người nào tham đắm, yêu mến thân thì liền nói cho họ về bốn pháp ý chỉ, phân biệt rõ ràng về kho tàng cốt yếu của các pháp, rao bày, giảng nói vô lượng pháp giới. Người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Từ tam muội, thấy các loài chúng sanh đầy khắp cả vô lượng vô hạn tăng kỳ hằng hà sa cõi ở phương Đông, rồi đem lòng từ bi thương xót muốn họ được giải thoát. Ví như lấy từng hạt cát trong sông Hằng đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm từ không tận. Bồ tát phát nguyện kiên cố khó lay động. Giả sử có người đến lấy thân Bồ tát, tháo cắt xẻ từng miếng để đầy khắp ba ngàn đại thiên quốc độ nhưng Bồ tát thấy máu biến thành sữa, giống như mẹ yêu con. Đó là Bồ tát hành Từ tam muội, người này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập Bi tam muội với lòng từ bi thương xót muốn các loài chúng sanh trong vô lượng vô hạn tăng kỳ hằng hà sa cõi ở phương Nam được giải thoát, lấy từng hạt cát trong sông Hằng đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm bi không tận; kham chịu thay thế những chúng sanh bị khổ kia. Tất cả đều là sự thề nguyền kiên cố của Bồ tát. Chúng sanh nào thấy với tâm thanh tịnh thì xa lìa các khổ, đoạn hẳn vọng tưởng, vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Hỷ tam muội, với lòng nghĩ nhớ đến hỷ, muốn cho các loài chúng sanh ở vô lượng vô hạn a tăng kỳ hằng hà sa cõi ở phương Tây được giải thoát, lấy từng hạt cát trong sông Hằng, cứ qua hằng hà sa cõi thì thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận mà tâm hỷ không tận. Nếu chúng sanh ấy nhập vào hỷ tâm thì tự mình vui thích. Đây đều là Bồ tát phát tâm kiên cố và ở trong thai thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Xả tam muội, sợ vô lượng vô hạn a tăng kỳ hằng hà sa chúng sanh ở phương Bắc có hạnh sứt mẻ lủng chảy, liền nuôi dưỡng, ủng hộ, không cho họ bị chìm đắm; lấy từng hạt cát trong sông Hằng, cứ đi qua hằng hà sa cõi thả xuống một hạt, như vậy cát sông Hằng tận nhưng tâm xả không tận. Đây đều là Bồ tát thệ nguyện kiên cố, vị này ở trong thai thành đạo vô thượng.
Đối với lòng đại từ đại bi, tu pháp chân thật của Bồ tát thì chẳng phải sở hành của La-hán, Bích-chi Phật. Bồ tát muốn cho tất cả chúng sanh khắp bốn phương một khi nghe âm thanh liền tìm tiếng mà đến. Đây đều là thệ nguyện kiên cố của Bồ tát, vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
***
PHẨM THỨ 3: THÁNH ĐẾ
Phật dạy đại Bồ tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, quỷ thần, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Tỳ xá giá, Cưu bàn trà, Phú đa na ma niệu xá a niệu…:
– Nay Ta sẽ nói cho các người về Hiền thánh đế của đại Bồ tát. Hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Vì sao? – Vì từ số a tăng kỳ kiếp ta tu tập đạo quả, chết đây sanh kia, luân hồi trong năm đường nhưng không bao giờ bỏ Hiền thánh đế của Bồ tát.
Bồ tát tu tập Thánh đế như thế nào? – Nghĩa là có Bồ tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi đạo tràng tu hành pháp vô ngại, không chấp vào sự chứng thiền, diệt tận các tưởng ác. Hoặc có Bồ tát nhập vào địa Sơ thiền, thấy hạnh thanh tịnh, xấu hổ để rồi nhàm chán, xả bỏ để mà tiến bộ, sắp bước lên lục trụ, siêng năng tinh tấn đạo nghiệp, nhập vào địa Nhị thiền, tâm hoát nhiên đại ngộ, giống như trăng sáng xua tan mây. Tự quán trong thân mình, tâm phát thệ nguyện là kiên cố hay không kiên cố. Tự đem tâm của mình mà quán tâm chúng sanh, ai dễ độ, khó độ cũng đều biết tất cả. Bấy giờ tâm Bồ tát rất là vui vẻ: “Ta chắc chắn sẽ thành Phật không có nghi ngờ, quốc độ được thanh tịnh, trừ dơ cấu cho chúng sanh, chiến thắng quân ma, chuyển pháp luân hiền thánh vô thượng. Ôi, vui thay! Phước báo sở nguyện ta đều được thành tựu!”.
Bấy giờ Bồ tát nhập vào định Bất loạn, lấy tâm cân nhắc tâm, đem thân cân nhắc thân, liền được thành tựu thánh đạo thần túc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, lễ lạy thờ phụng cúng dường chư Phật Thế tôn, nghe thọ pháp thâm sâu mà không trở ngại, không lo sợ, rồi đến nhập vào Tam thiền, quán các sắc tướng đều là không, không có sở hữu. Khi trụ vào Tam thiền, quán các loài chúng sanh đều có thể phân biệt được rõ ràng: họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây; tự biết đời trước và cũng biết họ từ đâu đến; đây là dòng Sát-lợi hay dòng Bà la môn, dòng cư sĩ hay trưởng giả; người tu hành, người không tu hành; đáng thọ quả, không đáng thọ quả; hơi thở ra vào, chẳng phải hơi thở ra vào; đây là bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, căn lực, thần túc, giác ý, tám chánh đạo… Người này nhất định ở nước ấy, chỗ ấy, trong chúng sanh ấy mà thành Phật. Tất cả hạng người trên, Bồ tát đều biết cả. Đó gọi là Bồ tát ở địa Tam thiền đắc tâm thanh tịnh.
Lại nữa, đại Bồ tát ở trên địa Tam thiền mà mong muốn bát trụ, tuy trông mong nhưng không đắc. Ngày đêm siêng năng tinh tấn cầu cho tâm được thanh tịnh, nhập vào trong Tứ thiền, trước mắt tự thấy chư Phật mười phương nói cho nghe pháp bất thối chuyển của Tứ thiền, giải thoát vô ngại, hành bốn thần túc, có thể phân một thân thành vô số thân, lấy vô số thân hợp lại thành một thân, nhập vào Hỏa Quang tam muội, biến khắp ba ngàn đại thiên thế giới, làm cho chúng sanh ấy thấy Hỏa Quang tam muội nên lòng kinh sợ đến nỗi rợn tóc gáy, tự đến chỗ Bồ tát mà quy y. Nhờ lực tam muội mà được giải thoát.
Bấy giờ trong Tứ thiền phân biệt chơn như, pháp tánh, tâm lui trở lại tu tập hạnh lục trụ. Bồ tát tự nghĩ: “Nay ta chưa đắc địa bất thối chuyển thì làm sao đắc bát trụ?”. Thế rồi ở trong Tứ thiền siêng năng tu tập, làm thanh tịnh hạnh cho chúng sanh, thay thế chịu khổ cho họ. Mặc dù hành pháp như vậy nhưng không tự khen ngợi, trừ bỏ tâm kiêu mạn, không còn chấp ngã, tu sáu tư niệm. Mặc dù hành đạo ở chín đường chúng sanh nhưng tâm không đắm nhiễm, quyến luyến sanh tử, tâm hoát nhiên đại ngộ, đạt được bất thối chuyển. Đó là đại Bồ tát đối Thánh đế mà đắc tâm thanh tịnh.
Thế rồi Bồ tát nhập vào Không xứ tam muội, quán tâm thức của loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này, tu pháp thanh tịnh, xa lìa những sự trói buộc, không còn thương tiếc gì cả, có thể tự mình sống một kiếp, hai kiếp, cho đến vô số kiếp, ở trong số kiếp ấy giáo hóa chúng sanh, người sống người chết từ từ hướng dẫn họ đạt đến đạo thanh tịnh. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Thức xứ tam muội, quán cõi đi đến của các thần thức trong ba ngàn đại thiên thế giới này, dù thiên đạo, nhân đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo, địa ngục đạo, người dễ độ, khó độ,… vị Bồ tát này đều biết cả. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Bất dụng xứ tam muội, quán các loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới là vàng, xanh, đỏ, trắng, nhiều hay ít thì tự nhàm chán không muốn ở lâu. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Có Bồ tát nhập vào Phi tưởng phi bất tưởng xứ tam muội, quán cõi đi đến của các thần thức trong ba ngàn đại thiên thế giới này: người sống, người chết, xanh vàng đỏ trắng, cao thấp… đều làm cho chúng sanh ấy biết sự chấm dứt của thọ mạng. Vị này ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
Thế rồi Bồ tát nhập vào đại hư không, đại tịch tịnh tam muội, quán cõi đi về của các loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này, trên đến vô biên vô tận cõi, tư duy phân biệt tất cả pháp là không có. Đó gọi là đại Bồ tát ở trong thai thành đạo vô thượng.
Rồi Bồ tát nhập vào vô hình giới tam muội, quán khắp các loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới, sự trói buộc của tâm, không còn tự trói buộc nữa, thần thức không có hình tướng nên thức được quán cũng không có hình tướng. Với pháp vô hình, ở trong thai liền thành đạo vô thượng.
***