1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 3

PHẨM THỨ 6: TƯỞNG VÔ TƯỞNG

Bấy giờ đức Thế tôn nói với Bồ tát Di Lặc:

– Trong chúng hội hôm nay đều cùng một hạng thuần là Nhất sanh bổ xứ. Nay Ta sẽ nói về Thức – Tưởng – Thọ ; Vô thức – Vô tưởng – Vô thọ. Lúc ấy, Bồ tát nói Thức – Tưởng – Thọ như thế nào? Thế là Bồ tát phân biệt nói về Thức – Tưởng – Thọ:

Thức chẳng phải Tưởng, chẳng phải Thọ.

Thọ chẳng phải Thức, chẳng phải Tưởng.

Tưởng chẳng phải Thọ, chẳng phải Thức.

Tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Phi thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Phi tưởng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Phi thọ chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Vì sao Thức chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại? – Lúc Bồ tát nhập Vô ngại định giáo hóa chúng sanh có Thọ, Thức. Từ Hữu trụ địa đến Vô trụ địa, Thức này chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại..

Đại Bồ tát lại giáo hóa chúng sanh có Tưởng từ Trụ địa đến Vô trụ địa.

Bồ tát giáo hóa chúng sanh có Thọ từ Trụ địa đến Vô trụ địa.

Bấy giờ tôn giả Đại Ca Diếp liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, bạch trước Phật:

– Bạch Thế tôn! Ý tâm thức thọ tưởng có gì khác nhau?

Phật dạy Ca Diếp:

– Biết thân là biết có sai khác, vì là chúng sanh từ chân lên đến đầu có những chi tiết đều có tên riêng của nó. Như đã nói trong kinh ví dụ về cây, thì rễ, vỏ, thân, cành, lá đều gọi là cây. Vậy thì tâm ý thức thọ tưởng cũng thế.

Đại Ca Diếp bạch Phật:

– Bạch Thế tôn! Tưởng là pháp bên ngoài, Thọ là pháp bên trong. Vậy sao cho là một?.

Phật dạy Ca Diếp:

– Tưởng từ bên ngoài đến, từ bên trong ra.

Ca Diếp bạch Phật:

– Bạch Thế tôn! Tưởng từ bên ngoài đến, làm sao biết được? Nếu bên ngoài vô hình thì bên trong tưởng do đâu mà sanh? Nếu vật bên ngoài không hại, thì bên trong làm sao biết đau?

Phật dạy Ca Diếp:

– Việc này không phải như vậy. Vì sao? – Vì Thức này chẳng phải ở bên ngoài, chẳng phải ở bên trong, chẳng phải hai bên, chính giữa. Chỗ Thức trụ chẳng phải chỗ Thức trụ. Ngoại Tưởng, ngoại Thọ tức là pháp bên trong, chẳng phải pháp bên ngoài. Nếu đại Bồ tát nào tin hiểu một cách sâu xa về pháp bên trong, bên ngoài, chính giữa thì mới có thể hiểu rõ chỗ Thức trụ. Đây là chúng sanh, đây là phi chúng sanh, cho đến pháp Hữu – Vô chẳng phải đây chẳng phải kia, liền nhập vào Vô ngại độc bộ tam muội.

Ca Diếp bạch Phật:

– Hôm nay nghe thuyết pháp, lòng con càng thêm nghi ngờ. Vì sao? – Vì theo Phật đã nói thì Tưởng cũng là Thọ, Thọ cũng là Tưởng. Pháp thức phân biệt về Thức cũng là Tưởng, cũng là Thọ Tưởng. Tưởng từ không Thọ. Thọ từ không Thức. Thức từ không Tưởng. Không chẳng phải là Thức không, Thức không chẳng phải là Thọ không, Thọ không chẳng phải là Tưởng không. Như dụ về cây thì điều này không đúng.

Phật dạy Ca Diếp:

– Ta sẽ đem ví dụ khác nói cho ông. Người trí theo ví dụ này đều được hiểu rõ:

Thuở xưa có vị vua tên là Đặc Dị. Vua có bốn người con: một tên Hỷ Duyệt, hai tên Trường Thọ, ba tên Bách Tuế và bốn tên Vô Úy.

Đứa con Trường Thọ ấy chưa đầy một tháng thì đã qua đời.

Đứa con Hỷ Duyệt thì thân thể mọc đầy mụt nhọt, ai thấy đều ghê gớm, cha mẹ rất lo lắng, luôn luôn buồn rầu.

Đứa con Bách Tuế thì chưa tới một trăm ngày lại qua đời.

Đức con Vô Úy thì môi sứt, mũi hỉnh, răng thì không trật tự, ai thấy đều phát sợ.

Như vậy, Thọ – Tưởng – Thức cũng thế, không khác nhau bao nhiêu.

Phật dạy Ca Diếp:

– Ta sẽ nói cho ông về Thức – Tưởng – Thọ và phân biệt từng pháp một:

Chín mươi mốt kiếp về quá khứ có vị vua tên Trí Huệ, chuyên thực hành Thập thiện, lấy chánh pháp để trị dân. Ông ta không phiền não, theo dõi ý hành của chúng sanh. Khi biết chúng sanh kia có những ý niệm không giống nhau, ông liền sai Thị thần đi tra xét đất nước. Những ai bị mù thì đưa hết họ vào cung đình. Sau khi nhận lệnh vua, vị quan Thị thần đi tuần tra đất nước và đưa được năm trăm người mù về trong sân cung điện Vua lại dắt năm trăm con voi xếp trước điện và sai mỗi người mù tự mình rờ con voi.

Những người mù khi ấy, người thì rờ vòi (mũi) voi, người thì rờ tai voi, người thì rờ đầu voi, người thì rờ chân voi, người thì rờ bụng voi, người thì rờ đuôi voi.

Vua hỏi các người mù:

– Con voi giống như cái gì?

Người rờ vòi thì nói voi như cái sừng.

Người rờ đầu thì nói voi như cái vò.

Người rờ tai thì nói voi như cái sàng.

Người rờ bụng thì nói voi như cái giỏ tre.

Người rờ chân thì nói voi như cây trụ.

Người rờ đuôi thì nói voi như cây chổi.

Khi ấy, những người mắt sáng đứng bên cạnh thấy vậy đều cười cho những người mù kia không biết được hết tướng của con voi. Những người mù ở chỗ vắng cùng nhau bàn luận và họ đều cho mình là nói đúng rồi cùng tranh cãi. Chúng sanh kia cũng vậy, thấy pháp Thức – Tưởng – Thọ đều không giống nhau.

Phật dạy Ca Diếp:

– Ví như có người bày ra một trăm vị thức ăn, nào: tấm, gạo, đậu, lúa mạch lớn nhỏ, mè,… Người nào ăn trúng tấm, gạo thì không biết có loại thuộc đậu hay lúa mạch khác. Này Ca Diếp, đây cũng vậy, pháp Thọ – Tưởng – Thức đều khác nhau, nhưng quán về pháp của chúng thì không sai không khác.

Khi ấy, Thế tôn liền nói với Ca-Diếp bằng kệ:

Thấy trán biết có đầu

Thấy khói biết có lửa

Thấy mây biết có mưa

Quán hành biết thể tánh

Hư không không vết chân

Bóng nước không bắt được

Pháp sư nói cùng tận

Kiết sử tận Niết-bàn

Tưởng tận trong vô tưởng

Thọ diệt cũng không thọ

Thức diệt không có thức

Đạo phạm hạnh vô thượng

Ta từ vô số kiếp

Thường bị thức lừa gạt

Đời nay và đời sau

Không gặp chỗ an lạc

Hiện Ta ở trong thai

Phân biệt tướng các pháp

Không thấy tên tưởng thọ

Huống sẽ có pháp thức.

Khi Thế tôn nói kệ này có năm trăm Tỳ kheo đắc Bất khởi pháp nhẫn. Có ngàn chúng sanh tâm lạc không hành, tâm được tự tại trong cảnh giới Vô dư y Niết-bàn.

***

PHẨM THỨ 7: TRỤ BẤT TRỤ

Bấy giờ, trong hội có Bồ tát tên Vô Trụ Pháp Hành đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất , chấp tay bạch trước Phật:

– Lành thay! Lành thay! Đại chúng trong đại hội này đều thích được thiện lợi, được nghe nghĩa pháp vô lượng của Như Lai. Những gì xưa kia con thệ nguyện, nay mới được nghe.

Và ở trước Phật nói kệ khen:

Hư không, không biên giới

Diễn giảng nghĩa vô lượng

Hữu – vô không sanh diệt

Vắng lặng không thọ tưởng

Chư Phật ở quá khứ

Tu thí, giới, nhẫn nhục

Nhập định, tâm không loạn

Huệ quang chiếu thế gian

Đức ấy không thể lường

Phi hữu cũng phi vô

Âm vọng rất thanh tịnh

Vô thường không sánh bằng

Mật âm thấu vạn ức

Do đây được thành Phật

Tiếng trống pháp nghe xa

Mỗi tiếng đều khác nhau

Giống như vua Chuyển luân

Nghĩ liền mưa bảy báu

Tiếng Phật vang rất xa

Mưa báu bảy giác ý

Sửa sang đạo tràng Phật

Trang hoàng cây quả đạo

Bất trụ không bất trụ

Từ bi cứu chúng sanh

Tâm niệm ứng với thân

Không từ nan kiếp khổ

Chỉ Như Lai mười phương

Ban ấn mở kho pháp

Chúng ta nay được nghe

Được trụ bờ vô vi

Lành thay! Lực Như Lai

Rộng lớn không bờ đáy

Không còn chỗ mở buộc

Pháp chơn tế thật tướng

Đời phiền não cõi Dục

Giáo hóa người ngu si

Phật chứa nghĩa sâu kín

Hiện lưu bố chúng sanh

Cương giới không bờ mé

Đều đắc đạo vô thượng.

Sau khi dùng kệ khen Phật xong, Bồ tát Vô Trụ ở trước Phật thưa:

– Bạch Thế tôn! Năm ấm quá khứ, vị lai, hiện tại thanh tịnh bất trụ hay không bất trụ, cho đến ba mươi bảy phẩm phạm hạnh bất trụ hay không bất trụ? Cảnh giới trước, sau, giữa, cứu cánh tịnh bất tịnh không là bất trụ hay không bất trụ. Ta không tạo tác, chẳng phải không tạo tác, chẳng phạm hạnh, chẳng phải không phạm hạnh. Cúi xin đức Thế tôn nói về trụ bất trụ.

Phật dạy Bồ tát Vô Trụ:

Tướng sắc là bất trụ không phải bất trụ.

Tướng thọ là bất trụ không phải bất trụ.

Tướng tưởng là bất trụ không phải bất trụ.

Tướng hành là bất trụ không phải bất trụ.

Tướng thức là bất trụ không phải bất trụ.

Pháp bên trong thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Pháp bên ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Pháp trong ngoài thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ. Từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi nơi đạo tràng luôn đoạn trừ các vọng tưởng, làm thanh tịnh Nhất thiết trí là bất trụ không phải bất trụ.

Trừ sạch các cấu bẩn cho chúng sanh thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Nhập Kim cang tam muội, giữ ý chí kiên cố thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Làm sát na lợi thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Du hý trăm ngàn tam muội thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Không dừng ở địa phàm phu, không vào nhà Hiền Thánh thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Không tự khen ta đã thành đạo quả thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Ba mươi hai tướng đại sĩ, phóng ánh sáng lớn chiếu xa đến vô lượng thế giới khắp mười phương ; tất cả chúng sanh tìm đến ánh sáng ấy đều được nghe pháp thâm diệu của Như Lai ; theo ý nghĩ của họ mà có lời nói thượng – trung – hạ, khiến cho tất cả đều đầy đủ để phân biệt rõ các pháp trụ là bất trụ, mà bất trụ cũng bất trụ.

Sắc, thọ, tưởng, hành thức, mười hai nhân duyên, bốn vô ngại huệ, không, vô tướng, vô nguyện, bốn thiền, bốn vô lượng huệ thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Dùng lực thần túc vào trong năm đường thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Nhập giải thoát môn, giới thân, định thân, huệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân thanh tịnh là bất trụ không phải bất trụ.

Phật dạy Ca Diếp:

– Ta sẽ nói ao tám vị pháp cam lồ thanh tịnh. Thế nào là tám? – Như Ta ngày nay ngồi tự tại nơi giảng đường, phía Đông thấy ao thanh tịnh, xung quanh có hành lang bằng bảy báu. Ngay lúc ấy, Ta cũng không nói khổ – tập – diệt – đạo cho chúng sanh. Ai uống được nước ao này thì đều thành đạo quả. Đó gọi là do thần lực của Bồ tát làm ra. Ở phương Nam, Tây, Bắc cũng như vậy.

Ta xưa thành Phật thì bốn phương theo bên phải, chứ chẳng phải theo bốn góc mà thành Phật. Bốn góc thành Phật là thị hiện thành Phật không thật. Vì sao? – Vì trải qua vô số a tăng kỳ kiếp đã thành tựu tám vị pháp. Thế nào gọi là tám?

– Một: vị hỷ.

– Hai: vị tận.

– Ba: vị định.

– Bốn: vị đáo.

– Năm: vị tịnh.

– Sáu: vị tướng.

– Bảy: vị bất động.

– Tám: vị bất cứu cánh.

Đó là tám vị trong ao.

Nếu đại Bồ tát nào uống nước cam lồ này thì không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sẽ thành đạo vô thượng. Từ mới phát tâm cho đến khi ngồi dưới đạo thọ rửa sạch tâm cấu bẩn, vĩnh viễn không còn gì cả. Ai có nước tám giải thoát trong ao bảy giác ý từ sơ tâm đến giải thoát: chưa đến, khoảng giữa, đã đến mà ở giữa của hai địa. Như vậy mới gọi là Bồ tát.

Nếu Bồ tát từ ao nước tám vị mà phân biệt hỏi mùi vị của nó: đây là vị chẳng phải vị, đây là đạo chẳng phải đạo, tai không phân biêt tiếng, mũi không phân biệt hương, lưỡi không phân biệt mùi vị. Phân biệt rõ ràng là vô sở hữu, vì các pháp điếc. Đó là đại Bồ tát tịnh tu hạnh thanh tịnh.

***

PHẨM THỨ 8: BÁT CHỦNG THÂN

Phật dạy:

– Các đại Bồ tát bậc học, vô học và bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đến đây hội họp đều được tất cả chúng sanh cúng dường.

Hoặc có chúng sanh ở Kiến địa, Bạc địa, Tịnh địa, Như Lai địa, Bích Chi Phật địa, Bất thối chuyển địa, Đạo tràng địa, Thuyết pháp địa. Nhờ tám địa này mà thành Vô thượng Đẳng chánh giác.

Kiến địa là gì? – Là Bồ tát phát tâm hướng lên ngôi Vô thượng Bồ-đề.

Lại có Bồ tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi dưới cây Thọ vương, tự điều phục tâm dục của mình, chiến thắng quân ma thì nhập định tam muội ngay chỗ ngồi. Tam muội ấy là:

– Khử tật đố tam muội

– Tâm thắng tam muội

– Bí tàng tam muội

– Trừ si tam muội

– Oai thần phục tam muội

– Như chư Phật Thế tôn vô ngôn giáo tam muội

– Thị hiện biến hóa tam muội.

Khi ấy, tệ ma Ba-tuần đến quấy nhiễu Phật. Nếu không phải sức của chính mình để đến thì đều nhờ oai thần của Như Lai ấy cảm vời ra. Vì sao? – Vì muốn biểu hiện pháp thế tục yếu kém, còn pháp đệ nhất nghĩa thì thù thắng. Vì sao? – Vì nếu tệ ma Ba-tuần nổi sân giận, la hét làm chấn động mặt đất thì Phật dùng Nhẫn tam muội nên không sao bị lay động, còn khiến cho vô số tệ ma Ba- tuần ngã lăn ra đất, giống như dế, đĩa, kiến và ruồi,… không thể nào hành động được. Bọn tệ ma Ba-tuần y như vậy. Nếu con ma nào có đến cũng không thể nào động đến mảy lông Ta được.

Khi ấy Thế tôn dùng oai thần nhập vào định tam muội, làm chấn động đến tệ ma trong cảnh giới của một đức Phật. Các ác ma này tuyên bố:

“Sa môn Cù-Đàm tâm rất yếu mềm, không phải ý chí của trượng phu , vậy mà ở chỗ rất đáng sợ này lại muốn cầu Phật đạo” .

Phật dạy đại chúng:

– Tệ ma Ba-tuần ấy là do Ta tạo ra. Tâm ma ấy là tâm thiện hay tâm ác?

Lúc đó có vị trời tên Câu Tỳ, bạch Phật:

– Phật chiến thắng ma không phải là lực của ma, mà là thần lực của Phật. Vì sao? – Vì loài chúng sanh ấy không hiểu pháp thế tục mà lại dùng pháp đạo. Vì muốn giáo hóa các chúng sanh ấy nên Ngài chiến thắng cho ma đến. Trong đó chúng sanh thấy các ma, lòng không ưa thích nhìn thấy rõ ràng sự việc. Cả ngàn vạn chúng sanh lập tâm bất thối chuyển.

Lại nữa, đại Bồ tát từ Đao Lợi thiên sanh vào mười phương cõi, không sanh theo thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh, thai sanh giáo hóa chúng sanh. Những Bồ tát này thành tựu căn vô ký nên chúng sanh được giáo hóa cũng thành tựu căn vô ký. Vì sao? – Vì là cảnh giới Phật A-Súc.

Hoặc có đại Bồ tát từ thế giới Nhẫn sanh vào cõi Phật Bắc Phương Quang Ảnh, thành tựu căn hữu ký và vô ký. Chúng sanh được giáo hóa cũng đều thành tựu căn hữu ký và vô ký. Đó là chúng sanh ở cõi Phật Diệu Quang của thế giới Dục Lạc.

Hoặc có đại Bồ tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, giữ tâm một bề không có tư tưởng nào cả và không sân, không giận, mong muốn sanh vào cõi Phật Vô Lượng Thọ. Tất cả chúng sanh đều sanh vào cõi đó. Bốn bộ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đều cùng một màu vàng ròng.

Về phương Tây, cách Diêm Phù Đề này mười hai ức na-do-tha có cõi nước tên Giải Mạn, dân trong quốc độ ấy ưa thích ca hát ; y phục, trang sức, hương hoa, trang hoàng giường cửa bằng bảy báu. Đưa mắt về phía Đông thì giường báu cũng chuyển theo, nhìn về phía Tây, Nam, Bắc đều cũng chuyển như vậy. Tất cả chúng sanh đều phát tâm muốn sanh về cõi Phật A-Di-Đà, nhưng họ đều bị đắm nhiễm vào cõi Giải Mạn nên không thể nào tiến lên để sanh vào cõi Phật A Di Đà. Trong ức ngàn vạn người có một người có thể sanh vào cõi Phật A Di Đà. Vì sao? – Vì tâm họ không chấp trước, giải đãi, ngã mạn. Những chúng sanh này tự mình không sát sanh, cũng không bảo người khác sát sanh. Do có những phước báo như vậy nên họ sanh vào cõi Vô Lượng Thọ.

Hoặc có đại Bồ tát đầy đủ sáu độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và giải thoát trí huệ, sanh vào cõi Phật Dõng Dước ở phương Nam, cách Diêm Phù Đề này một ức cõi Phật. Những chúng sanh ấy không có tư tưởng si, ái, dâm, dục. Vì sao? – Vì họ đã đoạn diệt hết ba mươi sáu hành động dâm dục ở cõi Dục, chủng tánh được thành tựu, việc làm đều thanh tịnh, giống như ánh sáng mặt trời không bị mây che.

Chúng sanh cõi này hành mười hai hạnh đầu đà. Mười hai hạnh ấy là gì? – Là ngày đêm ba thời, kinh hành, ngồi thiền không sai giờ giấc, ngồi dưới gốc cây, ở trong gò mã, ở nơi đất trống, ở chỗ hang đá không có người , sống chỗ nguồn suối, có lúc ăn một bữa, không ăn, mặc pháp phục tề chỉnh không mất oai nghi, có lúc nói pháp, có lúc không nói pháp, kinh hành xoay vòng biết vừa đủ, pháp để nói là: “Thiểu dục là chơn đạo, đa dục là phi đạo, dừng tâm định ý, hiểu pháp không – vô tướng – vô nguyện” . Đó là những sự tu hành của đại Bồ tát ở cõi Dõng Dước. Chúng sanh ấy chuyên học về Nhất thừa, không có La-hán, Bích Chi Phật thừa, có đầy đủ tướng tốt, ca ngợi chánh pháp, hiểu về không, vô ngã.

Khi ấy, Thế tôn liền nói kệ:

Tất cả hành đã diệt

Thức là pháp bên ngoài

Có sanh đều có diệt

Niết-bàn rất an lạc

Cúi lạy Phật Dõng Dước

Đấng pháp vương đệ nhất

Ngồi dưới cây Diêm Phù

Ban đầu phá lưới dục

Nói pháp độ quần sanh

Cúng dường các ruộng phước

Ngồi dưới cây tư duy

Phạm thiên đến khuyến thỉnh

Xin Ngài ra khỏi thiền

Thương xót kẻ ngu si

Khi ấy Phạm Thiên Vương

Tay cầm đàn lưu ly

Ca ngợi công đức Phật

Giọng êm ả dịu dàng

Với ức trăm ngàn kiếp

Có người phát tâm đạo

Tâm đạo gốc Bồ tát

Ức kiếp có một lần

Xin mau ra khỏi thiền

Chuyển pháp luân vô thượng

Như hoa Ưu-đàm-bát

Lâu xa có một lần

Có Phật chiếu thế gian

Trừ tăm tối trần lao

Thế giới Phật Dõng Dước

Nghe thí, giới thanh tịnh

Không giống cõi Năng Nhẫn

Cứng cõi khó giáo hóa

Tư duy đạo thiền định

Diệt thân không thọ chứng

Ba chuyển, năm ngại pháp

Dây mười hai mắc xích

Đạo nghiệp ba mươi mốt

Mười sáu tâm từ bi

Tỏa phóng ánh sáng lớn

Chiếu khắp các cõi Phật

Sau khi nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng trong hội:

– Về phương Đông-bắc, cách thế giới Năng Nhẫn này năm trăm hằng hà sa cõi có nước tên Quả Thục, Phật hiệu Hoa Anh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn, hiện đang giảng pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, ý vị thâm thúy, đồng tu phạm hạnh. Chúng sanh cõi ấy không có thai sanh, hóa sanh, thấp sanh và noãn sanh. Tất cả đều sanh từ hoa sen, có từ – bi – hỷ – xả, một trăm lẻ bảy thần túc định ý khó có và đều cùng nhau tu tập tam muội Vương tam muội. Tam muội ấy là:

– Thủ Lăng nghiêm tam muội

– Giác đạo tam muội

– Oai nghi cấm giới tam muội

– Trừ chúng sanh khổ bổn tam muội

– Tự chiếu quang minh tam muội

– Giác vị chúng sanh tam muội.

Một trăm lẻ bảy tam muội như vậy.

Quán thân bên trong, quán thân bên ngoài, quán trong ngoài thân ; pháp trong, pháp ngoài, pháp trong ngoài ; định trong, định ngoài, định trong ngoài ; tư duy phân biệt, quán rõ vô hình, vô tưởng, vô niệm. Đại Bồ tát nhập vào môn giải thoát, quán tất cả pháp đều không tịch, vô hình.

Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ:

Hư không, không biên giới

Âm vang nói diệu pháp

Bồ tát cõi Quả Thục

Đấng tối thắng Hoa Anh

Không sanh bốn bào thai

Mà sanh từ hoa sen

Tưởng không ta không người

Tuổi thọ không thể lường

Quốc độ bằng bảy báu

Cũng như Diêm Phù Đề

Vua Chuyển luân bảy báu:

Voi, ngựa, ngọc nữ báu

Giữ kho, bốn bộ binh,

Ma ni, xe báu vàng

Đi đâu cũng không ngại

Ma ni báu cõi ấy

Chiếu khắp một cõi Phật

Chiếu vô biên cũng vậy

Cõi ấy không nhật nguyệt

Tinh tú và lửa sáng

Phân biệt bốn diệu đế

Đạo vô thường, khổ, không

Khiến các chúng sanh ấy

Vô sanh đoạn diệt tưởng

Nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng:

– Về phương Tây-bắc, cách Diêm Phù Đề này bảy vạn hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Bảo Lưu Ly, Phật hiệu Huệ Thành Tưu, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn hiện đang nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối thiện. Chúng sanh cõi ấy có tánh nhu hòa, quán đạo vô thường, xa lìa ba tai hại, không dâm – nộ -si, không có ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Bấy giờ Thế tôn nói kệ với đại chúng:

Các nhập đường phiền não

Gây bốn loại điên đảo

Tất cả đều diệt tận

Như hư không không tướng

Tuổi thọ đến vô số

Không có ai chết yểu

Hành bốn pháp vô úy

Chứng quả không lay động

Ai sanh trong cõi ấy

Hành từ chứng tam muội

Như Ta – Thích Ca Văn

Dõng mãnh vượt kiếp số

Cho nước, của, vợ con

Không tưởng, không luyến tiếc

Này Phật tử các ông

Phát nguyện sanh cõi ấy

Không có pháp Thanh văn

Rõ nhân duyên thành Phật

Ở trong trăm ngàn kiếp

Siêng năng tu đạo đức

Trong mười sáu phần này

Chưa đạt được một phần

Quán tánh pháp các pháp

Huệ thông đạt vô ngại

Diệt sạch tâm chấp ngã

Liền trụ địa Vô sanh

Các chúng sanh cõi ấy

Lập chí rất kiên cố

Phá hữu, không trụ hữu

Pháp bổ xứ đã học

Này Phật tử các ông

Hiểu rõ không chỗ hành

Xả thiền, nhập Sơ thiền

Mới biết khổ chúng sanh

Trung gian chín vô ngại

Tướng thiền không thể lường

Tâm chúng sanh thanh tịnh

Ý niệm không giống nhau

Đã lìa vực năm đường

Phật nhật chiếu ba cõi

Lành thay được lợi lớn

Cảm động các cung trời

Đồng chơn Nhất thiết trí

Giáo hóa không mỏi mệt

Chúng sanh đắc tâm từ

Luyến mộ đạo vô thượng

Trải qua vô số kiếp

Bỏ thân, lại thọ thân

Luân hồi trong sanh tử

Được thoát khỏi trói buộc

Hương chiên đàn tứ đế

Hương cây Mật-tế-bặc

Sức trí huệ tam muội

Phá hoại chúng binh ma

Hết một niệm quá khứ

Lấy tam muội gì đoạn

Hết hai niệm vị lai

Trừ bằng định, đạo nào

Hết ba niệm hiện tại

Diệt tận cốt còn gốc

Hết một niệm quá khứ

Chín vạn ức trần cấu

Do không tịch tịnh định

Đạt đến không, không bờ

Vị lai dứt chín kiết

Tâm định không niệm tưởng

Tịch nhiên đạt Phật đạo

Luôn trụ vô sở trụ

Ba chín kiết hiện tại

Cầu pháp vô quái ngại

Diệt trừ tâm ý thức

Dần dần trụ vô ngại.

Nói kệ xong, đức Phật dạy đại chúng:

– Về phương Tây-nam, cách thế giới Năng-Nhẫn này ba mươi hai hằng hà sa cõi, có nước tên Vô Tưởng, Phật hiệu Nhất Trụ Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn, hiện đang nói pháp, lời nói đầu đều thiện, giữa đều thiện, cuối đều thiện, ý nghĩa thâm thúy, phân biệt rõ về năm ấm: sắc – thọ – tưởng – hành – thức, sáu tình, sáu trần, tu tướng vô thường, chánh niệm tỉnh thức. Pháp ban đầu là tư duy phá hoại về thân. Thân này chẳng thật có, cho bốn con rắn là nhà. Thân này như độc làm hoại đạo thiền của con người. Thân này như voi, tâm không vừa đủ. Thân này như rồng thích ở vực sâu. Đạo Phật vô vi, thanh tịnh không tỳ vết, như hoa sen trong nước mà không nhiễm bùn dơ, như mặt trời chiếu trời đất làm che lấp tất cả ánh sáng của đom đóm. Trong các núi cao, núi Tu Di là trên hết. Trong ánh sáng của các vì sao thì ánh sáng mặt trăng là trên hết. Như Lai hiện ra đời vì đuốc pháp là đệ nhất.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ:

Đoạn cấu, diệt trừ tưởng

Tâm trói buộc được mở

Ý niệm định tịch nhiên

Tịnh hạnh được đầy đủ

Trong một ý một niệm

Đoạn diệt cấu kiết sử

Trừ bỏ hẳn kiếp khổ

Chấm dứt không tái sanh

Đạo không tịch vô thượng

Như có, như không có

Người, ta và các pháp

Tưởng như mộng, ảnh, huyễn

Bồ tát tu khổ hạnh

Kiếp số khó lường được

Muốn nói hết căn bổn

Chẳng một, chẳng hai hình

Nếu có người trí tuệ

Giảng nói vô lượng nghĩa

Một nghĩa có ức câu

Mỗi câu đều khác nhau

Hư không lấp đầy được

Nhưng nghĩa ấy không cùng

Ta từ xưa đến nay

Hành sáu độ vô cực

Bố thí trừ xan tham

Thiền định cũng như vậy

Kiếp thiêu, tâm không động

Không đến cõi Phật khác

Nhờ thần lực cảm vời

Trụ kiếp mà giáo hóa.

Nói kệ này xong, Thế tôn liền dùng định ý để tự trang nghiêm thân, nói với đại chúng:

– Về phương Đông-nam, cách thế giới Năng Nhẫn này Ba mươi ba hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Lưu Ly, Phật hiệu Tín Giải Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn hiện đang nói pháp, lời nói đầu đều thiện, giữa đều thiện, cuối đều thiện, phân biệt hạnh kiết tường của bốn đạo. Bảy lần sanh, còn lại ba lần không sanh trở lại thì ở ngay hiện đời mà bát Niết-bàn, đoạn khổ – tập – diệt – thủ đạo chứng đắc.

Khi ấy, có vị trời tên Nhãn Tịnh ở trong chúng còn hồ nghi: “Nay ta nên hỏi Như Lai về ý nghĩa đó để cho bạn đồng tu của mình đều được khai ngộ”. Thế rồi thiên tử đứng dậy, quỳ dài chấp tay bạch trước Phật:

– Cúi xin đức Thế tôn nói cho chúng con về nghiệp dâm – nộ – si của đại thừa bình đẳng. Quá khứ, vị lai, hiện tại những chúng sanh si ám nào nhập vào môn giải thoát?

Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh:

– Lành thay! Lành thay! Đây chính là con mắt khai thị tất cả. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Thế nào, nhãn là sắc phải không?

Thưa:

– Không phải .

Phật lại hỏi:

– Là phi sắc ư?

Thưa:

– Không phải.

Phật hỏi:

– Là sắc, là phi sắc ư?

Thưa:

– Sắc không có chỗ trụ.

Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh:

– Như vừa rồi ông nói: sắc ấy chẳng phải sắc, là sắc, là phi sắc, sắc không có chỗ trụ thì vì sao đặt danh từ để nói là sắc?

Bồ tát Nhãn Tịnh thưa:

– Tánh sắc hư mục, hiện tại diệt không trụ, quá khứ không hiện. Đời này qua đời sau vĩnh viễn đoạn tận không còn nữa, cho nên nói Vô-dư Niết-bàn.

Phật hỏi Nhãn Tịnh:

– Thức này từ xưa đã có hay từ đâu sanh? Ngày nay bốn chúng diệt cấu bẩn ba đời, vậy thì đi về đâu?

Nhãn Tịnh thưa:

– Xưa vốn từ không mà đến, nay trở về không. Trước không, sau không thì có thay đổi gì khác không?

Phật dạy:

– Không. Ông nên biết rằng: thật tướng của các pháp trước không thể cùng, sau không thể tận.

Phật dạy Bồ tát Nhãn Tịnh:

– Ta từ vô số a tăng kỳ kiếp luôn tu hành phước nghiệp, nghĩ đến tất cả chúng sanh bị đắm chìm mà thương xót cho sự đau khổ của họ, muốn độ họ giải thoát. Vì sao? – Vì nay ở trong thai, dục mà Ta diệt thì Ta đã diệt sạch hoàn toàn, kết quả nguyện thành ngày nay đã đạt được.

Chúng sanh cõi ấy không lấy việc thành Phật hay không thành Phật cho đây là mối khổ lụy. Vì sao – Vì chúng sanh cõi ấy lập ý dõng mãnh, không ở hữu thai, không ở vô thai, không ở hóa sanh, công đức thành tựu, chẳng phải giác, chẳng phải phi giác.

Thế nào là giác và thế nào là phi giác?

– Tất cả chúng sanh ngu si Ta đều giác ngộ cho ho, đó gọi là giác. Tất cả những người giác ngộ đoạn trừ hết kiết sử, đó gọi là phi giác.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ:

Biết Phật hiện nơi đời

Phóng xa ánh sáng lớn

Khổ tập diệt kiết sử

Đứng yên không dám gần

Giả sử đất chấn động

Ba cõi nát như bụi

Nhiếp tâm nhập định ý

Các tướng đều khác nhau

Niệm Như Lai chí chơn

Trừ tưởng không nhập định

Vào trở lại chúng sanh

Tạo nhân lại tạo duyên

Tinh tấn trí huệ lớn

Giáo hóa kẻ ngu si

Hướng dẫn chúng sanh này

Để độ kẻ chưa độ.

***

PHẨM THỨ 9: TOÀN THÂN XÁ LỢI

Khi ấy, đức Thế tôn dạy đại chúng:

– Ta nhớ công đức mà xưa kia Ta đã hành xả thân lại thọ thân chẳng phải một chẳng phải hai. Nay Ta sẽ nói cho ông về pháp nhất hành. Sao gọi là pháp nhất hành?

– Đại địa chủng này dày tám mươi bốn vạn ức dặm mới có gió lớn dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới gió có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới nước có lửa dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới lửa có cát dày tám mươi bốn vạn ức dặm, dưới cát có cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm. Toàn thân xá lợi của chư Phật đều trong cõi Kim cang ấy.

Cõi Kim cang dày tám mươi bốn vạn ức dặm, phía dưới có xá lợi thân vụn nát của chư Phật đều ở trong cõi ấy. Cõi ấy có cõi Phật Diệu Âm, Phật hiệu Bất Trụ Như Lai, đầy đủ mười hiệu, hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện và lời nói cuối đều thiện ; tịnh tu phạm hạnh, thành tựu quốc độ. Xá lợi Phật ấy rất cực nhỏ, có thể hiện thân Phật có quyến thuộc đệ tử vây quanh để giáo hóa. Như ngày nay Ta ở trong thai giảng pháp, chúng sanh ấy không thấy Ta. Chúng sanh của Ta không thấy cõi kia, phá Hữu đến Vô, luôn luôn vắng lặng, tánh trụ vào chỗ vô ngại. Đó gọi là do một xá lợi chiêu cảm ra.

Phật lại dạy các đại chúng:

– Phía dưới thân vụn xá lợi dày tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thanh Tịnh, Phật hiệu Biến Quang, có đầy đủ mười hiệu. Phật ấy hiện đang thuyết pháp, đầu giữa cuối đều thiện, tịnh tu phạm hạnh. Mỗi màu sắc ánh sáng của Phật ấy khác nhau, mỗi ánh sáng đều hóa thành mỗi đức Phật, mỗi đức Phật đều nói hết sáu độ vô cực.

Sáu độ đó là gì? – Là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ ; dùng phương tiện thiện xảo điều phục tâm thức, không ngu si, không dâm, không ham muốn ; quán sát rất rõ về các pháp giống như trăng xua tan mây ; tự quán thân mình như ta không khác, tâm đắc không định, đều được thành tựu tất cả ; ngồi ngay thẳng nơi đạo tràng, ca ngợi xiển dương chánh pháp, tâm không sợ hãi.

Cách cõi Phật Quang Minh này về phương dưới tám mươi bốn vạn ức dặm có cõi tên Thí Vô Tận Tàng, Phật hiệu Quán Trợ Như Lai, đầy đủ mười hiệu hiện đang thuyết pháp, lời nói đầu giữa cuối đều thiện, luôn tu phạm hạnh, bố tí tài vật. Người nào tuân theo đều đắc đạo quả. Đó gọi là sự bố thí hiếm có của Như Lai.

Dưới thế giới Vô Tận có thế giới Pháp Cổ dày tám mươi bốn vạn ức dặm, Phật hiệu Thiện Kiến, đầy đủ mười hiệu, hiện đang giảng pháp. Chúng sanh cõi Phật ấy không có nhiều tên, đều cùng một chữ, một họ ; nghe pháp hiểu ngay không cần phải suy nghĩ lại. Chính cõi ấy mới có toàn thân xá lợi. Ức ngàn vạn đức Phật ở quá khứ đều lưu xá lợi lại nơi đây. Xá lợi ở cõi ấy Ta cũng có phần, chẳng phải một chẳng phải hai. Xá lợi Phật ấy không có trụ xứ, cũng chẳng phải không trụ, qua lại xoay vần trong hằng hà sa cõi ; tướng ánh sáng đầy đủ, theo căn cơ chúng sanh mà giáo hóa, không có ai biếng nhác, đoạn diệt ba mươi mốt ức kiết sử và hai vạn hai ngàn vọng tưởng ràng buộc ; có mười tám pháp bất cộng thù thắng, thị hiện giáo hóa, thọ chứng Vô úy.

Khi ấy Thế tôn nói kệ:

Ta từ vô số kiếp

Qua lại đường sanh tử

Xả thân lại thọ thân

Không lìa sanh bào thai

Nghĩ việc Ta trải qua

Nhớ rõ không sai sót

Thường làm thân chó trắng

Xương chất ức Tu-Di

Lấy kim đâm xuống đất

Đều gặp thân thể Ta

Huống gì chó màu khác

Số ấy không thể lường

Ta luôn nhiếp tâm mình

Không cho nó buông lung

Như người đứng Tu Di

Giữ bình thuốc bất tử

Người ở dưới nâng bình

Rót thuốc không rớt ngoài

Trong lúc gian nan ấy

Bị thổi theo gió núi

Thân phàm phu như bụi

Chỉ trừ người Bát trụ

Hai người giữ bình này

Ai là người tối thắng

Người ở dưới chánh niệm

Luôn sợ ngã hai bên

Thọ lạc không mất nghĩa

Nên gọi đạo thần túc

Người trên đại từ bi

Nói ngay không tra cứu

Ý thức đều khác nhau

Thành đạo cũng như vậy

Ta ở cõi khổ nhẫn

Thành Phật giống người dưới

Tích hạnh A tăng kỳ

Mới đạt thành Phật đạo

Cõi này đến cõi kia

Trải ngàn ức như vậy

Như kim quăng xuống biển

Thò tay liền lấy được

Không huệ cầu tháo nước

Nhiều kiếp không lấy được

Người ngu si thế gian

Không phân biệt thiện ác

Núi Tu Di bốn báu

Nói là đống than khói

Đại bàng vua loài chim

Lại cho là ve, muỗi

Trùng ở dấu chân bò

Không thấy biển rộng lớn

Nhật quang là ngựa hoang

Người ngu cho ngọn lửa

Pháp ấy Ta đâu tạo

Người ngu tự làm ra

Thức ra vào liên tục

Tinh luyện thuật đạo thành.

Khi ấy, Thế tôn liền đọc chú:

– Y nhĩ ma nhĩ, trà thệ ly thệ thuần đồng xí ly xí ly.

Bấy giờ, Đại Thiên Vương Tỳ sa Môn liền đứng dậy, đầu mặt đảnh lễ chân Phật, thưa:

– Con luôn ủng hộ thiện nam, thiện nữ, người thiện hành pháp, ủng hộ ba ánh sáng ba bóng của thân người ấy. Ba ánh sáng ba bóng là gì? – Như ngày nay con thống lãnh chúng La-sát, là bóng của thân, bóng thân của thân, bóng của bóng. Ảnh của thân là gì? Bóng thân của thân là gì? Bóng của bóng là gì?

Khi ấy Thế tôn nói kệ:

Thân do bốn đại hợp

Địa, thủy, hỏa, phong thành

Qua lại ở xoay vần

Ở cũng không thấy ở

Thân và thân của thân

Hết đời lại thoát thân

Nghĩa ba câu bóng bóng

Như Phật lưu thần quang

Vải gói thuốc Ma-kỳ

Cách xa mùi vẫn thơm

Pháp giải thoát của Phật

Thanh tịnh không tỳ vết

Bóng thân thân giáo hóa

Độ người không được độ

Ai thấy pháp thân tướng

Nhập định niệm thân thân

Bóng bóng không hồ nghi

Đều thành đạo Vô thượng.

Khi ấy, Đề Đầu Lại Tra muốn ủng hộ các Pháp sư liền nói chú:

– Y hê, ma hê, Diêm phù, Diêm lam phù đột đột lặc xí. Ta sẽ ủng hộ Pháp sư trong ức ngàn trăm vạn do-tuần để không có ai quấy nhiễu vị ấy được.

Tỳ Lâu lặc Xoa thiên vương liền đứng dậy thưa trước Phật:

– Con cũng sẽ ủng hộ Pháp sư chân thật.

Và liền nói chú:

– Già lê, già lê, ni trĩ, cứu bát trĩ , làm cho trong ức trăm vạn do-tuần không có ai làm hại quấy nhiễu cả.

Tỳ Lâu Bác Xoa Vương liền đứng dậy, đầu mặt lạy sát chân Phật và thưa:

– Bạch Thế tôn! Con sẽ ủng hộ vị Pháp sư chân chánh.

Và liền nói chú:

– Xá nhĩ, xá nhĩ, bát bà thiên ma lâu hê, khiến cho trong trăm ức do-tuần không có ai đến quấy nhiễu.

Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ:

Hoa thơm sắc tuyệt đẹp

Cảm động các cõi Phật

Do Phật không tưởng niệm

Thành Phật luôn hướng đạo

Sức nhẫn không biên giới

Phá hữu – vô ba thừa

Tướng toàn thân xá lợi

Rất nhỏ như bụi trần

Cứu giúp cả hằng sa

Không đọa ba đường ác

Phật hiện kiếp cần khổ

Che chở hành đại bi

Chúng sanh không biên giới

Để thành đạo vô thượng.

Khi ấy, trong đại hội có ba mươi hai ức chúng sanh liền phát tâm Vô thượng bình đẳng.

***

PHẨM THỨ 10: THƯỜNG – VÔ THƯỜNG

Bấy giờ, trong đại chúng có Bồ tát tên Quán Kiến Vô Thường đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Lành thay! Lành thay! Bạch Thế tôn! Ngài hãy mau nói nghĩa này. Chánh pháp của chư Phật không thể nghĩ bàn. La-hán, Bích Chi Phật không thể nào theo kịp. Vốn nó không có chơn tánh, không thể cùng tận. Như Lai hiện thân ra một vào một, biến hóa đủ cách, khi làm nát thân xá lợi, hoặc giữ toàn thân xá lợi, hoặc ẩn mất không hiện, hoặc lưu bố trong thế gian, hoặc hiện cảnh giới một đức Phật, hoặc hiện rất nhiều cảnh giới chư Phật, thần thông biến hóa, đạo lực tự tại, kỳ lạ đặc biệt như cõi hư không. Thường cũng là vô thường, vô thường cũng vô thường. Trụ cũng vô trụ, vô trụ cũng vô trụ. Biến đổi chẳng phải một. Nguyện muốn nghe Như Lai nói về nghĩa thường, vô thường. Như ngày nay con ở trong cửu địa là thường hay vô thường?

Khi ấy, Thế tôn dạy Bồ tát Thường Vô Thường:

– Nay Ta hỏi ông, ông hãy đem tánh chân thật để trả lời cho Ta. Thế nào, này tộc tánh tử! Sắc là thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Thế tôn hỏi:

– Sắc là vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Thế tôn hỏi:

– Sắc chẳng phải thường, chẳng phải vô thường , phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thế nào, này tộc tánh tử! Sắc là hữu dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Sắc là vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Sắc là hữu dư, vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Sắc chẳng phải hữu dư, chẳng phải vô dư, phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Phật dạy:

– Tộc tánh tử! Thọ – tưởng – hành – thức là thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức là vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức là thường, là vô thường phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức là hữu dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức là vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành – thức là hữu dư vô dư phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Thọ – tưởng – hành thức chẳng phải hữu dư chẳng phải vô dư, phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Phật hỏi Bồ tát Thường Vô Thường:

– Niết-bàn là tịnh phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Niết-bàn là bất tịnh phải không?

Trả lời:

– Thưa không .

Thế tôn hỏi:

– Niết-bàn là tịnh bất tịnh phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Phật dạy Bồ tát Thường Vô Thường:

– Thật tánh của Niết-bàn thật sự đứng ở chỗ nào:

Trả lời:

– Đứng mà không có chỗ đứng.

Phật hỏi:

– Phi hữu chúng sanh, phi vô chúng sanh phải không?

Trả lời:

– Thưa không.

Phật dạy:

– Duyên vị đoạn từ năm tụ tánh cho đến ba mươi bảy phẩm, không, vô tướng, vô nguyện.

Duyên vị đoạn không lìa, chẳng phải không lìa, không sanh chẳng phải không sanh, cho nên đứng mà không có chỗ đứng.

Vì sao? – Vì tánh tự nhiên là không. Đây không, kia không, trong không, ngoài không, Niết-bàn không. Như Lai xuất hiện nơi đời năm trược không thấy có sanh diệt chấp đoạn. Không thấy có định có loạn. Không thấy trì giới phạm giới. Không thấy có nhẫn có sân. Không thấy tinh tấn giải đãi. Không thấy có phiền não định tâm (ý). Không thấy có ngu si trí tuệ. Không thấy có ý thức tư tưởng. Không thấy đạo – tục – ba la mật. Không thấy cõi Phật thanh tịnh. Không thấy tịnh tu đạo tràng. Không thấy có chúng sanh đoạn cấu. Đó gọi là Bồ tát đứng mà không có chỗ đứng.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ:

Phạm hạnh tâm thanh tịnh

Phá hoại cảnh giới ma

Ức nhẫn đạo vô thượng

Yên định không nghĩ bàn

Ta từ vô số kiếp

Luôn đứng không chỗ đứng

Một lòng nhập không huệ

Thân trang nghiêm các tướng

Đương lai tộc tánh tử

Và những người hiện tại

Sẽ đứng không chỗ đứng

Hiểu tánh thường vô thường

Các trần các chướng ngại

Hoại nghiệp thiện của Ta

Rửa sạch hết trần cấu

Như vàng không tỳ vết

Huệ là tướng thế gian

Hướng dẫn người mắt mù

Khiến cho người ngu si

Hiểu rõ pháp chơn như

Đạo nhân duyên vô vi

Thông đạt sáu thần thông

Kho đại pháp vô tận

Ban bố người thấp kém

Thích thọ ba giải thoát

Ba đời không chấp trước

Hiện tại tất cả pháp

Hết cấu, nhập định Phật

Đại huệ quang Như Lai

Đoạn trừ pháp nghi ngờ

Tướng si trong lặng tịnh

Hiểu đạo không, vô thường

Bao nhiêu người cho thường

Dính chặt trong sanh tử

Không lìa pháp hữu vi

Bị phiền não trói buộc

Pháp sáu độ ba tuệ

Trân báu và vợ con

Dứt ái không thương tiếc

Xuất gia đạt thành đạo

Người có niệm thiện ác

Những hạng sơ, trung, hạ

Luân chuyển trong năm đường

Tánh sanh diệt không thật

Khổ vốn vô lượng số

Đời đời không dừng nghỉ

Trống pháp vang ngàn cõi

Chấn động cảnh giới ma

Loài quần sanh các ngươi

Nương tựa sáu thần thông

Thân tùy theo tâm niệm

Đến chỗ không chướng ngại

Năm tháng tu đạo hạnh

Ngày đêm không trái thời

Chứa đức như Tu Di

Thành tựu chứng quả Phật

Sanh diệt như huyễn hóa

Cũng như bóng trong gương

Thọ nhập ba mươi sáu

Nhập định mới thành đạo

Tánh chơn thật Như Lai

Không nhiễm không chấp trước

Hành từ vượt bảy độ

Các báu tự anh lạc

Ba mươi hai ức kiết

Trói buộc không thể mở

Cốt dùng kiếm trí huệ

Chặt đứt không còn gì

Lại lấy tám giải thoát

Như vị pháp cam lồ

Để kẻ khát ái kia

Sung mãn không còn nghĩ

Xưa Ta chưa thành thiền

Luôn ở trong ngu si

Kết chặt bốn điên đảo

Cầu giải thoát khó được

Nhập Tứ vô ngại thiền

Tự tại không sợ sệt

Định tâm ý vững chắc

Tận đời không tái sanh.

Khi Thế tôn nói kệ xong, có tám mươi bốn ức chúng sanh phát tâm đạo chánh chơn vô thượng, đối với tín hành không thối chuyển.

***

    Xem thêm:

  • Kinh Luân Vương Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà-ra-ni - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tâm Chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 24 – Thọ Báo - Kinh Tạng
  • Kinh Ca Diếp Tiên Nhơn Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 48 – Kinh Kosambiya (Kosambiya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tu Hành Bản Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Thọ Đề Già - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Hạnh Người Cư Sĩ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 1 Đến Phẩm 10 - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Diệu - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng