1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 7

PHẨM THỨ 26: PHÁ TÀ KIẾN

Bấy giờ Thế tôn nhập Chánh định tam muội, phân thân biến hóa, phóng ánh sáng lớn để muốn cho các đại Bồ tát và bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di phá tan cảnh giới của ma, trụ vào chánh địa.

Ngài dạy đại chúng:

– Ta nhớ về quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, Ta tu hành khổ hạnh trong núi cùng với sư tôn năm ngàn người ở phía Nam núi Tuyết, phía Bắc thành Thanh Tịnh. Ta là đệ tử nhỏ nhất trong chúng ấy, tụng đọc kinh điển, toán số kỹ thuật, thiên văn địa lý đều điêu luyện. Theo thường pháp của chúng ấy, nếu có đệ tử nào sở học đã thành tựu thì nên báo ân thầy.

Lúc ấy Ta một thân một mình, không có tiền của, bảo vật để dâng lên thầy nên quỳ lạy, xin muốn xuống núi vào xóm làng đi xin. Thầy không cho phép. Xin nài ba lần như vậy nhưng thầy vẫn không cho. Vì sao? – Vì Ta thông hiểu rõ ràng các kinh điển đứng đầu trong chúng. Thầy nói với Ta rằng:

“Ta có kho tàng kinh điển bí mật quý báu, ngươi chưa đọc tụng sao lại rời ta để vào nhân gian đi xin?!” .

Khi ấy thầy đưa quyển kinh cứ một câu có năm trăm chữ, bảo Ta tụng thuộc lòng. Chưa được vài ngày Ta đã học thuộc và thưa trước thầy:

“Thầy hãy cho phép con xuống núi đi xin để báo ân thầy”

Thầy cũng không cho và nói với Ta rằng:

“Ông nên học hỏi văn thư bí sấm về mặt trời, mặt trăng, sao, tai họa, yêu quái, họa phước, núi lay đất chuyển. Những điều này ông cũng chưa biết, sao lại muốn rời ta để vào nhân gian đi xin?”

Rồi thầy đưa quyển kinh, cứ một câu kinh gồm một ngàn chữ, bảo Ta học thuộc. Chưa được mấy ngày, Ta đã được thành tựu và bạch thầy đi xin hòng để báo ân thầy. Thầy cũng không cho, nói rằng:

“Ta có quyển kinh cứ một câu kinh gồm vạn chữ. Những quý báu trong kinh ông cũng chưa tụng đọc, vì lý do gì mà muốn rời ta để đi xin?”

Thế rồi thầy lại đưa kinh bảo Ta tụng đọc thuộc lòng. Chưa đến vài ngày Ta đã thông đạt về kỹ thuật, tai họa, sự vận hành của các sao và tất cả đều được thông suốt. Khi ấy, thầy khuyên Ta nên ở lại và không còn kinh nào để đưa cho Ta học nữa.

Ta liền từ tạ thầy xuống núi, vào thôn xóm đi xin, thấy năm ngàn Phạm chí dị học ở một làng lớn, cùng nhau cúng tế trời.

Theo pháp cúng tế trời thì phải giết năm trăm con bò, năm trăm con dê, năm trăm con lạc đà, năm trăm con ngựa, voi mạnh nhất có sáu ngà, năm trăm người nữ, một cây gậy bằng vàng, một bồn rửa bằng vàng, vải trắng một ngàn xấp, vàng bạc tiền đều phải năm vạn. Những vật báu này sau khi được cúng cho trời thì sẽ đưa cho thầy.

Bấy giờ Ta xuống núi với y phục dơ nhớp, bụi bặm. Trước đây ở trong núi tu khổ hạnh lâu năm, mặc áo da nai, nghe năm ngàn vị Phạm chí dị học thiết đại lễ đàn nên Ta liền đến đó. Khi ấy sư trưởng hỏi Ta:

“Nếu kinh điển kỹ thuật nhiều thì mới cho ngồi trên, còn kinh điển ít thì cho ngồi dưới” .

Vị sư ấy không biết gì cả, không thông đạt bí yếu sấm ký nên cho Ta ngồi trên, nhưng sư ấy lại tức giận nói:

“Đây là người như thế nào, đáng lẽ trân bảo đủ mọi vật phải thuộc về ta, sao bị người này chiếm đoạt? Nếu đời sau gặp nhau, ta quyết phải báo thù, giống như đã chiếm đoạt của ta ngày hôm nay” .

Bấy giờ Ta liền nói:

“Tà kiến điên đảo chẳng phải chân thật, phân biệt rõ ra thì chỉ có vô vi mới nói là Niết-bàn, không sanh – già- bệnh – chết, không đây, không kia, chặng giữa. Quán tự tướng của nó là thanh tịnh, bốn vô sở úy, làm phước thì sanh lên trời, bị tội thì đọa địa ngục, xan tham thì làm ngạ quỷ, mắc nợ thì làm súc sanh, quả báo thiện ác giống như bóng theo hình” .

Khi ấy, tâm thức của năm trăm người được khai sáng, liền thỉnh Ta làm thầy. Những voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà…sắp bị giết, Ta lại không giết. Còn gậy vàng, bồn rửa vàng, đáng lẽ Ta nhận nhưng Ta liền đem đưa cho vị thượng tọa tức giận kia. Năm trăm người nữ được gởi trở lại cho chủ thờ cúng. Năm vạn tiền vàng Ta chỉ lấy năm trăm thôi. Năm vạn tiền đồng Ta cũng chỉ nhận năm trăm, còn lại gởi cho chủ thờ cúng.

Ta đi từ thôn này đến thôn khác, từ nước này qua nước nọ, dần dần đến bên ngoài cửa phía Đông của thành Thanh Minh. Ta thấy năm trăm Phạm chí tuổi cao đức lớn, học đạo ngày ngày đứng dưới lửa mặt trời thiêu đốt, thân thể xấu xí dơ bẩn. Ta liền lấy năm trăm tiền vàng đưa mỗi người một đồng, từ biệt họ vào thành. Ta thấy người trong thành lấy nước thơm rảy lên đất để khử trừ bụi dơ, treo tàng phan, bảo cái và mọi người sắp thẳng hàng trong tư thế đoan nghiêm, chuẩn bị ra ngoài thành.

Đi tới một tí, Ta thấy một cô gái cầm bảy cành hoa. Khi ấy, Ta nhìn xung quanh tìm hương kiếm hoa nhưng không có. Ta hỏi cô gái ấy:

“Tôi muốn hoa trên tay của cô” .

Cô ta trả lời:

“Hoa này đã có chủ. Đức Phật sắp vào thành, tôi đem hoa này dâng lên Phật” .

Không thể được rồi, Bồ tát lại dùng quyền phương tiện nói với cô gái:

“Tôi có năm trăm tiền báu, tôi mua mỗi hoa một trăm tiền, nếu được thì cô bán” .

Thế rồi Ta đưa tiền ra, cô ta tham của báu nên lấy năm cành hoa đưa cho Ta. Đi được khoảng mười bước, cô ta tự nghĩ: “Người này có tướng mạo đoan nghiêm mà lại mặc y phục bằng da nai, vì ham năm cành hoa của ta mà không tiếc tiền bạc. Điều này chắc chắn có lý do”.

Thế rồi cô ta quay lại kêu:

“Này ông ơi! Ông dùng hoa ấy để làm gì vậy?” .

Ta trả lời:

“Để dâng lên Phật” .

Nghe đến danh hiệu Phật, cô ta liền lấy hai cành hoa còn lại đưa cho Ta. Ta ra khỏi thành, thấy đức Phật đàng xa, chư thiên và nhân dân đông nghẹt cả đường, không có một chỗ đất hở trống nào để lễ lạy. Trước Phật có một vũng nước bằng cho một người đứng. Ta liền trải tóc trên vũng nước ấy và ca ngợi Phật với bài kệ:

“Phá tâm ái kiêu mạn

Diệt được dục nộ si

Chân tướng sáng đệ nhất

Xin Phật thấu lòng con

Thệ nguyện xưa con cầu

Ngày nay được thấy Phật

Nay rải năm cành hoa

Nguyện đắc bất thối chuyển

Hai cành hoa còn lại

Cô gái gửi cúng Phật

Vô thượng Đại đạo sư

Thương xót đạp tóc con” .

Khi ấy, Quang Minh Như Lai thấy Ta tịnh tâm phát nguyện rộng lớn, không có gì có thể trở ngại, phá hoại được, liền dùng kệ khen Ta:

“Đồng tử phát tâm lớn

Đồng hoang cứu muôn người

Nguyện lớn không tự có

Trồng nhiều gốc công đức

Qua vô số kiếp sau

Đời năm vạc năm trược

Thành Phật độ chúng sanh

Danh hiệu Thích Ca Văn

Ba mươi hai tướng sáng

Đấng kỳ diệu loài người

Thọ huệ xưng Phật rồi

Đất chấn động sáu cách

Chư thiên, người thế gian

Thấy Ta được thọ ký

Thường muốn diệt các sử

Đều nguyện sanh cõi Ta”.

Bấy giờ Quang Minh Như Lai liền đạp trên tóc Ta đi qua, Phật dùng thần lực nhận năm cành hoa của Ta và đem thân Ta để trên hư không. Hai cành hoa còn lại Phật để trên hai bên vai. Xưa kia tu hành phá tất cả những vật dụng của năm ngàn Phạm chí cúng trời thờ lửa, dạy họ hành chánh kiến, tám pháp bình đẳng, ngồi nằm kinh hành mỗi bước đều làm lợi ích độ thoát chúng sanh. Từ đó đến nay, chưa từng bị đọa vào ba đường, tám nạn, thế trí biện thông, biên địa, sau Phật.

Bấy giờ trên chỗ ngồi, chúng sanh cõi ma cho thường là đoạn diệt, nói khổ là vui, vô thường cho là hữu thường, không có thân nói rằng có thân, tu tập bốn điên đảo, không có trí tuệ để nhận biết rõ ràng, bị năm triền cái che lấp, tham đắm vào lợi dưỡng.

Muốn độ những người tà kiến này, Thế tôn nói kệ:

– Tà kiến, đạo không thật

Như loài trùng Thiết thôi

Đục xương vào tủy não

Đau đớn vô số kể

Lợi dưỡng hoại đạo đức

Người trí không làm vậy

Thân hành tâm kiên cố

Tịnh trừ pháp vô minh.

Khi Thế tôn nói pháp chân thật về cú nghĩa, vị nghĩa, tự nghĩa cho những người tà kiến này thì có vô số trăm ngàn chúng sanh phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn.

***

PHẨM THỨ 27: VĂN THÙ THÂN BIẾN HÓA

Bấy giờ Thế tôn Vô sở trước Đẳng chánh giác nhập vào Thượng tôn định ý tam muội, quán sát các đại Bồ tát quá khứ, vị lai, hiện tại có kiếp số nhiều ít, sẽ từ một kiếp, hai kiếp cho đến trăm ngàn vô số ức kiếp thủ bát Niết-bàn.

Có đại Bồ tát cúng dường chư Phật, thành tựu công đức, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi Phật.

Có đại Bồ tát từ lúc đồng chơn hành bát trụ, không có vợ con, dập tắt tư tưởng dâm dục, tự tại ở địa vị của mình, không cha mẹ, anh em mà đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật dạy Văn Thù Sư Lợi:

– Về thuở xa xưa cách đây bảy mươi chín kiếp, tại thế giới Hoa Quang, ông ở trong thai thuyết pháp toàn thân xá lợi. Nhân dân cõi ấy cao ngàn do tuần, thân của Phật cao vạn do tuần. Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới rộng vô lượng, không có giới hạn, không thể tính kể, dù thầy tính, đệ tử tính cũng chẳng thể nào lường được, căn bổn thanh tịnh, vốn ông ở nơi đó. Thân Phật phóng ánh sáng, thị hiện thần túc để cho đại chúng đồng loạt được thấy Như Lai làm lợi ích chúng sanh.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ:

– Văn Thù vốn thành Phật

Trong thai hiện biến hóa

Thân cao vạn do tuần

Tướng ánh sáng rực rỡ

Mắt như hoa sen xanh

Môi miệng đỏ lửa sáng

Bốn mươi răng trắng thẳng

Mắt nháy ngước lên xuống

Chư thiên, rồng, quỷ thần

Đem hương hoa cúng lạy

Nay Ta ở thai này

So với cõi của ông

Đối với mười sáu phần

Không bằng một mảy lông

Đức biến hóa Như Lai

Thông đạt không chướng ngại

Hương giữ giới lan xa

Chư Phật đều khen ngợi

Các đại chúng đến đây

Muốn hỏi pháp khó có

Cúi đầu trước mặt Ngài

Để trừ lưới nghi ngờ.

Bấy giờ, đại Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ngay trên tòa ngồi, dùng định lực thần túc giống như người lực sĩ co duỗi cánh tay, tiếp thế giới Hoa Quang để bên trong thai mẫu của Thích Ca Mâu Ni cõi Ta-bà.

Thế giới của hai đức Phật không chướng ngại nhau, vẫn hiện đầy đủ các tướng hảo của thân Phật, ngồi dưới thọ vương giảng nói pháp tối thắng thâm sâu.

Bồ tát cõi ấy cũng đến gần gũi Thích Ca Văn Phật, cúng dường thừa sự hương hoa, tràng phan, bảo cái. Đệ tử Bồ tát của Thích Ca Văn Ni cũng đến cõi kia cúng dường lễ bái.

Âm thanh nói pháp vi diệu thâm sâu của hai vị Phật khai thông với nhau, không có chướng ngại. Đức Phật kia nói vô sanh thì ở đây cũng nói như vậy. Ta nói về định tâm thì bên kia cũng nói như vậy. Ý, đoạn, căn, lực, giác đạo hai bên giống nhau. Bên kia nói khổ – không – vô ngã, bên đây cũng vậy.

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi nói kệ:

– Quán trong ngoài thanh tịnh

Duyên diệt, tưởng cũng vậy

Các cõi Phật mười phương

Thần đức không khác nhau

Đều do căn chúng sanh

Hiện có diệu, không diệu

Cho ta thành thân Phật

Cõi này rất là nhỏ

Vì chúng có nghi ngờ

Hiện biến hóa trong thai

Thân ta như vi trần

Nay ở cõi Phật kia

Ba mươi hai tướng sáng

Hiện khắp cả mọi nơi

Xưa làm thầy của người

Nay lại làm đệ tử

Đạo Phật rất rộng lớn

Thanh tịnh không tăng giảm

Ta muốn thấy thân Phật

Hai Ngài không cùng đứng

Cõi này hiện giáo hóa

Cõi ta hiện thân Phật

Cõi kia có kiếp thiêu

Cõi ta không hư hoại

Lực Phật biến khắp nơi

Tâm chúng sanh chẳng một

Chúng hội nghe ta nói

Ngoài đây ra còn có

Cõi Phật tên Vô Khuyết

Phật hiệu Thăng Tiên Tôn

Quốc độ nhiều gấp bội

Thanh tịnh không vết nhơ

Quốc thành bằng bảy báu

Đất thủy tinh lưu ly

Ao bát giải cam lồ

Rực rỡ ánh sáng lớn

Đức Phật Thăng Tiên ấy

Chẳng phải người nào khác

Chúng hội ai muốn biết

Đó chính là thân ta

Sát đây lại còn có

Cõi nước tên Cứu Cánh

Phật hiệu Đại Trí Huệ

Bồ tát nhiều vô lượng

Không có hàng nhị thừa

Bích Chi và Thanh văn

Bồ tát Ma ha tát

Không còn dục nộ si

Gốc mục lá không sanh

Huống chi lại có trái

Tướng đại nhơn đầy đủ

Cứu người trước, mình sau

Mạng như năm dòng sông

Năm sử năm trói buộc

Năm ấm luôn rên rỉ

Luân hồi trong năm đường

Bảy tên sứ trói chặt

Không lìa bảy chỗ sanh

Bát chánh đạo vô vi

Diệt trừ tám nghiệp tà

Tám huệ thanh tịnh quán

Trước lấy nước bát giải

Bát trụ bát trừ nhập

Hữu vi tám đạo pháp

Pháp khổ có chín phần

Chúng sanh đi sáu đường

Trọn vẹn chín không ngại

Trang nghiêm cây Phật đạo

Pháp Thập lực vô úy

Mặc áo thệ từ bi

Tay cầm kiếm trí huệ

Phát sạch rừng kiết sử

Các chúng sanh cõi này

Tham đắm sanh cống cao

Bệnh nặng không thầy giỏi

Bệnh tình càng kịch liệt

Giống như lửa đồng hoang

Thiêu đốt cả núi rừng

Núi cao gió thổi mạnh

Cháy rực bao giờ tắt

Thế giới của chúng ta

Đại trí huệ giảng rõ

Như thân ta ngày nay

Đại trí Như Lai vậy.

Sau khi Văn Thù Sư Lợi nói kệ này, có vô lượng a tăng kỳ chúng sanh đều nguyện sanh về cõi Hoa Quang.

Khi ấy, Văn Thù Sư Lợi thâu thần túc lại, hiện đệ tử Bồ tát của Thích Ca Văn Phật. Bao nhiêu quốc độ đều trở lại nguyên như cũ.

***

PHẨM THỨ 28: BÁT THÁNH HIỀN TRAI GIỚI

Bấy giờ, trong chúng hội có Bồ tát tên Trí Tích, có nhiều công đức với chư Phật quá khứ, chiến thắng quân ma, với phương tiện thiện xảo làm trang nghiêm cõi Phật, tu hành nhẫn nhục trong vô số kiếp. Tâm nhẫn không sơ sút, không phế bỏ thiền hành, là tiếng rống của sư tử trong đại chúng. Đi một mình trong ba cõi, lên xuống lúc nào cũng được, không điều gì mà không thông suốt, ứng đối không trở ngại, có thể làm núi sông, tường đá biến thành bảy báu, đem bố thí cho những người nghèo khổ, giúp đỡ đầy đủ bốn việc cần dùng, hiểu rõ không quán, pháp tánh đều thanh tịnh. Biết rõ ba đời, có oai nghi phép tắc. Quán pháp như huyễn như hóa, như bóng trong gương, như sóng nắng, như tiếng vang trong hang. Quyến thuộc đi theo đều thành tựu căn bổn, giữ gìn giới cấm không phạm một mảy may nào.

Bồ tát đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Vui thay, bạch Thế tôn! Như Lai giáo hóa không chỗ nào mà không thấu đến. Trời, rồng, người, quỷ đều đến đạo tràng. Chúng sanh cõi không giới cho đến thai sanh, hóa sanh được cứu độ không thể lường. Cúi xin đức Thế tôn hãy phân biệt về các hành thiện ác trong sáu đường, oai nghi giới cấm đầu – giữa – cuối đều thiện. Phân biệt rõ ràng để những người chưa biết được biết.

Phật dạy Bồ tát Trí Tích:

– Lành thay! Lành thay! Ông đã hỏi Như Lai về nghĩa sâu xa ấy. Nay Ta sẽ phân biệt cho ông về những kết quả của giới cấm thiện ác. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ:

Thuở xưa vô số kiếp, có một thời Ta làm chim chúa cánh vàng, cung điện bằng bảy quan, ao sau vườn đều xây bằng bảy báu, dạo chơi trong vườn thấy tâm được tự tại. Phép tắc thi hành giống như vua Chuyển luân Thánh vương. Phụ nữ trong cung nội giống như thiên nữ. Trải qua trăm ngàn kiếp mới vào biển tìm rồng để ăn thịt.

Khi ấy trong biển có con rồng hóa sanh, vào các ngày mồng tám, mười bốn, rằm thì thọ trai giới của Như Lai gồm tám giới cấm:

– Không sát sanh

– Không trộm cắp

– Không tà dâm

– Không nói dối, thêu dệt

– Không uống rượu

– Không nghe ca hát âm nhạc

– Không thoa hương hoa phấn sáp

– Không nằm giường cao rộng

– Không ăn phi thời.

Chim cánh vàng vâng giữ tám pháp của Hiền thánh.

Chim cánh vàng dài tám ngàn do-tuần, mỗi cánh dài bốn ngàn do-tuần. Biển lớn ngang dọc ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Chim cánh vàng dùng cánh vẹt nước để bắt rồng. Nước chưa kịp hợp lại thì chim cánh vàng đã ngậm rồng bay lên.

Theo phép tắc của chim cánh vàng, khi muốn ăn rồng thì trước tiên ngậm đuôi đem đến phía Bắc núi Tu Di. Nơi đó có cây sắt lớn cao mười sáu vạn dặm. Chim cánh vàng ngậm rồng đến đó để chuẩn bị ăn, nhưng qua một ngày đêm tìm đuôi rồng không biết ở đâu. Sáng mai rồng lòi đuôi ra, nói với chim cánh vàng:

– Rồng hóa sanh chính là ta đây. Nếu không giữ tám pháp trai giới thì ta bị ngươi ăn thịt rồi .

Nghe vậy, chim cánh vàng hối hận, tự trách mình: “Oai thần của Phật thâm sâu khó lường” , và nói:

– Cung điện của tôi cách đây không xa, ông hãy cùng tôi đến đó để vui chơi.

Rồng liền theo chim cánh vàng đến thăm cung điện.

Chim cánh vàng nói:

– Quyến thuộc chúng tôi ở đây không nghe tám pháp trai giới. Cúi xin ông hãy chỉ dạy oai nghi giới cấm để sau khi qua đời, tôi được sanh làm người.

Khi ấy, rồng đem hết pháp giới cấm bảo chim cánh vàng đọc tụng. Ngay lúc ấy, tại cung điện của chim chúa, rồng nói kệ:

– Nhà cung điện bảy báu

Trang nghiêm rất khoái lạc

Do hành giới không đủ

Làm thân chim cánh vàng

Ta là con Long vương

Tu đạo bảy vạn kiếp

Lấy kim đâm lá cây

Phạm giới làm thân rồng

Ta không từ thai sanh

Thấp sanh hay noãn sanh

Chuyển thân không thối chuyển

Làm sáng Phật, Pháp, Tăng

Nay ông thọ tám giới

Giáo hóa quyến thuộc ông

Giữ giới không được phạm

Sẽ được sanh chỗ lành

Cung điện ta trong biển

Cũng làm bằng bảy báu

Châu ma-ni, pha-lê

Châu minh nguyệt, vàng bạc

Hãy theo tôi đến đó

Thăm viếng tu Phật sự

Tăng thêm cội gốc lành

Từ bi thấm mọi nơi.

Nghe rồng nói, chim cánh vàng thọ tám pháp trai giới và tự nói:

– Từ đây trở về sau, trọn đời không sát sanh, như chư Phật dạy quyến thuộc chim cánh vàng.

Sau khi thọ ba quy y, chim cánh vàng theo rồng về cung điện trong biển. Trong cung điện có tháp bảy báu, đó là kho pháp mà chư Phật đã giảng nói. Đặc biệt có hòm bằng bảy báu đựng đầy kinh Phật, như: Mười hai nhân duyên, Tổng trì tam muội … Thấy vậy, rồng tử và rồng nữ đem hương hoa cúng dường, lễ bái, thừa sự, giống như cung điện vàng Đàn Bà Ma La ở cõi trời, rồi nói với chim cánh vàng:

– Tôi làm thân rồng đã trải qua kiếp số mà chưa hết, nhưng chưa từng sát sanh hay làm nhiễu loạn loài thủy tộc.

Bấy giờ rồng nói kệ với chim cánh vàng:

– Giết là nghiệp bất thiện

Giảm tuổi thọ, chết yểu

Thân như con thiêu thân

Thấy ánh sáng rồi chết

Giữ giới, vâng lời Phật

Được sanh trời Trường Thọ

Tạo phước đức nhiều kiếp

Không đọa cõi súc sanh

Nay tôi làm thân rồng

Giới đức hạnh trong sáng

Tuy đọa trong lục súc

Nhưng có ngày thoát khỏi .

Sau khi rồng nói kệ này thì rồng tử và rồng nữ tâm bừng sáng, tâm ý thông suốt và sau khi qua đời tất cả đều sanh về cõi Phật A Di Đà.

Phật dạy Bồ tát Trí Tích:

– Kiếp trước Ta đã hành giới đức trọn vẹn, thành Bồ tát biến hóa tự tại, không chỗ nào mà không vào, cũng làm chim cánh vàng, cũng làm loài rồng, cũng có khi biến hóa làm rùa, ba ba…

***

PHẨM THỨ 29: NĂM LẠC

Bấy giờ, Thế tôn quán sát những suy nghĩ trong tâm thức của chúng sanh, là muốn biết những nơi đã từng trải qua của Như Lai, như từng sanh làm loài chim cánh vàng, được rồng giáo hóa. Những kẻ được độ nhiều vô lượng, không thể tính kể. Ngoài ra còn có những kiếp gì, nên muốn biết ý ấy.

Biết tâm niệm của chúng sanh, Như Lai muốn thị hiện những pháp về thân – khẩu – ý mà xưa kia Ngài đã tu tập:

– Này các thiện nam, thiện nữ, hãy lắng nghe Ta nói. Xưa kia có Thiên Đế Thích, từ quá khứ đến nay trải qua vô số kiếp, luôn hưởng phước trời tự nhiên, là người tôn quý đệ nhất trong ba ngàn đại thiên các trời Đế Thích. Khi ấy, La Hầu A-tu-la vương sanh một cô gái đẹp đẽ, đầy đủ nết na của người con gái, có sáu mươi bốn tài năng, đi đứng tới lui không mất oai nghi, mặt như hoa đào, miệng tỏa ra mùi thơm như hoa Liên-ưu-bát, thân có mùi thơm Ngưu-đầu chiên đàn, không cao không thấp, không đen không trắng, không mập không ốm, đầy đủ tư cách của người nữ.

Bấy giờ, Thích Đề Hoàn suy nghĩ: “Thiên nữ trong cung điện của ta nhan sắc đẹp đẽ hơn các thiên nữ khác, nhưng không bằng con gái của A-tu-luân kia. Nay ta tập hợp binh chúng đến đánh với bọn hắn để chúng phải nộp cô gái ấy cho ta” .

Suy nghĩ thế rồi, Đế Thích mời chư thiên đến bàn luận về việc chiến đấu. Chư thiên thưa Đế Thích:

– Chư thiên mà chiến đấu chắc chắn thua bọn chúng. Ta hãy chọn những người chuyên về nhạc cầm với cây đàn lưu ly chín mươi chín dây và một thuyền, ca hát khen ngợi về trời ta hưởng thọ khoái lạc với vô lượng công đức.

Chư thiên khen hay và làm theo ý kiến này.

Đế Thích lập tức ra lệnh Bàn Giá Dực cầm nhạc trời chuẩn bị đầy đủ nhạc cụ rồi ở trên trời bỗng nhiên biến mất. Như kẻ lực sĩ duỗi tay, đã đến đứng trước mặt A-tu-luân vương Bà Ha và gãy đàn với kệ:

– Ta là trời Đế Thích

Thầy gãy đàn tuyệt diệu

Tiếng ca khúc hòa nhã

Tiếng trong suốt rất hay

Làm cho trời kia vui

Không còn tưởng buồn sợ

Nghĩ áo cơm, đến ngay

Cơm cam lồ bảy báu

Giường vàng bạc, thuyền ngọc

Chuyển động thân quay tròn

Thấy vui không nhàm chán

Tôn quý nhất trong trời

Nay sai chúng tôi đến

Muốn nói hạnh bất tịnh

Dâng thức ăn cam lồ

Muốn cầu việc hôn nhân

Chủ ta có cung điện

Châu ngọc không thể lường

Thiên nữ làm quyến thuộc

Hơn ngàn vạn ức số

Biết Bà Ha có con

Hãy giao cho chủ tôi

Còn như không bằng lòng

Thì đến lúc phải đánh

Tu-luân nghe lời này

Nổi tức giận đùng đùng

Vật nhỏ, ý muốn lớn

Vậy ngươi muốn làm gì

Tuy không có cam lồ

Nhưng ta dự trữ đủ

Cũng có binh chúng mạnh

Đủ để chống cự nhau.

Nghe vậy, Bàn Giá Dực trở về nói lại cho Thiên Đế Thích. Khi ấy, Bà Ha A-tu-luân vương liền ra lệnh:

– Tất cả tập hợp binh chúng! Ta có việc phải đi chinh chiến. Ngay bay giờ hãy chuẩn bị đầy đủ, không ai nghi ngờ gì cả!

Và ra lệnh bằng kệ:

– Thiên Đế Thích hào quý

Sai sứ Bàn Giá Dực

Ca tụng bằng ngữ âm

Muốn ta việc hôn nhân

Chúng nay chưa tập binh

Ta nên nhóm binh trước

Đến đánh không dùng sức

Thắng vạn không mất một.

Nghe vậy, vệ thần của A-tu-luân liền tập hợp binh chúng đến sườn núi Tu Di đánh phá chân cung trời, tiếp đánh phá cung Phong thiên, rồi đánh phá cung Mã thiên và đánh phá cung Trang nghiêm thiên.

Khi ấy, có vị trời tên Đại Lực đến nói với Thích Đề Hoàn Nhơn:

– Đại vương nên biết rằng: A tu luân Bà Ha tập hợp binh chúng đã phá tan bốn cửa trời. Đại vương! Bây giờ phải làm thế nào?

Bấy giờ Thiên Đế Thích nhớ lại bài tụng xưa kia, liền nói kệ:

– Oai thần lực chư Phật

Cứu hộ nguy ách con

Nhẫn huệ phá sân giận

Giải thoát chỗ an ổn

Xưa con không ngủ nghỉ

Chiều nay bỗng buồn ngủ

Điềm này không tốt lành

Tu-luân chiếm cõi con.

Thiên Đế Thích nhớ đến công đức Phật nên binh chúng A-tu-luân lần lần rút lui ra khỏi bốn cửa sau vườn và vào trong ao, trốn trong ngó sen.

Khi ấy Thích Đề Hoàn Nhơn ra lệnh đại thần:

– Ngươi hãy mau tập hợp binh chúng đuổi theo binh chúng của A-tu-luân!

Nhận lệnh Thiên vương, các đại thần của Đế Thích liền tập hợp chúng trời theo bốn cửa để tìm kiếm nhưng chỉ thấy áo giáp, cung tên trên đất mà chẳng thấy bọn Tu-luân đâu cả. Tiến dần tới trước thì gặp cung điện A-tu-luân nhưng chỉ thấy ngàn vạn chúng Bà Ha A-tu-luân nữ mà chẳng thấy thân của A-tu-luân.

Họ đem các chúng nữ trở về cung trời Đao Lợi. Thấy vậy, chúng A-tu-luân ra cầu xin quy mạng và nói với Thích Đề Hoàn Nhơn:

– Chúng tôi ngu hoặc, không biết thần lực của đệ tử Phật cao vòi vọi như vậy. Trước đây tiên tổ chúng tôi tín thờ Như Lai, nghe Phật có giới không được lấy vật người khác. Nay Thiên vương Đế Thích đem quyến thuộc của tôi về hết cung trời, thật chẳng phải là pháp tắc của đệ tử Phật thực hành.

Nghe họ nói vậy, Thiên Đế Thích rất buồn, không vui, nghĩ rằng: “A-tu-luân nói vậy chứng tỏ là ta đã phạm vào giới không cho mà lấy. Ta nên phụng thờ giới cấm, không phạm tội trộm cắp” và liền cho các A-tu-luân nữ trở về.

Khi ấy, A-tu-luân liền đem cô gái mà mình yêu kính nhất dâng cho Thiên Đế Thích. Thiên Đế Thích đem cam lồ ngon ngọt mời A-tu-luân. Tu-luân cùng Đế Thích hòa hợp tu hành pháp thiện: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không mang hương hoa phấn sáp, không ăn phi thời, giữ gìn ba pháp quy y của Như Lai.

Những hành nghiệp xưa kia trải qua vô số đời, Ta đã làm Chuyển luân Thánh vương, vô số đời làm Thiên Đế Thích, vô số đời làm Phạm Thiên vương, phụng giữ tám pháp trai giới của Hiền thánh, độ những khổ nạn, cứu những tai ách. Giả sử trong tứ thiên hạ bị lửa cháy giống như kiếp thiêu, mà ai nhất tâm quy y, xưng danh hiệu Như Lai, giữ gìn tám pháp trai giới, thân có rơi trong lửa nhưng không bị cháy. Nếu bị ngập nước, nước cũng không thể nhận chìm. Tám pháp trai giới là cha mẹ của chư Phật.

***

PHẨM THỨ 30: KHẨN ĐÀ LA

Bấy giờ trong chúng hội có Bồ tát Tín Giải Thoát, trong vô số a tăng kỳ kiếp về quá khứ đã làm Khẩn-na-la vương.

Qua phía Bắc núi Tu Di là núi Lưu Ly. Qua phía Bắc núi Lưu Ly là núi Tiểu Thiết Vi. Phía Bắc núi Tiểu Thiết vi có núi Đại Hắc. Khẩn-na-la vương cai quản núi này. Quá khứ hằng hà sa chư Phật, ông ta không thấy cũng không nghe pháp, không được chúng Tăng giáo hóa, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và sao chiếu vào. Nhờ xưa kia tạo một phước bố thí nên được ở trong cung điện bảy báu và sống rất lâu. Vì sao? Vì lúc ở nhân gian ông gặp được ruộng phước: có ông trưởng giả xây tháp Phật, Khẩn-đà-la vương này đã cúng dường một cây trụ để làm tháp. Lại còn đem thức ăn thanh tịnh bố thí cho người thợ xây. Sau khi qua đời, ông làm Hung Ức thần vương, ở giữa hai núi, cung điện nhà cửa bằng bảy báu.

Khi còn ở nhân gian, ông có của cải nhiều vô lượng. Có một Sa môn vào buổi sáng ôm bát đi đến khất thực nhà ông. Thấy vị Sa môn đứng ngoài cửa, vợ ông ta bưng cơm cúng dường. Thấy vợ đưa thức ăn cho vị Sa môn, trưởng giả liền nổi giận, quát:

– Người đi xin này là ai mà dám dòm ngó vợ ta hả?! Hãy làm cho người này tay chân đều đứt gãy!

Do đó mà sau khi qua đời, ông ta bị thọ thân xấu xí. Qua bốn mươi tám kiếp luôn không có tay chân.

Còn khi ở nhân gian, Ta học pháp tiên nhơn trong núi sâu, tụng tập chú thuật, có thể di chuyển mặt trời, mặt trăng, đổi đêm thành ngày, đổi ngày thành đêm. Trong khoảng hơi thở có thể nhổ ra vàng bạc bảy báu, có thể làm cây khô phát triển cành lá hoa quả, có thể làm nước biển khô cạn, ở trong lửa cháy và có thể bay được. Mắt có thể thấy thấu suốt, tự biết được đời trước, biết được tâm người, tai nghe rất xa. Ta có năm trăm đệ tử quyến thuộc, nghe Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn nói pháp vi diệu, đầu giữa cuối đều thiện, Ta dẫn các đệ tử ra khỏi núi sâu, bay ngang qua ao sau vườn cung vua. Thấy các thể nữ đang tắm trong ao bèn nhìn xuống và sanh tâm ái nhiễm. Thế là Ta và các đệ tử đều mất thần túc, rơi xuống trong vườn. Khi ấy, Ta tức giận cũng bởi vì đi cầu Phật mà Ta phải mất thần túc.

Thấy năm trăm đàn ông ở trong vườn, các thể nữ chạy vào thưa vua. Vua ra lệnh tùy tùng dẫn họ vào để hỏi. Họ đến nơi, vua hỏi:

– Các ông là ai?

Trả lời:

– Chúng tôi là những người học đạo tiên trên núi. Trong núi tụng tập chú thuật, có thể di chuyển mặt trời, mặt trăng, đổi đêm thành ngày, đổi ngày thành đêm,… cho đến tai nghe tiếng rất xa. Năm trăm đệ tử quyến thuộc của tôi nghe Phật ra đời hiệu là Thanh Tịnh Quang, tôi đưa các đệ tử ra khỏi núi sâu, bay ngang qua ao tắm sau vườn của vua. Thấy các thể nữ liền sanh tâm ái nhiễm nên đều mất thần túc, phải ở lại trong vườn .

Khi ấy vua hỏi:

– Các ông ở trong núi sâu học đạo tiên, đến nay đã bao lâu?

Trả lời:

– Đã hai mươi hai tiểu kiếp.

Vua lại hỏi:

– Qua bao kiếp số học đạo, tâm như chết, không lay không động. Vì sao còn tâm dục để phải mất thần túc?

Trả lời:

– Vì vốn cho rằng đạo chân thật là thần linh đệ nhất, vọt lên chìm xuống đều tự tại theo ý muốn. Không ngờ hôm nay bỗng nhiên mất đạo. Thật xấu hổ với Thánh vương! Tùy Thánh vương trị phạt .

Vua nói:

– Ông vốn học đạo đã hai mươi hai tiểu kiếp, hình khô, tâm mỏi mệt mà sự tu tập không chân chánh. Giống như người ngu si tìm của báu trong hư không. Đối với pháp chân tế lại không đạt được thật tướng. Thầy mà ông đang tìm cầu là Như Lai Đẳng chánh giác, gần núi Nhạc Trĩ. Tôi sẽ đưa các ông đến chỗ Phật. Nếu Phật có dạy bảo gì thì hãy phụng hành làm theo.

Khi ấy đại vương sửa soạn đủ năm nghi vệ, dẫn quyến thuộc và năm trăm người học đạo tiên đến núi Nhạc Trĩ. Vua xuống xe, cởi kiếm, bỏ mũ, từ bỏ năm nghi vệ rồi đi bộ đến chỗ Phật, đầu mặt lạt sát chân Phật và ngồi qua một bên. Bỗng nhiên vua đến trước Phật thưa:

– Bạch Thế tôn! Năm trăm người này học đạo tiên trên núi đã hai mươi hai tiểu kiếp, nghe Phật ra đời nên muốn đến diện kiến. Khi bay qua sau cung, vì tham đắm ái dục nên bị mất thần túc. Cúi xin Thế tôn nói pháp vi diệu để họ được năm đạo thần thông trở lại.

Phật dạy đại vương:

– Năm trăm người này đã tu căn lành, nhưng thành thì liền hoại, không bao giờ đạt cứu cánh. Vì xưa làm trưởng giả, thấy Tỳ kheo khất thực mà sân giận rủa: “Khiến cho ông không có tay chân” . Qua vô số kiếp làm Hung Ức thần vương ở giữa hai núi Đại Thiết Vi và núi Hắc, bị quả báo không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Trước đây còn ở nhân gian lấy cột trụ bố thí cho người, do ân huệ một lần cúng dường cho Bích Chi Phật, sau được làm người học đạo tiên trong núi. Do dục tâm hừng hẫy nên phải mất thần túc. Duyên này đã có từ lâu chứ chẳng phải mới hôm nay. Sau khi năm trăm người này qua đời đều sanh vào cõi Phật Vô Nộ. Phật ấy giảng cho họ về sanh – già – bệnh – chết, mười hai nhân duyên, khổ không có gốc khổ, tập – diệt – đạo quả cũng như vậy.

Sau khi nghe Phật dạy, ý vua bừng sáng và cũng muốn sanh vào cõi Phật Vô Nộ.

Bấy giờ quốc vương và năm trăm tiên nhơn liền đứng dậy lạy Phật rồi lui ra.

***

PHẨM THỨ 31: HƯƠNG ÂM THẦN

Biết tâm niệm của chúng hội, đức Thế tôn liền nhập Định ý vô hình tam muội, theo âm tiếng của chúng sanh mà đến cứu độ họ.

– Xưa ở nhân gian, ta làm Hương Âm thần vương, coi giữ một Diêm Phù Đề, hai Diêm Phù Đề, cho đến hằng hà sa Diêm Phù Đề. Quyến thuộc nam nữ lấy hương thơm làm thức ăn. Áo mặc phục sức đều xông ướp hương thơm. Hoặc sanh vào cõi Uất Đàn Viết ở phương Bắc, Câu Da Ni, Phất Vu Đãi, sanh nơi nào cũng làm Hương Âm thần vương, sống một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, cho đến vô số a tăng kỳ kiếp. Biết có Phật, có Pháp, có Tỳ kheo Tăng, tâm luôn viễn ly, không tham muốn. Vì sao? – Vì tham đắm năm dục, lấy hương thơm làm vui, trong hương thơm không nghe tiếng nào khác, chỉ nghe ca hát vui thích về năm dục, cả ngày lẫn đêm không biết nhàm chán. Có thiện tri thức xưa tu căn lành, từ đất vọt lên, hiện nửa thân người, nói với Ta rằng:

“Nơi này vui lắm sao mà tham đắm đến thế? Đây chẳng phải là hạnh chân thật thanh tịnh. Hãy vứt bỏ hương xông ướp để được chỗ an lạc. Hương thơm này là sóng nắng, là huyễn, là hóa. Nay Phật đang ở nơi đời, hãy đến thọ giáo để được hương thơm thanh tịnh bay tỏa khắp mọi nơi” .

Nghe vậy, Hương Âm thần vương rất vui mừng, nói:

– Lành thay! Lành thay! Này thiện tri thức, tôi muốn ông đưa tôi thấy hương thơm thanh tịnh. Nay trong lúc Phật còn ở đời hãy cùng nhau đến lễ lạy.

Khi ấy, địa thần vọt lên khỏi đất, nói với Hương Âm thần:

– Như Lai vô sở trước

Nay đang ở phương Nam

Trong thai quán thanh tịnh

Quyến thuộc vô biên số

Xông đốt các hương thơm

Treo tràng phan bảo cái

Cúng dường như hằng sa

Hương giới đức thậm thâm

Bay tỏa khắp mười phương

Nếu ai ngửi hương ấy

Quyết đắc đạo vô thượng

Ông hãy đưa quyến thuộc

Đi đến Diêm Phù Đề

Nhất tâm quy y Ngài

Sẽ được diện kiến Phật

Đức của Phật mênh mông

Đều theo các bổn hạnh

Vừa nghe nghĩa ba câu

Thành đạo ngay tại chỗ

Định lực ba không huệ

Mười tám pháp bất cộng

Tướng đại nhơn tốt đẹp

Sau ông cũng đạt được

Thân màu vàng ròng đỏ

Mềm mại không dính bụi

Pháp thân định trí huệ

Ông sẽ được đầy đủ

Đến đó chớ sợ sệt

Chánh tâm, đừng nghi ngờ

Dõng mãnh không thối lui

Nhanh như sư tử bước

Phân biệt quán thân tâm

Hiểu đều không, tự tại

Nhãn thức vốn không sắc

Trừ đối không tạo cấu

Nên hành ba pháp môn

Nay, sau và chặng giữa

Đắc tịnh ba thông huệ

Pháp tổng trì vô ngại

Tưởng vô thường, vô lạc

Kiếp số tạo bất thiện

Lửa huệ thiêu chốc lát

Vàng bạc báu lưu ly

Tu Di bằng bảy báu

Bị lửa kiếp thiêu đốt

Hành báo không thể mất

Như Lai giáo hóa đời

Thương họ, không vị kỷ

Sanh bất cứ nơi nào

Diệt ràng buộc cho người

Như người bắn trên không

Cung tên rơi xuống đất

Cúng dường các ruộng phước

Không chọn là hiền thánh

Cũng như uống thuốc độc

Tìm thuốc giải khắp nơi

Khí độc càng bốc mạnh

Không lâu liền qua đời

Có thiện tri thức xưa

Trao cho thuốc giải độc

Lần lượt không chọn lựa

Gặp được pháp giải độc

Bố thí làm nghiệp phước

Không lựa chọn cao thấp

Được bậc Thánh khen ngợi

Là tối tôn đệ nhất.

Nghe địa thần vọt lên nói như vậy, Hương Âm thần vương tâm khai ý mở, lạy sát đất, nói:

– Ông hãy làm thầy tôi, chỉ dạy sự tối tăm ngu dốt của tôi. Nay tôi ngu mê không phân biệt đâu là chơn ngụy, Hãy nhận sự sám hối lỗi lầm ngu si của tôi.

Khi ấy, địa thần liền vọt lên, hiện thân Kim sắc Phật với ba mươi hai tướng, phóng ánh sáng lớn, dùng lực thần túc đón Hương Âm vương đến thai quán. Trong chúng hội chẳng ai hiểu biết gì cả.

Phật dạy chúng hội:

– Từ vô số a tăng kỳ kiếp Ta từng là lớn là nhỏ, nhập vào chỗ vi tế mà không bị chướng ngại. Có lúc ở trên trời giáo hóa trong kiếp số. Có lúc ở loài người chịu khổ thay thế cho họ. Có lúc ở trong loài súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, phân thân giáo hóa, không chỗ nào mà không vào.

Khi ấy Hương Âm thần vương và bảy mươi hai ức quyến thuộc đều phát tâm vô thượng, trụ vào địa bất thối chuyển.

***

PHẨM THỨ 32: ĐỊA THẦN

Khi ấy, trong chúng hội có Bồ tát tên Thiện Nghiệp, đứng dậy trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Con có điều nghi ngờ, muốn thưa Như Lai nhưng không dám.

Phật dạy Thiện Nghiệp:

– Ông cứ hỏi tự nhiên. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông.

Thiện Nghiệp bạch Phật:

– Bạch Thế tôn! Trong sáu đại chúng, thần nào tối diệu nhất? Địa, thủy, hỏa, phong, không hay là thức?

Đức Phật liền dùng thần túc làm cho địa thần ấy từ dưới đất vọt lên, đứng trên đất. Thủy thần từ dưới nước vọt lên, đứng trong nước. Hỏa thần từ trong lửa vọt ra, đứng trong lửa. Phong thần từ gió vọt ra, đứng trong gió. Không thần từ hư không vọt ra, đứng trong hư không. Thức thần từ thức vọt ra, đứng trong thức.

Phật dạy Thiện Nghiệp:

– Ông hãy đích thân đến hỏi sáu vị thần này đi.

Bồ tát Thiện Nghiệp hỏi Địa thần:

– Trong sáu đại, ông là tối diệu phải không?

Địa thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? – Vì tôi sanh ra vạn vật, nào núi, sông, đá, tường, cây cỏ, hoa quả… tất cả đều nương vào tôi mà đứng. Tất cả chúng sanh loài hữu hình cũng nhờ tôi mà được tồn tại. Do đó tôi là tối thắng nhất.

Bồ tát Thiện Nghiệp hỏi Thủy thần:

– Trong sáu thần, ông là tối diệu phải không?

Thủy thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối diệu. Vì sao? – Vì nếu không có nước thì đất bị khô cạn, không được thấm nhuần ; cây cỏ, hoa quả đều bị khô héo. Loài chúng sanh thuộc hữu hình sẽ bị chết khát. Vì thế, tôi là tối thắng.

Bồ tát Thiện Nghiệp lại hỏi Hỏa thần:

– Trong sáu thần, ông là tối thắng phải không?

Hỏa thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối thắng. Vì sao? – Vì nếu không có lửa thì chất nuôi dưỡng vạn vật phát triển làm sao chín được? Nếu gặp sương, mưa đá, băng lạnh, điện chớp,… tất cả chúng sanh loài hữu hình sẽ bị chết cóng. Vì thế, tôi là tối thắng.

Bồ tát Thiện Nghiệp lại hỏi Phong thần:

– Trong sáu thần, ông là tối diệu phải không?

Phong thần trả lời:

– Trong sáu thần tôi tà tối thắng. Vì sao? – Vì nếu không có gió thì thân, rễ, mầm, cây cối, hoa quả… không thể nào phát triển được. Tất cả chúng sanh hữu hình tới lui, lay động đều nhờ vào gió của tôi, vì thế tôi là tối diệu.

Bồ tát lại hỏi Không thần:

– Trong sáu thần, ông là vi diệu phải không?

Không thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là vi diệu. Vì sao? – Vì núi sông, tường đá, cây cối, hoa quả,… tất cả chúng sanh hữu hình tới lui, qua lại tôi đều dung nạp để tất cả được hòa nhau, qua lại thông suốt. Vì thế, tôi là tối thắng.

Bồ tát Thiện Nghiệp hỏi Thức thần:

– Trong sáu thần, ông là tối thắng phải không?

Thức thần trả lời:

– Trong sáu thần, tôi là tối diệu. Vì sao? – Vì năm thần trên là đầy tớ của tôi. Tôi là vua của họ. Đi tới, qua lại, đẹp hay xấu, nên tránh biết để tránh, nên đến biết để đến. Bọn họ đều đui mù, chỉ có tôi là mắt sáng. Vì thế, tôi là tối diệu.

Bấy giờ, Địa thần thưa với Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Điều này không đúng. Vì sao? – Vì luôn bị thần thức lừa gạt, không chỉ con đường tắt. Ngã muốn được cứng rắn thì lại cho mềm mại. Khi ngã cần mềm mại thì thì lại đưa cứng cõi. Ngã muốn đến phương Nam, lại dẫn đến phương Bắc. Trong các bọn giặc không gì bằng Thức thần. Tự mình xưng là vua, điều này không như thế được.

Thủy thần thưa với Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Những gì Thức thần nói đều không đúng. Vì sao? – Vì nước có khả năng thấm nhuần, làm vạn vật phát triển. Tánh ngã cần lạnh, lại đưa cho ngã nóng. Đốt lửa làm tiêu băng giá, không còn tánh lạnh nữa, đó là do thức lừa gạt. Do đó nên thức nói không đúng.

Hỏa thần thưa với Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói không đúng gì cả. Vì sao? – Vì lửa có thể làm cho vật chín, cũng cho ánh sáng và cây cối, hoa quả theo thời gian mà phát triển. nếu không có lửa thì thức nương vào đâu? Do đó mà thức nói không đúng.

Phong thần thưa với Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói không đúng. Vì sao? – Vì vạn vật phát triển, đi tới, qua lại, lay động mà thức ngăn chận không cho ngã chuyển động. Do đó mà thức nói không đúng.

Không thần thưa với Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Thức nói không đúng. Vì sao? – Vì pháp không của tôi thì không có vật nào mà không được dung nạp. Dung nạp vạn loại tới lui, qua lại, thông suốt, không chướng ngại. Tất cả đều là không của tôi. Nếu không có không của tôi thì thức nương tựa vào đâu? Do đó mà thức nói không đúng.

Bấy giờ, Thế tôn hỏi Bồ tát Thiện Nghiệp:

– Những gì mà sáu đại này bàn luận là có cú nghĩa hay không có cú nghĩa? Có vị nghĩa hay không có vị nghĩa? Có tự nghĩa hay không có tự nghĩa?

Bồ tát Thiện Nghiệp thưa:

– Bạch Thế tôn! Tánh của năm đại đều bằng nhau. Vì sao? – Vì nếu địa giới nhiều mà thủy giới ít thì không thành tựu. Nếu thủy giới nhiều mà hỏa giới ít thì không thành tựu. Nếu hỏa giới nhiều mà phong giới ít thì không thành tựu. Nếu phong giới nhiều mà không giới ít thì không thành tựu. Nếu không giới nhiều mà thức giới ít thì không thành tựu. Nếu năm thức bằng nhau, thức không phân biệt được thì không thành tựu.

Bấy giờ Bồ tát Thiện Nghiệp nói kệ:

– Pháp thức thần không hình

Lấy năm đại làm nhà

Phân biệt nghiệp thiện ác

Đến đi, chơn ngụy khác

Thức chỉ chỗ đường lành

Đi đến đường an ổn

Thức là vua thứ sáu

Các đại khác không bằng.

Phật dạy Thiện Nghiệp:

– Những gì ông hỏi đều là do thần lực của Như Lai .

Khi ấy, trong chúng hội có một trăm bảy mươi ức chúng sanh hiểu biết pháp thâm sâu và tất cả đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn.

***

PHẨM THỨ 33: NGƯỜI

Khi ấy, trong chúng hội có Bồ tát tên Pháp Ấn, nghe Như Lai nói sáu đại chúng sanh thọ thân năm ấm, phân biệt trong ngoài hiểu rõ đều là không, hoàn toàn không thật có, trong lòng nghi ngờ rằng thức làm loạn tưởng, chẳng phải pháp chơn thật. Ai là người? Sao gọi là người? Người từ đâu sanh?

Phật dạy Bồ tát Pháp Ấn:

– Lành thay! Lành thay! Những gì ông hỏi đều là do oai thần của chư Phật ứng tiếp. Vì sao? – Vì vô số a tăng kỳ hằng hà sa chư Phật ở quá khứ và vô số hằng hà sa chư Phật ở vị lai đều phân biệt nguồn gốc con người với danh hiệu, tên họ không thể nghĩ bàn. Hàng Nhị thừa, La-hán, Bích Chi Phật không thể nào tính lường được. Nay ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ giảng nói rõ ràng cho ông:

Ví như thế giới Ta-bà ở Diêm Phù Đề có hạt giống chúng sanh, điều này không đúng. Vì sao? – Vì chẳng phải tánh chân thật, chẳng phải loài người.

Cõi Đông: Phất Vu Đãi cũng chẳng phải loài người.

Cõi Bắc: Uất Đàn Viết cũng chẳng phải loài người.

Cõi Tây: Câu Da Ni cũng chẳng phải loài người.

Trừ cõi Vô Lượng Thọ Phật và cõi A Súc Phật, trừ cõi Trang Nghiêm, cõi Hư Không Phật, trừ các Bồ tát trong hội hôm nay của Ta, còn lại chẳng phải người.

Vì sao? – Vì từ xưa đến nay, cho đến lúc thành Phật, trong thời gian ban đầu không tạo ác. Đây gọi là loài người .

Giống như có người tu khẩu nghiệp đối với người không tu, đó gọi là loài người.

Người thọ pháp ba quy đối với người không thọ, đó gọi là loài người.

Người phụng trì năm giới đối với người không phụng trì, đó gọi là loài người.

Người tu hành thập thiện đối với người không tu hành, đó gọi là loài người.

Người hướng Tu-đà-hoàn đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Tu-đà-hoàn đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Tư-đà-hàm đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Tư-đà-hàm đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng A-na-hàm đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc A-na-hàm đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng A-la-hán đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc A-la-hán đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Bích Chi Phật đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Bích Chi Phật đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Người hướng Phật đạo đối với người không hướng, đó gọi là loài người.

Người đắc Phật đạo đối với người không đắc, đó gọi là loài người.

Cho nên nói Nhơn Tôn Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn là loài người.

Phật dạy Bồ tát Pháp Ấn:

– Hãy lắng nghe cho kỹ. Chư Phật quá khứ đối với vị lai, hiện tại, đó gọi là loài người.

Hiện tại đối với vị lai, đó gọi là loài người.

Vị lai đối với quá khứ, hiện tại, đó gọi là loài người.

Đối với pháp ba đời thì hiện tại đối với quá khứ, vị lai là đệ nhất. Vì sao? – Vì trong hiện tại, Như Lai có thể hành pháp quá khứ, vị lai. Vì sao? – Vì quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, còn pháp hiện tại thì tự nhiên. Chẳng phải quá khứ có thể diệt hiện tại, vị lai. Chẳng phải vị lai có thể diệt quá khứ, hiện tại.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ:

– Quá khứ Đẳng chánh giác

Dạy cứu độ chúng sanh

Phân biệt nguồn gốc người

Thượng, trung, hạ vi diệu

Hiện tại Phật tối thắng

Rõ khứ, biết vị lai

Diệt trừ kiết trước sau

Chiếu sáng như mặt trời

Những chúng sanh khổ hạnh

Hai chân và bốn chân

Giảng nghe pháp cam lồ

Đầy đủ trừ các tưởng

Chư thiên hành Thập thiện

Từ một, hai mươi hai

Trên trời, dưới chẳng phải

Tạo công đức khác nhau

Như Lai đủ các tướng

Hành thiện không vết dơ

Tích đức như ánh sáng

Hạnh thanh tịnh không dơ

Nếu ai sanh phỉ báng

Nói Phật đạo không thật

Chết đọa ngục A-tỳ

Chư Phật không cứu được

Hơi miệng hôi tanh dơ

Thân bị phiền não đốt

Niệm ác theo bùng dậy

Đều do tội phỉ báng

Hành thiện tu công đức

Thần thức đến cõi lành

Như người vào ao tắm

Sạch sẽ hết bụi dơ

La-hán, Bích Chi Phật

Đoạn diệt không còn sanh

Không còn nghĩ thân ta

Xa lìa năm đường khổ

Những pháp xưa Phật hành

Được chư Phật ấn khả

Được mọi người tôn quý

Nên hiệu Tôn trung tôn.

Nói kệ xong, Thế tôn nói với Bồ tát Pháp Ấn:

– Đó gọi là loài người.

Bấy giờ, Bồ tát Pháp Ấn liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Lành thay, bạch Thế tôn! Ngài nói nghĩa ấy rất hay. Đối với Như Lai thì chúng con trong hội này chẳng là loài người. Vậy làm thế nào để thị hiện được làm loài người?

Phật dạy Bồ tát Pháp Ấn:

– Hiểu biết các pháp là không, không có sở hữu, không có đây, không có kia, không thấy có đây – kia. Đó gọi là loài người.

Quán sát pháp tánh không có quá khứ, hiện tại và vị lai. Hiểu biết pháp tánh là không tịch, không hai. Đó gọi là loài người.

Đối với bốn đạo quả, có người thành tựu, có người không thành tựu, không thấy có một, không thấy có hai. Đó gọi là loài người.

Đối với tướng của các pháp, không thấy trang nghiêm, không thấy có trang nghiêm, hiểu rõ đều là không tịch, chẳng phải một, chẳng phải hai. Đó gọi là loài người.

Cõi Phật thanh tịnh, trừ sạch dục nộ si, cũng không thấy tịnh, không thấy bất tịnh. Hai việc đều như hư không. Đó gọi là loài người.

Phân biệt ba mươi bảy phẩm đạo tánh có thành có bại, không thấy trong cõi tục có người, không có người. Đó gọi là loài người.

Phát tâm rộng lớn không vì riêng mình, làm an ổn cho chúng sanh, ở đâu đều không sợ, không thấy hữu trụ, không thấy vô trụ, hai việc đều bình đẳng. Đó gọi là loài người.

Phân biệt tâm không đắm nhiễm, giữ tâm giống như hư không, không bị lay chuyển ; không thấy định, cũng không thấy không định. Đó gọi là loài người.

Hướng dẫn chỉ chỗ lành cho những chúng sanh tà kiến, lấy tám pháp chân chánh để rửa sạch tâm dơ ; không thấy chánh, cũng không thấy không chánh. Đó gọi là loài người.

Đối với bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di có đạo tâm kiên cố, không bị tham đắm, không thấy giới hạnh có phạm hay không phạm. Đó gọi là loài người.

Như vậy, đối với pháp Như Lai thì pháp ấn càng làm lợi ích cho chúng sanh. Đối với Phật được trở lại tu các công đức, không luống qua một cách uổng phí.

Bấy giờ trong chúng hội có bảy mươi ức chúng sanh đều phát đạo tâm vô thượng chánh chơn, đối với loài người tu hành bất thối chuyển.

***

PHẨM THỨ 34: HÀNH

Khi ấy, trong chúng hội có Bồ tát tên Tạo Hạnh, đứng dậy, trịch bày vai phải, chấp tay thưa trước Phật:

– Lành thay, bạch Thế tôn! Ngài nói về loài người rất hay. Chẳng phải trước, chẳng phải sau, chẳng phải hai bên, chặng giữa. Vậy làm sao biết được quả báo của hành nghiệp?

Thân quá khứ chẳng phải hiện tại.

Thân vị lai chẳng phải quá khứ.

Thân hiện tại chẳng phải quá khứ, vị lai.

Hoặc bên trong tạo tác mà bên ngoài thọ quả báo.

Hoặc bên ngoài tạo tác mà bên trong thọ quả báo.

Thân phàm phu tạo tác mà thân Tu-đà-hoàn thọ quả báo.

Thân Tu-đà-hoàn tạo tác mà thân Tư-đà-hàm thọ quả báo.

Thân Tư-đà-hàm tạo tác mà thân A-na-hàm thọ quả báo.

Thân A-na-hàm tạo tác mà thân A-la-hán thọ quả báo.

Hoặc có chúng sanh đắc Từ tam muội mà không có Bi – Hỷ – Xả.

Có chúng sanh đắc Bi mà không có Từ – Hỷ – Xả

Có chúng sanh đắc Hỷ mà không có Từ – Bi – Xả.

Có chúng sanh đắc Xả mà không có Từ – Bi – Hỷ.

Có chúng sanh từ địa phàm phu, không hướng đến Tía địa, Pháp địa mà lại thủ Tu-đà-hoàn.

Có chúng sanh không hướng đến Tín địa, Pháp địa, Tu-đà-hoàn mà lại thủ Tư-đà-hàm.

Có chúng sanh không hướng đến Tín địa, Pháp địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm mà lại thủ A-na-hàm.

Có chúng sanh không hướng đến Tín địa, Pháp địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm mà lại thủ A-la-hán.

Có chúng sanh không hướng đến Tín địa, Pháp địa, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán mà lại thủ A-la-hán bỉ thử A-la-hán.

Có chúng sanh hướng đến Bích Chi Phật, rơi trở lại vào địa phàm phu.

Có chúng sanh hướng đến A-la-hán, rơi trở lại địa phàm phu.

Có chúng sanh hướng đến A-na-hàm, rơi trở lại địa phàm phu.

Có chúng sanh hướng đến Tư-đà-hàm, rơi trở lại địa phàm phu.

Có chúng sanh hướng đến Tu-đà-hoàn, rơi trở lại địa phàm phu.

Có chúng sanh từ Pháp địa rơi trở lại địa phàm phu.

Có chúng sanh từ Tín địa rơi trở lại địa phàm phu.

Những chúng sanh này đều có nghi ngờ với Như Lai. Cúi xin Thế tôn hãy phân biệt rõ ràng để các chúng hội hoát nhiên đại ngộ.

Khi ấy, Thế tôn dạy Bồ tát Tạo Hạnh:

– Lành thay! Lành thay! Những vấn đề ông hỏi đều là đương lai, quá khứ, hiện tại, cũng là quả báo hành nghiệp của chư Phật. Nay Ta sẽ phân biệt rõ ràng. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ.

Thế nào, này Bồ tát Tạo hạnh! Ông muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng a tăng kỳ kiếp quá khứ hay muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng a tăng kỳ kiếp vị lai? Hay muốn Như Lai nói về quả báo hành nghiệp trong vô lượng a tăng kỳ kiếp trong hiện tại?

Bồ tát Tạo Hạnh bạch Phật:

– Bạch Thế tôn! Xin tạm gác quả báo hành nghiệp thuộc quá khứ, vị lai qua một bên. Con muốn nghe quả báo hành nghiệp hiện tại của thân Như Lai.

Phật dạy Bồ tát Tạo Hạnh:

– Quả báo hành nghiệp của vô lượng a tăng kỳ kiếp quá khứ cũng là ở hiện tại.

Quả báo hành nghiệp trong vô lượng a tăng kỳ kiếp vị lai cũng ở hiện tại.

Quả báo hành nghiệp hiện tại tạo tác cũng là nhơn duyên của quá khứ và vị lai thọ quả báo.

Nay Ta sẽ giảng nói cho ông về điều này.

Xưa kia ta từng tu vô số khổ hạnh, tu hạnh thanh tịnh hoặc hạnh bất tịnh. Tu hạnh trời, tu hạnh người. Ban đầu cầu Phật đạo, các lậu đã đoạn tận, có thần thông biến hóa rồi bỗng nhiên đại ngộ. Ba cõi đều khổ, chỉ có Ta là vui. Tu khổ hạnh bên bờ sông Ni-Liên sáu năm, mỗi ngày ăn một hạt mè, một hạt gạo. Đây là do lúc xưa Ta phạm bốn lỗi về miệng với một vị Duyên giác, đoạn tuyệt sự bố thí, nên nay thọ quả báo này.

Khi Ta đã thành Phật, có năm trăm đồng tử rêu rao, phỉ báng, mắng chửi và đến ngã tư ngõ hẻm nói rằng: “Đạo Phật không chân thật” . Lúc đó, nhân dân trong nước có người tin, có người không tin. Người tin là hàng Tín địa, Pháp địa. Người không tin là hàng ngoại đạo phàm phu. Những người này căn lực đã thành tựu, không còn bị chướng ngại.

Phật ra đời chiếu sáng khắp nơi. Địa ngục được chấm dứt, ngạ quỷ được no đủ, súc sanh không còn mang vác, chở nặng. Ví như Ta bị Đề Bà Đạt Đa lấy đá ném làm ngón chân Phật chảy máu. Lúc ấy Ta tránh né đi về phương Đông: đến Phất Vu Đãi, phương Bắc: đến Uất Đan Viết, phương Tây: đến Câu Da Ni. Ta lại lánh từ cõi trời Đao Lợi lên đến Tam thập tam thiên. Vậy mà viên đá ấy cứ vẫn theo Ta. Ta lại né trở về chỗ cũ và bị đá làm tổn thương.

Ta ở nước Ma-Kiệt-Đà, trong vườn Họa Am thanh vắng mà kinh hành. Khi ấy có một trưởng giả tên Thi Lợi Quật thỉnh mời Ta để cúng dường. Ta liền nhận lời mời và dẫn A-Nan đi theo.

Nhà trưởng giả có bảy lớp cửa, mỗi cửa đều có người canh giữ. Theo thường pháp của chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại là im lặng thọ thỉnh chứ không nhận lời thỉnh bằng cách khác. Đệ tử xuất gia của Ta đạo hạnh cũng như vậy. Khi Ta đến cửa thì nghe bên trong trưởng giả Thi Lợi Quật trỗi âm nhạc để vui chơi nên quên hẳn là Ta đã đến đứng bên ngoài một ngày một đêm rồi.

Phật dạy A-Nan:

– Ông hãy đi khất thực nhé. Còn Ta đứng ở đây.

Lúc đó có mã tướng đi ngang qua chỗ Phật, Phật theo xin thức ăn. Mã tướng nói:

– Tôi không có thức ăn. Chỉ có lúa mạch chín, tôi sẽ đem đến cho ông.

Thế rồi Mã tướng lấy lúa mạch chín cúng dường Phật, Phật liền thọ thực. Thấy vậy, mã tướng cho là Phật ăn.

Có vị trời tên Tinh Luyện đem thức ăn đi, mọi người cho là Phật ăn. Thật ra Phật không ăn, chỉ vì độ người kia nên Phật hiện thọ thực và Ngài đứng nơi cửa chín mươi ngày như vậy.

A-Nan cũng đi khất thực chín mươi ngày.

Như Lai dùng oai thần không cho quốc vương và quần thần biết Phật đang đứng nơi ấy. Vì sao? – Vì sợ họ sanh ngã mạn, phỉ báng. Nếu Phật không dùng oai thần thì người khác làm sao trông thấy được?

Khi ấy, trưởng giả Thi Lợi Quật có chút việc đi ra ngoài thành dạo chơi. Thấy Phật đứng ngoài cửa, ông ta thưa:

– Ngài đến đây khi nào?

Phật nói với trưởng giả:

– Trước đây ông đã thỉnh Ta, nên Ta mới đến. Ông ở trong vui chơi thích thú. Ta đến đây đã chín mươi ngày rồi. Ta định quay về lại vườn Họa Am, nhưng được mã tướng cúng dường lúa chín của ngựa ăn.

Trưởng giả Thi Lợi Quật rất xấu hổ, năm vóc gieo xuống đất, thưa:

– Cúi xin Thế tôn hãy rũ lòng tha thứ và đừng giận con. Hãy cho phép con sám hối lỗi lầm.

Phật dạy trưởng giả:

– Duyên này đã có từ lâu, chứ chẳng phải mới đây đâu.

Khi ấy, trưởng giả thỉnh Phật vào trong nhà cúng dường tứ sự. Phật giảng pháp làm cho ông đoạn sạch các trần cấu và đắc pháp nhãn tịnh.

Phật dạy:

– Vào thuở xưa, có một thời Ta ở tại thành Tỳ Xá Ly. Khi mới thành Phật chưa được bao lâu thì Lục sư ngoại đạo hưng thịnh. Ta có một ngàn hai trăm năm mươi người đệ tử. Một ngàn một trăm người đều đắc A-la-hán với lục thông thấu triệt.

Lúc đó có cô gái Chiên Giá Ma Na Thị, là đệ tử của A Xà La Xí Xá Khâm Bà La, thọ minh giáo của thầy. Mỗi buổi sáng cô ta đến chỗ Phật, bên ngoài hiện pháp thanh tín nữ nhưng bên trong học giáo của tà sư. Thường xuyên qua lại, cố muốn cho mọi người thấy và lấy cỏ nhét vào bụng, càng ngày càng làm cho lớn dần. Sau đó, cô ta lấy bồn gỗ cột vào bụng, giống như người phụ nữ sắp sanh con.

Khi ấy, tà sư hỏi cô ta:

– Người của thai này là ai?

Cô ta thưa:

– Hàng ngày con đến chỗ Sa môn Cù-Đàm cho nên con có thai này.

Sư liền tức giận, nói:

– Dám lừa gạt đệ tử của ta à? Đệ tử này sắp sanh lên cõi trời Phạm thiên, vậy mà làm hủy nhục đệ tử ta đến nỗi như thế này!

Nói rồi, tà sư dẫn các đệ tử và cô gái ấy đến chỗ Phật. Trong lúc Như Lai đang giảng pháp cho vô số chúng Tăng thì Phạm chí lớn tiếng nói rằng:

– Sa môn Cù-Đàm này đã phạm dâm dục, thật không phải là người đắc đạo mà tự xưng là đã đắc đạo. Những sự biến hóa đều là huyễn thuật, chẳng phải đạo chân thật.

Rồi chỉ vào cô gái, Phạm chí nói tiếp:

– Mọi người có thấy không? Vì ông ta yêu thương cô gái này của tôi nên cô ta phải mang thai.

Nói xong, ngay lúc đó Thiên Đế Thích hóa làm một con chuột vàng, chui vào trong quần cô ta, cắn đứt dây làm bồn gỗ rơi xuống đất. Thấy vậy, mọi người quở mắng:

– Bọn đồ đệ của ông dám đến hủy báng Thánh nhơn à? Hãy rút ra khỏi nước ngay!

Xưa có một thời ở nước Cẩm Tỳ Lê, Ta ngồi thiền định, hành đạo dưới một gốc cây, trải qua chín mươi ngày nhưng vẫn không dời đổi chỗ. Khi đó, có Lục sư tên Kim Na Kim Ly, có đệ tử nữ tên Tuân Đà Nan Đề nổi tâm ganh ghét và muốn làm chướng ngại công đức của Phật rồi tự khen ngợi đạo của thầy mình.

Cô ta nói:

– Tôi có thể làm cho mọi người không ai đến cúng dường Phật để cho danh tiếng của thầy mình lan tràn ra bên ngoài.

Cô ta nghĩ ra mưu kế: hàng ngày đến chỗ Phật. Vào một ngày nọ, cô ta tự sát, đem chôn sau vườn của tinh xá. Sau đó tà sư đem tử thi ra nói: “Phật giết người” , làm cho tai tiếng hiềm chê lan ra ngoài, ai ai đều biết.

Thuở xưa, hông trái của Ta bị trúng gió độc nên sai Kỳ Vực đến trị. Kỳ Vực nói:

– Cần phải có sữa bò, phân voi, xá lợi Sa Tất Bát Thi Lợi Sa, hồ thục, nấu làm thuốc trị khỏi ngay.

Thuở xưa, Ta ở trong một thôn nọ, du hành giáo hóa. Ta bị cọc ngựa đâm vào chân, từ trên thủng xuống làm cho đau đớn vô cùng và sai Kỳ Vực đến trị.

Một thuở nọ Ta bị đau đầu giống như bị hai núi Tu Di ép lại làm cho đầu nhức, đau đớn không thể tả nổi. Nay mặc dầu Ta đã thành Phật, chấm dứt các lậu, bổn hạnh căn lành được chứa nhóm vốn không mất.

Từ vô số kiếp, Ta đã tu hành thanh tịnh, quả báo của hành nghiệp khó có thể lìa. Thân Phật còn như vậy, huống chi La-hán, Bích Chi Phật, làm sao tránh khỏi quả báo của hành nghiệp?

Khi ấy, Thế tôn nói kệ với Bồ tát Tạo Hạnh:

– Bốn thần túc tối thắng

Sống lâu vô số kiếp

Trời đất đều bại hoại

Tu-Di như tro bụi

Hành nghiệp đi bên thân

Không chỗ nào trốn khỏi

Ta thành Tối chánh giác

Ba cõi không ai bằng

Phải thọ chín quả báo

Nghiệp trước liên kết nhau

Ta có lực tam muội

Kim cang không ngăn được

Không thể tránh nghiệp báo

Xả mà không thọ báo

Đời này Ta chấm dứt

Không còn phân biệt nữa

Vĩnh biệt đường tử sanh

Không tạo nghiệp ấy nữa

Người quá tham năm dục

Buông lung không cẩn thận

Đời nay và đời sau

Thường đọa chỗ hữu ái

Niết-bàn không chấp trước

Thị hiện pháp hữu vi

Nếu không hiện giáo hóa

Chúng sanh khó độ được

Bát đẳng đạo vô vi

Đường đi của Hiền thánh

Xa lìa các trói buộc

Không có pháp sanh diệt

Đạo là quán vô thường

Tư duy pháp bất tịnh

Nhất tâm không lay động

Thành tựu các tướng tốt

La-hán, Bích Chi Phật

Đền trả nào do Ta

Bị hành nghiệp đeo đuổi

Đi đâu để tránh khỏi

Xá-lợi Phất trí huệ

Luôn hành công đức Phật

Bị bệnh phải diệt độ

Đây chứng minh rõ ràng

Mục Liên có thần túc

Từng bước vượt Tu Di

Phạm chí cầm cây đánh

Xương nát như hạt cải

A-la-hán Bà Kiệt

Chiến thắng rồng Nan Đà

Khi sắp vào diệt độ

Tròng mắt rơi vô số

Tỳ kheo ni Kim Hoa

Thần đức khó thể lường

Hóa làm vua Chuyển luân

Thống lãnh bốn thiên hạ

Qua đời nhập vô vi

Bị kiếm xẻ toàn thân

Bích Chi tên Quang Minh

Đời không có Phật pháp

Theo đời, tuổi thọ hết

Vào vạc dầu diệt độ

Hiện tại Ta đang nói

Nghiệp báo những người ấy

Nếu nói về quá khứ

A-tăng kỳ hạnh Phật

Kiếp này đến kiếp khác

Nghiệp báo không thể hết

Đương lai lại có Phật

Ở ngay trên tòa này

Cũng sẽ nói nghiệp báo

Giống như nay không khác

Bồ tát Ma ha tát

Tinh tấn không giải đãi

Nên mau lìa nghiệp báo

Không cho chúng đi theo.

Nghe Phật nói kệ này, Bồ tát Tạo Hạnh rợn tóc gáy, nhàm chán sanh tử luân hồi trong năm đường và tất cả đều phát tâm Vô thượng, trụ vào địa Bất thối chuyển.

***

PHẨM THỨ 35: PHÁP TRỤ

Bấy giờ, thấy chúng hội tịch nhiên thanh tịnh, thuần nhất không tạp loạn, Thế tôn đưa lưỡi dài rộng liếm đến hai tai, phóng ánh sáng lớn lên đến vô lượng a tăng kỳ cõi. Thấy ánh sáng, chúng hội rất vui mừng khôn xiết, ca ngợi chưa từng có.

Khi ấy, Thế tôn thâu ánh sáng lại và nói với đại Bồ tát Di-Lặc:

– Từ vô số kiếp đến nay, thân khẩu ý của Ta thanh tịnh, không có vết dơ, được quả báo ánh sáng thật tướng này. Đây là do không nói dối.

Phật lại dạy đại Bồ tát Di-Lặc:

– Nay Ta giao phó kinh điển Bồ tát Thai Hóa này cho ông. Ông hãy tuyên giảng, lưu bố rộng rãi. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào đọc tụng kinh này, đem hương hoa cúng dường, nào hương vụn, hương bột, the lụa, tràng phan, bảo cái, ca xướng âm nhạc… thì công đức này rất nhiều, rất nhiều.

Nếu có thiện nam thiện nữ không thể rốt ráo sáng chiều đọc tụng, dù chỉ khoảng trong chốc lát tâm nghĩ nhớ đến kinh này thù công đức phước ấy không thể tính kể. Vì sao? – Vì thai kinh này là cha mẹ của chư Phật, là đứng đầu trong các kinh. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại cần y theo trong mẫu thai kinh mà giáo hóa cứu độ chúng sanh quá hơn sắc thân trăm lần, ngàn lần, ức vạn lần cũng không thể tính kể được.

Phật lại dạy đại Bồ tát Di-Lặc:

– Nếu có thiện nam thiện nữ nào lễ bái cúng dường kinh điển này, muốn được diện kiến chư Phật mười phương, nên nhất tâm quy mạng, không có tư tưởng nào khác, thì lập tức được thấy chư Phật mười phương.

Nếu có thiện nam thiện nữ nào phát đại thệ nguyện: “Con muốn làm cho địa ngục được chấm dứt, ngạ quỷ, súc sanh không còn bệnh phiền não” , rồi nhất tâm quy mạng đọc tụng kinh này thì các chúng sanh khổ não ấy đều được giải thoát.

Phật dạy đại Bồ tát Di-Lặc:

– Duyên Ta nay đã tận, không còn giáo hóa được nữa. Kinh này được lưu giữ ngàn năm, đến hai ngàn năm hoặc ba ngàn năm rồi phân làm ba phần:

Một phần giao cho A-Nan, đệ tử mà Ta để lại giáo hóa.

Một phần giao cho Nan-Đà Ưu Bát La long vương.

Phần còn lại, Di-Lặc cùng Ta giảng nói để cho tất cả chúng sanh đều được nghe biết, không được để gián đoạn.

Này Di-Lặc! Khi ông làm Phật, ông nên giảng nói rộng rãi kinh này. Chúng sanh mười phương thiên hạ, cho đến loài côn trùng, loài người đều nhờ kinh này mà được giải thoát.

Này Di Lặc! Sau khi ông bát Niết-bàn, kinh này lưu bố trên đời hai mươi mốt kiếp, sau đó mới đoạn mất. Nếu có thiện nam thiện nữ nào đọc tụng kinh này, tâm không tán loạn, phát đại thệ nguyện: “Muốn cho chúng sanh đều đồng một thệ nguyện như ta, đồng thời đều sanh vào nước Thanh Tịnh, phụng thờ lễ kính chư Phật Thế tôn” thì đạt được nguyện này, không bị trở ngại.

Phật dạy Bồ tát Di-Lặc:

– Ông nên vâng giữ giáo pháp của Ta. Hãy nghĩ đến ân Phật. Ai muốn báo đáp ân Phật thì phải nhất tâm phụng trì cúng dường kinh Thai Hóa, công đức phước lợi này không thể nào nói hết được. Vì sao? – Vì kinh Thai Hóa này là kho báu của các pháp, được chư Phật ấn chứng. Chỉ có Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn mới có thể khai phát ấn phong này để thị hiện cho chúng sanh .

Này Di-Lặc! Ông nên biết rằng: những gì mà Ta nói trước sau đều ở trong kinh thâm sâu tam muội Tổng trì, nếu ông quên một chữ, một câu thì tội này còn nhẹ. Còn như với kinh này mà quên một câu, một chữ thì tội ấy rất nặng. Vì sao? – Vì kinh này là cha mẹ của chư Phật Thế tôn.

Sau khi Thế tôn nói xong, khắp mặt đất chấn động sáu cách. Các Bồ tát trong hội nói với nhau:

– Thích Ca Văn Phật lìa pháp tánh không lâu đâu. Chắc chắn sẽ hiện sắc tướng trở lại như cũ.

Khi ấy trong chúng hội có tám mươi bốn ức chúng sanh đều phát tâm Vô thượng, trụ bất thối chuyển. Các Bồ tát bỗng nhiên biến mất và đều lìa thai hóa, cúng dường kim quan xá lợi của Thích Ca Văn Phật.

***

PHẨM THỨ 36: PHỤC BỔN HÌNH

Khi ấy, Thế tôn thâu oai thần, trở lại trong kim quan, tịch nhiên im lặng. Chư thiên đốt hương rải hoa cúng dường. Khi ấy Đại Ca Diếp dẫn năm trăm đệ tử từ nước Ma Già Đà về chỗ Phật. Nghe hôm nay đức Phật sẽ diệt độ nên đau buồn khóc lóc, không thể kiềm chế được.

Thế tôn dùng thiên nhãn thấy Ca Diếp đến liền từ kim quan duỗi hai chân ra. Thấy vậy, Ca Diếp rờ vuốt, khóc lóc khôn tả.

Ca Diếp nói kệ:

– Tất cả hành vô thường

Có sanh thì có chết

Không sanh thì không chết

Diệt này rất là vui

Ai được Phật giáo hóa

Được độ khắp mọi nơi

Con hành đạo quá xa

Đau lòng không gặp Phật

Pháp giới đều vô thường

Sắc thân cũng như vậy

Không có già – bệnh -chết

Vô vi không còn sanh

Sống lâu trăm hà sa

Cũng sẽ phải diệt độ

Huống Thiên Tôn thầy con

Giữa chốn đầy bụi dơ.

Bấy giờ, Ca Diếp và năm trăm đệ tử đi nhiễu quanh kim quan bảy vòng rồi đứng qua một bên.

Khi ấy A-Nan vịn góc Tây-bắc của kim quan, Nan Đà vịn góc Đông-bắc. Chư thiên ở sau đứng trực phía Bắc. Đi ra khỏi Song Thọ bốn mươi chín bước, an táng kim quan.

Theo pháp của Sa môn, lấy hương ngưu đầu chiên đàn để trên kim quan. Các Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn dẫn thiên chúng ở trên hư không rải hoa cúng dường. Bấy giờ tôn giả Ca Diếp cầm lửa đốt củi chiên đàn để hỏa thiêu.

Tám vua nước tranh nhau phân chia xá lợi, tùy theo sức mạnh mà lấy được nhiều ít. Tất cả đều đem về cúng dường.

***

PHẨM THỨ 37: XÂY THÁP

Bấy giờ tám vua nước lớn: vua Ưu-Điền, vua Đảnh Sanh, vua Ác Sanh, vua A Xà Thế.

Bốn đại binh mã chủ: Tối hào binh mã chủ, Dung nhan binh mã chủ, Xí thạnh binh mã chủ, Kim cang binh mã chủ.

Tám đại vương này cùng nhau tranh giành xá lợi. Mỗi người thống lãnh binh chúng, dàn ra một bên.

Tám đại vương nói:

– Xá Lợi Phất! Ta phải lấy riêng cho bằng được.

Có một đại thần tên Ưu Bà Cát khuyên can, nói với các đại vương:

– Đừng tranh giành xá lợi Phật nữa, mà phải phân chia ra để cùng nhau cúng dường. Làm gì mà phải dấy binh chinh phạt nhau!

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn liền hiện làm người, nói với tám đại vương:

– Chư thiên chúng tôi cũng phải có phần. Nếu cùng nhau ra sức tranh cãi thì sẽ có bên thắng bên bại.

Bấy giờ A Nậu Đạt long vương nói với tám đại vương:

– Chúng tôi cũng phải có phần xá lợi.

Ưu Bà cát nói:

– Thôi, các ông hãy dừng lại, mà nên cùng nhau chia xá lợi.

Rồi ông liền phân làm ba: một phần cho chư thiên, một phần cho long vương và một phần cho tám vua. Rồi ông ta lấy bồn bằng vàng chứa hơn một thạch. Vị thần này lén lấy mật bôi bên trong bồn và lấy bồn để lường, phân chia xá lợi.

Chư thiên được xá lợi rồi, trở về trời xây tháp Du-bà bằng bảy báu.

Rồng được xá lợi trở về long cung cũng xây tháp D-bà bằng bảy báu.

Tám vua được xá lợi trở về nước mình cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu.

Quan thần Ưu Bà Cát được dính xá lợi trong bình vàng ba đấu và một lọ, cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu, lấy tro và đất xây bốn mươi chín ngọn tháp Du-bà bằng bảy báu.

Chỗ hỏa thiêu cũng xây tháp Du-bà bằng bảy báu, cao bốn mươi chín nhận, dùng hương hoa cúng dường, treo lụa tràng phan, bảo cái, suốt ngày lẫn đêm trỗi âm nhạc không dứt đoạn.

Nhờ oai thần của Phật khiến cho tháp bảy báu đều có ánh sáng. Ban đêm tỏa ánh sáng như ban ngày, ban ngày phóng ánh sáng như ban đêm. Các thiên thần giữ tháp đều đến canh giữ, không có kẻ xấu ác đến xúc phạm.

***

PHẨM THỨ 38: XUẤT KINH

Sau khi Phật nhập diệt bảy ngày đêm, Đại Ca Diếp nói với năm trăm A-la-hán:

– Hãy đánh kiền chùy tập hợp chúng. Năm trăm vị đều đến từ thế giới chư Phật trong mười phương. Ai đắc A-la-hán, lục thông thấu triệt thì tập hợp hết ở giữa song thọ cõi Diêm Phù Đề này. Nay Thích Ca văn Phật đã đến tuổi thọ nhập bát Niết-bàn. Chỗ hỏa thiêu đã được xây xong tháp bảy báu. Nay tập hợp đại chúng là muốn được giảng nói pháp thân tánh chân thật của Phật. Hãy mau tập hợp để chọn những lời nói vi diệu.

Khi ấy, năm trăm vị La-hán nghe lời chỉ bảo của Đại Ca Diếp, dùng sức thần túc, như người lực sĩ duỗi cánh tay đến từ hằng hà sa cõi khắp mười phương. La-hán tập hợp được tám ức bốn ngàn vị đến tập hợp ở cõi Kham Nhẫn để nghe thọ chánh pháp.

Thấy đại chúng đã tập hợp, Đại Ca Diếp nói với Ưu Ba Ly:

– Ông làm Duy-na, hãy bảo A-Nan đi ra.

Nhận lời chỉ giáo, Ưu Ba Ly bảo A-Nan ra, nói:

– Ông là thị giả Phật, nay có lỗi lớn với chúng tôi, ông có tự biết không?

A-Nan thưa Đại Ca Diếp:

– Tôi xét thấy không có lỗi lớn nào với Thánh chúng cả.

Ca Diếp bảo A-Nan:

– Thế nào, này A-Nan! Kinh mà Phật nói rằng: nếu có Bồ tát nào đắc đạo, sáu thông thấu triệt, tu bốn thần túc, tu nhiều, hành nhiều, có thể sống hơn một kiếp. Vì sao mà ông im lặng, không trả lời Phật?

Khi ấy, A Na Luật đưa A-Nan ra ngoài, rồi bỗng nhiên kêu A-Nan ra trước, lấy việc xưa mà quở trách A-Nan. Khi ấy A-Nan tâm hoang mang, tự suy nghĩ: “Phật diệt độ chưa bao lâu mà lại sĩ nhục ta đến như vậy” , liền tư duy bốn ý chỉ, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo. Các trần cấu đã được diệt sạch và bỗng nhiên đại ngộ. Thánh chúng khen ngợi, chư thiên ca hát. Ngay lúc đó, mặt đất chấn động sáu cách, chư thiên rải hoa, trỗi nhạc. Sắc thân diệt độ, còn pháp thân vượt ra khỏi thế gian, làm lợi ích cho chúng sanh, phần nhiều được thấm nhuần, rồi sai A-nan thăng cao tòa bằng bảy báu.

Ca Diếp nói với A-Nan:

– Pháp mà Phật nói, một chữ một lời nói hãy cẩn thận, chớ có để thiếu sót. Tạng của Bồ tát tập trung lại một chỗ. Tạng Thanh văn tập trung để một chỗ. Tạng giới luật tập trung để một chỗ.

Khi ấy A-Nan nói:

– Có một thuở nọ nói về chỗ mà đức Phật ở thì Ca Diếp và tất cả Thánh chúng đều rơi nước mắt, khóc lóc không tự kềm chế được, than thở: “Già – chết như huyễn, như hóa. Hôm qua thấy Phật mà hôm nay nghe nói đã diệt độ rồi” .

– Tạng kinh Thai Hóa được đưa ra đầu tiên.

– Thứ hai: tạng Trung ấm.

– Thứ ba: tạng Ma Ha Diễn phương đẳng.

– Thứ tư: tạng giới luật.

– Thứ năm: tạng Thập trụ Bồ tát.

– Thứ sáu: Tạp tạng.

– Thứ bảy: tạng Kim cang.

– Thứ tám: Phật tạng.

Đây là pháp kinh của Thích Ca Văn, học đã đầy đủ rồi.

Mồng tám tháng hai: thành Phật.

Mồng tám tháng hai: chuyển pháp luân.

Mồng tám tháng hai: chiến thắng quân ma.

Mồng tám tháng hai: nhập bát Niết-bàn.

    Xem thêm:

  • Kinh Luân Vương Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà-ra-ni - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tâm Chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 24 – Thọ Báo - Kinh Tạng
  • Kinh Ca Diếp Tiên Nhơn Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 48 – Kinh Kosambiya (Kosambiya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tu Hành Bản Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Thọ Đề Già - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Hạnh Người Cư Sĩ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 1 Đến Phẩm 10 - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Diệu - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng