1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Kinh Phổ Diệu

Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 1: BÀN VỀ GIÁNG THẦN

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, cùng với đông đủ chúng đại Tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người và Bồ-tát, ba vạn hai ngàn người. Tất cả là những bậc đã đạt trí tuệ và thần thông tự tại vô ngại, chỉ còn thọ sinh một lần nữa sẽ thành Chánh giác. Các vị đã từng bỏ thân mạng bố thí, trì giới trong sáng, nhẫn nhục, điều phục ý, nhất tâm, tinh tấn, trí tuệ, phương tiện, khéo léo, vượt trên tất cả, hiểu rõ vạn pháp thảy đều như huyễn, như ngựa đồng hoang, như bóng, như tiếng vang, như cây chuối, như huyễn hóa, như bóng trăng, đều vô sở hữu. Đối với những việc có lợi, không lợi, khen chê, khổ vui, có tiếng, không danh tiếng, đều tự tại an nhiên, đã vượt qua tất cả các pháp sở hữu đó của thế gian, thần thông du hóa tự tại, đạt các pháp tổng trì, một mình du hóa khắp ba cõi, như mặt trời chiếu sáng. Các bậc Bồ-tát với chí nguyện đầy đủ, thường qua lại trong năm đường để cứu giúp những khốn nguy ách nạn, phân biệt biện tài, định ý vô ngại, đều là do tự bản thân mình đã hoàn thành pháp nhẫn một cách trọn vẹn. Các ngài trụ chỗ vô trụ để độ thoát khắp mười phương. Tên của các ngài là Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Tổng Hào Vương, Bồ-tát Sự Tử Anh, Bồ-tát Cát Nghĩa Ý, Bồ-tát Tịch Ý Hạnh, Bồ-tát Phân Biệt Biện Tài, Bồ-tát Đãi Vô Sở Úy, Bồ-tát Tấn Tịch, Bồ-tát Đại Ai. Các bậc Bồ-tát Thượng Thủ như vậy gồm có cả thảy là ba vạn hai ngàn người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang du hóa tại thành Xá-vệ. Nơi đây, trên từ vua quan, đại thần, hào tộc, trưởng giả, cho đến vạn lớp dân chúng thảy đều cùng nhau cúng dường y phục, ẩm thực, giường nệm, ngọa cụ, thuốc men, tất cả đều được đầy đủ, an ổn, và danh xưng tốt đẹp sau đây về Đức Phật được đồn khắp mười phương, đó là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, đang giảng dạy đạo ý nghĩa, ở đầu, giữa, cuối đều thiện, nghĩa lý thông suốt nhiệm mầu, rỗng lặng, thích hợp cho việc tịnh tu phạm hạnh.

Bấy giờ, đang đêm có các Thiên tử cõi Tịnh cư tên là Tịch Nhiên Tôn cùng với Thần Diệu Thiên, Hoan Lạc Thiên, Gia Hoan Thiên, Chiên-đàn Thiên, Đại Duyệt Thiên, Huỳnh Nhiên Thiên, Tôn Tịch Luật Thiên và vô số Thiên tử khác trời Tịnh cư, oai thần rực rỡ, hào quang sáng chói chiếu khắp rừng Kỳ thọ, cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui đứng qua một bên và bạch Phật:

-Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con từng nghe có kinh điển tên Phổ Diệu Đại Phương Đẳng, phân biệt cội gốc các đức hạnh của Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất giáng thần nhập mẫu thai. Thời gian ở trong thai vui vẻ phát triển. Vì muốn hiển bày sự thù đặc lại hiện đản sinh. Tất cả đều là vì lập các pháp hạnh.

Lúc ở chốn cung điện cùng thể nữ hưởng thọ dục lạc, hiểu rõ các môn nghệ thuật, thị hiện học tập thơ văn, toán số, thuốc thang trị bệnh, bắn cung, cỡi ngựa, đánh quyền, biểu diễn ném voi… chứng tỏ đạo lực siêu việt quần sinh, thành tựu đầy đủ các hạnh Bồ-tát, qua lại khắp nơi, quả thật là bậc siêu việt thù thắng, tiếng tốt đồn khắp, dùng Bồ-tát lực để tự an vui, hàng phục quân ma, đầy đủ thập lực, vô úy của Như Lai, ban bố, tuyên dương vô lượng kinh điển của chư Phật, mở bày giảng dạy vô lượng giáo pháp mà các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác trong quá khứ đã từng giảng dạy.

Đạo nghĩa ngàn xưa cũng giống như các Đức Thế Tôn: Phật Liên Hoa Thượng, Phật Pháp Anh, Phật Định Quang, Phật Đức Anh, Phật Pháp Tạo, Phật Tiên Thiên, Phật Đế Anh, Phật Tập Kim Cang, Phật Chúng Tôn, Phật Tuyết Tượng, Phật Nhạo Thanh Tịnh, Phật Xuất Gia Lạc Hạnh, Phật Hoa Anh, Phật Thắng Nham, Phật Thiện Minh, Phật Thiện Diệu, Phật Tiên Huân, Phật Thắng Luân, Phật Hân Lạc, Phật Thiên Hoa, Phật Luân Cát Tường, Phật Thiện Thủ, Phật Thiên Hỷ, Phật Trụ Giác, Phật Trụ Thí, Phật Đế Pháp Phổ Xưng, Phật Thị Thế Thiện Diệu, Phật Biện Phổ, Phật Bảo Xưng, Phật Oai Cường, Phật Phạm Thần, Phật Vô Úy Thiện Hóa, Phật Thiện Âm, Phật Mục Duyệt, Phật Tích Đức, Phật Âm Vũ, Phật Diệu Nhan, Phật Thọ Thần! Phật Dữ Nhân Du, Phật Mỹ Cầu, Phật Hàng Oán, Phật Cúng Dường, Phật Duy Vệ, Phật Thức-khí, Phật Tùy Diệp, Phật Câu-lưu-tần, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp, là các Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác từ xưa đến nay đã từng mở bày con đường giáo hóa.

Lành thay, cúi xin Đức Thế Tôn vì lòng thương xót đối với tất cả quần sinh mà ngày hôm nay cũng mở bày giảng giải giáo pháp như vậy. Cúi xin Đức Thế Tôn vì thương tưởng đến số đông, an ủi cho số đông mà cứu độ thế gian và nhân loại khắp mười phương. Vì các hàng Đại thừa mà chỉ dạy giáo pháp này, để bẻ dẹp hết tất cả những tà thuyết dị học của ngoại đạo, nhiếp phục các loài ma, tuyên bố các hạnh nghĩa của Bồ-tát. Những ai nguyện thực hiện hạnh Đại thừa Bồ-tát thì tự mình phải nỗ lực tinh tấn hộ trì chánh pháp khiến ngôi Tam bảo được tồn tại dài lâu, không để cho bị dứt mất và đầy đủ thân Phật hiện khắp mười phương.

Khi ấy Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của các Thiên tử bằng cách im lặng, vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thảy đều được thọ ân.

Khi ấy các Thiên tử thấy Đức Phật lặng im nhận lời thỉnh cầu thì trong lòng rất vui vẻ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, dùng hoa thiên tâm tung rải để cúng dường Phật, rồi bỗng nhiên biến mất, cùng nhau trở về Thiên giới.

Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn với hàng đệ tử Bồ-tát và Thanh văn vây quanh, nhóm họp tại giảng đường Ca-lê. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo chư Tỳ-kheo.

-Khi hôm, vào lúc nửa đêm có các Thiên tử cõi Tịnh cư cùng với quyến thuộc đến đảnh lễ sát chân Ta và chắp tay thưa: “Xin Đức Thế Tôn vì tất cả chúng con mà giảng dạy lại kinh Đại Phương Đẳng Phổ Diệu để cho hết thảy quần sinh đều được nhờ ân”. Khi ấy Ta im lặng nhận lời thỉnh cầu. Các Thiên tử thấy ta nhận lời, vui mừng phấn khởi rồi bỗng nhiên biến mất, cùng nhau trở về Thiên giới.

Bấy giờ hội chúng nghe Đức Phật kể lại chuyện trên, vui mừng khôn xiết, cùng nhau đến trước Phật bạch:

-Cúi xin Đấng Thiên Trung Thiên, hãy vì chúng con giảng giải những lời hỏi ấy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát và Thanh văn:

-Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì các thầy giảng lại những lời dạy cao quý mà tất cả các Đức Như Lai đã từng giảng dạy để cứu giúp hết thảy chúng sinh.

Này các thầy Tỳ-kheo, sao gọi là pháp Đại Phương Đẳng trong kinh Phổ Diệu?

Bấy giờ, Bồ-tát ở cõi trời Đâu-suất trông thấy cả trăm ngàn chư Thiên đều cung kính Bồ-tát đã đạt đến quả vị Bất thoái chuyển, cùng nhau hết lời ca ngợi, tiếng vang mười phương, các nguyện hoàn mãn, hiểu rõ tất cả tạng pháp của chư Phật, thanh tịnh vô cấu. Với đạo nhãn và trí tuệ của bậc Thánh, tâm niệm, trí định qua lại khắp nơi. Bản tánh cao thượng kiên cố, hổ thẹn vì chưa hóa độ quần sinh. Tâm niệm rộng rãi cao xa tự tại, các hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ đều uyên thâm. Dùng đại phương tiện để hóa độ bốn Đẳng tâm: đại Từ, đại Bi, Hỷ, Hộ (Từ, Bi, Hỷ, Xả) truyền rộng giáo pháp. Dùng ba Đạt với thần thông vô cực không chướng ngại, để mở bày Thánh tuệ vĩnh viễn không còn bị che lấp tăm tối, thuần thục đạo nghiệp với ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, giác ý, đạo nghiệp, chỉ, quán, vắng lặng, đầy đủ tất cả đạo phẩm của chư Phật, đạt đến cùng tột ngọn nguồn, công lao phước lộc không thể đo lường, thành tựu tướng hảo trang nghiêm tự thân ở trong cảnh giới ấy lâu dài thường được tự tại.

Vị ấy nhân từ, hòa thuận không tranh cãi, lời nói và việc làm luôn đi đôi. Ý nghĩ, lời nói không hề sai trái, tâm ý ngay thẳng, không nịnh hót quanh co. Nghĩ đến người oán kết thì tự nhún nhường, không tự đại, tự cao, tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh, chưa từng có sự thiên lệch; cúng dường vô số trăm ngàn các Đức Phật thuở trước. Vì chúng sinh nhận chịu những hoạn nạn tai ương, xem thấy vô lượng chúng Bồ-tát, tỏ rõ nguồn gốc của họ. Thích, Phạm, Tứ Thiên vương, Diệu thiên, Thiên, Long, Quỷ thần, Duyệt-xoa, Kiền-đà-la, không một ai được thấy mà không mừng vui, thưa hỏi và nhận lãnh lời dạy bảo.

Vị ấy phân biệt rõ ràng gốc ngọn của từng bài, từng câu xong, đem vô vi nhập vào hữu vi, tùy thời cơ phương tiện mà mở bày giáo hóa. Tâm niệm chứa đựng giáo pháp, hiểu rõ tất cả những gì chư Phật đã giảng dạy không rối rắm, không còn quay trở lại, thẳng hướng đến tổng trì, vào sâu tạng pháp, dong thuyền pháp lớn, dạo trên mười hai biển để tiếp độ các hạng chúng sinh, dạy ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tập trung trí tuệ sâu xa vào pháp bảo, làm vị thầy dẫn đường vĩ đại vượt qua bốn dòng, các nguyện đầy đủ, hàng phục ma oán, khéo ngăn chận các đường thuộc về tà thuyết dị học của ngoại đạo; mở bày giáo hóa cho tất cả trụ vào chỗ kiên cố; tuy ở chốn trần lao mà đã có nơi quay về; vì mọi người làm vị thầy dẫn đường, vững chắc như kim cang, hành từ bi không chướng ngại; chí tánh an hòa, tích lũy sức tinh tấn; vì giáo pháp ưu việt thâm sâu, tùy phương tiện khéo léo. Ở giữa chúng, hùng như sư tử, khả năng định ý không thể đo lường, giống như hoa sen mọc trong bùn lầy mà không bị nhơ nhớp. Giữ gìn giới cấm, học rộng nghe nhiều, chưa từng buông lung. Lòng từ trùm khắp mười phương, chưa từng có tâm gia hại. Nước tâm lắng trong chưa từng nhiễm trước. Vượt tám pháp thế gian, tâm như khối báu lớn. Phước lộc Thánh tuệ đạt được thật vô cùng. Nhóm công, vun đức, dồn chứa đạo nghiệp, rõ suốt trí tuệ Phật, khai mở thành Pháp, tiêu trừ những hoạn nạn cho chúng sinh, khéo khai ngộ cho họ. Dùng bốn phép Thần túc thông vượt qua bờ bên kia, chí đặt ở ba cửa giải thoát, làm sáng tỏ môn nhất tâm giải thoát vắng lặng, thanh tịnh, chói sáng, tịch lặng.

Ở chỗ am thất thanh vắng như núi non, đồng trống, dạo chơi nơi rừng pháp, thực hành Cụ túc giới, Thập lực, Vô úy, chưa từng khiếp nhược, đã vượt thoát sinh tử, không còn nghi ngờ.

Không sợ hãi vượt qua vô số các phái dị học ngoại đạo, giống như sư tử dạo đi giữa đám hươu nai, xả bỏ buông lung, không giữ ý riêng. Giả sử có chỗ luận bàn thì rống lên tiếng rống của sư tử, oai hùng trong loài người.

Đạo tràng thiền định trí tuệ giải thoát, phóng ánh sáng lớn chiếu soi đến tận những chỗ tối tăm, khắp nơi thảy được nương nhờ ánh sáng của đạo. Các chúng tà dị học giống như con đom đóm, chẳng ích lợi gì cho thế gian. Ngu mê tâm tối che lấp ánh sáng nguồn tâm. Phát khởi sức đại đạo, việc làm tinh tấn. Tuyên bày công lao đức hạnh, oai thần vời vợi, trừ những thứ tối tăm, đầy đủ sự trong sáng, mọi người thấy đều hoan hỷ. Đối với quốc độ của chư Phật, không còn có chướng ngại. Nhổ phăng những khốn cùng nguy ách, tẩy rửa những bụi bặm nhớp nhơ. Đối với pháp môn giải thoát, nhất tâm, tỉnh thức, điều hòa, hiểu rõ, thông suốt, thiền tư, sáng tỏ để mở bày giáo hóa bốn bộ chúng, chư Thiên và dân chúng thực hành Thật giác ý, dồn chứa cái quý báu của đạo, điều phục tâm chúng sinh, tùy bệnh cho thuốc, khiến không ôm ấp sự xấu ác, thực hành mười nghiệp lành, lấy đó làm của cải giàu có; vâng giữ đầy đủ không trái với việc làm thù thắng của Đấng Pháp Vương, là chuyển bánh xe báu, chuyển dòng Luân vương, thành tựu tất cả, sâu xa khó lượng. Tất cả pháp bảo nghe mãi không chán, trí tuệ không cùng, không tận.

Bấy giờ tất cả những việc như đây không thể hạn lượng, không thể thí dụ, giống như sông biển là chỗ tóm thâu trí tuệ. Như đất, nước, lửa, gió, tâm kia đều bình đẳng. Vững mạnh không lay động như núi Tu-di. Tiêu sạch các trói buộc dính mắc, như ánh sáng mặt trời chiếu sáng những chỗ nhớp nhơ. Tâm như hư không.

Tại cung điện lớn sắp đặt ở đó các thứ sàng tòa đủ hai vạn hai ngàn. Vì cửa ngõ, mái hiên cửa sổ, giảng đường, lầu gác trang hoàng nghiêm chỉnh, dựng các tràng phan bảo cái. Tịnh xá được rải san sát các thứ hoa sen xanh, phù dung. Các chúng ngọc nữ có đến trăm ngàn ức, cùng nhau trổi các thứ nhạc hay và rải các thứ hoa đủ loại không thể kể hết. Các loại cây quý thứ lớp thẳng hàng. Đất đai sạch sẽ bằng thẳng, không gồ ghề. Hương thơm xông khắp, chim le le, nhạn, loan đủ loại nhiều vô số ức bơi lội trong ao, phát ra các âm thanh hòa nhã, thấy, nghe, đùa giỡn như tiếng đại pháp, tiêu trừ tất cả nạn khổ của trần dục, nhiếp phục các sự mỏi mệt, chán nản, tự đại, cống cao, Tâm luôn vui vẻ, nhớ nghĩ việc cao xa; do đó thành tựu được pháp lớn không cùng tột. Dùng các loại âm thanh vi diệu của tám vạn bốn ngàn loại nhạc hay để diễn bày, giảng dạy. Do phước đức của Bồ-tát chứa nhóm từ nhiều đời trước, tự nhiên tuyên xuất bài kệ vi diệu này:

Chứa công dồn đức hạnh

Tuyên bố đủ pháp âm

Tâm Ngài gắn liền đạo

Tạo trí tuệ sáng suốt

Đủ vô lượng thế lực

Vứt bỏ các sở hữu

Phân biệt giải tận gốc

Các nghi của chư Thiên

Ý thanh tịnh không nhơ

Không tỷ vết xen tạp

Vứt bỏ sạch ba độc

Vắng bặt sân, nhuế, hận

Lắng trong hết các cấu

Tâm Ngài như ngọc sáng

Từ xưa cho đến sau

Thường ưa thích bố thí

Tiếng vang từ dòng họ

Giới, tịnh hạnh, điều hòa

Tinh tấn, thiền, trí tuệ

Làm theo muôn ức pháp

Vô số tiếng khen ngợi

Nói pháp muôn ức Phật

Thương xót các chúng sinh

Chỉ xem xét hiện thời

Mà hiểu biết sau trước

Trần cấu của sinh tử

Quán sát bản hạnh Ngài

Thiên, Long, các Quỷ thần

Trải trăm ngàn ức kiếp

Ưa nghe không chán mỏi

Trí tuệ thiện không lười

No đủ không đói khát

Các ngươi tuy ngưỡng mộ

Ưa pháp không thích dục

Tánh không còn cấu uế

Thương xót trời người đời

Ở na-thuật ức năm

Nghe pháp tâm không bỏ

Hoặc ngưỡng mộ ca tụng

Quán các nạn địa ngục

Mắt thông suốt không vướng

Thấy mười phương chư Phật

Đã được nghe pháp này

Kinh này đời tôn trọng

Đời trước gieo diệu đức

Ở cung trời Đâu-suất

Càng được trời thương mến

Ưa mưa xuống thiên hạ

Đã vượt khỏi dục giới

Và sắc giới ức năm

Đều cùng mến mộ Thánh

Phật vô lượng kiết tường

Hàng phục các nghiệp ma

Giáo hóa các dị học

Quy Phật thật dễ dàng

Lại xét lúc này đây

Trần Lao đời hưng thạnh

Diễn bày mây chánh pháp

Tinh tấn mưa cam lộ

Tiêu cấu uế trời, người

Tôn y hiểu các bệnh

Trao thuốc để trị liệu

Chỉ ba cửa giải thoát

Chóng lập nhà vô vi

Thí như sư tử rống

Các trùng nhỏ khiếp sợ

Với tiếng sư tử rống

Phật hàng ma, dị học

Tay cầm đèn minh triết

Sức tinh tấn vượt lực

Tổng trì gần trước mắt

Hàng phục thắng chúng ma

Bốn Thiên vương xa thấy

Muốn dâng bát lên Ngài

Thiên, Đế, Phạm, ức năm

Vừa sinh, đến phụng kính

Thảy đều dâng lời khen

Dòng báu, các họ quý

Bậc trời người tôn kính

Tu hành đạo Bồ-tát

Về sau tại ba cõi

Sáng báu lại hơn hẳn

Như ma-ni vô cấu

Nổi mây, mưa thiên hạ

Các tiếng âm nhạc hay

Diễn xuất biết ba âm

Ý mến thương khuyên giúp

Xem xét nay đúng lúc.

Bấy giờ Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

-Khi ấy Bồ-tát dùng các thứ nhạc hay tuyên bày pháp âm. Ra khỏi đại cung điện có đại giảng đường tên là Diễn thí pháp. Bồ-tát lên ngồi trên tòa sư tử nơi giảng đường kia, các Thiên tử theo học nghiệp Đại-thừa, hạnh bình đẳng, từ bi, cũng đều lên giảng đường lớn này, mọi người theo thứ lớp ngồi vào chỗ của mình đều cùng theo học, bỏ lại chúng ngọc nữ và các Thiên tử. Mỗi người đến nhóm họp, các chúng quyến thuộc của mỗi người đem theo có đến sáu mươi sáu ức, đều cùng bàn tán: “Chủng tộc nào đáng cho Bồ-tát hiện sinh vào?” Có người cho rằng: dòng họ Duy-đề thuộc đất nước Ma-kiệt rất là hưng thịnh, nay Bồ-tát nên giáng thần mẫu thai ở nơi ấy. Có người cho: Bồ- tát không nên sinh vào đất nước kia, vì lẽ gì? Vì dòng Duy-đề ấy người mẹ thuộc dòng họ chân chánh nhưng dòng họ của người cha không chân chánh, thuộc giống binh nô: hung bạo không hiền lành, không đáng ưa thích. Dòng họ đó phước đức ít oi không đầy đủ. Đất đai thành ấp không có hoa viên, ao tắm tốt đẹp. Đã là chỗ biên địa thì không nên sinh ở đó.

Có người luận rằng: Câu-tát-la là một nước lớn, dòng họ to lớn, quyến thuộc đông đúc, Bồ-tát nên giáng thần ở nước ấy. Có người cho rằng: Bồ-tát không nên giáng thần cõi kia. Vì lẽ gì? Bởi vì Câu-tát-la vốn dòng họ Ma-đằng đến sinh sống nơi đó, cha mẹ dòng họ đều không chân chánh, thuộc hạng hạ liệt, thấp hèn, không phải là chỗ đáng cho bậc thầy của trời ưa chuộng. Xứ sở ấy phước lộc mỏng manh, thấp hèn, thô bỉ, tánh hạnh không hòa, không có các thứ trân châu quý báu khác lạ cùng những thức ăn quý, bổ để có thể cúng dường lên bậc Thánh, vườn quán, ao tắm cũng rất sơ sài, đã là chốn biên vực thì không nên tôn ngưỡng.

Có người nói: Hòa-sa là một nước lớn, quốc vương thuộc dòng họ cao sang, dân chúng đông đúc, thạnh vượng, ngũ cốc dẫy đầy, Bồ-tát nên giáng thần nước kia. Hoặc có người lại bảo: Bồ-tát không nên giáng thần nơi đó. Vì lẽ gì? Quốc vương nước kia thuộc dòng họ thấp kém, hợp chủng, không phải cao đức. Đất không có oai thần, phải lễ tiết từ nước khác để lập thành nước mình. Cha mẹ không chân thành, không được thong dong. Do vì lẽ ấy không nên sinh vào nước kia.

Lại có người nói rằng: Duy-da-ly là một thành vô cùng rộng lớn, nhân dân phồn vinh an ổn, thịnh vượng vui vẻ, không có các nạn. Cửa nhà, mái hiên chạm trổ hoa văn, lầu gác, bao lơn trang hoàng rực rỡ. Ao tắm, vườn quán, nam nữ dạo chơi cùng khắp trong đó. Nhà cửa của dân chúng ngay hàng thẳng lối, Bồ-tát nên giáng thần vào nước kia. Lại có người nói: Bồ-tát không nên giáng thần nơi ấy. Vì lẽ gì? Dân chúng nước kia thường hay tranh cãi, bất hòa, không có hạnh thanh tịnh; chỉ có hình thức bên ngoài chứ không có thực lực bên trong, không tu đạo pháp, không biết tôn ti. Mỗi người tự cho mình là hơn hết, là duy nhất, không tự nhún nhường, không tuân theo giáo pháp, không kính phục bậc cao đức. Do đó cho nên không đáng tôn phục.

Lại có người nói rằng: nước Đăng thọ này thuộc dòng họ hào cường, sự nghiệp to lớn, tài năng số một, không có ai vượt khỏi, Bồ-tát nên giáng thần vào nước ấy. Lại có người nói rằng: Ở đó cũng không nên. Vì lẽ gì? Vì người cõi đó hung hăng ngỗ nghịch, việc làm thì dối trá, tánh khí lại hung ác, cứng cỏi khó dạy, cười chê người, tự đại, cho mình là hơn, không có sự nghiệp tu hành. Do đó, Bồ-tát không nên sinh vào cõi kia.

Các Bồ-tát và Thiên tử ai nấy đều cùng nhau luận bàn xem xét khắp các quốc độ lớn trong thiên hạ. Các dòng họ lớn của các vua, các địa vị giàu sang, quý trọng, đều xem xét hết, nhưng hết thảy đều không vừa ý.

Bấy giờ trong chúng hội có một vị Thiên tử tên là Tràng Anh thực hành đạo Bồ-tát đến địa vị Bất thoái chuyển, thông suốt về Đại thừa, bảo với các Bồ-tát và các Thiên tử:

-Này chư hiền, chúng ta nên cùng nhau đến thưa hỏi Bồ-tát, dòng họ nơi nào là dòng họ sau cùng rốt ráo để Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ giáng thần mẫu thai.

Tất cả cùng nhau đi đến chỗ Bồ-tát, tới trước chắp tay thưa:

-Cúi xin đấng Chánh sĩ cứu cánh Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, Ngài sẽ giáng thần vào chỗ nào, dòng họ nào và công đức ra sao?

Bồ-tát đáp:

-Nước nào, dòng họ nào có sáu mươi đức, bậc Nhất sinh bổ xứ mới nên giáng thần. Những gì là sáu mươi?

1. Cõi nước rộng lớn, dòng họ tịch lặng.

2. Mọi người đều tôn trọng, kính ngưỡng.

3. Dòng họ không tạp nhạp.

4. Sinh chỗ trang nghiêm đẹp đẽ.

5. Dòng họ chân chánh.

6. Đúng hạnh của kẻ nam người nữ.

7. Ý chí tháo vát kiên cường.

8. Trước sau đều trượng phu.

9. Học theo nghề nghiệp tốt.

10. Đức hạnh bền chắc.

11. Làm người giản dị.

12. Được mọi người khen ngợi ưa thích.

13. Ý chí hành động dũng mãnh.

14. Ở chỗ tôn quý.

15. Chí hạnh không cùng.

16. Nữ hạnh trong trắng.

17. Nam tử đông nhiều.

18. Chỗ sinh không sợ.

19. Không có tật đố, xan tham.

20. Trí tuệ sáng suốt.

21. Có nhiều nghệ thuật.

22. Dứt sạch nẻo ác.

23. Ăn uống tùy ý.

24. Được tự do.

25. Bạn lành đông nhiều.

26. Tuy ở chỗ có trùng thú mà không bị hại.

27. Dòng họ ôn hòa, lương thiện.

28. Chuộng tu đạo đức.

29. Không có tham dục.

30. Không có sân hận.

31. Không ôm ấp ngu si tăm tối.

32. Vui vẻ, không cống cao.

33. Tướng tốt trùm khắp.

34. Dốc lòng tin vào đạo.

35. Ưa thích bố thí.

36. Xuất gia bền bỉ.

37. Thế lực vượt xa.

38. Chỗ dạo chơi thù thắng.

39. Không ai là không cung kính.

40. Chư Thiên phụng thờ.

41. Quỷ thần vâng lệnh.

42. Ngạ quỷ quy ngưỡng.

43. Không có oán kết.

44. Tiếng đồn khắp nơi.

45. Chủng loại hàng đầu.

46. Tánh hạnh tự tại.

47. Quyến thuộc mạnh mẽ.

48. Không bạn bè náo loạn.

49. Bạn bè cao thượng.

50. Hiếu thuận cha mẹ.

51. Kính trọng Sa-môn, Phạm chí.

52. Tiền của giàu có, nghề nghiệp tinh xảo.

53. Nhiều kho tàng của báu, ngũ cốc.

54. Bảy báu dồi dào.

55. Voi ngựa vô số.

56. Độc lập, tự chủ.

57. Tôi tớ, tiểu đồng để sai khiến nhiều vô số.

58. Nghĩa lợi như ý.

59. Không ai có thể hơn.

60. Nhân từ trùm khắp.

Đó là sáu mươi đức.

Khi ấy các Bồ-tát và các Thiên tử nghe kể sáu mươi chủng tánh thanh tịnh như vậy mới biết sự đặc thù, hết sức vui mừng, sung sướng, đến trước bạch với Bồ-tát:

-Kính bạch Bồ-tát, dòng họ nơi nào mà công đức huân tập rực rỡ đầy đủ như đây?

Bồ-tát đáp:

-Nay dòng họ Thích này rất thịnh vượng, ngũ cốc dẫy đầy, thanh bình an vui, đời sống dân chúng rất sung túc, hưng thạnh, là do trồng các gốc đức. Nước Ca-duy-la-vệ mọi người hòa thuận, trên dưới nương nhau, tâm niệm hòa hợp, bảo vệ tình hình chung, có ba loại kho chứa của, không còn tai ương, bỏ các tà kiến. Tất cả dòng họ Thích đều khát ngưỡng đạo Nhất thừa, kính thờ bậc trưởng thượng tôn túc. Cư sĩ, đại thần, quyến thuộc hòa ái với nhau, sắc tướng xinh đẹp vào bậc nhất.

Đức vua Bạch Tịnh tánh hạnh rất hiền từ, nhân đức. Phu nhân của vua tên là Khiết Diệu, thùy mị, tánh tình ôn hòa, nhân từ bác ái, nhan sắc không ai bằng, tâm không thay đổi, chưa có con nối dòng, bà nhàm chán thế tục, học đạo không mỏi mệt, giống như Thiên ngọc nữ, ai trông thấy cũng hoan hỷ, không có thói thường của nữ nhân, lời nói chí thành không thô bỉ hung ác, trừ bỏ sân hận, không đi truyền nói việc của người này người kia, ưa thích bố thí, gìn giữ giới cấm không hề bị khiếm khuyết, kính trọng chồng, đúng lúc, tâm không thay đổi, thường định an lành. Màu tóc xanh biếc, sắc mặt sáng sủa, vui tươi, nghĩ kỹ trước khi nói. Dòng họ đó nhân hòa, tánh nết ngay thẳng, không dua nịnh quanh co, thường biết hổ thẹn, tính tình chính chắn không hời hợt. Ba cấu nhẹ mỏng, nhẫn nhục hàng đầu, tay chân mềm mại giống như hoa sen. Giữ gìn thân, khẩu, ý vững như kim cang, như ngọc nữ báu, đức vốn thanh tịnh, năm trăm đời trước đã từng làm mẹ Bồ-tát. Dòng họ Thích luôn luôn khát khao trông đợi nên Ta đến giáng thần vào thai bà.

Ngài liền đọc bài kệ:

Người thanh tịnh ưa pháp

Ngồi pháp tòa sư tử

Tự nhiên trời vây quanh

Buồn bã nên Bồ-tát

Bàn khắp nơi giảng đường

Dòng nào rất hiền lương

Bồ-tát nên giáng thần

Cha mẹ thuần chân chánh

Xem khắp trong thiên hạ

Vua, chư hầu, họ lớn

Cùng chung lòng suy nghĩ

Dòng Thích sạch không tỳ

Vua Bạch Tịnh tối thắng

Đặc thù trong hàng vua

Giàu có thêm không bệnh

Cung kính thường hành pháp

Tất cả đều quy ngưỡng

Mến họ Thích thuần hòa

Giảng đường, vườn quán tốt

Nên giáng thần Ca-duy

Hoàn thành thế lực lớn.

Ba mươi hai sức voi

Học thuật vượt không cùng

Thân chết không bị hại

Bạch Tịnh không tự đại

Đứng đầu ba ngàn cõi

Ý vui như Thiên đế

Hoàng hậu tên Khiết Diệu

Đẹp như ngọc nữ trời

Hình thể rất thanh khiết

Chư Thiên nhân trông thấy

Nhìn mãi không chán mệt

Không vết như ngọc báu

Nói dịu dàng ngay thẳng

An ổn không tranh cãi

Sắc mặt thường tươi vui

Luôn hành pháp hổ thẹn

Lìa mạn, không khinh dễ

Không nghe lời nịnh hót

Thường thương ưa bố thí

Sạch tà, hành mười thiện

Thân, khẩu, ý chân thật

Đã vượt tánh nữ nhân

Chưa từng có sơ suất

Không ham vinh thế tục

Long cung và thế gian

Không ai thể sánh kịp

Xứng đáng mang thai Thánh

Xưa kia năm trăm đời

Thường làm mẹ Bồ-tát

Bạch Tịnh đáng làm cha

Ngài hay ban đức thần

Thấy lành, siêng tu hành

Vâng thờ, thường kính pháp

Ngài luôn luôn thanh bạch

Với mươi hai vô dục

Tới lui ở trong nước

Ngủ nghỉ và đi đứng

Sáng soi xứ sở Ngài

Tịnh quang diệt các tội

Tuy chỗ trời, thần, người

Không dám có tâm dục

Thấy người không nết na

Xem họ như mẹ con

Hoàng hậu phát tịnh nghiệp

Sinh trưởng tại cung vua

Tôn quý không ai hơn

Danh xưng vang dội khắp

Vương hậu thật xứng đáng

Người tôn quý tối thượng

Nên đến cõi lành ấy

Ta chọn để giáng thần

Thiên hạ không ai hơn

Mang thai bậc Thánh tôn

Hoàng hậu Diệu đủ đức

Mới có thể kham nhận

Chư Thiên hỏi Đại Thánh

Bồ-tát trí thanh tịnh

Đều khen vua và hậu

Nên sinh dòng Thích-ca.

***

Phẩm 2: THUYẾT PHÁP MÔN

Phật dạy các thầy Tỳ-kheo:

-Trước khi lựa chọn nơi chốn Bồ-tát giáng thần, cõi trời Đâu-suất kia có Đại Thiên cung tên là Cao tràng, dài rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm. Bồ-tát thường ngồi nơi đó giảng dạy kinh điển cho chư Thiên.

Bấy giờ, Bồ-tát lên cung trời kia bảo khắp chư Thiên: “Có kinh điển tên là Liệu Trị Chúng Kiết Chung Thỉ Chi Hoạn”. Cuối cùng xong xuôi lên trên pháp tòa cao lớn, ban bố pháp chân chánh khiến các pháp hội được nghe lời dạy bảo.

Bấy giờ các Bồ-tát và các ngọc nữ đều thưa:

-Chúng con mong muốn được nghe.

Khi ấy Bồ-tát xem khắp bốn phương cõi, hóa làm một tòa cao như bốn thiên hạ, hiện vô số các phẩm vật tốt đẹp, quý lạ, trang nghiêm để làm vui lòng tất cả mọi người. Tòa đó trang sức tốt đẹp vượt xa cõi Dục và sắc giới. Có được sàng tòa này đều là do phước đức nhiều đời của Bồ-tát. Và tòa sư tử ấy có vô số vật dồn lại trang hoàng, dùng Thiên y cực đẹp trải lên trên, dùng vô lượng hương xông để xông lên đó. Đốt các loại hương, rải các thứ danh hoa, trăm ngàn minh châu chiếu sáng tự nhiên được trang trí xen lẫn các màn che, nghiêm sức các loại cờ, trướng. Từ nơi các màn che xen lẫn đó, phát ra những âm thanh vi diệu. Ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương. Dựng các cờ phướn, lọng báu buông rủ khắp chung quanh, chưng bày các minh châu, tơ lụa rực rỡ. Trăm ngàn ngọc nữ phút chốc nhóm họp. Vô số sàng tòa cũng tự nhiên hiện đến. Ngàn công đức huân tập cũng đều hiện khắp. Vô số Thích, Phạm đều đến đảnh lễ hộ vệ Bồ-tát. Từ vô số kiếp chứa nhóm công đức, trăm ngàn ức năm tu các pháp ba-la-mật, công đức thành tựu. Chư Phật trong mười phương đều nghĩ nhớ.

Bồ-tát ngồi xuống bảo với chư Thiên và chúng hội:

-Này chư Hiền giả, ta xem xét Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc trên dưới, mười phương thế giới, các cõi trời Đâu-suất, các bậc Nhất sinh bổ xứ đều muốn giáng thần. Vô số trăm ngàn đại chúng chư Thiên và quyến thuộc vây quanh theo hầu, Bồ-tát đều khiến họ mắt được thấy hết, đều vì họ mở bày giảng dạy pháp môn diệu đạo.

Chỗ kiến lập oai thần của Bồ-tát khiến cho các chúng chư Thiên tận mắt trông thấy khắp mười phương, từ xa cúi đầu đảnh lễ. Mỗi người đem hương hoa cúng dường bậc Bổ xứ sắp thành Phật, năm vóc lễ lạy, lớn tiếng ngợi khen:

-Lành thay! Đức của Bồ-tát không thể nghĩ bàn, khiến cho thân của chúng ta cùng một lúc thấy được vô lượng Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát bảo với các Thiên chúng:

-Quý vị hãy lắng nghe. Vì lẽ gì gọi pháp môn Diệu đạo đều là bất cập, mà chỉ phân biệt? Pháp môn Diệu đạo có một trăm lẻ tám việc, bậc sắp giáng thần sẽ vì chư Thiên nói rõ. Những gì là một trăm lẻ tám? Đó là:

-Pháp môn chí thành: Thành tựu tánh hạnh, không có gì phá hoại được.

-Pháp môn diệu hỷ: Tâm vui trong mọi lúc.

-Pháp môn hân lạc: Thành tựu dốc lòng tin.

-Pháp môn ái kính: Tâm tự nhiên thanh tịnh.

-Pháp môn hộ thân: Sạch nơi ba việc.

-Pháp môn hộ khẩu: Không phá hủy bốn điều lành.

-Pháp môn hộ ý: Vứt bỏ ganh ghét, giận dữ, ngu si.

-Pháp môn niệm Phật: Thấy mười phương chư Phật.

-Pháp môn niệm Pháp: Thấy pháp thanh tịnh.

-Pháp môn niệm Chúng: Hướng vào tịch diệt.

-Pháp môn niệm Thí: Oai thần trùm khắp.

-Pháp môn niệm Giới: sở nguyện được đầy đủ.

-Pháp môn niệm Thiên: Khiến tâm thanh tịnh.

-Pháp môn Từ tâm: Dạy bảo mọi người lập đức.

-Pháp môn Bi tâm: Không hại hàng đầu.

-Pháp môn hoan hỷ: Không chê bai người khác.

-Pháp môn hộ trì: Nhàm chán ái dục.

-Pháp môn phi thường: Có khả năng vượt cõi sắc, Vô sắc.

-Pháp môn quán khổ: Đoạn trừ những điều đã quán, nguyện.

-Pháp môn vô ngã: Không nương tựa, dính mắc vào một pháp nào.

-Pháp môn quán âm. Tiêu trừ điều không chân chánh.

-Pháp môn quán tàm: Diệt trừ hành bên trong.

-Pháp môn quán sĩ: Tiêu dứt hành bên ngoài.

-Pháp môn quán thành: Không khinh dễ trời, người.

-Pháp môn quán thật: Không thương yêu thân mình.

-Pháp môn quán hạnh: Dẫn dắt chế ngự hành.

-Pháp môn quán tam Bảo: Diệt sạch ba đường.

-Pháp môn quán liễu đạt: Không mất gốc đức.

-Pháp môn quán tác: Không khinh chê người khác.

-Pháp môn hiểu kỷ: Không tự hủy nhận xét của mình.

-Pháp môn hiểu người: Không chống trái người khác.

-Pháp môn phân biệt: Làm theo đạo pháp.

-Pháp môn biết thời: Không bao giờ dối láo.

-Pháp môn bỏ tự đại: Đầy đủ Thánh tuệ.

-Pháp môn xả hại: Không khinh thường mình và người.

-Pháp môn bỏ kết: Không có do dự.

-Pháp môn thích an lạc: Không ôm ấp hồ nghi.

-Pháp môn bỏ bất tịnh: Vứt tưởng tham dục.

-Pháp môn không tranh cãi: Đoạn trừ ý thức đấu tranh kiện tụng.

-Pháp môn không dối: Không làm hại người.

-Pháp môn pháp nghĩa: Quyết rõ các nghĩa.

-Pháp môn ưa pháp: Mong được pháp sáng suốt.

-Pháp môn cầu nghe: vắng lặng quán các pháp.

-Pháp môn ứng chánh: Vâng hành bình đẳng.

-Pháp môn đoạn danh sắc: Vượt các sự chướng ngại.

-Pháp môn chán vật bảo: Thành lập tuệ giải.

-Pháp môn bỏ chấp trước: Không nương danh xưng.

-Pháp môn xuyên suốt tối tăm: Xa lìa hạnh ác.

-Pháp môn thân ý: Bản thể yên tịnh.

-Pháp môn niệm thông: Nhổ các cảm thọ.

-Pháp môn tâm hướng đến: Xem tâm như mộng.

-Pháp môn ý chỉ: Tuệ chiếu các tối tăm.

-Pháp môn ý đoạn: Xả gốc bất thiện.

-Pháp môn thần túc: Thân tâm nhẹ nhàng.

-Pháp môn tín căn: Không cầu mong người khác.

-Pháp môn tấn căn: Khéo chọn tuệ sáng.

-Pháp môn ý căn: Khéo tạo đạo nghiệp.

-Pháp môn định ý: Giải thoát các tâm.

-Pháp môn trí tuệ: Hiện thành minh triết.

-Pháp môn tín lực: Vượt oai thế của ma.

-Pháp môn tấn lực: Không hề quay lui.

-Pháp môn ý lực: Chưa từng quên bỏ.

-Pháp môn định lực: Diệt các vọng tưởng.

-Pháp môn trí lực: Qua lại cùng khắp.

-Pháp môn ý giác: Hiểu pháp chân thật.

-Pháp môn giác ý: Soi khắp các pháp.

-Pháp môn tân giác: Chứa hạnh Phật đạo.

-Pháp môn hỷ giác: Tu hạnh bình đẳng.

-Pháp môn tín giác: Việc làm đã xong.

-Pháp môn định giác ý: Thông suốt các pháp hạnh.

-Pháp môn hộ giác: Vượt các chỗ sinh.

-Pháp môn chánh kiến: Ưa thích vào vắng lặng.

-Pháp môn chánh niệm: Vứt bỏ vô số tưởng.

-Pháp môn chánh ngôn: Hiểu rõ tất cả các âm thanh giống như tiếng kêu và tiếng vang.

-Pháp môn chánh trị: Không trả thù tội.

-Pháp môn chánh nghiệp: Chấm dứt các chướng ngại.

-Pháp môn chánh tiện: Tiêu các dục ý.

-Pháp môn chánh ý: Nhập vào vô tưởng.

-Pháp môn chánh định: Đạt được Tam-muội, không có sân hận.

-Pháp môn đạo tâm: Không dứt lời dạy của Tam bảo.

-Pháp môn tịnh tánh: Không ưa thừa nào khác.

-Pháp môn Thánh đạt: Phật pháp vi diệu, tâm không ràng buộc.

-Pháp môn ứng thời: Khắp đủ các pháp.

-Pháp môn thí độ vô cực: Thành tựu đầy đủ tướng hảo, thanh tịnh cõi Phật, khuyến hóa dứt trừ tật đố xan tham.

-Pháp môn giới độ vô cực: Vượt hẳn chỗ các ác, tám nạn, nhiếp phục các người phạm, cấm.

-Pháp môn nhẫn độ vô cực: Tâm hòa điều nhu, nhiếp phục các người sân hận.

-Pháp môn tấn độ vô cực: Nuôi lớn các đức lành, nhiếp phục các người biếng nhác.

-Pháp môn thiền độ vô cực: Phát khởi, hiển bày tất cả.

-Pháp môn nhất tâm: Thần thông định ý, nhiếp phục các người ý loạn.

-Pháp môn trí độ vô cực: Xả các mạng lưới vô minh tà kiến, che lấp tối tăm lâu đời, nhiếp phục các người ác trí.

-Pháp môn thiện quyền: Tùy chỗ chúng Ưa thích mà hiện bày các oai nghi, thâu nhiếp tất cả Thánh tuệ Phật.

-Pháp môn tứ ân: Nhiếp phục các chúng sinh khiến thành Phật đạo.

-Pháp môn tứ đẳng, chánh pháp do mình: dùng bốn đẳng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả để nhiếp phục các bè đảng thiên chấp.

-Pháp môn hóa chúng: Đã lập thệ nguyện rộng lớn của mình, không mệt mỏi biếng nhác.

-Pháp môn hộ pháp: Trừ sạch tất cả trần lao cho chúng sinh.

-Pháp môn tích đức: Chúng sinh ngưỡng mộ.

-Pháp môn Thánh phẩm: Đầy đủ mười lực.

-Pháp môn tịch nhiên: Thành Như Lai định.

-Pháp môn kỳ quán: Dạy bảo tuệ nhãn.

-Pháp môn phân biệt biện: Thành tựu pháp nhãn.

-Pháp môn đạo ngự: Đầy đủ Phật nhãn.

-Pháp môn tổng trì: Vâng hành theo lời Phật dạy.

-Pháp môn biện tài: Những điều trình bày làm vui lòng chúng sinh.

-Pháp môn thuận nhẫn: Thuận hóa các pháp không khởi.

-Pháp môn pháp nhẫn: Quyết nhận được quả vị Bất thoái.

-Pháp môn chuyển địa: Đầy đủ các pháp Phật.

-Pháp môn tùng trụ chí trụ: Đạt đến nhất thiết trí nghiệp của quả vị quán đảnh.

-Pháp môn vô dư: Ở trong thai, xuất gia, cho đến lúc thành Phật dưới gốc cây, chỉ vì các nhân giả lược nói chỗ cốt yếu.

Đó là một trăm lẻ tám pháp môn Diệu đạo. Bồ-tát đại sĩ khi sắp giáng thần vì các Thiên tử giảng dạy pháp này. Khi thuyết phẩm pháp môn này, tám vạn bốn ngàn Thiên tử phát tâm vô lượng chánh chân đạo, ba chục vạn hai ngàn Thiên tử đời trước vun trồng gốc đức, ngay khi đó liền thành pháp nhãn vô sinh, ba mươi sáu ức chư Thiên tử… xa lìa trần cấu, được các pháp nhãn tịnh. Chư Thiên Đâu-suất thảy đều vui mừng, đều rải Thiên hoa chất cao lên đến tận đầu gối.

Như vậy, này các Tỳ-kheo, Khi ấy Bồ-tát vì đại chúng chư Thiên khuyến trợ và tha thiết thuyết kệ:

Có an vui thanh tịnh

Cõi trời tâm nghĩ tốt

Do xưa tạo gốc đức

Nên đến quả tịnh này

Vì vậy báo đời trước

Tạo phẩm hạnh thanh tịnh

Không đức về nẻo ác

Chốn thống khổ chẳng lành

Theo ta nghe pháp này

Chớ khởi lòng bất kính

Nên bỏ tâm kiêu mạn

Sẽ an ổn vô lượng

Tội phước không thường tồn

Không thường, không bền chắc

Như mộng huyễn, ngựa đồng

Như lằn chớp giữa không

Nếu tham đắm năm lạc

Như khát uống nước mặn

Bậc Thánh lìa trần thế

Đạt trí luôn đầy đủ

Các dục, âm nhạc hay

Tất cả các ngọc nữ

Nữ nhân, tâm đều khác

Khi ấy nghiệp bình đẳng

Không dùng bạn lợi dưỡng

Bạn thân, các quyến thuộc

Ngoài ra tạo nghiệp tốt

Không ưa các thói xấu

Cho nên đều hòa hợp

Đều ôm ấp lòng từ

Vâng hành pháp chân chánh

Hạnh lành tự đầy đủ

Thường tưởng nhớ chư Phật

Nơi pháp không buông lung

Ưa giới, thí, học rộng

Nhẫn nhục, nhân hòa, an.

Hiểu rõ khổ, không ngã

Ròng chuyên quán sát pháp

Từ nhân duyên hợp thành

Thường chuyển, thắng cấu trược

Xem thấy các biện tài

Thần túc thật vô cùng

Tuệ, công huân tự nhiên

Nghe giới không buông lung

Tu học hiểu cùng tột

Nghe rộng không ai bì

Thí, điều ý, trí tuệ

Vì chúng sinh hành từ

Thường tu hạnh thương yêu

Luôn thành tựu pháp lành

Lấy yếu hạnh làm gốc

Nói, làm thường đi đôi

Chớ làm theo ngươi khác

Đã vắng lặng tinh tấn

Đừng cho làm mà được

Không làm, cũng không an

Đẳng ý quán nơi gốc

Sống chết rất khổ nhọc

Vì không tập ly dục

Bỏ tà được rốt ráo

Cho nên được nhàn tịnh

Tuyên bố thuận lòng Từ

Cung kính nghe pháp hội

Diệt dục, đốt trần lao

Vứt bỏ đại cống cao

Giữ gìn không dua nịnh

Đúng thời siêng hành đạo

Đến diệt độ vô vi

Tiêu các trược u ám

Trí tuệ sáng giáo hóa

Bỏ các trần trói buộc

Phát khởi việc nên làm

Tuy có các pháp sư,

Cấc ngươi tu hạnh nghĩa

Không theo kiến giải họ

Không trái các pháp huấn

Nếu khi đắc Phật đạo

Chuyển pháp, mưa cam lộ

Tẩy sạch tâm nhơ bẩn

Học hỏi pháp tối thắng.

***

Phẩm 3: HIỆN HÌNH VOI

Phật bảo các thầy Tỳ-kheo:

Khi ấy, Bồ-tát vì đại chúng chư Thiên diễn bày kinh pháp, khuyên bảo, giúp đỡ, khai hóa, khiến cho tất cả đều được an vui, rồi hỏi các Thiên tử nên hiện hình nào để giáng thần mẫu thai?

Có người nói hiện hình Nho đồng, có người nói hình Thích Phạm, có người nói hình Đại Thiên vương, có người nói hình Tức Ý Thiên vương, có người nói hình A-tu-luân, Kiền-đà-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc. Có người nói hình Đại thần Diệu Thiên Nhật Nguyệt vương, có người nói hình Kim sí điểu…

Có vị Phạm thiên tên là Cường Oai, vốn từ nơi đạo Tiên đến, sau chết sinh lên cõi trời, ở nơi đạo Vô thượng Chánh chân không thoái chuyển, bảo với các Thiên tử:

-Tôi xem sổ sách Phạm chí ghi chép tán thán, ca ngợi Bồ-tát nên giáng mẫu thai.

Có người hỏi:

-Dùng hình gì để đến đó?

Đáp:

-Thứ nhất là hình voi. Voi trắng sáu ngà, quý đẹp bậc nhất. Hình voi đặc biệt xinh đẹp, oai thần rực rỡ. Sách Phạm ghi chép việc đó như vậy. Nhân đây chỉ rõ ba mươi hai tướng tốt. Vì sao? Ở đời có ba loại thú (lội nước)1. Thỏ; 2. Ngựa; 3. Voi.

Khả năng lội nước của thỏ thì chỉ tự lội. Ngựa tuy có sức mạnh đặc biệt nhưng cũng không biết được chỗ cạn sâu của dòng nước. Riêng bạch tượng thì biết tận đáy nguồn.

Thanh văn, Duyên giác, cấp bậc đó giống như thỏ, ngựa. Tuy vượt sinh tử nhưng không đạt đến gốc pháp. Đại thừa Bồ-tát giống như bạch tượng, hiểu biết thấu suốt ba cõi, mười hai duyên khởi, rõ suốt gốc ngọn, cứu giúp tất cả, không một loài nào là không được nhờ ân cứu giúp.

Như vậy, này các Tỳ-kheo, bấy giờ Bồ-tát ở cõi trời Đâu-suất quán sát khắp trong thiên hạ, ý muốn giáng thần vào cung vua Bạch Tịnh.

Lúc ấy nơi cung vua, trước tiên hiện tám điềm lành:

1. Cỏ rác, ngói, đá, các thứ dơ bẩn thảy đều tiêu sạch, tự nhiên thành sạch sẽ thơm tho, mọc đủ các loại hoa tỏa hương thơm dịu dàng.

2. Trên triền núi Tuyết đủ các giống chim: Le le, nhạn, uyên ương, các loại chim cắt, chim diêu mỏ đỏ, chim anh võ, khổng tước, chim loan và đủ các loại chim khác cùng nhau bay đến cung vua đậu trên nóc cung điện, trên các mái hiên, cửa sổ, cửa lớn, tạo thành hàng rào ngăn che, tất cả đều cùng cất tiếng hót với những âm thanh trong trẻo, dịu dàng, thanh thoát.

3. Nơi khu ngự uyển trong cung vua Bạch Tịnh, các suối nước tuôn chảy, mùa Đông vừa bước sang Xuân sinh đủ các loại hoa, vô số các thứ trân bảo hiếm lạ tốt đẹp xuất hiện.

4. Hồ ao chứa nước, ao tắm, các vườn, nhà ở thảy đều tự nhiên hiện ra hoa sen xanh, hoa phù dung lớn như bánh xe, có đến trăm ngàn cánh.

5. Đồ chứa các thức ăn như sữa, dầu mè, đường phèn, luôn luôn tràn đầy không vơi hụt.

6. Trong cung vua, các loại âm nhạc như trống lớn, trông nhỏ, không hầu, cầm sắt, tranh địch, ống tiêu không đánh không thổi tự kêu, phát ra những âm thanh hòa nhã.

7. Trong cung vua chứa các báu vật kỳ trân, minh châu bảy báu, y phục, mùng mền, anh lạc. Những vật báu tàng chứa trong lòng đất tự nhiên xuất hiện.

8. Trong cung điện, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trong ngoài, che lấp ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Hai vạn hai ngàn thể nữ mừng vui hớn hở, cùng với quyến thuộc vây quanh đồng đi đến chỗ vua. Thấy vua an tọa, họ đứng hầu một bên, rồi ngồi xen lẫn trong màn cùng biểu lộ sự vui thích ra sắc diện, đồng chúc mừng nhà vua:

-Lành thay Đại vương. Nguyện xin nghe lời bọn thần thiếp thưa:

Vua đạt nguyện lớn, các báu vật, điềm lành, cùng một lúc tự nhiên đến, thật đáng vui mừng, thời tiết ôn hòa, quốc độ thái bình. Nên tu Bát quan trai, nên nuôi dưỡng lòng từ, không nên sân giận, kính trọng thương yêu kẻ khác, dứt bỏ tham lam ganh ghét, ái dục, tà kiến. Tiêu sạch sự tự đại, lo buồn, chán ghét, không còn các loạn, tất cả đều vui vẻ. Đã nhập chánh chân, không ôm lòng hận, không nghe mười điều ác, vâng làm các điều lành. Vua thương xót chúng thần, chí thành kiến lập bỏ các ý trần, chẳng nghe lời dèm pha hai lưỡi, bỉ thử. Ưa thích giới cấm, giúp đỡ giữ gìn nề nếp. Nhớ nghĩ thực hành cộng phước, mến chuộng đạo nghĩa. Bọn thiếp cũng sẽ vâng giữ thuận theo giới cấm, vứt bỏ ngu si tăm tối, ôm lòng vui vẻ, thường tự giữ gìn, nhạc hay vây quanh trọn được an ổn, rải hoa đốt hương, xa lìa các dục, không nghĩ gì khác. Trải qua bảy ngày đêm an vui không nạn, nay lòng bọn thiếp không trụ nơi các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc (tế hoạt). Tâm này ham muốn được nghe âm thanh chân chánh, thấy nam nữ đều xinh đẹp, giống như chư Thiên, vui chơi, ưa bố thí, không màng đến sự vinh hoa của nhà vua, chỉ dùng anh lạc trang sức sàng tòa, nệm gối, và các loại giường ghế đẹp đẽ vừa ý. Tất cả đều phân khởi, an ổn, không phiền bực. Nay đây đại vương nên xem dân chúng giống như con ruột.

Khi ấy vua nghe thưa, lòng rất hoan hỷ, chấp thuận lời thỉnh cầu, không trái ý nguyện của bọn thể nữ.

Khi ấy nhà vua cho phép cung phi thể nữ được như ý đã nguyện, đều cho trang hoàng, sửa soạn sạch sẽ, rải các thứ hoa, xông đốt trầm hương, treo các vải lụa cùng tràng phan bảo cái, triệu tập hai vạn người, đều cho mặc áo giáp, đều cầm binh trượng đứng hầu tả hữu. Các quyến thuộc đều trổi các bản nhạc hay, âm thanh nhẹ nhàng êm ái, vây quanh bảo vệ vương hậu. Các cung phi thể nữ đều cùng vây quanh, các thiên ngọc nữ đến tắm rửa cho vương hậu. Hương thơm xông ướp y phục, các anh lạc quý báu, tự nhiên đều trổi lên trăm ngàn nhạc hay, âm thanh nhẹ nhàng.

Phu nhân vừa ngồi, Thiên nữ đến hầu, dùng vô số thiên hoa, kim ngân, sàng tòa; dùng các thứ hàng tơ lụa mịn màng trơn láng, êm ái trải phủ lên trên. Ngọc báu Minh nguyệt chiếu sáng, chư Thiên ngọc nữ đều mang bình hương, rải hoa, đốt hương.

    Xem thêm:

  • Kinh Luân Vương Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 48 – Kinh Kosambiya (Kosambiya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Diên Thọ Diệu Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Thập Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Thọ Đề Già - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ - Kinh Tạng
  • Kinh Cửu Sắc Lộc - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà-ra-ni - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Pháp Thất Phật Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng