Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa

Tùy Xà Na Quật Đa Cộng Cấp Đa dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 1: Tựa Phẩm 2: Phương Tiện
Phẩm 3: Thí Dụ Phẩm 4: Tín Giải
Phẩm 5: Dược Thảo Dụ Phẩm 6: Thọ Ký
Phẩm 7: Hóa Thành Dụ Phẩm 8: Thọ Ký Năm Trăm Đệ Tử
Phẩm 9: Thọ Ký Bậc Hữu Học, Vô Học Phẩm 10: Pháp Sư
Phẩm 11: Hiện Bảo Tháp Phẩm 12: Khuyến Trì
Phẩm 13: Hạnh An Lạc Phẩm 14: Từ Đất Vọt Lên
Phẩm 15: Thọ Lượng Của Đức Phật Phẩm 16: Phân Biệt Công Đức
Phẩm 17: Tùy Hỷ Công Đức Phẩm 18: Công Đức Của Pháp Sư
Phẩm 19: Bồ Tát Thường Bất Khinh Phẩm 20: Thần Lực Của Như Lai
Phẩm 21: Đà La Ni Phẩm 22: Bản Sự Của Bồ Tát Dược Vương
Phẩm 23: Bồ Tát Diệu Âm Phẩm 24: Phổ Môn, Bồ-Tát Quán Thế Âm
Phẩm 25: Bản Sự Của Vua Diệu Trang Nghiêm Phẩm 26: Bồ-Tát Phổ Hiền Khuyến Phát
Phẩm 27: Chúc Lụy

Phẩm 1: TỰA

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá, cùng đại chúng Tỳ-kheo một vạn hai ngàn vị đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết không còn phiền não, đạt được lợi mình, dứt hết ràng buộc, tâm được tự tại.

Tên các vị đó là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu tần-loa Ca-diếp, Già-da-ca-diếp, Ma-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hy-la, Nan-đà, Tôn-đà-na-lan-đà, Phú-nâu-la Di-đa-la-ni Tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la. Đó là những bậc A-la-hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn bậc Hữu học và Vô học, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với sáu ngàn vị thân cận, Tỳ-kheo-ni Gia- du-đà-la là mẹ của La-hầu-la cùng những người thân cận.

Có tám vạn Đại Bồ-tát, đều là bậc không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài, chuyển pháp luân không thoái chuyển, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật, ở nơi các Đức Phật trồng các công đức, thường được chư Phật khen ngợi, dùng pháp từ để tu thân và hoàn toàn đi vào trí tuệ Phật, thấu đạt được trí lớn đến bờ bên kia. Danh tiếng vang khắp vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm ngàn chúng sinh.

Tên các vị Bồ-tát ấy là Văn-thù-sư-lợi, Quán Thế âm, Đắc Đại Thế, Thường Tinh Tấn, Bất Hưu Tức, Bảo Chưởng, Dược Vương, Dũng Thí, Bảo Nguyệt, Nguyệt Quang, Mãn Nguyệt, Đại Lực, Vô Lượng Lực, Việt Tam Giới, Bạt-đà-bà-la, Di-lặc, Bảo Tích, Đạo Sư có tám vạn Đại Bồ-tát như vậy.

Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân cùng hai vạn Thiên tử thân cận. Lại có các Thiên tử: Minh Nguyệt, Phổ Hương, Bảo Quang. Tứ đại Thiên vương, một vạn Thiên tử quyến thuộc. Trời Tự tại và Đại tự tại cùng với ba vạn Thiên tử quyến thuộc. Chủ thế giới Ta-bà, Phạm thiên vương, Thi-khí Đại phạm, Quang Minh Đại phạm… đều cùng hai ngàn Thiên tử quyến thuộc.

Có tám vị Long vương: Nan-đà, Bạt-nan-đà, Bà-ca-la, Hòa-tu-kiết, Đức-xoa-ca, A-na-bà-đạt-đa, Ma-na-tư, Ưu-bát-la Long vương … cùng với trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Khẩn-na-la vương là Pháp, Diệu Pháp, Đại Pháp, Trì Pháp Khẩn-na-la vương, đều cùng trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Càn-thát-bà vương là Nhạc, Nhạc âm, Mỹ, Mỹ âm Càn-thác-bà vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị A-tu-la vương là Bà Trĩ, Khư-la-khiên-đà, Tỳ-ma-chất-đa-la, La-hầu A-tu-la vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc.

Có bốn vị Ca-lầu-la vương là Đại Oai Đức, Đại Thân, Đại Mãn, Như ý Ca-lầu-la vương đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc.

Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hy, cùng trăm ngàn vị thân cận, đều đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên.

Khi ấy, bốn chúng vây quanh cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Đức Thế Tôn. Đức Phật đang giảng kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm cho các Bồ-tát. Nói kinh này xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập thiền định Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không động.

Lúc ấy, trời mưa các loại hoa: Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, tung rải khắp trên Đức Phật và đại chúng. Khắp cả cõi Phật, chấn động sáu cách. Lúc ấy trong hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cùng các vị Tiểu vương, Chuyển luân thánh vương đều cho là việc chưa từng có, nên vui mừng chắp tay chăm chú nhìn Phật.

Lúc ấy, Đức Phật phóng ánh sáng từ tướng bạch hào giữa đôi chân mày chiếu khắp cả một vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Chiếu xuống tận địa ngục A-tỳ và lên đến trời Hữu đảnh. Ở trong thế giới này đều thấy sáu đường chúng sinh, lại thấy Phật hiện tại và được nghe kinh pháp của Phật dạy. Và thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo, lại thấy các Đại Bồ-tát, bằng các nhân duyên tin hiểu và tướng mạo để hành đạo Bồ-tát. Và thấy các Đức Phật vào Niết-bàn, lại thấy sau khi Đức Phật Niết-bàn, thâu xá-lợi và xây dựng tháp bảy báu.

Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc suy nghĩ: “Hôm nay Đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, vì sao có điềm lành này? Đức Thế Tôn đang nhập thiền định, đây là việc hiếm có không thể nghĩ bàn, vậy nên hỏi ai? Ai có thể đáp được?” Vị ấy lại suy nghĩ: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con Đấng Pháp Vương đã từng gần gũi cúng dường chư Phật quá khứ, đã từng trông thấy tướng hy hữu này. Ta nên hỏi vị ấy.”

Lúc đó, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và Trời, Rồng, Quỷ thần… đều suy nghĩ: “Tướng ánh sáng thần thông của Phật, nên hỏi ai?”

Bấy giờ muốn giải quyết sự nghi của mình và xem xét tâm của bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và Trời, Rồng, Quỷ thần… nên Bồ-tát Di-lặc hỏi Văn-thù-sư-lợi:

– Vì sao mà có tướng lành thần thông này? Phật phóng ánh sáng chiếu khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, thấy sự trang nghiêm của các cõi Phật ấy.

Muốn tuyên lại sự việc trên, Bồ-tát Di-lặc nói kệ:

Văn-thù-sư-lợi

Vì sao Đạo Sư

Từ tướng bạch hào

Hào quang chiếu khắp?

Mưa Mạn-đà-la

Hoa Mạn-thù-sa

Gió thơm Chiên-đàn

Vui đẹp lòng người

Vì lý do nào

Đất đều nghiêm tịnh

Cả thế giới này

Chấn động sáu cách?

Lúc này bốn chúng

Đều rất hoan hỷ

Thân tâm vui mừng

Được chưa từng có.

Ánh sáng bạch hào

Chiếu đến phương Đông

Vạn tám ngàn cõi

Đều như sắc vàng,

Từ ngục A-tỳ

Đến trời Hữu đảnh

Trong các thế giới

Sáu nẻo chúng sinh,

Sinh tử luân hồi

Do nghiệp thiện, ác

Nhận báo tốt, xấu

Ở đây thấy rõ.

Thấy các Đức Phật

Thánh chúa Sư tử

Diễn thuyết kinh điển

Vi diệu bậc nhất,

Tiếng Ngài trong trẻo

Giọng nói êm dịu

Dạy hàng Bồ-tát

Vô số ức muôn,

Phạm âm cực hay

Khiến người thích nghe

Ở mỗi thế giới

Giảng nói chánh pháp;

Đủ các nhân duyên

Làm rõ pháp Phật

Khai ngộ chúng sinh.

Nếu người bị khổ

Chán già, bệnh, chết

Thì nói Niết-bàn

Dứt hết các khổ.

Nếu người có phước

Từng cúng dường Phật

Cầu pháp tối thắng

Thì nói Duyên giác.

Nếu có Phật tử

Tu đủ các hạnh

Cầu Tuệ vô thượng

Thì nói Tịnh đạo.

Văn-thù-sư-lợi!

Tôi ở nơi này

Thấy nghe như thế

Và ngàn ức việc,

Rất nhiều như vậy

Nay sẽ lược nêu.

Tôi thấy cõi kia

Hằng sa Bồ-tát

Bằng các nhân duyên

Để cầu Phật đạo

Hoặc hành bố thí

Vàng, bạc, san hô

Ngọc báu ma-ni

Xa cừ, mã não

Kim cương trân bảo

Nô tỳ, xe cộ

Kiệu báu quý đẹp

Vui vẻ bố thí

Hồi hướng Phật đạo

Nguyện chứng Thừa này

Đứng đầu ba cõi

Được chư Phật khen.

Hoặc có Bồ-tát

Xe báu bốn ngựa

Lọng hoa bao quanh

Bố thí xe đẹp.

Lại thấy Bồ-tát

Bố thí vợ con

Và cả tay chân

Cầu đạo Vô thượng.

Lại thấy Bồ-tát

Vui vẻ bố thí

Đầu, mắt, thân thể

Cầu trí tuệ Phật.

Văn-thù-sư-lợi!

Ta thấy các vua

Đi đến chỗ Phật

Hỏi đạo Vô thượng.

Liền bỏ ngôi báu

Cung điện vương phi

Cạo bỏ râu tóc

Mà mặc pháp phục.

Hoặc thấy Bồ- tát

Làm vị Tỳ-kheo

Ở riêng chỗ vắng

Ưa tụng kinh điển.

Lại thấy Bồ-tát

Tinh tấn dũng mãnh

Vào nơi núi sâu

Tư duy Phật đạo.

Thấy bậc Ly dục

Ở nơi thanh vắng

Vào sâu thiền định

Được năm thần thông.

Và thấy Bồ-tát

An định chắp tay

Dùng ngàn bài kệ

Khen các Pháp vương.

Lại thấy Bồ-tát

Trí sâu, chí bền

Hay hỏi chư Phật

Nghe xong thọ trì.

Và thấy Phật tử

Định tuệ đầy đủ

Dùng nhiều ví dụ

Giảng pháp cho chúng.

Ưa thích nói pháp

Độ các Bồ-tát

Dẹp phá ma quân

Đánh trống pháp lớn.

Hoặc thấy Bồ-tát

Ngồi im tĩnh lặng

Được trời, rồng kính

Không lấy làm vui.

Lại thấy Bồ-tát

Trong rừng phóng quang

Cứu khổ địa ngục

Khiến vào Phật đạo.

Và thấy Phật tử

Chưa từng ngủ nghỉ

Kinh hành trong rừng

Siêng cầu Phật đạo.

Bậc đủ giới đức

Oai nghi không thiếu

Sáng như ngọc báu

Để cầu Phật đạo.

Hoặc thấy Phật tử

Đủ sức nhẫn nhục

Bị tăng thượng mạn

Chửi mắng đánh đập

Đều nhẫn nhịn hết

Để cầu Phật đạo.

Lại thấy Bồ-tát

Xa lìa chơi đùa,

Cùng quyến thuộc si,

Gần gũi bậc Trí

Nhất tâm trừ loạn

Chánh niệm trong rừng

Ức ngàn vạn năm

Để cầu Phật đạo.

Hoặc thấy Bồ-tát

Thức ăn thượng hạng,

Trăm món thuốc thang

Cúng Phật và Tăng,

Y phục tốt đẹp

Giá đến ngàn vạn,

Y phục vô giá

Cúng Phật và Tăng;

Ngàn vạn ức thứ

Nhà báu Chiên-đàn

Đồ nằm tốt đẹp

Cúng Phật và Tăng;

Vườn rừng thanh tịnh

Hoa trái sum suê

Suối chảy ao tắm

Cúng Phật và tăng,

Cúng dường như thế

Đủ thứ tốt đẹp

Vui mừng không chán

Cầu đạo Vô thượng.

Hoặc có Bồ-tát

Nói pháp tích diệt

Dạy dỗ nhiều cách

Vô số chúng sinh.

Lại thấy Bồ-tát

Không có hai tướng

Cũng như hư không.

Lại thấy Phật tử

Tâm không lệ thuộc

Dùng diệu tuệ này

Cầu đạo Vô thượng.

Văn-thù-sư-lợi!

Lại thấy Bồ-tát

Sau Phật diệt độ

Cúng dường xá-lợi.

Hoặc thấy Phật tử

Xây dựng các tháp

Vô số hằng sa

Trang nghiêm cõi nước,

Tháp báu cao đẹp

Năm ngàn do-tuần

Ngang dọc bằng nhau

Hai ngàn do-tuần,

Mỗi một tháp Phật

Có ngàn tràng phan

Chuỗi ngọc giao nhau

Linh báu hòa vang

Các Trời, Rồng, Thần

Nhân, Phi nhân

Hương hoa âm nhạc

Thường đem cúng dường.

Văn-thù-sư-lợi!

Các Phật tử kia

Cúng dường Xá-lợi

Trang hoàng tháp Phật

Cõi nước tịnh nhiên

Tốt đẹp tuyệt vời

Như Thiên thọ vương

Nở hoa tươi đẹp.

Phật phóng ánh sáng

Tôi cùng chúng hội

Thấy cõi nước kia

Đủ thứ tốt đẹp,

Thần lực của Phật

Trí tuệ hiếm có

Phóng hào quang sáng

Chiếu khắp các cõi,

Chúng tôi thấy vậy

Hết sức thán phục.

Phật tử Văn-thù!

Xin giải nghi ngờ

Bốn chúng trông chờ

Nhìn ngài và tôi.

Vì sao Thế Tôn

Phóng ánh sáng kia?

Văn-thù hãy đáp

Giải nghi chúng mừng.

Vì lợi ích gì?

Phóng ánh sáng đó

Phật ngồi đạo tràng

Chứng pháp vi diệu

Do muốn nói pháp

Và sẽ thọ ký

Thi hiện cõi Phật

Các báu nghiêm sạch

Và thấy chư Phật

Việc không phải nhỏ

Văn-thù phải biết

Bốn chúng, Rồng, Thần

Chăm chú nhìn ngài

Sẽ nói điều gì?

Khi ấy Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ-tát Di-lặc và các Đại sĩ:

– Này các thiện nam! Như tôi suy nghĩ: “Hôm nay Đức Phật muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn, diễn pháp nghĩa lớn.”

Các thiện nam! Ta từng thấy điềm lành này ở các Đức Phật trong quá khứ, Đức Phật kia phóng ánh sáng rồi mới nói pháp lớn, vì vậy nên biết, nay Đức Phật hiện hào quang cũng như vậy. Muốn cho chúng sinh đều được nghe, thấy, biết diệu pháp mà tất cả trong đời khó tin, nên hiện điềm lành này.

Các Phật tử, vào quá khứ vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn vô số kiếp có Đức Phật, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, diễn nói chánh pháp, đầu, giữa, cuối đều hoàn hảo, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ thông suốt, thuần nhất không tạp, đầy đủ sự phạm hạnh thanh bạch. Phật vì người cầu Thanh văn mà nói pháp Tứ đế, vượt qua sinh, già, bệnh, chết, đạt đến Niết-bàn, vì người cầu Bích-chi-phật mà nói pháp mười hai nhân duyên, vì các Bồ-tát mà nói sáu pháp Ba-la-mật để chứng được Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí.

Kế đến, có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy có hai vạn Đức Phật đồng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và đồng một họ, họ Phả-la-đọa.

Di-lặc nên biết, Đức Phật đầu tiên cho đến Đức Phật sau cùng đều đồng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu. Những pháp Đức Phật nói ra đầu, giữa, sau đều hoàn hảo.

Lúc Đức Phật cuối cùng chưa xuất gia có tám vị vương tử, tên là: Hữu Ý, Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hưởng Ý, Pháp Ý. Tám vị vương tử này có oai đức tự tại, thống lãnh bốn châu thiên hạ . Nghe vua cha xuất gia chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên các vương tử đó rời bỏ ngôi vị đế vương, cũng theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm Pháp sư, đã trồng các căn lành nơi ngàn vạn Đức Phật.

Khi ấy, trời mưa các hoa Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa để tung rải trên Đức Phật và đại chúng; khắp cõi Đức Phật chấn động sáu cách.

Lúc đó, trong chúng hội có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già , Nhân phi nhân, cùng các vị tiểu vương, Chuyển luân thánh vương. Đại chúng này thấy được điều chưa từng có, vui mừng chắp tay, chiêm ngưỡng Phật.

Bấy giờ, Đức Như Lai phóng ánh sáng từ tướng bạch hào giữa đôi chân mày chiếu khắp cả một vạn tám ngàn cõi Phật ở phương Đông trùm hết tất cả như hiện nay đang thấy ở các cõi Phật này.

Di-lặc nên biết, khi ấy trong hội, có hai mươi ức Bồ-tát rất muốn được nghe pháp. Các vị Bồ-tát này trông thấy ánh sáng chiếu khắp cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn biết vì nhân duyên gì mà phóng ánh sáng này?

Khi ấy, có Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử. Bấy giờ Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định, vì Bồ-tát Diệu Quang mà nói kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp không rời khỏi chỗ ngồi.

Lúc này, trong hội những người nghe pháp cũng đều ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm không động, nghe Đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn.

Bấy giờ trong chúng không có người nào thân tâm mỏi mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, A-tu-la tuyên bố thế này: “Vào giữa đêm nay, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.”

Khi ấy, có Bồ-tát hiệu Đức Tạng được Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký và bảo các Tỳ-kheo:

– Bồ-tát Đức Tạng này thứ đến sẽ thành Phật, hiệu Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, thọ ký xong vào giữa đêm ấy, Phật nhập Niết-bàn.

Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang trì kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” đủ tám mươi tiểu kiếp và giảng giải cho người. Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều là đệ tử của ngài Diệu Quang, được Diệu Quang giáo hóa trở thành những bậc kiên cố hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sau khi cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức Đức Phật, các vị vương tử này đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên Cầu Danh. Vị này tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng rất nhiều kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều quên mất, vì thế nên gọi là Cầu Danh. Vị này do có trồng các căn lành nên gặp được vô lượng trăm ngàn muôn ức Đức Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Di-lặc nên biết, lúc đó Bồ-tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác mà chính là tôi, còn Bồ-tát Cầu Danh kia là ông. Thấy điềm lành này cùng với xưa không khác, nên tôi suy nghĩ: “Hôm nay Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.”

Bấy giờ, giữa đại chúng Văn-thù-sư-lợi muốn tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:

Ta nhớ thuở quá khứ

Vô lượng, vô số kiếp

Có Phật Nhân Trung Tôn

Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh .

Đức Thế Tôn nói pháp

Độ vô lượng chúng sinh

Vô số ức Bồ-tát

Khiến vào trí tuệ Phật.

Khi Phật chưa xuất gia

Có sinh tám vương tử

Thấy Đại Thánh xuất gia

Cùng theo tu phạm hạnh,

Phật nói kinh Đại thừa

Tên là Vô Lượng Nghĩa

Ở trong hàng Đại chúng

Phân biệt nói rõ ràng.

Phật nói kinh này xong

Ngay tại pháp tòa ấy

Kiết già nhập chánh định

Tên Vô lượng nghĩa xứ.

Trời mưa hoa Mạn-đà

Trống trời tự nhiên vang

Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần

Cúng dường Đức Thế Tôn.

Tất cả các cõi Phật

Đều chấn động sáu cách

Tướng bạch hào phóng quang

Hiện các việc hiếm có;

Ánh sáng chiếu phương Đông

Vạn tám ngàn cõi Phật

Hiện nghiệp báo sinh tử

Của tất cả chúng sinh.

Lại thấy các cõi Phật

Dùng các báu trang nghiêm

Màu lưu ly, pha lê

Đều do Phật soi sáng,

Và thấy các Trời, Người

Chúng Rồng, Thần, Dạ-xoa

Càn-thát, Khẩn-na-la

Đều cúng dường Đức Phật.

Lại thấy các Như Lai

Tư nhiên thành Phật đạo

Sắc thân như núi vàng

Đoan nghiêm rất đẹp đẽ

Như lưu ly sáng trong

Hiện ra tượng hoàng kim

Thế Tôn trong đại chúng

Diễn bày nghĩa thâm diệu.

Mỗi mỗi các cõi Phật

Vô số chúng Thanh văn

Nhờ ánh sáng Phật chiếu

Thấy hết đại chúng kia.

Hoặc có các Tỳ-kheo

Ở trong núi rừng sâu

Tinh tấn trì tịnh giới

Giống như giữ ngọc sáng.

Lại thấy các Bồ-tát

Hành bố thí, nhẫn nhục

Số nhiều như hằng sa

Nhờ ánh sáng Phật soi.

Lại thấy hàng Bồ-tát

Vào sâu các thiền định

Thân, tâm đều không động

Để cầu đạo Vô thượng.

Lại thấy các Bồ-tát

Biết tướng pháp tịch diệt

Trong mỗi cõi nước ấy

Nói pháp cầu Phật đạo.

Bấy giờ bốn bộ chúng

Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng

Hiện sức thần thông lớn

Tâm họ đều vui mừng

Mỗi người tự hỏi nhau

Vì sao có việc này?

Đấng trời. người tôn kính

Vừa từ chánh định ra

Khen Bồ-tát Diệu Quang:

Ông là mắt của đời

Mọi người đều tin theo

Khéo phụng trì tạng pháp,

Như lời của ta nói

Chỉ ông mới biết rõ.

Thế Tôn đã ngợi khen

Khiến Diệu Quang vui mừng

Nói kinh Pháp Hoa này

Suốt sáu mươi tiểu kiếp

Không rời khỏi chỗ ngồi

Giảng Diệu pháp tối thượng.

Ngài Pháp sư Diệu Quang

Đều thọ trì đầy đủ

Phật nói kinh Pháp Hoa

Khiến chúng sinh vui mừng

Ngay ở trong ngày đó

Dạy bảo chúng trời, người

Nghĩa thật tướng các pháp

Đã nói cho các ông,

Vào trong giữa đêm nay

Ta sẽ nhập Niết-bàn

Ông nhất tâm tinh tấn

Phải xa lìa buông lung

Chư Phật rất khó gặp

Ức kiếp mới gặp được.

Đệ tử của Thế Tôn

Nghe Phật sắp Niết-bàn

Đều rất là sầu thảm

Sao Phật sớm diệt độ?

Thánh chủ vua các pháp

An ủi vô lượng chúng

Nếu khi ta diệt độ

Các ông chớ lo sợ,

Bồ-tát Đức Tạng này

Tâm đã được thông đạt

Nói thật tướng vô lậu

Sau đó sẽ thành Phật

Danh hiệu là Tịnh Thân

Cũng độ vô lượng chúng.

Đêm ấy Phật diệt độ

Như củi hết, lửa tắt

Phân chia xá-lợi Phật

Xây dựng vô lượng tháp,

Tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni

Nhiều như cát sông Hằng

Ngày đêm thêm tinh tấn

Để cầu đạo Vô thượng.

Pháp sư Diệu Quang ấy

Giữ gìn tạng pháp Phật

Trong tám mươi tiểu kiếp

Rộng giảng kinh Pháp Hoa.

Tám vị vương tử đó

Được Diệu Quang dạy bảo

Vững nơi đạo Vô thượng

Thường thấy vô số Phật,

Cúng dường các Thế Tôn

Tùy thuận tu đại đạo

Tuần tự đều thành Phật

Thứ lớp thọ ký nhau;

Vị thành Phật cuối cùng

Hiệu là Phật Nhiên Đăng.

Đạo Sư của chư Tiên

Độ thoát vô lượng chúng

Khi ấy ngài Diệu quang

Có một người đệ tử

Tâm thường hay biếng nhác

Tham đắm nơi danh lợi

Cầu danh lợi không chán

Thường đến nhà giàu sang

Lơ là việc tu tập

Bỏ quên không thông thuộc,

Bởi vì lý do ấy

Nên gọi là Cầu Danh.

Cũng làm các việc lành

Được thấy vô số Phật

Cúng dường các Thế Tôn

Tùy thuận tu đại đạo,

Đủ sáu Ba-la-mật

Nay gặp Đức Thích-ca

Sau đó sẽ thành Phật

Hiệu là Phật Di-lặc.

Độ khắp các chúng sinh

Số đông không thể lường

Sau Phật ấy diệt độ

Người biếng nhác là ngài;

Còn Pháp sư Diệu Quang

Nay chính là ta đây.

Ta thấy Phật Đăng Mình

Điềm lành nay như xưa

Cho nên nay biết Phật

Sẽ nói kinh Pháp Hoa.

Tướng lành như điềm xưa

Là phương tiện của Phật

Nay Phật phóng ánh sáng

Làm rõ nghĩa thật tướng.

Các ông nay nên biết

Chắp tay chăm chú chờ

Phật sắp tuôn mưa pháp

Thấm nhuần người cầu đạo

Những người cầu ba thừa

Nếu có điều nào nghi

Phật sẽ giải thích cho

Thông suốt hết tất cả.

***

Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN

Bấy giờ, ra khỏi Tam-muội một cách an lạc, Đức Thế Tôn bảo Xá-lợi-phất:

– Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa, môn trí tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật đều không thể biết. Vì sao?

Phật đã từng thân cận trăm ngàn muôn ức vô số Đức Phật, hoàn toàn tu vô lượng đạo pháp của Đức Phật, tinh tấn dũng mãnh, tiếng khen vang khắp, thành tựu pháp sâu xa chưa từng có, tùy theo trường hợp để giảng ý thú khó hiểu.

Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật cho đến nay, bằng nhân duyên, thí dụ rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện để dìu dắt chúng sinh khiến ra khỏi các sự chấp trước. Vì sao? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và Ba-la-mật.

Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền đính giải thoát Tam-muội đã sâu xa không có giới hạn, thành tựu tất cả pháp chưa từng có.

Xá-lợi phất! Như Lai có thể thuyết pháp bằng nhiều cách khéo léo, dùng lời lẽ êm dịu, làm vui lòng mọi người.

Xá-lợi phất! Tóm lại Đức Phật đã thành tựu vô lượng, vô biên pháp chưa từng có.

Thôi đi Xá-lợi-phất, không cần phải nói nữa! Vì sao? Pháp khó hiểu hy hữu đệ nhất của Phật đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thông suốt hoàn toàn, thật tướng các pháp đó là tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, các pháp trước, sau rốt ráo đều như vậy.

Bấy giờ, muốn tuyên lại ý nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Bậc Thế Hùng khó lường

Chư Thiên và loài người

Và các loại chúng sinh

Không thể biết được Phật.

Phật lực, Vô sở úy

Giải thoát, các Tam-muội

Và các pháp của Phật

Không ai đo lường được.

Đã từ vô số Phật

Hành đầy đủ các đạo

Pháp nhiệm mầu rất sâu

Khó thấy, khó hiểu rõ,

Ở trong vô lượng kiếp

Đã tu đạo này rồi

Đắc quả nơi đạo tràng

Ta đều biết tất cả.

Phước báo lớn như thế

Đủ thứ tánh, tướng, nghĩa

Ta cùng Phật mười phương

Mới biết hết việc này,

Pháp ấy không nói được

Không thể dùng ngôn ngữ

Các loài chúng sinh khác

Không loài nào hiểu được.

Trừ các chúng Bồ-tát

Có sức tin kiên cố

Các hàng đệ tử Phật

Từng cúng dường Thế Tôn,

Đã diệt hết các lậu

Thân này là tối hậu

Những hạng người như thế

Sức họ không hiểu nổi.

Giả sử khắp thế gian

Giống như Xá-lợi-phất

Cùng suy tính, đo lường

Cũng không lường trí Phật.

Giả sử khắp mười phương

Đều như Xá-lợi-phất

Và các đệ tử khác

Khắp các cõi mười phương

Cũng đầy mười phương cõi

Cùng tư duy so lường

Vẫn không thể biết được.

Bích-chi-phật trí sáng

Thân vô lậu sau cùng

Khắp mười phương các cõi

Số đông như rừng tre,

Họ đều cùng nhất tâm

Trong vô lượng ức kiếp

Suy xét thật trí Phật

Chẳng biết được chút nào.

Bồ-tát mới phát tâm

Cúng dường vô số Phật

Thông đạt các nghĩa thú,

Lại khé thuyết giảng pháp

Như lúa, mè, tre, lau

Đầy các cõi mười phương

Nhất tâm dùng diệu trí

Trải qua hằng sa kiếp

Đều cùng nhau suy lường

Chẳng biết được trí Phật.

Bồ-tát không thoái chuyển

Nhiều như cát sông Hằng

Nhất tâm cùng suy lường

Vẫn chẳng thể biết được.

Lại bảo Xá-lợi-phất

Pháp nhiệm mầu sâu sa

Vô lậu khó nghĩ bàn

Nay ta được đầy đủ,

Chỉ ta biết tướng này

Mười phương Phật cũng vậy

Xá-lợi-phất nên biết

Lời chư Phật không khác.

Pháp của Đức Phật nói

Phải nên hết lòng tin

Pháp Phật về sau này

Cần phải nói chân thật.

Bảo các chúng Thanh văn

Cùng hàng cầu Duyên giác

Ta khiến cho thoát khổ

Mau chứng được Niết-bàn.

Phật dùng sức phương tiện

Dạy giáo pháp ba thừa

Dẫn chúng sinh ra khỏi

Những nơi họ chấp trước.

Khi đó, trong đại chúng hàng Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như cùng với một ngàn hai trăm người và hàng phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đều nghĩ: “Hôm nay, Đức Thế Tôn vì sao lại ân cần khen ngợi phương tiện và nói rằng: Pháp của Phật chứng, thâm sâu khó hiểu, những lời nói ra ý thú khó biết, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật không thể đạt được. Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng nhờ pháp này đạt đến Niết-bàn mà lại không biết nghĩa đó để đạt đến”.

Lúc ấy, Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ liền bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Vì lý do gì mà Ngài ân cần khen ngợi pháp phương tiện đệ nhất sâu xa, vi diệu, khó hiểu của chư Phật. Con từ xưa đến nay theo Phật chưa từng nghe nói như vậy, nay cả bốn chúng đều có lòng nghi, cúi xin Thế Tôn nói rõ việc này. Vì sao Ngài lại ân cần khen ngợi pháp vi diệu sâu xa khó hiểu.

Bấy giờ muốn tuyên lại nghĩa trên, Xá-lợi-phất nói kệ:

Bậc Tuệ Nhật Đại Thánh

Lâu mới nói pháp này

Pháp tự mình chứng được

Lực, Vô úy, Tam-muội,

Các Thiền định, Giải thoát

Không thể nghĩ bàn được

Pháp chứng nơi đạo tràng

Không ai có thể hỏi.

Con cũng khó nghĩ được

Không ai biết để hỏi

Không hỏi mà tự nói

Khen ngợi đạo đã làm.

Trí tuệ rất thâm sâu

Chư Phật đã chứng được

Hàng La-hán vô lậu

Và người cầu Niết-bàn

Nay rơi vào lưới nghi

Vì sao Phật nói vậy?

Hạng người cầu Duyên giác

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần

Cùng các Càn-thát-bà

Nhìn nhau lòng do dự

Chiêm ngưỡng Đấng Thế Tôn,

Việc này là thế nào?

Xin Phật giảng nói cho!

Phật bảo con hạng nhất

Ở trong chúng Thanh văn

Ngay cả chính trí con

Nghi ngờ không hiểu được

Vì pháp ấy rốt ráo

Là đạo của Phật làm

Con từ miệng Phật sinh

Chắp tay nhìn chờ đợi,

Xin ban tiếng nhiệm mầu

Đúng thời nói như thật

Các Trời, Rồng, Quỷ, Thần

Nhiều như cát sông Hằng,

Hàng Bồ-tát cầu Phật

Số nhiều đến tám vạn

Lại có vạn ức nước

Vua chuyển luân vương đến

Chắp tay lòng cung kính

Mong nghe đạo đầy đủ.

Khi ấy, Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Thôi thôi, chẳng nên nói nữa, nếu ta nói việc này thì tất cả trời, người, thế gian sẽ sợ hãi nghi ngờ.

Xá-lợi-phất thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng nói, xin Thế Tôn giảng nói! Vì sao? Vì trong hội này vô số trăm ngàn vạn ức chúng sinh đã từng gặp các Đức Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật dạy có thể tin kính.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên, nói kệ:

Đấng Pháp Vương Vô thượng

Nguyện xin nói chớ lo

Vô lượng chúng hội này

Có người tin kính được.

Phật lại ngăn Xá-lợi-phất:

– Nếu ta nói việc này khắp cả Trời, Người, A-tu-la trong thế gian sẽ lo sợ nghi ngờ; Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ rơi vào hố sâu.

Rồi Thế Tôn nói kệ:

Thôi thôi đừng nói nữa

Pháp của ta khó hiểu,

Những kẻ tăng thượng mạn

Nghe chắc không kính tin.

Xá-lợi-phất thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn thuyết giảng cho! Xin Thế Tôn thuyết giảng cho! Trong hội chúng này những người như con có đến trăm ngàn vạn ức, nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa, những người này chắc sẽ sinh kính tin an ổn lâu dài được nhiều lợi ích.

Xá-lợi-phất dùng kệ nói lại nghĩa trên:

Đấng Lưỡng Túc Vô Thượng

Xin nói pháp đệ nhất,

Con là trưởng tử Phật

Xin giảng nói rõ ràng.

Vô lượng chúng hội này

Rất kính tin pháp ấy

Nhiều đời Phật đã từng

Giáo hóa chúng như vậy,

Cùng nhất tâm chắp tay

Lắng nghe lời Phật dạy

Chúng con ngàn hai trăm

Và những người cầu Phật

Xin vì đại chúng này

Xót thương giảng nói rõ

Chúng con nghèo pháp ấy

Sinh tâm rất vui mừng.

Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Ông đã ân cần ba phen thưa hỏi, ta không thể không nói. Nay ông hãy ghi nhớ rõ, khéo suy nghĩ, ta sẽ nói giảng nói cho ông.

Khi Phật nói lời này, trong hội chúng có năm ngàn Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật thoái lui. Vì sao? Vì hạng người ấy gốc tội sâu nặng và tăng thượng mạn, chưa đắc nói đắc, chưa chứng nói chứng, những người có lỗi như thế không còn ở lại đây, Đức Phật im lặng không ngăn cản. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Trong chúng của ta đây, giờ không còn cành lá, chỉ toàn hạt chắc, những kẻ tăng thượng mạn như thế ra đi cũng tốt. Ông nên lắng nghe ta sẽ nói cho.

Xá-lợi-phất thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn, con muốn được nghe!

Phật bảo:

– Xá-lợi-phất! Pháp thâm diệu này chư Phật Như Lai đúng thời mới nói, như hoa Linh thụy đúng thời mới trổ một lần.

Xá-1ợi-phất! Các ông nên tin lời Phật nói không hư dối. Xá-lợi-phất, chư Phật tùy nghi thuyết pháp, ý thú khó hiểu. Vì sao? Vì ta dùng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ diễn nói các pháp, pháp ấy không thể do suy lường mà hiểu được. Vì sao? Chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời.

Xá-lợi-phất thưa:

– Bạch Thế Tôn! Sao gọi là chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời?

Xá lợi-phất! Chư Phật vì muốn mở bày tri kiến giác ngộ làm cho chúng sinh được thanh tịnh mà hiện ra ở đời, muốn chỉ bày tri kiến giác ngộ cho chúng sinh mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến giác ngộ mà xuất hiện ở đời. Muốn cho chúng sinh nhập được tri kiến giác ngộ mà xuất hiện ở đời.

Xá-lợi-phất! Đó là chư Phật vì một việc lớn nên xuất hiện ở đời. Phật bảo Xá-1ợi-phất:

– Chư Phật chỉ giáo hóa hàng Bồ-tát, những điều đã làm chỉ vì một việc khai thị tri kiến giác ngộ cho chúng sinh.

Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ vì chúng sinh nói pháp Nhất thừa, không có hai hoặc ba thừa. Xá-lợi-phất! Tất cả pháp của chư Phật mười phương cũng vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng, vô số phương tiện, nhân duyên, thí dụ , lời lẽ để diễn nói pháp cho chúng sinh , pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sinh ấy theo Phật, nghe pháp hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí. Xá-lợi-phất! Chư Phật vị lai ra đời cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện, nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, vì chúng sinh diễn nói các pháp. Các pháp ấy đều là một Phật thừa. Các chúng sinh theo Phật nghe Pháp hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí.

Xá lợi-phất! Hiện tại trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi Phật khắp mười phương, các Đức Phật Như Lai cũng làm nhiều điều lợi ích an vui chúng sinh. Chư Phật cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện, dùng các nhân duyên, lời lẽ, thí dụ để nói các pháp cho chúng sinh. Các pháp ấy đều là Phật thừa. Các chúng sinh được nghe pháp từ Phật hoàn toàn chứng được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Chư Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri kiến giác ngộ chỉ dạy cho chúng sinh; vì muốn chúng sinh tỏ ngộ tri kiến giác ngộ; vì muốn chúng sinh nhập vào tri kiến giác ngộ.

Xá-lợi-phất! Nay ta cũng như vậy, vì biết chúng sinh có các điều ưa muốn, tâm mê chấp nên ta tùy theo căn cơ của họ dùng các nhân duyên, lời lẽ, thí dụ cùng sức phương tiện để nói pháp.

Xá-lợi-phất! Khắp thế giới mười phương còn không có hai thừa, huống nữa là ba.

Xá-lợi-phất! Chư Phật xuất hiện trong đời ác năm trược. Đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược.

Xá-lợi-phất! Vào kiếp loạn trược, tâm chúng sinh xấu xa, bỏn sẻn, tham lam, ganh ghét tạo các căn chẳng lành nên chư Phật dùng sức phương tiện nơi một Phật thừa, phân biệt nói ba.

Xá-lợi-phất! Đệ tử của ta nếu tự cho mình là A-la-hán, là Bích-chi-phật mà không nghe, không biết việc của chư Phật Như Lai, chỉ giáo hóa Bồ-tát thì người ấy chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Bích-chi-phật.

Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tự cho mình chứng đắc quả A-la-hán, là thân cuối cùng hoàn toàn giải thoát, lại không quyết chí cầu Vô thượng Bồ-đề; nên biết hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nào thực chứng đắc A-la-hán mà không tin pháp này thì điều ấy không thể có, chỉ trừ sau khi Phật diệt độ, lúc ấy không có Phật. Vì sao? Vì sau khi Phật diệt độ rất khó có được người có thể thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa những kinh như thế, nếu gặp Đức Phật khác, ở trong pháp này liền được hiểu rõ.

Xá-lợi-phất! Các ông nên nhất tâm tin hiểu, thọ tỏ lời Phật dạy. Lời chư Phật không hư dối, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa. Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng kệ nói lại nghĩa trên:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Có tâm tăng thượng mạn

Cận sự nam ngã mạn

Cận sự nữ chẳng tin,

Hàng bốn chúng như vậy

Gần có năm ngàn người

Không thấy được lỗi mình

Giữ giới còn khiếm khuyết

Che giấu các lỗi lầm

Hạng tiểu trí cặn bã

Trong hội này đi ra.

Vì oai đức của Phật

Hạng ấy kém phước đức

Không kham nhận pháp này.

Chúng đây không cành lá

Chỉ toàn những hạt chắc.

Xá-lợi-phất lắng nghe

Pháp chư Phật chứng đắc

Vơ lượng sức phương tiện

Thuyết giảng cho chúng sinh,

Tâm của họ suy nghĩ

Các việc đã được làm

Bao nhiêu tánh ham muốn

Nghiệp thiện ác đời trước

Phật rõ biết tất cả.

Dùng nhân duyên thí dụ

Lời lẽ sức phương tiện

Khiến tất cả vui mừng

Hoặc là nói Khế kính

Cô khởi cùng Bản sự

Bản sinh, Vị tằng hữu

Cũng nói những Nhân duyên

Thí dụ và Trùng tụng

Cùng Ưu-ba-đề-xá

Độn căn ưa pháp nhỏ

Tham đắm trong sinh tử

Nơi vô lượng Đức Phật

Chẳng tu đạo thâm diệu

Bị phiền não dày vò

Cho nên nói Niết-bàn.

Ta bày phương tiện này

Khiến được vào tuệ Phật

Chưa từng nói các ông

Sẽ được thành Phật đạo.

Sở dĩ chưa từng nói

Vì chưa được đúng thời

Nay thật là đúng lúc

Quyết định nói Đại thừa.

Chín bộ pháp của ta

Tùy thuận chúng sinh nói

Vào Đại thừa làm gốc

Nên mới nói kinh này.

Có Phật tử tâm tịnh

Nhu hòa, tánh lanh lợi

Nơi vô lương chư Phật

Mà tu đạo thâm diệu,

Vì các hàng Phật tử

Nói kinh Đại thừa này

Ta thọ ký người ấy

Đời sau thành Phật đạo.

Nhờ chí tâm niệm Phật

Tu trì giới thanh tịnh

Những người nghe thành Phật

Rất hớn hở vui mừng,

Phật biết tâm ấy rồi

Nên nói kinh Đại thừa

Thanh văn, hoặc Bồ-tát

Được nghe pháp ta nói

Dẫu chỉ một bài kệ

Chắc chắn sẽ thành Phật.

Trong cõi Phật mười phương

Chỉ có pháp Nhất thừa

Không hai, cũng không ba,

Trừ Phật phương tiện nói.

Chỉ mượn vào văn tự

Để dẫn dắt chúng sinh

Nên nói trí tuệ Phật

Phật xuất hiện ở đời

Chỉ có một Phật thừa,

Hai thừa kia chẳng thật

Quyết không dùng Tiểu thừa

Để cứu độ chúng sinh.

Phật an trụ Đại thừa

Như pháp mình chứng đắc

Định, tuệ, lực trang nghiêm

Dùng hóa độ chúng sinh

Tự chứng đạo Vô thượng

Pháp Đại thừa bình đẳng.

Đem Tiểu thừa hóa độ

Cho đến chỉ một người

Thì ta đọa xan tham

Việc ấy không thể làm,

Người tin, quy y Phật

Như Lai không dối gạt

Không ganh ghét, tham lam

Dứt sạch pháp bất thiện,

Chỉ Phật trong mười phương

Là không còn sợ hãi.

Ta dùng tướng trang nghiêm

Chiếu sáng khắp thế gian

Được chúng sinh tôn kính

Vì nói ấn thật tướng.

Xá-lợi-phất nên biết,

Ta vốn lập thệ nguyện

Muốn tất cả chúng sinh

Được như ta không khác

Như nguyện ta thuở xưa

Ngày nay được viên mãn

Giáo hóa các chúng sinh

Đều nhập vào Phật đạo.

Nếu ta gặp chúng sinh

Hết lòng dạy Phật đạo,

Kẻ vô trí rối loạn

Mê lầm không tiếp nhận,

Ta biết chúng sinh đó

Chưa từng tu pháp lành

Lệ thuộc vào năm dục

Si ái sinh khổ não,

Bởi nhân duyên các dục

Rơi vào ba đường ác

Luân hồi trong sáu nẻo

Chịu đủ các khổ độc.

Thân hèn thọ vào thai

Đời đời thường tăng trưởng

Người bạc phước thiếu đức

Bị các khổ dày vò,

Vào rừng rậm tà kiến

Hoặc chấp có, chấp không

Nương theo các chấp này

Đầy đủ sáu mươi hai

Pháp tà kiến hư vọng

Chấp chặt không xả bỏ

Ngã mạn và kiêu căng

Dua nịnh, tâm không thật.

Trong ngàn vạn ức kiếp

Không nghe danh hiệu Phật

Cũng chẳng nghe chánh pháp

Người như thế khó độ.

Cho nên Xá-lợi-phất

Vì họ ta phương tiện

Nói các đạo dứt khổ

Chỉ dạy pháp Niết-bàn,

Tuy ta nói Niết-bàn

Không phải diệt chân thật.

Pháp từ xưa đến nay

Tướng thường tự vắng lặng

Phật tử hành đạo rồi

Đời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Khai mở pháp ba thừa

Tất cả các Thế Tôn

Đều nói đạo Nhất thừa.

Nay trong đại chúng đây

Phải dứt trừ nghi ngờ

Lời chư Phật không khác

Chỉ một, không hai thừa.

Vô số kiếp quá khứ

Vô lượng Phật diệt độ

Trăm ngàn vạn ức Phật

Số nhiều không thể lường,

Các Thế Tôn như vậy

Dùng nhân duyên, thí dụ

Vô sô sức phương tiện

Diễn nói tướng các pháp.

Các Đức Thế Tôn ấy

Đều nói pháp Nhất thừa

Độ vô lượng chúng sinh

Khiến nhập vào Phật đạo.

Lại các Đại Thánh Chủ

Biết rõ tâm ưa muốn

Trời, người, các chúng sinh

Trong tất cả thế gian,

Liền dùng phương tiện khác

Hiện bày Đệ nhất nghĩa

Nếu có các chúng sinh

Gặp chư Phật quá khứ

Hoặc nghe pháp, bố thí,

Hoặc trì giới. nhẫn nhục

Tinh tấn, thiền và trí

Tu tập các phước tuệ

Những người như thế đó

Đều đã thành Phật đạo.

Sau khi Phật diệt độ

Nếu có các chúng sinh

Tâm hiền hòa, thuần thục

Đều đã thành Phật đạo.

Sau khi Phật diệt độ

Người cúng dường xá-lợi

Xây dựng muôn ức tháp

Dùng vàng bạc, pha lê,

Xa cừ cùng mã não

Ngọc mai khôi, lưu ly

Để trang hoàng các tháp

Rất quang đãng, tráng lệ

Hoặc có tạo tháp đá

Chiên-đàn và trầm thủy

Gỗ mật cùng gỗ khác

Gạch, ngói và bùn đất,

Hoặc ở trong đồng trống

Dồn đất thành tháp Phật

Cho đến đồng tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật

Các người làm việc ấy

Đều đã thành Phật đạo.

Nếu có người vì Phật

Tạo lập các hình tượng

Chạm trổ thành các tướng

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc dùng bảy thứ báu

Thau, đồng đỏ. đồng trắng

Bạch lạp cùng thiết chì

Sắt, gỗ cùng với bùn,

Hoặc dùng keo, sơn, vải

Trang hoàng làm tượng Phật

Những người làm việc đó

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc vẽ thành tượng Phật

Tướng trang nghiêm trăm phước

Tự làm hoặc bảo người

Đều đã thành Phật đạo.

Cho đến đồng tử giỡn

Dùng cỏ cây và bút

Hoặc chỉ dùng móng tay

Mà vẽ thành tượng Phật,

Những người như thế ấy

Dần dần chứa công đức

Đầy đủ tâm đại Bi

Đều đã thành Phật đạo

Chỉ dạy các Bồ-tát

Độ thoát vô lượng chúng

Người đối với tháp Phật

Hoặc tượng báu, tượng vẽ,

Dùng hương, hoa, cờ, lọng

Tâm cung kính cúng dường

Hoặc bảo người thổi nhạc

Đánh trống, thổi tù và

Tiêu, địch, đàn, không hầu

Tỳ bà, chiên, chập chõa

Âm nhạc hay như vậy

Đều đem cúng dường hết,

Hoặc với tâm hoan hỷ

Ca ngâm khen Đức Phật

Cho đến một tiếng nhỏ

Đều đã thành Phật đạo.

Người nào tâm tán loạn

Dầu chỉ dùng một bông

Để cúng dường tượng vẽ

Sẽ gặp vô số Phật,

Hoặc có người lễ bái

Hoặc chỉ có chắp tay

Cho đến giơ một tay

Hoặc chỉ hơi cúi đầu,

Dùng để cúng dường tượng

Sẽ gặp vô lượng Phật

Tự thành đạo Vô thượng.

Độ khắp vô số chúng

Nhập Vô dư Niết-bàn

Như củi hết, lửa tắt,

Người nào tâm tán loạn

Vào trong tháp của Phật

Chỉ xưng Nam-mô Phật

Đều đã thành Phật đạo.

Chư Phật trong quá khứ

Hiện tại hoặc diệt độ

Có người nghe pháp này

Đều đã thành Phật đạo.

Các Thế Tôn vị lai

Số nhiều không thể lường

Các Đức Như Lai ấy

Cũng phương tiện nói pháp

Tất cả các Như Lai

Dùn vô lượng phương tiện

Độ thoát các chúng sinh,

Nhập Phật trí vô lậu

Nếu có người nghe pháp

Không ai chẳng thành Phật.

Chư Phật vốn thệ nguyện

Ta tu hành Phật đạo

Muốn tất cả chúng sinh

Cũng đồng được đạo này,

Chư Phật đời vị lai

Dẫu nói trăm ngàn ức

Vô số các pháp môn

Kỳ thật chỉ nhất thừa.

Chư Phật Lưỡng Túc Tôn

Biết pháp thường vô tánh

Giác ngộ theo duyên khởi

Cho nên nói Nhất thừa

Pháp trụ pháp vị này

Tướng thế gian sinh diệt

Đã chứng nơi đạo tràng

Đức Phật phương tiện nói

Được trời, người cúng dường.

Mười phương Phật hiện tiền

Số nhiều như hằng sa

Xuất hiện ở thế gian

Vì an ổn chúng sinh

Cũng nói pháp như vậy

Biết tịch diệt đệ nhất

Nên dùng sức phương tiện

Dầu bày nhiều con đường

Kỳ thật vì Phật thừa,

Biết việc làm tâm niệm

Của tất cả chúng sinh

Nghiệp tích chứa quá khứ

Tham muốn hoặc tinh tấn

Độn căn hoặc lợi căn,

Nên dùng các nhân duyên

Thí dụ cùng lời lẽ

Tùy cơ phương tiện nói

Nay ta cũng như vậy

Vì an ổn chúng sinh

Nên dùng các pháp môn

Tuyên dương về Phật đạo.

Ta dùng sức trí tuệ

Biết tánh dục chúng sinh

Phương tiện nói các pháp

Làm cho họ vui mừng.

Xá-lợi-phất nên biết

Ta dùng mắt Phật xem

Thấy sáu đường chúng sinh

Nghèo cùng không phước tuệ,

Vào đường hiểm sinh tử

Khổ nối luôn không dứt

Chìm đắm nơi năm dục,

Như trâu mao mến đuôi

Do tham ái ngăn che

Đui mù không thấy biết

Không cầu uy lực Phật,

Và cùng pháp dứt khổ

Vào sâu các tà kiến

Bỏ khổ lại lấy khổ

Phật vì chúng sinh này

Mà khởi tâm đại Bi

Xưa ta ngồi đạo tràng

Xem cây và kinh hành

Trong hai mươi mốt ngày

Suy nghĩ việc như vầy

Trí tuệ ta chứng đạt

Vi diệu tối thắng nhất

Chúng sinh nhiều độn căn

Tham vui si làm mù

Các hạng người như thế

Làm sao có thể độ?

Bấy giờ các Phạm vương

Và các trời Đế Thích

Bốn Thiên vương hộ thế

Và trời Đại tự tại

Cùng với trăm ngàn vạn

Quyến thuộc chúng trời khác

Chắp tay cung kính lễ

Thỉnh ta chuyển pháp luân.

Ta liền tự suy nghĩ:

Nếu chỉ khen Phật thừa

Chúng sinh chìm trong khổ

Không thể tin pháp đó,

Vì phá pháp, không tin

Rơi vào ba đường ác

Ta thà không nói pháp

Mau nhập vào Niết-bàn!

Nhớ nghĩ Phật quá khứ

Đã dùng sức phương tiện

Đạo mà ta đã chứng

Cũng nên nói ba thừa.

Lúc suy nghĩ như thế

Mười phương Phật hiện ra

Phạm âm an ủi ta

Hay thay Đức Thích-ca

Bậc Đạo Sư đệ nhất.

Chứng đắc pháp Vô thượng.

Tất cả các Đức Phật

Đều dùng sức phương tiện,

Chúng ta cũng chứng đắc

Pháp vi diệu bậc nhất,

Vì các loại chúng sinh

Phân ra nói ba thừa.

Trí kém ưa pháp nhỏ

Không tin mình thành Phật

Cho nên dùng phương tiện

Phân biệt nói các quả,

Tuy nói pháp ba thừa

Chỉ dạy hàng Bồ-tát

Xá-lợi-phất nên biết,

Ta nghe Thánh Sư Tử

Tiếng vi diệu thanh tịnh

Xưng “Nam-mô chư Phật”.

Lại suy nghĩ như vậy

Ta ra đời ác trược,

Như chư Phật đã nói

Ta cũng tùy thuận làm

Suy nghĩ việc đó rồi

Liền đến Ba-la-nại

Tướng các pháp tịch diệt

Không thể dùng ngôn ngữ

Mà chỉ dùng phương tiện

Dạy cho năm Tỳ-kheo

Gọi là Chuyển pháp luân.

Liền có tiếng Niết-bàn

Và bậc A-la-hán

Tên Pháp, Tăng sai khác

Từ số kiếp lâu xa

Chi khen pháp Niết-bàn,

Chặt đứt khổ sinh tử

Ta thường nói như vậy.

Xá-lợi-phất nên biết

Ta thấy các Phật tử

Chí nguyện cầu Phật đạo

Vô lượng ngàn vạn ức,

Đều dùng tâm cung kính

Và đi đến chỗ Phật

Từng nghe từ Đức Phật

Dùng phương tiện nói pháp.

Ta liền tự suy nghĩ:

“Như Lai mà ra đời

Nhằm nói trí tuệ Phật

Nay chính đã đúng lúc.”

Xá-lợi-phất nên biết

Người độn căn trí kém

Kẻ chấp tướng kiêu mạn

Không thể tin pháp ấy,

Ta nay vui không sợ

Ở trong hàng Bồ-tát

Thẳng tiến bỏ phương tiện

Chỉ nói đạo Vô thượng.

Bồ-tát nghe pháp đó

Đều đã trừ lưới nghi

Ngàn hai trăm La-hán

Cũng đều sẽ thành Phật.

Như nghi thức chư Phật

Ba đời đã nói pháp

Nay, ta cũng như vậy

Nói pháp không phân biệt.

Chư Phật hiện thế gian

Lâu xa rất khó gặp

Giả sử Phật ra đời

Nói pháp này đã khó,

Vô lượng, vô số kiếp

Nghe được pháp cũng khó

Người nghe được pháp đó

Cũng lại còn khó hơn.

Thí như hoa Ưu-đàm

Mọi người đều ưa thích

Hiếm có trong trời, người

Lâu lắm mới xuất hiện,

Người nghe pháp mừng khen

Cho đến chỉ một lời

Tức là đã cúng dường

Tất cả Phật ba đời.

Người đó rất hiếm có

Hơn cả hoa Ưu-đàm,

Các ông chớ có nghi

Ta là Đấng Pháp Vương

Bảo khắp các đại chúng

Chỉ dùng đạo Nhất thừa

Giáo hóa hàng Bồ-tát

Không có hàng Thanh văn.

Xá-lợi-phất các ông

Thanh văn và Bồ-tát

Nên hiểu Diệu pháp này

Bí yếu của chư Phật;

Bởi đời ác năm trược

Tham đắm nơi các dục,

Các chúng sinh như vậy

Không thể cầu Phật đạo.

Người ác ở đời sau

Nghe Phật nói Nhất thừa

Mê lầm không tin nhận

Phá pháp đọa đường dữ,

Người hổ thẹn thanh tịnh

Quyết chí cầu Phật đạo

Nên vì các người ấy

Khen ngợi đạo Nhất thừa.

Xá-lợi-phất nên biết

Pháp chư Phật như vậy

Dùng vạn ức phương tiện

Tùy căn cơ nói pháp,

Người không có tu học

Chẳng thể hiểu việc này

Các ông biết chư Phật

Là bậc Thầy trong đời,

Dùng phương tiện thích hợp

Nên không còn nghi ngờ

Tâm hết sức vui mừng

Biết mình sẽ thành Phật.

***

Phẩm 3: THÍ DỤ

Bấy giờ, Xá-lợi-phất vô cùng hoan hỷ liền đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật thưa:

– Hôm nay con được nghe pháp âm này của Thế Tôn, rất vui mừng được pháp chưa từng có. Vì sao? Xưa con đã từng theo Phật nghe pháp như vậy, thấy các Bồ-tát được thọ ký sẽ thành Phật mà chúng con thì chẳng được dự vào việc đó nên buồn bã vì mất vô lượng tri kiến của Như Lai .

Bạch Thế Tôn! Con thường ở một mình dưới gốc cây trong rừng núi, khi ngồi, lúc đi đều suy nghĩ: “Chúng con đồng vào pháp tánh, sao Như Lai chỉ dùng pháp Tiểu thừa để tế độ.” Đây là lỗi của chúng con không phải là lỗi của Thế Tôn. Vì sao? Vì chúng con chờ nghe Phật nói pháp nhân duyên để thành tựu quả Vô thượng Bồ-đề là chắc chắn phải dùng Đại thừa để được giải thoát, mà chúng con không hiểu rõ Đức Phật chỉ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp. Cho nên, vừa mới nghe Phật nói pháp, chúng con liền tin theo, tư duy và nhận lấy sự chứng đắc đó.

Bạch Thế Tôn! Từ xưa đến nay con luôn tự trách mình. Hôm nay, con được nghe Phật nói pháp chưa từng có, chưa từng được nghe, liền dứt sạch các sự nghi ngờ, thân tâm rất thư thái, an ổn. Đến nay con mới biết mình thật sự là Phật tử, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, được pháp phần của Phật.

Lúc ấy để làm rõ lại nghĩa trên, Xá-lợi-phất nói kệ:

Con nghe tiếng Pháp này

Được điều chưa từng có

Lòng vô cùng vui mừng

Lưới nghi đều dứt trừ,

Xưa nay nhờ Phật dạy

Không mất pháp Đại thừa

Tiếng Phật rất hiếm có

Trừ khổ não chúng sinh.

Con đã dứt các lậu

Nghe pháp hết buồn khổ

Con ở nơi hang núi

Hoặc dưới cây trong rừng,

Khi ngồi, lúc kinh hành

Thường suy nghĩ việc này:

“Than ôi, thật đáng trách

Sao lại tự khinh mình

Chúng ta cũng Phật tử

Đồng vào pháp vô lậu,

Chẳng được ở vị lai

Diễn nói đạo Vô thượng

Sắc vàng ba hai tướng

Mười Lực, các Giải thoát

Cùng chung trong một pháp

Mà chẳng được việc này

Tám mươi tướng tốt đẹp

Mười tám pháp Bất cộng

Các công đức như vậy

Mà ta đều đã mất.”

Lúc kinh hành một mình

Thấy Phật giữa đại chúng

Tiếng khen khắp mười phương

Lợi ích khắp chúng sinh,

Tự nghĩ mất lợi này

Con tự khinh dối mình

Con thường suốt ngày đêm

Luôn suy nghĩ việc ấy.

Muốn thưa hỏi Thế Tôn

Là mất hay không mất

Con thường thấy Thế Tôn

Khen ngợi các Bồ-tát,

Vì thế nên ngày đêm

Suy lường việc như vậy.

Hôm nay nghe Phật dạy

Tùy cơ nghi nói pháp

Vô lậu khó nghĩ bàn

Khiến chúng đến đạo tràng,

Con xưa chấp tà kiến

Làm thầy các Phạm chí

Thế Tôn biết tâm con

Trừ tà nói Niết-bàn

Con trừ hết tà kiến

Chứng đắc nơi pháp không.

Bấy giờ lòng tự bảo

Đã đến được diệt độ,

Mà nay mới tự biết

Chẳng phải thật diệt độ.

Khi nào chứng quả Phật

Đủ ba mươi hai tướng

Chúng Trời, Người, Dạ-xoa

Rồng, Thần đều cung kính

Lúc ấy mới được nói

Hoàn toàn đã đoạn tận.

Phật ở trong đại chúng

Nói con sẽ thành Phật

Nghe tiếng pháp như vậy,

Nghi ngờ đều dứt trừ

Khi mới nghe Phật nói

Trong lòng rất sợ nghi

Phải chăng ma giả Phật

Làm náo loạn lòng ta?

Phật dùng các loại duyên

Thí dụ khéo diễn bày

Tâm con an như biển

Con nghe lưới nghi dứt.

Phật nói đời quá khứ

Vô lượng Phật diệt độ

An trụ trong phương tiện

Cũng đều nói pháp này,

Phật hiện tại, vị lai

Số nhiều đến vô lượng

Cũng dùng các phương tiện

Để diễn nói pháp này.

Như Thế Tôn ngày nay

Đản sinh đến xuất gia

Thành đạo, chuyển pháp luân

Cũng dùng phương tiện nói.

Phật nói đạo chân thật

Ba-tuần không nói được

Vì thế con biết chắc

Không phải ma giả Phật.

Con bị sa lưới nghi

Cho là ma làm ra,

Nghe tiếng Phật dịu êm

Sâu sa rất nhiệm mầu,

Nói thông pháp thanh tịnh

Lòng con rất vui mừng,

Nghi ngờ dứt trừ hết

An trú trong thật trí.

Con chắc chắn thành Phật

Được trời, người cung kính

Chuyển pháp luân Vô thượng

Giáo hóa các Bồ-tát.

Lúc ấy, Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Ta ở trong đại chúng Trời, Người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói: Từ xưa, ta đã từng ở chỗ hai vạn ức Đức Phật, vì đạo Vô thượng thường giáo hóa ông. Ông cũng đã theo ta thọ học từ lâu, ta dung phương tiện dẫn dắt ông vào trong pháp ta.

Xá-lợi-phất! Thuở xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông đã quên hết rồi tự nói đã được diệt độ. Hôm nay, ta muốn làm cho ông nhớ lại bản nguyện và đạo đã thực hành mà nói cho các Thanh văn kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm này.

Này Xá-lợi-phất! Đến vô lượng, vô biên không nghĩ bàn kiếp vào đời vị lai, sau khi cúng dường ngần ấy ngàn vạn ức Phật, phụng giữ chánh pháp và tu hành đầy đủ đạo Bồ-tát, ông sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn; nước tên Ly cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh, đẹp đẽ, an ổn giàu vui, trời, người đông đảo, lưu ly làm đất, có tám đường giao thông dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, hai bên đường có hàng cây bằng bảy báu luôn luôn có hoa quả. Đức Như Lai Hoa Quang cũng dùng ba thừa hóa độ chúng sinh.

Xá-lợi-phất! Tuy lúc Đức Phật ấy ra đời không phải đời xấu ác nhưng vì bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên Đại bảo trang nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo trang nghiêm? Vì nước này dung Bồ-tát để làm quý báu lớn. Các Bồ-tát nhiều vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn, tính đếm thí dụ đều không được, ngoài sức trí tuệ của Phật ra, không ai có thể biết được, khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.

Các Bồ-tát ấy đều không phải hàng mới phát tâm mà đã trồng gốc công đức từ lâu. Ở chỗ vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật tu hành phạm hạnh thanh tịnh thường được chư Phật khen ngợi, tu hành trí tuệ Phật đầy đủ sức thần thông lớn, biết rõ hoàn toàn tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm vững chắc. Bậc Bồ-tát như thế khắp đầy trong nước ấy.

Xá lợi phất! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc còn làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Sau mười hai tiểu kiếp Như Lai Hoa Quang thọ ký đạo Vô thượng Bồ-đề cho Bồ-tát Kiên Mãn bảo các Tỳ-kheo:

– Bồ-tát Kiên Mãn sau này sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành, Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác. Cõi nước Phật này cũng như vậy; chánh pháp tồn tại ở đời ba mươi hai tiểu kiếp; tượng pháp cũng tồn tại ba mươi hai tiểu kiếp.

Bấy giờ, để lập lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ:

Đời sau Xá-lợi-phất

Thành Đấng Phật trí khắp

Hiệu gọi là Hoa Quang

Sẽ độ vô lượng chúng.

Cúng dường vô số Phật

Đầy đủ hạnh Bồ-tát

Mười lực, các công đức

Chứng đắc đạo Vô thượng.

Qua vô lượng kiếp rồi

Kiếp Đại bảo trang nghiêm

Thế giới tên Ly cấu

Trong sạch không vết nhơ,

Dùng lưu ly làm đất

Dây vàng giăng đường sá

Cây bảy báu đủ màu

Luôn có hoa quả quý,

Các Bồ-tát nước này

Chí niệm luôn bền vững

Thần thông Ba-la-mật

Đều đã được đầy đủ.

Ở vô số cõi Phật

Khéo học đạo Bồ-tát,

Các Bồ- tát như vậy

Phật Hoa Quang hóa độ

Khi Phật còn vương tử

Bỏ nước, xả vinh hoa

Vào đời sống sau cùng

Xuất gia thành Phật đạo.

Phật Hoa Quang ở đời

Thọ mười hai tiểu kiếp.

Dân chúng trong nước Ngài

Tuổi thọ tám tiểu kiếp

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp trụ ở đời

Ba mươi hai tiểu kiếp

Hóa độ các chúng sinh.

Chánh pháp diệt hết rồi

Tượng pháp ba mươi hai

Xá-lợi lưu truyền khắp

Trời người đều cúng dường.

Phật Hoa Quang hoằng hóa

Sự việc đều như thế

Đấng Thánh Lưỡng Túc Tôn

Hơn hết không ai bằng

Phật ấy tức thân ông

Hãy nên tự vui mừng.

Bấy giờ, bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni , Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầ u-la-già… thấy Xá-lợi-phất ở trước Phật được nhận lời thọ ký sẽ thành đạo Vô thượng Bồ-đề đều vô cùng vui mừng, mọi người tự cởi y trên của mình để cúng dường Phật. Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương cùng vô số Thiên tử… cùng đem y đẹp cõi trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la cúng dường Đức Phật, y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự quay tròn, trăm ngàn vạn loại nhạc trời đồng thời trổi lên giữa hư không, rưới các loại hoa trời nói lời rằng: “Đức Phật xưa ở thành Ba-la-nại, ban đầu chuyển pháp luân, hôm nay lại chuyển pháp luân lớn bậc nhất.” Lúc ấy để lặp lại nghĩa này các Thiên tử nói kệ:

Xưa ở Ba-la-nại

Chuyển pháp luân bốn Đế

Phân biệt nói các pháp

Sinh diệt của năm chúng

Nay lại chuyển pháp luân

Vô thượng rất thù thắng

Pháp sâu xa nhiệm mầu

Ít có người tín được.

Chúng con từ xưa nay,

Thường nghe Thế Tôn dạy

Chưa từng nghe chánh pháp

Thâm diệu như thế này

Thế Tôn nói pháp đó

Chúng con đều tùy hỷ

Đại trí Xá-lợi-phất

Được Đức Phật thọ ký

Chúng con cũng như thế

Chắc chắn được thành Phật,

Trong tất cả thế gian

Tôn quý không ai bằng

Phật đạo chẳng nghĩ bàn

Phương tiện tùy nghi nói,

Việc phước ta đã làm

Đời này hoặc đời trước

Và công đức gặp Phật

Đều hồi hướng Phật đạo.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn! Con không còn nghi ngờ, đích thân ở trước Phật được nhận lãnh lời thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn một ngàn hai trăm vị tâm tự tại này, thuở xưa khi ở trong địa vị Hữu học Phật thường dạy: “Giáo pháp của ta có năng lực thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết hoàn toàn đạt đến Niết-bàn.” Các vị Hữu học, Vô học này cũng đều tự mình xa lìa chấp ngã, cùng chấp có, chấp không… cho là đã chứng Niết-bàn, hôm nay ở trước Đức Thế Tôn được nghe điều chưa từng nghe, đều sa vào sai lầm.

Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài vì bốn chúng nói nhân duyên ấy, khiến chúng con xa lìa nghi ngờ.

Bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Chẳng phải trước ta đã nói “Chư Phật Thế Tôn dùng các nhân duyên, thí dụ, lời lẽ, phương tiện để thuyết pháp đều vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Các điều đã nói đó đều vì giáo hóa hàng Bồ-tát. Nhưng, này Xá-lợi-phất! Ta sẽ dùng thí dụ để nói rõ nghĩa đó, các người có trí nhờ thí dụ này sẽ được hiểu.

Này Xá-lợi-phất! Như trong xóm làng, thành ấp, cõi nước, có đại trưởng giả già nua, của cải vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và tôi tớ. Nhà ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa trong nhà ấy có nhiều người cùng sống chung, một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách tường sụp đổ, cột nhà hư nát, trính xuyên nghiêng ngã cùng lúc, lửa bỗng bùng lên bốn phía, đốt cháy nhà cửa.

Các người con của trướng giả, hoặc mười, hai mươi đến ba mươi người ở trong nhà đó. Trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía bốc cháy lo sợ suy nghĩ: “Ta có thể bằng cửa ngõ nhà cháy này bình yên đi ra nhưng các con ở trong nhà lửa ham vui chơi đùa, không hay biết, không lo sợ, lửa đến bức thân đau khổ vô cùng, mà tâm chúng chẳng nhàm chán, không muốn đi ra.”

Này Xá-lợi-phất! Trưởng giả lại suy nghĩ: “Thân và tay của ta có sức mạnh có thể dùng vạt áo hoặc dùng ván cứng đưa chúng ra khỏi nhà.”

Ông lại nghĩ: “Nhà này chỉ có một cửa lại nhỏ hẹp, các con thơ ấu chưa có nhận thức chỉ ham chơi đùa hoặc bị ngã, lửa lớn sẽ đốt cháy. Vì chúng nó ta nói việc đáng sợ. Nhà này đã bị cháy nên phải ra khỏi mau, nếu không sẽ bị lửa đốt.” Nghĩ rồi ông bảo các con:

– Hãy ra mau, cha rất thương yêu các con. Dùng lời hay để dụ dỗ mà các con ham vui chơi giỡn không chịu nghe theo, chẳng sợ sệt, không muốn ra, lại không biết thế nào là lửa, thế nào là nhà, thế nào là mất, cứ rảo chạy khắp nơi nhìn cha mà thôi.

Bấy giờ trưởng giả suy nghĩ: “Nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta và các con nếu không ra mau chắc sẽ bị cháy, ta sẽ dùng phương tiện khiến các con thoát khỏi sự tổn hại này.”

Cha biết rõ trước đây các con đều ưa thích các vật quý báu kỳ lạ, nếu có chắc sẽ vui thích liền bảo:

– Những thứ quý báu kỳ lạ này sẽ là của các con, nếu các con không lấy sau này sẽ hối tiếc. Các loại xe dê, xe nai, xe trâu đang để ở ngoài cửa, có thể dùng để dạo chơi. Các con hãy mau ra khỏi nhà lửa này, tùy ý muốn cha sẽ cho các con.

Bấy giờ, nghe cha nói đồ chơi quý báu vừa ý, các con đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng nhau tranh giành để chạy ra khỏi nhà lửa.

Khi ấy trưởng giả thấy các con đều dược an ổn ra khỏi nhà lửa, ngồi ở chỗ đất trống nơi ngã tư đường không còn lo sợ, tâm ông thư thái rất đỗi vui mừng.

Bây giờ các con thưa với cha:

– Lúc nãy cha đã hứa cho các con đồ chơi quý báu đẹp đẽ như xe dê, xe nai, xe trâu. Xin cha cho chúng con!

Này Xá-lợi-phất! Khi ấy trưởng giả cho các con mỗi người một xe lớn, xe ấy cao rộng, trang hoàng các thứ báu, lan can bao quanh bốn phía treo linh , lại dùng màn lọng giăng ở trên, dùng các thứ báu tốt đẹp hiếm có để trang hoàng, dây báu đan nhau rủ các chuỗi hoa, trải nhiều lớp nệm chiếu mềm mại, gối đỏ để ở trên, kéo bằng trâu trắng, màu da sáng, hình dáng xinh đẹp, có sức rất mạnh, bước đi vững chắc, nhanh như gió, lại có rất nhiều tôi tớ theo hầu hạ.

Vì sao? Vì trưởng giả đó của cải rất nhiều, các kho đều chứa đầy. Ông nghĩ: “Tài sản của ta không kể hết, ta không nên đem xe nhỏ, xấu mà cho các con. Những trẻ thơ này đều là con ta, ta yêu chúng không thiên vị, ta có rất nhiều xe lớn bằng bảy báu như thế nên bình đẳng mà cho chúng không phân biệt.”

Vì sao? Dù ta đem xe này cho cả nước còn không thiếu huống là cho các con, lúc ấy các con đều có xe lớn được điều chưa từng có chẳng phải là điều chúng mong cầu.

– Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ thế nào? Trưởng giả đó đồng đem xe báu lớn cho các con có dối gạt không?

Xá-lợi-phất thưa:

– Bạch Thế Tôn, không! Trưởng giả kia chỉ muốn các con thoát khỏi nạn lửa, vì để bảo vệ thân mạng của chúng nên chẳng có lỗi dối gạt. Vì sao? Thân thể được an toàn lại còn được đồ chơi quý báu, tốt đẹp huống là dùng phương tiện để cứu giúp chúng ra khỏi nhà lửa.

Bạch Thế Tôn! Dù trưởng giả không cho một xe nhỏ nào cũng không có dối gạt. Vì sao? Vì trưởng giả đã nghĩ như vầy: “Ta dùng phương tiện khiến chúng ra khỏi nhà lửa”, do nhân duyên này nên không có dối gạt, huống là trưởng giả tự biết mình của cải rất nhiều, muốn làm lợi ích cho các con nên đồng cho xe lớn.

Phật bảo Xá-lợi-phất:

– Lành thay, lành thay, như lời ông vừa nói! Xá-lợi-phất! Như Lai cũng như thế. Phật là cha của tất cả thế gian, các sự sợ hãi, lo lắng, buồn rầu, vô minh tăm tối ngăn che đều dứt sạch, thành tựu vô lượng, tri kiến, trí lực, vô sở úy, có sức thần thông lớn cùng sức trí tuệ đầy đủ các phương tiện Trí tuệ ba-la-mật, sức đại Từ, đại Bi thường không mỏi mệt, thường làm việc lành để lợi ích tất cả, mà sinh vào nhà lửa ba cõi cũ mục này, để cứu chúng sinh ra khỏi nhà lửa ba độc, sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não, ngu si tối tăm, giáo hóa khiến cho chúng sinh được Vô thượng Bồ-đề. Thấy các chúng sinh bị những sự sinh, già, bệnh, chết, đau buồn, khổ não thiêu đốt cũng vì năm món dục tài lợi mà chịu những điều khổ đau. Lại vì tham đắm tìm cầu, nên hiện tại chịu các khổ, đời sau chịu cảnh khổ ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu như sinh lên cõi trời, người thì cũng nghèo cùng khốn khổ, bị khổ vì xa lìa người yêu thương, gặp gỡ người oán ghét. Những sự khổ như thế mà chúng sinh vui vẻ dạo chơi, lặn hụp trong đó, không hay không biết, không kinh, không sợ cũng không nhàm chán để cầu giải thoát, ở trong nhà lửa ba cõi này rảo chạy khắp nơi, tuy bị khổ lớn nhưng không chút lo sợ.

Xá-lợi-phất! Thấy điều này, Phật nghĩ: “Ta là cha của chúng sinh nên ta phải cứu chúng ra khỏi những nạn khổ, ban niềm vui vô lượng vô biến trí tuệ của Phật để chúng được dạo chơi.”

Xá-lợi-phất! Như Lai lại nghĩ: “Nếu ta chỉ dùng năng lực thần thông và trí tuệ, bỏ đi phương tiện vì chúng sinh khen ngợi tri kiến trí lực, vô sở úy của Như Lai, chắc chắn chúng sinh không thể nhờ đó mà giải thoát được.” Vì sao? Vì các chúng sinh đó chưa thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết lo buồn khổ não bị thiêu đốt trong nhà lửa ba cõi, làm sao có thể hiểu được trí tuệ của Phật.

Xá -lợi-phất! Như ông trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh nhưng chẳng dùng đến chỉ dùng phương tiện ân cần cứu các con thoát khỏi nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe lớn quý báu.

Như Lai cũng thế, tuy có năng lực vô sở úy nhưng không dung đến, chỉ dùng phương tiện trí tuệ cứu vớt chúng sinh ra khỏi nhà lửa ba cõi vì chúng sinh nên nói ba thừa. Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa, rồi dạy: “Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa ba cõi, chớ tham đắm các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thô xấu, nếu tham mê liền sinh ái nhiễm thì sẽ bị thiêu đốt. Các ông hãy mau ra khỏi ba cõi sẽ được ba thừa Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa.”

Nay ta bảo đảm việc này cho các ông hoàn toàn không dối gạt, các ông chỉ siêng năng tinh tấn tu hành. Như Lai đem phương tiện dẫn dụ chúng sinh, lại bảo: “Các ông nên biết pháp ba thừa đó đều là pháp mà bậc Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị trói buộc, không bị lệ thuộc, đi bằng ba thừa này dùng các Căn, Lực, Giác chi, Thánh đạo, Thiền định, giải thoát Tam-muội vô lậu… để tự an vui thì được vô lượng sự an ổn khoái lạc.”

Xá-lợi-phất! Chúng sinh nào trong có tánh trí, được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi là Thanh văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Chúng sinh nào được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận ân cần tinh tấn, cầu trí tuệ tự nhiên, ưa thích độc cư yên tĩnh hoàn toàn thấu rõ nhân duyên của các pháp, gọi là Duyên giác thừa như các người con vì cầu xe nai nên đã ra khỏi nhà lửa.

Chúng sinh nào được nghe pháp của Phật Thế Tôn và tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, Tri kiến, Lực vô sở úy của Như Lai vì từ mẫn làm cho vô lượng chúng sinh an lạc, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả gọi là Bồ-tát Đại thừa vi cầu được thừa này nên gọi là Đại, như các người con cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

Xá-lợi-phất! Như ông trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ không còn sợ hãi. Trưởng giả tự nghĩ: “Ta của cải rất nhiều nên bình đẳng đem xe lớn cho các con”. Đức Như Lai cũng vậy, là cha của tất cả chúng sinh, nếu thấy vô lượng, ngàn ức chúng sinh, nhờ cửa Phật mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được an vui của Niết-bàn.

Bấy giờ Như Lai nghĩ: “Ta có vô lượng, vô biên trí tuệ, lực vô sở úy… tạng pháp của chư Phật, các chúng sinh này đều là con của Ta, nên Ta phải bình đẳng ban cho pháp Đại thừa, không để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà cho họ được diệt độ.”

Những chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi, Phật đều cho những thứ vui thiền định, giải thoát… của các Đức Phật, các loại đó đều là một tướng, một loại được các bậc Thánh khen ngợi, được phát sinh thanh tịnh vi diệu an lạc bậc nhất.

Xá-lợi phất! Như ông trưởng giả ban đầu dùng ba loại xe dẫn dụ các con, sau rồi chỉ cho xe lớn vật báu trang nghiêm an ổn bậc nhất nhưng trưởng giả kia không hề có lỗi dối gạt. Như Lai cũng như thế, không có dối gạt, lúc đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sinh, sau đó chỉ dùng Đại thừa để độ thoát họ.

Vì sao? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí tuệ, lực vô sở úy, có thể ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sinh, nhưng họ không có khả năng nhận hết.

Xá-lợi-phất! Vì nhân duyên đó nên biết Như Lai dùng sức phương tiện từ một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Muốn thuyết minh lại nghĩa trên, Đức Phật nói kệ:

Ví như trưởng giả

Có một nhà lớn,

Nhà đó đã cũ

Mà lại hư nát.

Nhà cao nguy hiểm

Gốc cột gãy mục

Trính xuyên xiêu vẹo

Nền móng rã nát.

Vách tường sụp đổ

Đất bủn rớt xuống,

Mái lợp rách nát

Cột kèo xiêu vẹo

Bốn phía cong vạy

Khắp nơi nhơ bẩn.

Có năm trăm người

Sống ở trong đó

Xi, hiêu, điêu, thứu,

Quạ, thước, cưu, cáp,

Rắn độc, phúc yết,

Ngô công, do diên,

Thủ cung trăm chân,

Dứu, ly, hề thử,

Các độc trùng dữ

Chen chạy tán loạn.

Phân giải hôi thối

Nước dơ chảy tràn

Các trùng khương lương

Bu đầy trên đó

Cáo, sói, dã can

Liếm nhai, dày đạp

Cắn xé thây chết

Xương thịt ngổn ngang,

Do đây bầy chó

Đua nhau chụp lấy

Ốm đói sợ sệt

Tìm ăn khắp nơi

Giành giựt, cấu xé

Gầm gừ, gào sủa

Nhà đó đáng sợ

Hiện trạng như thế.

Khắp nơi đều có

Lỵ, mị, võng lượng

Dạ-xoa, quỷ dữ

Ăn nuốt thịt người,

Loài trùng độc dữ

Cầm thú hung ác

Ấp bú sản sinh

Đều tự giữ mình,

Dạ-xoa đua đến

Giành bắt để ăn

Ăn no nê rồi

Tâm dữ thêm hăng,

Tiếng chúng đánh nhau

Thật đáng lo sợ

Quỷ Cưu-bàn-trà

Ngồi xổm trên đất,

Có khi hổng đất

Một thước, hai thước

Qua lại, dạo đi

Cùng nhau chơi giỡn,

Nắm hai chân chó

Đánh la thất thanh

Lấy chân đạp cổ

Hiếp chó để vui

Lại có các quỷ

Thân nó cao lớn

Trần truồng đen xấu

Thường ở trong đó

La tiếng hung dữ

Kêu tìm thức ăn

Lại có các quỷ

Cổ nhỏ như kim

Lại có giống quỷ

Đầu như đầu trâu

Hoặc ăn thịt người

Hoặc ăn thịt chó

Đầu tóc rối tung

Độc ác hung hiểm

Đói khát dày vò

Kêu la rong chạy

Dạ-xoa quỷ đói

Các chim thú dữ

Đói rảo bốn bề

Rình xem cửa sổ,

Các nạn như thế

Vô cùng ghê sợ!

Nhà cũ mục đó

Thuộc về một người

Người ấy mới ra

Chưa được bao lâu

Sau đó nhà ấy

Bỗng nhiên phát hỏa

Một lúc bốn phía

Ngọn lửa hừng hực

Rường cột trính xuyên

Tiếng tách nổ vang

Gãy nát rơi xuống,

Vách tường sụp đổ

Các loại quỷ thần

Cất tiếng kêu to.

Loài chim điêu thứu

Quỷ Cưu-bàn-trà

Kinh sợ hoảng hốt

Không tự ra được.

Thú dữ trùng độc

Chui núp lỗ hang,

Quỷ Tỳ-xá-xà

Cũng ở trong đó.

Vì kém phước đức

Bị lửa thiêu đốt

Tàn hại lẫn nhau

Uống máu ăn thịt.

Các loài chồn cáo

Đều đã chết trước

Các thú dữ lớn

Giành giựt ăn nuốt.

Khói tanh ngùn ngụt

Phủ khắp bốn phía

Ngô công, do diên

Các loài rắn độc

Bị lửa đốt cháy

Tranh chạy khỏi hang

Quỷ Cưu-bàn-trà

Liền bắt mà ăn.

Lại các ngạ quỷ

Lửa cháy trên đầu

Đói khát nóng bức

Hoảng hốt chạy quanh

Nhà lửa như thế

Thật đáng ghê sợ!

Lửa cháy độc hại

Rất nhiều hoạn nạn

Khi ấy chủ nhà

Đứng ở ngoài cửa

Nghe có người nói

Các con của ông

Trước vì ham chơi

Vào trong nhà này

Nhỏ dại không biết

Chỉ ham vui chơi.

Trưởng giả nghe xong

Lo sợ vào nhà

Tìm cách cứu con

Khỏi bị lửa đốt,

Dụ dỗ các con

Nói các hoạn nạn

Quỷ dữ trùng độc

Lửa cháy lan tràn

Các khổ thứ lớp

Liên tục không dứt

Độc xà ngoan phúc

Các quỷ Dạ-xoa

Quỷ Cưu-bàn-trà

Dã can chồn chó

Điêu, thứu, xi, hiêu

Các loài trăm chân

Đói khát dày vò

Thật đáng ghê sợ!

Chỗ nạn khổ này

Lại còn lửa lớn

Các con không biết

Tuy nghe cha dạy

Nhưng vẫn ham vui

Chơi đùa mải miết.

Bấy giờ trưởng giả

Suy nghĩ như vầy:

“Các con như thế

Ta thêm sầu não

Trong nhà lửa này

Có gì vui đâu

Mà sao các con

Ham mê vui chơi

Không nghe lời ta

Sẽ bị lửa đốt.”

Ông lại suy nghĩ

Tìm ra cách khác,

Bảo với các con

Cha có rất nhiều

Đồ chơi quý báu

Xe báu tốt đẹp

Xe dê, xe nai

Xe trâu to lớn

Đang để ngoài cửa;

Các con ra mau

Cha sắm xe này

Để cho các con

Tùy theo sở thích

Dùng để dạo chơi.

Các con nghe nói

Những xe như thế

Liền cùng tranh giành

Đua nhau chạy ra,

Thoát khỏi khổ nạn.

Trưởng giả thấy con

Ra khỏi nhà lửa

Ở ngã tư đường

Ngồi tòa Sư tử.

Ông vui mừng, nói

Cha rất sung sướng

Các con của ta

Sinh, dưỡng rất khó

Nhỏ dại không biết

Vào nhà nguy hiểm

Rất nhiều trùng độc

Lỵ, mị đáng sợ

Lửa cháy hừng hực

Bốn phía phực lên,

Mà các con ta

Ham vui chơi đùa.

Ta đã cứu chúng

Khiến được thoát nạn

Vì thế con ơi

Ta rất vui mừng!

Khi ấy các con

Biết cha an tâm

Đều đến chỗ cha

Cùng thưa với cha:

Xin cho chúng con

Ba loại xe báu

Như cha đã hứa

Các con ra mau

Sẽ cho ba xe

Tùy các con muốn.

Bây giờ đúng lúc

Xin cho chúng con!

Trưởng giả giàu có

Kho báu rất nhiều

Vàng bạc, lưu ly,

Xa cừ, mã não

Lấy các vật báu

Làm các xe lớn

Trang trí đẹp đẽ.

Lan can bao quanh

Bốn phía treo linh

Dây vàng đan xen

Châu báu kết lưới

Giăng phủ phía trên,

Hoa vàng chuỗi ngọc

Rủ xuống khắp nơi

Màu sắc rực rỡ

Bao bọc quanh xe

Tơ lụa mềm mại

Dùng làm nệm chiếu

Vải quý hảo hạng

Trị giá ngàn ức

Bóng láng trắng sạch

Để trải trên nệm,

Có trâu trắng lớn

Mập, khỏe. sức mạnh

Thân hình đẹp đẽ

Kéo xe báu ấy,

Rất đông tôi tớ

Đi theo hầu hạ

Đem xe đẹp này

Cho đều các con.

Khi ấy các con

Vui mừng hớn hở

Ngồi trên xe báu

Dạo chơi khắp nơi,

Nô đùa vui vẻ

Tự do thoải mái.

Này Xá-lợi-phất!

Ta cũng như thế

Bậc Thánh tôn quý

Cha lành trong đời.

Tất cả chúng sinh

Đều là con ta

Say mê thế lạc

Không có trí tuệ,

Ba cõi bất an

Giống như nhà lửa,

Nạn khổ dẫy đầy

Thật đáng ghê sợ

Thường có sinh, già

Bệnh, chết, sầu lo

Các lửa như thế

Cháy luôn không tắt.

Như Lai đã lìa

Nhà lửa ba cõi

Thong thả vắng lặng

Ở yên trong rừng.

Trong ba cõi này

Đều của ta cả

Chúng sinh trong đó

Cũng là con ta

Ở trong cõi này

Rất nhiều hoạn nạn,

Chỉ có mình ta

Mới cứu được họ

Tuy có dạy bảo

Vẫn không tin nhận

Đối với dục nhiễm

Tham đắm sau dày

Dùng phương tiện này,

Để nói ba thừa

Khiến các chúng sinh

Biết khổ ba cõi

Giảng dạy chỉ bày

Đạo xuất thế gian.

Các người con ấy

Nếu tâm chắc chắn

Đầy đủ ba minh

Và sáu thần thông

Chứng quả Duyên giác

Bồ-tát không thoái.

Này Xá-lợi-phất!

Ta vì chúng sinh

Dùng thí dụ này

Nói một Phật thừa;

Các ông có thể

Tin nhận lời này,

Tất cả đều sẽ

Thành tựu Phật đạo.

Phật thừa vi diệu

Thanh tịnh bậc nhất.

Trong các thế gian

Không pháp nào hơn,

Chư Phật vui thích

Tất cả chúng sinh

Đều nên khen ngợi

Cúng dường lễ bái

Vô lượng ngà n ức

Các lực, giải thoát

Thiền định. trí tuệ

Và các pháp khác.

Được thừa như vậy

Làm cho các ông

Ngày đêm kiếp số

Thường được dạo chơi,

Cùng các Bồ-tát

Và chúng Thanh văn

Theo thừa báu này

Thẳng đến đạo tràng

Vì nhân duyên này

Tìm khắp mười phương

Không thừa nào khác

Ngoài Phật phương tiện .

Này Xá-lợi-phất!

Tất cả các ông

Đều là con ta

Ta chính là cha,

Các ông nhiều kiếp

Bị khổ thiêu đốt

Ta đều cứu giúp

Ra khỏi ba cõi,

Tuy trước ta nói

Các ông diệt độ

Chỉ hết sinh tử

Thật sự chưa diệt.

Hôm nay nên làm

Chỉ có trí Phật

Có Bồ-tát nào

Ở trong chúng này,

Chăm chú lắng nghe

Pháp thật của Phật

Chư Phật Thế Tôn

Tuy dùng phương tiện

Hóa độ chúng sinh,

Đều là Bồ-tát

Nếu người trí nhỏ

Tham đắm ái dục

Vì những người này

Phật nói Khổ đế

Chúng sinh vui mừng

Chưa từng có được

Phật nói Khổ đế

Chân thật không khác

Có chúng sinh nào

Không biết gốc khổ

Đắm trong nhân khổ

Không thể rời bỏ,

Vì những người này

Phương tiện nói đạo.

Nguyên nhân các khổ,

Tham dục là gốc

Nếu trừ tham dục

Khổ không chỗ nương

Các khổ dứt hết

Là Đế thứ ba.

Vì chứng Diệt đế

Nên tu Đạo đế

Lìa khổ trói buộc

Gọi là giải thoát.

Phải làm thế nào

Để được giải thoát

Chỉ lìa hư vọng,

Mà gọi giải thoát

Thật sự chưa được

Giải thoát tất cả.

Phật nói người ấy

Chưa thật diệt độ

Người này chưa được

Vô thượng Bồ-đề.

Ý ta không muốn

Khiến đến diệt độ,

Ta là Pháp Vương

Tự tại với pháp

An ổn chúng sinh

Nên hiện ở đời.

Này Xá-lợi-phất!

Pháp ấn của ta

Vì lợi thế gian

Cho nên ta nói

Nơi ông đi qua

Chớ tuyên truyền sai

Nếu có người nghe

Tùy hỷ kính nhận

Phải biết người này

Bậc không thoái chuyển

Người nào tin tưởng

Nhận kinh pháp này

Người ấy đã từng

Gặp Phật quá khứ

Cung kính cúng dường

Từng nghe pháp này.

Người nào có thể

Tin lời ông nói,

Tức là thấy ta

Cũng là thấy ông

Và chúng Tỳ-kheo

Cùng các Bồ-tát,

Vì người trí sâu

Nói kinh Pháp Hoa

Người trí cạn nghe

Mê mờ không hiểu,

Tất cả Thanh văn

Và Bích-chi-phật

Đối với kinh này

Không đủ sức hiểu.

Này Xá-lợi-phất!

Người có lòng tin

Hiểu được kinh này

Huống là Thanh văn,

Những Thanh văn này

Đã tin lời Phật

Tùy thuận kinh này

Vượt ngoài trí họ.

Lại Xá-lợi-phất!

Những người kiêu mạn

Biếng nhác chấp ngã

Chớ nói kinh này

Phàm phu biết cạn,

Đắm trong năm dục

Nghe pháp không hiểu

Cũng không nên nói,

Người nào không tin

Hủy báng kinh này

Liền mất tất cả

Giống Phật ở đời.

Người nào nhăn mặt

Ôm mối nghi ngờ

Hãy nghe ta nói

Tội báo người này,

Hoặc Phật ở đời

Hoặc sau diệt độ

Người ấy chê bài

Đối kinh điển này

Thấy người đọc tụng

Biên chép thọ trì

Khinh chê, ganh ghét

Oán kết, giận hờn,

Tội báo người này

Ông hãy lắng nghe.

Người này chết rồi

Đọa ngục A-tỳ

Hết trọn một kiếp

Lần lượt như vậy

Đến vô số kiếp

Được khỏi địa ngục

Lại đọa súc sinh

Làm chó chồn cáo,

Thân thể ốm gầy

Đen đủi ghẻ lác

Bị người xua đuổi

Lại còn bị người

Gớm nhờm ghét bỏ

Luôn bị đói khát

Xương thịt khô gầy

Sống chịu khổ sở

Chết bị ném đá

Mất hẳn giống Phật

Chịu tội báo này

Hoặc làm lạc đà

Hoặc làm loài lừa

Luôn phải chở nặng

Lại bị đánh đập

Chỉ nhớ nước cỏ

Không biết gì khác

Phỉ báng kinh này

Chịu tội như vậy

Nếu làm chồn cáo

Đi vào xóm làng

Thân thể ghẻ lác

Bị chột một mắt

Bị các trẻ nhỏ

Đánh đập liệng ném

Chịu nhiều khổ sở

Có khi gần chết

Đến khi chết rồi

Bị làm thân rắn

Thân hình dài lớn

Năm trăm do-tuần

Điếc lác không chân

Trườn bò bằng bụng

Bị các trùng nhỏ

Rúc rỉa ăn thịt

Ngày đêm chịu khổ

Không chút ngừng nghỉ

Phỉ báng kinh này

Chịu tội như thế

Nếu được làm người

Các căn ám độn

Lùn, xấu, què quặt

Đui điếc, lưng gù

Nói ra lời gì

Chẳng ai tin tưởng

Hơi miệng hôi thối

Bị quỷ dựa nhập

Nghèo cùng hèn hạ

Bị người sai khiến

Nhiều bệnh gầy gò

Không nơi nương tựa.

Tuy ở gần người

Chẳng ai để ý

Biết được điều gì

Liền lại quên mất,

Nếu làm nghề thuốc

Trị bệnh đúng cách

Người càng bệnh thêm

Có khi đến chết.

Nếu mình bị bệnh

Không ai chữa được,

Dù uống thuốc hay

Bệnh càng thêm nặng;

Bị người lừa gạt

Chiếm đoạt trộm lấy

Các tội như vậy

Tự mang vạ lấy.

Người tội như đây

Mãi chẳng gặp Phật

Vua trong hàng Thánh

Thuyết pháp giáo hóa

Người tội như đây

Thường sinh cõi nạn

Tai điếc, tâm loạn

Chẳng được nghe pháp.

Trong vô sô kiếp

Như cát sông Hằng

Câm điếc bẩm sinh

Các căn không đủ,

Thường đọa địa ngục

Như ở trong vườn

Các cõi ác khác

Như nhà của mình

Lạc đà, heo, chó

Là nơi thường đi

Vì chê kinh này

Mắc tội như thế!

Nếu được làm người

Đui, điếc, câm, ngọng

Nghèo cùng, ốm yếu

Để tự trang sức

Bệnh thủng khô gầy

Ghẻ lác ung thư

Các bệnh như thế

Dùng làm áo mặc;

Thân thường hôi hám

Nhơ nhớp chẳng sạch

Chấp trước ngã kiến,

Giận dữ tăng thêm

Dâm dục mạnh mẽ

Chẳng chừa cầm thú

Phỉ báng kinh này

Chịu tội như thế!

Này Xá-lợi-phất!

Người chê kinh này

Nếu kể tội lỗi

Cùng kiếp không hết,

Do nhân duyên đó

Ta báo các ông

Đừng nói kinh này

Cho người vô trí.

Người nào lợi căn

Trí tuệ sáng suốt

Học rộng nhớ dai

Mong cầu Phật đạo,

Hạng người như thế

Mới nói cho họ.

Người đã từng gặp

Trăm ngàn ức Phật

Trồng các căn lành

Tâm rất bền vững

Hạng người như thế,

Mới nói cho họ.

Người nào tinh tấn

Thường tu tâm Từ

Không tiếc thân mạng

Mới nói cho họ.

Người nào cung kính

Không có tà kiến

Lìa các phàm ngu,

Ở riêng trong rừng

Hạng người như vậy

Mới nói cho họ.

Lại Xá-lợi-phất!

Thấy có người nào

Rời bỏ bạn ác

Gần gũi bạn lành

Hạng người như vậy

Mới nói cho họ.

Thấy Phật tử nào

Giữ giới thanh tịnh

Như ngọc trong sáng,

Cầu kinh Đại thừa

Hạng người như thế

Mới nói cho họ.

Người nào không sân

Ngay thẳng nhu hòa

Thương yêu tất cả,

Cung kính chư Phật

Hạng người như vậy

Mới nói cho họ.

Lại có Phật tử

Ở trong đại chúng

Dùng tâm thanh tịnh,

Các loại nhân duyên

Lời lẽ thí dụ

Nói pháp thông suốt

Hạng người như tế

Mới nói cho họ.

Có Tỳ-kheo nào

Vì Nhất thiết trí

Cầu pháp khắp nơi,

Chắp tay kính nhận

Vui mừng giữ gìn

Kinh điển Đại thừa

Cho đến không nhận

Một kệ kinh khác,

Hạng người như thế

Mới nói cho họ.

Người nào thành tâm

Cầu xá-lợi Phật

Như cầu kinh này

Được rồi kính nhận,

Người ấy lại không

Cầu kinh nào khác

Cũng chưa từng nghĩ

Sách vớ ngoại đạo

Hạng người như thế

Mới nói cho họ.

Này Xá-lợi-phất!

Ta nói việc này

Người cầu Phật đạo

Cùng kiếp không hết,

Hạng người như thế

Mới tin hiểu được

Ông nên vì họ

Nói kinh Pháp Hoa.

***

Phẩm 4: TÍN GIẢI

Bấy giờ các vị Tuệ mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên, được từ nơi Phật nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn thọ ký cho Xá-lợi-phất sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên phát tâm hy hữu rất vui mừng, rời chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, bày vai bên phải, quỳ gối bên phải, chắp tay cúi mình, nhất tâm cung kính, chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật, thưa:

– Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng, đều đã già nua, tự cho mình đã chứng Niết-bàn, không còn làm gì nữa nên không cần phải cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bạch Thế Tôn! Từ xưa Thế Tôn nói pháp đã lâu, chúng con ngồi nơi tòa, thân thể mỏi mệt chỉ nhớ nghĩ Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du hý thần thông, làm thanh tịnh cõi Phật, độ thoát chúng sinh của Bồ-tát, chúng con không ưa thích.

Vì sao? Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn nhưng vì tuổi đã già nua, cho nên đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà Phật giáo hóa cho Bồ-tát, chúng con không ưa thích chút nào.

Hôm nay được nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con vô cùng vui mừng được điều chưa từng có không ngờ bỗng nhiên được nghe pháp hiếm có, tự cảm thấy hạnh phúc được lợi hoàn hảo lớn, vô số châu báu không cầu tự nhiên có.

Bạch Thế Tôn! Chúng con xin nói ví dụ để làm rõ ý nghĩa này. Ví như có một người tuổi còn thơ ấu, bỏ cha trốn đi, ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm, tuổi đã lớn lại them nghèo khổ, dong ruổi khắp nơi để tìm ăn mặc, lần lần tình cờ về đến nước mình.

Người cha từ trước đến nay tìm con không gặp, mới ở lại trong thành nọ. Nhà ông giàu có, của cải rất nhiều, các kho báu vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, ngọc… đều đầy dẫy, tôi tớ phục vụ, người hầu hạ rất đông, xe voi, xe ngựa, xe trâu, xe dê nhiều vô số, lợi tức buôn bán đến khắp các nước, khách buôn bán rất đông.

Lúc ấy, người con nghèo khổ đi đến các xóm làng, phố phường lần hồi đến thành người cha ở. Người cha luôn nhớ con, xa con đã hơn năm mươi năm mà chưa từng nói với ai điều này, chỉ luôn thương nhớ và rất lo lắng. Ông nghĩ mình đã già nua, có nhiều của cải, các kho vàng bạc, châu báu đầy dẫy nhưng không có con nối dòng, một mai chết đi của cải tản thất không có người để giao phó. Vì vậy, lúc nào cũng lo nghĩ đến con. Ông lại nghĩ: “Phải chi ta tìm được con để giao phó của cải, thanh thản vui vẻ thì không còn lo âu.”

Bạch Thế Tôn! Lúc ấy cùng tử đi làm thuê, lần hồi tình cờ đến nhà người cha, đứng ở bên cửa, trông thấy cha mình, ngồi giường Sư tử, có ghế báu đỡ chân, các Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, cung kính bao quanh, đeo chuỗi anh lạc, trân châu giá trị ngàn vạn để trang sức, người tôi tớ hầu hạ, tay cầm phất trần trắng, đứng hầu hai bên, màn báu che trên, lọng hoa rủ xuống, nước thơm rưới đất, rải hoa đẹp, trưng bày vật báu, phát ra, thu vào, lấy, cho… có các sự trang sức, oai đức tôn trọng như vậy. Cùng tử thấy cha có thế lực lớn, liền kinh sợ, hối hận sao mình lại đến đây. Thầm nghĩ: “Ông này chắc là vua, hoặc cũng bằng vua, không phải là chỗ để bỏ sức làm thuê kiếm tiền, chẳng bằng đến xóm nghèo, có chỗ để ra sức làm mướn đổi lấy cơm áo. Nếu đứng đây lâu, bị thấy ta sẽ bị bắt buộc làm việc.” Nghĩ xong bỏ chạy thật nhanh.

Lúc đó ngồi trên tòa Sư tử, nhìn thấy liền biết con mình, ông trưởng giả rất vui mừng, suy nghĩ: “Kho tàng tài sản của ta đã có người giao phó. Ta luôn nhớ nghĩ đến con, làm sao để gặp nó, bỗng nhiên nó tự đến, thật vừa ý ta, tuy tuổi đã già nua nhưng ta vẫn còn tham tiếc.” Liền sai người hầu đuổi theo bắt lại.

Bấy giờ, người hầu chạy mau bắt lại, cùng tử kinh sợ lớn tiếng kêu oan:

– Tôi không xúc phạm ai sao lại bị bắt?

Người hầu càng giữ chặt lôi nhanh dẫn về.

Khi đó cùng tử tự nghĩ: “Mình không có tội mà bị bắt phen này chắc chết” lại càng hãi hùng bất tỉnh ngã xuống đất.

Người cha trông thấy, bảo người hầu:

– Chẳng cần người này nữa, thôi khỏi bắt đem về, hãy đem nước lạnh rưới cho nó tỉnh lại, đừng nói gì với nó.

Vì sao? Cha biết con mình ý chí thấp hèn, tự biết mình cao quý làm cho con khiếp sợ, biết chắc là con nên tìm cách không nói cho người khác biết đó là con mình, rồi sai người hầu nói: “Ta thả ngươi đi đâu thì tùy ý”. Cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, liền đứng dạy đi đến xóm nghèo để tìm cơm áo.

Lúc ấy, muốn dụ dỗ con mình, trưởng giả bày cách bí mật sai hai người thân thể tiều tụy, không có oai đức:

– Các ngươi hãy đến đó, từ từ nói với cùng tử “Có chỗ làm này trả giá rất cao”. Nếu nó chịu thì đưa nó về đây làm, hễ nó hỏi làm việc gì, hãy nói là “thuê hốt phân, hai chúng tôi cũng làm chung với anh”. Hai người liền đi tìm cùng tử gặp rồi trình bày sự việc trên. Cùng tử hỏi giá cả xong đến hốt phân.

Người cha thấy con rất thương xót nhưng vẫn còn nghi ngờ.

Một ngày nọ, đứng nơi cửa sổ nhìn thấy thân con ốm yếu tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy, ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng, các thứ trang sức… mặc vào áo thô rách, nhơ nhớp, đính đầy bụi đất, tay cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng ghê sợ, bảo những người làm: “Các ông hãy siêng năng, đừng lười biếng”. Tìm cách để đến gần con, ông bảo:

– Này anh! Hãy làm luôn ở đây, đừng đi nơi khác, ta sẽ trả thêm tiền cho anh, mọi thứ cần dùng như thau gạo, bột, muối, dấm… anh đừng ngại, có người tớ già sẽ cung cấp đầy đủ, cứ yên tâm. Ta như cha của anh, đừng lo lắng. Vì sao? Vì tuổi ta đã già lớn mà anh thì còn trẻ mạnh, khi làm việc anh luôn không giả dối, lười biếng, giận hờn, nói lời oán trách, ta thấy anh không có những tánh xấu như các người làm khác, anh như con của ta.

Trưởng giả liền đặt tên cho cùng tử ấy là “con”. Tuy có vui mừng về điều này nhưng cùng tử vẫn tự cho mình là người làm thuê thấp hèn. Vì vậy trong hai mươi năm trưởng giả thường sai anh ta làm việc hốt phân. Sau đó cùng tử mới dần dần tin tưởng ra vào không còn ngại ngùng, nhưng vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Bạch Thế Tôn! Khi ấy vì bị bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết, trưởng giả bảo cùng tử:

– Ta có kho báu vàng bạc đầy dãy, số lượng trong ấy bao nhiêu, thu chi thế nào con phải biết hết. Lòng ta như thế, con hãy thuận theo ý ta. Vì sao? Nay ta cũng giống như con, nên cố để ý đừng cho sót mất.

Cùng tử nghe lời, lãnh biết các vật vàng bạc châu báu và các kho tàng nhưng không hề có ý lấy một thứ gì đáng giá bằng bữa ăn. Anh ta vẫn còn ở chỗ cũ, tâm chí thấp hèn vẫn chưa bỏ được.

Ít lâu sau, trưởng giả biết ý con dần đần thông suốt, đã có chí lớn và tự chê tâm ngày trước, lúc gần chết, ông gọi con đến và mời đầy đủ bà con thân thuộc, quốc vương, quan đại thần, Sát-đế-lợi, cư sĩ, ông nói:

– Xin các vị biết cho, đây là con tôi, do tôi sinh ra, ở trong thành nọ, bỏ tôi trốn đi, nổi trôi khổ sở hơn năm mươi năm, nó tên như vậy, ta tên như vậy. Xưa ta ở thành này lo lắng tìm kiếm, bỗng nhiên ở nơi đây gặp nó. Nó thật sự là con của ta, ta thật sự là cha nó. Tất cả của cải của ta đều thuộc con ta, sự phát ra thu vào con ta đều đã biết hết.

Bạch Thế Tôn! Bấy giờ nghe cha nói như vậy, cùng tử rất vui mừng được điều chưa từng có, suy nghĩ: “Ta vốn chẳng mong cầu mà của tự nhiên đến.”

Bạch Thế Tôn! Trưởng giả giàu có ấy là Đức Như Lai, chúng con đều giống như con Phật, Như Lai thường nói chúng con là con.

Bạch Thế Tôn! Vì ba khổ, chúng con chịu các phiền não thiêu đốt trong sinh tử, mê lầm chẳng biết, ưa thích các pháp nhỏ. Hôm nay Thế Tôn làm cho chúng con dẹp trừ những phân dơ, che pháp hý luận. Chúng con ở trong đó cố gắng tinh tấn đạt đến Niết-bàn, cái giá trị của một ngày đã được đây rồi, rất vui mừng tự cho là đủ, liền nói: “Trong pháp của Phật nhờ chuyên cần tinh tấn nên đạt được rất nhiều”. Nhưng trước kia biết chúng con ưa thích sự thấp kém, ham mê pháp nhỏ nên Thế Tôn liền bỏ hết không vì phân biệt, nói: “Các ông sẽ có phần trong kho báu tri kiến của Như Lai.”

Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí tuệ của Như Lai, chúng con theo Phật được Niết-bàn giá trị của một ngày, cho là đã đầy đủ. Đối với pháp Đại thừa không có chí mong cầu. Chúng con lại nương tựa vào trí tuệ Như Lai, đối với pháp mà Phật đã mở bày, diễn nói cho hàng Bồ-tát, chúng con cũng chẳng có chí mong cầu. Vì sao? Vì biết chúng con thích pháp nhỏ, Phật dùng diệu lực của phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, nhưng chúng con không biết mình thật sự là Phật tử. Hôm nay, chúng con mới biết đối với trí tuệ Phật, Thế Tôn không có lẫn tiếc. Vì sao? Vì chúng con vốn thật sự là Phật tử mà chỉ thích pháp nhỏ nếu chúng con ưa thích pháp lớn, Phật sẽ nói pháp Đại thừa cho chúng con.

Trong kinh này chỉ nói pháp Nhất thừa mà lúc xưa trước mặt các Bồ-tát, Phật chê trách Thanh văn ham pháp nhỏ, nhưng thật sự, Phật dùng pháp Đại thừa để giáo hóa. Vì thế chúng con nói: “Vốn không mong cầu nhưng pháp báu lớn của Pháp Vương tự nhiên đến, những điều đáng được của Phật tử, chúng con đã đạt được.”

Bấy giờ, để nói lại nghĩa trên ngài Đại Ca-diếp nói kệ:

Ngày nay chúng con

Nghe lời Phật dạy

Vô cùng vui mừng

Được chưa từng có,

Phật nói Thanh văn

Sẽ được thành Phật

Kho báu Vô thượng

Không cầu tự đến.

Giống như trẻ con

Thơ ngây không biết,

Bỏ cha trốn đi

Đến nước xa khác,

Trôi nổi khắp nơi

Hơn năm mươi năm

Cha nó buồn nhớ

Tìm kiếm khắp nơi.

Kiếm lâu mỏi mệt

Dừng lại một thành,

Xây dựng nhà cửa

Tự vui năm dục

Nhà ông giàu có

Rất nhiều vàng bạc

Xa cừ, mã não

Trân châu, lưu ly

Voi, ngựa, bò, dê

Kiệu cáng, xe cộ

Ruộng đất, tôi tớ

Nhân dân rất đông,

Xuất nhập lời lãi

Khắp đến nước khác,

Khách hàng buôn bán

Nơi nào cũng có

Đông trăm ngàn ức

Vây quanh cung kính.

Thường được vua chúa

Yêu mến quan tâm

Các vị quan lại,

Đều rất tôn trọng

Vì các sự duyên

Lui tới rất đông.

Giàu có như vậy

Có thế lực lớn

Nhưng đã già nua

Càng buồn nhớ con

Sớm chiều lo âu,

Ta gần chết rồi

Con dại bỏ ta

Hơn năm mươi năm

Kho tàng của cải

Phải làm sao đây?

Bấy giờ cùng tử

Vì tìm cơm áo

Ấp này ấp nọ

Nước này nước kia,

Có khi tìm được

Khi tìm chẳng được

Đói khát tiều tụy

Thân sinh ghẻ lác,

Dần dần trải qua

Đến thành cha ở

Lần hồi tình cờ

Tới trước nhà cha.

Lúc ấy trưởng giả

Đang ở trong nhà

Giăng màn báu lớn

Ngồi tòa Sư tử

Quyến thuộc vây quanh,

Nhiều người hầu hạ

Hoặc người tính toán

Vàng bạc của báu

Phát thu tài sản

Ghi chép sổ sách.

Cùng tử thấy cha

Giàu có oai nghiêm,

Cho là bậc vua

Hoặc bằng như vua,

Kinh sợ quái lạ

Sao lại đến đây.

Lại tự suy nghĩ

Nếu đứng đây lâu

Ta sẽ bị bắt

Ép buộc làm việc.

Suy nghĩ thế rồi

Liền chạy thật nhanh,

Hỏi thăm xóm nghèo

Muốn đến làm thuê.

Bấy giờ trưởng giả

Ngồi toà Sư tử

Trông thấy con mình

Âm thầm nhận biết

Liền sai người hầu,

Đuổi theo bắt lại.

Cùng tử hoảng sợ

Té xỉu xuống đất

Người này bắt mình,

Chắc mình bị giết

Sao vì cơm áo

Khiến ta đến đây.

Trưởng giả biết con

Ngu si thấp hèn

Chẳng tín lời mình

Chính là cha nó.

Ông liền tìm cách

Lại sai người khác

Mắt chột lùn xấu,

Không có oai đức

Các ngươi bảo nó

“Đến đây làm thuê

Hốt dọn phân dơ

Trả cho nhiều tiền.”

Cùng tử nghe xong

Vui mừng đi theo

Để hốt phân dơ

Dọn dẹp nhà cửa.

Trưởng giả trong nhà

Thường thấy con mình,

Nghĩ con ngu dại

Thích là m việc hèn.

Lúc đó trưởng giả

Mặc áo thô rách

Cầm đồ hốt phân

Đến chỗ con làm

Tìm cách gần gũi

Bảo con gắng làm

Sẽ trả tiền thêm

Cho dầu xoa chân

Thức ăn đầy đủ

Nệm chiếu dày ấm,

Dặn dò cặn kẽ

Anh hãy ráng làm

Lại dịu dàng bảo

Anh như con ta.

Trưởng giả có trí

Khiến dần ra vào

Qua hai mươi năm,

Làm lụng việc nhà

Cho biết vàng bạc,

Trân châu, pha lê

Phát thu của cải

Đều cho biết hết.

Vẫn ở ngoài cửa

Ngủ nơi am tranh

Tự an phận nghèo

“Chẳng phảí của mình”.

Cha biết lòng con

Dần dần tiến bộ,

Muốn cho của cải

Liền mời dòng họ

Quốc vương, đại thần

Sát lợi, Cư sĩ,

Giữa những người ấy

Nói là con tôi

Bỏ tôi đi xa

Hơn năm mươi năm

Tự nhiên nó về

Hai mươi năm nay.

Xưa ở thành nọ

Mất đứa con này,

Ta tìm khắp nơi

Rồi đến nơi đây

Nít ứng gì ta có,

Nhà cửa, người làm

Đều giao cho nó

Tùy ý sử dụng.

Con biết phận nghèo

Ý chí thấp hèn

Đang ở nhà cha,

Được nhiều của báu

Cùng với nhà cửa

Tất cả tài sản.

Vô cùng vui mừng

Được chưa từng có.

Phật cũng biết con

Ưa thích pháp nhỏ,

Chưa từng nói lời

“Các ông thành Phật”,

Mà nói chúng con

Được pháp vô lậu

Thành tựu pháp nhỏ.

Phật vì đệ tử

Thanh văn chúng con,

Nói đạo Vô thượng

Tu tập pháp này

Sẽ được thành Phật

Vâng lời Phật dạy

Vì các Bồ-tát,

Con dùng nhân duyên

Các loại thí dụ

Ngần ấy lời lẽ

Nói đạo Vô thượng.

Các vị Phật tử

Nghe con nói pháp

Ngày đêm suy gẫm

Tinh tấn tu tập

Bấy giờ chư Phật

Liền thọ ký cho

“Các ông đời sau

Sẽ được thành Phật.”

Tạng pháp bí mật

Của tất cả Phật

Chỉ thật sự nói

Cho các Bồ-tát

Không nói pháp này

Cho hàng Thanh văn;

Như đứa cùng tử

Được gần cha nó

Tuy biết của cải

Nhưng không muốn nhận.

Chúng con tuy nói

Kho báu pháp Phật,

Không có chí nguyện

Cũng lại như vậy.

Con diệt nội kết

Tự cho là đủ,

Chỉ được điều này

Không biết gì khác.

Chúng con dù nghe

Pháp tịnh cõi Phật

Giáo hóa chúng sinh,

Cũng chẳng ưa thích.

Vì sao như vậy?

Tất cả các pháp

Đều là rỗng lặng

Không sinh, không diệt

Không lớn, không nhỏ

Vô lậu, vô vi.

Suy nghĩ vậy rồi

Không hề ưa thích

Chúng con từ lâu

Không có chí nguyện

Không tham không thích

Trí tuệ của Phật

Đối với pháp mình

Cho đã hoàn hảo.

Chúng con từ lâu

Tu tập pháp không

Thoát khỏi hoạn nạn

Khổ não ba cõi

Thân cuối cùng trụ

Hữu dư Niết-bàn

Lời Phật dạy bảo

Chắc chắn đắc đạo,

Tức là có thể

Báo đáp ân Phật,

Chúng con tuy nói

Cho các Phật tử

Để cầu Phật đạo

Mà đối pháp này

Không hề mong muốn.

Đạo Sư buông bỏ

Biết rõ lòng con

Trước không khuyên gắng,

Chỉ nói lợi ích.

Như trưởng giả giàu

Biết con thấp hèn

Tìm cách khéo léo

Dụ dỗ con mình

Sau đó giao phó

Tất cả tài sản.

Đức Phật cũng vậy

Làm việc hiểm có

Biết thích pháp nhỏ

Dùng lực phương tiện,

Điều phục tâm con

Rồi dạy trí lớn

Chúng con ngày nay

Được chưa từng có.

Trước đây không mong

Giờ tự nhiên được

Như cùng tử ấy

Được nhiều của báu.

Bạch Đức Thế Tôn,

Con được đạo quả

Nơi pháp vô lậu,

Được mắt thanh tịnh

Chúng con lâu nay

Giữ giới Phật chế

Cho đến hôm nay

Mới được phước báo

Trong pháp của Phật

Tu hành phạm hạnh

Được quả Vô lậu

Quả lớn Vô thượng.

Hôm nay chúng con

Thật là Thanh văn

Đem giáo pháp Phật,

Giáo hóa chúng sinh

Hôm nay chúng con

Thật A-la-hán.

Đối với thế gian

Trời, Người, Ma, Phạm

Khắp ở trong đó

Xứng đáng nhận cúng,

Thế Tôn ân lớn

Đem việc hiếm có

Từ bi giáo hóa

Lợi ích chúng con

Vô lượng ức kiếp

Ai có báo được,

Hầu hạ hết mình

Cúi đầu kính lễ

Cúng dường tất cả

Cũng không đáp được.

Dùng đầu đội Phật

Hai vai cõng vác

Hằng hà sa kiếp

Tận tâm cung kính,

Dâng thức ăn ngon

Vô số y báu

Và các đồ nằm,

Các loại thuốc thang

Ngưu đầu, Chiên-đàn

Và các ngọc báu

Dùng xây tháp miếu

Y báu trải đất…

Các việc như trên

Đem cúng dường Phật

Hằng hà sa kiếp

Cũng không đáp được

Chư Phật hiếm có

Vô lượng, vô biên

Không thể nghĩ bàn

Năng lực thần thông

Vô lậu, vô vi

Vua trong các pháp,

Vì hạng thấp hèn

Nhẫn việc lớn này

Hiện tướng phàm phu

Tùy nghi nói pháp.

Chư Phật tự tại

Đối với các pháp

Biết điều ưa muốn

Ý chí khả năng

Của các chúng sinh,

Tùy họ đảm nhận

Dùng nhiều ví dụ

Để diễn nói pháp.

Tùy các chúng sinh

Căn lành đời trước

Biết đã thành thục,

Hay chưa thành thục

Suy lường phân biệt

Biết rõ các việc

Nơi đạo Nhất thừa

Tùy nghi nói ba.

***

Phẩm 5: DƯỢC THẢO DỤ

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các đại đệ tử:

– Lành thay, lành thay! Ca-diếp, ông đã nói hoàn hảo về công đức chân thật của Như Lai, thật đúng như lời ông nói! Như Lai còn có vô lượng, vô biên, vô số công đức, nếu các vị nói trong vô lượng ức kiếp cũng không hết được. Đại Ca-diếp nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nói ra điều gì cũng đều không hư dối. Đối với các pháp Như Lai dùng phương tiện để thuyết giảng và pháp được tuyên thuyết hoàn toàn đạt đến bậc Nhất thiết trí. Như Lai xét thấy chỗ quay về của các pháp, cũng biết ý nghĩa và hành động của tất cả chúng sinh một cách vô ngại lại biết rõ tường tận các pháp, khai thị trí tuệ cho tất cả chúng sinh.

Đại Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi núi sông, hang khe, ruộng đất sinh ra cây cối, lùm rừng và cỏ thuốc với nhiều giống loại tên gọi, màu sắc khác nhau. Mây kín giăng đầy bủa khắp cõi tam thiên đại thiên, đồng thời mưa xuống khắp nơi thấm nhuần cây cối, lùm rừng, cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ, nhánh nhỏ, cành nhỏ, lá nhỏ. Rễ vừa, thân vừa, nhánh vừa, cành vừa, lá vừa. Rễ lớn, thân lớn, nhánh lớn, cành lớn, lá lớn. Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng cao, vừa, thấp mà hấp thụ đầy đủ. Một trận mưa xuống tùy theo loại cây hợp với tánh của các giống loại, nên được phát triển đơm hoa kết trái, tuy các giống cây đều từ đất mọc lên, cùng được thấm nhuần một trận mưa mà các cây cỏ mỗi thứ đều khác nhau.

Ca-diếp nên biết! Như Lai cũng vậy, xuất hiện ở thế gian như mây lớn nổi lên vang ra âm thanh khắp cả thế giới. Trời, Người, A-tu-la cũng như mây ấy che khắp tam thiên đại thiên thế giới, giữa đại chúng tuyên bố thế này: Ta là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đối với người chưa được độ thì làm cho được độ, người chưa hiểu biết thì làm cho hiểu biết, người chưa an ổn thì làm cho an ổn, người chưa chứng Niết-bàn làm cho chửng Niết-bàn biết như thật đời nay, đời sau. Ta là người biết tất cả, thấy tất cả, người biết đường, người mở đường, người chỉ đường, tất cả các chúng Trời, Người, A-tu-la nên đến đây để nghe pháp.

Bấy giờ vô số ngàn vạn ức các loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Lúc này Như Lai quán sát căn tánh nhanh chậm, siêng năng, biếng nhác của chúng sinh nên tùy theo khả năng họ mà thuyết pháp đủ cách, làm cho ai cũng hoan hỷ vui thích vì được lợi ích hoàn toàn. Chúng sinh nghe pháp rồi đời này được an vui, đời sau sinh về cõi lành, nhờ biết đạo nên được an lạc và được nghe pháp, nghe rồi thoát được mọi sự trở ngại, ở trong Phật pháp, tùy theo khả năng dần dần đều được vào đạo. Như mây lớn kia mưa xuống rưới khắp tất cả cỏ cây, lùm rừng và cỏ thuốc, theo từng loại cây đều được thấm nhuần đầy đủ, được sinh trưởng, Như Lai thuyết pháp cùng một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt rốt ráo cho đến Nhất thiết chủng trí. Chúng sinh nào nghe pháp của Như Lai mà ghi nhớ, đọc tụng, thực hành thì sẽ được công đức mà họ không tự biết. Vì sao?

Vì chỉ có Như Lai biết chúng sinh này thể tướng, chủng tánh như thế nào, nhớ việc gì, nghĩ việc gì, tu việc gì, nhớ như thế nào, nghĩ như thế nào, tu như thế nào, dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để nghĩ, dùng pháp gì để tu, dùng pháp gì được pháp gì và biết chúng sinh ở các cõi: chỉ có Như Lai thấy biết đúng như thật, rõ ràng vô ngại như cây cỏ, lùm rừng, cỏ thuốc… kia, không tự biết tánh cao, vừa, thấp mà Như Lai thì biết pháp một tướng một vị. Nghĩa là tướng giải thoát tướng xa lìa, tướng thường vắng lặng, rốt ráo Niết-bàn, tất cả đều trở về không, biết pháp ấy rồi Như Lai quan sát tâm tánh chúng sinh muốn nâng đỡ họ nên không thể giảng thuyết ngay Nhất thiết chủng trí.

Đại Ca-diếp! Thật hiếm có biết được Như Lai tùy theo căn cơ thuyết pháp, tin được, nhận được. Vì sao? Vì chư Phật tùy nghi nói pháp khó hiểu, khó biết. Bấy giờ muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn mới nói kệ:

Pháp Vương phá hữu

Xuất hiện ở đời

Tùy ý chúng sinh

Thuyết pháp nhiều cách.

Như Lai tôn trọng

Trí tuệ sâu xa

Từ lâu yên lặng

Không làm vội vã.

Người có trí nghe

Liền được tìm hiểu

Không trí nghi ngờ

Thì bị mất hẳn.

Vì vậy Ca-diếp!

Tùy sức mà nói

Tất cả các duyên

Khiến họ thấy đúng.

Ca-diếp nên biết!

Ví như mây lớn

Nổi trong không gian

Che khắp tất cả,

Chứa nước thấm mát

Điện chớp sáng lòa

Sấm nổ rền vang

Vạn vật mừng vui.

Mặt trời bị khuất

Mặt đất mát mẻ

Mây sa xuống gần

Như nắm lấy được,

Mưa kia đồng đều

Rưới xuống bốn phương

Trút nước vô lượng

Thấm đầy mặt đất.

Núi sông hang khe

Từ chỗ thâm sâu

Mọc ra cây cối

Các cây lớn nhỏ

Trăm thứ giống lúa

Và mía với nho

Trận mưa thấm cho

Đầy đủ tất cả.

Đất khô thấm đều

Cây cỏ cùng tốt

Mây lớn tuôn mưa

Nước cùng một vị,

Lùm rừng cây cối

Tùy loại hấp thụ

Cao, thấp, vừa chừng

Tùy theo lớn nhỏ

Đều được phát triển.

Rễ, thân, nhánh, lá

Hoa trái tươi sắc

Trận mưa tưới hết

Nên tươi tất cả,

Đúng như tánh chất

Tánh phân lớn nhỏ

Thấm nhuần là một

Đều được tươi tốt.

Như Lai cũng vậy

Xuất hiện ở đời,

Như vầng mây lớn

Che khắp tất cả.

Xuất hiện ở đời

Vì các chúng sinh

Phân biệt giảng nói

Thật tướng các pháp.

Đại Thánh Thế Tôn

Ở giữa trời, người

Và tất cả chúng

Tuyên bố thế này

Ta là Như Lai

Bậc Lưỡng Túc Tôn

Xuất hiện ở đời,

Giống như mưa lớn

Mưa thấm tất cả

Những chúng sinh khô

Đều được lìa khổ,

Được vui an ổn

Vui của thế gian

Là vui Niết-bàn.

Chư Thiên. nhân loại

Chú ý lắng nghe

Hãy nên đến đây

Gần đức Vô thượng,

Ta là Thế Tôn

Không ai sánh bằng,

An vui chúng sinh

Nên hiện ở đời.

Vì đại chúng nói

Về pháp cam lồ

Pháp kia một vị

Giải thoát Niết-bàn,

Dùng một diệu âm

Diễn thuyết nghĩa trên

Thường vì đại chúng

Tạo các nhân duyên,

Ta xem tất cả

Đều rất bình đẳng

Không có khác nhau

Và tâm yêu ghét,

Ta không tham đắm

Cũng không giới hạn

Thường vì tất cả

Bình đẳng nói pháp

Không vì một người,

Cả chúng cũng vậy

Thường thuyết giảng pháp,

Không việc gì khác

Ngồi đứng đến đi

Không hề mỏi mệt

Đi khắp thế gian

Như mưa thấm nhuần

Sang hèn cao thấp,

Giữ giới phá giới

Oai nghi đầy đủ,

Hay không đầy đủ

Chánh kiến, tà kiến

Lợi căn, độn căn

Rưới xuống mưa pháp

Mà không mỏi mệt.

Tất cả chúng sinh

Được nghe pháp ta

Tùy sức lãnh thọ

Trụ nơi các bậc,

Hoặc ở trời người

Chuyển luân thánh vương

Phạm, Thích các vua

Là cỏ thuốc nhỏ.

Rõ pháp vô lậu

Chứng được Niết-bàn

Khởi sáu thần thông,

Và được ba minh

Riêng ở núi rừng

Thường hành thiền định,

Chứng bậc Duyên giác

Cỏ thuốc bậc trung.

Cầu bậc Thế Tôn

Ta sẽ thành Phật

Hành tính tấn định

Cỏ thuốc bậc thượng.

Có hàng Phật tử

Chuyên tâm Phật đạo

Thường hành từ bí,

Tự biết làm Phật

Quyết định không nghi

Gọi là cây nhỏ.

An trụ thần thông

Chuyển pháp không thoái

Độ vô lượng ức

Trăm ngàn chúng sinh,

Bồ-tát như thế

Gọi là cây lớn.

Phật nói bình đẳng

Như mưa một vị,

Tùy tánh chúng sinh

Lãnh thọ không đồng;

Như cây cỏ kia

Đượm nhuần đều khác.

Phật dùng thí dụ

Phương tiện chỉ bày

Các lời lẽ hay

Diễn nói một pháp,

Nơi trí tuệ Phật

Một giọt trong biển.

Ta rưới mưa pháp

Đầy khắp thế gian,

Pháp chỉ một vị

Tùy sức tu hành,

Như lùm rừng kia

Cây cối thảo mộc,

Tùy giống lớn nhỏ

Trở nên tươi tốt.

Pháp của chư Phật

Thường dùng một vị,

Làm cho thế gian

Đều được đầy đủ.

Lần lượt tu hành

Đều được đạo quả

Thanh văn, Duyên giác

Ở chốn núi rừng

Trú thân cuối cùng,

Nghe pháp được quả

Gọi là cỏ thuốc

Được phát triển nhanh.

Nếu các Bồ-tát

Trí tuệ vững bền

Thấu đạt ba cõi.

Cầu Tối thượng thừa

Gọi là cây nhỏ

Được phát triển nhanh.

Có vị trú thiền

Được sức thần thông

Nghe các pháp không

Lòng sinh vui mừng.

Phóng nhiều hào quang

Độ các chúng sinh

Gọi là cây lớn

Được phát triển nhanh.

Như vậy Ca-diếp!

Đức Phật nói pháp

Ví như mây lớn,

Nước mưa một vị

Thấm nơi hoa người

Đều được kết trái.

Ca-diếp nên biết!

Dùng các nhân duyên

Các thứ thí dụ

Chỉ bày Phật đạo

Là ta phương tiện.

Chư Phật cũng thế

Nay vì các ông

Nói pháp chân thật

Các chúng Thanh văn

Đều chưa diệt độ,

Các ông tu hành

Là đạo Bồ-tát

Lần lần tu học

Sẽ được thành Phật.

Lại nữa Ca-diếp! Đối với các chúng sinh, Như Lai giáo hóa một cách bình đẳng. Này Ca-diếp! Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi sáng khắp thế gian, hoặc làm thiện ác, hoặc ở chỗ cao thấp, hoặc thơm hôi ánh sáng tỏa chiếu bình đẳng khắp nơi. Như vậy Ca-diếp! Như Lai đã dùng ánh sáng của Nhất thiết chủng trí, đối với hữu tình sinh trong năm đường, tùy theo tin hiểu của họ đối với ba thừa; Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, mà thuyết pháp bình đẳng trí tuệ của Như Lai cũng không tăng giảm do tích tụ phước trí mà sinh ra.

Này Ca-diếp! Không có ba thừa, do sự tu hành của chúng sinh sai khác mà phân làm ba.

Tuệ mạng Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu không có ba thừa vì sao hiện tại chia ra thành Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát?

Phật dạy:

– Ví như đồ gốm đều do đất sét tạo thành, trong những thử ấy, hoặc đựng đường, ván, sữa, sữa cao, phân dơ, đất sét cũng không có sự khác nhau, những tùy theo vật được đựng trong đó, cho nên đặt ra nhiều tên gọi sai khác. Như thế Ca-diếp! ở đây chỉ có một thừa, đó gọi là Đại thừa, chẳng có hai, hoặc ba thừa nào khác.

Tuệ mạng Đại Ca-diếp bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng sinh tin hiểu khác nhau cho rằng: Muốn ra khỏi ba cõi chỉ có một Niết-bàn, hay là hai, hoặc ba?

Phật dạy:

– Nếu giác ngộ thể tánh các pháp đồng với Niết-bàn thì chỉ có một, không hai, cũng không ba. Này Ca-diếp! Do nghĩa lý này, ta nêu ra ví dụ, nhờ ví dụ mà người có trí sẽ hiểu nghĩa của lời ta nói.

Này Ca-diếp! Ví như người mù bẩm sinh, liền nói không có các sắc xấu đẹp, cũng không thể thấy những loại sắc đẹp xấu, không có mặt trời, mặt trăng và các vì sao, cũng không thể thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Lại có người mắt sáng lại nói là có các loại sắc đẹp xấu, cũng có thể thấy các loại sắc đẹp xấu, có mặt trời, mặt trăng và các vì sao, cũng có thể thấy các tinh tú đó. Người mù tuy nghe người kia nói nhưng không tin nhận. Khi ấy có vị lương y biết rõ các bệnh, thấy người mù liền suy nghĩ: “Người kia trước làm các việc ác nay bị mắc bệnh, bệnh của người đó có bốn loại.”

Vị lương y muốn chữa lành bệnh ông ta, lại suy nghĩ mọi cách những thứ thuốc đã lưu hành ở đời thì không thể chữa trị bệnh ấy, chỉ có bốn loại thuốc ở núi Tuyết: Một là tùy theo màu sắc mùi vị; hai là chữa lành các bệnh; ba là diệt trừ các độc hại; bốn là tùy chỗ ở để được an vui.

Khi đó vị lương y khởi lòng thương người mù, liền suy nghĩ, dùng mọi phương tiện đến núi Tuyết, đến rồi tìm kiếm khắp nơi được bốn loại thuốc hoặc dùng răng để nhai nghiền, dùng cối đá để xay lại hòa với những thuốc khác để nấu, hoặc dùng những thuốc tươi để làm, hoặc châm cứu để thông huyệt, hoặc sao hoặc trộn với những thứ thuốc khác hoặc hòa vào thức ăn. Khi ấy, người mù dung mọi cách thích hợp uống thuốc liền được sáng mắt. Mắt sáng người ấy đều thấy các màu sắc trong ngoài, xa gần, mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Ông ta than:

– Ôi, ta thật là ngu si, trước đây nghe nói mà không tin, hôm nay mới thấy rõ tất cả. Ta hết mù mắt đã sáng lại, ta là hơn hết.

Khi đó có vị Tiên nhân chứng được năm thần thông, dung Thiên nhãn, Thiên nhĩ biết được tâm ông ta. Tuy ông mắt sáng còn không biết gì? Cớ sao lại sinh ngã mạn cũng chưa có trí tuệ giỏi. Vị ấy lại nói:

– Khi ông ở trong nhà thì không thấy không biết các sắc ở bên ngoài, tâm thiện ác của chúng sinh. Cách năm do-tuần ông cũng không nghe không biết những âm thanh của tiếng trống tù và…, cách một câu-lô-xá nếu không cất chân thì không thể đến. Lúc lớn lên khi nghiệp gá vào thai mẹ, ông cũng không nhớ làm sao ông có trí tuệ được, sao ông lại nói ta thấy tất cả. Này người kia, tối cho là sáng, sáng cho là tối.

Người kia nói với Tiên nhân:

– Bằng cách nào và hành động gì để được trí này? Và được lòng tin năng lực đối với các vị, tôi sẽ được công đức này.

Vị Tiên nhân nói:

– Muốn như vậy ông nên sống nơi hang núi vắng vẻ, tư duy về pháp, đoạn trừ phiền não thì sẽ được thần thông đầy đủ công đức.

Khi người kia nghe lời dạy liền xuất gia ở chỗ vắng vẻ, nhất tâm chuyên chú, dứt được khát ái ở đời, chứng năm thần thông, chứng thần thông rồi suy nghĩ: “Trước đây ta tạo biệt nghiệp, do nhân này nên không chứng một công đức gì, bây giờ tùy theo ý niệm thì biết được ngay nghiệp quá khứ. Ngày xưa ta ít trí tuệ, ở trong tăm tối.”

Này Ca-diếp! Ta dùng ví dụ này là muốn làm rõ nghĩa, đối với nghĩa này thì nên thấy biết.

Này Ca-diếp! Người mù kia tức là chúng sinh đang lưu chuyển trong sáu đường, không hiểu biết chánh pháp, phiền não tối tăm thì luôn tăng trưởng và còn bị vô minh làm cho tối tăm, tích chứa các nghiệp, do nghiệp làm duyên, danh sắc cho đến tích tập các khổ lớn nên đang sống trong vô minh như vậy. Chúng sinh lưu chuyển trong ấy, chỉ có Như Lai vượt ra ba cõi, phát sinh Từ bi như cha thương đứa con một, thương yêu chúng sinh trong ba cõi thấy chúng sinh trôi nổi trong các nghiệp, không biết như thật để thoát khỏi sinh tử. Bằng mắt Phật trí, Phật thấy rõ những chúng sinh này, đời trước làm thiện, ít sân nhiều dục, ít dục nhiều sân, hoặc có trí ít, hoặc trí hoàn hảo, hoặc được thanh tịnh hoàn toàn, hoặc có tà kiến, những chúng sinh ấy Phật đều dùng phương tiện khéo léo nói ra ba thừa.

Như vị Tiên nhân chứng được năm phép thần thông có mắt thanh tịnh tức là Bồ-tát. Tâm Bồ-đề phát sinh được Vô sinh nhẫn chứng quả Vô thượng. Vị lương y kia chính là Như Lai, nên biết như vậy. Người mù kia chính là chúng sinh ngu si, nên thấy như vậy. Tất cả các bệnh tức là sáu mươi hai tà kiến của tham, sân, si, nên biết như vậy. Bốn loại thuốc là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Niết-bàn nên biết như vậy. Tùy bệnh cho thuốc, bệnh kia mới lành; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện, Giải thoát. Chánh niệm tu tập thì vô minh diệt, vô minh diệt nên hành diệt, cho đến các khổ lớn đều diệt. Suy nghĩ như vậy, không ở trong thiện không ở trong ác. Người mù sáng mắt tức là Thanh văn, Duyên giác, nên biết như vậy. Cắt đứt phiền não, trói buộc trong sinh tử, để giải thoát phiền não ra khỏi sáu đường và ba cõi. Do nghĩa này nên hàng Thanh văn suy nghĩ: “Không còn pháp nào khác để tu chứng nữa, ta đã đạt đến Niết-bàn.”

Bấy giờ Như Lai thuyết pháp cho họ, đối với pháp mà ông chưa rõ hết thì chỗ nào mà có Niết-bàn rốt ráo chư Phật dùng tâm Bồ-đề giáo hóa làm cho họ phát tâm Bồ-đề, không ở trong sinh tử cũng không trú Niết-bàn. Đã hiểu ba cõi mười phương vắng lặng, giống như biến hóa mộng ảo, sóng nắng, tiếng vang. Xét thấy các pháp không sinh, diệt, không trói, mở, không tối, sáng. Thấy các pháp thậm thâm, cái thấy ấy cũng không có sự thấy, mà thường thấy tâm tin hiểu của chúng sinh khác nhau khắp trong ba cõi. Bấy giờ muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ:

Như ánh sáng trời, trăng

Chiếu khắp ba ngàn

Đối với thiện và ác

Ánh sáng không tăng giảm;

Trí tuệ của Như Lai

Bình đẳng như trời, trăng

Giáo hóa các chúng sinh

Không thêm cũng không bớt.

Như thợ làm đồ gốm

Nhồi đất bùn làm ra,

Các đồ vật chứa đựng

Đường cát, nước, sữa ván,

Hoặc đựng đồ bất tịnh

Hoặc đựng các sữa cao,

Chỉ lấy một thứ bùn

Mà làm ra vật dụng.

Tùy vật chứa trong nó

Nhân đó mà gọi tên,

Các chúng sinh cũng vậy

Tùy sở thích khác nhau.

Phật nói thừa sai khác

Chắc chắn chỉ Phật thừa,

Vô trí nên luân hồi

Không biết nẻo giải thoát.

Có người biết pháp không

Xa lìa ngã và pháp

Vì vậy biết chư Phật

Sự chứng đắc chân chánh,

An trú trong bậc trí

Gọi là bậc Duyên giác.

Đã giáo hóa trí không

Gọi đó là Thanh văn.

Người giác ngộ các pháp

Gọi là Chánh Biến Tri.

Như người mù bẩm sinh

Không thấy trời, trăng, sao

Nên họ nói thế này

Không có các loại sắc

Lương y sinh lòng Từ

Thương xót người mù kia

Liền lên đến núi Tuyết,

Lên xuống đi khắp nơi

Tìm được các vị thuốc,

Tùy theo sự tác dụng

Làm ra bốn loại thuốc

Hòa hợp mà trị bệnh,

Hoặc dùng răng nhai nhỏ

Hoặc dùng cối nghiền nát

Hoặc dùng kim châm cứu

Để trị bệnh người mù.

Người ấy được sáng mắt

Thấy ánh sáng trời, trăng

Liền suy nghĩ như vầy

Thuở xưa vì không trí

Làm chúng sinh lưu chuyển

Người mù không trí lớn

Là duyên sinh đời này,

Không trí chịu đường khổ

Không trí ngu trong đời.

Bậc Thiết Trí như vậy,

Như Lai đại lương y

Phát sinh lòng Từ mẫu

Dùng các phương tiện khéo

Giảng thuyết pháp tịch tĩnh.

Trí giác Phật vô lượng

Diễn nói thừa Tối thắng

Rộng nói pháp bậc trung

Hướng dẫn bậc trung trí,

Vì họ sợ sinh tử

Nên khen Bồ-đề khác

Ra khỏi ba cõi rồi,

Thanh văn tự biết mình

Cho rằng mình chứng được

Niết-bàn và an ổn

Sẽ giác ngộ các pháp

Cõi Niết-bàn bất tử.

Đức Thế Tôn vì họ

Phát khởi lòng Từ bi

Bảo các ông ngu si

Chớ cho mình là trí.

Như có một ngôi nhà

Khi ông ở trong đó

Không biết gì bên ngoài

Ông là kẻ tiểu trí

Nếu ông ở trong đó

Biết ngoài làm hay chưa?

Ông chưa biết như vậy

Huống chi ông trí kém

Cách năm Du-xà-na

Có phát ra âm thanh

Ông cũng không nghe được.

Huống gì là xa hơn

Người khác đối với ông

Dù có thương hay ghét

Ông không thể biết được.

Sao lại sinh kiêu mạn

Xa một câu-lô -xá

Không đi không đến được

Sư việc lúc nhập thai

Ông cũng không còn nhớ

Nếu được năm thần thông

Mới gọi Nhất thiết trí

Ông ngu si không biết

Cho mình là người trí

Ông muốn được trí Phật

Phát sinh từ thần thông.

Nếu ở nơi vắng lặng

Thần thông liền xuất hiện

Tư duy pháp thanh tịnh

Thì sẽ được thần thông,

Học rồi đến chỗ vắng

Tư duy vào thiền định

Chứng được năm thần thông

Công đức mau đầy đủ.

Hàng Thanh văn như vậy

Tưởng đã được Niết-bàn,

Chư Phật nói với họ

Đây Niết-bàn tạm thời,

Thế Tôn dung phương tiện

Để nói con đường này

Nếu là Nhất thiết trí

Không thể chứng Niết-bàn,

Ba đời trí vô tận

Hành lục độ thanh tịnh

Vô tướng, tác, vô nguyện

Vắng lặng đều xả bỏ

Và dùng tâm Bồ-đề

Rõ pháp hướng Niết-bàn

Bốn pháp trú bốn nhiếp

Thảy đều được diễn nói

Để giáo hóa chúng sinh,

Đức Phật thuyết pháp này,

Nếu biết tánh các pháp

Như huyễn và như mộng

Không lõi như cây chuối

Cùng tiếng vang không khác

Và biết tự tánh nó

Thông suốt cả ba cõi

Không trói cũng không mở.

Biết rằng khi diệt độ

Các pháp bình đẳng không

Thể tánh không có khác,

Không thấy được điều này

Một pháp cũng không rõ

Bậc Đại trí thấy được

Pháp thân không có khác,

Không có pháp ba thửa

Chi một Phật thừa thôi

Các pháp đều bình đẳng

Và luôn luôn bình đẳng.

Bằng trí tuệ biết rồi

An vui trong Niết-bàn.

***

Phẩm 6: THỌ KÝ

Bấy giờ, sau khi nói kệ, Đức Phật tuyên bố giữa đại chúng:

– Đại Ca-diếp đệ tử của ta, ở đời vị lai sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức các Đức Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen, rộng nói pháp lớn vô lượng của các Đức Phật, đến than sau cùng thành Phật tên là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Nước tên Quang đức, kiếp tên Đại trang nghiêm, Đức Phật sống mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp, cõi nước trang nghiêm không có những dơ bẩn, đá sỏi, gai gốc và những đại tiểu tiện dơ uế, đất đai bằng phẳng, không có cao thấp, hầm hố, gò mô, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng vàng ròng làm dây để giăng bên đường, rải các kho báu khắp nơi sạch sẽ. Bồ-tát trong nước ấy nhiều vô lượng, vô số ngàn ức, hàng Thanh văn cũng vô số, không có các việc ma, tuy có ma và dân ma nhưng đều hộ trì Phật pháp.

Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Phật nói kệ:

Này các Tỳ-kheo!

Ta dùng mắt Phật

Thấy Ca-diếp này,

Vào đời vị lai

Qua vô số kiếp

Sẽ được làm Phật.

Vào đời vị lai

Cúng dường thờ phụng

Ba trăm vạn ức

Chư Phật Thế Tôn,

Vì cầu trí Phật

Tịnh tu phạm hạnh

Cúng dường tối thượng

Bậc Lưỡng Túc Tôn

Tu tập tất cả

Trí tuệ vô thượng

Ở thân sau cùng

Sẽ được làm Phật.

Cõi ấy thanh tịnh

Lưu ly làm đất

Nhiều loại cây báu

Thẳng hàng bên đường,

Dây vàng ven đường

Ai thấy đều vui

Đường thoảng hương thơm

Rải các hoa đẹp

Đủ món kỳ diệu.

Dùng để trang hoàng,

Cõi ấy bằng phẳng

Không có gò hầm,

Các chúng Bồ-tát

Không thể kể hết,

Tâm họ hòa dịu

Đạt thần thông lớn

Phụng trì chư Phật

Kinh điển Đại thừa.

Các chúng Thanh văn

Thân cuối vô lậu

Con của Pháp Vương

Không thể kể hết,

Và dùng Thiên nhãn

Không thể đếm biết

Phật ấy sống đến

Hai mươi tiểu kiếp,

Chánh pháp trụ đời

Hai mươi tiểu kiếp,

Tượng pháp cũng trụ

Hai mươi tiểu kiếp.

Đức Phật Quang Minh

Việc là như thế.

Khi ấy các vị Bồ-tát Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên… thấy đều run sợ, một lòng chắp tay, mắt nhìn chăm chú, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn đồng thanh nói kệ:

Thế Tôn đại hùng mãnh

Pháp vương của dòng Thích

Vì thương cảm chúng con

Mà phát ra tiếng Phật,

Nếu biết thân tâm con

Được làm người thọ ký

Như dùng cam lồ rưới

Trừ nóng được mát mẻ.

Như từ chốn đói khát

Bỗng đến gặp tiệc vua,

Tâm lo sợ hoài nghi

Chưa dám tự ăn liền,

Nếu được vua cho phép

Sau đó mới dám ăn.

Chúng con cũng như vậy

Thường nghĩ lỗi Tiểu thừa,

Chẳng biết làm thế nào

Được trí tuệ vô thượng.

Tuy được nghe Phật nói

Chúng con được làm Phật

Tâm còn mối lo sợ

Như người chưa dám ăn,

Nếu được Phật thọ ký

Mới chắc được yên vui.

Thế Tôn, Bậc Đại Hùng

Thường muốn an thế gian

Xin thọ ký chúng con

Như đói cần bảo ăn.

Bấy giờ, biết tâm niệm của các vị đại đệ tử, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ông Tu-bồ-đề đây! Đến đời vị lai phụng thờ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán ba trăm vạn ức na-do-tha Đức Phật, thường tu tập phạm hạnh, đủ đạo Bồ-đề vào thân cuối cùng thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên Hữu bảo, nước tên Bảo sinh, cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê cây báu trang nghiêm, không có gò, hầm cát, sỏi, gai chông và những đại tiện dơ uế, hoa báu trải đất, khắp nơi sạch sẽ, nhân dân nước đó đều ở lầu đài tốt dẹp. Hàng đệ tử Thanh văn nhiều vô lượng, vô biên, không thể tính đếm, ví dụ được. Các chúng Bồ-tát đông vô số ngàn muôn ức na-do-tha. Đức Phật sống hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật ấy thường ở trên hư không, thuyết pháp cho đại chúng, độ thoát vô lượng Bồ-tát và Thanh văn. Khi ấy muốn lập lại nghĩa trên Đức Phật nói kệ:

Này các Tỳ-kheo!

Ta bảo các ông

Đều nên nhất tâm

Lắng nghe ta nói.

Đại đệ tử ta

Là Tu-bồ-đề

Sẽ được thành Phật,

Hiệu là Danh Tướng

Cúng dường vô số

Muôn ức Đức Phật

Theo hạnh Phật làm,

Dần đủ đạo lớn

Thân cuối sẽ được

Ba hai tướng tốt

Trang nghiêm đẹp đẽ.

Cũng như núi báu

Cõi nước Phật ấy

Sạch sẽ thứ nhất

Chúng sinh nào thấy

Đều cũng ưa muốn.

Phật ở cõi ấy

Độ vô lượng chúng,

Trong hội pháp Phật

Bồ-tát rất đông

Đều bậc lợi căn

Chuyển pháp không thoái.

Nước ấy thường do

Bồ-tát trang nghiêm

Các chúng Thanh văn

Nhiều vô sô kể

Đều chứng ba minh

Đủ sáu thần thông

Trụ tám giải thoát

Có đại oai đức.

Phật đó nói pháp

Hiện ra vô số

Thần thông biến hóa

Không thể nghĩ bàn

Các hàng trời, người

Số như hằng sa

Đều cùng chắp tay

Nghe nhận lời Phật.

Phật ấy sẽ sống

Hai mươi tiểu kiếp,

Chánh pháp trụ đời

Hai mươi tiểu kiếp.

Tượng pháp cũng trú

Hai mươi tiểu kiếp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Ta nói với các ông, ông Đại Ca-chiên-diên này vào đời vị lai, đùng các món cúng dường để dâng cúng, phụng thờ cung kính, tôn trọng tám ngàn ức Phật. Sau khi các Đức Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, dài rộng bằng nhau năm trăm do-tuần. Tháp miếu là m bằng bảy báu như: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu và mai khôi. Dùng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp miếu. Sau thời kỳ ấy lại cúng dường hai vạn ức Phật cũng như cúng dường các Đức Phật trước. Việc dâng cúng xong, đủ đạo Bồ-tát được thành Phật hiệu Diêm-phù-na-đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Cõi nước đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa đẹp rải trên đất, khắp nơi sạch sẽ, người thấy vui mừng, không có bốn đường dữ: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, hàng trời, người rất đông, chúng Thanh văn và các bậc Bồ-tát nhiều vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật sống mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Này các Tỳ-kheo!

Nhất tâm lắng nghe

Như lời ta nói

Chân thật không khác,

Ông Ca-chiên-diên

Sẽ dùng các món

Vật cúng tốt đẹp

Cúng dường chư Phật,

Sau Phật diệt độ

Dựng tháp bảy báu

Cũng dùng hoa hương

Cúng dường xá-lợi.

Thân cuối của ông

Được trí tuệ Phật

Thành Bậc Chánh Giác

Cõi nước thanh tịnh

Độ thoát vô lượng

Vạn ức chúng sinh

Đều được cúng dường

Của khắp mười phương.

Ánh sáng của Phật

Không ai hơn cả

Phật này hiệu là

Diêm-phù Kim Quang,

Bồ-tát, Thanh văn

Dứt hết luân hồi.

Vô lượng vô số

Trang nghiêm cõi đó.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo đại chúng:

– Ta nói với các ông, ông Mục-kiền-liên sẽ dùng đủ các vật cúng dường, cung kính tôn trọng tám ngàn chư Phật. Sau khi Phật diệt độ, đều dựng tháp miếu cao một ngàn do-tuần, dài rộng bằng nhau năm trăm do-tuần, làm bằng bảy báu: Lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu, mai khôi cúng dường tháp Phật bằng các loại hoa, anh lạc, hương xoa, hương bột, hương đốt, dù lọng, tràng phan. Sau đó lại cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật cũng như trước, được thành Phật hiệu là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Kiếp tên Hỷ mãn, nước tên Ý lạc, cõi nước bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người nào được thấy đều rất hoan hỷ. Trời, người rất đông, Bồ-tát Thanh văn vô số. Đức Phật ấy sống hai mươi bốn tiểu kiếp, Chánh pháp trụ hai mươi tiểu kiếp. Khi ấy muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ:

Đệ tử của ta

Ông Mục-kiền-liên

Xả bỏ thân này,

Được gặp tám ngàn

Hai trăm vạn ức

Chư Phật Thế Tôn.

Vì cầu Phật đạo

Cúng dường cung kính,

Các Đức Phật kìa

Thường tu phạm hạnh,

Trong vô lượng kiếp

Phụng trì pháp Phật.

Chư Phật diệt độ

Xây tháp bảy báu

Cao rộng bằng vàng

Hoa hương kỹ nhạc,

Để dâng cúng dường

Tháp miếu chư Phật

Dần dần đầy đủ

Đạo hạnh Bồ-tát.

Nơi nước Ý-lạc

Mà được thành Phật

Hiệu Đa-ma-la

Bạt Chiên-đàn Hương.

Phật đó sống lâu

Hai mươi bốn kiếp,

Thường vì trời người

Diễn nói đạo Phật.

Thanh văn vô số

Như cát sông Hằng,

Ba minh, sáu thông

Có oai đức lớn.

Bồ-tát vô lượng

Bền lòng tinh tấn

Nơi trí tuệ Phật

Đều không thoái lui.

Sau Phật diệt độ

Chánh pháp sẽ trụ

Bốn mươi tiểu kiếp,

Tượng pháp cũng vậy.

Các đệ tử ta

Oai đức đầy đủ

Số đó năm trăm

Ta đều thọ ký

Ở đời vị lai

Đều được thành Phật.

Ta cùng các ông

Đời trước kết duyên,

Hôm nay ta nói

Các ông lắng nghe.

***

Phẩm 7: HÓA THÀNH DỤ

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Cách đây vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, không thể nghĩ bàn, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nước ấy tên Hảo thành, kiếp tên Đại tướng.

Này các Tỳ-kheo! Đức Phật đó đã diệt độ rất lâu ví như có bao nhiêu đất trong tam thiên đại thiên thế giới, có người lấy tất cả đất đó nghiền nát thành mực, đi qua ngàn cõi nước ở phương Đông, chấm một giọt bằng hạt bụi. Lại đi qua ngàn cõi nước khác chấm một giọt nữa, lần lượt như thế chấm hết số mục đã nghiền. ý ông nghĩ sao? Các cõi nước đó nếu thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán có thể tính được toàn bộ số đó không?

– Bạch Thế Tôn, không thể tính được!

– Này các Tỳ-kheo! Những cõi nước người đó đã đi qua, hoặc chấm, không chấm đều nghiền nát thành bụi, một hạt bụi là một kiếp. Đức Phật kia đã diệt độ đến nay lâu hơn số bụi trên vô lượng, vô biên, vô số kiếp. Ta dùng năng lực thấy biết của Như Lai xem thử lâu xa đó giống như ngày nay.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Ta nhớ đời quá khứ

Vô lượng, vô biên kiếp,

Có Phật Lưỡng Túc Tôn

Hiệu Đại Thông Trí Thắng.

Như người dùng sức nghiền

Hết tất cả loại đất

Trong tam thiên đại thiên

Đều dùng làm thành mực,

Đi qua ngàn cõi nước

Mới chấm một giọt mực.

Như thế lần lượt chấm

Hết các mực bụi này,

Các cõi nước như thế

Hoặc chấm. hoặc không chấm

Lại nghiền hết thành bụi

Một bụi làm một kiếp

Kiếp số lâu xa kia

Nhiều hơn số bụi này

Phật diệt độ đến nay

Vô lượng kiếp như thế

Trí vô ngại của Phật

Biết Phật kia diệt độ

Và Thanh văn, Bồ-tát

Như nay thấy diệt độ

Các Tỳ-kheo nên biết

Trí Phật tịnh vi diệu

Vô lậu và vô ngại

Thấu đạt vô lượng kiếp.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Phật Đại Thông Trí Thắng sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức na-do-tha kiếp, chỉ ngồi đạo tràng phá các quân ma, sắp được Chánh đẳng Chánh giác mà vẫn chưa chứng đắc được pháp của chư Phật. Cứ như thế ngồi kiết già thân tâm không lay động, trải qua một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, mà chánh pháp vẫn chẳng hiện ra.

Khi ấy, các vị trời Đao-lợi vì Đức Phật kia, trải tòa Sư tử cao một do-tuần, ở dưới cội Bồ-đề. Đức Phật ngồi tòa này thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi Phật vừa ngồi tòa, các vị Phạm thiên vương rưới hoa trời khắp trăm do-tuần, gió thơm thổi đến xua tan các hoa héo rồi rưới các hoa mới, mãi hoài không dứt trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật, cho đến Phật diệt độ thường rưới các hoa này. Các trời Tứ Thiên vương thường hay đánh trống trời để cúng dường chư Phật, còn các vị trời khác cũng trổi kỹ nhạc trời, mãn hết mười tiểu kiếp, đến khi Phật diệt độ đều cũng lại như vậy.

Này các Tỳ-kheo! Đức Phật Đại Thông Trí Thắng qua hơn mười tiểu kiếp mới chứng được chánh pháp của chư Phật, để thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi Phật chưa xuất gia có mười sáu người con. Người con cả tên Trí Tích, các người con đó đều có đủ thứ đồ chơi tốt đẹp khác nhau, nghe cha chứng Vô thượng Bồ-đề, đều bỏ các vật quý báu đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc tiễn đưa. Ông nội là Chuyển luân thánh vương cùng một trăm vị đại thần và một trăm ngàn vạn ức nhân dân đều cùng nhau theo đến đạo tràng, muốn gặp Đức Đại Thông Trí Thắng để cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen. Đến nơi, đánh lễ dưới chân, nhiễu quanh Đức Phật, nhất tâm chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan nói kệ:

Thê Tôn oai đức lớn

Vì muốn độ chúng sinh,

Trong vô lượng ức kiếp

Mới chứng được quả Phật.

Các nguyện đã đầy đủ

Vui thay Đấng Vô thượng!

Thế Tôn bậc hiểm có

Một lần ngồi mười kiếp,

Thân thể và tay chân

An tịnh không lay động,

Tâm Phật thường lặng lẽ

Chưa từng có tán loạn,

Được vắng lặng hoàn toàn

An trú pháp vô lậu.

Đời nay gặp Thế Tôn

An ổn thành Phật đạo.

Chúng con được lợi ích

Vui mừng hoan hỷ lớn,

Chúng sinh thường đau khổ

Mờ mịt không Đạo sư,

Không biết đường dứt khổ

Không biết cầu giải thoát,

Ngày càng thêm nẻo ác

Các chúng trời càng ít,

Từ tối vào nơi tối

Không nghe được tên Phật,

Nay Phật chứng tối thượng

Đạo vô lậu an ổn.

Chúng con cùng trời, người

Vì cầu lợi tối thượng,

Cho nên cùng đảnh lễ

Quy mạng Đức Thế Tôn.

Khi nói kệ tán thán Đức Phật xong, mười sáu vị vương tử cung thỉnh Thế Tôn chuyển pháp luân, đồng thanh cùng thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp đem lại sự an ổn, thương yêu và lợi ích cho tất cả trời người, lại nói kệ:

Đức Phật không ai bằng

Trăm phước tự trang nghiêm,

Được trí tuệ vô thượng

Vì thế gian nói pháp.

Độ thoát cho chúng con

Và chúng sinh muôn loài,

Hiển bày phân biệt rõ

Để được trí tuệ Phật.

Nếu chúng con thành Phật

Chúng sinh cũng như thế,

Phật biết tâm chúng sinh

Thường hay nhớ nghĩ gì,

Cũng biết việc chúng làm

Lại biết sức trí tuệ,

Ưa muốn hay tu phước

Nghiệp đã tạo đời trước,

Thế Tôn đều biết rõ

Nên chuyển pháp Vô thượng.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Khi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, năm trăm vạn ức cõi nước chư Phật trong mười phương đều chấn động sáu cách. Những chỗ tối tăm giữa các thế giới, ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến thì cũng đều được sáng rực rỡ, những chúng sinh trong đó đều được thấy nhau, cũng nói: “Ở đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh?” Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên và Phạm thiên rung động sáu cách, ánh sáng lớn tỏa khắp thế giới, sáng hơn ánh sáng của trời.

Bấy giờ, phương Đông ánh sáng cung điện Phạm thiên của năm trăm vạn ức cõi nước, chiếu sáng rực hơn ánh sáng thường ngày. Các vị Phạm thiên suy nghĩ: “Hiện nay ánh sáng đang phát ra ở cung điện từ xưa chưa từng có, vì nhân duyên nào mà hiện tướng này.” Khi đó các vị Phạm thiên cùng gặp nhau, bàn luận; trong chúng có một vị Đại Phạm thiên tên Cứu Nhất Trí vì chúng Phạm thiên nói kệ:

Cung điện của chúng ta

Ánh sáng chưa từng có!

Đây là nhân duyên gì?

Phải nên cùng nhau tìm,

Là trời đức lớn sinh,

Hay là Phật ra đời,

Mà có ánh sáng này

Chiếu khắp cả mười phương?

Bấy giờ các vị Phạm thiên cùng với cung điện của mình, từ năm trăm vạn ức cõi nước, mỗi vị đều dùng tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương Tây đi theo tướng sáng ấy, gặp Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề. Hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Đức Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên đầu mặt đánh lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Cây Bồ-đề cao mười do-tuần, cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa rằng:

– Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích, mà nhận cung điện dâng cúng này.

Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên vương nói kệ:

Thế Tôn rất hiếm có

Khó có thể gặp được,

Đủ vô lượng công đức

Cứu giúp khắp tất cả.

Bậc thầy của trời người

Thương yêu hết muôn loài,

Trong tất cả mười phương

Hoàn toàn được lợi ích.

Chúng con đã đến từ

Năm trăm vạn ức cõi,

Bỏ hỷ lạc thiền định

Để cúng dường chư Phật.

Nhờ phước của chúng con

Được cung điện tốt đẹp,

Nay đem dâng Thế Tôn

Nguyện xin được nạp thọ.

Nói kệ xong, các vị Phạm thiên vương lại nói:

– Nguyện xin Thế Tôn chuyển pháp luân độ thoát chúng sinh, mở đường Niết-bàn.

Khi ấy, các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ:

Đức Phật Lưỡng Túc Tôn

Nguyện xin diễn nói pháp,

Dùng sức Từ bi lớn

Giải thoát khổ chúng sinh.

Đức Đại Thông Trí Thắng yên lặng chấp nhận. Lại nữa, các Tỳ-kheo! Ở phương Đông nam, các vị Phạm thiên vương từ năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy cung điện của mình ánh sáng rực rỡ từ xưa chưa từng có, rất vui mừng hớn hở, cùng gặp nhau bàn việc này. Trong chúng có vị Phạm thiên vương tên Đại Bi vì các Phạm thiên nói kệ:

Đây là nhân duyên gì?

Mà hiện ra tướng này,

Cung điện của chúng ta

Ánh sáng chưa từng có

Là trời đức lớn sinh

Hay là Phật ra đời?

Chưa từng thấy tướng này

Nên cùng nhau đi tìm,

Qua ngàn vạn ức cõi

Lần theo ánh sáng này

Phần nhiều Phật ra đời

Giải thoát khổ chúng sinh.

Bấy giờ năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện, đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời, cùng đến phương Tây bắc theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề, hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Đức Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Phật nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật. Dâng cúng hoa xong mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa:

– Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện dâng cúng này.

Khi ấy ở trước Đức Phật các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ:

Thánh chúa vua trong trời

Tiếng Ca-lăng-tần-già

Thương yêu khắp chúng sinh.

Chúng con cung kính lễ

Thế Tôn rất hiếm có,

Lâu xa hiện một lần,

Một trăm tám mươi kiếp

Trải qua không có Phật.

Ba đường dữ đầy dẫy

Chúng chư Thiên giảm dần.

Nay Phật hiện ra đời

Làm mắt sáng chúng sinh,

Chỗ thế gian nương tựa

Cứu vớt hết tất cả.

Là cha của muôn loài

Thương yêu làm lợi ích,

Nhờ phước lành đời trước

Nay được gặp Thế Tôn.

Sau khi nói kệ ca tụng Phật xong, các vị Phạm thiên vương cùng nhau thưa:

– Xin Thế Tôn thương chúng con, chuyển pháp luân hóa độ chúng sinh.

Khi ấy các vị Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói kệ:

Như Lai chuyển pháp luân

Chỉ bày các pháp tướng

Cứu tất cả chúng sinh

Hết khổ được vui lớn.

Chúng sinh nghe pháp này

Chứng đạo hoặc sinh Thiên,

Các đường ác giảm dần

Cõi thiện được tăng thêm.

Bấy giờ, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng yên lặng nhận lời. Này các Tỳ-kheo! Ở phương Nam, các Đại Phạm thiên từ năm trăm vạn ức cõi nước đều thấy cung điện của mình , ánh sáng rực rỡ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, cùng gặp nhau bàn việc này. Do nhân duyên gì cung điện chúng ta có ánh sáng ấy.

Bấy giờ, trong chúng có Đại Phạm thiên vương tên Diệu Pháp vì các Phạm chúng nói kệ:

Cung điện của chúng ta

Ánh sáng rất rực rỡ,

Đây phải là nguyên nhân

Cần tìm hiểu tướng đó;

Trải qua trăm ngàn kiếp

Chưa hề thấy tướng này

Là trời đức lớn sinh

Hay là Phật ra đời?

Bấy giờ, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng với cung điện đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương Bắc theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề. Hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Phật. Thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân. Ngay khi ấy, các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật. Hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật, dâng cúng hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa:

– Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện dâng cúng này.

Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên đồng thanh nói kệ:

Thế Tôn rất khó gặp

Bậc phá tan phiền não

Qua trăm ba mươi kiếp

Nay mới thấy một lần,

Hàng chúng sinh đói khát

Được mưa pháp đầy đủ.

Từ xưa chưa từng có,

Đấng trí tuệ vô lượng

Như hoa Ưu-đàm-bát

Ngày nay mới gặp được.

Các cung điện chúng con

Nhờ ánh sáng nên đẹp,

Thế Tôn, đại Từ bi

Nguyện xin được nạp thọ.

Bấy giờ các Phạm Thiên vương khen ngợi Phật xong, cùng nhau thưa:

– Xin Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả Trời, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian đều được an vui giải thoát. Các ví Phạm thiên vương nhất tâm đồng thanh nói kệ:

Cúi xin Bậc Thiên Nhân

Chuyển pháp luân Vô thượng

Đánh vang trống pháp lớn,

Và thổi kèn pháp lớn,

Rưới mưa pháp khắp nơi,

Cứu vô lượng chúng sinh,

Chúng con xin thỉnh cầu

Diễn nói pháp sâu xa.

Khi ấy, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng yên lặng nhận lời, phương Tây nam và phương dưới cũng vậy.

Bấy giờ, ở phương trên, các vị Phạm thiên vương từ năm trăm vạn ức cõi nước đều thấy cung điện của mình, ánh sáng rực rỡ xưa chưa từng có, rất vui mừng hớn hở cùng gặp nhau bàn việc này. Do nhân duyên gì, cung điện của ta có ánh sáng này, trong chúng có vị Phạm thiên vương tên Thi-khí vì Phạm chúng nói kệ:

Nay nhờ duyên nhân gì

Cung điện của chúng ta

Ánh sáng chiếu rực rỡ

Huy hoàng rất khác thường?

Tướng tốt đẹp như thế

Xưa chưa từng nghe thấy,

Là trời đức lớn sinh

Hay là Phật ra đời?

Bấy giờ, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùn với cung điện đều lấy tấm vải đựng các thứ hoa trời cùng đến phương dưới theo tướng sáng đó, gặp Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ngồi tòa Sư tử, nơi đạo tràng bên cội Bồ-đề, hàng Trời, Rồng, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… cung kính vây quanh Phật, thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, ngay khi ấy các vị Phạm thiên vương đảnh lễ Đức Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải cúng dường Phật, hoa rải cao như núi Tu-di để cúng dường cây Bồ-đề của Phật, dâng cúng hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên Đức Phật thưa:

– Xin Thế Tôn từ mẫn để chúng con được lợi ích mà nhận cung điện này.

Khi ấy ở trước Đức Phật, các vị Phạm thiên vương đồng thanh nói kệ:

Lành thay, thấy chư Phật

Đấng Thánh Tôn cứu đời.

Vớt chúng sinh đau khổ

Thoát khỏi ngục tam giới.

Trí sáng Thầy trời người

Thương yêu hết muôn loài,

Thường mở cửa bất tử

Cứu độ khắp chúng sinh.

Trải qua vô lượng kiếp

Thế gian không có Phật,

Thế Tôn chưa xuất hiện

Mười phương thường tối tăm,

Ba đường ác phát triển

A-tu-la phồn thịnh

Chúng chư Thiên giảm dần,

Đường ác nhận thêm nhiều.

Không được nghe Phật pháp

Nên làm việc bất thiện.

Sắc lực và trí tuệ

Tất cả đều giảm sút,

Do nhân duyên tội nghiệp

Mất an lạc hạnh phúc,

Sống theo pháp tà kiến

Chẳng rõ pháp chánh kiến

Không nhờ Phật giáo hóa

Sẽ đọa vào đường ác.

Phật là mắt của đời

Lâu xa mới xuất hiện,

Thương yêu các chúng sính

Nên hiện ra ở đời,

Siêu việt thành Chánh giác

Chúng con rất vui mừng,

Và tất cả chúng khác

Hân hoan chưa từng có.

Cung điện của chúng con

Nhờ hào quang nên đẹp,

Nay đem dâng Thế Tôn

Cúi xin Ngài nạp thọ.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả,

Chúng con và chúng sính

Đều trọn thành Phật đạo.

Khi nói kệ tán thán Đức Phật xong, năm trăm vạn ức vị Phạm thiên vương cùng bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân cho chúng con được an ổn, giải thoát.

Khi ấy Phạm thiên vương, nhất tâm đồng thanh nói kệ:

Thế Tôn chuyển pháp luân

Đánh trống pháp cam lồ,

Độ chúng sinh khổ não

Khai mở đường Niết-bàn.

Cúi xin nhận lời con

Dùng âm thanh vi diệu.

Thương yêu mà diễn giảng

Pháp tu vô lượng kiếp.

Bấy giờ, Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh của các vị Phạm thiên vương khắp mười phương và mười sáu vị vương tử. Liền chuyển bánh xe pháp bằng ba cách với mười hai phương thức: Đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Con đường dẫn đến sự khổ diệt… mà hàng Sa-môn, Bà-la-môn hoặc chư Thiên, Ma vương, Phạm vương và những ai còn ở trong thế gian đều không chuyển được. Lại được nói rộng ra thành mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi khổ não diệt. Khi Phật ở giữa đại chúng trời, người nói pháp này thì sáu trăm vạn ức triệu người, do không chấp vào các pháp nên đối với các lậu tâm, được giải thoát. Bốn thiền, bốn định, ba minh, tám giải thoát, những pháp thâm sâu như vậy họ đều có đủ. Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, có ngàn vạn ức triệu hằng ha sa chúng sinh, cũng do không chấp vào các pháp, nên đối với các lậu, tâm được giải thoát. Từ đây về sau, chúng Thanh văn nhiều vô lượng, vô biên không thể tính hết được.

Bấy giờ mười sáu vương tử đều là đồng tử xuất gia làm Sa-di các căn thông minh, trí tuệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật thực hành phạm hạnh, cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, cùng nhau bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vô lượng ngàn vạn ức Đại đức Thanh văn này đã thành thục cả rồi. Thế Tôn cũng nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho chúng con, chúng con nghe rồi cùng nhau tu học. Bạch Thế Tôn! Tâm trí của chúng con muốn được tri kiến của Như Lai, tâm chí ấy xin Phật chứng biết cho.

Bấy giờ trong số những người đi theo Chuyển luân thánh vương có tám vạn ức người, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng cầu xin xuất gia, vua chấp nhận. Đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa-di, trải qua hai vạn kiếp ở trong bốn chúng nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Mười sáu vị Sa-di vì Tuệ giác vô thượng đều cùng tiếp nhau, thọ trì, đọc tụng thông suốt. Khi nói kinh này, mười sáu vị Sa-di và Bồ-tát tin tưởng tiếp nhận, trong chúng Thanh văn cũng có vị tin hiểu nhưng có ngàn vạn ức người khác đều sinh tâm nghi ngờ. Đức Phật thuyết kinh suốt tá m ngàn kiếp chưa bao giờ dừng nghỉ.

Nói kinh này xong, Đức Phật vào tịnh thất, an trú trong thiền định đến tám vạn bốn ngàn kiếp. Khi ấy mười sáu ví Sa-di Bồ-tát biết Đức Phật vào thất thiền định, mỗi vị đều lên pháp tòa cùng trong thời gian tám vạn bốn ngàn kiếp ấy, giảng thuyết rõ ràng kinh Diệu Pháp cho bốn bộ chúng. Mỗi vị đều hóa độ sáu trăm vạn ức triệu hằng sa chúng sinh, trình bày thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng, làm cho ai cũng phát tâm Tuệ giác vô thượng.

Đã qua tám vạn bốn ngàn kiếp, Đức Đại Thông Trí Thắng xuất định đi đến an tọa nơi pháp tòa tuyên bố với đại chúng:

– Mười sáu vị Sa-di Bồ-tát này thật là hiếm có, các căn thong minh trí tuệ thông suốt, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức chư Phật, các vị Sa-di thường thực hành phạm hạnh, lãnh thọ trí tuệ của Phật, chỉ dạy chúng sinh vào tuệ giác Phật. Các ông hãy luôn gần gũi cúng dường mười sáu vị ấy. Vì sao? Vì bất cứ Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát, người nào tin tưởng kinh pháp do mười sáu vị Sa-di đó tuyên thuyết tiếp nhận giữ gìn không hủy bỏ, thì những người ấy sẽ được trí tuệ của Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Mười sáu vị Bồ-tát thường thích nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Mỗi vị đã giáo hóa sáu trăm vạn ức triệu hằng hà sa chúng sinh, đời đời cùng sinh ra với Bồ-tát, được nghe pháp và đều tin hiểu. Do nhân duyên này, số chúng sinh ấy được gặp bốn vạn ức Đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chưa chấm dứt.

Này các Tỳ-kheo! Mười sáu vị Sa-di đệ tử của Đức Phật kia đều chứng Vô thượng Bồ-đề hiện dang nói pháp ở khắp mười phương, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ-tát Thanh văn để làm quyến thuộc.

Hai vị thành Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên A-súc ở nước Hoan hỷ, vị thứ hai tên Tu-di Đảnh.

Hai vị thành Phật ở phương Đông nam: Vị thứ nhất tên Hư Không Trụ, vị thứ hai tên Thường Diệt.

Hai vị thành Phật ở phương Tây nam: Vị thứ nhất tên Đế Tướng, vị thứ hai tên Phạm Tướng.

Hai vị thành Phật ở phương Tây: Vị thứ nhất tên là A-di-đà, vị thứ hai tên là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não.

Hai vị thành Phật ở phương Tây bắc: Vị thứ nhất tên Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên Tu-di Tướng.

Hai vị thành Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhất Vân Tự Tại, vị thứ hai tên Vân Tự Tại Vương.

Ở phương Đông bắc, một vị thành Phật tên Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy; vị Phật thử mười sáu ở cõi Ta-bà chính là ta, Thích-ca Mâu-ni thành đạo Vô thượng Bồ-đề.

Này các Tỳ-kheo! Khi chúng ta còn làm Sa-di, mỗi vị giáo hóa vô lượng vạn ức hằng hà sa chúng sinh theo ta nghe pháp để chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho đến nay những người vẫn còn địa vị Thanh văn. Ta thường giáo hóa đạo Vô thượng Bồ-đề cho họ, khiến cho những người ấy dùng chánh pháp này dần dần đi vào Phật đạo. Vì sao? Vì trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng hà sa chúng sinh đã được giáo hóa lúc đó chính là Tỳ-kheo các ông và đệ tử Thanh văn.

Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không hay không biết thực hành hạnh của Bồ-tát, từ nơi thành quả của mình mà tưởng đã diệt độ, sẽ nhập Niết-bàn. Ta ở nước khác làm Phật lại có tên khác. Những người kia tuy sinh ý tưởng diệt độ sẽ nhập Niết-bàn mà ở cõi kia lại cầu trí tuệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ không có thừa nào khác trừ khi Như Lai phương tiện thuyết pháp.

Này các Tỳ-kheo! Đức Phật tự biết thời diệt độ sắp đến, chúng tăng thanh tịnh, tin hiểu chắc chắn thấu triệt pháp không sâu vào thiền định. Như Lai triệu tập Bồ-tát và Thanh văn để nói kinh này, Tỳ-kheo nên biết thế gian không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa diệt độ thôi. Như Lai dùng phương tiện đi sâu vào căn tánh của chúng sinh, biết được tâm ý của họ ưa thích pháp nhỏ, đắm sâu năm dục mà nói Niết-bàn cho họ . Những người đó nếu nghe được liền tin nhận.

Ví như đường nguy hiểm có nhiều nạn dữ dài năm trăm do-tuần, chốn hoang vắng ghê rợn, nhiều người muốn được qua con đường này đến chỗ châu báu, có một vị hướng dẫn thông minh, sang suốt, lại biết rõ chỗ thông nghẽn của con đường hiểm, muốn dẫn đoàn người đi qua chỗ hiểm này. Giữa đường mọi người chán nản muốn lui về, họ thưa với người hướng dẫn:

– Chúng tôi quá mệt lại thêm ghê sợ, không thể đi tiếp được nữa, đường trước còn xa chúng tôi muốn lui về.

Vị hướng dẫn có lắm phương tiện: “Những người này thật đáng thương, sao đành bỏ châu báu mà muốn lui về.” Nghĩ rồi liền dùng sức phương tiện hóa làm thành quách cao ba trăm do-tuần ở giữa con đường hiểm, bảo mọi người:

– Các người đừng sợ, chớ lui về ở trong thành lớn này có thể nghỉ ngơi, tùy ý sử dụng vào trong ấy sẽ được an ổn. Nếu các người muốn đến chỗ châu báu phía trước thì cũng có thể đi được.

Khi đó, đoàn người mỏi mệt vô cùng vui mừng, khen ngợi việc chưa từng có. Chúng ta thoát khỏi con đường nguy hiểm, vui mừng được an ổn. Những người này vào trong hóa thành liền khởi tưởng được vượt qua, đã an ổn hoàn toàn.

Vị hướng dẫn khi biết mọi người đã nghỉ ngơi hết mỏi mệt, liền hủy bỏ thành do biến hóa, bảo mọi người:

– Chỗ châu báu gần đây, các người hãy đi đến, thành quách kia do ta biến hóa ra để nghỉ ngơi mà thôi.

Này các Tỳ-kheo! Như Lai cũng như vậy, làm Bậc Đạo Sư cho các ông, biết rõ các đường dữ, sống chết, phiền não, dài xa, nguy hiểm phải rời bỏ, nên vượt qua. Các chúng sính chỉ nghe một Phật thừa thì không muốn gặp Phật, không muốn gần gũi liền nghĩ: “Đường giác ngộ xa quá, phải chịu khổ lâu ngày mới có thể đạt được.” Phật biết tâm chúng sinh, khiếp nhược thấp kém, nên dùng sức phương tiện nói Niết-bàn thứ hai ở giữa đường để nghỉ ngơi. Khi chúng sinh trụ được vào địa vị thứ hai này thì Như Lai lại nói: “Việc làm của các ông chưa hoàn tất, quả vị của các ông gần với trí tuệ của Phật. Phải quán sát suy lường Niết-bàn đã chứng chẳng phải chân thật, chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa nói rõ thành ba.” Như vị hướng dẫn hóa làm thành quách để nghỉ ngơi, đã biết nghỉ ngơi rồi liền bảo: “Chỗ châu báu gần đây, thành quách không thật do ta biến hóa ra.”

Lúc đó, muốn tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại Thông Trí Thắng Phật

Mười kiếp ngồi đạo tràng,

Phật pháp chưa chứng đắc

Không được thành Phật đạo.

Các Trời, Thần, Long vương

Cùng chúng A-tu-la

Thường mưa xuống hoa trời

Để cúng dường Đức Phật.

Chư Thiên đánh trống trời

Trổi các loại âm nhạc,

Gió thơm thổi hoa héo

Lại mưa hoa tốt mới,

Hơn mười tiểu kiếp rồi

Mới được thành Phật đạo.

Chư Thiên và người đời

Tâm đều được hân hoan,

Mười sáu người con Phật

Đều cùng với quyến thuộc

Ngàn vạn ức vây quanh

Cùng nhau đến chỗ Phật.

Đầu mặt lễ chân Phật

Thỉnh Phật chuyển pháp luân,

Thánh Sư tử mưa pháp

Lợi con và tất cả.

Thế Tôn rất khó gặp

Lâu xa hiện một lần.

Vì giác ngộ quần sinh

Làm chấn động tất cả.

Các thế giới phương Đông

Năm trăm vạn ức nước.

Phạm cung được sáng chói

Từ xưa chưa từng có.

Phạm thiên thấy tướng này

Tìm đến chỗ của Phật,

Rải hoa để cúng dường

Và dâng lên cung điện

Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Dùng kệ tán thán Phật

Phật biết chưa đến giờ,

Ngồi im lặng chấp nhận.

Ba phương cùng bốn phía

Trên dưới cũng như vậy,

Rải hoa dâng cung điện

Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Thế Tôn thật khó gặp

Với Từ bi nguyện lớn,

Rộng mở cửa cam lồ

Chuyển pháp luân vô thượng.

Thế Tôn trí vô lượng

Nhận lời của mọi người,

Mà nói đủ các pháp:

Bốn đế, mười hai duyên

Vô minh đến già chết

Đều từ duyên mà có,

Những hoạn nạn như vậy

Các ông phải nên biết.

Lúc tuyên nói pháp này

Sáu trăm vạn ức số

Dứt sạch hết khổ não

Đều thành A-la-hán.

Thời thuyết pháp thứ hai.

Hàng vạn hằng sa chúng

Không chấp vào các pháp

Đều được A-la-hán.

Sau đó chứng đắc đạo

Số nhiều không thể lường,

Tính toán vạn ức kiếp

Cũng không thể kể hết.

Lúc mười sáu vương tử

Xuất gia làm Sa-di,

Đều cùng thỉnh Phật kia

Diễn thuyết pháp Đại thừa.

Chúng con và quyến thuộc

Đều sẽ thành Phật đạo.

Nguyện được như Thế Tôn

Tuệ nhãn sạch thứ nhất.

Phật biết lòng đồng tử

Việc làm của đời trước,

Dùng vô lượng nhân duyên

Đầy đủ các thí dụ,

Nói sáu Ba-la-mật

Và các việc thần thông,

Phân biệt pháp chân thật.

Việc làm của Bồ-tát

Thuyết giảng kinh Pháp Hoa.

Nói kệ hằng hà sa

Phật kia nói kinh rồi.

Vào tịnh thất nhập định

Nhất tâm ngồi một chỗ,

Tám vạn bốn ngàn kiếp

Các vị Sa-di này

Biết Phật chưa xuất định.

Vì vô lượng ức chúng

Nói trí Phật vô thượng,

Mỗi lần ngồi pháp tòa

Diễn thuyết kinh Đại thừa,

Sau khi Phật nhập đinh

Tuyên dương giảng giáo pháp,

Mỗi mỗi vị Sa-di

Đã độ các chúng sinh,

Có sáu trăm vạn ức

Hằng hà sa các chúng.

Sau khi Phật diệt độ

Các người nghe pháp đó,

Ở khắp nơi cõi Phật

Thường cùng sinh với Thầy.

Mười sáu Sa-di đó

Đầy đủ hạnh Phật đạo,

Nay hiện ở mười phương

Đều đã thành Chánh giác.

Bấy giờ người nghe pháp

Ở nơi chỗ Đức Phật.

Có người trụ Thanh văn

Dần dạy thành Phật đạo.

Ta ở số mười sáu

Từng vì các ông nói,

Cho nên dùng phương tiện

Dần vào nơi tuệ Phật.

Do nhân duyên xưa kia

Nên nay nói Pháp Hoa,

Khiến được vào Phật đạo

Cẩn thận chớ kinh sợ.

Ví như đường hiểm dữ

Xa vắng nhiều thú dữ,

Lại không có cỏ nước

Chốn mọi người lo sợ,

Vô số ngàn vạn chúng

Muốn qua đường hiểm này.

Đường đó rất hoang vắng

Dài năm trăm do-tuần.

Có một người hướng dẫn

Biết nhiều có trí tuệ

Sáng suốt lòng quyết định,

Nơi hiếm vượt các nạn

Mọi người đều mệt mỏi

Nói với người hướng dẫn:

Chúng tôi nay mệt mỏi

Nơi đây muốn trở về.

Người hướng dẫn nghĩ rằng:

Những người này đáng thương

Tại sao muốn trở về

Bỏ mất trân bảo lớn?

Liền nghĩ đến phương tiện

Thị hiện sức thần thông

Hóa làm thành quách lớn,

Nhà cửa rất sang trọng

Có vườn cây bao quanh,

Suối chảy và hồ tắm

Cửa lớn lầu gác cao,

Đầy đủ các nam nữ

Biến hóa thế đó rồi

An ủi chúng chớ sợ:

Các người vào thành này

Tùy ý được an lạc.

Mọi người vào thành rồi

Tâm được hoan hỷ lớn,

Đều sinh tưởng an ổn

Tự cho được thoát rồi.

Người dẫn đường bảo rằng:

Biết mọi người đã nghỉ

Các ông nên đi nữa

Đây là hóa thành thôi

Thấy các người mệt mỏi

Giữa đường muốn lui về

Cho nên dùng phương tiện

Quyền biên hóa thành này.

Các người hãy tinh tấn

Sẽ cũng đến bảo sở,

Ta cũng lại như vậy

Đạo Sư của tất cả

Thấy các người cầu đạo,

Giữa đường mà lùi bỏ

Không thể vượt sinh tử

Các đường hiểm, phiền não,

Cho nên dùng phương tiện

Vì nghỉ nói Niết-bàn

Nói các người diệt khổ

Chỗ làm đều đã xong,

Đã biết đến Niết-bàn

Đều đắc A-la-hán

Rổi mới họp đại chúng

Phân biệt nói ba thừa,

Chỉ có một Phật thừa

Chỗ nghỉ nên nói hai,

Nay vì ông nói thật

Ông đắc chưa phải diệt,

Vì Nhất thiết trí Phật

Nên dũng mãnh tinh tấn

Chứng được trí Nhất thiết,

Mười lực các Phật pháp.

Ba mươi hai tướng tốt

Mới là chân thật diệt.

Chư Phật là Đạo Sư

Vì nghỉ nói Niết-bàn,

Đã biết nghỉ ngơi rồi

Dần vào nơi tuệ Phật.

***

Phẩm 8: THỌ KÝ NĂM TRĂM ĐỆ TỬ

Bấy giờ Tôn giả Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử được nghe trí tuệ phương tiện tùy nghi nói pháp của Đức Thế Tôn, lại nghe Phật thọ ký cho các đại đệ tử thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nghe những việc nhân duyên đời trước, nghe chư Phật có sức thần thông, tự tại lớn nên tâm vui mừng thanh tịnh chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy sát chân rồi đứng qua một bên chăm chú chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Phật suy nghĩ: “Thế Tôn thật kỳ diệu, việc làm hiếm có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh của thế gian, dùng trí tuệ phương tiện để thuyết pháp cứu vớt chúng sinh ra khỏi tham đắm. Công đức của Phật chúng con không thể dùng lời nói để diễn tả được, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết chí nguyện trong thâm tâm của chúng con.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Các ông có thấy Tôn giả Phú-lâu-na không? Ta thường khen Tôn giả là bậc nhất trong hạng người thuyết pháp, đầy đủ các công đức, siêng năng, cần mẫn hộ trì giúp thêm việc tuyên dương chánh pháp của ta, có năng lực chỉ dạy, giáo hóa làm an vui cho bốn chúng, giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật đem lại nhiều lợi ích cho những người đồng phạm hạnh. Ngoài Đức Như Lai ra không ai có thể biết được tài biện luận của ông ấy. Các ông chớ cho rằng Phú-lâu-na chỉ tuyên dương chánh pháp của ta, mà ở nơi chín mươi ức Đức Phật quá khứ, trong những vị thuyết pháp thời ấy, Tôn giả cũng là người thuyết pháp bậc nhất, lại là vị thông suốt rõ ràng về pháp không của chư Phật đã nói, được bốn trí vô ngại thường hay nói pháp thanh tịnh, chính xác không có nghi lầm, đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát, tùy theo tuổi thọ mà thực hành phạm hạnh. Người ở thời Đức Phật kia đều cho rằng Tôn giả thật là Thanh văn, nhưng Phú-lâu-na dùng phương tiện này làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh, hóa độ vô số người làm cho họ đứng trong Tuệ giác vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ông vì muốn nghiêm tịnh cõi Phật nên thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh.

Này các Tỳ-kheo! Thời kỳ bảy Đức Phật, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp. Nay Hiền giả cũng đứng đầu trong những người thuyết pháp của ta. Trong hiền kiếp đương lai, Hiền giả cũng là người như vậy, đều hộ trì tuyên dương chánh pháp của Phật. Trong đời vị lai đều hộ trì việc tuyên dương chánh pháp của vô lượng, vô biên Đức Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong Tuệ giác vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để làm cõi Phật thanh tịnh nên thường siêng năng giáo hóa chúng sinh dần dần đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát.

Qua vô lượng, vô số kiếp, ở trong cõi này thành đạo Vô thượng Chánh đẵng Chánh giác hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật, Thế Tôn.

Đức Phật ấy lấy hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới làm thành cõi Phật, đất bằng bảy báu bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe, suối, rãnh, hang, lầu đài bằng bảy báu đầy trong cõi ấy. Cung điện của chư Thiên gần với hư không, người trời giao tiếp hai bên đều thấy được nhau không có đường ác, cũng không có người nữ, tất cả chúng sinh đều do hóa sinh, không có dâm dục, được thần thông lớn, thân phát ra ánh sáng, bay đi tự tại, tâm trí vững chắc, trí tuệ tinh tấn, tất cả thân sắc vàng ba mươi hai tướng để trang nghiêm. Chúng sinh trong nước đó thường dùng hai loại thức ăn: Một là Pháp hỷ thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng, vô số ngàn vạn ức chúng Bồ-tát được thần thông lớn và bốn trí vô ngại, có khả năng hoàn hảo để giáo hóa các loại chúng sinh. Chúng Thanh văn trong cõi ấy không thể tính đếm được, đều đạt đầy đủ sáu thông, ba minh, tám giải thoát, cõi Phật kia thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy, kiếp tên Bảo minh, nước tên Thiện tịnh, Phật kia sống lâu vô lượng, vô số kiếp, chánh pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bảy báu khắp cả nước ấy.

Bấy giờ muốn lặp lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Các Tỳ-kheo lắng nghe!

Đạo của Phật tử làm

Học đủ các phương tiện

Không thể nghĩ bàn được.

Biết chúng ưa pháp nhỏ

Mà sợ nơi trí lớn

Cho nên các Bồ-tát

Làm Thanh văn, Duyên giác,

Dùng vô số phương tiện

Giáo hóa cứu muôn loài

Tự nói là Thanh văn

Cách Phật đạo rất xa.

Độ thoát vô lượng chúng

Hoàn toàn được thành tựu

Tuy biếng nhác thích nhỏ

Nhưng dần sẽ thành Phật.

Trong ẩn hạnh Bồ-tát

Ngoài hiện tướng Thanh văn

Ít muốn chán sinh tử

Tư làm tịnh cõi Phật.

Chỉ bày có ba độc

Lại hiện tướng tà kiến

Đệ tử ta như vậy

Phương tiện độ chúng sinh.

Nếu ta nói đầy đủ

Các sự việc hiện hóa

Chúng sinh nếu có nghe

Liền sinh tâm nghi ngờ.

Hiền giả Phú-lâu-na

Xưa ở ngàn ức Phật

Siêng tu tập đạo hạnh

Hộ trì diễn chánh pháp.

Cầu trí Tuệ vô thượng

Mà ở chỗ chư Phật

Đứng đầu các đệ tử

Học rộng có trí tuệ.

Nói pháp không sợ sệt

Hay làm chúng vui mừng

Chưa từng có mệt mỏi

Để giúp làm Phật sự.

Đạt được thần thông lớn

Đủ bốn trí vô ngại

Biết căn tánh mọi người

Thường nói pháp thanh tịnh.

Diễn xướng nghĩa như vậy

Giáo hóa ngàn ức chúng

An trú pháp Đại thừa

Tự thanh tịnh cõi Phật.

Đời vị lai cúng dường

Vô lượng, vô số Phật

Hỗ trợ thuyết chánh pháp

Cũng làm tịnh cõi Phật.

Thường dùng các phương tiện

Nói pháp không sợ hãi

Độ chúng không thể lường

Đều thành Nhất thiết trí.

Cúng dường các Như Lai

Giữ gìn tạng pháp báu

Sau đó được thành Phật

Hiệu gọi là Pháp Minh.

Nước đó tên Thiện tịnh

Do bảy báu làm thành

Kiếp tên là Bảo minh

Chúng Bồ-tát rất nhiều.

Số lượng không thể lường

Đều được thần thông lớn

Sức oai đức đầy đủ

Khắp đầy cả nước đó.

Thanh văn cũng vô sô

Ba minh, tám giải thoát

Được bốn trí vô ngại

Các bậc này làm Tăng.

Chúng sinh trong cõi đó

Dâm dục đều đã đoạn

Chỉ do biến hóa sinh

Thân đầy đủ tướng tốt.

Pháp hỷ làm thức ăn

Không tưởng món ăn khác

Không có các người nữ

Đường ác dữ cũng không.

Tỳ-kheo Phú-lâu-na

Khi công đức viên mãn

Sẽ được tịnh độ này

Chúng Thánh hiền rất đông.

Vô lượng việc như thế

Ta nay chỉ lược nói.

Bấy giờ một ngàn hai trăm vị A-la-hán tâm đã tự tại suy nghĩ: “Chúng ta được sự vui mừng chưa từng có, nếu Thế Tôn thọ ký cho chúng ta như những đại đệ tử khác thì thật thích thú.” Phật biết tâm niệm của những vị này, bảo Tôn giả Đại Ca-diếp:

– Một ngàn hai trăm vị A-la-hán này, hôm nay ta sẽ lần lượt thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong chúng này, đệ tử lớn của ta là Tỳ-kheo Kiều-trần-như sẽ cúng dường sáu vạn hai ngàn ức Phật, sau đó mới thành Phật hiệu Phổ Minh Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thế, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Năm trăm vị A-la-hán khác như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Già-da-ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Châu-đà-sa, Già-đà… đều sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cùng một hiệu là Phổ Minh. Khi ấy muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ:

Tỳ-kheo Kiều-trần-như

Sẽ gặp vô lượng Phật

Qua a-tăng-kỳ kiếp

Mới thành Đẳng chánh giác.

Thường phóng ánh sáng lớn

Đầy đủ các thần thông

Danh tiếng khắp mười phương

Chúng sinh đều tôn kính.

Thường thuyết pháp Nhất thừa

Nên hiệu là Phổ Minh

Cõi đó rất thanh tịnh

Bồ-tát rất dũng mãnh.

Đều ở lầu các đẹp

Du hóa khắp mười phương

Dùng vật cúng tối thượng

Dâng lên các Đức Phật.

Việc cúng dường đã xong

Tâm được niềm vui lớn

Bằng thần thông như thế

Trở về nước mình ngay.

Phật sống sáu vạn kiếp

Chánh pháp trụ gấp đôi

Tượng pháp cũng như thế

Pháp diệt trời người lo.

Năm trăm Tỳ-kheo này

Lần lượt sẽ thành Phật

Đồng hiệu là Phổ Minh

Tuần tự mà thọ ký.

Sau khi ta diệt độ

Người nào được thành Phật

Thế gian người ấy độ

Cũng như ta ngày nay.

Có cõi nước thanh tịnh

Và các lực thần thông

Chúng Bồ-tát, Thanh văn

Chánh pháp và tượng pháp.

Kiếp sống nhiều hay ít

Đều như trên đã nói

Ca-diếp ông đã biết

Năm trăm vị tự tại.

Các chúng Thanh văn khác

Cũng sẽ được như vậy

Ai không có ở đây

Ông nên nói cho họ.

Bấy giờ, năm trăm vị A-la-hán được Phật thọ ký vui mừng hớn hở, từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy sát chân Phật, ăn năn hối lỗi, tự trách mình:

– Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ tự cho mình đã hoàn toàn diệt độ, như người vô trí, hôm nay mới biết. Vì sao? Lẽ ra chúng con phải đáng được trí tuệ của Như Lai thế nhưng mới được trí nhỏ mà tự cho là đủ.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người say rượu đến nhà bạn nằm, người bạn có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột vào vạt áo của anh ấy rồi đi. Người say không biết gì, khi tỉnh dậy, đến nước khác vì cơm áo mà phải gắng sức tìm cầu thật là khốn khổ, được chút ít mà cho là đủ. Sau đó tình cờ người bạn gặp lại nói: “Lạ thay này bạn, sao vì cơm áo mà đến nông nỗi này. Ngày trước tôi muốn anh được an vui tha hồ hưởng năm dục lạc nên ngày đó đã cột châu báu vào vạt áo của anh, nay vẫn còn mà anh không biết, lại phải cực khổ để tìm cầu sự sống, thật là dại dột. Anh nên đem ngọc báu này đổi lấy đồ cần dùng sẽ được sung sướng, không còn thiếu thốn.” Đức Phật cũng vậy, lúc còn làm Bồ-tát giáo hóa, làm cho chúng con phát tâm Nhất thiết trí mà chúng con bỏ quên không hay không biết, mới chứng A-la-hán mà cho diệt độ, cũng như khổ nhọc kiếm sống được chút ít mà cho là đủ, trong khi đó tâm nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chưa mất. Hôm nay Đức Thế Tôn thức tỉnh cho chúng con nên nói: “Này các Tỳ-kheo! Quả vị chứng đắc của các ông chưa phải là diệt độ hoàn toàn, từ lâu ta đã dạy cho các ông gieo trồng thiện căn của Phật nên dùng phương tiện thị hiện tướng Niết-bàn mà các ông đã cho thật sự được Niết-bàn.”

Bạch Đức Thế Tôn! Ngày nay chúng con mới biết mình thật là Bồ-tát được thọ ký sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó chúng con rất vui mừng chưa từng có. Bấy giờ, muốn lặp lại nghĩa trên A-nhã Kiều-trần-như và các vị A-la-hán nói kệ:

Âm thanh của Thế Tôn

An ủi thọ ký cho

Chúng con rất vui mừng

Lễ Phật trí vô lượng.

Hôm nay trước Thế Tôn

Tự sám hối lỗi lầm

Trong Phật bảo vô lượng

Được chút phần Niết-bàn.

Như người ngu không trí

Liền tự cho là đủ.

Ví như người nghèo cùng

Đi đến nhà bạn thân

Nhà ấy rất giàu có

Bày đủ các tiệc ngon

Đem châu báu vô giá

Cột vào trong vạt áo

Im lặng rồi bỏ đi

Người say ngủ không biết.

Khi ông ta thức dậy

Lang thang đến nước khác

Tự tìm cầu ăn mặc

Đời sống thật khó khăn,

Được ít cho là đủ

Không muốn gì hơn nữa

Chẳng biết bên trong áo

Có ngọc báu vô giá.

Người bạn cho ngọc quý

Về sau gặp bạn nghèo

Đã quở trách ông ấy

Chỉ châu trong vạt áo.

Người nghèo thấy của rồi

Trong lòng rất vui sướng

Giàu có nhiều của cải

Hưởng đầy đủ dục lạc.

Chúng con cũng như vậy

Đức Thế Tôn từ lâu

Luôn thương yêu dạy bảo

Gieo trồng nguyện Vô thượng.

Chúng con vì không trí

Nên không hay không biết

Được chút phần Niết-bàn

Tưởng đủ không cầu nữa.

Phật thức tỉnh chúng con

Dạy chẳng thật diệt độ

Chứng Tuệ giác vô thượng

Mới thật là diệt độ.

Con được nghe từ Phật

Lời thọ ký trang trọng

Và tuần tự thọ ký

Thâm tâm rất vui mừng.

***

Phẩm 9: THỌ KÝ BẬC HỮU HỌC, VÔ HỌC

Bấy giờ, Tôn giả A-nan và La-hầu-la suy nghĩ: “Chúng ta nếu được Phật thọ ký cho thì không gì vui bằng”, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt đều lễ sát chân Phật cùng thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con ở đây cũng đáng có phần, chỉ có Thế Tôn là chỗ nương tựa cho chúng con. Hơn nữa, tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la đều biết đến chúng con. Tôn giả A-nan thường làm thị giả và giữ gìn kho tàng chánh pháp của Như Lai. La-hầu-la là con của Phật, nếu được Phật thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho thì ước nguyện của chúng con được thỏa mãn mà niềm hy vọng của đại chúng cũng thành tựu. Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh văn Hữu học, Vô học, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải đến trước Phật chắp tay nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn như lời nguyện của Tôn giả A-nan và La-hầu-la, rồi đứng qua một bên.

Khi ấy, Phật bảo A-nan:

– Vào đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường và giữ gìn kho tàng chánh pháp của sáu mươi hai ức Đức Phật. Sau đó chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức hằng hà sa các Bồ-tát làm cho họ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nước tên Thường lập thắng phan, cõi đó sạch sẽ, đất bằng lưu ly, kiếp tên Diệu âm biến mãn. Đức Phật sống vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp. Nếu có người tính kể trong ngàn vạn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng không biết được. Chánh pháp trụ ở đời gấp đôi tuổi thọ, tượng pháp trụ đời gấp đôi chánh pháp.

Này A-nan! Đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương được vô lượng ngàn muôn ức hằng hà sa các Đức Như Lai trong mười phương cũng khen ngợi công đức của Ngài.

Khi ấy muốn lặp lại nghĩa này Thế Tôn nói kệ:

Ta tuyên bố giữa chúng

A-nan người trì pháp

Sẽ cúng dường chư Phật

Về sau thành Chánh giác.

Hiệu là Sơn Hải Tuệ

Tư Tại Thông Vương Phật

Cõi nước đó trong sạch

Tên thường Lập thắng phan.

Giáo hóa các Bồ-tát

Số nhiều như hằng sa

Phật có oai đức lớn

Danh tiếng khắp mười phương.

Sống lâu vô lượng kiếp

Vì thương yêu chúng sinh

Chánh pháp gấp tuổi thọ

Tượng pháp hơn chánh pháp.

Có vô số chúng sinh

Nhiều như cát sông Hằng

Ở trong pháp Phật ấy

Gieo nhân duyên Phật đạo.

Bấy giờ, trong hội có tám ngàn vị Bồ-tát mới phát tâm đều suy nghĩ: “Chúng ta còn chưa nghe các Đại Bồ-tát được thọ ký. Vì lý do gì mà các Thanh văn lại được thọ ký như vậy.”

Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ-tát Ngài bảo:

– Này thiện nam! Ta cùng với A-nan và các Thanh văn đã từng ở nơi Đức Phật Không Vương, đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan thường ưa học rộng còn ta luôn siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan giữ gìn chánh pháp giúp ta, cũng sẽ giữ gìn kho tàng chánh pháp của các Đức Phật tương lai, giáo hóa hoàn hảo các chúng Bồ-tát. Do bản nguyện như vậy cho nên A-nan được thọ ký, ở trước Đức Phật, được nghe Phật thọ ký cùng cõi nước trang nghiêm, điều nguyện cầu đã mãn.

Tôn giả A-nan rất vui sướng được điều chưa từng có. Ngay khi ấy, Tôn giả nghĩ đến kho tàng chánh pháp của vô lượng ngàn muôn ức các Đức Phật thuở quá khứ một cách thông suốt không ngần ngại như hiện đang được nghe và biết rõ bản nguyện của mình bèn nói kệ:

Thế Tôn rất hiếm có

Khiến con nhớ quá khứ

Vô lượng Pháp chư Phật

Như ngày nay được nghe.

Con không còn nghi ngờ

An trụ trong Phật đạo

Phương tiện làm thị giả

Giữ gìn pháp chư Phật.

Bấy giờ Phật bảo La-hầu-la:

– Ở đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, sẽ cúng dường các Đức Như Lai nhiều như số vi trần trong mười phương cõi Phật, thường làm trưởng tử của các Đức Phật cũng như ngày nay. Cõi nước Phật ấy trang nghiêm, số kiếp dài lâu giáo hóa đệ tử, chánh pháp, tượng pháp đều giống như Đức Như Lai Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương. Ông cũng làm trưởng tử của Phật này. Qua thời gian ấy sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy muốn lập lại nghĩa trên Thế Tôn nói kệ:

Khi ta làm Thái tử

La-hầu làm trưởng tử

Nay ta thành đạo

La-hầu làm Pháp tử.

Ở trong đời vị lai

Gặp vô lượng Đức Phật

Cũng đều làm trưởng tử

Nhất tâm cầu Phật đạo.

Mật hạnh của La-hầu

Chỉ ta có thể biết

Hiện làm trưởng tử ta

Để giáo hóa chúng sinh.

Công đức nhiều vô lượng

Không thể tính đếm được

An trụ trong Phật pháp

Để cầu đạo Vô thượng.

Bấy giờ, Thế Tôn thấy hai ngàn vị Hữu học và Vô học, tâm ý hòa dịu vắng lặng thanh tịnh nhất tâm chiêm ngưỡng Phật. Phật bảo A-nan:

– Ông thấy hai ngàn vị Hữu học, Vô học này không?

– Dạ thưa có!

Này A-nan! Những vị này sẽ cúng dường các Đức Như Lai nhiều như số vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính, tôn trọng, giữ gìn kho tàng chánh pháp của các Đức Phật ấy. Sau cùng, các vị ấy đều thành Phật ở các cõi nước khắp mười phương, đồng một hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ-tát, chánh pháp, tượng pháp đều giống nhau.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa này Đức Thế Tôn nói kệ:

Hai ngàn vị Thanh văn

Hôm nay ở trước ta

Được thọ ký tất cả

Vị lai sẽ thành Phật.

Cúng dường các Đức Phật

Như số bụi nói trên

Giữ gìn kho tàng Pháp

Sau sẽ thành Chánh giác.

Cõi nước khắp mười phương

Đều cùng một danh hiệu

Đồng ngồi một đạo tràng

Chứng Tuệ giác vô thượng.

Hiệu gọi là Bảo Tướng

Cõi nước và đệ tử

Chánh pháp cùng tượng pháp

Giống nhau không có khác.

Đều dùng sức thần thông

Giáo hóa chúng mười phương

Danh tiếng vang khắp nơi

Dần dần nhập Niết-bàn.

Khi nghe Phật thọ ký hai ngàn vị Hữu học, Vô học hoan hỷ phấn chấn nói kệ:

Thế Tôn đèn tuệ sáng

Con nghe tiếng thọ ký

Tâm vui mừng tràn đầy

Như được rưới cam lồ.

***

Phẩm 10: PHÁP SƯ

Khi ấy, Thế Tôn nhân nói với Bồ-tát Dược Vương, bảo tám vạn Đại sĩ:

– Này Dược Vương! Ông thấy trong đại chúng này có vô lượng hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-na-già, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hàng cầu Thanh văn, cầu Bích-chi-phật, cầu Phật đạo đủ hạng như vậy, đều ở trước ta nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ nghe một bài, một câu cho đến một niệm tùy hỷ, ta đều thọ ký cho chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này Dược Vương! Sau khi Như Lai diệt độ nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa dù chỉ nghe một bài, một câu cho đến một niệm tùy hỷ ta cũng thọ ký cho chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này dù chỉ một bài, đối với kinh này cung kính như Phật, cúng dường đủ các hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, dù lọng, tràng phân, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính.

Dược Vương nên biết! Những người này đã từng cúng dường mười vạn ức Phật và hoàn thành nguyện lớn, vì thương yêu chúng sinh mà sinh trong loài người.

Dược Vương! Nếu ai hỏi người nào vị lai sẽ làm Phật thì nên nói cho họ biết những người này vị lai chắc chắn làm Phật. Vì sao? Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh Pháp Hoa dù chỉ một câu, ghi nhận, đọc tụng, giảng nói, biên chép cúng dường kinh này bằng các loại chuỗi ngọc, vòng hoa, hương bột, hương xoa, hương đốt, dù, lọng tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng tôn thờ, đem các thứ hiến cúng Như Lai mà dâng cúng cho họ. Hãy nên biết, người này là vị Đại Bồ-tát sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương yêu chúng sinh mà sinh ra trong loài người để diễn nói kinh Pháp Hoa rộng rãi rõ ràng, huống nữa ghi nhận toàn bộ kinh và các thứ cúng dường.

Dược Vương nên biết! Người này đã bỏ nghiệp báo thanh tịnh. Sau khi ta diệt độ vì thương chúng sinh mà xuất hiện ở đời ác để rộng nói kinh này. Lại nữa, sau khi ta diệt độ nếu có thiện nam, thiện nữ nào riêng nói cho một người nghe kinh Pháp Hoa dù chỉ một câu phải nên biết người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai giao phó sự nghiệp của Ngài, huống nữa giữa đại chúng giảng thuyết kinh này cho mọi người.

Này Dược Vương! Nếu có người ác với tâm bất thiện trong một kiếp, hủy báng, mắng giết Phật thì tội ấy còn nhẹ. Nếu có người dùng lời nói ác hủy báng người tại gia hay xuất gia, đọc tụng kinh Pháp Hoa thì tội người đó rất nặng.

Này Dược Vương! Nếu có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, ông nên biết người ấy đùng trang phục của Như Lai mà trang sức cho mình, người ấy được Như Lai dùng vai mang vác. Người ấy đi đến đâu đều được mọi người hướng theo làm lễ, một lòng chắp tay, cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, dù lọng, tràng phan, y phục, thức ăn ngon, trổi âm nhạc, các vật cúng thượng hạng của chư Thiên đều đem dâng cúng cho người đó. Vì sao? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp nên chỉ nghe trong chốc lát cũng chứng trọn vẹn Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Nếu muốn vào Phật đạo

Thành tựu trí tự nhiên

Thường phải siêng cúng dường

Người trì kinh Pháp Hoa.

Nếu ai muốn mau được

Trí tuệ Nhất thiết chủng

Nếu thọ trì kinh này

Cúng dường người trì kinh.

Nếu người hay thọ trì

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Người ấy sứ giả Phật

Thương yêu các chúng sinh.

Những người hay thọ trì

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Rời bỏ cõi thanh tịnh

Thương chúng sinh cõi này

Nên biết người như vậy

Tư tại mà thọ sinh

Ở nơi cõi ác này

Giảng thuyết pháp Vô thượng.

Nên dùng hương hoa trời

Y phục báu chư Thiên

Những vật báu tốt đẹp

Dâng cúng người thuyết pháp.

Đời ác ta diệt độ

Nếu người trì kinh này

Phải chắp tay làm lễ

Như cúng dường Thế Tôn.

Thức ăn ngon hảo hạng

Và các thứ y phục

Cúng dường Phật tử đó

Chỉ nghe trong chốc lát.

Nếu người ở đời sau

Hay thọ trì kinh này

Ta bảo vào trong chúng

Làm việc của Như Lai.

Nếu ở trong một kiếp

Thường với tâm bất thiện

Giận dữ mà mắng Phật

Mắc vô lượng tội nặng.

Thấy có người đọc tụng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Chỉ dùng một lời mắng

Tội này hơn tội kia.

Có người cầu Phật đạo

Mà ở trong một kiếp

Chắp tay ở trước ta

Dùng vô số kệ khen.

Do duyên tán thán Phật

Được công đức vô lượng

Nếu khen người trì kinh

Phước đức càng hơn trước.

Trong tám vạn ức kiếp

Dùng năm thứ vi diệu

Sắc, thanh, hương, vị, xúc

Cúng dường người trì kinh.

Dâng cúng như vậy xong

Chỉ nghe trong chốc lát

Tự cảm nhận niềm vui

Ta nay được lợi lớn.

Dược Vương! Ta bảo ông

Các kinh ta đã nói

Trong số những kinh này

Pháp Hoa là bậc nhất.

Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Dược Vương:

– Vô lượng ngàn vạn ức kinh điển, ta đã nói, đang nói và sẽ nói mà ở trong đó kinh Pháp Hoa này rất là khó tin, khó hiểu. Dược Vương, kinh này là tạng bí yếu của các kinh, không thể tùy tiện giao phó cho người được, chư Phật Thế Tôn bảo hộ từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng. Đối với kính điển này hiện tại Như Lai còn bị nhiều oán ghét, huống là sau khi diệt độ.

Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, người nào đối với kinh điển này, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường thuyết giảng cho người, Như Lai liền lấy y mặc cho họ, lại được các Đức Phật hiện trú ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có khả năng tin tưởng vĩ đại, chí nguyện và các thiện căn, nên biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Đức Như Lai dùng tay xoa đầu.

Dược Vương! Bất cứ chỗ nào, nếu diễn nói, đọc tụng, giảng giải, ghi chép hoặc có quyển kinh này đều phải xây tháp bảy báu, cao rộng tráng lệ, chẳng cần tôn trí xá-lợi. Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân Như Lai, tháp này cần phải dùng tất cả các thứ hoa hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, cờ phướn, âm nhạc, ca tụng để cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Nếu có người thấy được tháp này lễ bái cúng dường phải biết rõ người này đều gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Dược Vương! Có nhiều người tại gia, xuất gia, hành đạo Bồ-tát mà không thấy, nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ-tát. Nếu có người thấy, nghe, đọc kinh này mới là khéo tu đạo của Bồ-tát. Chúng sinh nào cầu Phật đạo nếu thấy, nghe được kinh Pháp Hoa này, nghe rồi tin hiểu thọ trì, phải biết người này được gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Dược Vương! Ví như có người bị khát cần nước uống ở nơi vùng cao, khoan đào tìm nước, do thấy đất khô nên biết nước còn xa, gia công đào không ngừng, dần thấy đến lớp đất ướt, rồi lần lượt đến bùn, người ấy chắc chắn biết rằng đã gần có nước. Bồ-tát cũng như vậy, nếu chưa nghe chưa có thể tu tập kinh Pháp Hoa này, nên biết người ấy cách Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác còn xa. Nếu được nghe hiểu tư duy tu tập kinh này thì biết rằng gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì tất cả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Bồ-tát đều thuận kinh này. Kinh này mở môn phương tiện bày hướng chân thật. Tạng kinh Pháp Hoa này rất là sâu kín xa thẳm, không có người nào đến được, nay Phật muốn giáo hóa để thành tựu hàng Bồ-tát mà chỉ bày cho.

Dược Vương! Nếu có Bồ-tát nghe kinh Pháp Hoa này mà nghi ngờ, sợ sệt, nên biết đó là Bồ-tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh văn nghe kinh này mà nghi ngờ sợ sệt, nên biết đó là hạng tăng thượng mạn.

Dược Vương! Nếu có thiện nam, thiện nữ sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng nói kinh Pháp Hoa này nên nói như thế nào? Thiện nam, thiện nữ đó nên vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, khi ấy mới diễn thuyết kinh này cho bốn chúng. Nhà Như Lai chính là tâm Từ bi lớn đối với tất cả chúng sinh; y Như Lai chính là tâm nhu hòa, nhẫn nhục, tòa Như Lai chính là tất cả pháp không, an trụ như vậy rồi, sau đó bằng tâm không biếng nhác vì các Bồ-tát và bốn chúng thuyết giảng kinh Pháp Hoa này.

Dược Vương! Ta ở thế giới khác sai hóa nhân vì họ mà làm đến chúng nghe pháp, cũng sai hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến nghe người đó nói pháp. Các hàng hóa nhân này nghe pháp tin nhận thuận theo mà không trái nghịch. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, ta liền sai nhiều Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà , A-tu-la,… đến nghe người đó thuyết pháp. Ta dù ở thế giới khác nhưng lúc nào cũng luôn khiến người nói pháp thấy được than ta. Nếu đối với kinh này mà quên mất một câu ngắn, ta sẽ nói lại làm cho được đầy đủ.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa này Đức Thế Tôn nói kệ:

Muốn bỏ tánh lười biếng

Phải nên nghe kinh này

Kinh này khó được nghe

Người tin nhận cũng khó.

Như người khát cần nước

Khoan đào ở vùng cao

Vẫn thấy đất khô cứng

Biết cách nước còn xa

Lần thấy đất ướt bùn

Chắc chắn biết gần nước.

Dược Vương! Ông nên biết

Những hạng người như vậy

Không nghe kinh Pháp Hoa

Cách trí Phật rất xa,

Nghe kinh vi diệu này

Không còn pháp Thanh văn

Là vua trong các kinh

Nghe rồi suy nghĩ kỹ,

Phải nên biết người này

Gần đến trí tuệ Phật.

Nếu người nói kinh này

Nên vào nhà Như Lai

Mặc áo của Như Lai

Và ngồi tòa Như Lai

Giữa chúng không sợ hãi

Giảng thuyết rõ kinh này

Ở nhà đại Từ bi

Áo nhu hòa nhẫn nhục

Các pháp không làm tòa

Ở nơi ấy nói pháp.

Nếu lúc nói kinh này

Bị người miệng ác mắng

Dao gậy ngói đá đánh

Nhớ Phật nên phải nhẫn.

Ta ngàn vạn ức nước

Hiện thân sạch vững chắc

Nhiều vô lượng ức kiếp

Vì chúng sinh nói pháp.

Sau khi ta diệt độ

Người giảng thuyết kinh này

Ta sai hóa bốn chúng

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Và nam, nữ tịnh tín

Cúng dường nơi Pháp sư

Bậc dẫn đường chúng sinh

Nhóm chúng để nghe pháp

Nếu người muốn làm hại

Dao gậy và gạch ngói,

Liền sai người biến hóa

Hộ vệ cho Pháp sư

Nếu Pháp sư nói pháp

Một mình nơi vắng vẻ

Lặng lẽ không người nghe

Đọc giảng kinh điển này,

Thời ta liền thị hiện

Thân thanh tịnh sáng chói.

Nếu quên mất câu nào

Nhắc lại cho thông suốt.

Nếu người đủ phước đức

Hoặc nói cho bốn chúng

Đọc tụng kinh chỗ vắng

Đều được thấy thân ta.

Nếu ở nơi không người

Ta thời sai Long vương

Dạ-xoa, Quỷ thần thảy

Làm chúng đền nghe pháp.

Người đó thuyết giảng pháp

Lưu loát không ngần ngại

Chư Phật hộ niệm cho

Khiến đại chúng vui vẻ.

Nếu gần gũi Pháp sư

Mau được đạo Bồ-tát

Tùy thuận học Thầy này

Được thấy hằng sa Phật.

***

Phẩm 11: HIỆN BẢO THÁP

Bấy giờ, trước Đức Phật có tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, chu vi hai trăm năm mươi do-tuần từ dưới đất nhô lên đứng giữa hư không, tháp ấy trang hoàng đủ các thứ báu, có năm ngàn phòng nhỏ dọc theo hành lang và ngàn vạn vô số cờ phướn để trang hoàng, chuỗi ngọc báu rủ xuống, treo ngàn vạn ức linh báu, bốn phía đều thoang thoảng mùi hương chiên-đàn, tỏa khắp thế giới. Các cờ phướn dù lọng bằng bảy báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não và mai khôi cao đến cung trời Tứ Thiên vương. Trời Đao-lợi rưới hoa Mạn-đà-la để cúng dường tháp báu. Có ngàn vạn ức chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, A-tu-la, Ca-lầu-la, Nhân phi nhân đều dùng tất cả hương hoa, chuỗi ngọc, cờ phướn, dù lọng, âm nhạc để cúng dường cung kính; tôn trọng ngợi khen tháp báu. Khi ấy trong tháp báu vang ra âm thanh lớn, khen ngợi:

– Lành thay, lành thay! Đức Thích-ca Thế Tôn có thể dùng tuệ lớn bình đẳng giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho đại chúng Bồ-tát được chư Phật giữ gìn. Đúng thế, đúng thế! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn như lời Ngài nói đều chân thật!

Khi ấy bốn chúng thấy tháp báu lớn đứng trong hư không, lại nghe trong tháp vang ra tiếng nói đều được pháp hỷ kỳ lạ chưa từng có, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính đứng qua một bên. Bấy giờ, có Đại Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết biết được những nghi ngờ của Trời, Người, A-tu-la trong thế gian nên bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có tháp báu từ dưới đất nhô lên, lại ở trong tháp vang ra âm thanh như vậy?

Phật bảo Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết:

– Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai. Về quá khứ ở phương Đông, cách đây vô lượng ngàn muôn ức vô số cõi nước có quốc độ tên Bảo tịnh, trong nước ấy có Phật hiệu Đa Bảo. Phật ấy khi còn hành Bồ-tát đạo đã phát lời nguyện lớn: “Nếu ta được thành Phật, sau khi ta diệt độ, cõi nước mười phương khắp nơi nào có nói kinh Pháp Hoa thì bảo tháp của Như Lai sẽ xuất hiện nơi ấy để nghe kinh làm chứng, khen ngợi: Lành thay!”

Đức Phật thành đạo rồi, ở giữa đại chúng trời người tuyên bố: “Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân của ta nên dựng tháp lớn.”

Đức Phật, dùng nguyện lực thần thông, khắp mười phương thế giới, nếu chỗ nào có người nói kinh Pháp Hoa thì tháp báu hiện ra trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen ngợi: “Lành thay, lành thay!”

Này Đại Nhạo Thuyết! Hôm nay tháp của Đức Đa Bảo Như Lai vì nghe kinh Pháp Hoa mà từ dưới đất nhô lên khen ngợi: “Lành thay, lành thay!”

Khi ấy Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết nhờ thần lực Như Lai mà bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn được thấy than Phật Đa Bảo.

Phật bảo Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết:

– Đức Phật Đa Bảo có thệ nguyện rất vĩ đại: “Nếu bảo tháp ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra trước các Đức Phật, có Phật nào muốn đem than ta chỉ bày cho bốn chúng, thì phân than của các Đức Phật kia đang nói pháp ở các thế giới khắp mười phương đều phải nhóm lại thành một chỗ thời sau đó thân ta mới hiện ra.”

Này Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân đang nói pháp ở khắp thế giới mười phương hôm nay sẽ nhóm lại.

Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn được thấy các vị Phật của Đức Thế Tôn phân thân để đảnh lễ cúng dường.

Khi ấy Phật phóng luồng ánh sáng của tướng lông trắng giữa chân mày liền thấy ở phương Đông có năm trăm muôn ức hằng hà sa cõi chư Phật. Các cõi nước ấy đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu dùng để trang nghiêm vô số ngàn vạn ức Bồ-tát đầy trong ấy, khắp nơi giăng màn báu, lưới báu che lên. Đức Phật cõi ấy dùng âm thanh vi diệu để thuyết pháp và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ-tát đầy khắp trong cõi nước thuyết pháp cho chúng sinh. Ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới tướng lông trắng của Phật cũng chiếu đến như vậy. Khi ấy các Phật ở mười phương bảo chúng Bồ-tát:

– Này thiện nam! Hôm nay ta phải đến thế giới Ta-bà chỗ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni để cúng đường tháp báu của Đức Đa Bảo Như Lai.

Bấy giờ thế giới Ta-bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm vàng ròng làm dây để phân ranh giới làm tám đường, không có các thôn xóm, làng mạc, phố phường, biển cả, song ngòi, núi khe, rừng rậm, đốt các hương báu, hoa Mạn-đà-la rải khắp mặt đất, dùng lưới và trướng báu giăng lên và treo các linh báu, chỉ giữ lại chúng hội này, còn trời, người đều dời đến cõi khác. Khi ấy các Đức Phật, mỗi vị đem theo một vị Bồ-tát làm thị giả cùng qua thế giới Ta-bà đến bên cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá hoa trái đều trang nghiêm. Dưới mỗi cây báu đều có tòa Sư tử cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các loại báu.

Khi ấy các Đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa này, cứ như thế lần lượt ở khắp cả tam thiên đại thiên thế giới mà phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni trong một phương vẫn chưa hết. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn dung nạp các vị Phật đã phân thân ở tám phương nên đã biến thành hai trăm ức na-do-tha cõi Phật đều sạch sẽ không có địa ngục, nga quỷ, súc sinh và A-tu-la, lại dời các trời người đến ở quốc độ khác. Cõi nước Ngài biến hóa cũng đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá, bông trái đều tươi tốt, dưới cây đều có tòa báu Sư tử, cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các loại báu, những cõi nước đó không có biển cả, sông ngòi và các núi lớn. Mục-chân-lân-đà, Đại-mục-chân-lân-đà, Thiết vi, Đại thiết vi, Tu-di thông thành một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các vật báu xen lẫn nhau làm thành màn che khắp lên trên, treo các cờ lọng, đốt các hương báu, hoa trời rải khắp trên đất.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì các Đức Phật sắp đến ngồi nơi tòa, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm vạn ức na-do-tha cõi nước đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la, lại dời trời người đến ở chỗ khác. Những cõi nước biến hóa ra đó đều đất bằng lưu ly, châu báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá, hoa, trái tốt tươi, dưới cây đều có tòa Sư tử bằng báu cao năm do-tuần và được trang hoàng bằng các báu, cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn như: Mục-chân-lân-đà, Đại mục-chân-lân-đà, Thiết vi, Đại thiết vi, Tu-di… thông thành một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các vật báu xen lẫn nhau làm thành màn che khắp lên trên, treo các cờ lọng, đốt hương báu, hoa trời rải khắp trên đất.

Bấy giờ, ở phương Đông các Đức Phật của Đức Thích-ca phân thân ra nói pháp trong năm ngàn muôn ức na-do-tha cõi nước đều đến nhóm họp ở cõi này, tuần tự như thế các Đức Phật trong mười phương đều đến tụ tập ngồi ở tám phương. Mỗi một phương các Đức Phật ngồi khắp trong bốn trăm vạn ức na-do-tha cõi nước, các Đức Phật Như Lai khắp đầy trong đó.

Khi ấy các Đức Phật đều ngồi tòa Sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả mang hoa báu đến thăm hỏi Đức Thích-ca Mâu-ni và dặn:

– Này thiện nam! Ông hãy đến núi Kỳ-xà-quật nơi Đức Thích-ca Mâu-ni theo như lời của ta mà thưa: “Như Lai ít bệnh, ít khổ, sức khỏe có tốt không? Chúng Bồ-tát, Thanh văn có an ổn không?” Rồi đem hoa báu này tung lên cúng dường Đức Phật mà thưa: “Đức Phật kia muốn mở tháp báu này”. Tất cả Đức Phật đều sai thị giả đến làm như vậy.

Bấy giờ Đức Thích-ca Mâu-ni thấy các Đức Phật phân thân của mình đã đến tụ họp và an toàn nơi tòa Sư tử; đều nghe các vị Phật cùng muốn mở tháp báu. Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả bốn chúng đứng dậy chắp tay nhất tâm chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật dùng tay phải mở cửa tháp bảy báu, vang ra âm thanh lớn như tháo khoá chốt mở cửa thành lớn. Khi ấy tất cả chúng hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai an tọa trên tòa Sư tử trong tháp báu, toàn thân nguyên vẹn như nhập thiền định, lại nghe Đức Đa Bảo nói:

– Lành thay, lành thay! Đức Thích-ca Mâu-ni thích giảng kinh Pháp Hoa; ta vì muốn nghe kinh này mà đến đây.

Tất cả bốn chúng đều thấy Đức Phật đã diệt độ từ vô lượng ngàn ức kiếp trong quá khứ nói lời như thế, mọi người đều khen việc chưa từng có, dùng hoa trời tung lên Đức Phật Đa Bảo và Đức Thích-ca Mâu-ni.

Bấy giờ, Đức Đa Bảo ở trong tháp báu chia nửa tòa cho Đức Thích-ca Mâu-ni và nói rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni hãy ngồi lên tòa này”. Tức thì Phật Thích-ca Mâu-ni vào trong tháp báu ngồi kiết già trên nửa tòa đó.

Đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa Sư tử trong tháp báu, đều suy nghĩ: “Chỗ Phật ngồi cao quá, nguyện xin Đức Như Lai dùng thần lực khiến cho chúng con đều được ở trên hư không.” Bấy giờ, bằng năng lực thần thông vĩ đại, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni tiếp đưa đại chúng lên hư không và bằng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng:

– Trong cõi Ta-bà này ai có thể giảng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa? Nay đã đúng thời, chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Niết-bàn. Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho những người hiện diện.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Thánh chúa Thế Tôn

Tuy diệt độ lâu

Ở trong bảo tháp

Vì pháp mà đến.

Các ông vì sao

Không siêng học pháp?

Phật này diệt độ

Đã vô sô kiếp,

Khắp nơi nghe pháp

Do pháp khó gặp

Bản nguyện Phật kia

Sau khi diệt độ

Ở khắp mọi nơi

Thường vì nghe pháp.

Ta lại phân thân

Vô lượng chư Phật

Nhiều như hằng sa

Muốn đến nghe pháp.

Và thấy Đức Phật

Đa Bảo diệt độ

Xả bỏ cõi tịnh

Và chúng đệ tử

Trời, Người, Long, Thần

Các việc cúng dường

Muốn pháp trụ lâu

Cho nên đến nay

Vì chỗ Phật ngồi.

Nên dùng thần lực

Dời vô số chúng

Thanh tịnh cõi nước,

Mỗi mỗi chư Phật

Đến dưới cây báu

Trông như hoa sen

Làm đẹp hồ sạch.

Dưới mỗi cây báu

Có tòa Sư tử

Phật ngồi trên tòa

Ánh sáng rực rỡ

Như giữa đêm tối

Đốt ngọn đèn lớn.

Thân thoảng hương thơm

Khắp mười phương cõi

Chúng sinh xông hương

Vui mừng không xiết.

Ví như gió lớn

Thổi nhánh cây nhỏ

Dùng các phương tiện

Để pháp trụ lâu.

Bảo với đại chúng

Khi ta diệt độ

Người nào hộ trì

Đọc giảng kinh này

Nay ở nước Phật

Tự nói lời nguyện.

Phật Đa Bảo kia

Tuy diệt độ lâu

Vì thệ nguyện lớn

Gầm tiếng Sư tử.

Đức Phật Đa Bảo

Cùng với thân ta

Và các Hóa thân

Biết được ý này.

Các đệ tử Phật

Người nào hộ pháp

Nên phát đại nguyện

Khiến pháp trụ lâu,

Người ấy có thể

Hộ trì kinh này

Thì đã cúng dường

Ta và Đa Bảo.

Đức Phật Đa Bảo

Ở trong tháp báu

Du hóa mười phương

Vì nghe kinh này,

Cũng lại cúng dường

Hóa thân chư Phật,

Ánh sáng rực rỡ

Khắp các thế giới.

Người nói kinh này

Tức là thấy ta

Cùng Phật Đa Bảo

Và Phật hóa thân.

Này thiện nam nữ!

Hãy suy nghĩ kỹ

Việc này là khó

Nên phát nguyện lớn.

Các kinh điển khác

Số như hằng sa

Dù đã nói hết

Chưa phải là khó.

Đem núi Tu-di

Ném qua phương khác

Cách vô số cõi

Cũng chưa là khó.

Nếu dùng ngón chân

Hất cõi đại thiên

Văng xa cõi nước

Cũng chưa là khó.

Tận trời Hữu đảnh

Vì chúng thuyết pháp

Vô lượng kinh khác

Cũng chưa là khó.

Sau Phật diệt độ

Ở trong đời ác

Nói được kinh này

Thì mới là khó.

Giả sứ có người

Tay nắm hư không

Dạo đi khắp nơi

Chưa phải là khó.

Khi ta diệt độ

Tự chép ấn hành

Hoặc bảo người khác

Đây mới là khó.

Đem cả địa cầu

Đặt trên móng chân

Bay đến Phạm thiên

Cũng chưa là khó.

Sau Phật diệt độ

Ở trong đời ác

Đọc tụng kinh này

Đây mới là khó.

Gánh vác cỏ khô

Vào trong kiếp thiêu

Mà không bị cháy

Cũng chưa là khó.

Sau ta diệt độ

Nếu trì kinh này

Nói cho một người

Đây mới là khó.

Nếu trì tạng pháp

Hết tám vạn tư

Vì người diễn thuyết

Mười hai bộ kinh

Làm cho người nghe

Được sáu thần thông

Tuy được như vậy

Cũng là chưa khó.

Khi ta diệt độ

Lắng nghe tiếp nhận

Hỏi thấu nghĩa kinh

Đây mới là khó.

Có người thuyết pháp

Làm cho ngàn vạn

Vô lượng, vô số

Hằng sa chúng sinh

Được A-la-hán

Đủ sáu thần thông

Tuy được lợi ích

Chưa phải là khó.

Sau ta diệt độ

Nếu ai phụng trì

Theo kinh điển này

Thì mới là khó.

Ta vì Phật đạo

Trong vô lượng cõi

Từ xưa đến nay

Giảng thuyết các kinh,

Trong số kinh đó

Kinh này số một.

Có người thọ trì

Giữ được thân ta.

Các thiện nam tử!

Khi ta diệt độ

Người nào thọ trì

Đọc tụng kinh này

Đang ở trước Phật,

Hãy phát lời thề.

Kinh này khó giữ

Người nào tạm giữ

Ta rất vui mừng

Chư Phật cũng vậy.

Những ai như thế.

Được Phật khen ngợi

Là người dũng mãnh,

Là người tinh tấn,

Là người trì giới,

Tu hành Đầu-đà,

Mau chóng chứng được

Đạo quả Vô thượng

Người trong đời sau

Đọc tụng kinh này

Phật tử chân chánh

Là bậc thuần thiện.

Khi Phật diệt độ

Người hiểu kinh này

Là mắt thế gian

Và của trời người.

Trong đời khiếp sợ

Nói kinh chốc lát

Tất cả trời, người

Đều nên cúng dường.

Khi ấy Phật bảo Bồ-tát và bốn chúng trời người:

– Ta ở trong vô lượng kiếp về quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không biếng nhác, ở trong nhiều kiếp thường làm Pháp vương phát nguyện cầu Vô thượng Bồ-đề, tâm không thoái chuyển vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, chuyên cần hành trì bố thí, tâm không luyến tiếc; bố thí voi ngựa, bảy báu, quốc thành vợ con, kẻ hầu hạ, đầu, mắt, tuỷ, não, thân thể, tay chân không tiếc thân mạng. Thuở ấy dân chúng sống lâu vô lượng, quốc vương vì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, giao việc cai trị cho thái tử, đánh trống truyền lệnh cầu chánh pháp khắp nơi: “Nếu ai có thể nói được pháp Đại thừa cho ta thì ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ.”

Khi ấy có vị Tiên nhân đến tâu vua:

– Tôi có pháp Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đại vương không trái ý tôi, tôi sẽ giảng thuyết.

Vua nghe lời nói này vui mừng, hớn hở theo vị Tiên nhân cung cấp hầu hạ, hái trái, gánh nước, bửa củi, nấu ăn cho đến lấy than làm giường nằm, mà thân tâm không mệt mỏi. Quốc vương phụng sự như vậy đến cả ngàn năm vì cầu chánh pháp mà siêng năng hầu hạ không thiếu sót.

Bấy giờ, muốn tuyên lại nghĩa trên nên Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta nhớ đời quá khứ

Vì cầu pháp Đại thừa

Tuy làm vua ở đời

Không tham đắm năm dục.

Đánh chuông trống bốn phương

Ai có pháp Đại thừa

Nếu giảng nói cho ta

Thì ta sẽ hầu hạ.

Khi ấy có vị Tiên

Đến tâu với vua rằng

Tôi có pháp vi diệu

Thế gian rất hiếm có,

Nếu người nào tu hành

Ta sẽ giảng thuyết cho.

Khi vua nghe Tiên nói

Lòng rất đỗi vui mừng

Liền theo vị Tiên ấy

Cung cấp việc phải làm.

Đốn củi và hái trái

Tùy thời mà cung kính,

Vì cầu pháp Đại thừa

Thân tâm không mỏi mệt.

Khắp vì các chúng sinh

Chuyên cần cầu pháp lớn

Cũng không vì thân mình

Mà vui thích dục lạc.

Nên dù làm quốc vương

Vẫn siêng cầu đạo pháp,

Mong đạt được Phật đạo

Hôm nay nói cho ông.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Quốc vương ấy chính là thân ta, vị Tiên nhân lúc ấy, nay là Đề-bà-đạt-đa. Nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật Từ, Bi, Hỷ, Xả, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân sắc vàng tía, mười Trí lực, bốn pháp Vô úy, bốn Nhiếp pháp, mười tám pháp Bất cộng, đạo lực thần thông, thành bậc Chánh giác, độ khắp chúng sinh, tất cả công đức ấy đều nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa cả.

Đức Phật bảo với bốn chúng:

– Qua vô lượng kiếp về sau, Đề-bà-đạt-đa sẽ được thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Cõi nước tên Thiên đạo, Phật Thiên Vương sống ở đời hai mươi trung kiếp, thuyết giảng Diệu pháp cho khắp chúng sinh, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng hà sa chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được pháp Vô sinh pháp nhẫn không thoái chuyển.

Sau khi Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ đời hai mươi trung kiếp, dựng tháp bảy báu thờ xá-lợi Phật, tháp cao sáu mươi do-tuần, chu vi bốn mươi do-tuần. Trời người đều dung các thứ hoa, hương xoa, hương đốt, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, dù lọng, âm nhạc để ca ngợi, đảnh lễ cúng dường tháp bảy báu ấy. Vô lượng chúng sinh được A-la-hán, vô lượng chúng sinh giác ngộ Bích-chi-phật. Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề đến bậc không thoái chuyển.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Trong đời vị lai nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, nghe rồi tâm cung kính không còn nghi ngờ thì sẽ không rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, được sinh ở trước các Đức Phật trong mười phương, nơi người ấy sinh ra thường được nghe kinh Pháp Hoa. Nếu được sinh vào trời người, hưởng được an vui tột bực. Nếu sinh ở trước Phật thì từ hoa sen hóa sinh.

Khi ấy ở phương dưới, Bồ-tát theo hầu Phật Đa Bảo tên là Trí Tích bạch với Phật Đa Bảo:

– Xin Như Lai nên trở về chỗ ở.

Đức Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Trí Tích:

– Này thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát, ở đây có Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hãy gặp nhau để bàn luận về nghĩa vi diệu này, rồi mới trở về chỗ ở.

Bấy giờ Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi ngồi hoa sen ngàn cánh lớn như bánh xe, các Bồ-tát ấy đến cùng ngồi hoa sen từ nơi cung rồng Ta-kiệt-la trong biển lớn tự nhiên vọt lên, trụ giữa hư không đến núi Linh Thứu từ nơi hoa sen bước xuống đến cung kính đảnh lễ sát chân hai vị Thế Tôn, làm lễ xong đến chỗ Bồ-tát Trí Tích ân cần thăm hỏi ngồi qua một bên.

Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Nhân giả qua đến cung rồng đã hóa độ được bao nhiêu chúng sinh?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải dùng miệng để nói, chẳng thể dùng tâm để lường được, nhân giả hãy đợi trong chốc lát sẽ chứng biết.

Bồ-tát Văn-thù chưa nói dứt lời, vô số Bồ-tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát này đều do Bồ-tát Văn-thù hóa độ, đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát đều cùng nói sáu pháp Ba-la-mật. Những người trước kia là Thanh văn ở trong hư không nói hạnh Thanh văn thì hôm nay đều tu hành nghĩa không của Đại thừa.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ-tát Trí Tích:

– Sự giáo hóa của tôi ở trong biển là như vậy.

Khi ấy Bồ-tát Trí Tích dùng kệ khen ngợi:

Bậc trí đức mạnh mẽ

Hóa độ vô lượng chúng.

Ở trong hội chúng này

Và ta đều đã thấy.

Diễn nói nghĩa thật tướng

Mở bày pháp nhất thừa,

Độ khắp các chúng sinh

Mau chóng thành Phật đạo.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói:

– Ta ở trong biển chỉ thường thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Bồ-tát Trí Tích hỏi Bồ-tát Văn-thù:

– Kinh này sâu xa rất vi diệu, quý báu nhất trong các kinh ở dời rất hiếm có. Nếu có chúng sinh siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau thành Phật không?

Văn-thù-sư-lợi đáp:

– Có con gái vua rồng Ta-kiệt-la mới tám tuổi có trí tuệ sáng suốt biết được hoàn toàn hạnh nghiệp, căn tánh của chúng sinh được pháp Tổng trì, thuyết giảng tạng bí mật thâm sâu của chư Phật, đều có thể thọ trì, thâm nhập vào Thiền định hiểu rõ các pháp, trong một sát-na phát tâm Bồ-đề đều chứng đắc quả vị không thoái chuyển, biện tài vô ngại, thương yêu chúng sinh như con một đầy đủ công đức, tâm nghĩ, miệng giảng pháp nhiệm mầu rộng khắp, Từ bi nhân ái, tánh tình hòa nhã, cô ấy có thể chứng được quả Bồ-đề.

Bồ-tát Trí Tích nói:

– Tôi thấy Đức Phật Thích-ca ở trong vô lượng kiếp làm những việc khó làm, tích lũy công đức, cầu đạo Bồ-đề chưa từng dừng nghỉ, quán sát tam thiên đại thiên thế giới dù chỉ bằng một hạt cải cũng là nơi Bồ-tát xả bỏ mạng để cứu độ chúng sinh, sau đó mới thành đạo Bồ-đề. Tôi chẳng tin Long nữ chỉ trong chốc lát mà chứng thành Chánh giác.

Luận bàn chưa xong bỗng nhiên Long nữ này hiện ra trước cúi đầu đảnh lễ Đức Phật đứng qua một bên nói kệ khen ngợi:

Thông suốt tướng tội phước

Chiếu khắp cả mười phương,

Pháp thân tịnh vi diệu

Đầy đủ ba hai tướng,

Dùng tám mươi vẻ đẹp

Để trang nghiêm Pháp thân,

Trời, Người và Long Thần

Tất cả đều cung kính.

Hết thảy các chúng sinh

Ai cũng đều tôn kính,

Lại nghe chứng đạo quả

Chỉ Phật mới biết được.

Tôi nói pháp Đại thừa

Giải thoát khổ chúng sinh.

Bấy giờ Xá-lợi-phất bảo Long nữ:

– Ngươi nói chẳng bao lâu chứng đạo Vô thượng việc ấy khó tin. Vì sao? Vì thân người nữ dơ uế chẳng phải pháp khí, làm sao có thể được Vô thượng Bồ-đề? Phật đạo cao xa, phải trải qua vô lượng kiếp chuyên cần khổ nhọc tích chứa công hạnh tu tập các pháp Ba-la-mật, sau đó mới thành được. Lại nữa thân nữ còn có năm điều chướng ngại không được làm vị Phạm thiên, Đế Thích, Ma vương, Chuyển luân thánh vương và không được làm Phật. Làm sao nói thân nữ mau được thành Phật?

Khi ấy, Long nữ có một viên ngọc quý, giá trị bằng tam thiên đại thiên thế giới dâng lên Đức Phật, Ngài liền nhận. Long nữ nói với Bồ-tát Trí Tích và Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Con dâng cúng ngọc quý, Thế Tôn đã nhận việc này có mau không?

– Rất mau!

Long nữ thưa:

– Các vị dùng thần lực xem việc thành Phật của con còn mau hơn việc ấy.

Ngay lúc đó cả hội đều thấy Long nữ bỗng nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát bay qua cõi Vô cấu ở phương Nam, ngồi hoa sen báu thành bậc Chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, diễn thuyết chánh pháp cho tất cả chúng sinh trong mười phương. Khi ấy cõi Ta-bà hàng Bồ-tát, Thanh văn, Trời, Rồng, tám bộ chúng và Phi nhân từ xa thấy Long nữ thành Phật và nói pháp cho hàng trời, người trong chúng hội đó, tâm họ vui mừng từ xa cung kính đảnh lễ. Vô lượng chúng sinh nghe pháp đều ngộ, được quả vị không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Cõi nước Vô cấu chấn động sáu cách. Ở cõi Ta-bà ba ngàn chúng sinh an trú nơi quả vị không thoái chuyển. Ba ngàn chúng sinh phát tâm Bồ-đề và được thọ ký. Bồ-tát Trí Tích, Tôn giả Xá-lợi-phất và tất cả chúng hội im lặng tin nhận.

***

Phẩm 12: KHUYẾN TRÌ

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Dược Vương và Đại Bồ-tát Đại Nhạo Thuyết cùng với hai vạn Bồ-tát quyến thuộc đều đến trước phát lời nguyện:

– Kính xin Thế Tôn đừng lo lắng. Sau khi Đức Phật diệt độ chúng con sẽ phụng trì đọc tụng, diễn nói kinh điển. Vào đời ác sau này chúng sinh căn lành kém cỏi, nhiều kẻ tăng thượng mạn, tham lợi dưỡng cúng dường tăng thêm bất thiện, xa lìa đạo giải thoát, mặc dù khó giáo hóa nhưng chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn lớn để đọc tụng, thọ trì, giảng nói, biên chép hiến cúng đầy đủ kinh này chẳng tiếc thân mạng.

Bấy giờ trong chúng có năm trăm vị A-la-hán được thọ ký đồng thanh bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn chúng con đều phát nguyện. Ở các cõi khác cũng giảng thuyết kinh này.

Lại có hàng Hữu học, Vô học tám ngàn người đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Phật liền phát nguyện:

– Bạch Thế Tôn chúng con sẽ ở cõi khác giảng thuyết kinh này. Vì sao? Vì người trong cõi Ta-bà có nhiều điều xấu ác, có tăng thượng mạn, công đức mỏng manh, giận hờn, dua nịnh, tâm không chân thật.

Lúc ấy dì của Phật là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với sáu ngàn người Tỳ-kheo-ni Hữu học, Vô học từ chỗ ngồi đứng dậy nhất tâm chắp tay chăm chú chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật. Đức Thế Tôn bảo Kiều-đàm-di:

– Cớ sao nhìn Như Lai với vẻ ưu tư như vậy? Và nghĩ rằng: “Như Lai đã không nhắc đến tên Hiền giả để thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sao?”

Này Kiều-đàm-di! Trước đây Như Lai đã nói tổng quát tất cả hàng Thanh văn đều được thọ ký. Hôm nay, Hiền giả muốn biết việc thọ ký ấy thì trong đời tương lai trong pháp hội của sáu vạn tám ngàn ức Đức Phật, Hiền giả sẽ làm vị đại Pháp sư và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học đều làm Pháp sư như vậy. Dần dần đủ đạo hạnh Bồ-tát, Hiền giả sẽ làm Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này Kiều-đàm-di! Đức Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến và sáu ngàn Bồ-tát sẽ tuần tự thọ ký thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, thân mẫu La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-1a nghĩ: “Trong sự thọ ký này sao lại không nói đến tên ta”.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la:

– Vào đời sau trong pháp hội của năm trăm vạn ức chư Phật, Hiền giả sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm vị Đại Pháp sư dần đần đầy đủ Phật đạo ở trong cõi Thiện quốc thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai. Đức Phật đó sống lâu vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.

Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Tỳ-kheo-ni Gia-thâu-đà-la cùng với quyến thuộc đều rất vui mừng được điều chưa từng có, ở trước Phật nói kệ:

Thế Tôn Đạo Sư

An ổn trời người.

Chúng con được nghe,

Thọ ký an vui.

Nói kệ xong các Tỳ-kheo-ni bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể ở cõi nước khác thuyết giảng kinh này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn thấy tám mươi vạn ức na-do-tha các Đại Bồ-tát, những vị đó đều là bậc không thoái chuyển, có thể chuyển pháp luân không thoái được các pháp Tổng trì. Họ từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật nhất tâm chắp tay suy nghĩ: “Nếu Đức Thế Tôn khuyên bảo chúng ta giảng thuyết, giữ gìn kinh này thì chúng ta sẽ đúng như lời Đức Thế Tôn mà giảng thuyết kinh ấy.” Lại suy nghĩ: “Hôm nay Đức Thế Tôn im lặng mà chẳng dạy bảo, chúng ta phải làm sao?”

Khi ấy các vị Bồ-tát thuận theo ý của Phật và muốn hoàn thành bản nguyện của mình nên ở trước Phật rống lên tiếng rống Sư tử phát nguyện:

– Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ chúng con đi khắp thế giới mười phương, khiến cho chúng sinh biên chép kinh này thọ trì, đọc tụng, giảng nói ý nghĩa của kinh đúng như pháp tu hành, nhớ nghĩ đúng đắn như thế đều nhờ uy lực của Phật. Nguyện xin Thế Tôn dù ở phương xa vẫn chiếu cố che chở cho chúng con.

Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên các Bồ-tát đồng thanh nói:

Cúi xin Phật chớ lo

Sau khi Phật diệt độ

Trong đời ác ghê sợ

Chúng con sẽ giảng thuyết.

Có những người vô trí

Dùng lời ác mắng chửi

Và dao gậy đánh đập

Chúng con đều nhẫn nhục.

Tỳ-kheo trong đời ác

Trí tà tâm đua nịnh

Chưa chứng cho là chứng

Tâm ngã mạn đầy dẫy.

Hoặc ở A-lan-nhã,

Chỗ vắng mặc áo lượm,

Tự cho hành chân đạo

Khinh rẻ người thế gian.

Vì tham đắm lợi dưỡng,

Nói pháp cho bạch y,

Được người đời cung kính,

Như sáu thông La-hán.

Người này lòng thật ác,

Thường nghĩ việc thế tục,

Giả danh A-lan-nhã

Ưa nói lỗi chúng con.

Mà nói như thế này:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,

Vì tham đắm lợi dưỡng,

Luận thuyết nghĩa ngoại đạo.

Tư tạo kinh điển này,

Lừa dối người thế gian,

Vì muốn cầu danh tiếng

Mà phân biệt kinh này.

Thường ở trong đại chúng

Mà hủy phá chúng con,

Đến quốc vương, đại thần

Bà-la-môn, Cư sĩ.

Và chúng Tỳ-kheo khác,

Chê bai mắng xấu con

Cho là người tà kiến,

Luận thuyết nghĩa ngoại đạo.

Chúng con cung kính Phật

Đều nhẫn nhục tất cả

Bị người ấy khinh rằng,

Các ngươi đều là Phật.

Bị khin khi như vậy

Con đều sẽ nhận chịu,

Ở trong đời ác trược

Có nhiều việc đáng sợ.

Ác quỷ nhập vào thân

Mắng chửi hủy nhục con,

Chúng con kính tôn Phật

Nên mặc áo nhẫn nhục.

Vì đế nỗi kinh này

Nhẫn các việc khó khăn,

Con không tiếc thân mạng

Chỉ mến đạo Vô thượng.

Chúng con ở đời sau

Giữ gìn lời Phật dạy,

Thế Tôn tự nên biết,

Ác Tỳ-kheo đời trược,

Không biết Phật phương tiện

Tùy nghi để thuyết pháp,

Mà nhíu mày nói ác

Luôn luôn bị xua đuổi,

Xa lìa nơi chùa tháp

Các điều ác như vậy

Nhớ lời Phật dạy bảo

Đều nhẫn nhục tất cả,

Các xóm làng thành ấp

Có ai cầu pháp Phật

Con đều đến nơi đó

Thuyết pháp Phật đã dạy.

Con, sứ giả của Phật,

Giữa chúng không sợ hãi.

Con sẽ khéo nói pháp

Xin Phật an lòng cho,

Con ở trước Thế Tôn

Chư Phật trong mười phương,

Phát lời nguyện như vậy

Xin Phật hiểu lòng con.

***

Phẩm 13: HẠNH AN LẠC

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những Bồ-tát này thật là hiếm có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn vào đời ác sau này sẽ hộ trì, đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa này.

Bạch Thế Tôn! Vào đời ác sau này, Đại Bồ-tát làm thế nào để nói kinh này?

Đức Phật bảo Văn-thù-sư-1ợi:

– Vào đời ác sau này, Đại Bồ-tát nào muốn nói kinh này thì phải an trụ bốn pháp. Đó là an trụ Hành xứ, Thân cận xứ của Bồ-tát mới có khả năng diễn nói kinh này cho chúng sinh.

Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là Hành xứ của Đại Bồ-tát?

Nếu Đại Bồ-tát an trụ tâm nhẫn nhục, nhu hòa, tùy thuận, không thô bạo, tâm không kinh sợ, đối với pháp không phân biệt điều gì mà quán các pháp đúng như thật tướng, chẳng vin theo, chẳng phân biệt. Đó gọi là Hành xứ của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Thân cận xứ của Đại Bồ-tát?

Đại Bồ-tát không nên gần gũi vua chúa, không nên thân cận các ngoại đạo, Phạm chí, Ni-kiền Tử… và không nên thân cận những người trước tác, ca vịnh sách thế tục, người theo phái Lộ-già-da-đà và nghịch Lộ-già-da-đà, cũng không nên gần gũi những kẻ chơi bời, hung dữ, đâm nhau, chém nhau cùng bọn Na-la, những chỗ ăn chơi, cũng không nên gần gũi hạng Chiên-đà-la, những hạng người ác luật nghi, sống bằng nghề nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, bắt cá. Nếu những người ấy đến Bồ-tát nên tùy nghi nói pháp chẳng mong cầu điều gì. Bồ-tát cũng không được thân cận, quan hệ với các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cầu hạnh Thanh văn. Nếu ở trong phòng, hoặc nơi kinh hành, hoặc trong giảng đường, Bồ-tát cũng không được sống chung với những người như vậy. Nếu khi họ đến, Bồ-tát tùy nghi nói pháp mà không mong cầu điều gì. Trước thân người nữ, Đại Bồ-tát không được sinh tướng dục tưởng và không nên ngắm nhìn mà nói pháp. Nếu vào nhà người, Bồ-tát không được nói chuyện riêng với thiếu nữ, thanh nữ, góa phụ, cũng không được kết thân với năm loại người chẳng phải nam. Không nên một mình đi vào nhà người, nếu có công việc một mình đi vào nhà người thì Bồ-tát cần phải nhất tâm niệm Phật.

Nếu nói pháp cho người nữ thì không được cười để lộ răng, không được hở ngực, lưng, cho đến vì pháp còn không được kết thân huống chi là các việc khác. Bồ-tát không được nuôi thiếu niên, đệ tử Sa-di nhỏ tuổi, cũng không ưa sống chung với huynh đệ, phải thường ưa thích tọa thiền nơi thanh vắng thu nhiếp tâm mình. Văn-thù-sư-lợi! Đó là chỗ Thân cận thứ nhất của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, Đại Bồ-tát quán tất cả pháp là không, đúng như thật tướng, không điên đảo, không động, không thoái, không chuyển như hư không, không thực có biên giới, chấm dứt tất cả đường ngôn ngữ, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô sinh, vô tướng, thật không có sở hữu, vô số, vô biên, vô ngại, vô chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo sinh nên nói thường lạc. Quán tướng của pháp như vậy, đó gọi là chỗ Thân cận thứ hai của Đại Bồ-tát.

Khi ấy muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Đời ác sau này

Nếu có Bồ-tát

Tâm không lo sợ

Muốn nói kinh này

Nên trụ Hành xứ

Cùng Thân cận xứ.

Thường tránh xa vua

Và các vương tử

Đại thần quan quyền,

Người tánh hung dữ

Hạng Chiên-đà-la

Ngoại đạo Phạm chí,

Cũng không gần gũi

Hàng tăng thượng mạn

Chấp chặt Tiểu thừa,

Người học ba tạng

Tỳ-kheo phá giới

Danh tự La-hán,

Cùng Tỳ-kheo-ni

Ưa thích vui chơi

Say đắm năm dục,

Muốn cầu diệt độ

Các Ưu-bà-di

Đều chớ gần họ.

Nếu những người này

Với tâm ý tốt,

Đến chỗ Bồ-tát

Vì nghe Phật đạo,

Bồ-tát nên đem

Tâm không sợ hãi

Không chút mong cầu

Nói pháp cho họ.

Thanh nữ, góa phụ,

Nam, chẳng phải nam

Bồ-tát chớ gần.

Làm người thân cận.

Cũng chớ gần gũi

Đao phủ đồ tể,

Săn bắn, bắt cá

Vì lợi giết hại,

Bán thịt để sống

Hạng buôn nữ sắc

Những người như vậy

Chớ nên gần gũi.

Kẻ dữ đâm chém

Những chỗ ăn chơi.

Con gái bán hương

Chớ thân cận họ.

Đừng ở chỗ vắng

Vì nữ nói pháp.

Nếu lúc nói pháp

Không được đùa giỡn,

Vào làng khất thực

Cùng một Tỳ-kheo

Nếu đi một mình

Phải luôn niệm Phật.

Thì đây gọi là

Hành xứ, Cận xứ.

Dùng hai xứ này

An lạc nói pháp,

Không còn thực hàn

Pháp thượng, trun g, hạ,

Hữu vi, vô vi

Pháp thật, không thật

Cũng không phân biệt

Là nam hay nữ,

Chẳng đắc các pháp

Chẳng biết, chẳng thấy,

Chính đây gọi là

Hành xứ Bồ-tát.

Tất cả các pháp

Không, không thật có,

Không có thường trụ

Cũng không sinh diệt,

Người trí lấy đó

Làm chỗ thân cận,

Phân biệt điên đảo

Vì pháp có, không

Thật hay chẳng thật,

Sinh, hay chẳng sinh,

Ở nơi thanh vắng

Thu nhiếp tâm mình,

An trụ bất động

Như núi Tu-di.

Quán tất cả pháp

Thảy đều rỗng không,

Giống như hư không

Không có bền chắc,

Chẳng sinh, chẳng xuất

Chẳng động, chẳng chuyển.

Thường trụ một tướng

Gọi là Cận xứ.

Ta diệt độ rồi

Nếu có Tỳ-kheo

Vào Hành xứ này

Cùng Thân cận xứ.

Thì khi nói kinh

Không còn khiếp sợ.

Có lúc Bồ-tát

Vào trong tịnh thất,

Nhớ lại thật đúng

Theo nghĩa quán pháp,

Xuất ra khỏi định

Vì các quốc vương

Vương tử, đại thần

Hàng Bà-la-môn

Chỉ dạy diễn bày

Kinh Pháp Hoa này

Tâm vẫn an ổn

Không có khiếp sợ.

Văn-thù -sư-lợi.

Đó là Bồ-tát

An trụ pháp đầu

Đời sau khéo nói

Kinh Pháp Hoa này.

Này Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp Bồ-tát muốn nói kinh này phải nên trụ nơi hạnh an lạc. Nếu khi đọc kinh, hoặc giảng thuyết thì không được nói lỗi của người và kinh, cũng không khinh chê các Pháp sư khác, không nói việc tốt, xấu, hay, dở của người khác, cũng không nêu danh, khen, chê việc là m tốt xấu của hàng Thanh văn, cũng không oán hận, hiềm khích họ. Vì khéo tu tâm an lạc như vậy nên không làm trái ý người nghe pháp. Nếu có vấn nạn thì không được dùng pháp Tiểu thừa đáp, nên lấy pháp Đại thừa giảng nói làm cho họ được Nhất thiết chủng trí.

Khi ấy, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Bồ-tát thường vui

An ổn nói pháp,

Ở chỗ thanh tịnh

Thiết lập tòa ngồi.

Tắm rửa sạch sẽ

Dùng dầu thoa thân,

Mặc áo sạch đẹp

Trong ngoài thanh tịnh,

An tọa pháp tòa

Đáp theo câu hỏi.

Dùng nghĩa vi diệu

Vui vẻ giảng nói,

Cho các Tỳ-kheo

Cùng Tỳ-kheo-ni,

Hàng Ưu-bà-tắc

Và Ưu-bà-di

Quốc vương, vương tử,

Quần thần, sĩ, dân

Nếu có nạn vấn

Tùy nghĩa mà đáp.

Bằng dụ, nhân duyên

Diễn giảng rõ ràng.

Dùng phương tiện này

Khiến họ phát tâm,

Ngày càng tăng tiến

Vào nơi Phật đạo

Trừ ý biếng nhác

Cùng tâm uể oải

Lìa các ưu não,

Tâm từ nói pháp

Thường luôn giảng thuyết

Dạy đạo Vô thượng

Dùng các nhân duyên,

Vô lượng thí dụ

Chỉ bày chúng sinh

Khiến đều an vui.

Quần áo, giường, ghế

Vật thực, thuốc thang

Với những vật ấy

Lòng chẳng mong cầu

Chỉ nhất tâm nghĩ

Vì việc nói pháp

Nguyện thành Phật đạo

Khiến chúng cũng vậy,

Đây là lợi lớn

An lạc cúng dường.

Ta diệt độ rồi

Nếu có Tỳ-kheo

Khéo giảng nói kinh

Diệu Pháp Liên Hoa,

Tâm không sân, ghét

Không phiền não, chướng

Cũng không ưu, buồn

Mắng nhiếc người khác,

Lại không sợ sệt

Không dùng dao gậy

Không đánh đuổi người

Vì an trụ nhẫn,

Người trí khéo tu

Tâm mình như vậy

Thường trụ an lạc

Như ta đã dạy.

Công đức người ấy

Qua vạn ức kiếp,

Tính kể thí dụ

Nói không thể hết.

Này Văn-thù-sư-lợi! Sau này vào giai đoạn cuối cùng, khi giáo pháp sắp hoại diệt, Đại Bồ-tát nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên có tâm ganh ghét, dối trá, cũng không được khinh chê, gièm pha, vạch tìm chỗ hay dở của người học Phật đạo. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu Thanh văn, cầu Bích-chi-phật, cầu đạo Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát không được gây phiền nhiễu làm cho họ hoang mang bằng cách dùng lời nói: “Các ông cách đạo quá xa, không bao giờ đạt được Nhất thiết chủng trí.” Vì sao? Vì các ông là người buông lung, biếng nhác đối với đạo.

Bồ-tát không nên hý luận, tranh cãi các pháp, nên khởi tâm đại Bi đối với tất cả chúng sinh; đối với các Đức Như Lai nên xem như Đấng cha lành, đối với các Bồ-tát xem như Bậc Đạo Sư, thường phải nhất tâm cung kính lễ bái các Đại Bồ-tát ở khắp mười phương, bình đẳng nói pháp cho tất cả chúng sinh, vì tùy thuận pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít cho đến đối với người rất ưa thích pháp cũng không được nói nhiều.

Này Văn-thù-sư-lợi! Sau này vào giai đoạn cuối cùng, khi giáo pháp sắp hoại diệt, Đại Bồ-tát thành tựu hạnh an lạc thứ ba này nên khi nói pháp không ai có thể làm não loạn, được bạn bè tốt cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến lắng nghe, nghe rồi ghi nhớ, nhớ rồi có thể đọc tụng, tụng rồi có thể giảng nói, nói rồi có thể biên chép, hoặc sai người biên chép cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán dương kinh này.

Đức Thế Tôn muốn thuyết lại nghĩa trên liền nói kệ:

Nếu muốn nói kinh này

Phải bô tâm sân, ghét,

Cùng dối trá, kiêu mạn

Thường tu hạnh ngay thẳng,

Không khinh khi người khác

Không hý luận về pháp,

Không khiến người nghi ngờ

Rằng họ không thành Phật.

Phật tử này nói pháp

Thường nhu hòa nhẫn nhục,

Từ bi thương chúng sinh

Không có tâm biếng nhác,

Mười phương Đại Bồ-tát

Thương chúng sinh hành đạo

Phải sinh tâm cung kính

Xem như Thầy của mình.

Đối với các Đức Phật

Tưởng như Đấng cha lành

Phá tan tâm kiêu mạn

Thuyết pháp không chướng ngại.

Pháp thứ ba như vậy

Người trí nên giữ gìn

Nhất tâm an lạc hạnh

Vô lượng chúng sinh kính.

Văn-thù-sư-lợi! Đại Bồ-tát sau này vào đời cuối cùng, lúc giáo pháp sắp diệt, người nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, có tâm đại Từ đối với hàng tại gia và xuất gia, có tâm đại Bi đối với hàng không phải Bồ-tát, nên nghĩ thế này: “Những người như thế thì mất lợi lớn Đức Phật phương tiện tùy nghi nói pháp mà không nghe, không biết, không rõ, không hỏi, không tin, không hiểu người đó tuy không hỏi, không tin, không hiểu kinh này. Khi chứng Vô thượng Bồ-đề, bất luận người đó ở chỗ nào, ta cũng dùng thần lực, trí tuệ và sức thần thông dẫn dắt họ trụ vào pháp này.”

Văn-thù-sư-lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, Đại Bồ-tát nào thành tựu pháp thử tư này, lúc nói pháp không nhầm lẫn, thường dạy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, vua chúa, thái tử, quan lớn, nhân dân, Bà-la-môn, Cư sĩ đều cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chư Thiên ở hư không vì nghe kinh này nên theo hầu. Nếu ở trong tụ lạc, thành ấp, rừng hoang chỗ vắng có người đến gạn hỏi thì chư Thiên vì pháp này thường hộ vệ người đó suốt ngày đêm, khiến người nghe rồi đều vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được thần lực chư Phật ba đời giữ gìn.

Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi cho đến danh tự cũng khó được nghe, huống chi được thấy, thọ trì, đọc tụng.

Văn-thù-sư-lợi! Ví như vua Chuyển luân có uy lực lớn, muốn thâu phục các nước nhỏ bằng thế lực của mình, mà các vua nhỏ không tuân lệnh. Bấy giờ, vua Chuyển luân đem các binh chinh phạt, vua thấy binh chúng có công đánh giặc nên rất vui mừng, theo công ban thưởng, hoặc ban cho ruộng nhà, tụ lạc, thành ấp, cho y phục và vật trang sức nơi thân, hoặc cho các thứ trân bảo vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, nô tỳ, nhân dân, chỉ viên ngọc minh châu trong búi tóc không cho. Vì sao? Vì riêng trên đỉnh vua mới có một viên ngọc này, nếu đem cho đi thì các quyến thuộc vua rất kinh hoàng.

Văn-thù-sư-lợi! Như Lai cũng như vậy, nhờ năng lực thiền định, trí tuệ nên được quốc độ chánh pháp, làm vua trong ba cõi, mà các ma vương không chịu khuất phục nên các tướng Hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau, người nào có công, tâm cũng rất vui mừng. Phật ở trong bốn chúng nói các kinh làm cho họ vui mừng, liền ban những tài sản về các pháp thiền định, giải thoát, căn lực vô lậu; lại ban cho thành Niết-bàn, nói đã diệt độ để dẫn dắt tâm họ, làm cho đều hoan hỷ nhưng không nói kinh Pháp Hoa này.

Văn-thù-sư-lợi! Như vua Chuyển luân thấy người có công lao lớn trong các binh chủng nên rất vui mừng, đem ngọc minh châu này khó tin từ lâu ở trong búi tóc không tùy tiện cho người, mà đem cho họ. Như Lai cũng vậy, là Bậc Đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp nhiệm mầu giáo hóa chúng sinh, thấy các Hiền thánh cùng ma năm ấm, ma phiền não, ma chết đánh nhau có công lao lớn, diệt trừ ba độc, phá lưới ma ra khỏi ba cõi. Bấy giờ, Như Lai rất vui mừng, đối với kính Pháp Hoa này khiến cho chúng sinh đạt Nhất thiết trí, mà tất cả thế gian phần nhiều thù oán khó tin được, trước đây chưa nói mà nay mới nói.

Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời dạy bậc nhất của Như Lai, vi diệu nhất trong các lời dạy, sau cùng mới ban cho; như vua Chuyển luân có uy lực lớn, từ lâu đã gìn giữ viên ngọc minh châu nay mới đem ban cho.

Văn-thù-sư-lợi! Kinh Pháp Hoa này là kho tàng pháp bí mật của các Đức Như Lai, là trên hết trong các kinh, gìn giữ từ lâu, không tùy tiện nói ra, bắt đầu từ hôm nay mới giảng dạy cho các ông.

Bấy giờ, muốn nói lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Thường hành nhẫn nhục

Thương xót tất cả.

Mới diễn nói được

Kính Phật khen ngợi.

Vào đời sau cùng

Người trì kinh này,

Tại gia, xuất gia

Chẳng phải Bồ-tát.

Nên sinh Từ bi

Những người không nghe,

Chẳng tin kinh này

Thì mất lợi lớn.

Ta thành Phật đạo

Dùng các phương tiện,

Nói về pháp này;

Khiến trụ trong pháp

Như vua Chuyển luân

Sức lực mạnh m ẽ

Tướng chiến có công

Ban thưởng các vật,

Voi, ngựa, xe cộ

Đủ thứ trang sức

Cùng với ruộng nhà

Thôn xóm, thành ấp,

Hoặc cho y phục

Những vật quý báu,

Nô tỳ, của cải

Vui vẻ ban cho.

Người có sức mạnh

Làm được việc khó,

Vua cho ngọc quý

Từ trong búi tóc.

Như Lai cũng vậy

Là vua các pháp,

Có sức nhẫn lớn

Kho báu trí tuệ

Đem đại Từ bi

Như pháp độ đời.

Thấy các chúng sinh

Chịu nhiều khổ não,

Muốn cầu giải thoát

Đánh nhau với ma.

Phật vì chúng sinh

Nói đủ các pháp

Dùng nhiều phương tiện

Giảng nói các kinh.

Đã biết chúng sinh

Có sức mạnh rồi,

Đời sau mới nói

Kinh Pháp Hoa này.

Như vua lấy ngọc

Trong búi tóc cho,

Kinh này tôn quý

Trên hết các kinh,

Ta thường giữ gìn

Không tuỳ tiện dạy.

Nay chính đúng lúc

Nói cho các ông,

Ta diệt độ rồi

Người cầu Phật đạo,

Muốn được an ổn

Giảng nói kinh này

Phải nên gần gũi

Bốn pháp như vậy.

Người đọc kinh này

Thường không sầu não,

Bệnh tật, đau khổ

Nhan sắc đẹp đẽ,

Không bị bần cùng

Thấp hèn, xấu xí

Chúng sinh thích nhìn

Như mến Hiền thánh

Đồng tử cõi trời

Làm kẻ sai khiến

Không bị dao gậy

Độc dữ làm hại

Nếu người muốn mắng

Miệng không nói được,

Tự do đi lại

Như Sư tử chúa

Trí tuệ sáng suốt

Như mặt trời chiếu,

Dù ở trong mộng

Thấy việc nhiệm mầu

Thấy các Như Lai

Ngồi tòa Sư tử

Cùng chúng Tỳ-kheo

Vây quanh nghe pháp.

Lại thấy Rồng, Thần

Cùng A-tu-la

Như cát sông Hằng

Cung kính chắp tay,

Tự thấy chính mình

Được nghe thuyết pháp.

Lại thấy chư Phật

Thân màu hoàng kim,

Phóng vô lượng quang

Chiếu khắp tất cả

Dùng tiếng Phạm âm

Diễn nói các pháp.

Phật vì bốn chúng

Nói pháp Vô thượng

Thấy mình trong đó

Chắp tay khen Phật

Nghe pháp vui mừng.

Nhờ cúng dường Phật

Được Đà-la-ni,

Chứng trí không thoái

Phật biết tâm họ

Vào sâu Phật đạo,

Liền thọ ký cho

Thành Tối Chánh giác.

Thiện nam tử này!

Ở đời vị lai

Được vô lượng trí,

Đạo lớn của Phật

Cõi nước nghiêm tịnh

Rộng lớn vô biên,

Cũng có bốn chúng

Chắp tay nghe pháp,

Lại thấy thân mình

Ở trong núi rừng.

Tu tập pháp lành

Chứng các thật tướng

Vào sâu thiền định

Thấy Phật mười phương.

Thân Phật màu hoàng kim

Tướng trăm phước trang nghiêm,

Vì người nên nói pháp

Thường có mộng lành đó.

Lại mộng làm quốc vương

Bỏ cung điện quyến thuộc

Cùng năm dục thượng hạng,

Đi đến nơi đạo tràng

Ở dưới cội Bồ-đề

Ngồi trên tòa Sư tử

Cầu đạo qua bảy ngày

Được trí của chư Phật.

Chứng đạo Vô thượng rồi

Bắt đầu chuyển pháp luân,

Nói pháp cho bốn chúng

Qua ngàn vạn ức kiếp,

Nói diệu pháp vô lậu

Độ vô lượng chúng sinh,

Sau mới nhập Niết-bàn

Như đèn tắt, khói hết,

Nếu trong đời ác sau

Nói pháp đệ nhất này

Người đó được lợi lớn

Các công đức như trên.

***

Phẩm 14: TỪ ĐẤT VỌT LÊN

Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát đông hơn số cát sông Hằng từ cõi nước phương khác đến, ở trong đại chúng chắp tay làm lễ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Cho phép chúng con sau khi Phật diệt độ, ở thế giới Ta-bà nỗ lực siêng năng hộ trì người đọc tụng, biên chép, cúng dường sẽ ở lại đây rộng giảng kinh điển này.

Khi đó, Đức Phật bảo các chúng Đại Bồ-tát:

– Thôi đi thiện nam! Chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì ở thế giới Ta-bà đã có sáu vạn hằng hà sa các Đại Bồ-tát. Mỗi Bồ-tát đều có sáu vạn hằng sa quyến thuộc, những người này có thể sau khi Như Lai diệt độ, giữ gìn đọc tụng giảng nói kinh này.

Lúc Phật nói lời đó rồi tam thiên đại thiên cõi nước ở thế giới Ta-bà, mặt đất đều chấn động. Ở trong đó có vô lượng ngàn vạn ức Đại Bồ-tát cùng lúc vọt lên. Thân các vị ấy đều có sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng. Trước đây các vị ấy đều ở dưới cõi Ta-bà, cõi ấy trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát nghe tiếng nói của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ dưới cõi Ta-bà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc Thượng thủ trong chúng đều đem theo sáu vạn hằng sa quyến thuộc, có vị đem năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn hằng hà sa quyến thuộc, có vị chỉ đem một hằng hà sa, nửa hằng hà sa, một phần tư hằng hà sa cho đến một phần trong ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, có vị đem ngàn vạn ức na-do-tha quyến thuộc, có vị đem ức vạn quyến thuộc, có vị đem ngàn vạn trăm vạn cho đến một vạn quyến thuộc, huống chi đem một ngàn, một trăm cho đến mười quyến thuộc.

Có vị đem năm, bốn, ba, hai, một đệ tử, huống chi có vị chỉ một mình ưa hạnh viễn ly. Các vị này nhiều vô lượng, vô biên, dùng toán số ví dụ cũng không thể biết được. Các vị Bồ-tát này từ đất vọt lên đều đến chỗ tháp đẹp bảy báu trụ giữa hư không của Đức Phật Đa Bảo Như Lai và Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Đến rồi hướng về hai vị Thế Tôn cúi đầu làm lễ dưới chân và đến chỗ các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng chắp tay cung kính, dùng các pháp tán thán của Bồ-tát mà ngợi khen Phật rồi đứng qua một bên, ưa muốn chiêm ngưỡng hai Đấng Thế Tôn.

Từ lúc các Đại Bồ-tát này từ dưới đất vọt lên, dùng các pháp khen ngợi của Bồ-tát mà khen ngợi Phật, trong thời gian ấy trải qua năm mươi tiểu kiếp. Lúc này, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngồi im lặng và bốn chúng cũng đều im lặng suốt năm mươi tiểu kiếp. Do thần lực của Phật khiến các đại chúng xem như nửa ngày. Bấy giờ bốn chúng cũng nhờ thần lực của Phật nên thấy hàng Bồ-tát đầy khắp vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước hư không. Trong chúng Bồ-tát ấy có bốn vị Đạo sư:

1. Thượng Hạnh.

2. Vô Biên Hạnh.

3. Tịnh Hạnh.

4. An Lập Hạnh.

Bốn vị Bồ-tát này đều là bậc Thầy thượng thủ dẫn đường tối thắng nhất ở trong đại chúng. Ở trước đại chúng họ đều chắp tay, nhìn Phật Thích-ca Mâu-ni và thăm hỏi:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có ít bệnh, ít não, an vui chăng? Những người đáng độ giáo hóa dễ chăng? Chẳng làm Thế Tôn sinh mệt mỏi chăng?

Lúc ấy, bốn vị Bồ-tát nói kệ:

Thế Tôn an vui

Ít bệnh, ít não

Giáo hóa chúng sinh

Không có mỏi mệt.

Các hàng chúng sinh

Thọ giáo dễ chăng?

Chẳng làm Thế Tôn

Sinh mỏi mệt chăng?

Bấy giờ, ở giữa hàng đại chúng Bồ-tát, Đức Thế Tôn nói:

– Đúng vậy, này thiện nam! Như Lai an vui, ít bệnh, ít não, hóa độ hàng chúng sinh dễ dàng không có mệt mỏi. Vì sao? Vì các chúng sinh từ nhiều đời đến nay thường được ta dạy bảo, cũng từng ở nơi chư Phật quá khứ cúng dường, tôn trọng trồng các căn lành. Các chúng sinh này vừa mới thấy ta, nghe ta nói pháp liền tin thọ trì vào trong trí tuệ của Như Lai, trừ người trước đây đã tu tập học hạnh Tiểu thừa, những người như vậy; nay ta cũng khiến được nghe kinh này vào trong trí tuệ của Phật.

Lúc ấy, các vị Bồ-tát nói kệ:

Hay thay, hay thay

Đại Hùng Thế Tôn!

Các hàng chúng sinh

Đều dễ hóa độ.

Hay hỏi chư Phật

Trí tuệ sâu xa

Chúng con tùy hỷ

Nghe rồi vâng làm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị Đại Bồ-tát Thượng thủ:

– Lành thay, lành thay, này thiện nam! Các ông có thể đối với Như Lai mà phát tâm tùy hỷ.

Bồ-tát Di-lặc và tám ngàn hằng ha sa chúng Bồ-tát, đều nghĩ: “Chúng ta từ xưa đến nay chẳng thấy, chẳng nghe, các chúng Đại Bồ-tát như vậy từ đất vọt lên đứng trước Thế Tôn, chắp tay cúng dường, thăm hỏi Như Lai.” Bấy giờ, biết tâm niệm của tám ngàn hằng sa các Bồ-tát và muốn giải quyết sự nghi ngờ của mình, Đại Bồ-tát Di-lặc chắp tay hướng về Phật, dùng kệ hỏi:

Vô lượng ngàn vạn ức

Các đại chúng Bồ-tát

Từ xưa chưa từng thấy

Xin Thế Tôn giảng nói.

Họ từ chỗ nào đến

Do duyên gì vân tập?

Thân lớn đại thần thông

Trí tuệ chẳng nghĩ bàn,

Chí niệm rất bền vững

Có sức nhẫn nhục lớn

Cảnh chúng sinh ưa thấy

Là từ chốn nào đến?

Mỗi mỗi hàng Bồ-tát

Đem theo các quyến thuộc

Số ấy không thể lường

Nhiều như cát sông Hằng

Hoặc có Đại Bồ-tát

Đem sáu vạn hằng sa

Các đại chúng như thế

Nhất tâm cầu Phật đạo.

Các Đại sư như vậy

Có sáu vạn hằng sa

Đều đến cúng dường Phật

Cùng hộ trì kinh này.

Đem năm vạn hằng sa

Số này hơn số kia

Bốn vạn hoặc ba vạn

Hai vạn đến một vạn,

Một ngàn hay một trăm

Cho đến một hằng sa

Nửa hoặc ba bốn phần

Một phần trong ức vạn,

Ngàn vạn na-do-tha

Vạn ức các đệ tử

Cho đến trong nửa ức

Lại nhiều hơn số trên.

Trăm vạn đến một vạn

Một ngàn hoặc một trăm

Năm mươi cùng một mươi

Cho đến ba, hai, một,

Một mình không quyến thuộc

Ưa thích ở chỗ vắng

Đều đến chỗ Thế Tôn

Số này nhiều hơn trên.

Các đại chúng như thế

Nếu người phát thẻ đếm

Trải qua hằng sa kiếp

Còn không thể biết được,

Các vị oai đức lớn

Chúng Bồ-tát tinh tấn

Ai thuyết pháp cho chúng

Giáo hóa được thành tựu

Theo vị nào phát tâm

Khen ngợi Phật pháp nào

Tu hành thọ kinh gì?

Tu tập Phật đạo nào?

Các Bồ-tát như thế

Thần thông trí lực lớn

Đất bốn phương rúng nứt

Đều từ đó vọt lên.

Thế Tôn, con từ xưa

Chưa từng thấy điều này

Xin nói từ đâu đến

Danh hiệu cõi nước kia;

Con thường qua các nước

Chưa từng thấy chúng này,

Con ở trong chúng đây

Không biết được một người.

Bỗng nhiên từ đất lên

Xin nói rõ lý do

Nay trong đại chúng đây

Vô lượng trăm ngàn ức,

Các chúng Bồ-tát này

Đều muốn biết việc đây

Gốc ngọn và nhân duyên,

Của chúng Bồ-tát kia

Thế Tôn đức vô lượng

Xin giải rõ tâm nghi.

Lúc ấy, các Hóa thân của Phật Thích-ca Mâu-ni từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước phương khác đến, đang ngồi kiết già trên tòa Sư tử dưới các cây báu khắp trong bốn phương. Thị giả của các Đức Phật ấy cũng thấy đại chúng Bồ-tát từ dưới đất vọt lên trụ giữa hư không. Ở khắp bốn phương trong tam thiên đại thiên thế giới, các thị giả liền bạch các Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ đại chúng Bồ-tát này từ chỗ nào đến.

Lúc ấy, chư Phật bảo các thị giả:

– Này các thiện nam! Hãy đợi chốc lát, có Đại Bồ-tát Di-lặc, được Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký, kế đến sẽ thành Phật, đã thưa hỏi việc này, nay Đức Phật sẽ giải đáp, các ông nhân đó được nghe.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Lành thay, lành thay! Ông có thể hỏi việc lớn như vậy. Các ông phải cùng nhau nhất tâm, mặc áo giáp tinh tấn, phát sinh tâm vững chắc, nay Như Lai muốn hiển bày trí tuệ, diệu lực thần thông tự tại của Phật, sức mạnh hùng tráng sư tử của chư Phật và uy lực dũng mãnh của chư Phật.

Muốn tuyên lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Ta sẽ nói việc này

Phải tinh tấn nhất tâm,

Chớ sinh tâm nghi ngờ

Trí Phật khó luận bàn,

Ông phải có sức tin

Khéo ghi nhận rõ rang,

Xưa chưa từng n ghe pháp

Nay đều, sẽ được nghe.

Ta an ủi các ông

Chớ nên hoài nghi sợ

Lời Phật nói chân thật

Trí tuệ không thể lường.

Phật chứng pháp đệ nhất

Thâm sâu khó phân biệt

Ta sẽ nói như vậy

Các ông nhất tâm nghe.

Nói kệ rồi, Thế Tôn bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Nay ta ở trong đại chúng này, giải đáp cho các ông và Bồ-tát Di-lặc, vô lượng, vô biên, vô số a-tăng-kỳ các vị Đại Bồ-tát này, từ dưới đất vọt lên, xưa các ông chưa từng thấy, ta ở trong cõi Ta-bà đã chứng đạo quả Vô thượng Bồ-đề, chỉ dạy Bồ-tát ấy điều phục tâm và phát khởi tâm Bồ-đề, các Bồ-tát đó , ở trong thế giới dưới Ta-bà, trụ giữa hư không, đọc tụng kinh điển thông suốt, suy nghĩ rõ ràng, ghi nhớ chân chánh.

Di-lặc! Các thiện nam này, không thích ở chỗ đông người, náo nhiệt, thường thích ở chỗ thanh vắng, siêng tu tinh tấn, chưa từng nghĩ ngợi, cũng không ở chung với các chư Thiên và loài người, thường thích trí tuệ sâu xa không chướng ngại, thích pháp của chư Phật, nhất tâm tinh tấn cầu trí tuệ vô thượng.

Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nói kệ:

Di-lặc ông nên biết

Các Đại Bồ-tát này

Đã từng vô số kiếp

Tu tập trí tuệ Phật,

Đều nhờ ta giáo hóa

Khiến phát đạo tâm lớn.

Các ông là con ta

Ở trong thế gian này

Thường tu hạnh Đầu-đà

Rất thích chỗ thanh vắng,

Xa lánh nơi ồn náo

Không ưa nói nhiều chuyện

Những người con như vậy

Học tập đạo pháp ta.

Ngày đêm thương tinh tấn

Vì muốn cầu Phật đạo.

Đứng ở giữa hư không

Dưới thế giới Ta-bà,

Sức chí niệm vững chắc

Thường siêng cầu trí tuệ

Nói đủ các diệu pháp

Tâm không còn lo sợ.

Ta ở thành Già-da

Ngồi dưới cội Bồ-đề.

Thành tựu Chánh đẳng giác

Chuyển pháp luân vô thượng,

Mới giáo hóa cho họ

Khiên phát được đạo tâm,

Nay đều trụ không thoái.

Tất cả sẽ thành Phật.

Nay ta nói lời thật

Các ông một lòng tin,

Đã từ vô số kiếp

Ta giáo hóa chúng này.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc và vô số các Bồ-tát sinh tâm nghi ngờ, việc lạ chưa từng có, rồi suy nghĩ: “Thế Tôn làm sao chỉ trong một thời gian ngắn mà có thể giáo hóa vô số, vô biên a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát như vậy, làm cho trụ trong đạo quả Vô thượng Bồ-đề.”

Họ liền thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như Lai từ khi còn là Thái tử, ra khỏi cung điện dòng họ Thích, cách thành Già-da không xa, ngồi ở đạo tràng, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Bạch Thế Tôn! Làm sao trong thời gian ngắn đó Phật có thể dùng thần lực công đức giáo hóa vô lượng chúng Đại Bồ-tát thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề và làm được Phật sự lớn như vậy?

Bạch Thế Tôn! Đối với chúng Đại Bồ-tát này, giả sử có người đếm một ngàn vạn ức kiếp, đếm mãi cũng không thể hết, cũng không cùng tận, các vị Bồ-tát đó đã từ lâu ở nơi vô lượng, vô biên cõi nước của chư Phật, trồng các căn lành, thành tựu đạo Bồ-tát thường tu tập phạm hạnh.

Bạch Thế Tôn! Việc này như vậy, người đời khó tin. Ví như có người hai mươi lăm tuổi, tóc đen xinh đẹp, chỉ người trăm tuổi bảo đây là con ta, người trăm tuổi đó cũng chỉ người trẻ tuổi nói đây là cha ta đã sinh ra và nuôi dưỡng ta. Việc này khó tin! Phật cũng như vậy, từ khi thành đạo đến nay thật chưa bao lâu, cũng như các Bồ-tát trong đại chúng này, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì muốn thành Phật đạo, nên nỗ lực tinh tấn, thường xuất nhập, trụ trăm ngàn vạn ức Tam-muội được thần thông vi diệu, tu tập phạm hạnh từ lâu, lần lượt khéo tu tập các pháp lành, rất giỏi hỏi đáp, là báu vật quý trong loài người, ở thế gian rất là hiếm có. Mà Thế Tôn lại bảo: “Khi ta được Phật đạo, bắt đầu khiến cho phát tâm rồi giáo hóa, chỉ đường cho họ hướng đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề.”

Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà đã làm các việc công đức vĩ đại như vậy. Tuy chúng con vẫn tin vào sự tùy cơ nghi của Ngài và lời Phật nói ra chưa từng hư dối, những điều Phật biết đều đã thông đạt, nhưng các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu được nghe lời này có thể không tin nhận, nên sinh ra nhân duyên nghiệp tội phá pháp. Nguyện xin Thế Tôn giải thích trừ mối nghi ngờ cho chúng con và các thiện nam trong đời vị lai, nghe việc này rồi cũng không còn sinh nghi ngờ.

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc muốn tuyên lại nghĩa trên nói kệ:

Xưa Phật dòng họ Thích

Xuất gia gần Già-da

Ngồi dưới cội Bồ-đề

Cách nay còn chưa xa.

Các Phật tử ở đây

Số đông không thể lường,

Từ lâu tu Phật đạo

Trụ trí lực thần thông,

Siêng học đạo Bồ-tát

Không nhiễm pháp thế gian,

Như hoa sen trong nước

Từ dưới đất vọt lên,

Đều sinh tâm cung kính

Đứng ở trước Thế Tôn.

Việc này khó nghĩ bàn

Làm sao có thể tin?

Phật chứng đạo chưa lâu

Giáo hóa được nhiều người!

Xin trừ nghi cho chúng

Như thật nói rõ rang,

Ví như người còn trẻ

Tuổi mới vừa hai lăm

Chỉ người đã trăm tuổi

Tóc bạc và mặt nhăn

Là con của tôi sinh;

Con cũng nói là cha

Cha trẻ mà con già

Thế gian không tin được!

Thế Tôn cũng như vậy,

Chứng đạo không bao lâu

Các chúng Bồ-tát đây

Chí vững không khiếp nhược,

Đã từ vô số kiếp

Tu hành đạo Bồ-tát.

Khéo hỏi đáp điều khó

Tâm họ không lo sợ

Tành nhẫn nhục quyết định,

Xinh đẹp có đủ đức

Mười phương Phật khen ngợi,

Khéo giảng nói rõ ràng

Không thích chỗ đông người

Thường vui trong thiền định,

Chỉ vì cầu Phật đạo

Trụ ở hư không dưới.

Chúng con nghe từ Phật

Việc này không nghi ngại,

Xin Phật vì đời sau

Giảng nói cho hiểu rõ.

Nếu có người không tin

Sính nghi ngờ kinh này,

Sẽ bị đọa đường ác

Nay xin Phật nói rõ.

Vô lượng Bồ-tát này

Sao trong thời gian ngắn

Được giáo hóa phát tâm

Chứng quả vị không thoái?

***

Phẩm 15: THỌ LƯỢNG CỦA ĐỨC PHẬT

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Đại Bồ-tát và tất cả đại chúng:

– Này thiện nam! Các ông phải tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai! Lại bảo các đại chúng các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai!

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc Thượng thủ trong đại chúng này chắp tay thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn chỉ dạy, chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy!

Bạch như vậy ba lần, rồi lại nói:

– Xin Thế Tôn chỉ dạy chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy!

Lúc ấy Thế Tôn biết các Bồ-tát đã thưa thỉnh ba lần không ngừng nên bảo:

– Các ông hãy lắng nghe diệu lực thần thông bí mật của Như Lai, tất cả Trời, Người và A-tu-la trong thế gian đều cho rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni rời bỏ cung điện dòng họ Thích cách thành Già-da không xa, ngồi nơi đạo tràng, chứng được quả Vô thượng Bồ-đề.” Nhưng này thiện nam! Ta thật sự thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên, trăm ngàn vạn ức vô số a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới. Giả sử có người đem cả thế giới ấy nghiền thành hạt bụi, đi về hướng Đông qua năm trăm ngàn vạn ức na-do-tha, vô số cõi nước mới thả xuống một hạt bụi. Lần lượt như vậy, đi về hướng Đông bỏ hết số bụi ấy. Này thiện nam! Ý các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể nào suy nghĩ, tính đếm mà biết được số lượng chăng?

Bồ-tát Di-lặc và đại chúng cùng thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng, vô biên chẳng phải tính đếm mà biết được, cũng chẳng phải nhờ năng lực của tâm ý, tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật dùng trí tuệ vô lậu cũng không thể suy nghĩ được giới hạn số lượng của nó. Chúng con tuy là trụ trong quả vị không thoái chuyển, nhưng đối với việc này cũng không thể hiểu rõ.

Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy nhiều vô lượng, vô biên như vậy.

Bấy giờ, Đức Phật bảo chúng Đại Bồ-tát:

– Này thiện nam! Nay ta sẽ nói rõ cho các ông biết. Những thế giới này, hoặc dù có đặt hạt bụi hay không đặt hạt bụi, số đó đều đem nghiền hết số thế giới ấy thành bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp. Từ khi ta thành Phật đến nay còn nhiều hơn số này nữa đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha, vô số kiếp. Ta thường ở thế giới Ta-bà này thuyết pháp, giáo hóa, cùng ở trong trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô số cõi nước khác, dẫn dắt và làm lợi ích cho chúng sinh. Này thiện nam, ở trong khoảng thời gian ấy, ta nói về Phật Nhiên Đăng… lại nói vị ấy sẽ nhập Niết-bàn, những việc như vậy ta đều dùng phương tiện phân biệt mà nói. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, ta liền dùng Phật nhãn quán sát các căn lợi độn và niềm tin của người đó tùy theo căn cơ thích hợp mà hóa độ. Tại mỗi quốc độ, Như Lai tự nói danh hiệu khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ khác nhau, lại nói sẽ nhập Niết-bàn, dùng các phương tiện nói phá p ví diệu, có thể khiến cho chúng sinh phát tâm vui mừng.

Các thiện nam! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội dày, vì những người ấy mà nói rằng: “Ta lúc nhỏ xuất gia chứng được đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Nhưng thật sự ta thành Phật đến nay rất lâu xa, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, làm cho họ được vào Phật đạo.”

Các thiện nam! Kinh điển của Như Lai thuyết giảng đều vì độ thoát chúng sinh. Hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người khác, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người khác, hoặc chỉ việc mình hoặc chỉ việc người khác, các lời nói ấy đều thật chẳng dối. Vì sao? Vì Như Lai như thật thấy biết tướng của ba cõi, không có sinh tử, hoặc ẩn hoặc hiện, cũng không ở đời và diệt độ. Chẳng thật chẳng hư, chẳng giống chẳng khác, không phải như ba cõi thấy về ba cõi đâu. Những việc như vậy, Như Lai đã thấy rõ không sai lầm, vì các chúng sinh có các tánh, các dục, các hạnh, các nhớ tưởng phân biệt khác nhau, muốn họ sinh các căn lành nên đem nhiều nhân duyên, thí dụ, lời lẽ giảng nói các pháp, chưa từng ngừng bỏ làm các Phật sự. Như ta thành Phật đến nay rất lâu xa, sống lâu vô lượng, vô số kiếp, thường trụ chẳng diệt.

Các thiện nam! Do ta xưa tu hành đạo Bồ-tát được tuổi thọ sống lâu đến nay vẫn chưa hết, số còn lại hơn cả số trên. Nhưng nay chẳng phải thật diệt độ mà nói sẽ diệt độ. Như Lai dung phương tiện giáo hóa chúng sinh. Vì sao? Vì nếu Phật sống lâu ở đời thì người đức mỏng, không trồng căn lành, kẻ bần cùng hạ tiện, tham đắm năm món dục, sa vào lưới vọng tà kiến, nếu thấy Như Lai ở đời mãi không nhập diệt thì kiêu mạn, buông lung, biếng nhác, không thể có tâm cung kính nhớ tưởng, khó gặp Phật. Cho nên Như Lai phương tiện nói các Tỳ-kheo phải biết, chư Phật xuất hiện ở đời rất khó gặp. Vì sao? Vì những người phước đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc được gặp Phật, hoặc không gặp Phật, do việc này nên ta nói như vầy: “Này các Tỳ-kheo! Rất khó gặp được Như Lai”. Các chúng sinh ấy nghe như vậy rồi, chắc sẽ sinh tư tưởng khó gặp được Phật, tâm thường luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, nên gieo trồng căn lành. Vì thế, Như Lai tuy không diệt độ thật mà nói diệt độ.

Lại nữa, này thiện nam! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì độ chúng sinh đều nói thật không dối. Ví như vị thầy thuốc trí tuệ sáng suốt, luyện phương thuốc hay trị được nhiều bệnh, người đó nhiều con cháu, hoặc mười người, hai mươi người, cho đến số trăm, do có việc đi xa đến nước khác, sau đó các con uống nhằm thuốc độc, thuốc thấm vào phát sinh mê loạn, lăn lộn trên đất. Khi ấy, người cha từ nước xa trở về, thấy các con mình uống thuốc độc, hoặc người bị mất trí, hoặc người còn trí. Thấy cha từ xa về, họ đều vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha an ổn trở về, chúng con ngu si uống lầm thuốc độc, xin cha cứu vớt ban cho mạng sống. Cha thấy các con khổ não như vậy, dựa theo bài thuốc tìm thảo dược tốt, đầy đủ mùi thơm vị ngon, đâm nghiền hòa chung đưa cho con uống, lại nói như vầy, loại thuốc hay này đầy đủ sắc hương vị thơm, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn bệnh hoạn.

Trong những người con, có người không mất trí, thấy thuốc hay này sắc hương vị tốt liền lấy uống, nên hết bệnh ngay và người mất trí thấy cha mình về, tuy có vui mừng thăm hỏi, cầu xin trị bệnh, nhưng cha cho thuốc không chịu uống. Vì sao? Vì hơi độc ngấm nhiều, mất hẳn trí nhớ, thuốc hay vị ngon này mà cho đắng không chịu uống. Người cha suy nghĩ: “Những người con này thật đáng thương, bị trúng độc làm tâm điên đảo, tuy thấy ta, vui mừng cầu xin cứu chữa, nhưng không chịu uống thuốc hay này, nay ta nên bày cách khiến uống thuốc này.” Liền nói: “Các con nên biết, nay cha già yếu giờ chết sắp đến, thuốc hay này để ở đây, các con nên lấy uống chớ lo không hết bệnh.”

Nói như vậy rồi, đi đến nước khác, ông ta sai người về nói lại, cha của các người đã chết, khi đó những người con nghe tin cha mất, tâm rất buồn rầu liền suy nghĩ: “Nếu cha còn sống thương xót chúng ta che chở cứu giúp, nay bỏ ta chết ở nước khác, chỉ còn một mình ta côi cút không còn chỗ cậy nhờ.” Thường nhớ nghĩ buồn rầu, tâm liền tỉnh ngộ, mới biết thuốc hay này mùi vị thơm ngon, bèn lấy uống, bệnh độc tiêu trừ. Người cha nghe các con đã được lành mạnh, liền trở về nhà để gặp chúng. Này các thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Có người nào nói vị lương y này mắc tội nói dối chăng?

– Không phải, bạch Thế Tôn!

Phật bảo:

– Ta cũng như vậy, thành Phật đến nay đã vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số a-tăng-kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương tiện nói sẽ diệt độ, cũng không thể như pháp ấy mà nói ta đã có lỗi hư dối.

Bấy giờ, muốn tuyên rõ sự việc trên, Thế Tôn nói kệ:

Ta thành Phật đến nay

Trải qua vô số kiếp

Vô lượng trăm ngàn vạn

A-tăng-kỳ ức năm,

Thường nói pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sinh

Khiến đi vào Phật đạo

Đến nay vô lượng kiếp.

Vì độ thoát chúng sinh

Phương tiện hiện Niết-bàn

Kỳ thật không diệt độ

Thường ở đây nói pháp.

Ta thường trụ ở đây

Dùng diệu lực thần thông,

Khiến chúng sinh điên đảo

Dù gần nhưng không thấy.

Họ thấy ta diệt độ

Cúng dường xá-lợi Phật,

Đều tỏ lòng luyến mộ

Và sinh tâm khát ngưỡng.

Chúng sinh đã tin phục

Ý nhu hòa ngay thẳng,

Nhất tâm muốn thấy Phật

Chẳng tiếc thân mạng mình.

Lúc ta cùng chúng Tăng

Ra khỏi núi Linh Thứu

Ta nói với chúng sinh

Thường ở đây không diệt.

Nhờ dùng sức phương tiện

Hiện diệt nhưng không diệt,

Nước khác có chúng sinh

Tâm cung kính tin nghe.

Ta ở trong nước đó

Giảng nói pháp Vô thượng

Các ông không chịu nghe

Cho rằng ta diệt độ.

Ta thấy các chúng sinh

Chìm đắm trong khổ não

Cho nên không hiện thân

Khiến chúng sinh khát ngưỡng,

Do tâm họ luyến mộ

Mới xuất hiện nói pháp

Sức thần thông như vậy

Trong a-tăng-kỳ-kiếp.

Thường ở núi Linh Thứu

Và các trụ xứ khác

Chúng sinh ở kiếp tận

Lúc lửa dữ thiêu đốt.

Cõi ta đây an ổn

Trời người luôn đông đủ

Vườn rừng các giảng đường

Trang nghiêm đủ các báu

Cây báu nhiều hoa trái

Chỗ chúng sinh vui chơi

Chư Thiên đánh trống trời

Thường trổi các âm nhạc,

Rưới hoa Mạn-đà-la

Cúng ta và đại chúng

Tịnh độ ta không hoại

Chúng sinh thấy thiêu đốt,

Lo sợ các khổ não

Những việc nhiều như vậy

Là tội các chúng sinh

Do nhân duyên nghiệp ác

Qua a-tăng-kỳ kiếp

Không nghe tên Tam bảo.

Người nhu hòa ngay thẳng

Nhờ tu các công đức

Thì thấy được thân ta

Giảng pháp ở nơi đây.

Có khi vì chúng này

Nói Phật sống vô lượng

Lâu lắm mới gặp được

Nói Phật rất khó gặp,

Trí lực ta như vậy

Tuệ sáng chiếu vô lượng

Sống lâu vô số kiếp

Tu hành lâu mới chứng

Các ông người có trí

Chớ sinh tâm nghi ngờ

Nên đoạn hết không còn.

Lời Phật không hư dối

Như lương y phương tiện

Trị bệnh cuồng cho con

Đang sống mà nói chết

Không nói ông hư dối

Ta là cha trong đời

Cứu chúng sinh khổ não

Vì phàm phu điên đảo

Đang sống mà nói diệt

Nếu thường được thấy ta

Thì sinh tâm kiêu mạn

Buông lung tham năm dục

Đọa vào trong đường ác

Ta thường biết chúng sinh

Hành đạo, chẳng hành đạo

Tùy nói đáng được độ

Mà nói các pháp môn.

Tự mình nghĩ thế này

“Lấy gì khiến chúng sinh

Chứng đắc đạo Vô thượng

Mau thành tựu thân Phật.”

***

Phẩm 16: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Bấy giờ, sau khi tất cả chúng trong đại hội đã được nghe nói về kiếp số tuổi thọ dài lâu của Phật, vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh được lợi ích lớn, như vậy, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Này A-dật-đa! Lúc ta nói tuổi thọ của Như Lai dài lâu, có sáu trăm tám mươi vạn ức na-do-tha hằng hà sa số chúng sinh, chứng pháp Nhẫn vô sinh, lại có gấp bội ngàn Đại Bồ-tát được môn Văn trì Đà-la-ni.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số trong một thế giới được Nhạo thuyết biện tài vô ngại.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong một thế giới được trăm ngàn vạn ức vô lượng Triền Đà-la-ni.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong tam thiên đại thiên thế giới chuyển được pháp luân không thoái.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong hai ngàn quốc độ chuyển được pháp luân thanh tịnh.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi trong tiểu thiên quốc độ, còn tám đời nữa sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi gấp bốn lần của bốn châu thiên hạ, bốn đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số hạt bụi gấp ba lần của bốn châu thiên hạ, ba đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số hạt bụi gấp hai lần của bốn châu thiên hạ, hai đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Lại có vô số Đại Bồ-tát nhiều như số bụi gấp bốn châu thiên hạ, một đời sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Lại có vô số chúng sinh nhiều như số bụi tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Lúc Đức Phật nói các Đại Bồ-tát ấy được pháp lợi lớn, thì giữa hư không mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la rải trên vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật ngồi tòa Sư tử dưới cội cây báu và rải trên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, đang ngồi tòa Sư tử trong tháp bảy báu, cũng rải trên tất cả các vị Bồ-tát và bốn bộ chúng.

Lại nữa, hương bột Chiên-đàn trầm thủy… tung ở giữa hư không, trống trời tự kêu tiếng hay vang xa. Lại mưa ngàn thứ y trời, rủ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc trân châu, chuỗi ngọc ma-ni, chuỗi châu như ý, ở khắp chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá, tự nhiên vây quanh cúng dường đại chúng. Trên mỗi Đức Phật có các Bồ-tát cầm phướn lọng, theo thứ lớp mà lên đến trời Phạm thiên.

Các vị Bồ-tát ấy dùng âm thanh vi diệu, có vô lượng bài tụng khen ngợi các Đức Phật. Bấy giờ, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y bày vai phải, Bồ-tát Di-lặc chắp tay hướng về phía Phật nói kệ:

Phật nói pháp hiếm có

Từ xưa chưa từng nghe,

Thế Tôn thần lực lớn

Sống lâu không thể lường.

Vô số các Phật tử

Nghe Thế Tôn phân biệt,

Nói được pháp lợi ấy

Hoan hỷ tràn khắp thân.

Có người trụ bất thoái

Hoặc được Đà-la-ni,

Hoặc Vô ngại nhạo thuyết

Vạn ức Triền tổng trì.

Hoặc vô số Bồ-tát

Như số bụi đại thiên,

Mỗi vị đều chuyển được

Pháp luân không thoái chuyển.

Lại có số Bồ-tát

Như số bụi đại thiên,

Mỗi vị đều chuyển được

Các pháp luân thanh tịnh.

Có Bồ-tát nhiều như

Vi trần tiểu thiên giới,

Còn dư tám đời nữa

Sẽ được thành Phật đạo.

Lại có số Bồ-tát

Nhiều gấp bốn, ba, hai,

Vi trần của bốn châu

Theo số đời thành Phật.

Lại có số Bồ-tát

Như vi trần bốn châu,

Còn dư có một đời

Sẽ thành Nhất thiết trí.

Hàng chúng sính như thế

Nghe Phật sống dài lâu,

Được vô lượng vô lậu

Phước báo rất thanh tịnh.

Có chúng sinh nhiều như

Vi trần tám thế giới.

Nghe Phật nói thọ mạng

Đều phát tâm Vô thượng.

Thế Tôn nói vô lượng

Pháp chẳng thể nghĩ bàn,

Có được nhiều lợi ích

Như hư không vô biên.

Mưa hoa Mạn-đà-la

Ma-ha mạn-đà-la,

Thích, Phạm như hằng sa

Vô số cõi Phật đến.

Mưa Chiên-đàn, trầm thủy

Xen nhau mà rơi xuống,

Như chim bay không trung

Rải cúng dường chư Phật.

Trống trời giữa hư không

Phát âm thanh vi diệu

Ngàn vạn thứ áo trời

Xoay chuyển mà rơi xuống.

Các lò hương báu đẹp

Đốt hương quý vô giá,

Tự nhiên xông khắp nơi

Cúng dường các Thế Tôn.

Chúng Đại Bồ-tát ấy

Cầm phướn lọng bảy báu,

Vạn ức thứ cao đẹp

Thứ lớp đến Phạm thiên;

Trước mỗi mỗi Đức Phật

Treo cờ báu phướn đẹp,

Cũng dùng ngàn vạn kệ

Ca vịnh khen Như Lai

Các sự việc như thế

Từ xưa chưa từng có,

Nghe Phật sống vô tận

Tất cả đều vui mừng;

Mười phương nghe tiếng Phật

Lợi ích khắp chúng sinh,

Tất cả đủ căn lành

Trợ giúp tâm vô thượng.

Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Này A-dật-đa! Chúng sinh nào nghe Phật sống lâu như vậy cho đến có thể sinh một niệm tin đúng thì được công đức không có hạn lượng. Trong tám mươi ức kiếp, thiện nam, thiện nữ nào vì đạo Vô thượng Bồ-đề mà tu năm pháp Ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định ba-la-mật trừ Trí tuệ ba-la-mật, đem công đức này sánh với công đức trước thì không bằng một phần trong trăm phần, phần ngàn, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến tính đếm thí dụ cũng chẳng biết được. Thiện nam nào có công đức như thế mà thoái thất nơi đạo Vô thượng Bồ-đề thì việc ấy không xảy ra.

Bấy giờ, muốn lập lại nghĩa trên, Thế Tôn nói kệ:

Người nào cầu tuệ Phật

Trong tám mươi vạn ức,

Na-do-tha số kiếp

Tu năm Ba-la-mật.

Ở trong các kiếp ấy

Bố thí cúng dường Phật,

Và Duyên giác đệ tử

Cùng các chúng Bồ-tát

Thức ăn quý sang trọng

Y phục và ngọa cụ

Tinh xá bằng chiên-đàn

Và vườn rừng xinh đẹp,

Bố thí các vật ấy

Tất cả đều tốt đẹp,

Tận cùng các số kiếp

Để hồi hướng Phật đạo.

Nếu giữ gìn cấm giới

Thanh tịnh không thiếu sót,

Mong cầu đạo Vô thượng

Được chư Phật khen ngợi.

Ai thực hành nhẫn nhục

Đứng trên đất nhu hòa,

Dầu bị người ác hại

Tâm họ không lay động,

Những người đắc pháp ấy

Bi bọn tăng thượng mạn

Khinh chê và quấy nhiễu

Như thế đều nhẫn được.

Hoặc siêng năng tinh tấn

Chí niệm thường bền vững,

Trong vô lượng ức kiếp

Nhất tâm không biếng nhác,

Ở trong vô số kiếp

An trú nơi vắng vẻ

Ngồi thiền hoặc kinh hành

Trừ ngủ thường nhiếp tâm;

Do các nhân duyên ấy

Phát sinh các thiền định,

Tám mươi ức vạn kiếp

Tâm an trú không loạn;

Đem phước thiền định này

Mong cầu đạo Vô thượng

Ta được Nhất thiết trí

Tận cùng các thiền định.

Người này trong trăm ngàn

Vạn ức các số kiếp,

Tu hành các công đức

Như trên đã giảng giải.

Có thiện nam, tín nữ

Nghe ta nói tuổi thọ,

Cho đến một niệm tin

Phước đây hơn người trước,

Nếu người nào không còn

Tất cả các nghi ngờ

Thân tâm tin chốc lát

Phước ấy nhiều như thế.

Nếu có các Bồ-tát

Vô lượng kiếp hành đạo,

Nghe ta nói tuổi thọ

Thì có thể tin nhận,

Các hạng người như thế

Đảnh lễ thọ kinh ấy.

Nguyện đời sau tu tập

Sống lâu độ chúng sinh,

Như Thế Tôn ngày nay

Vua trong dòng họ Thích,

Đạo tràng Sư tử hống

Nói pháp không sợ hãi,

Chúng ta đời vị lai

Được mọi người tôn kính.

Lúc ngồi ở đạo tràng

Nói tuổi thọ cũng vậy.

Nếu có người trong tâm

Trong sạch và ngay thẳng,

Học rộng và nhớ hết

Theo nghĩa giải lời Phật,

Những người như thế ấy

Trong đây không có nghi.

Lại nữa, này A-dật-đa! Người nào nghe Phật sống lâu mà chấp nhận lời nói đó thì người này được công đức không có hạn lượng, có thể phát sinh Tuệ vô thượng của Như Lai huống chi là người nghe nhiều kinh này hoặc dạy bảo cho người nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc dạy người chép, hoặc mang hương hoa, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng lụa, dầu thơm, đèn, nến cúng dường quyển kinh thì công đức của người ấy vô lượng, vô biên, có thể sánh với Nhất thiết chủng trí.

Này A-dật-đa! Thiện nam, thiện nữ nào nghe ta nói tuổi thọ dài lâu, hết lòng tin chắc thì được thấy Đức Phật luôn luôn thuyết pháp ở trong núi Linh Thứu, có chúng Đại Bồ-tát và hàng Thanh văn vây quanh. Lại thấy thế giới Ta-bà này, đất bằng lưu ly tự nhiên bằng phẳng, vàng Diêm-phù-đề làm ranh giới tám con đường, cây báu giăng thành hàng, các lâu đài đều làm bằng châu báu, chúng Bồ-tát đều ở trong đó. Người nào quán được như vậy, phải biết đó là tướng tin hiểu rất sâu xa.

Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ người nào nghe kinh này không chê bai mà có tâm tùy hỷ thì biết người này có tướng tin hiểu sâu xa huống chi là đọc tụng, thọ trì kinh này. Người ấy trước là đầu đội Đức Như Lai.

Này A-dật-đa! Thiện nam, thiện nữ này không cần vì ta mà tạo dựng chùa tháp và làm nhà cho chúng Tăng, hoặc dùng bốn sự cúng đường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ ấy thọ trì, đọc tụng kinh điển này là để tạo dựng tháp Phật và xây nhà cúng dường chúng Tăng thờ xá-lợi của Phật xây tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần lên đến cõi trời Phạm thiên, treo các phướn, lọng và các linh báu, hoa hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, các thứ ca múa dùng âm thanh vi diệu để ca ngâm khen ngợi Đức Phật thì ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp đã làm việc cúng dường ấy rồi.

Này A-dật-đa! Sau khi ta diệt độ, người nào nghe kinh này có khả năng thọ trì, hoặc tự mình chép, hoặc bảo người chép thì đã xây dựng nhà cho chúng Tăng, dùng gỗ Chiên-đàn để làm giảng đường, có ba mươi hai cơ sở, cao tám cây Đa-la, cao rộng trang nghiêm, đẹp đẽ, có trăm ngàn Tỳ-kheo ở trong đó, vườn rừng ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục thức ăn uống, giường, nệm, thuốc thang, tất cả đồ dùng đều đầy đủ ở trong đó, giảng đường của chúng Tăng có đến vô số, vô lượng trăm ngàn vạn ức dùng để cúng dường Phật và Tăng hiện tiền. Cho nên ta nói: “Sau khi Như Lai diệt độ, người nào thọ trì, đọc tụng vì người khác nói, hoặc tự mình chép hoặc bảo người khác chép, cúng dường quyển kinh thì không cần xây dựng chùa tháp và tạo lập nhà Tăng, cúng dường chúng Tăng. Huống chi có người thọ trì kinh này, mà còn tu hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền đính, Trí tuệ thì công đức ấy thù thắng vô lượng, vô biên. Ví như Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phía, trên dưới vô lượng, vô biên, công đức của người đó cũng vô lượng, vô biên, mau đến bậc Nhất thiết chủng trí. Nếu có người thọ trì, đọc tụng kinh này, nói cho người khác, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể xây dựng chùa tháp cùng tạo lập nhà Tăng cúng dường khen ngợi chúng Thanh văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức pháp khen ngợi mà khen ngợi công đức của Bồ-tát.

Lại nói cho người khác bằng các thứ nhân duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, cho người khác, lại có thể thanh tịnh trì giới, ở chung cùng nhu hòa, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thiền được các định thâm sâu, tinh tấn mạnh mẽ, nắm vững các pháp lành, lợi căn trí tuệ, trả lời đúng câu hỏi thông minh .

A-dật-đa! Sau khi ta diệt độ nếu các thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh điển này và có các công đức lành như thế, phải biết người ấy đã đến đạo tràng gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ngồi dưới gốc cây đạo.

A-dật-đa! Chỗ nào thiện nam cùng thiện nữ đó hoặc ngồi, hoặc đứng hoặc kinh hành, nơi đó nên xây tháp, tất cả trời, người đều cúng dường như tháp của Phật.

Bấy giờ, muốn tuyên lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Sau khi ta diệt độ

Hay phụng trì kinh này

Người đó phước vô lượng

Như trên đã nói rõ.

Đó thời là đầy đủ

Tất cả các cúng dường,

Vì xá lợi xây tháp

Bảy báu để trang nghiêm,

Nơi thờ rất cao rộng

Nhỏ dần đến Phạm thiên,

Linh báu ngàn muôn ức

Gió thổi vang tiếng hay.

Lại trong vô lượng kiếp

Mà cúng dường tháp đó

Hương hoa, các chuỗi ngọc

Y trời và âm nhạc;

Thắp đèn dầu bơ thơm

Thường chiếu sáng chung quanh

Lúc đời ác mạt pháp

Người hay trì kinh này

Thời là đã đầy đủ

Các cúng dường như trên.

Nếu hay trì kinh này

Thời như Phật hiện tại,

Dùng Ngưu đầu chiên-đàn

Dựng nhà Tăng cúng dường

Nhà ba mươi hai tòa

Cao tám cây Đa-la,

Thức ăn, y phục tốt

Giường nằm đều đầy đủ,

Trăm ngàn chúng nương ở

Vườn rừng các ao tắm,

Chỗ kinh hành. ngồi thiền

Các món đều nghiêm tốt,

Nếu có lòng tin chắc

Thọ trì, đọc tụng, biên

Nếu lại bảo người chép

Và cúng dường quyển kinh

Rải hoa, hương, hương bột

Dùng Tu-mạn, Chiêm-bặc

A-đề, Mục-da-đà

Dùng dầu thơm để đốt.

Người cúng dường như thế

Được công đức vô lượng

Như hư không vô biên

Phước đó cũng như trên.

Huống chi trì kinh này

Gồm Bố thí, Trì giới

Nhẫn nhục ưa thiền định

Chẳng sân, chẳng ác khẩu,

Cung kính nơi tháp miếu

Khiêm hạ các Tỳ-kheo.

Xa lìa tâm tự cao

Thường nghĩ suy trí tuệ.

Có gạn hỏi chẳng sân

Tùy thuận mà giải nói

Nếu làm được hạnh đó

Công đức không thể lường.

Nếu thấy Pháp sư này

Thành tựu công đức ấy

Phải dùng hoa trời rải

Áo trời trùm thân kia,

Đầu mặt lạy dưới chân

Sinh lòng tưởng chư Phật.

Lại nên nghĩ thế này

Chẳng lâu đến đạo tràng

Được vô lậu vô vi

Lợi ích khắp trời người

Chỗ ở của vị kia

Kinh hành hoặc ngồi nằm,

Cho đến nói một kệ

Trong đây nên xây tháp

Trang hoàng cho tốt đẹp,

Bằng các loại cúng dường

Phật tử dâng nơi này

Là được Phật thọ dụng,

Thường thường ở trong đó

Kinh hành và ngồi nằm.

***

Phẩm 17: TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Bấy giờ Đại Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ thì được bao nhiêu công đức?

Rồi nói kệ rằng:

Sau khi Phật diệt độ

Người nào nghe kinh này

Nếu sinh tâm tùy hỷ

Được bao nhiêu công đức?

Khi ấy, Phật bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

– Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào và những người có trí khác, hoặc lớn tuổi, trẻ tuổi khi nghe kinh này mà tùy hỷ, từ đạo tràng đi đến nơi khác, hoặc nơi nhà Tăng, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường sá, xóm làng, ruộng vườn như điều đã nghe tùy theo khả năng mà nói cho cha mẹ, bà con thân thuộc và bạn bè. Những người này nghe xong mà tùy hỷ nói lại cho người khác, người khác nghe xong tùy hỷ nói lại cho người khá c nữa, tuần tự như thế đến người thứ năm mươi.

– Này A-dật-đa! Công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi, ta nói ông hãy lắng nghe! Nếu bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới, có sáu đường chúng sinh trong bốn loài: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hoặc có thân hình, không có thân hình, có tưởng, không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, có loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có vô số chúng sinh như vậy, nếu có người nào cầu phước tùy theo sự mong muốn đem những vật ưa thích mà cung cấp đến mỗi chúng sinh như vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ ngọc quý và voi, ngựa, xe cộ, lầu đài, cung điện bằng bảy báu đầy cả cõi Diêm-phù-đề. Vị đại thí chủ bố thí như vậy suốt tám mươi năm và suy nghĩ: “Ta đã cho chúng sinh những thứ họ ưa thích, tùy theo ý muốn, nhưng chúng sinh này đều đã già yếu, tuổi quá tám mươi, tóc bạc da nhăn, mạng sống còn không lâu. Ta nên đem chánh pháp của Phật mà dạy bảo họ.” Vị ấy liền tập hợp chúng sinh này lại để diễn thuyết chánh pháp, chỉ dạy làm cho lợi ích, vui mừng, đồng thời mọi người đều được đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, dứt trừ tất cả các lậu hoặc, đối với các thiền định sâu xa đều được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý ông nghĩ sao? Công đức của đại thí chủ đó có nhiều không?

Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Công đức của đại thí chủ ấy có nhiều vô lượng, vô biên, nếu vị thí chủ kia chỉ bố thí cho tất cả chúng sinh những vật ưa thích thì công đức vô lượng huống chi làm cho họ chứng quả A-la-hán.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

– Ta nói rõ cho ông. Như có người đem tất cả những vật ưa thích bố thí cho chúng sinh ở trong sáu nẻo nhiều đến bốn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới khiến cho họ được quả A-la-hán thì công đức của người đó không bằng công đức tùy hỷ của người thứ năm mươi chỉ nghe một bài kệ trong kinh Pháp Hoa, không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức cho đến dùng tính toán ví dụ không thể biết được.

Này A-dật-đa! Công đức do tùy hỷ tuần tự đến người thứ năm mươi nghe kinh Pháp Hoa đã vô lượng, vô biên, vô số như vậy, huống chi là người đầu tiên trong hội chúng mà tùy hỷ thì phước ấy còn hơn vô lượng, vô biên, vô số, không thể so sánh được.

Này A-dật-đa! Người nào vì kinh này mà đến Tăng phường hoặc ngồi, đứng, nghe và lãnh hội chỉ trong chốc lát, nhờ công đức này sinh vào nơi khác, được voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng, châu báu rất hảo hạng và ở cung trời.

Người nào ngồi ở trong chỗ giảng pháp sau có người đến lại khuyến khích họ ngồi nghe hoặc chia chỗ ngồi cho họ thì công đức của người đó thân sau được ngồi chỗ trời Đế Thích hoặc ở chỗ Phạm vương hoặc chỗ Chuyển luân thánh vương.

Này A-dật-đa! Người nào nói với người khác: “Có kinh Pháp Hoa nên cùng nhau đến nghe.” Nghe lời nói họ đến nghe trong chốc lát. Công đức của người đó qua thân sau cùng được sinh một chỗ với Bồ-tát Đà-la-ni, có trí tuệ thông minh, trăm ngàn vạn kiếp đều không bị câm ngọng, hơi miệng không hôi, lưỡi không bệnh hoạn, miệng không bị bệnh, răng không đen, không vàng, không thưa, không thiếu rụng, không lệch, không cong, môi không thừa ra, không ngắn vào, không thô rít, không mụt ghẻ, không khiếm khuyết, không cong vẹo, không dày, không lớn, không thâm đen, không có những tướng xấu. Mũi chẳng bị xẹp, chẳng bị cong gãy, sắc mặt chẳng đen, chẳng ốm dài, chẳng gãy, không có tất cả các tướng xấu, môi, lưỡi, răng, nướu tất cả đều đẹp đẽ, mũi thon cao thẳng, khuôn mặt tròn trịa, lông mày dài, cong, trán rộng bằng phẳng, tướng người đầy đủ, đời đời sinh ở đâu đều được gặp Phật, nghe phá p tin nhận lời dạy.

Này A-dật-đa! Ông hãy xem khuyên một người đến nghe kinh mà công đức lớn như vậy huống chi là nhất tâm lắng nghe, nói, đọc tụng ở trong đại chúng vì người phân biệt đúng như lời dạy mà tu hành.

Khi đó, để nói lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Có người trong chúng hội

Nghe được kinh điển này,

Dầu chỉ một bài kệ

Tùy hỷ dạy người khác,

Tuần tự dạy cho nhau

Đến người thứ năm mươi,

Người cuối cùng được phước

Ta sẽ nói rõ ra.

Như có đại thí chủ

Cung cấp vô lượng chúng,

Trải qua tám mươi năm

Tùy ý muốn người xin,

Thấy tướng họ già nua

Tóc bạc và da nhăn.

Răng rụng, thân khô gầy

Nghĩ họ sống không lâu

Ta nên dạy bảo họ

Khiến được chứng quả đạo.

Liền dùng phương tiện nói

Pháp Niết-bàn chân thật,

Đời sống không bền chắc

Như bọt, bóng, song, nắng.

Các ông đều nên biết

Mau sinh lòng nhàm chán

Những người nghe pháp này

Đều chứng quả La-hán

Đầy đủ sáu thần thông

Ba minh, tám giải thoát,

Người năm mươi cuối cùng

Nghe một kệ tùy hỷ

Phước người này hơn kia

Không thể ví dụ được.

Tuần tự nghe như thế

Phước ấy đã vô lượng

Huống nữa trong phá hội

Người ban đầu nghe pháp,

Nếu khuyên được một người

Nghe được kinh Pháp Hoa,

Nói kinh này nhiệm mầu

Ngàn vạn kiếp khó gặp

Liền vâng lời đến nghe

Dầu chỉ trong chốc lát

Phước báo của người ấy

Ta sẽ nói rõ ra.

Đời đời miệng không bệnh

Răng không thưa, vàng, đen,

Môi không dày, bị khuyết

Không có các tướng xấu,

Lưỡi không khô, đen, ngắn

Mũi cao, thon và thẳng

Trán rộng và bằng phẳng,

Mắt, mặt đều xinh đẹp

Người thấy đều ưa thích

Miệng nói ra không hôi,

Miệng thường tỏa mùi thơm

Hương của hoa Ưu-bát

Nếu đến nơi nhà Tăng

Muốn nghe kinh Pháp hoa

Chốc lát nghe tùy hỷ,

Phước đức của người ấy

Sau sinh trong trời, người

Được voi, ngựa, xe tốt

Kiệu, cáng bằng châu báu

Cùng ở cung điện trời.

Nếu ớ nơi giảng pháp

Khuyên người ngồi nghe kinh,

Nhân vì phước này được

Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân

Huống chi nhất tâm nghe

Giải thích ý nghĩa kính,

Đúng như pháp tu hành

Phước đức không lường được.

***

Phẩm 18: CÔNG ĐƯC CỦA PHÁP SƯ

Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Thường Tinh Tấn:

– Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép thì người ấy sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý, dùng các công đức này để trang nghiêm, sáu căn đều được thanh tịnh.

Thiện nam, thiện nữ ấy, con mắt do cha mẹ sinh ra được thanh tịnh, thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài, núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, thấy tất cả chúng sinh ở trong đó, nghiệp, nhân duyên, quả báo, chỗ sinh ra đều thấy biết hết.

Khí ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Người nào trong đại chúng

Bằng tâm không sợ hãi

Nói kinh Pháp Hoa này

Ông nghe công đức đó

Người ấy được tám trăm

Đức thù thắng nơi mắt

Dùng để làm trang nghiêm

Mắt ấy rất thanh tịnh

Mắt cha mẹ sinh ra

Thấy được ba ngàn cõi

Trong, ngoài, núi Di-lâu

Núi Tu-di, Thiết vi

Và các núi rừng khác

Biển lớn nước sông ngòi

Dưới đến ngụ c A-tỳ

Trên đến trời Hữu đảnh

Đều thấy được tất cả

Chúng sinh ở trong đó

Tuy chưa được Thiên nhãn

Nhãn lực thường như thế.

Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, biên chép, giải nói thì được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, bằng tai thanh tịnh đó nghe khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A-tỳ , trên đến cõi trời Hữu đảnh, trong ngoài, các thứ lời lẽ, âm thanh như: tiếng voi, ngựa, xe, bò, tiếng khóc lóc, buồn than, tiếng loa, trống, chuông, linh, tiếng cười nói, tiếng nam, nữ, đồng tử, đồng nữ, tiếng pháp, phi pháp, tiếng khổ, vui, tiếng phàm phu, Thánh nhân, tiếng vui thích, không vui thích, tiếng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, tiếng lửa, nước, gió, tiếng địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, tiếng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật.

Nói tóm lại, trong tam thiên đại thiên thế giới, trong, ngoài tất cả các tiếng, dầu chưa được Thiên nhĩ chỉ bằng tai thường của cha mẹ sinh ra được thanh tịnh đều nghe biết hết, phân biệt các tiếng như thế mà tai không bị hư.

Khi ấy để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Tai cha mẹ sinh ra

Sạch sẽ không cấu bẩn.

Bằng tai thường nghe được

Tiếng của ba ngàn cõi,

Như voi, ngựa, bò, xe

Chuông, linh, loa và trống,

Đàn cầm, đàn không hầu

Ống tiêu và ống địch,

Tiếng hát hay, trong trẻo

Nghe mà không ham mê,

Tiếng của nhiều loại người

Đều nghe hiểu tất cả.

Nghe tiếng các cõi trời

Xướng ca rất mầu nhiệm,

Và nghe riêng nam, nữ

Tiêng bé trai, bé gái,

Trong núi song, hang sâu

Tiếng Ca-lăng-tần-dà

Các loài chim Mạng mạng,

Đều nghe tiếng của nó

Đau khổ nơi địa ngục

Đều nghe rõ tất cả.

Ngạ quỷ bị đói khát

Tiếng tìm cầu ăn uống,

Các loài A-tu-la

Ở ngoài bờ biển lớn,

Lúc cùng nhau nói chuyện

Vang ra âm thanh lớn,

Như vậy người thuyết pháp

Ở trong thế gian này,

Nghe các tiếng rất xa

Mà tai không bị hư

Khắp thế giới mười phương

Cầm thú kêu gọi nhau

Người nói kinh Pháp Hoa

Ở đây đều nghe hết,

Trên các trời, Phạm thiên

Quang âm và Biến tịnh,

Cho đến trời Hữu đảnh

Âm thanh của lời nói

Pháp sư ở nơi đây

Đều được nghe tất cả.

Trong chúng hội Tỳ-kheo

Và các Tỳ-kheo-ni,

Nếu đọc tụng kinh này

Hãy nói cho người khác

Pháp sư ớ nơi đây

Đều nghe được tất cả.

Lại có các Bồ-tát

Đọc tụng kinh điển này,

Hoặc vì người khác nói

Soạn tập giải nghĩa kinh,

Các thứ tiếng như thế

Đều nghe được tất cả.

Chư Phật, Đấng Đại Thánh

Giáo hóa các chúng sinh

Ở trong các hội lớn

Diễn nói pháp nhiệm mầu,

Người trì Pháp Hoa này

Đều nghe được tất cả.

Cõi tam thiên đại thiên

Các thứ tiếng trong, ngoài,

Dưới đất ngục A-tỳ

Trên đến trời Hữu đảnh,

Đều nghe các tiếng đó

Mà tai không bị hư.

Vì tai ấy rất tốt

Biết phân biệt tất cả.

Người trì kinh Pháp Hoa

Dầu chưa được Thiên nhĩ,

Dùng tai cha mẹ sinh

Công đức đã như thế.

Lại nữa, này Thường Tình Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được tám trăm công đức nơi mũi, đều nhờ bằng mũi thanh tịnh này, nghe được các mùi hương trên, dưới, trong, ngoài, khắp cả ba ngàn cõi đại thiên thế giới, như hương của hoa Tu-mạn-na, Xà-đề, Mạt-lợi, Chiêm-bặc, Ba-la-la, Sen đỏ, xanh, trắng, mùi hương cây có hoa, có trái, mùi hương thơm Chiên-đàn, Trầm thủy, Đa-ma-la-bạt, Đa-dà-la và trăm ngàn mùi hương hòa lẫn nhau hoặc là bột viên, hương xoa, người trì kinh ở tại đây, vẫn phân biệt tất cả.

Lại còn biết rõ các mùi của chúng sinh như voi, ngựa, dê, bò …, mùi trai, gái, đồng tử, đồng nữ và mùi cỏ cây rừng rậm hoặc gần, xa, có bao nhiêu thứ mùi đều nghe được cả, phân biệt không nhầm. Người trì kinh này tuy ở tại chỗ nhưng nghe được mùi trên các cõi trời, mùi cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-bệ-đà-la, mùi bông Mạn-đà-la, Đại Mạn-đà-la, Mạn-thù-sa, Đại Mạn-thù-sa, Chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, hương các loài hoa, mùi hương tổng hợp các loại hương ở trên trời đều nghe rõ cả.

Lại nghe mùi thơm nơi thân của các vị trời, Thích Đề-hoàn Nhân ở trên thắng điện, vui chơi trong năm dục hoặc mùi ở trên Diệu pháp đường vì các vị trời Đao-lợi nói pháp, lúc dạo chơi trong vườn và nơi thân của các vị trời nam, nữ khác, tất cả đều nghe đến tuần tự như thế cho đến trời Phạm thiên, cho đến mùi nơi thân của trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết.

Và nghe mùi hương do các vị trời đốt lên và mùi hương của Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật đều được nghe đến và biết họ ở đâu. Tuy nghe biết những mùi hương ấy, nhưng nơi mũi không bị hư, không nhầm lẫn, nếu muốn phân biệt nói cho người khác thì nhớ lại không lầm.

Khi ấy, để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Người này mũi thanh tịnh

Ở trong thế giới này,

Dù vật thơm hay hôi

Đều nghe biết rõ cả.

Tu-mạn-na, Xà-đề

Đa-ma-la, Chiên-đàn

Trầm thủy và mùi quế

Mùi các thứ hoa trái,

Và biết mùi chúng sinh

Nam tử và nữ nhân,

Người nói pháp ở xa

Nghe mùi biết ở đâu.

Đại lực Chuyển luân vương,

Tiểu Chuyển luân và con

Quần thần, các cung nhân

Nghe mùi biết ở đâu.

Châu báu mang nơi thân

Và kho báu trong đất.

Báu nĩr của Luân vương

Nghe mùi biết ở đâu.

Đồ trang sức trên người

Y phục và chuỗi ngọc

Các loại hương xoa thân

Nghe mùi biết thân ấy.

Các trời đi hay ngồi

Dạo chơi hay biến hóa

Người trì kinh Pháp Hoa

Nghe mùi đều biết hết.

Các cây hoa, trái, hột

Và mùi thơm dầu bơ

Người trì kinh Pháp Hoa

Đều biết ở chỗ nào.

Trong núi sâu nơi vắng

Cây Chiên-đàn nở hoa,

Chúng sinh ở trong đó

Nghe mùi đều biết hết.

Núi Thiết vi, biển lớn

Các chúng sinh trong đất,

Người trì kinh nghe mùi

Đều biết họ ở đâu.

Trai, gái A-tu-la

Và quyến thuộc của chúng,

Khi đấu tranh, dạo chơi

Nghe mùi biết ở đâu.

Đồng hoang, chỗ nguy hiểm

Sư tử voi, hùm, sói,

Bò rừng các loại trâu

Nghe mùi đều biết hết.

Nếu có người mang thai

Chưa rõ trai hay gái,

Không căn chẳng phải người

Nghe mùi đều biết rõ.

Nhờ được sức nghe mùi

Biết người mới mang thai,

Được thành hay chẳng thành

An vui sinh con phước.

Do vì sức nghe mùi

Biết tâm niệm gái, trai

Tâm nhiễm dục sân si,

Cũng biết người tu thiện

Và các loại trong đất

Vàng, bạc, các châu báu

Chứa đầy trong bình đồng

Nghe mùi đều biết được.

Các loại chuỗi ngọc báu

Không thể biết giá cả

Nghe mùi biết mắc rẻ

Biết rõ nơi sản xuất.

Các thứ hoa trên trời

Mạn-đà, Mạn-thù-sa

Cây Ba-lợi-chất-đa

Nghe mùi đều biết được.

Các cung điện trên trời

Thượng, trung, hạ khác nhau,

Các hoa báu trang nghiêm

Nghe mùi đều biết được.

Thắng điện, vườn, rừng, trời

Lầu đại Diệu pháp đường,

Vui chơi ở trong đó

Nghe mùi đều biết được.

Chư Thiên hoặc nghe pháp

Hay lúc hưởng năm dục,

Qua lại, đi, ngồi, nằm

Nghe mùi đều biết được.

Y phục Thiên nữ mặc

Trang sức hương hoa đẹp,

Lúc dạo chơi đùa giỡn

Nghe mùi đều biết được.

Tuần tự lên như thế

Cho đến trời Phạm thiên,

Người nhập thiền, xuất thiền

Nghe mùi đều biết được.

Trời Quang âm, Biến tịnh,

Cho đến trời Hữu đảnh

Mới sinh hay bỏ thân

Nghe mùi đều biết được.

Tất cả các Tỳ-kheo

Đối pháp thường tinh tấn,

Hoặc ngồi hoặc kinh hành

Và đọc tụng kinh điển,

Hoặc ở dưới rừng cây

Ngồi thiền suốt không nghỉ,

Người trì kinh nghe mùi

Đều biết họ ở đâu.

Bồ-tát chí bền chắc

Ngồi thiền hoặc đọc tụng,

Hoặc vì người nói pháp

Nghe mùi đều biết rõ.

Thế Tôn ở các phương

Được mọi người cung kính,

Thương chúng mà nói pháp

Nghe mùi đều biết rõ.

Chúng sinh ở trước Phật

Nghe kinh đều vui mừng,

Tu hành đúng như pháp

Nghe mùi đều biết rõ.

Chưa được mũi pháp sinh

Vô lậu của Bồ-tát,

Nhưng nhờ trì kinh này

Trước được tướng mũi ấy.

Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì kinh này hoặc đọc tụng, giải nói, biên chép thì được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi.

Những thứ tốt, xấu, ngon, dở và các vật đắng chát ở trên lưỡi của người đó đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, đối với họ món gì cũng ngon.

Nếu dùng lưỡi ở trong đại chúng nói pháp, diễn ra tiếng nhiệm mầu có thể vào tâm họ, đều làm cho họ được hoan hỷ, an lạc.

Lại nữa các vị Thiên tử, Thiên nữ cõi trời Thích, Phạm nghe âm thanh vi diệu này những lời diễn thuyết theo trình tự của ngôn ngữ nên đều đến nghe. Và các loại Rồng, Rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-dà, Ma-hầu-la-dà nữ, vì để nghe pháp đều đến gần gũi cung kính cúng dường.

Và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà -tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, vương tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con và quyến thuộc trong, ngoài, cõi cung điện cũng đến nghe pháp.

Vì Bồ-tát này thuyết pháp rất hay nên các Bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước theo hầu cúng dường suốt đời.

Lại nữa, hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, chư Phật thường thích gặp người ấy, họ ở hướng nào chư Phật đều hướng về nơi ấy để thuyết pháp và người ấy thọ trì tất cả Phật pháp, lại còn có thể nói ra tiếng pháp nhiệm mầu vi diệu.

Khi đó để nói lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Người đó lưỡi thanh tịnh

Không bị nếm vị dở,

Ăn bất cứ món gì

Cũng đều thành cam lồ.

Bằng tiếng hay thanh tịnh

Nói pháp giữa đại chúng,

Dùng thí dụ nhân duyên

Dẫn dắt tâm chúng sinh,

Người nghe đều hoan hỷ

Sắm đồ cúng thượng hạng,

Các Trời, Rồng, Dạ-xoa

Và loài A-tu-la

Đều một lòng cung kính

Cùng nhau đến nghe pháp.

Người nói kinh pháp đó

Muốn dùng tiếng nhiệm mầu

Đến khắp ba ngàn cõi

Tùy ý liền đưa đến.

Vua, Đại, Tiểu Chuyển luân

Và ngàn con, quyến thuộc,

Chắp tay lòng cung kính

Thường đến nghe nhận pháp

Hàng trời, Rồng, Dạ-xoa

La-sát, Tỳ-xá-xà

Cũng đều rất vui mừng

Thường ưa đến cúng dường.

Phạm thiên vương, Ma vương

Tự tại, Đại tự tại

Các chúng Trời như thế

Thường đến chỗ người ấy.

Chư Phật và đệ tử

Nghe người ấy nói pháp,

Thường ghi nhớ giữ gìn

Hoặc hiện thân trước họ.

Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì hoặc đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được tám trăm công đức nơi than. Được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, mọi người đều thích nhìn. Vì thân người ấy thanh tịnh nên chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, khi sinh, lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sinh vào cõi lành, cõi ác…, đều hiện trong đó, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Di-lâu, núi Đại di-lâu và các chúng sinh ở các núi ấy cũng đều hiện trong đó, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến trời Hữu đảnh có những cảnh vật và chúng sinh gì đều hiện trong thân người ấy, nếu có hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát và chư Phật nói pháp cũng đều hiện hình tượng trong thân người ấy.

Bấy giờ, để lặp lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Người nào trì Pháp Hoa

Thân họ rất thanh tịnh,

Như lưu ly trong suốt

Chúng sinh đều thích nhìn.

Lại như gương sáng sạch

Đều thấy các hình ảnh,

Thân Bồ-tát thanh tịnh

Thấy hết vật trong đời.

Chỉ riêng mình biết rõ

Người khác không thấy được,

Tất cả các chúng sinh

Trong thế giới ba ngàn.

Trời, người, A-tu-la

Địa ngục, quỷ. súc sinh,

Các hình ảnh như thế

Đều hiện rõ trong thân.

Các cung điện cõi trời

Cho đến trời Hữu đảnh

Núi Thiết vi, Di-lâu

Và núi Đại di-lâu

Tất cả các biển lớn

Đều hiện ở trong thân.

Chư Phật và Thanh văn

Đệ tử Phật Bồ-tát,

Hoặc một mình giữa chúng

Nói pháp đều hiện rõ.

Tuy chưa dược diệu thân

Pháp tánh sạch lậu hoặc,

Dùng thân thường thanh tịnh

Hiện tất cả trong đó.

Lại nữa, này Thường Tinh Tấn! Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Bằng ý căn thanh tịnh này, chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh mà thấu rõ được vô lượng, vô biên nghĩa lý. Hiểu nghĩa ấy rồi, có thể diễn nói một câu, một bài kệ đến một tháng, bốn tháng hoặc một năm. Các pháp nói ra tùy theo ý nghĩa trên đều không trái với thật tướng. Nếu nói sách vở thế gian, lời lẽ giúp đời, nghề nghiệp sinh sống đều thuận theo chánh pháp. Sự suy nghĩ, sự tạo tác và lý luận của tâm chúng sinh trong sáu đường, khắp tam thiên đại thiên thế giới đều biết rõ hết. Tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên sự tư duy, tính toán và nói năng của người ấy đều là Phật pháp, đều là chân thật, cũng là lời trong kinh chư Phật thuở trước đã nói.

Lúc ấy, để lập lại nghĩa trên, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ý người đó thanh tịnh

Sáng suốt không nhơ đục,

Bằng ý vi diệu này

Biết pháp thượng, trung, hạ.

Chỉ nghe một bài kệ

Thông đạt vô số nghĩa,

Tuần tự nói như pháp

Tháng, bốn tháng, cả năm.

Tất cả các chúng sinh

Trong ngoài thế giới này

Hoặc Trời, Rồng và Người

Các Dạ-xoa, quỷ thần,

Sống ở trong sáu cõi

Suy nghĩ của các loài,

Phước báo trì Pháp Hoa

Một lúc đều biết hết.

Vô số Phật mười phương

Tướng trăm phước trang nghiêm,

Nói pháp cho chúng sinh

Đều nghe được thọ trì.

Tư duy vô số nghĩa

Nói pháp cũng vô lượng,

Trước sau không quên nhầm

Nhờ trì kinh Pháp Hoa

Nên biết tướng các pháp

Theo nghĩa biết thứ tự,

Rõ danh tự, ngôn ngữ

Diễn nói theo hiểu biết.

Người này nói điều gì

Đều là pháp chư Phật.

Nhờ nói kinh pháp này

Ở trong chúng không sợ.

Người trì kinh Pháp Hoa

Ý thanh tịnh như thế,

Chưa đạt ý vô lậu

Nhưng có tướng như thế.

Người ấy trì kinh này

Trú quả vị hiếm có.

Được tất cả chúng sinh

Vui mừng và kính mến.

Hay dùng ngàn vạn loại

Lời lẽ rất tuyệt diệu,

Phân biệt mà nói pháp

Nhờ trì kinh Pháp Hoa.

***

Phẩm 19: BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH

Bấy giờ Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đắc Đại Thế:

– Ông nên biết Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nào trì kinh Pháp Hoa được công đức nơi mắt, tai, mũi, lưới, thân và ý thanh tịnh như trước đã nói, nếu có người nào dùng lời ác mắng nhiếc, chê bai thì bị tội báo lớn cũng như trước đã nói.

Này Đắc Đại Thế! Cách dây vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn vô số kiếp về trước, có Đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, kiếp tên Ly suy, nước tên Đại thành. Đức Phật Oai Âm Vương trong đời ấy nói pháp cho hàng Trời, Người, A-tu-la, vì người cầu đạo quả Thanh văn mà nói pháp bốn Đế thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, hoàn toàn đạt tới Niết-bàn; vì người cầu quả Bích-chi-phật mà nói pháp mười hai nhân duyên; vì hàng Bồ-tát nương nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho hoàn toàn đạt trí tuệ Phật.

Này Đắc Đại Thế! Phật Oai Âm Vương thọ bốn trăm ngàn ức na-do-tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong cõi Diêm-phù-đề, tượng pháp tồn tại ở đời số kiếp nhiều như vi trần trong bốn châu thiên hạ. Sau khi làm lợi ích cho chúng sinh, Đức Phật ấy vào Niết-bàn. Sau khi chánh pháp, tượng pháp diệt rồi, trong nước ấy lại có Phật ra đời cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt có đến hai vạn ức Phật đều cùng một hiệu.

Sau khi Đức Như Lai Oai Âm Vương đầu tiên vào Niết bàn, khi chánh pháp diệt hết, trong đời tượng pháp các Tỳ-kheo tăng thượng mạn có nhiều thế lực. Bấy giờ, có một vị Tỳ-kheo Bồ-tát tên Thường Bất Khinh.

Này Đắc Đại Thế! Vì sao gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ-kheo này hễ gặp bất cứ người nào dù là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc hay Ưu-bà-di, vị ấy đều lễ bái khen ngợi và nói: “Tôi rất cung kính chẳng dám khinh thường các vị. Vì sao? Vì các vị ai cũng thực hành đạo Bồ-tát sẽ được thành Phật.”

Nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng siêng năng đọc tụng kinh điển mà chỉ toàn đi lễ lạy thậm chí khi nhìn thấy bốn chúng từ xa, vị ấy cũng cố đến để lễ lạy khen ngợi cho bằng được, nói: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị đều sẽ thành Phật.” Trong bốn chúng có người rất bực bội, nói lời ác mắng nhiếc vị ấy: “Ông Tỳ-kheo mất trí này từ đâu đến mà nói tôi không dám khinh các vị, rồi thọ ký cho chúng ta sẽ thành Phật, chúng ta đừng nghe lời thọ ký tùy tiện như thế!”

Trải qua nhiều năm như vậy, tuy thường bị mắng nhiếc nhưng Tỳ-kheo ấy chẳng hề bực tức vẫn cứ nói: “Các vị sẽ thành Phật”. Lúc nói lời đó bị mọi người đánh đập, ném đá, vị ấy chạy ra xa để tránh nhưng vẫn nói to lên: “Tôi không dám khinh thường các vị, các vị sẽ thành Phật.” Vị ấy luôn nói những lời như thế, cho nên các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tăng thượng mạn đều đặt cho vị ấy tên là Thường Bất Khinh.

Lúc sắp chết, từ nơi hư không, vị Tỳ-kheo ấy nghe đầy đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Đức Phật Oai Âm Vương đã nói thuở trước, nghe xong thọ trì liền thanh tịnh được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý như trên. Được thanh tịnh các căn rồi, vị ấy được tăng thêm hai triệu ức na-do-tha tuổi và nói kinh Pháp Hoa này cho tất cả mọi người.

Bấy giờ bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tăng thượng mạn trước đây khinh khi, gọi Tỳ-kheo ấy là Thường Bất Khinh, nay thấy vị này đạt năng lực thần thông lớn, năng lực biện tài nhạo thuyết, sức tịch tĩnh lớn và nghe vị ấy thuyết pháp, họ đều kính phục và tin theo.

Bồ-tát Thường Bất Khinh lại giáo hóa mười triệu ức chúng sinh đều khiến cho họ trụ vào Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sau khi qua đời, Bồ-tát Thường Bất Khinh được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong chánh pháp của các Đức Phật ấy nói kinh Pháp Hoa này. Vì nhân duyên đó, Bồ-tát lại được gặp hai ngàn ức Đức Phật đều có tôn hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương ở trong pháp của chư Phật ấy, thọ trì, đọc tụng, nói kinh điển này cho bốn chúng, đạt được các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đều thanh tịnh, ở giữa đại chúng nói pháp không hề sợ hãi.

Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ-tát Thường Bất Khinh cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen ngần ấy Đức Phật như thế, vun trồng các căn lành, sau đó lại gặp mười triệu ức Đức Phật, cũng ở trong pháp chư Phật ấy mà nói kinh điển này, đến khi công đức thành tựu sẽ được thành Phật.

Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát Thường Bất Khinh lúc ấy chẳng phải ai khác chính là thân ta. Nếu ở đời trước ta không đọc tụng, thọ trì và diễn nói cho người khác kinh điển này thì ta chẳng thể nhanh chóng đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thuở trước, ta ở chỗ chư Phật thọ trì, đọc tụng và diễn nói cho người khác kinh này nên ta mau được thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đắc Đại Thế! Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy vì giận dữ khinh thường ta nên hai trăm ức kiếp thường chẳng được gặp Phật, nghe pháp, không gặp chúng Tăng, một ngàn kiếp bị đọa địa ngục A-tỳ, chịu nhiều đau khổ. Hết tội này rồi họ mới gặp Bồ-tát Thường Bất Khinh giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lúc ấy thường khinh khi vị Bồ-tát đó chẳng phải ai khác, chính là các ông Bạt-đà-bà-la… năm trăm Bồ-tát, các ông Sư tử Nguyệt… năm trăm Tỳ-kheo, các ông Ni-tư-phật năm trăm Ưu-bà-tắc đang ở trong hội này đều đạt bậc không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đắc Đại Thế! Nên biết kinh pháp này vô cùng lợi ích cho các vị Đại Bồ-tát, có thể làm cho các vị đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ-tát thường xuyên đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này.

Bấy giờ, để tuyên lại nghĩa trên Đức Thế Tôn nói kệ:

Quá khứ có Phật

Hiệu Oai Âm Vương,

Thần, trí không lường

Dìu dắt tất cả

Trời, Người, Rồng, Thần

Đều cúng dường Phật.

Sau Phật diệt độ

Khi pháp sắp dứt

Có vị Bồ-tát

Tên Thường Bất Khinh.

Bấy giờ bốn chúng

Chấp giữ các pháp.

Bồ-tát Bất Khinh

Đến chỗ của họ.

Nói với họ rằng:

“Tôi chẳng khinh ngài

Các ngài tu hành

Đều sẽ thành Phật.”

Mọi người nghe rồi

Khinh khi, mắng nhiếc,

Bồ-tát Bất Khinh

Đều chịu đựng cả.

Nghiệp tội hết rồi

Đến lúc sắp chết

Ngài nghe kinh này

Sáu căn thanh tịnh,

Nhờ sức thần thông

Tuổi thọ tăng thêm,

Diễn nói kinh này

Cho khắp mọi người.

Những người chấp pháp

Đều nhờ Bồ-tát

Giáo hóa thành tựu

Khiến trụ Phật đạo.

Bất Khinh qua đời

Gặp vô số Phật,

Vì nói kinh này

Được phước không lường.

Dần đủ công đức

Mau thành Phật đạo.

Bất Khinh thuở ấy

Chính là thân ta,

Còn bốn bộ chúng

Những người chấp pháp,

Nghe Bất Khinh nói

Ngài sẽ thành Phật

Vì nhân duyên đó

Gặp vô số Phật.

Chính các Bồ-tát

Chúng năm trăm người

Cùng các Tỳ-kheo

Cận sự nam, nữ,

Đang ở trước ta

Nghe pháp trong hội.

Ta ở đời trước

Khuyên những người ấy

Nghe nhận kinh này

Là pháp bậc nhất.

Mở bày, dạy người

Khiến trụ Niết-bàn,

Đời đời thọ trì

Kinh điển như vậy.

Ức ức vạn kiếp

Đến không thể bàn

Lâu mới được nghe

Kinh Pháp Hoạ này.

Ức ức vạn kiếp

Đến không thể bàn,

Chư Phật Thế Tôn

Mới nói kinh này.

Vì vậy hành giả

Sau Phật diệt độ,

Nghe kinh điển này,

Chớ có nghi ngờ!

Cần phải nhất tâm

Diễn nói kinh này

Đời đời gặp Phật

Mau thành Phật đạo.

***

Phẩm 20: THẦN LỰC CỦA NHƯ LAI

Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát như số vi trần trong ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, đều chắp tay ở trước Phật nhất tâm chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, và bạch:

– Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ ở các cõi nước nơi mà phân thân của Thế Tôn diệt độ chúng con sẽ diễn nói kinh này. Vì sao? Vì chúng con cũng tự muốn dược pháp lớn này để thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép và cúng dường.

Lúc ấy ở trước ngài Văn-thù-sư-lợi và vô lượng trăm ngàn vạn ức Đại Bồ-tát trụ lâu ở thế giới Ta-bà, cùng tất cả chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân…, Đức Thế Tôn hiện năng lực thần thông lớn, bày tướng lưỡi rộng, dài lên đến trời Phạm thiên, từ tất cả lỗ chân lông đều phóng ra vô số tia sáng đủ màu sắc chiếu soi đến thế giới ở khắp mười phương. Các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử nơi gốc cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng, dài, phóng vô số hào quang như vậy.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và chư Phật dưới cây báu hiện năng lực thần thông, trải qua hàng trăm ngàn năm, sau đó mới thu tướng lưỡi lại đồng thời tằng hắng và khảy móng tay, hai tiếng ấy vang đến thế giới chư Phật ở khắp mười phương, làm cho đất chấn động sáu cách. Nhờ năng lực thần thông của Đức Phật, các chúng sinh Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều nhìn thấy được vô lượng, vô biên trăm ngàn ức Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu ở thế giới Ta-bà, thấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Đức Đa Bảo Như Lai ngồi nơi tòa Sư tử ở trong tháp báu và thấy cả vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vị Đại Bồ-tát cùng với bốn chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Thấy như vậy rồi các chúng sinh ấy vô cùng vui mừng, được điều chưa từng có.

Tức thời, các vị trời ở giữa hư không nói lớn:

– Cách đây vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số thế giới, có thế giới tên Ta-bà, trong thế giới ấy có Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni đang nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm cho hàng Bồ-tát, các ông phải hết lòng tùy hỷ và lễ lạy cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

Nghe tiếng nói giữa hư không rồi, các chúng sinh chắp tay hướng về thế giới Ta-bà nói:

– Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!

Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!

Họ dùng vô số hoa hương, chuỗi ngọc, phướn lọng, đồ trang sức và các vật quý báu… đều cũng từ xa rải vào thế giới Ta-bà. Những vật được rải vào ấy, từ mười phương giống như mây tụ lại, biến thành màn báu che khắp trên các Đức Phật ở đây.

Lúc này, các cõi nước ở khắp mười phương đều thông suốt không trở ngại giống như một cõi Phật.

Bấy giờ Đức Phật bảo hàng Bồ-tát thượng hạnh:

– Thần lực của chư Phật vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn. Nếu ta dùng thần lực như vậy vì để phú chúc mà nói công đức của kinh này thì nói đến vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức vô số kiếp cũng không thể nói hết.

Nói tóm lại, tất cả các pháp, các năng lực thần thông tự tại, các tạng pháp bí mật, các việc sâu xa của Như Lai đều được tuyên bày, nói rõ trong kinh này. Thế nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông phải nhất tâm thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép theo đúng như lời dạy mà tu hành.

Ở trong cõi nước nơi có quyển kinh hoặc ở trong vườn, trong rừng, dưới cây báu, trong nhà Tăng, nơi nhà cư sĩ hoặc trong cung điện hoặc ở hang núi, đồng hoang… mà có người thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép kinh này theo đúng như lời dạy mà tu hành thì ở trong đó nên dựng tháp để cúng dường. Vì sao? Phải biết chỗ đó chính là đạo tràng. Ở nơi ấy, chư Phật chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân và vào Niết-bàn.

Bấy giờ để tuyên lại nghĩa này, Đức Thế Tôn nói kệ:

Chư Phật, Đấng cứu đời

Trụ trong thần thông lớn,

Để vui lòng chúng sinh

Hiện vô số thần thông.

Tướng lưỡi đến Phạm thiên

Phóng vô số hào quang,

Vì người cầu Phật đạo

Hiện việc hiểm có này.

Tiếng tằng hắng của Phật

Và tiếng khảy móng tay,

Vang các nước mười phương

Đất chấn động sáu cách.

Sau khi Phật diệt độ

Người thọ trì kinh này.

Chư Phật đều hoan hỷ

Hiện vô lượng thần thông,

Vì phú chúc kinh này.

Nên khen người thọ trì,

Ở trong vô số kiếp

Nói cũng không thể hết.

Công đức của người này

Vô biên không cùng tận.

Như hư không mười phương

Không biết được biên giới.

Người thọ trì kinh này

Tức đã thấy Như Lai,

Cũng thấy Phật Đa Bảo

Các phân thân của Phật.

Lại thấy ta hôm nay

Giáo hóa các Bồ-tát,

Người thọ trì kinh này

Khiến ta, các phân thân

Phật Đa Bảo diệt độ

Tất cả đều hoan hỷ

Được gặp và cúng dường

Mười phương Phật hiện tại,

Quá khứ và vị lai

Khiến các Ngài hoan hỷ.

Chư Phật ngồi đạo tràng

Đã được pháp bí mật,

Người thọ trì kinh này

Chẳng lâu cũng sẽ được.

Vui nói không cùng tận

Danh tự và ngôn từ,

Ý nghĩa của các pháp

Như gió trong hư không

Không có gì trở ngại.

Sau khi Phật diệt độ

Theo nghĩa nói như thật,

Nhân duyên và thứ tự

Kinh chư Phật đã nói.

Như ánh sáng nhật nguyệt

Dứt trừ mọi tối tăm,

Người này ở trong đời

Diệt tối của chúng sinh,

Dạy vô số Bồ-tát

Hoàn toàn trụ Phật thừa.

Vì vậy người có trí

Nghe lợi ích công đức,

Sau khi Phật Niết-bàn

Nên thọ trì kinh này,

Người ấy thành Phật đạo

Chắc chắn không nghi ngờ.

***

Phẩm 21: ĐÀ-LA-NI

Bấy giờ, Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dạy, sửa y phục bày vai bên phải chắp tay bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng thông suốt và biên chép kinh Pháp Hoa thì được bao nhiêu phước đức?

Đức Phật dạy:

– Này Dược Vương, ý ông nghĩ sao? Thiện nam, thiện nữ nào cúng dường tám triệu ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật thì người ấy được phước đức nhiều không?

– Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều!

Đức Phật dạy:

– Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói dù chỉ một bài kệ, bốn câu kinh Pháp Hoa theo như lời dạy mà tu hành thì người ấy được công đức rất nhiều.

Lúc ấy Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú Đà-la-ni để hộ vệ đó.

Liền nói chú:

“Đát diệt tha (1) an nhĩ (2) mạn nhĩ (3) mạt nê (4) ma ma nê (5) chất đê (6) chiết rị đê (7) nhiếp mê (8) nhiếp mị đa tỷ (9) xa an đê (10) mục ngật đê (11) mục ngật đê diêm mê tảm mê (12) ưu tỷ phiên mê (13) tảm ma tảm mê (14) xã di (15) khế di (16) át khế di (17) át kỳ nải (l 8) xa a đê nhiếp mị (19) đa la nị (20) a lô ca bà di (21) bát ra để tỳ lợi nị (22) tỷ tỷ lô (23) ưu tiện đa la nễ tỷ sắt xỉ (24) át điên đới ba rị đế (25) úc cứu lê (26) mục cứu Iê (27) át ra đệ (28) bát ra đệ (29) thưa ca y (30) át tảm ma tảm mê (31) bột địa kỷ hô kiết đê (32) đạt ma bát ly khí đê (33) tăng già niết cụ sát nễ (34) bạt da bạt da thâu đạt nê (35) mạn trất rị (36) mạn đát ra khế dạ đê (37) hộ lộ đới kiêu xá rị di (38) ác xoa dạ (39) á xoa bạt nại đa dạ (40) bạt lô ưu mạn nhĩ nại đa dạ (41).”

– Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của sáu mươi hai ức hằng hà sa các Đức Phật nói. Cho nên, người nào làm hại đến vị Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.

Lúc này, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ-tát Dược Vương:

– Lành thay, lành thay! Này Dược Vương! Vì thương nghĩ và để ủng hộ Pháp sư mà ông nói Đà-la-ni này, làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ-tát Dũng Thí bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa. Nếu vị Pháp sư được chú Đà-la-ni này rồi thì Dạ-xoa, La-sát, Phú-đơn-na, Kiết-giá, Cưu-bàn-trà hoặc ngạ quỷ… muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư đều không thấy được.

Bồ-tát liền ở trước Đức Phật, nói thần chú:

“Đát điệt tha (1) thiệp bà lê (2) mạt ha thiệp bà lê (3) úc hùng (4) mục hùng (5) át đệ (6) át đồ bà để (7) niết rị trí di (8) niết trị trí da bạt để (9) nhất chí nhĩ (10) tỷ chí nhĩ (11) chất chí nhĩ (12) niết rị triết nhĩ (13) niết rị tra bạt nhĩ (14).”

Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là cả hằng hà sa Đức Phật đã nói và tùy hỷ, vì vậy người nào làm hại Pháp sư này tức là đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.

Bấy giờ, vua trời Hộ Thế Tỳ-sa-môn thưa:

– Bạch Thế Tôn! Vì thương nghĩ chúng sinh, con cũng xin nói Đà-la-ni để ủng hộ vị Pháp sư này.

Liền nói thần chú:

“Đát diệt tha (1) át trai (2) nại trai (3) nội nại trai (4) án na trù (5) na trĩ quấn nại trĩ (6).”

– Bạch Thế Tôn! Con dùng thần chú này để ủng hộ Pháp sư và cũng để ủng hộ người thọ trì kinh này, làm cho họ trong khoảng một trăm do-tuần không bị các tai nạn.

Lúc ấy, trong hội chúng có Thiên vương Trì Quốc cùng với ngàn vạn ức na-do-tha Càn-thát-bà cung kính đến trước Đức Phật chắp tay thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con cũng xin nói thần chú Đà-la-ni để ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa.

Liền nói thần chú:

“Đát diệt tha (1) ác dương (2) nễ yết nễ cu rị (3) kiến đà rị (4) bàn đồ rị (5) ma đăng để (6) tỷ yết tứ (7) tăng cú lê (8) bộ lưu tát rị (9).”

Bạch Thế Tôn! Thần chú Đà-la-ni này là của bốn mươi hai ức các Đức Phật nói. Vì thế, nếu ai làm hại Pháp sư này tức đã xâm phạm đến các Đức Phật ấy.

Bấy giờ, có các La-sát nữ, tên là Lam Bà, Tỳ Lam Bà, Khúc Xỉ, Hoa Xỉ, Hắc Xỉ, Đa Phát, Vô Yểm Túc, Từ Anh Lạc, Cao Đế và Đoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí, mười La-sát này cùng với con cái, quyến thuộc của họ và mẹ con loài quỷ đều đến chỗ Đức Phật, đồng thanh thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người đọc tụng, thọ trì kinh Pháp Hoa, trừ các hoạn nạn cho họ, giả sử có người muốn rình tìm chỗ dở của Pháp sư, đều không thấy được.

Họ liền nói thần chú:

“Đát điệt tha, nhất để mê, nhĩ mê hộ lô ê, tát đới ê.”

Thà trèo lên đầu chúng con, chứ đừng làm tổn hại Pháp sư. Hoặc Dạ-xoa, La-sát, Ngạ quỷ, hoặc Phú-đơn-na, Kiết-giá, Tỳ-đà-la, hoặc Kiến-đà, Ô-ma-lặc-đà, A-bạt-ma-la, hoặc Dạ-xoa kiết-giá, Nhân kiết-giá… gây bệnh trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, hoặc bệnh nóng luôn, hoặc hiện ra hình nam, nữ, đồng nam, đồng nữ…. Ngay cả trong mộng cũng không làm tổn hại đến Pháp sư.

Họ liền nói kệ:

Ai không thuận thần chú

Làm hại người thuyết pháp,

Đầu vỡ làm bảy phần

Như nhánh cây A-lê,

Như tội giết cha mẹ

Sẽ bị họa ép dầu

Đong lường dối gạt người

Tội Điều-đạt phá Tăng

Người làm hại Pháp sư

Sẽ bị tội như thế.

Nói kệ xong các La-sát thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ đích thân ủng hộ người thọ trì, đọc tụng, tu hành kinh này, khiến cho họ dược an ổn tránh khỏi các hoạn nạn và tiêu trừ các thuốc độc.

Đức Phật dạy các La-sát:

– Lành thay, lành thay! Các người chỉ ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp Hoa, phước đức đã không thể đo lường, huống là ủng hộ người thọ trì đầy đủ và cúng dường quyển kinh Pháp Hoa bằng hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, phướn lọng, âm nhạc, thắp các loại đèn như: đèn nến, đèn dầu, đèn các loại dầu thơm, đèn dầu hoa Tô-ma-na, hoa Chiêm-bặc, hoa Ba-sư-ca, hoa Ưu-bát-la… cúng dường trăm ngàn loại phẩm vật như thế.

Này Cao Đế! Các người và quyến thuộc nên ủng hộ vị Pháp sư như vậy.

Khi Đức Phật nói phẩm thần chú Đà-la-ni này, sáu vạn tám ngàn người đạt pháp Nhẫn vô sinh.

***

Phẩm 22: BẢN SỰ CỦA BỒ TÁT DƯỞC VƯƠNG

Bấy giờ, Bồ-tát Tú Vương Hoa bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Dược Vương du hóa ở thế giới Ta-bà như thế nào? Bồ-tát này thực hành bao nhiêu trăm ngàn vạn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm?

Lành thay, bạch Đức Thế Tôn! Kính xin giảng giải sơ lược để hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, hàng Bồ-tát từ nước khác đến và chúng Thanh văn này nghe được đều vui mừng.

Đức Phật dạy:

– Thuở quá khứ cách đây vô lượng hằng hà sa kiếp có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến Tri, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức Đại Bồ-tát, bảy mươi hai hằng hà sa đại Thanh văn.

Phật thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, Bồ-tát cũng vậy. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la và các nạn khổ. Đất bằng lưu ly phẳng như bàn tay, cây báu đẹp đẽ, màn báu che ở trên, phướn, hoa quý rũ xuống, đốt hương trong bình báu xông thơm khắp cả nước, dưới mỗi cây có một đài bảy báu, cây ấy cách đài khoảng một lằn tên. Dưới mỗi cây báu đều có Bồ-tát và Thanh văn an tọa. Trên mỗi đài báu đều có trăm ức chư Thiên trổi nhạc trời khen ngợi cúng dường Đức Phật.

Bấy giờ, Đức Phật ấy đang nói kinh Pháp Hoa cho Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, hàng Bồ-tát và chúng Thanh văn. Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ưa thích tu tập khổ hạnh trong giáo pháp của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, tinh tấn kính hành, dốc lòng cầu quả vị Phật. Trải qua mười hai ngàn năm được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Được tam-muội này rồi, Bồ-tát vô cùng vui mừng, suy nghĩ: “Ta đã được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân đều nhờ năng lực nghe kinh Pháp Hoa.” Ta sẽ cúng dường Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh này. Lập tức Bồ-tát vào Tam-muội, ở giữa hư không, rưới hoa Mạn-đà-la, Đại mạn-đà-la, bột Kiên hắc Chiên-đàn như mây đầy trong hư không và hương Hải thử ngạn Chiên-đàn, sáu thù hương này có giá trị bằng thế giới Ta-bà để cúng dường Đức Phật.

Cúng dường xong, ra khỏi Tam-muội, Bồ-tát lại suy nghĩ: “Tuy ta dùng năng lực thần thông để cúng dường Đức Phật, cũng không bằng đem thân cúng dường.”

Bồ-tát liền uống các loại nước thơm như: Chiên-đàn, Huân lục, Đâu lâu-bà, Tất-lực-ca, Trầm thủy giao, Chiêm-bặc, các loại nước hoa thơm… Trải qua một ngày hai trăm năm, rồi dùng dầu thơm thân, quấn y báu cõi trời, rưới các loại dầu thơm, dùng nguyện lực thần thông đến trước Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức để tự thiêu thân, ánh sáng chiếu khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Đây là chân thật tinh tấn, đây gọi là pháp chân thật để cúng dường Như Lai. Nếu có dùng vô số phẩm vật như: hoa, hương, chuỗi ngọc, hương dốt, hương bột, hương xoa, phướn lọng bằng lụa cõi trời và hương Hải thử ngạn chiên-đàn… để cúng dường đều không thể bằng được. Giả sử có đem nước, thành, vợ con để bố thí cũng không thể sánh được.”

Này thiện nam! Đó là pháp bố thí bậc nhất, là tối tôn tối thượng trong các pháp bố thí, vì dùng pháp để cúng dường các Đức Như Lai.

Nói xong, chư Phật đều im lặng. Lửa nơi thân của Bồ-tát cháy, trả i qua hai ngàn một trăm năm mới tắt. Cúng dường pháp như thế xong, sau khi qua đời, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sính Hỷ Kiến lại sinh trong nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Ở trong cung của vua Tịnh Đức, bỗng nhiên Bồ-tát hóa sinh ra trong tư thế ngồi kiết già, liền nói kệ với vua cha:

Xin vua cha biết cho

Con kinh hành nơi ấy,

Liền chứng đắc tất cả

Tam-muội “Hiện các than” ,

Tu tập rất siêng năng

Xả bỏ thân đáng yêu.

Nói kệ xong, thưa:

– Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức vẫn còn ở đời, lúc trước con đã cúng dường Đức Phật xong mới được chứng đắc Đà-la-ni “Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh”, lại được nghe tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà… bài kệ kinh Pháp Hoa. Hôm nay con trở lại cúng dường Đức Phật ấy.

Thưa xong, liền ngồi nơi tòa bảy báu, bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, đến chỗ Đức Phật, Bồ-tát đảnh lễ dưới chân, chắp tay nói kệ khen Phật:

Dung nhan Phật thù thắng

Ánh sáng chiếu mười phương,

Con đã từng cúng dường

Nay lại được gần gũi.

Bấy giờ, nói kệ xong, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thưa:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?

Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, bảo Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến:

– Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đã đến lúc diệt độ, ông nên sửa soạn chỗ nằm, đêm nay ta sẽ vào Niết-bàn.

Đức Phật bảo:

– Này thiện nam! Ta đem Phật pháp dặn dò lại cho ông cùng các hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử và pháp Vô thượng Bồ-đề. Lại đem chư Thiên cung cấp hầu hạ, bảy báu, các cây báu, đài báu trong tam thiên đại thiên thế giới giao phó hết cho ông. Sau khi ta diệt độ, có xá-lợi cũng phó chúc cho ông. Ông nên tạo dựng ngần ấy ngàn tháp để lưu truyền, thiết lập cúng dường. Nói như thế xong vào khoảng cuối đêm Đức Phật nhập Niết-bàn.

Bấy giờ, thấy Đức Như Lai nhập diệt, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rất buồn rầu thương tiếc, liền dùng Hải thử ngạn chiên-đàn để cúng dường trả-tỳ thân Phật. Sau khi lửa tắt, Bồ-tát thu nhặt xá-lợi đựng trong tám mươi bốn ngàn bình báu, tôn trí nơi tám mươi bốn ngàn tháp, cao bằng ba thế giới, trang trí các phướn lọng rũ xuống, treo các linh báu để cúng dường.

Bấy giờ Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến tự nghĩ: “Dù ta đã cúng dường Đức Phật như thế nhưng thấy chưa đủ, hôm nay ta lại cúng dường xá-lợi”, liền bảo hàng Bồ-tát, chúng đại đệ tử cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa… tất cả đại chúng:

– Các ông phải nhất tâm ghi nhớ, hôm nay ta cúng dường xá-lợi Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức .

Nói xong liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp, Bồ-tát đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường, làm cho vô số chúng cầu quả Thanh văn và vô số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều được an trú trong Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân.

Bấy giờ, các hàng Bồ-tát, Trời, Người, A-tu-la… thấy Bồ-tát không còn tay, nên buồn rầu khóc lóc nói: “Bồ-tát này là Thầy giáo hóa chúng ta, nay đã đốt tay làm cho thân không được đầy đủ.”

Lúc ấy, ở trong đại chúng, Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến phát nguyện: “Con đã bỏ hai tay chắc chắn sẽ được thân vàng ròng của Phật, nếu sự thật này không sai thì hai tay con trở lại như cũ.”

Phát nguyện xong nhờ phước đức, trí tuệ sâu dày nên hai tay của Bồ-tát tự nhiên trở lại như cũ. Ngay lúc ấy, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, chư Thiên rưới hoa báu, tất cả hang trời, người được điều chưa từng có.

Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến chẳng phải ai khác, nay chính là Bồ-tát Dược Vương. Bồ-tát ấy đã bỏ thân bố thí trong vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp như thế.

Này Tú Vương Hoa! Có người nào muốn chửng đắc Vô thượng Bồ-đề, dù chỉ đốt một ngón tay cho đến một ngón chân để cúng dường tháp Phật hơn đem nước, thành, vợ con, tất cả núi rừng, sông hồ, vật quý báu trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường.

Có người nào dùng bảy báu đầy trong tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Phật và bậc Đại Bồ-tát, Bích-chi-phật, A-la-hán công đức của người đó không bằng người thọ trì một bài kệ của kinh Pháp Hoa vì phước của họ rất nhiều.

Này Tú Vương Hoa! Ví như trong các dòng nước sông ngòi, kênh rạch thì biển là lớn nhất. Cũng vậy trong các kinh chư Như Lai đã nói thì kinh Pháp Hoa này là sâu xa bậc nhất. Như các núi Hắc sơn Tiểu Thiết vi, Đại thiết vi và mười núi báu thì núi Tu-di là lớn nhất.

Cũng vậy trong các kinh thì kinh Pháp Hoa là tối tôn, tối thượng. Như trong các vì sao, mặt trăng là hơn hết. Cũng vậy trong ngàn vạn ức các kinh pháp thì kinh Phá p Hoa là chiếu sáng bậc nhất. Như mặt trời xua tan bóng tối, cũng vậy kinh này phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện. Như trong các vua nhỏ thì vua Chuyển luân là trên hết, cũng vậy trong các kinh đứng đầu, kinh này là tối thượng. Như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh. Như vua trời Đại phạm là cha của tất cả chúng sinh, cũng vậy, kinh này là cha của tất cả Hiền thánh, Hữu học, Vô học và hàng phát tâm Bồ-tát.

Như trong tất cả phàm phu thì bậc Tu-đà-hoàn, Tu-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật là bậc nhất; cũng vậy, trong các kinh, pháp mà tất cả chư Như Lai, hàng Bồ-tát, Thanh văn đã nói thì kinh này là tối thắng; cũng vậy, có người nào thọ trì kinh này thì người ấy cũng là bậc nhất trong tất cả chúng sinh. Trong tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát là bậc nhất; cũng vậy trong tất cả các kinh pháp, kinh này là tối thượng. Như Đức Phật là vua trong các pháp, cũng vậy, kinh này là vua trong các kinh.

Này Tú Vương Hoa! Kinh này cứu giúp tất cả chúng sinh, làm cho họ xa lìa các khổ, được nhiều lợi ích và những mong cầu đều được đầy đủ, như ao nước mát mẻ làm thỏa mãn tất cả những người khát nước; như người lạnh được lửa, như người trần truồng được y phục, người buôn gặp chủ, con gặp mẹ, qua sông gặp thuyền, bệnh được thuốc, tối được đèn, nghèo được của báu, dân gặp vua, như khách buôn gặp biển, như đuốc trừ tối tăm.

Cũng vậy, kinh này làm cho chúng sinh xa lìa tất cả bệnh, khổ, hiểu rõ tất cả sự trói buộc của sinh tử. Có người nào được nghe kinh Pháp Hoa này tự mình hoặc khuyên người khác biên chép thì công đức của người ấy nhiều hay ít cũng không thể biết được giới hạn dù dùng trí tuệ của Phật để tính toán. Nếu chép kinh này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phướn, lọng, y phục, các thứ đèn như nến, dầu, dầu thơm, Chiêm-bặc, Tu-mạn-na, Ba-la-la, Bà-lợi-sư-ca và Na-bà-na-lợi… để cúng dường cũng được vô lượng công đức như thế.

Này Tú Vương Hoa! Có người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương cũng được công đức vô lượng, vô biên. Có người nữ nào nghe, thọ trì phẩm này thì được vĩnh viễn chấm dứt thân nữ. Sau khi Đức Như Lai diệt độ, sau năm trăm năm, có người nữ nào nghe kinh này như lời dạy mà tu hành thì người này khi chết được sinh vào thế giới an lạc trụ xứ của Đức Phật A-di-đà, có hàng Đại Bồ-tát vây quanh, từ trong tòa hoa sen báu mà hóa sinh ra, không bị tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, ganh ghét và các phiền não làm hại, chứng đắc thần thông Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát. Được nhẫn này rồi mắt người ấy thanh tịnh nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức na-do-tha, hằng hà sa chư Phật.

Lúc này, từ xa chư Phật đồng thanh khen ngợi:

– Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Trong pháp của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ông nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ kinh này vì người khác diễn nói thì được phước đức vô lượng, vô biên, lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi một ngàn Đức Phật cùng nói công đức của ông cũng không thể hết. Hôm nay, ông đã phá trừ các giặc ma, diệt hết quân sinh tử, xua tan các oán thù khác.

Này thiện nam! Trăm ngàn chư Phật đều dùng thần lực để hộ vệ ông, tất cả trời, người trong thế gian và trí tuệ thiền định của hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, cho đến Bồ-tát cũng không ai bằng ông, chỉ trừ Đức Như Lai.

Này Tú Vương Hoa! Bồ-tát này thành tựu các năng lực công đức, trí tuệ như vậy. Người nào nghe phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương có thể tùy hỷ khen ngợi thì đời này trong miệng người ấy thường tỏa ra hương thơm hoa sen thơm, trong lỗ chân lông thường tỏa ra hương thơm Ngưu đầu chiên-đàn, được công đức như đã nói ở trên.

Này Tú Vương Hoa! Ta đem phẩm Bản sự của Bồ-tát Dược Vương này phú chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, sau năm trăm năm ông nên truyền bá khắp cõi Diêm-phù-dề, đừng để chấm dứt và không cho hàng ác ma, dân ma, hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… quấy phá.

Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng năng lực thần thông để giữ gìn kinh này. Vì sao? Vì kinh này là vị thuốc hay cho người bệnh ở cõi Diêm-phù-đề. Có người bệnh nào được nghe kinh này thì được lành bệnh, không già, không chết.

Này Tú Vương Hoa! Nếu thấy có người nào thọ trì kinh này, ông nên dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rải trên người ấy, rải xong liền nghĩ: “Không bao lâu nữa, chắc chắn người này sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, thổi loa pháp, đánh trống pháp lớn, cứu độ tất cả các chúng sinh ra khỏi biển sinh, già, bệnh, chết.” Thế nên người cầu quả Phật, thấy người nào thọ trì kinh điển này thì phải cung kính như thế.

Lúc Đức Phật nói phẩm Bản Sự Của Bồ-tát Dược Vương, có tám vạn bốn ngàn Bồ-tát chứng đắc Đà-la-ni Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Trong tháp báu Đức Đa Bảo Như Lai khen Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Lành thay, lành thay! Này Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn mới có thể thưa hỏi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy để làm lợi ích vô lượng cho tất cả chúng sinh.

***

Phẩm 23: BỒ TÁT DIỆU ÂM

Bấy giờ, từ trên nhục kế tướng Đại nhân, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni phóng ra ánh sáng chiếu khắp trăm ngàn vạn ức triệu hằng hà sa các thế giới ở phương Đông. Trải qua vô số cõi ấy có thế giới Tịnh quang trang nghiêm, có Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô lượng, vô số chúng Bồ-tát vây quanh. Ánh sáng bạch hào của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu khắp cõi ấy.

Khi đó, trong nước Tịnh quang quang nghiêm, có Bồ-tát Diệu Âm đã từ lâu trồng các công đức, cúng dường, gần gũi vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, đã thành tựu trí tuệ sâu xa, chứng các Tam-muội như: Tràng tướng, Pháp hoa, Tịnh đức, Trí vương hý, Vô duyên, Trí ấn, Hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, Tích tập tất cả các công đức, Thanh tịnh thần thông tự tại, Tuệ cự trang nghiêm vương, Tịnh quang minh, Tịnh tạng, Bất cộng nhựt toàn; đắc trăm ngàn vạn ức hằng hà sa các Tam-muội lớn như vậy. Được ánh sáng của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu đến thân mình, Bồ-tát Diệu Âm liền bạch Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí:

– Bạch Thế Tôn! Con sẽ đến thế giới Ta-bà lễ bái, cúng dường, gần gũi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và gặp các Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, Dược Vương, Dũng Thí, Thường Hành ý, Trang Nghiêm Vương, Tú Vương Hoa, Dược Thượng.

Bấy giờ, Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Bồ-tát Diệu Âm:

– Ông đến thế giới Ta-bà chớ có khinh thường coi là thấp kém. Này thiện nam! Thế giới Ta-bà này rất nhiều sự ô uế, các núi, đá, đất, cao, thấp chẳng bằng phẳng, thân Phật thấp nhỏ, thân các Bồ-tát cũng thấp nhỏ mà thân ông thì cao lớn bốn vạn hai ngàn do-tuần, thân ta sáu trăm tám mươi vạn do-tuần. Thân ông đầy đủ phước đức có ánh sáng vi diệu đặc biệt. Do vậy, ông đến cõi Ta-bà chớ có khinh chê, xem thường Phật, Bồ-tát và quốc độ.

Bồ-tát Diệu Âm bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con đến thế giới Ta-bà là nhờ diệu lực thần thông tự tại, công đức, trí tuệ trang nghiêm của Như Lai.

Bồ-tát Diệu Âm chẳng rời chỗ ngồi, thân không dao động, nhập vào Tam-muội. Cách pháp tòa không xa, tại núi Kỳ-xà -quật, nhờ lực Tam-muội, Bồ-tát Diệu Âm hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, cọng bằng vàng ròng, cánh bằng bạc, tua bằng kim cương, đài bằng ngọc chân-thúc-ca.

Bấy giờ, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử thấy hoa sen này liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà xuất hiện điềm lành có ngàn vạn hoa sen, cọng bằng vàng ròng, cánh bằng bạc, tua bằng kim cương, đài bằng ngọc chân-thúc-ca?

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Văn-thù-sư-lợi:

– Đại Bồ-tát Diệu Âm từ cõi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí cùng tám vạn bốn ngàn đồ chúng muốn đến thế giới Ta-bà thân cận, lễ bái ta và cũng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa.

Văn-thù -sư-lợi bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy đã trồng thiện căn gì, tu công đức gì, hành Tam-muội gì mà được năng lực thần thông vĩ đại như vậy? Xin Thế Tôn nói danh hiệu những Tam-muội ấy cho chúng con, chúng con cũng muốn nghe và hành trì, thực hành Tam-muội đó mới có thể thấy được sắc tướng lớn nhỏ, oai nghi đi lại của Bồ-tát ấy. Cầu xin Thế Tôn dùng sức thần thông để con được thấy khi Bồ-tát ấy đến.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

– Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, nay sẽ vì các ông mà làm cho thấy thân tướng của Bồ-tát đó.

Đức Phật Đa Bảo bảo Bồ-tát ấy:

– Này thiện nam, hãy đến đây! Văn-thù-sư-lợi muốn thấy than ông.

Bồ-tát Diệu Âm cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát ẩn mất ở cõi mình, hướng đến thế giới Ta-bà, đi qua các cõi đều chấn động sáu cách, trời mưa hoa sen bảy báu, trăm ngàn nhạc trời không đánh tự kêu, Bồ-tát này mắt như cánh hoa sen xanh rộng lớn, giả sử hòa hợp trăm ngàn vạn mặt trăng cũng không đẹp bằng diện mạo đoan chính của Bồ-tát; thân bằng vàng ròng, trang nghiêm bằng vô lượng trăm ngàn công đức, oai đức rạng rỡ, hào quang chiếu sáng, đầy đủ các tướng như thân Na-la-diên bền chắc.

Bồ-tát ấy lên đài bảy báu, bay lên hư không cách đất bảy cây đa-la cùng các chúng Bồ-tát cung kính theo sau đến núi Kỳ-xà-quật ở thế giới Ta-bà. Đến nơi, Bồ-tát xuống đài bảy báu, lấy chuỗi ngọc vô giá đem đến chỗ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, dâng xâu chuỗi ngọc, thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí thăm hỏi Thế Tôn ít bệnh, ít não, an lạc không? Tứ đại điều hòa không? Việc đời có thể kham nhẫn không? Chúng sinh dễ độ, ít tham dục, sân hận, ngu si, ganh ghét, kiêu mạn, không bất hiếu cha mẹ, chẳng kính Sa-môn, không tà kiến, không có tâm bất thiện, giữ gìn năm giác quan không?

Bạch Thế Tôn! Chúng sinh có thể thu phục các ma oán không? Từ lâu Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ ở trong tháp bảy báu, Thê Tôn có đến nghe pháp không? Lại thăm hỏi Đức Như Lai Đa Bảo an ổn, ít bệnh, có ở lại lâu không? Nay con muốn thấy thân Phật Đa Bảo, cúi xin Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với Phật Đa bảo:

– Bồ-tát Diệu Âm muốn được diện kiến.

Phật Đa Bảo nói với Diệu Âm:

– Lành thay, lành thay! Vì cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni, nghe kính Pháp Hoa và gặp Văn-thù-sư-lợi nên ông đến nơi này.

Khi ấy, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm trồng căn lành gì, tu công đức gì mà có sức thần thông như vậy?

Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức:

– Quá khứ có Phật tên là Lôi Âm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, nước tên là Hiện nhất thiết thế gian, kiếp tên là Hỷ kiến. Bồ-tát Diệu Âm ở trong một vạn hai ngàn năm, dùng mười vạn thứ kỹ nhạc cúng dường Đức Phật Vân Lôi Âm Vương và dâng tám vạn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên đó nay được quả báo sinh tại nước Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thong lớn như thế.

Này Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao? Bồ-tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc và dâng bát báu đến Đức Phật Vân Lôi Âm Vương thuở đó, đâu phải người nào xa lạ, nay chính là Đại Bồ-tát Diệu Âm.

Này Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm nay đã từng thân cận cúng dường rất nhiều chư Phật, từ lâu đã trồng cội công đức, lại gặp hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na-do-tha Đức Phật.

Này Hoa Đức! Ông chỉ thấy thân Bồ-tát Diệu Âm ở đây, thực ra Bồ-tát hiện ra các thân hình khắp nơi để nói kinh điển này cho chúng sinh. Như hiện ra thân Phạm vương, Đế Thích, Tự tại thiên, Đại tự tại thiên, Thiên đại Tướng quân, Tỳ-sa-môn, Thiên vương, Chuyển luân vương, các Tiểu vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà -di, thân phụ nữ của trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn, Đồng nam, Đồng nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà , A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nói kinh này; có thể cứu giúp các loài ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và những chỗ hiểm nạn, cho đến biến làm thân nữ ở trong hậu cung của vua để nói kinh này.

Này Hoa Đức! Bồ-tát Diệu Âm này hay cứu độ các chúng sinh trong cõi Ta-bà nên hiện hóa nhiều loại thân hình như thế để nói kinh này cho các chúng sinh nhưng trí tuệ, thần thông biến hóa không bị tổn giảm. Bồ-tát này dùng ngần ấy số lượng trí tuệ soi sáng cõi Ta-bà, khiến cho tất cả chúng sinh đều được hiểu biết thì đối với hằng hà sa thế giới khắp cả mười phương, cũng dùng trí tuệ như vậy. Đối với chúng sinh đáng dùng thân Thanh văn để độ thoát, thì hiện thân Thanh văn để nói pháp, hoặc cần dùng than Bích-chi-phật để cứu độ thì hiện thân Bích-chi-phật để nói pháp, hoặc cần đùng thân Bồ-tát để độ thoát thì hiện thân Bồ-tát để nói pháp, hoặc cần dùng thân Phật để độ thoát thì hiện thân hình Phật để nói pháp. Như vậy, đối với các hạng người đáng độ mà hiện thân hình như thế, cho đến cần phải dùng sự diệt độ để được độ thoát thi hiện sự diệt độ.

Này Hoa Đức! Đại Bồ-tát Diệu Âm thành tựu sức trí tuệ đại thần thông như thế.

Bấy giờ, Bồ-tát Hoa Đức bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Diệu Âm sâu trồng căn lành, trụ Tam-muội gì mà có thể biến hiện thân mình để độ thoát chúng sinh khắp nơi?

Phật bảo Bồ-tát Hoa Đức:

– Này thiện nam! Tam-muội đó tên là Hiện nhất thiết sắc thân. Bồ-tát Diệu Âm trụ trong Tam-muội này có thể làm lợi ích vô lượng chúng sinh như thế.

Lúc Đức Phật nói phẩm Bồ-tát Diệu Âm này thì tám vạn bốn ngàn người cùng với Bồ-tát Diệu Âm đến đây đều được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân, vô lượng Bồ-tát trong cõi Ta-bà đều được Tam-muội này và Đà-la-ni.

Sau khi cúng dường Phật Thích-ca và tháp Phật Đa Bảo xong, Đại Bồ-tát Diệu Âm trở về cõi mình. Các nước mà Bồ-tát đi qua đều chấn động sáu cách, trời mưa hoa sen báu, trổi trăm ngàn vạn ức loại âm nhạc. Đến cõi mình rồi, Bồ-tát cùng tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đi theo đồng đến chỗ Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con đến cõi Ta-bà làm lợi ích chúng sinh, lễ bái cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tháp Phật Đa Bảo, gặp Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Dược Vương, Đức Cần Tinh Tấn Lực và Dũng Thí, cũng làm cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ-tát này được Tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân.

Sau khi Đức Phật nói phẩm Bồ-tát Diệu Âm Lai Vãng này xong, bốn vạn hai ngàn Thiên tử được Vô sinh pháp nhẫn, Bồ-tát Hoa Đức cũng được Pháp hoa Tam-muội.

***

Phẩm 24: PHỔ MÔN, BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật thưa:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm vì nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?

Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Này thiện nam! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu các khổ não, nghe danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm này nhất tâm gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, tức thì Bồ-tát Quán Thế Âm quán xét âm thanh ấy làm cho được giải thoát.

Nếu có người trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, dù vào lửa lớn cũng không bị cháy, là nhờ thần lực của Bồ-tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, gọi danh hiệu Bồ-tát này liền được đến nơi cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh vì tìm vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu và các thứ ngọc quý mà vào biển lớn. Giả sử có gió lớn thổi ghe thuyền ấy trôi dạt đến nước quỷ La-sát, trong đó dù chỉ một người gọi danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì các người kia đều được thoát nạn quỷ La-sát, vì nhân duyên đó mà gọi tên là Quán Thế Âm.

Nếu có người sắp bị giết hại, gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm tức thì dao gậy ấy gãy ra từng đoạn, mà được thoát khỏi. Nếu quỷ Dạ-xoa và quỷ La-sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, thì các quỷ dữ không thể dùng mắt dữ để nhìn, huống gì làm hại. Giả sử có người bị tội hay không bị tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, gọi tên Bồ-tát Quán Thế Âm, tất cả đều gãy nát, liền được giải thoát. Giả sử có vị thương chủ dẫn các người buôn đem nhiều của quý, qua đoạn đường hiểm trong đó có người nói lớn rằng:

Này các thiện nam! Đừng nên lo sợ, các vị hãy nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát ấy hay đem lại sự không sợ hãi cứu giúp chúng sinh. Nếu các ông niệm danh hiệu: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát” thì được thoát khỏi nạn tặc này.

Nhờ nghe như vậy, những người buôn đồng thanh niệm danh hiệu Bồ-tát, liền được giải thoát.

Này Vô Tận Ý! Đại Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần rộng lớn như thế.

Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường niệm, cung kính Bồ-tát Quán Thế Âm liền được lìa dục. Nếu có người nào nhiều lòng giận hờn, thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm liền khỏi giận hờn. Nếu có người ngu si nào thường cung kính niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, liền khỏi ngu si.

Này Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức oai thần lớn như thế, làm nhiều lợi ích cho nên chúng sinh tâm thường nhớ nghĩ.

Nếu có người nữ, muốn cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, liền sinh con trai, phước đức trí tuệ. Giả sử muốn cầu con gái, liền sinh con gái có tướng xinh đẹp, được mọi người kính mến, vì trước đã trồng cội phước đức .

Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức thần thông như thế. Chúng sinh nào cung kính lễ lạy Bồ-tát Quán Thế Âm thì phước đức chẳng tổn giảm, cho nên chúng sinh đều phải thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường các thức ăn uống, áo quần, giường nằm, thuốc thang… ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam, thiện nữ đó có nhiều không’?

Vô Tận Ý thưa:

– Bạch Thế Tôn, rất nhiều!

Phật dạy:

– Nếu có người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm cho đến lễ lạy cúng dường chỉ trong chốc lát thì phước đức của hai người đó bằng nhau không khác, trải qua trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận.

Bồ-tát Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm được vô lượng, vô biên phước đức lợi ích như vậy.

Vô Tận Ý Bồ-tát bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Quán Thế Âm giáo hóa ở thế giới Ta-bà như thế nào? Thuyết pháp cho chúng sinh như thế nào? Và dùng sức phương tiện như thế nào?

Phật bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Thiện nam! Nếu chúng sinh trong quốc độ nào cần thân Phật để độ thoát thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật để nói pháp.

Người cần dùng thân Duyên giác để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Duyên giác để nói pháp.

Người cần dùng thân Bích-chi-phật để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Bích-chi-phật để nói pháp.

Người cần dùng thân Thanh văn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Thanh văn để nói pháp.

Người cần dùng thân Phạm vương để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Phạm vương để nói pháp.

Người cần dùng thân Đế Thích để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đế thích để nói phá[.

Người cần dùng thân Tự tại thiên để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tự tại thiên để nói pháp.

Người cần dùng thân Đại Tự tại thiên để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đại Tự tại thiên để nói pháp.

Người cần dùng thân Thiên đại Tướng quân để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Thiên đại Tướng quân để nói pháp.

Người cần dùng thân Tỳ-sa-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tỳ-sa-môn để nói pháp.

Người cần dùng thân Tiểu vương để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tiểu vương để nói pháp.

Người cần dùng thân Trưởng giả để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Trưởng giả để nói pháp.

Người cần dùng thân Cư sĩ để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Cư sĩ để nói pháp.

Người cần dùng thân Tể quan để độ thoát thì Bồ-tát hiện than Tể quan để nói pháp.

Người cần dùng thân Bà-la-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Bà-la-môn để nói pháp.

Người cần dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để nói pháp.

Người cần dùng thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân phụ nữ của Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn để nói pháp.

Người cần dùng thân Đồng nam, Đồng nữ để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Đồng nam, Đồng nữ để nói pháp.

Người cần dùng thân Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân tất cả để nói pháp.

Người cần dùng thân Chấp kim cang để độ thoát thì Bồ-tát hiện thân Chấp kim cang để nói pháp.

Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu các công đức như thế, bằng nhiều thân hình đến các cõi nước để độ thoát chúng sinh cho nên các ông phải một lòng cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm.

Đại Bồ-tát Quán Thế Âm này bố thí sự không lo sợ, sợ hãi. Ở nơi tai nạn sợ sệt, Bồ-tát hay ban cho sự không sợ, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi ngài là Bậc cho sự không sợ.

Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lúc này con muốn cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý liền cởi chuỗi ngọc quý báu giá trị trăm ngàn lượng vàng ở nơi cổ đem trao cho Bồ-tát Quán Thế Âm và nói:

– Thưa Bồ-tát, xin nhận lấy chuỗi ngọc quý báu này.

Khi ấy, Bồ-tát Quán Thế Âm chẳng chịu nhận chuỗi. Vô Tận Ý lại thưa:

– Xin Bồ-tát thương chúng con mà nhận chuỗi ngọc này.

Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm:

– Ông hãy lân mẫn Bồ-tát Vô Tận Ý và bốn chúng cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mà nhận chuỗi ngọc.

Tức thời Bồ-tát Quán Thế Âm lân mẫn bốn chúng Trời, Rồng, Nhân phi nhân… nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần. Một phần dâng lên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng cúng tháp Phật Đa Bảo.

Này Vô Tận Ý! Bồ-tát Quán Thế Âm có sức thần thông tự tại như thế, hành hóa khắp cõi Ta-bà.

Lúc đó, Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng hỏi Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Này Phật tử! Vì nhân duyên gì mà gọi là Quán Thế Âm?

Bồ-tát Vô Tận Ý liền quán xét hết hạnh nguyện như biển trong quá khứ của Bồ-tát Quán Thế Âm, rồi nói với Bồ-tát Trang Nghiêm Tràng:

– Này Phật tử! Hãy lắng nghe việc làm của Bồ-tát Quán Thế Âm. Rồi nói kệ:

Thế Tôn đủ tướng tốt

Con hỏi sự việc kia

Phật tứ, do duyên gì

Tên là Quán Thế Âm?

Đấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vồ Tận Ý

Ông nghe hạnh Quán Âm,

Ứng hiện khắp các nơi,

Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều ngàn Đức Phật

Phát nguyện thanh tịnh lớn.

Ta lược nói cho ông

Nghe tên cùng thấy thân,

Tâm niệm không uổng phí

Diệt trừ khổ các cõi.

Nếu bị ai gây hại

Xô xuống hầm lửa lớn,

Do sức niệm Quan Âm

Hầm lửa thành ao mát.

Hoặc trôi ngoài biển lớn

Bi nạn quỷ, cá, rồng

Do sức niệm Quan Âm

Sóng lớn chẳng nhận chìm.

Hoặc trên đỉnh Tu-di

Bị người đẩy rớt xuống

Do sức niệm Quan Âm

Như mặt trời trên không.

Hoặc bị người ác rượt

Rớt xuống núi Kim cang

Do sức niệm Quan Âm

Chẳng tổn đến mảy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây

Đều cầm dao làm hại

Do sức niệm Quan Âm

Chúng liền sinh lòng lành.

Hoặc bị khổ nạn vua

Sắp bị hành hình chết

Do sức niệm Quan Âm

Đao liền gãy từng đoạn.

Hoặc tù cấm xiềng xích

Tay chân bị gông cùm

Do sức niệm Quan Âm

Tháo rã được giải thoát.

Dùng thuốc độc bùa chú

Muốn làm hại thân người

Do sức niệm Quan Âm

Trở lại người gây ra.

Hoặc gặp La-sát dữ

Các loài quỷ rồng độc

Do sức niệm Quan Âm

Tất cả không dám hại

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quan Âm

Vội vàng chạy mất cả.

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quan Âm

Nghe tiếng tự bỏ đi.

Mây sấm nổ, sét đánh

Tuôn đá, xối mưa lớn

Do sức niệm Quan Âm

Tức khắc liền tiêu tan.

Chúng sinh bị khổ ách

Trăm ngàn khổ bức thân

Quan Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian.

Đầy đủ sức thần thông

Rộng từ trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không cõi nào không hiện.

Các loài trong đường dữ

Địa ngục, quỷ, súc sinh

Khổ sinh, già, bệnh, chết

Dần dần đều tiêu hết

Quán chân, quán thanh tịnh

Quán trí tuệ rộng lớn

Quán Từ và quán Bi

Luôn nguyện cầu chiêm ngưỡng

Hào quang tịnh trong sạch

Ánh sáng phá tối tăm

Hay tiêu nạn khói lửa

Chiếu sáng khắp thế gian.

Lòng Bi vang như sấm

Ý Từ như mây lành

Tuôn mưa pháp cam lồ

Tiêu trừ lửa phiền não.

Thưa kiện đến chỗ quan

Sợ hãi trong quân trận

Do sức niệm Quan Âm

Oán thù đều lui tan.

Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm Âm, Hải triều Âm.

Tiếng siêu việt hơn đời

Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sinh nghi

Bậc Tịnh thánh Quán Âm

Chỗ khổ não bệnh chết

Hay làm việc cứu giúp.

Đầy đủ các công đức

Mắt từ nhìn chúng sinh,

Biển phước lớn không cùng

Cho nên phải đảnh lễ.

Lúc đó, Bồ-tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa:

– Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nào nghe được năng lực thần thông thị hiện toàn diện, đạo nghiệp tự tại của Bồ-tát Quán Thế Âm này, nên biết công đức người đó chẳng ít.

Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám vạn bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

***

Phẩm 25: BẢN SỰ CỦA VUA DIỆU TRANG NGHIÊM

Bấy giờ, Đức Phật dạy đại chúng:

-Vào thời quá khứ, cách đây vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp có Đức Phật ra đời hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri; nước tên là Quang minh trang nghiêm, kiếp tên Hỷ kiến. Trong pháp hội của Đức Phật ấy có một vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, vợ của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một Tịnh Tạng, hai Tịnh Nhãn. Hai người con này có thần lực, phước đức, trí tuệ rất lớn, từ lâu đã hành đạo Bồ-tát như là Bố thí ba-la-mật, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ, Phương tiện, Từ, Bi, Hỷ, Xả, cho đến ba mươi bảy phẩm Trợ đạo đều hiểu rõ thông suốt, lại chứng đắc thông đạt những Tam-muội thanh tịnh của Bồ-tát như: Nhật minh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu minh, Trường trang nghiêm, Đại oai đức.

Đức Phật muốn giáo hóa cho vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng chúng sinh nên nới kinh Pháp Hoa này. Hai người con Tịnh Nhãn và Tịnh Tạng đến gặp mẹ, chắp tay thưa:

– Xin mẹ đến nơi của Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí và chúng con cũng sẽ đi theo để thân cận cúng dường, lễ bái. Vì sao? Vì Đức Phật này đang thuyết kinh Pháp Hoa giữa đại chúng trời và người, chúng ta nên nghe và lãnh thọ

Mẹ nói với các con:

– Cha các con tin theo ngoại đạo, lệ thuộc hẳn vào pháp Bà-la-môn, các con nên đến thưa với cha cùng đi.

Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa với mẹ:

Chúng con là đệ tử Phật lại sinh vào nhà tà kiến.

Người mẹ bảo:

– Các con nên thương cha mà hiện thần thông, nếu cha các con thấy được thì tâm liền thanh tịnh và cho phép chúng ta đi đến gặp Phật.

Lúc ấy, hai người con thương cha liền bay lên giữa hư không, cách đất bảy cây Đa-la hiện ra các phép thần thông, ở trong không trung đi đứng nằm ngồi, trên thân tuôn nước , dưới thân phun lửa, hoặc trên thân phun lửa, dưới thân phun nước, hoặc hiện thân lớn chật cả hư không, hoặc hiện ra thân nhỏ, nhỏ rồi lại lớn, mất trên hư không, thình lình bỗng nhiên hiện ra trên đất, vào đất như vào nước, hoặc đi trên nước như đi trên đất. Hiện ra các loại thần thong như vậy khiến cho vua cha tin hiểu chân chánh.

Thấy thần thông của con như vậy, vua cha rất vui mừng, được điều chưa từng có, chắp tay hướng về các con nói:

– Thầy của các con là ai? Con là đệ tử của ai?

Hai người con thưa:

– Tâu phụ vương, vị ấy là Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đang an tọa trên pháp tòa dưới gốc cây Bồ-đề bảy báu, giảng thuyết kinh Pháp Hoa cho tất cả chúng trời, người trong thế gian; đó là Thầy của chúng con, chúng con là đệ tử.

Cha nói với các con:

– Nay ta cũng muốn gặp Thầy của các con, chúng ta nên cùng đi.

Bấy giờ, hai người con từ trên không trung hạ xuống đi đến chỗ mẹ, chắp tay thưa:

– Cha các con nay đã tin hiểu, đã phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự. Xin mẹ cho chúng con đến chỗ Đức Phật để xuất gia tu học.

Muốn trình lại ý trên, hai người con nói kệ:

Mong mẹ cho chúng con

Xuất gia làm Sa-môn,

Các Phật gặp rất khó

Chúng con theo học Phật.

Hoa Ưu-đàm khó thấy

Gặp Phật lại khó hơn,

Thoát các nạn cũng khó

Xin cho con xuất gia.

Mẹ liền nói:

– Ta cho con xuất gia. Vì sao? Vì rất khó gặp Phật.

Lúc đó hai người con thưa với mẹ:

– Lành thay thưa cha mẹ! Bây giờ, chúng con xin đến gặp Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí để gần gũi cúng dường. Vì sao? Vì rất khó gặp Phật, như hoa Ưu-đàm-bát-la, như con rùa một mắt gặp bọng cây nổi. Chúng còn nhờ phước đức sâu dày đời trước, nên đời này gặp Phật pháp. Vì vậy, cha mẹ nên cho con xuất gia. Tại sao? Chư Phật khó gặp, thời kỳ gặp Phật lại khó hơn.

Lúc ấy, nơi hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám vạn bốn ngàn người đều phát tâm thọ trì kinh Pháp Hoa. Bồ-tát Tịnh Nhãn đối với Pháp Hoa Tam-muội đã thông đạt từ lâu. Bồ-tát Tịnh Tạng trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, thông đạt Tam-muội, lìa các cõi ác, muốn cho hết thảy chúng sinh xa rời các cõi ác. Phu nhân của vua được Tam-muội tu tập của chư Phật, có thể biết được tạng bí mật của chư Phật. Hai người con dùng sức phương tiện khéo giáo hóa cha mình, khiến cho tin hiểu rõ, an vui nơi Phật pháp. Lúc ấy, vua Diệu Trang Nghiêm cùng đầy đủ quần thần, quyến thuộc, thể nữ nơi hậu cung và hai con của vua cùng với bốn vạn hai ngàn người cùng lúc đến chỗ của Phật.

Đến nơi, họ lạy dưới chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, đứng sang một bên.

Bấy giờ, Đức Phật thuyết pháp làm cho vua được lợi ích vui mừng. Vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân mở chuỗi ngọc trân châu nơi cổ giá trị đến trăm ngàn lượng vàng, rải trên đất Phật, hóa thành đài báu bốn trụ lơ lửng giữa hư không. Trong đài có tòa báu lớn, được trải bằng trăm ngàn vạn áo trời, trên đó có Đức Phật ngồi kiết già, phóng hào quang rực rỡ.

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm lại nghĩ thân Phật trang nghiêm, thanh tịnh hiếm có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhất.

Khi ấy, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với đại chúng:

– Các ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta không? Ở trong pháp ta, vị vua này làm Tỳ-kheo siêng năng tu tập pháp trợ Phật đạo, rồi sẽ thành Phật hiệu Ta-la Thọ Vương, nước tên Đại quang, kiếp tên Đại cao vương. Đức Phật Ta-la Thọ Vương có vô lượng chúng Bồ-tát và Thanh văn, nước ấy bằng phẳng, công đức như vậy.

Khi ấy, nhà vua đem đất nước giao lại cho em. Vua cùng phu nhân, hai con và các quyến thuộc xuất gia học đạo ở trong Phật pháp.

Sau khi xuất gia, trong tám vạn bốn ngàn năm, vua luôn tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Qua thời gian đó, vua được Tam-muội Nhất thiết tịnh trang nghiêm công đức liền bay lên hư không cao bằng bảy cây Đa-la, bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nay hai con của con đã làm Phật sự, dùng sức thần thông biến hóa, chuyển đổi tâm tà của con, làm cho con được đứng vững ở trong Phật pháp, được gặp Thế Tôn. Hai người con này là Thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước và giúp ích cho con nên sinh trong nhà con.

Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với vua Diệu Trang Nghiêm:

– Đúng vậy, đúng vậy, như lời ông nói! Nếu có người thiện nam, tín nữ nào trồng căn lành thì dời đời gặp được Thiện tri thức, những vị Thiện tri thức đó hay làm Phật sự, chỉ dạy làm cho lợi ích, hoan hỷ, khiến đi đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại vương nên biết, Thiện tri thức là nhân duyên lớn dìu dắt làm cho thấy Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đại vương! Ông có thấy hai người con không? Hai người này đã từng gần gũi cúng dường sáu mươi lăm trăm ngàn muôn ức na-do-tha hằng hà sa các Đức Phật; gần gũi, cung kính, thọ trì kính Pháp Hoa ở chỗ chư Phật; thương tưởng chúng sính tà kiến khiến vào trong chánh kiến.

Vua Diệu Trang Nghiêm từ trên hư không hạ xuống tán thán Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như Lai là bậc hiếm có đầy đủ công đức trí tuệ, nhục kế trên đầu phóng ra ánh sáng rực rỡ, mắt dài rộng màu sắc xanh biếc, tướng lông trắng giữa chân mày như ngọc kha nguyệt, răng trắng đều khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần-bà.

Sau khi khen ngợi Đức Phật có vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức như thế, vua Diệu Trang Nghiêm ở trước Đức Phật một lòng chắp tay bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn là bậc hiếm có, thành tựu đầy đủ các pháp của Như Lai, công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, dạy bảo, hành động an ổn hoàn hảo; con từ nay không còn hành động theo ý mình, không sinh tà kiến, kiêu mạn, giận dữ, các ác.

Nói lời ấy rồi vua lễ Phật lui ra.

Phật bảo đại chúng:

– Các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Bồ-tát Hoa Đức; còn phu nhân Tịnh Đức nay chính là Bồ-tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Đức Phật, vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm cùng các quyến thuộc nên sinh vào nhà này. Hai vị thái tử kia, nay là Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng. Dược Vương, Dược Thượng thành tựu các công đức lớn như vậy là nhờ đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức chư Phật, trồng các cội công đức, thành tựu các công đức hoàn hảo chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người nào biết tên của hai vị Bồ-tát này thì hết thảy chư Thiên và loài người cũng nên lễ bái người ấy.

Lúc Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong Phật pháp được pháp nhãn tịnh.

***

Phẩm 26: BỒ TÁT PHỔ HIỀN KHUYẾN PHÁT

Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền dùng thần thông tự tại, uy đức vang xa, cùng với vô lượng, vô biên, vô số các vị Bồ-tát từ phương Đông đi đến; đi qua các nước đều có chấn động, trời mưa hoa sen báu, trổi vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ âm nhạc; tháp tùng với đoàn còn có vô số đại chúng Trời rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩn-na-la, Ca-lầu-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… mỗi người hiện ra oai đức thần thông, đến thế giới Ta-bà, tại núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy Đức Thích-ca Mâu-ni, đi quanh bên phải bảy vòng rồi bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Con ở trong nước Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, nghe ở thế giới Ta-bà thuyết kinh Pháp Hoa nên cùng vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức chúng Bồ-tát đều đến nghe nhận. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con mà dạy bảo: “Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam và thiện nữ làm thế nào để được kinh Pháp Hoa?”

Phật dạy Bồ-tát Phổ Hiền:

– Nếu có thiện nam, thiện nữ nào sau khi Như Lai diệt độ, hoàn thành bốn pháp thì sẽ được kinh Pháp Hoa này. Một là được chư Phật hộ niệm; hai là trồng các cội công đức; ba là nhập vào chánh định tụ; bốn là phát tâm cứu hết thảy chúng sinh. Người thiện nam, tín nữ nào thành tựu bốn pháp như vậy, sau khi Như Lai diệt độ thì được kinh Pháp Hoa.

Lúc ấy, Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người nào thọ trì kinh Pháp Hoa này, con sẽ hộ trì, trừ các hoạn nạn cho họ khiến được an ổn, không để một ai tìm cách gây hại họ được; như là ma, hoặc là con của ma, hoặc ma nữ, hoặc ma dân, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ-xoa, hoặc La-sát, hoặc Cưu-bàn-trà, hoặc Tỳ-xá-xà, hoặc Kết-giá , hoặc Phú-đơn-na, hoặc Vi-đà-la… làm hại đến người ấy đều không thể được. Người ấy khi đi hay đứng tụng kinh này thì lúc ấy con cõi voi chúa trắng sáu ngà cùng đại chúng Bồ-tát đến nơi người ấy mà hiện thân cúng dường, che chở, làm cho tâm họ được an ổn, cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa này.

Nếu người nào ngồi tư duy kinh này, khi ấy con lại cỡi voi chúa trắng hiện ra trước mặt họ; nếu người ấy đối với kinh Pháp Hoa này có quên mất một câu, một bài kệ con sẽ dạy họ và cùng nhau tụng khiến người này được thông suốt. Bấy giờ, người thọ trì, đọc tụng kinh Pháp Hoa này được thấy thân con sẽ rất vui mừng, càng thêm tinh tấn. Nhờ thấy thân con, họ liền được Tam-muội và Đà-la-ni như Triền Đà-la-ni, trăm ngàn vạn ức Triền Đà-la-ni, Pháp âm phương tiện Đà-la-ni, được các Đà-la-ni như vậy.

Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm sau, trong đời ác trược, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tìm cầu thọ trì, đọc tụng, biên chép, tu tập kinh Pháp Hoa này thì trong hai mươi mốt ngày nên nhất tâm tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày đó rồi con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với vô lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sinh ưa nhìn hiện trước người đó để nói pháp, chỉ dạy lợi ích, an vui; cũng cho thần chú Đà-la-ni, được Đà-la-ni rồi không có phi nhân nào phá hoại được, cũng không bị người nữ làm mê loạn, chính con cũng hộ người ấy. Cúi xin Thế Tôn cho con nói chú Đà-la-ni.

Rồi liền nói ở trước Phật:

“Đa điệt tha, a đàn đồ, đàn đồ bạt để, đàn đồ bạt la đa nhĩ đàn đồ củ xá lê, đàn đồ tô đà lê tô đà-la-ni, a bạt la đát nhĩ, a la đát nhĩ, tăng giá bá lê, ỷ yết tăng già nhĩ, già đa nê đạt la ma bả lê, ỷ yết la bà sa đa, bà hộ lô đa, kiếu xá na gia, a nỗ giả đê tư già tỉ chỉ lê trì đê.”

Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát nghe được thận chú này thì nên biết đó là thần lực của Phổ Hiền. Nếu có người nào trong cõi Diêm-phù-đề thọ trì kinh Pháp Hoa, đó cũng là oai thần lực của Phổ Hiền. Nếu có người nào thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ đúng, hiểu được ý nghĩa và tu hành đúng lời dạy, nên biết người này đang thực hành hạnh Phổ Hiền, ở chỗ vô lượng, vô biên chư Phật trồng sâu căn lành, được Như Lai lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép, người này sau khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời Đao-lợi, được tám vạn bốn ngàn Thiên nữ nổi các âm nhạc đón tiếp, được đội mũ bảy báu, vui chơi hưởng lạc cùng các thể nữ; huống chi là người thọ trì đọc tụng, ghi nhớ nghĩa lý như vậy, tu hành đúng lời dạy. Nếu người nào thọ trì, đọc tụng, hiểu rõ nghĩa lý, sau khi qua đời sẽ được ngàn Đức Phật nắm tay khiến cho không sợ hãi, không rơi vào đường ác, sinh lên chỗ Bồ-tát Di-lặc ở cõi trời Đâu-suất. Bồ-tát Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt, chúng Đại Bồ-tát vây quanh có trăm ngàn vạn ức quyến thuộc Thiên nữ sống ở trong đó, Ngài có những công đức, lợi ích như vậy. Do đó người trí phải nên một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì đọc tụng, ghi nhớ đúng lời dạy mà tu hành.

Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, con dùng thần thông bảo hộ kinh này khiến cho lưu truyền rộng rãi không để tuyệt mất trong cõi Diêm-phù-đề.

Lúc ấy Đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi:

– Lành thay, lành thay! Này Phổ Hiền! Ông có thể hỗ trợ kinh này, làm cho chúng sinh được nhiều an lạc lợi ích, ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, Từ bi rộng lớn. Từ xưa đến nay ông phát tâm Vô thượng Bồ-đề nên mới có nguyện bảo vệ kinh này bằng thần thong. Ta sẽ đem sức thần thông che chở người thọ trì danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền.

Này Phổ Hiển! Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ, tu tập, biên chép kinh này thì nên biết người này người ấy gặp được Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, được nghe kinh này từ miệng Đức Phật nói, nên biết người này đã cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật khen ngợi người này, người này được Phật lấy tay xoa đầu, được y của Phật che cho. Người như thế thì không còn tham đắm dục lạc thế gian, không ưa thích kinh sách ngoại đạo, lại không gần gũi người trước tác sách ngoại đạo cùng kẻ hành nghề xấu ác như đồ tể, nuôi heo, dê, gà, chó hoặc kẻ săn bắn, hoặc kẻ buôn bán nữ sắc. Người này tâm ý ngay thẳng, ghi nhớ đúng, có năng lực phước đức. Người này không bị ba độc làm hại, cũng không bị ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn gây hại, ít muốn biết đủ, có khả năng tu hạnh Phổ Hiền.

Này Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, nếu có người nào thấy ai đọc tụng, thọ thì kinh Pháp Hoa thì nên nghĩ người ấy không bao lâu sẽ đến đạo tràng phá các ma quân, được Vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi kèn pháp, rưới mưa pháp và ngồi trên pháp tòa Sư tử giữa chúng trời, người.

Này Phổ Hiển! Đời sau nếu ai thọ trì, đọc tụng kinh này thì không còn tham đắm. Y phục, ngọa cụ, vật thực, tài sản, mong cầu đều được toại nguyện, đời hiện tại người ấy cũng được phước báo.

Nếu có người khinh chê, hủy báng người ấy: “Ông là kẻ điên cuồng, làm việc vô ích, không có kết quả.” Người hủy báng như vậy sẽ bị quả báo mù lòa đời đời. Nếu có người nào cúng dường, tán thán khen ngợi thì đời này sẽ hưởng phước báo. Nếu thấy người thọ trì kinh này mà nêu bày tội lỗi thật, hoặc không thật của họ thì hiện tại người ấy sẽ mắc bệnh hủi. Nếu ai khinh chê cười nhạo thì đời đời răng bị thưa thiếu, môi xấu, mũi tẹt, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân thể dơ bẩn ghẻ lở máu mủ, bụng bệnh thủng, hơi ngắn và các bệnh nặng. Do vậy, Phổ Hiền! Nếu thấy người nào thọ trì kinh này thì phải đứng dậy cung kính như đối với Phật.

Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, có hằng hà sa vô lượng, vô biên Bồ-tát được trăm ngàn ức Triền Đà-la-ni và vô số Bồ-tát nhiều như số vi trần trong tam thiên đại thiên thế giới được đầy đủ đạo hạnh Phổ Hiền.

***

Phẩm 27: CHÚC LỤY

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ chỗ ngồi đứng dậy hiện sức thần thông lớn, dùng tay phải xoa đầu của vô lượng Đại Bồ-tát, rồi dạy lời này:

– Trong vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó được này. Nay ta đem giao phó cho các ông, các ông phải một lòng truyền bá pháp này rộng khắp, làm cho phát triển.

Phật ba lần xoa đầu các Bồ-tát như thế rồi nói:

– Trong trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó được này. Nay ta đem giao phó cho các ông, các ông phải họ trì đọc tụng, thuyết giảng pháp này cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết.

Vì sao? Vì Như Lai có lòng Từ bi lớn không có bỏn sẻn, không có sợ sệt, có thể làm cho chúng sinh được trí tuệ của Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên. Như Lai là vị đại thí chủ của chúng sinh. Các ông nên học theo pháp của Như Lai, chớ bỏn sẻn.

Vào đời vị lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin tưởng trí tuệ của Như Lai, thì các ông nên giảng nói kinh Pháp Hoa này khiến họ đều nghe biết, đều được trí tuệ của Phật. Nếu có chúng sinh nào không tin và thọ trì thì nên đem giáo pháp thâm diệu khác của Như Lai dạy bảo cho họ, khiến được lợi ích, hoan hỷ. Các ông nếu làm được như thế là đã báo đáp hồng ân của chư Phật.

Nghe Phật dạy như vậy, các Đại Bồ-tát đều rất vui mừng, bày tỏ lòng tin kính, nghiêng mình cúi đầu, chắp tay hướng về Đức Phật đồng thanh thưa:

– Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, cúi mong Thế Tôn chớ có lo!

Các chúng Đại Bồ-tát đều lên tiếng thưa ba lần như vầy:

– Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, cúi mong Thế Tôn chớ lo!

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn phân thân của các Đức Phật trong mười phương đều trở về chỗ cũ nên nói thế này:

– Các Phật đều ở chỗ mình, tháp của Phật Đa Bảo trở về chỗ cũ.

Phật nói dứt lời, vô lượng phân thân của các Đức Phật ngồi trên tòa Sư tử dưới cây báu cùng Phật Đa Bảo và vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp đại chúng Bồ-tát, bậc thượng hạnh, Xá-lợi-phất, bốn chúng Thanh văn và hàng Trời, Người, A-tu-la, nghe Phật nói kinh này đều rất vui mừng.

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Tự Tại Thành Tựu Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Nói Về Nghi Thức Tẩm Liệm An Táng Khi Như Lai Diệt Độ - Kinh Tạng
  • Kinh Chú Đà La Ni Kim Cang Bí Mật Thiện Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Diên Thọ Diệu Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Trưởng Giả Nữ Yêm Đề Giá Sư Tử Hống Liễu Nghĩa - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Ha Điêu A Na Hàm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Phẩm Nhứt Thiết Như Lai Liên Hoa Nghi Quỹ Đại Mạn Đồ La Kim Cang Đỉnh Hàng Tam Thế Đại Pháp Vương Giáo Trung Quán Tự Tại Bồ Tát Tâm Chơn Ngôn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Hoa Chánh Pháp - Kinh Tạng