Kinh Hoa Chánh Pháp
Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch
Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
***
Phẩm l: ÁNH SÁNG ĐIỀM LÀNH
Nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, núi Linh Thứu, cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm vị. Các ngài đều là những bậc không còn vướng mắc, phiền não đã dứt sạch, không còn dục trần, hoàn toàn tự tại, việc lợi mình đã xong, đã chấm dứt sinh tử, đoạn hẳn sự ràng buộc ở đời, vượt qua tất cả, đạt đến giải thoát, chứng đắc hoàn toàn tâm giải thoát và tuệ giải thoát.
Tên các vị ấy là Tôn giả Tri Bản Tế, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Thượng Thời Ca-diếp, Tôn giả Tượng Ca-diếp, Tôn giả Hồng Ca-diếp, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật, Tôn giả Kiếp-tân-na, Tôn giả Ngưu Từ, Tôn giả Ly Việt, Tôn giả Thí Lợi Tư, Tôn giả Bạc-câu-lô, Tôn giả Câu-hy, Tôn giả Nan-đà, Tôn giả Thiện Ý, Tôn giả Mãn Nguyện Tử, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả A-nan, Tôn giả La-vân…
Tám mươi ngàn vị Bồ-tát toàn là những bậc không thoái chuyển, vững tin nơi đạo Vô thượng chánh chân, được các pháp Tổng trì, được các tài hùng biện, thường khen ngợi việc chuyển vận bánh xe pháp không lui sụt, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật. Các vị Bồ-tát này đã gieo trồng công đức với vô lượng Đức Phật, thường được chư Phật tán dương.
Các vị thường hành Từ bi, thể nhập trí tuệ Như Lai, khéo quyền biến, trí tuệ thông suốt đạt đến vô cực, từ vô số kiếp học rộng nghe nhiều, danh tiếng vang khắp mười phương, cứu giúp vô lượng trăm ngàn chúng sinh, du hóa trong ba cõi giống như ánh sáng mặt trời chiếu rọi, biết rõ tất cả pháp như huyễn, như hóa, như ngựa hoang, như bóng nắng, như tiếng vang nên không trụ tâm, cũng không có tâm sở hữu với chúng. Tuy hiện có thân thể bắt đầu và kết thúc nhưng không đến không đi; hiện có sắc tướng nhưng vốn không có hình tướng; hiện có sinh nhưng vĩnh viễn không khởi diệt.
Các ví dẫn dắt và làm lợi ích cho mọi người mà không đắm say ba cõi, phân biệt tuệ Không, Vô tướng, Vô nguyện, vượt khỏi ba pháp môn giải thoát, đạt đến tam đạt trí, niệm tưởng trong hiện tại không đến cũng không đi, chỉ bày cho tất cả mọi người hiểu rõ pháp vốn không.
Tên của các vị ấy là Bồ-tát Bạc Thủ, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Ấn Thủ, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nguyệt Mãn, Bồ-tát Đại Độ, Bồ-tát Siêu Vô Lượng, Bồ-tát Việt Thế, Bồ-tát Giải Phược, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Ân Thí, Bồ-tát Hùng Thí, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Đế Thiên, Bồ-tát Đại Đạo Sư, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Từ Thị… có tám mươi ngàn vị Đại sĩ Bồ-tát Thượng thủ như thế.
Lúc ấy có trời Đế Thích cùng hai mươi ngàn Thiên tử; Nhật Thiên tử cùng vô số quyến thuộc; Nguyệt Thiên tử dùng ánh sáng quý chiếu sáng khắp nơi; Bảo Quang Thiên tử, Quang Diệu Thiên tử, Tứ đại Thiên vương cùng mười ngàn Thiên tử; Diễm Minh Đại phạm Tự tại Thiên tử cùng ba mươi ngàn Thiên tử; Phạm Nhẫn Tích Thiên tử cùng ba mươi hai ngàn Thiên tử; Sức Càn Đại Phạm cùng vô số Thiên tử; lại có Phạm thiên Diễm Quang cùng vô số đại chúng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Có tám vị Long vương cùng trăm ngàn vô số quyến thuộc, bốn vị Chân-đà-la vương gồm Thuận Pháp Chân-đà-la vương, Đại Pháp Chân-đà-la vương, Nhân Hòa Chân-đà-la vương, Trì Pháp Chân-đà-la vương và thần Hương Âm, mỗi vị đều có chúng đi theo cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Bốn vị Tịnh thân Thiên tử gồm Nhu Nhuyễn Thiên tử, Hòa Âm Thiên tử, Mỹ Nhuyễn Thiên tử, Duyệt Hưởng Thiên tử cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Bốn vị A-tu-la vương gồm Tối Thắng A-tu-la, Dục Cẩm A-tu-la, Yến Cư A-tu-la, Hấp Khí A-tu-la cùng vô số trăm ngàn A-tu-la cũng đều đến chỗ Phật, đánh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Bốn vị Kim sĩ điểu vương gồm Đại Thân vương, Đại Cụ Túc vương, Đắc Thần Túc vương, Bất Khả Động vương cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Quốc vương nước Ma-kiệt là A-xà-thế cùng mười người con và vô số tùy tùng cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.
Các chúng Trời, Rồng, Thần, nhân dân… đều cung kính quy mạng ngồi hầu bên Thế Tôn.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn thuyết kinh cho bốn bộ chúng và hang quyến thuộc của họ đang vây quanh. Ngài giảng giải cho các vị Bồ-tát kinh Đại thừa Phương đẳng, được truyền thừa bởi các nghiệp thanh tịnh của chư Phật. Nói kinh ấy xong, Đức Thế Tôn lên tòa Sư tử ngồi kiết già an nhiên nhập thiền định chánh thọ, tên là Lập vô lượng tụng, thân và tâm đều không lay động. Nơi Đức Phật an tọa liền hiện ra điềm lành, trời mưa các loại hoa Ý, hoa Đại ý, hoa Nhu nhuyễn âm, hoa Đại nhu nhuyễn âm… rải trên Đức Thế Tôn và bốn bộ chúng trong đại hội, khắp cõi Phật chấn động sáu cách.
Lúc ấy đại chúng hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, các vị Quốc vương và Chuyển luân thánh vương… tất cả đều nhất tâm chiêm ngưỡng Thế Tôn, thân tâm hoan hỷ và ngạc nhiên trước sự kiện chưa từng có này.
Khi đó, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai hàng lông mày, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, ánh sáng ấy chiếu khắp các cõi Phật, không có nơi nào mà không chiếu đến, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Ba mươi ba, làm cho tất cả chúng hội ở thế giới kia thấy hết chúng sinh trong sáu loài và chư Phật hiện tại của thế giới này.
Hội chúng ở thế giới này, đều thấy suốt mọi chúng sinh nơi thế giới kia cũng như vậy. Họ nghe chư Phật trong mười phương đang nói kính pháp và thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… một mình ở nơi thanh vắng tu hành, thành tựu đạo quả, lại thấy các vị Bồ-tát tâm tịch tĩnh giải thoát xuất gia mong cầu giác ngộ. Lại thấy chư Phật ở các thế giới diệt độ, các Thánh đệ tử xây dựng bảo tháp để tôn thờ.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc suy nghĩ: “Hôm nay Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nhập Tam-muội chánh thọ, hiện ra cảnh thần biến, khiến cho nhiều người trong hội chúng được thấy việc chưa từng có. Trên trời, nhân gian, các nơi tôn thờ chư Phật đều hiện ra rất rõ ràng. Thế Tôn sắp làm việc gì mà hiện điềm lành này, từ xưa đến nay chưa từng thấy. Ta nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp được nghi vấn này?”
Đức Di-lặc lại suy nghĩ: “Bồ-tát Bạc Thủ các việc đã làm xong, thông đạt tất cả các pháp, cúng dường vô số chư Phật thời quá khứ, đã từng thân cận Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Hôm nay những hiện tượng tốt đẹp hy hữu này ta nên hỏi ngài.”
Khi ấy cả bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Ma-hưu-lặc…, tất cả đều mang tâm trạng phân vân chưa từng có khi thấy cảnh biến hóa do ánh sáng thần túc muôn màu rực rỡ của Bậc Đại Thánh, người nào cũng có ý muốn thỉnh hỏi Đức Thế Tôn để giải tỏa lưới nghi ngờ.
Đức Di-lặc xét tâm tư của hội chúng nên hỏi Bồ-tát Bạc Thủ:
– Thưa Nhân giả! Hôm nay vì lý do gì mà có điềm lành ấy; Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, làm cho cả hội chúng đều thấy, nghe được chư Phật thế giới đang thuyết kinh pháp?
Đức Di-lặc dùng kệ hỏi Bồ-tát Văn-thù:
Bồ-tát Văn-thù,
Nay vì duyên gì
Vị Thầy dẫn đạo
Phóng ánh sáng lớn
Muôn màu rực rỡ
Hiện giữa đôi mày
Tướng thần biến chiếu
Soi khắp mười phương
Trời mưa các hoa
Rơi đầy khắp chốn
Hoa Ý, Đại ý
Hoa Nhu nhuyễn âm
Vô số chủng loại
Màu sắc diệu kỳ
Chiên-đàn thơm ngát
Đẹp ý muôn loài
Khắp cả các nơi
Nghiêm tịnh vời vợi
Hôm nay bốn chúng
Vui mừng hân hoan
Cõi Phật nơi đây
Mười phương thế giới
Đều chấn động lên
Đủ cả sáu cách
Ánh quang minh ấy
Chiếu khắp phương Đông
Mười tám ngàn cõi
Xuyên suốt rạng ngời
Thế giới chư Phật
Màu sắc óng vàng
Huy hoàng chói lọi
Tỏa chiếu khắp nơi
Muôn loài khắp chốn
Tất cơ nhờ ân
Trên đến Sắc giới
Vào ngục A-tỳ
Các loài chúng sinh
Vì duyên vô minh
Đắm chìm sa đọa
Luân chuyển sáu đường
Người chúng hội này
Thấy được nhân duyên
Luân hồi các nẻo
Nay hiện nghiêm tịnh
Hiền minh, hung dữ
Ở giữa các loài
Tôi ở nơi đây
Đều thấy rõ cả.
Lại thấy chư Phật
Cất tiếng oai hùng
Diễn thuyết kinh pháp
Mở bày pháp môn
Trừ vô lượng ác
Cho các chúng sinh
Ca tụng Thánh giáo
Bằng lời dịu êm
Thanh âm thâm diệu
Khiến người vui mừng
Tất cả tự rời
Cảnh giới đã có.
Giảng thuyết thí dụ
Vận dụng vô số
Phân biệt rõ ràng
Đối với pháp Phật.
Tất cả chúng sinh
Tạo bao khổ họa
Phương tiện quyền xảo
Trị già, bệnh, chết
Vì chúng muôn loài
Thuyết pháp tịch diệt.
Tỳ-kheo nên biết,
Mọi người nơi đây
Khốn đốn bần cùng
An hòa khoái lạc
Tích lũy công đức
Mới gặp Thánh tôn
Chí cầu đạt được
Duyên giác, Nhất thừa.
Khiến cho tất cả
Với đạo nghiệp này
Thấy Phật thù thắng
Và các sách kinh
Hoặc có chí cầu
Trí tuệ vô thượng
Tất cả thế gian
Thấy bao nhiêu hình
Muôn loài chúng sinh
Ca ngợi Phật đức.
Nhân giả Văn-thù,
Những điều đã nói
Tôi nêu ra đây
Nay đều nghe, thấy
Ngoài ra vô số
Ngàn muôn ức chúng
Qua lại nơi kia
Tôi đều thấy rõ.
Lại thấy cõi Phật
Không thể tính đếm
Và các Bồ-tát
Như cát sông Hằng,
Số ngàn trăm ức
Không hề suy giảm
Lập chí tinh tấn
Phát triển đạo tâm.
Có người phóng xả
Của cải tài sản,
Hành hạnh bố thí
Vàng bạc châu báu,
Ngọc quý ma-ni
Xa cừ, mã não
Tôi tớ ngựa xe
Giường tòa, ghế đẩu
Các vật vô giá
Chuỗi ngọc san hô
Đầy đủ các thứ
Đều đem ban cho
Và để khuyến khích
Phật đạo tối thượng.
Tôi và các loài
Nghe âm thanh ấy
An trụ tán dương
Xe lớn Chánh giác
Dạo khắp ba cõi
Mà không ngăn ngại.
Người người mau chóng
Đạt được nguyện tâm,
Hoặc đem các xe
Mang ra bố thí
Các hoa, kỹ nhạc
Lan can trang nghiêm
Ống tiêu, đàn sáo
Âm tiết vui hay
Bốn việc như thế
Hoan hỷ ban cho.
Làm bố thí này
Tâm không bỏn sẻn
Thê thiếp, cháu con
Xe chở, xe kéo
Hoặc chí phi thường
Cho tay, chân, mạng
Lòng không luyến tiếc
Đều đem bố thí
Quyết chí mong cầu
Phật đạo Vô thượng.
Bố thí xả thân
Đem cho tất cả
Đầu mắt, phần thân
Không chút thương tiếc,
Mục đích bố thí
Mong thành Phật đạo
Chí nguyện thành tựu
Tuệ giác Như Lai
Bồ-tát Văn-thù,
Tôi thấy vua chúa
Cùng các quyến thuộc
Ra đi xuất gia
Hậu phi trong cung
Quý nhân, thể nữ
Dòng dõi an hòa
Cùng đến lễ Phật.
Họ hàng thân hữu
Đều đến Đạo Sư
Thỉnh vấn kinh điển
Với Đấng Pháp Vương,
Bỏ y phục đời
Cạo sạch râu tóc
Khoác áo ca-sa
Dùng làm pháp phục.
Tôi thấy số đông
Các chúng Bồ-tát
Hiện làm Tỳ-kheo
Dừng chân đỉnh núi
Thanh vắng độc cư,
Thông suốt nghĩa Không
Có vi trì kinh
Đọc tụng tán thán.
Tôi lại trông thấy
Các chúng Bồ-tát
Tinh tấn dũng mãnh
Vào chốn núi sâu.
Tư duy chuyên nhất
Quán sát các tướng
Giảng thuyết phân biệt
Giải minh Phật thừa
Trừ bỏ ái dục
Vĩnh viễn không còn
Thường tự tu tập
Mong cầu chánh hạnh,
An trụ nơi đây
Không rời nhàn xứ
Khiến cho thành tựu
Được năm thần thông.
Lại thấy Bồ-tát
Chí khí vững vàng
Hướng về chư Phật
Chắp tay cung kính.
Tâm luôn hoan hỷ
Ca ngợi Phật đức
Dùng muôn ngàn kệ
Tán thán Pháp vương.
Lòng không sợ sệt
Dũng chí điều hòa
Rõ ràng phân biệt
Sự nghiệp xuất gia
Thưa hỏi giáo pháp
Đấng Lưỡng Túc Tôn
Nghe rồi tiếp nhận
Ghi nhớ giữ gìn,
Trước tự tu tập
Sau dạy mọi người.
Nay tôi lại thấy
Đệ tử chư Phật
Vì khắp mọi loài
Giảng pháp vi diệu,
Hiện kết quả lành
Đông vô số lẻ
Tâm tư hoan hỷ
Quy y Chánh pháp
Khuyến tấn khai hóa
Vô số Bồ-tát
Chiến thắng các ma
Và quyến thuộc chủng
Trổi rền vang lên
Tiếng trống Chánh pháp
Lời Bậc Thiện Thệ.
Tôi nay lại thấy
Chư Thiên. Thần, Nhân
Hết lòng tôn phụng
An trụ nơi kìa,
Tâm không ỷ lại
Càng thêm lặng không
Thiền định kinh hành
Không có chấp trước
Giống như Sư tử
Hóa độ chúng sinh
Khiến phát đạo tâm
Chúng sinh ở đây
Chắp ấy cúng dường
Tâm thường vui vẻ
Vân tập tự tại,
Lại thấy Phật tử
Sống đời tinh tấn
Xả bỏ dục trần
Thường được an nhàn,
Bền chí kinh hành
Giữa rừng vắng vẻ
Tâm nguyện tiến tu
Siêng cầu Phật đạo.
Phòng hộ thân, khẩu
Thường hành thanh tịnh,
An trụ giới pháp
Không sợ sinh tử,
Chủ động tự tâm
Các hạnh đủ đầy
Vì giới cấm này
Thức tỉnh bất giác
Con Đấng Tối Thắng
Trụ vào sức nhẫn
Vì kẻ cống cao
Hạ thân khiêm nhường
Hoặc người đánh đập
Mắng chửi khinh khi
Vì cầu tuệ giác
Lặng im không tranh
Tôi nay lại thấy
Các chúng Bồ-tát
Từ bỏ tất cả
Trò chơi ca nhạc
Cùng các thế lực
Bà con bạn bè
Giữ tâm kiên cố
Lặng như hư không
Trừ bỏ cấu uế
Rối loạn thân tâm
Chuyên nhất tâm ý
Dứt hẳn ấm cái
Thiền định tư duy
Trăm ngàn ức năm
Lập chí bố thí
Để cầu Phật đạo
Hoặc tự lìa xa
Chỗ nhiều lợi dưỡng
Trừ bỏ tham ganh
Không còn nhớ nghĩ
Cúng dường ẩm thực
Cung cấp đầy đủ
Cho vô số người
Y dược trị bệnh
Hiến dâng tất cả
Y phục tốt đẹp
Đều đem cúng dường
Không có chứa để
Nhiều đến vô số
Cúng Phật, Pháp, Tăng.
Trên đó hóa làm
Trăm ngàn muôn ức
Vật báu trân kỳ
Gỗ thơm Chiên-đàn
Có nhiều sàng tọa
Ngọc sáng kho tàng
Hiện ra trước mắt
Giá trị ngọc đó
Thật là vô lượng
Đều đem hiến cúng.
Lại thấy vườn rừng
Cây lá quả hoa
Sum suê tươi tốt
Đẹp lòng mọi người
Sớm tối tu hành
Đều đem hiến cúng.
Dâng lên chư Phật
Và các Thanh văn
Để tăng trưởng tuệ
Phẩm vật như thế
Đủ đầy bao thứ
Hân hoan cúng dường
Tự tâm yêu thích
Mà lập đạo hạnh,
Bố thí như vậy
Nguyện cầu tuệ giác.
Hoặc thấy có người
Tuyệt đối vắng lặng
Xét các báo ứng
Nhiều muôn ức triệu
Huấn dụ vô số
Khiến họ ăn năn
Để xả các báu
Chí cầu Phật đạo
Quán xét rõ ràng
Không bỏn sẻn pháp
Thành tựu tam sự [1]
Lặng như hư không
Lại thấy con Phật
Tâm vô sở trước
Trí tuệ bình đẳng
Âm thanh từ ái
Cầu đạo Vô thượng.
Tôi nay lại thấy
Chư Phật nhập diệt
An trụ khai hóa
Nơi chỗ hiện tại
Chúng Đại Bồ-tát
Cung kính phụng thờ
Xá-lợi tối thắng
Không thể tính đếm.
Lại thấy chùa Phật
Vô số ức ngàn
Như cát sông Hằng
Trong vô số cõi
Nguy nga tráng lệ
Các vật hóa hiện
Tối thắng vô cùng.
Bảy báu tự nhiên
Hiện ra thanh tịnh
Đầy đủ hết thảy
Hai mươi lăm vạn
Cờ phướn, lọng che
Mỗi thứ cả ngàn
Chu vi rộng khắp
Đều hai ngàn dặm
Lọng kia tốt đẹp
Tuyệt hảo trang nghiêm
Tỏa các mùi hương
Châu báu tư hiện
Muôn hoa thơm ngát
Kỹ nhạc hòa vang
La-sát Quỷ thần
Cung kính Thế Tôn
Phật tử chánh tín
Tha thiết biết bao
Dùng để cúng dường
Xá-lợi của Phật
Những ngôi chùa tháp
Tráng lệ nguy nga
Rải khắp hương hoa
Như cây Chú-đạt
Mọi người tại đây
Vô số ức ngàn
Đều trông thấy cả
Muôn màu muôn vẻ
Vô cùng kinh ngạc
Lan khắp mọi người
Muốn thấy tối thượng
Phóng ánh quang minh
Hiếm có cõi nguời
Ánh sáng bao trùm
Diệu kỳ sáng thế
Ly cấu vô lậu
Năng lực hiển bày
Huy hoàng như đây
Thị hiện cõi Phật
Vô số muôn ngàn
Điềm lành hôm nay
Chưa bao giờ có
Đủ loại như vậy
Biến hóa vô cùng,
Xin ngài Văn-thù
Giải thích đầy đủ
Tôi nay muốn nghe
Và các Phật tử
Trong bốn bộ chúng
Thâm tâm vui mừng
Mong chờ Nhân giả
Và nhìn vào tôi
Hôm nay nơi đây
Vì nguyên do gì
Phật phóng ánh sáng
Từ đôi chân mày?
Giải tỏa nghi ngờ
Cho họ hoan hỷ.
Vì sao Phật hiện
Ánh quang vô lượng
Biến hóa như thế?
Hẳn có cảm ứng
Chúng hội nơi đây
Mong vì giải nói
Chánh pháp vi diệu
Đại Thánh chứng ngộ
Nơi chốn đạo tràng
Diễn bày Chánh pháp
Đạo Sư tối thượng
Do vì duyên gì?
Nguyện vì phân biệt
Các Bồ-tát đây
Vô số trăm ngàn
Và các chúng khác
Muốn thấy cõi Phật
Châu báu tịnh nghiêm
Chư Phật tự hiện
Mắt sáng vô lượng
Các chúng mới học
Đều không do dự
Con Đấng Tối Thắng
Cùng nhau thưa hỏi
Vui lòng mọi người
Thiên thần, La -sát
Bốn bộ chúng đây
Tất cả ngưỡng trông
Bồ-tát Văn-thù
Cúi xin nói rõ.
Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù nói với ngài Di-lặc và các vị Đại sĩ trong hội chúng cùng các thiện nam, tín nữ:
– Theo tôi suy xét thì nay Đức Như Lai sắp giảng nói chánh pháp vĩ đại, rưới cơn mưa pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại giảng pháp vô lượng. Trong vô lượng kiếp ở quá khứ khi tôi theo hầu chư Phật cũng đã thấy điềm lành này. Các Đức Như Lai cũng phóng ra ánh sáng như thế để báo trước sẽ giảng nói chánh pháp vĩ đại. Do đó, các vị nên biết, chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, vì muốn cho chúng sinh được nghe chánh pháp vĩ đại, nên hiện ra điềm lành này. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn muốn làm cho khắp cả mọi loài tẩy sạch nhơ nhớp trần tục, tin hiểu Phật pháp nên mới hiển bày sức thần thông lớn, hiện tướng ánh sáng rộng lớn này.
Tôi nhớ trong vô lượng kiếp lâu xa không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được. Lúc ấy có Đức Như Lai hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật giảng thuyết kinh pháp, ban đầu, giữa và sau đều thiện, đều phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh cứu cánh thanh tịnh. Đức Phật vì hàng Thanh văn mà giảng rõ về bốn thánh đế, để họ vượt qua các tai họa sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, được vào vô vi Niết-bàn. Đức Phật vì chúng Đại sĩ Bồ-tát nêu rõ, phân biệt sáu pháp Ba-la-mật, làm cho họ được Tuệ giác vô thượng.
Này các thiện nam! Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh diệt độ, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này diệt độ, lại có Đức Phật cũng mang hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy, có tám mươi Đức Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều cùng một họ. Tính ra như vậy có đến hai vạn Đức Như Lai, lời chư Phật dạy đều là tối thượng. Hai vạn Đức Như Lai ấy, vị ra đời đầu tiên hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Đức Phật cuối cùng cũng có hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Các Ngài thuyết kinh phần đầu, giữa và sau đều thiện, phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh. Chư Phật vì hàng Thanh văn giảng pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên và các tai họa của sinh, già, bệnh, chết, lo sầu, khiến cho họ được diệt độ cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật vì các Bồ-tát giảng pháp sáu pháp Ba-la-mật, khiến cho họ được tuệ giác và đạt đạo Vô thượng chánh chân.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối cùng, khi chưa xuất gia có tám người con. Người thử nhất tên Hữu Chí, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Gia Khuyến, thứ tư tên Bảo Chí, thứ năm tên Trì Ý, thứ sáu tên Trừ Mạn, thứ bảy tên Hưởng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Tám vị Thái tử ấy là con của Như Lai, có đầy đủ năng lực để hướng đạo chúng sinh. Lúc ấy mỗi người thống lãnh bốn cõi thiên hạ, đất đai trồng trọt phì nhiêu, dùng chánh pháp cai trị nên đất nước không có chiến tranh. Khi thấy vua cha bỏ nước đi xuất gia, tu tập và thành tựu quả vị Tối chánh giác, các người con cũng bỏ ngôi vua xuất gia theo. Họ đến chỗ Đức Thế Tôn và đều làm Sa-môn, quyết chí mong cầu đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả cùng làm Pháp sư, thường tu phạm hạnh và đã từng gieo trồng các gốc phước đức nơi ngàn vạn ức Đức Phật.
A-dật-đa! Lúc bấy giờ Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh vì khuyến phát các Bồ-tát hộ trì giáo pháp của Phật nên giảng kinh Đại thừa Phương đẳng cho hội chúng nghe. Nói kinh xong, Đức Phật ở giữa hội chúng lặng yên ngồi nhập định Vô lượng chánh thọ, thân và tâm đều không lay động.
Khi Thế Tôn nhập định, trời mưa xuống các loại hoa Ý, hoa Đại ý hoa, Nhu nhuyễn, hoa Đại nhu nhuyễn rải trên Đức Phật và tất cả chúng hội, khắp cõi đất đều chấn động đủ sáu cách, nhân dân trong nước đem hoa trời rải trên Đức Phật. Đệ tử bốn chúng, chư Thiên và các chúng khác vô cùng kinh ngạc, nghi ngờ việc chưa từng có. Đức Phật thiền định chưa bao lâu thì từ nơi khuôn mặt oai thần phước đức của Ngài phóng ra một luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, không cõi nào mà không được chiếu sáng. Cảnh giới trong cõi nước của chư Phật đều tự nhiên hiện ra như những cõỉ của chư Phật hiện nay.
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh khi ấy ở trong hội chúng giảng thuyết kinh pháp cho hai mươi ức Bồ-tát. Các vị Đại sĩ Bồ-tát này đều thấy ánh sáng chiếu khắp thế gian, trong số đó có vị Bồ-tát tên Siêu Quang có mười tám người đệ tử. Trong số ấy có một vị Bồ-tát ưa thích giải đãi, tên là Danh Văn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh chuyên tâm nhập định, sau khi xuất định, Ngài vì Bồ-tát Siêu Quang mà giảng kinh Đại thừa Chánh Pháp Hoa. Tất cả các Bồ-tát đều theo hộ trì Phật nói pháp. Ngài an tọa một nơi thuyết kinh ấy trong sáu mươi kiếp. Chúng hội thân không lay động, tâm cũng không vọng tưởng.
Đức Thế Tôn thuyết pháp cho hội chúng suất sáu mươi kiếp, tất cả hội chúng nghe pháp thân không mệt mỏi, tâm không lo buồn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi kiếp vì các Bồ-tát giảng giải kinh Phương đẳng Pháp Hoa, rồi ở trong đại chúng, các Phạm vương, Ma vương, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Phạm chí, A-tu-la, Quỷ, Thần, chư Tỳ-kheo… bảo rằng: “Giữa đêm hôm nay, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.” Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ-tát Thủ Tạng, Ngài bảo các Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, Bồ-tát Thủ Tạng sẽ đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Phật hiệu là Vô Cấu Thể Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.”
Sau khi thọ ký xong, ngay giữa đêm hôm ấy Đức Phật nhập Niết-bàn. Tám người con của Đức Thế Tôn Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn Bồ-tát Siêu Quang làm Thầy, vâng theo lời Thầy chỉ dạy nên đều vững tin nơi đạo Tuệ giác vô thượng, được gặp vô lượng, vô số Đức Phật để tôn thờ, hầu hạ, cúng dường nên đều được thành tựu Chánh giác, vị thành Phật cuối cùng hiệu là Pháp Sự.
Trong số mười tám đệ tử của Bồ-tát Siêu Quang, có một vị Bồ-tát đam mê danh lợi, mong cầu sự cúng dường không biết chán, tham đắm nhiều nơi ba bệnh, đối với kinh pháp không thông suốt mà hay quên mất, lại thích nơi nhàn hạ, không lo tu tập, vì thế người đệ tử này có tên là Danh Văn. Nhưng vị Bồ-tát này vốn nhờ công đức gieo trồng nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật, do cầu nguyện nên được gặp chư Phật để cúng dường.
Đại sĩ Di-lặc! Pháp sư Tỳ-kheo Siêu Quang lúc ấy nay chính là tôi, còn Bồ-tát Danh Văn có tánh biếng lười nay chính là Đại sĩ. Do vậy các vị nên biết, thấy Thế Tôn hiện điềm lành phóng ánh sang này, tôi nghĩ rằng: “Hôm nay Đức Thế Tôn sẽ tuyên thuyết kinh Phương Đẳng Chánh Phá p Hoa cho chúng ta.”
Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù muốn lập lại nghĩa trên mà nói kệ:
Ta nay nhớ lại
Quá khứ lâu xa
Trong vô số kiếp
Không thể nghĩ bàn
Có Đức Tối thắng
Trí tuệ vô thượng
Danh hiệu Ngài là
Nhật Nguyệt Đăng Minh
Phật ấy giảng pháp
Đạt thành vô lượng
Hóa độ chúng sinh
Không thể tính hết
Dạy bảo phát tâm
Vô số Bồ-tát
Chẳng thể nghĩ bàn
Trăm ngàn ức vị
Lúc ấy Như Lai
Có tám người con
Tuổi đều thơ ấu
Thấy Phật thành đạo
Theo Ngài xuất gia
Cùng làm Sa-môn
Trừ bỏ ái dục
Và mọi sở hữu
Bậc Đại Đạo Sư
Vì họ nói pháp
Bản kinh được giảng
Tên Vô Lượng Tụng
Nhưng hiệu Tối Thượng
Đúng nghĩa như thế
Khai hóa mọi người
Số ngàn muôn ức
Phật tuyên thuyết xong
Bản kinh ấy rồi
Năng Nhân Chí Tôn
Ngay trên pháp tòa
Liền ngồi kiết già
Nhập thiền Tam-muội
Tên Vô lượng tụng
Liền hiện điềm lành
Khỉ ấy trời mưa
Hoa thơm Đại ý
Lại hiện chớp sáng
Sấm lớn vang rền
Chư Thiên, Quỷ, Thần
Ở nơi hư không
Một lòng cung kính
Đấng Nhân Trung Tôn
Các quốc độ Phật
Tức thời chấn động
Từ nơi giữa mày
Phóng ra hào quang
Sáng chói rực rỡ
Thật vô hạn lượng
Mọi người ngạc nhiên
Cho chưa từng có
Ánh sáng chiếu khắp
Cõi Phật phương Đông
Một vạn tám ngàn
Muôn ức thế giới.
Chính ngay khi ấy
Phật phân biệt rõ
Chỉ cho chúng sính
Cội nguồn chung thủy
Hoặc có cõi Phật
Dựng các lọng báu
Ánh sáng lưu ly
Hoặc như pha lê
Của Phật chiếu soi
Rực rỡ oai thần
Hiện bao nhiêu vẻ
Tốt đẹp trang nghiêm
Chư Thiên, Nhân dân
Và Rồng. Quỷ, Thần
Chúng Càn-thát-bà
Vui chưa từng có
Một lòng thành kính
Cùng nhau tôn phụng
Các thế giới kia
Đều tự nhiên hiện,
Lại thấy chư Phật
Đều rất tự tại
Thù thắng trang nghiêm
Sắc thân vàng tía
Như ngọc lưu ly
Ở giữa các báu
Phật trong chúng hội
Tuôn mưa giáo pháp
Chúng Thanh văn kia
Đông không kể xiết
Tán thán vô cùng
Đệ tứ chánh tín
Tất cả Đạo sư
Mỗi một thế giới
Của Phật sáng soi
Thảy đều rực rỡ
Thường hành tinh tấn
Giữ giới không phạm
Công đức nhẫn nhục
Cũng như ngọc sáng,
Lại thấy Bồ-tát
Hiện nhiều vô số
Dạo chốn tịch nhàn
Núi rừng đồng vắng
Nhập định tham thiền
Thân tâm an tịnh
Nếu có gia hại
Không nổi hận sân
Các chúng Bồ-tát
Như cát sông Hằng
Trụ trong ánh sáng
Một cách sâu xa
Nghĩ nhớ vô thường
Không sống buông lung
Vui thiền, nhẫn nhục
Không xả nhất tâm
Có thiện nam tử
Trong tất cả thời
Điều phục thân tâm
Tuân hành Phật đạo
Nội quán chân lý
Tâm tư vắng lặng
Phương tiện tùy duyên
Khai hóa muôn loài
Vô số cõi Phật
Rộng thuyết pháp kinh
Đức Phật Thế Tôn
Cảm ứng như thế,
Lại thấy Đại Thánh
Như Bậc Thuyền sư
Phát ra ánh sáng
Che lấp trời trăng
Tất cả chúng sinh
Vô cùng hoan hỷ
Trời người phụng hiến
Và cùng hỏi nhau:
Đó là điềm gì?
Từ thiền định xuất
Trong chẳng bao lâu
Đạo Sư tán thán
Vị Bồ-tát kia
Tên là Siêu Quang
Là bậc Pháp sư
Theo Phật giải thoát
Mắt của thế gian
Ai cũng quay về
Phật vui tin tôi
Chỉ bày các tướng
Vì tôi phân biệt
Nói kinh pháp này
Phật thương chúng sinh
Vì thế giáo hóa
Kiên lập khuyến tấn
Cho chúng Bồ-tát.
Nghe Phật chỉ bày
Ca ngợi hân hoan
Khi ấy Thế Tôn
Nói kinh pháp lớn
Thuyết giảng đầy đủ
Trong sáu mươi kiếp
Rồi trên pháp tòa
Kiết già nhập định
Đức Phật tuyên thuyết
Giáo pháp thù thắng.
Các Đức Phật kia
Đều đã diệt độ
Vi Pháp sư đó
Bồ- tát Siêu Quang
Diễn pháp tối thắng
Thuyết giảng kinh điển
Làm cho các chúng
Đều sinh vui mừng
Cúi xin Đại Thánh
Phân biệt giải nói
Từ trên cõi trời
Đến chốn nhân gian
Giảng thuyết kinh điển
Luận bàn tự tại
Dạy cho chúng hội
Về kinh Pháp Hoa.
Phật bảo Tỳ-kheo:
Ta đã đến lúc
Vào giữa đêm nay
Vào nơi diệt độ
Hãy siêng tu hành
Giữ tâm kiên cố
Ta đã giải nói
Dạy bảo kinh pháp.
Đại Thánh thần thông
Khó được gặp gỡ
Nơi vô số ức
Na-do-tha kiếp
Hãy luôn cúng dường.
Vô lượng Phật tử
Bị họa ưu sầu
Khổ đau cùng cực
Khi nghe Thế tôn
Chỉ bày chương cú
Quán sát vô vi
Thực hành lời dạy
Thấy Đấng Nhân Tôn
Vô số chúng sinh
Nhiều không nhớ hết
Được Phật an ủi
Tỳ-kheo chớ sợ
Vì ta Nê-hoàn
Sau khi ta diệt
Sẽ không thấy lại.
Đệ nhị Bồ-tát
Tên là Thủ Tạng
Không còn lậu hoặc
Không còn tử sinh
Đạt đến cứu cánh
Tuệ giác vô thượng
Thành Đức Phật-đà
Hiệu là Ly Cấu
Cũng tại nơi đó
Vào lúc nửa đêm
Đức Phật nhập diệt
Ánh sáng không còn
Xá-lợi của Phật
Phân bố khắp nơi
Tháp miếu được xây
Số nhiều muôn ức
Các vị Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Hết lòng mong cầu
Tuệ giác vô thượng
Số lượng vô số
Như cát sông Hằng
Thường hành tinh tấn
Theo pháp tu tập
Khi ấy Tỳ-kheo
Bồ-tát Siêu Quang
Làm bậc Pháp sư
Giữ gìn kinh pháp
Một thời gian ngắn
Diễn thuyết chánh pháp
Trọn vẹn thời gian
Trong tám mươi kiếp.
Mười tám vương tử
Theo ngài xuất gia
Đều được giáo hóa
Vững tin chánh pháp,
Các vương tử này
Gặp vô sô Phật
Chí tâm cúng dường
Chư Phật Thánh Tôn
Kính phụng tôn thờ
Diệu pháp vi diệu
Đều được thành Phật
Ở nơi các cõi
Làm Đấng Tự Tại
Thọ trì vô lượng
Thứ tự thọ ký
Khiến được Chánh giác.
Ở nơi chư Phật
Đều được giải thoát.
Định Quang Thế Tôn
Thành Phật cuối cùng
Đại Thánh Nhật Nguyệt
Bậc Thầy dẫn đạo
Khai hóa Thánh chúng
Trăm ngàn vô số
An trụ giải thoát
Có đủ uy đức
Pháp sư Siêu Quang
Tức chính là ta.
Lúc ấy có vị
Tánh thường giải đãi
Tham cầu lợi dưỡng
Thân cận bạn bè
Tâm hay mong cầu
Chỉ thích tiếng khen
Hay thường giao du
Các nhà dòng dõi
Bỏ bê không học
Chẳng đọc tụng kinh
Lúc đỏ chẳng chịu
Học tập tư duy
Vì lý do ấy
Mới có tên này,
Nơi giáo pháp Phật
Muốn được ngợi khen
Tuy nhiên người này
Đã tạo công đức
Thời Phật quá khứ
Dẫu có tỳ vết
Được gặp vô số
Chư Phật Thế Tôn
Tích lũy công đức
Với chư Đại Thánh
Chuyên tu chánh hạnh
Được tối thuận nhẫn
Lại gặp Thích Tôn
Tu hành như vậy
Nên ở tương lai
Vào đời cuối cùng
Sẽ được thành đạo
Vô thượng chánh chân
Thành Đấng Phật-đà
Hiệu là Từ Thị
Giáo hóa chúng sinh
Vô số ức ngàn
Tâm thường dũng mãnh
Tự tại giải thoát
An ổn diệt độ
Việc Ngài giáo hóa
Ở trong tương lai
Sẽ là như vậy
Thuở ấy thân tôi
Chính là Pháp sư
Do thế cho nên
Điềm lành như trên
Đời trước đã thấy
Cảnh như hiện nay
Thế Tôn an trụ
Biến hiện như thế
Nay tôi thẩm quán
Điềm lành hiện nay
Đức Phật Thế Tôn
Vua dòng họ Thích
Mắt tuệ vô lượng
Hiện điềm tối thắng
Hôm nay muốn nói
Kinh Chánh Pháp Hoa
Tôi ở quá khứ
Đã từng thấy nghe
Biến hiện như vậy
Đầy đủ tất cả
Phương tiện quyền xảo
Của chư Thế Tôn
Nay Đấng Thích Tôn
Kiến lập hưng khởi
Giảng thuyết kinh pháp
Giáo hóa tự nhiên
Người có tâm đạo
Chắp tay kính ngưỡng
Đạo Sư giúp đời
Nay sẽ phân biệt
Tuôn mưa chánh pháp
Giáo pháp Vi diệu
Thấm nhuần tất cả
Che phủ mọi loài
Nếu có chư Thiên
Muốn được giải thoát
Lòng còn hồ nghi
Và còn do dự
Nếu có Bồ-tát
Ý tầm cầu đạo
Phật sẽ giải trừ
Được trí tuệ Phật.
***
Phẩm 2: THIỆN QUYỀN
Khi ấy Đức Thế Tôn xuất thiền, bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Phật đạo sâu xa vô tận, Tuệ giác vô thượng của Như Lai khó hiểu, khó biết, khó có thể vào. Tuy hàng Thanh văn, Duyên giác từ muôn ức kiếp lâu xa đã quy kính cúng dường, vô số kiếp đã tạo lập cội lành công đức, tôn trọng phụng trì pháp Phật, ân cần lao khổ, tinh tấn tu hành, còn không thể thấu hiểu diệu lý của đạo.
Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai quán sát nhân duyên sinh khởi hạnh nghiệp của chúng sinh nên dùng phương tiện quyền xảo một cách khéo léo, tùy nghi hướng dẫn điều phục họ, Như Lai dùng trí tuệ phân biệt tất cả pháp, vận dụng vô số phương tiện để cứu độ quần sinh, dùng sức trí tuệ lớn không sợ hãi, nhất tâm, giải thoát, Tam-muội không có hạn lượng. Giáo pháp mà Như Lai đã giảng nhiều không thể tính hết, nhưng Như Lai chỉ lược thuyết mà thôi. Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ là pháp hy hữu, cao tột, khó thể suy lường. Như Lai đã thấu tỏ nguyên nhân của các pháp, tự ngộ các pháp từ đâu mà đến, phân biệt hiện tượng của các pháp, tự biết rõ nguồn gốc của chúng.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ:
Bậc Thế Hùng khó lường
Trời, người ở cõi thế
Tất cả loài chúng sinh
Không ai hiểu Đạo Sư
Thanh tịnh nói giải thoát
Vắng lặng không sợ hãi
Hành tướng của các pháp
Không một ai biết được.
Vốn từ vô số Phật
Do nương tựa tu hành
Thể nhập nghĩa vi diệu
Hiện thế không phân biệt,
Trải qua vô số kiếp
Tu học theo hạnh Phật
Thành quả đến đạo tràng
Cũng như hành từ mẫn,
Khiến ta được tuệ này
Như chư Phật mười phương
Đầy đủ các tướng tốt
Vẻ đẹp cũng như vậy.
Pháp thân không phô bày
Cũng không còn ngôn ngữ
Quán sát toàn chúng sinh
Thế gian không ai sánh.
Nếu thuyết giảng kinh pháp
Có thể hiểu rõ được
Chỉ có chư Bồ-tát
Thường tin hiểu vui làm.
Giả sử các Phật
Chúng đệ tử Ngài
Việc làm đã xong
An trụ giáo pháp,
Khéo hàng phục tâm
Dứt trừ phiền não
Vẫn chưa đạt được
Trí tuệ vô lượng.
Giả sử nơi đây
Cảnh giới chư Phật
Đều đem bảy báu
Tràn đầy khấp nơi,
Dùng để hiến cúng
Chư Phật chí tôn
Muốn rõ tuệ ấy
Trọn không hiểu nổi,
Giả sử mười phương
Thế giới chư Phật
Các bậc Minh triết
Đầy khắp cõi nước,
Và trong hiện tại
Các chúng Thanh văn
Đầy đủ tất cả
Cũng như hiện nay.
Hội chúng khi ấy
Cùng nhau suy lường
Trí tuệ Như Lai
Cũng không thể biết
Trí tuệ của Phật
Vô lượng, vô biên
Muốn biết giới hạn
Chẳng thể biết được.
Các bậc Duyên giác
Lậu hoặc không còn,
Thông đạt các căn
Nhiếp trì tâm niệm.
Giả sử mười phương
Đầy chật cả người
Nhiều như mía lau
Cỏ sậy tre trúc,
Hợp lại với nhau
Cùng chung tư duy
Muốn biết trí Phật
Luận bàn các pháp,
Trải vô số kiếp
Suy niệm đo lường
Cũng không thể biết
Pháp nghĩa chân thật.
Các vị Bồ-tát
Mới phát tâm ý
Nếu được cúng dường
Vô số ức Phật,
Giảng thuyết pháp kinh
Phân biệt nghĩa lý
Tràn đầy khắp cả
Mười phương cõi nước.
Số đó ví như
Lúa mè rừng cây
Khắp cùng thế giới
Nhiều vô số kể,
Kết hợp với nhau
Mà cùng tư duy
Tuệ giác Như Lai
Thấy các pháp tánh
Không thể nghĩ bàn
Vô số ức kiếp
Như cát sông Hằng
Không thể hạn lượng.
Tâm không thay đổi
Trí tuệ siêu việt
Muốn biết pháp ấy,
Vô số Bồ-tát
Đều không thoái chuyển
Chẳng phải cõi này
Trong vô lượng kiếp
Như cát sông Hằng
Nhất tâm chuyên ròng
Cùng nhau tư duy
Tất cả bọn họ
Cũng không kham nổi.
Trí tuệ chư Phật
Không thể nghĩ bàn
Đoạn hết các lậu
Không thể suy lường.
Chỉ có chư Phật
Mới hiểu hoàn toàn
Phân biệt mười phương
Thế giới chư Phật.
Này Xá-lợi-phất!
Lời Như Lai dạy
Không có thiếu xót
Thấu rõ pháp kia,
Pháp lợi tối thắng
Thông tỏ hoàn toàn
Thuyết nghĩa Vô thượng
Sau thời gian dài.
Hôm nay Như Lai
Bảo chúng Thanh văn
Và Duyên giác thừa
Như chỗ đã lập,
Thoát nguyện buộc ràng
Hưởng được Niết-bàn
Sẽ được khai hóa
Tất cả được độ,
Pháp Phật tôi thắng
Khéo dùng phương tiện
Tuyên thuyết diễn bày
Giáo hóa thế gian
Ta thường độc hành
Độ thoát tất cả
Dùng thị hiện ấy
Nói pháp chân thật.
Khi ấy trong đại chúng có tất cả một ngàn hai trăm vị A-la-hán thuộc hàng Thanh văn đã chấm dứt các phiền não, biết rõ con đường tụ tập đưa đến giác ngộ, cùng với chúng đệ tử Hữu học Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuộc chúng Thanh văn, mỗi vị đều suy nghĩ: “Tại sao hôm nay Đức Thế Tôn ân cần tán thán về phương tiện khéo léo, ca ngợi công hạnh và giáo pháp sâu xa vi diệu của Phật mà ngay cả bậc có trí tuệ cao tột cũng không thể hiểu biết, huống gì những vị Thanh văn, Duyên giác. Nếu nay theo lời Đức Thế Tôn vừa dạy thì pháp ấy không đưa đến Niết-bàn. Tuy Thế Tôn thuyết kinh này nhưng chúng ta không rõ tận cùng ý nghĩa đó như thế nào?”
Tôn giả Xá-lợi-phất biết sự hoài nghi trong lòng bốn chúng và muốn phá lưới nghi của mình nên thỉnh hỏi Đức Thế Tôn. Tôn giả sửa y phục, cung kính bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay vì sao Thế Tôn ân cần tán dương phương tiện khéo léo của Ngài là pháp sâu xa vi diệu bậc nhất, đạo đức cao vời vợi không có giới hạn?
Tôn giả Xá-lợi-phất dùng kệ thỉnh hỏi:
Thánh Tuệ cao tột
Lâu xa mới dạy
Giải thoát, thiền định
Phụng trì vô số
Khen công Đức Phật
Không ai dám thưa
Ca ngợi thật pháp
Ai hiểu ý diệu
Hiển bày Thánh pháp
Tán thán hạnh Phật
Tuệ không thể lường
Xin Phật giảng pháp
Nay chúng hoài nghi
Nghe pháp dứt phiền
Mong cầu giải thoát
Nghe Phật ca ngợi
Hạng cầu Duyên giác
Tỳ-kheo nam nữ
Trời, Rồng, Quỷ, Thần
Kiền-đạp, Hưu-lặc
Tất cả các loài
Cũng đều phân vân
Muốn thỉnh hỏi Phật
Xin Phật giải thích
Cho hàng Thanh văn
Dạy tâm an trụ
Được Phật ngợi khen
Chỉ con bậc nhất
Tâm nay mê mờ
Không tự hiểu được
Con đến Niết-bàn
Lại nghe điều này
Xin giảng phân biệt
Diễn âm oai hùng
Lời Phật tuyên bày
Như Sư tử rống
Chúng đệ tử Phật
Chắp tay kính lễ
Muốn nghe chánh pháp
Cúi mong phân biệt
Tám bộ Trời, Rồng
Quỷ, Thần, Chân-đà
Trăm ngàn vô số
Như cát sông Hằng
Ai cũng chắp tay
Cúng dường Thế Tôn
Đều cùng muốn hỏi
Với Đấng Tuệ Giác
Vua trời Đế Thích
Chuyển luân thánh vương
Ai cũng một lòng
Trăm ngàn muôn ức
Tất cả cung kính
Chắp tay đứng chờ
Mong _muốn được nghe
Con đường hoàn hảo.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Thôi đi, thôi đi, không nên hỏi điều ấy! Vì sao? Vì nếu ta nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều sẽ kinh sợ.
Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa:
– Cúi xin Đức Thế Tôn hãy chỉ dạy cho chúng con ý nghĩa của thật pháp. Vì sao? Bởi vì ở trong chúng hội này có trăm ngàn vô số ức đầy dẫy những loại chúng sinh, kể cả những sâu bọ, muỗi mòng, côn trùng nhỏ nhít… từ kiếp quá khứ đã từng gặp Phật biết gieo trồng các công đức, nghe lời Đức Thế Tôn dạy, tất cả sẽ hoan hỷ kính tin, thọ trì, phụng hành.
Tôn giả Xá-lợi-phất dùng bài kệ nói:
Nguyện Đấng Nhân Vương
Thương ban lời dạy
Chúng xuất gia đây
Trăm ngàn muôn ức
Cung kính an trụ
Tin vào Tuệ giác
Tất cả các loài
Thảy đều hân hoan.
Lúc đó Đức Thế Tôn ngăn Tôn giả Xá-lợi-phất ba lần như vậy, bảo Tôn giả chớ nên lập lại lời ấy, bởi nếu Như Lai nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều ôm lòng kiêu mạn hoài nghi, những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ rơi vào khốn khổ lớn.
Đức Thế Tôn dùng kệ bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
Thôi thôi đừng hỏi
Pháp của Như lai
Sâu xa vi diệu
Những kẻ không hiểu
Giả sử ta nói
Dễ sinh nghi ngờ
Ám độn ngu si
Ôm lòng kiêu mạn.
Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn hãy thương xót chỉ dạy. Vô số chúng đây vào thời quá khứ lâu xa đã từng nghe chư Phật giảng dạy, vì thế hôm nay nếu được nghe và tư duy pháp âm bậc thánh chắc chắn họ có thể kính tin, được an ổn lâu dài, không còn nghi ngờ, kiêu mạn.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói bài kệ:
Con, trưởng tử Phật
Nay muốn thỉnh cầu
Xin Lưỡng Túc Tôn
Xót thương chỉ dạy
Trong chúng hội này
Vô số chúng sinh
Đều sẽ kính tin
Lời dạy của Phật
Xưa trồng cội đức
Dứt các lưới nghi
Suốt vô lượng kiếp
Từng được dạy bảo
Nay họ chắp tay
Đứng bên cung kính
Chắc chắn hân hoan
Vối pháp nghĩa ấy
Những người như con
Một ngàn hai trăm
Và các chúng khác
Cầu Tuệ giác Phật
Nếu được thấy, nghe
Tin nơi giáo pháp
Tâm sẽ vui mừng
Phát khởi chí lớn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy Xá-lợi-phất ân cần thưa thỉnh ba lần, mới bảo với Tôn giả:
– Nay ông đã tha thiết thưa thỉnh đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy ông hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ giải nói.
Khi Đức Thế Tôn vừa nói xong lời ấy, năm ngàn vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vì ôm lòng kiêu mạn lập tức đứng dậy, rời chỗ ngồi, đảnh lễ Đức Thế Tôn và bỏ hội chúng mà lui ra. Vì sao? Vì những người đó không tin vào pháp phương tiện khéo léo, lại có tâm tăng thượng mạn, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng. Họ góp nhặt những vật dụng như dù che, y phục, ngọa cụ… rồi tự đi ra. Đức Thế Tôn vẫn yên lặng không ngăn cản.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Những kẻ què quặt, lén bỏ hội chúng ra đi, bị âm thanh, mùi vị buộc ràng nên rời khỏi nơi đạo tràng rộng lớn. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Vì sao Như Lai tuyên thuyết pháp này? Ví như hoa Linh thụy thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần, chư Phật tán thán pháp hy hữu này rất lâu mới có. Hội chúng phải tin vào lời pháp chân thật sâu xa của Như Lai, Như Lai tùy nghi thuyết pháp sâu xa vi diệu, không hư dối, bao nhiêu âm thanh lời lẽ diễn đạt về pháp, mỗi lời đều đặc thù, là điều mà con người không thể suy niệm được. Pháp ấy chưa ai nghĩ ra được, chỉ có Như Lai mới chứng biết. Vì sao? Bởi vì điều mà Như Lai ca ngợi, khai sáng cho đời chính là lý do trọng đại duy nhất. Mà tất cả chư Phật thị hiện ra đời. Chư Phật vì muốn khuyến cho chúng sinh đang vọng tưởng nên xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh chấm dứt vọng tưởng vô minh, mong cầu Phật tuệ mà xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh dứt bỏ vọng tưởng, đạt đến trí tuệ trân quý của Như Lai mà xuất hiện ở đời; muốn đem tuệ giác của Như Lai để giác ngộ chúng sinh vọng tưởng mà xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày, làm cho chúng sinh tỉnh thức theo con đường bát chánh, dứt trừ vọng tưởng mà xuất hiện ở đời. Vì thế nên biết, sự xuất hiện của các Bậc Chánh giác đều vì một mục đích là đem trí tuệ siêu việt mà tạo nên sự nghiệp lớn. Trí tuệ ấy cũng như hư không, vì tâm đại bi mà xuất hiện ở đời, như chư Phật đã thực hành để hóa độ, làm lợi ích cho chúng sinh cũng lại như vậy. Như Lai thể hiện trí tuệ chân thật thuyết pháp giáo hóa các Bồ-tát, dùng Tuệ giác Phật phân tích, giảng thuyết làm cho họ tiến đến cỗ xe duy nhất là Phật thừa, không hề có cỗ xe thứ hai, huống chi là cỗ xe thứ ba. Chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều vận dụng bao nhiêu lời lẽ giáo hóa phương tiện quyền xảo, âm thanh, ngôn từ khác nhau để khai hóa cho tất cả chúng sinh, thuyết pháp khiến họ đều phát tâm Đại thừa, cỗ xe đưa đến Chánh giác và tất cả trí tuệ sáng suốt của Phật.
Xá-lợi-phất! Những chúng sinh đây đều đã cúng dường chư Phật đời quá khứ, cũng từng nghe pháp, tùy theo bản hạnh của họ mà được Như Lai chỉ dạy. Như Lai thấy bản hạnh của chúng sinh không giống nhau, xem xét tâm họ ưa thích những gì, khéo dùng phương tiện theo quả báo mà họ đã thọ để giảng pháp nghĩa, đều là pháp Đại thừa Chánh giác bình đẳng, đưa đến trí tuệ giác ngộ, đức hạnh toàn thiện, không có thừa thứ hai. Chư Phật trong mười phương thế giới đều như vậy, không có tam thừa.
Xá lợi-phất! Nếu Như Lai nói về sự cấu uế của chúng sinh thì suốt trong một kiếp cũng không hết được. Nay ta xuất hiện nơi đời ngũ trước xấu ác, đó là:
1. Trần lao.
2. Hung bạo.
3. Tà kiến.
4. Thọ mạng ngắn ngủi.
5. Đang thời kiếp trược.
Vì những điều ấy nên chúng sinh có ít phước đức, tham lam, bỏn sẻn, nhiều cấu uế…, Như Lai phải vận dụng phương tiện nói có ba thừa để khuyến hóa hàng Thanh văn và Duyên giác. Nếu ta dạy về Phật thừa thì tất cả họ đều sẽ không nghe, không hiểu, không thâm nhập được; sẽ có niệm sai lầm cho rằng chỉ có đạo Thanh văn và Duyên giác là cao tột, sâu xa. Nếu những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, đã chứng La-hán, tự cho là đã hoàn tất mà không có chí mong cầu Tuệ giác vô thượng, nhất định họ sẽ phỉ báng Phật thừa. Dù có suy niệm ấy, ta vẫn giáo hóa bình đẳng. Tuy nhiên sau khi Như Lai nhập diệt, những kẻ nhiều tăng thượng mạn mới biết được. Vì sao? Vì những vị Tỳ-kheo La-hán, nhưng đã chấm dứt các lậu hoặc không có chí mong cầu, nghe kinh điển này mà không tin nhận, khi Như Lai diệt độ, không còn hiện diện trước mặt họ nữa; nếu Đấng Đại Thánh diệt độ không thuyết pháp kinh này, khiến cho họ thọ trì và tụng đọc kinh phương đẳng, thì Đức Phật khác, (ban đầu) chắc chắn họ sẽ hồ nghi, nhưng sau đó họ sẽ trọn lòng tin lời của Như Lai nói là thành thật, chỉ có pháp Nhất thừa không có thừa thứ hai.
Đức Thế Tôn tụng lại nghĩa trên:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Tâm nhiều tăng thượng mạn
Cận sự nam và nữ
Năm ngàn người không tin
Không tự thấy tỳ vết
Sơ hở thiếu giới hạnh
Bị nhiều điều điên đảo
Nên khởi ý ngu si
Ngược cầu hạnh tạp nhiễm
Đều không phương tiện khéo
Chư Phật định tối thắng
Dược nghe pháp có duyên
Cúng dường Bậc Tịnh Trí
Trụ uy giữa chúng nghiêm
Tất cả đều nhờ ân
Chí nghịch đều thấy ác
Xá-lợi-phất hãy nghe!
Phật, Bậc Nhân Trung Tôn
Biết đúng rõ các pháp
Giảng nói bao nhiêu điều
Khéo dung phương tiện
Trăm ngàn muôn ức
Tùy tâm hạnh người
Để mà thuyết pháp
Các việc tội phước
Chúng sinh không đồng
Từ nơi kiếp trước
Theo sự báo ứng
Những chúng sinh đây
Tâm niệm mỗi khác
Tạo biết bao nhiêu
Kết sở ràng buộc
Thấy các nhân duyên
Trăm ngàn muôn ức
Tất cả phẩm loại
Tỳ vết như thế
Đại Thánh Như Lai
Thuyết kinh pháp này
Lời dạy chí thành
Không hề hư dối
Từ xưa dẫn dụ
Vô số bao nhiêu
Những điều ta nói
Đều vì phân biệt
Có người không ưa
Lời Bậc Chánh Giác
Nơi vô số Phật
Không tạo lập hạnh
Ngu si sinh tử
Bị nhiều khổ họa
Cho nên vì họ
Hiện nói Niết-bàn
Đại Thánh chuyển pháp
Vận dụng phương tiện
Để khuyến hóa người
Khiến vào Phật tuệ
Theo lời Phật dạy
Hưng thạnh thế gian.
Ta trước chưa từng
Vì họ thị hiện
Vì sao ngu mê
Gặp Bậc Đạo Sư
Tự thấy nhàm chán
Chính vì phân biệt
Nay mới được nghe
Diễn bày bình đẳng
Vì thế mới nói
Trí giác của Phật
Trong pháp của ta
Những người mới học
Phật dùng Thánh tuệ
Phương tiện quyền biến
Như Lai phân biệt
Vì muốn khai hóa
Cho các chúng sinh
Nên dạy nghĩa ấy
Muốn biết Phật đạo
Thường luôn thanh tịnh
Vui tin Thánh điển
Thật là vi diệu
Ở chỗ chư Phật
Việc làm đã xong
Vì những vị ấy
Nói pháp Phương đẳng
Chí tánh thuận hòa
Đầy đủ các hạnh
Gần gũi Thánh giác
Rồi vì họ nói
Đạt đức sâu rộng
Họ ở vị lai
Xót thương từ mẫn
Tất cả nghe pháp
Ca ngợi vui mừng
Chúng ta thành Phật
Cũng sẽ như vậy
Nhờ nhân duyên ấy
Đời đời đoan nghiêm
Và luôn học tập
Kinh Phương đẳng này
Ai vui thích nghe
Thánh giáo tuyệt diệu
Những người như thế
Là đệ tử Phật
Giả sử được nghe
Một câu kệ Phật
Đều thành Chánh giác
Không có nghi ngờ
Phật đạo có một
Chưa từng có hai
Huống gì trong đời
Lại có ba thừa
Trừ khi Như Lai
Phương tiện tuyên thuyết
Ta dùng Phật thừa
Khai hóa thuyết pháp
Muốn được giảng nói
Tuệ Phật sâu xa
Khéo dung phương tiện
Trí sáng của Phật
Chỉ có Nhất thừa
Đâu thể có hai
Những người trí thấp
Cần cầu thắng pháp
Tuệ giác Như Lai
Thường luôn như thế
Đến được quả Phật
Chẳng ai dám nghĩ
Phật lực nhất tâm
Mở cửa giải thoát
An trụ chúng sinh
Vào pháp Vô thượng
Chư Phật tối thượng
Không có tỳ vết
Không ai sánh cùng
Hiện trí bình đẳng
Chỉ dạy như vậy
Pháp lành chúng sinh
Vì vậy Thế Tôn
Khuyến lập thừa ấy
Nơi chốn an ổn
Khuyên siêng kính ngưỡng
Cảnh giới khắp nơi
Tại đó tu hành
Đoạn trừ tất cả
Các pháp tham tàn
Nên hiệu là Phật.
Đấng đại dũng mãnh
Nay đã tạ o lập
Vô số tướng hình
Quyến thuộc bao quanh
Diễn ánh sáng pháp
Vô số chúng sinh
Trăm ngà n muôn ức
Vì họ giảng pháp
Pháp ấn tự nhiên.
Này Xá-lợi-phất!
Ta thấy như vậy
Hôm nay nơi đây
Vì khắp quần sinh
Hiện ba hai tướng
Dung mạo diệu kỳ
Thân tâm tự tại
Không gì ngăn ngại.
Ta đã quán niệm
Theo chỗ nhớ nghĩ
Nay cũng như xưa
Ai có chí nguyện
Đều được viên thành
Sâu xa vi diệu
Phân biệt giảng nói
Đồng đến Phật vị.
Này Xá-lợi-phất!
Lời Phật chí thành
Mọi việc làm vì
Giác ngộ chúng sinh.
Giả sử ta nói
Không thể hiểu rõ
Không thể tiếp nhận
Lời thiện chí thành,
Như Lai suy nghĩ
Những kẻ như đây
Ở trong quá khứ
Chưa từng tu tập
Hôm nay đến lúc
Nguyện xưa đã thành
Đoạn trừ ái dục
Trừ mưa ám chướng
Chúng sinh đắm dục
Đọa vào đường ác
Ở nơi uế nhiễm
Các niệm xấu xa
Và pháp vô minh
Thường luôn tăng trưởng
Những người phước mỏng
Bị họa khổ não
Và các tà kiến
Bức bách buộc ràng
Chấp có thế này
Chấp không thế khác
Nương theo đầy đủ
Sáu mươi hai kiến
Thường ở nơi đây
Cố chấp không bỏ
Thế lực mong manh
Lòng luôn lo sợ,
Chưa từng được nghe
Phạm âm của Phật
Thưởng phải đọa lạc
Khôn lìa ba nẻo
Trăm ức ngàn đời
Chẳng hiểu giáo pháp
Vì những người ấy
Như Lai phương tiện
Tuyệt diệu vô cùng
Dạy họ diệt khổ
Đoạn tận cội nguồn
Phiền não tà kiến
Của các chúng sinh
Phật chỉ bày họ
Khiến đến Niết-bàn,
Vì vậy Như Lai
Khai thị diệt độ
Khiến tất cả pháp
Đều được tịch tĩnh.
Lại nữa quá khứ
Đệ tử chư Phật
Nên trong tương lai
Thành Bậc Tối Thắng
Ta nay vận dụng
Phương tiện như thế
Khiến họ đừng nghĩ
Nên dạy Tam thừa
Nhưng chỉ có một
Không có hai, ba
Vì vậy Thế Tôn
Lại nói Nhất thừa
Có vô sô người
Khởi niệm hoang mang
Suy nghĩ rối rắm
Do dự nghi ngờ
Lời Như Lai dạy
Trọn không đổi khác
Phật thừa duy nhất
Chưa từng có hai
Từ xưa đến nay
Đạo sư cõi đời
Vô lượng chư Phật
Đã nhập Niết-bàn
Thuộc thời quá khứ
Vô số kiếp qua
Tính toán suy lường
Không thể hết được
Tất cả Thế Tôn
Tối thượng cõi người
Giảng nói kinh pháp
Vơ lượng thanh tịnh
Đã dùng vô số
Báo ứng ví dụ
Vận dụng phương tiện
Muôn ức trăm ngàn
Rộng vì chúng sinh
Thị hiện Nhất thừa
Cho nên thuyết đạo
Độ người chưa độ
Thường giảng cho người
Trí tuệ bình đẳng
Khai hóa muôn loài
Trăm ngàn muôn ức
Phương tiện khác nhau
Vô số Đức Phật
Vì giảng phân biệt
Chân lý cao tột
Bản tánh thanh tịnh
Mới tin hiểu được
Hoặc tại trên trời
Thế gian cũng vậy
Có ai nghe kinh
Nghe xong suy ngẫm
Những chúng sinh đó
Đạt được an ổn
Thường hành bố thí
Giới hạnh đầy đủ
Nhẫn nhục không thiếu
Thường hành bình đẳng
Tinh tấn nhất tâm
Tu thiện dũng mãnh
Nơi kinh điển này
Tuân giữ trí tuệ
Hoặc là tạo lập
Bao nhiêu phước đức
Thì những người ấy
Sẽ thành Phật đạo.
Ta có diệt độ
Nơi chỗ Như Lai
Vào thời gian đó
Tất cả chúng sinh
Nhẫn nhục thiền định
An lạc vô cùng
Thì những người ấy
Sẽ thành Phật đạo.
Nếu ai cúng dường
Xá-lợi chư Phật
Bậc Thánh Tối Thắng
Khi Phật diệt độ
Xây nơi thờ Phật
Vạn ức trăm ngàn
Vàng ròng bạc trắng
Lưu ly thủy tinh
Hoặc dùng mã não
Tạo dựng chùa tháp
Xà cừ, hổ phách
Và ngọc ma-ni
Hoặc dùng bùn đất
Tạo lập hình tượng
Những người như thế
Đều thành Phật đạo.
Giả sử dùng đá
Xây dựng chùa Phật
Hoặc dùng Chiên-đàn
Hay gỗ mật hương
Tạo thành chùa tháp
Lập tôn tượng Phật
Chạm gỗ điêu khắc
Vẽ hoa trang hoàng
Hoặc người giữ giới
Tha thiết chí thành
Hoặc lại tạo dựng
Chùa tháp cao đẹp
Hoặc ở trong nhà
Tụng đọc kinh điển
Hay nơi hoang dã
Hoặc chốn hang sâu
Vì muôn ức người
Rống tiếng sư tử
Hiện ở mười phương
Các chùa tháp Phật
Đồng tử ca múa
Nơi có Xá-lợi
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Hoặc vì Như Lai
Dùng báu tạo tượng
Ba mươi hai tướng
Thù thắng tốt đẹp
Giả sử có người
Tụng kinh nói nghĩa
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Hoặc vì Như Lai
Tạo lập hình tượng
Dùng đến bảy báu
Đường đi tốt đẹp
Ánh sáng rạng ngời
Chiếu khắp chúng sinh
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Hoặc lại dùng đồng
Ngọc bích vẽ khắc
Vì Đại Thánh Tôn
Tạo hình tuyệt diệu,
Hoặc đem văn kinh
Chép trên lụa trắng
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Hoặc sửa chùa hư
Tô lại hình tượng
Công đức tín tâm
Có trăm phước tướng
Xuất gia học pháp
Sao chép Phật kinh
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Giả sử mỗi người
Làm việc kỳ lạ
Bỏ hết tất cả
Ca múa vui mừng
Đồng tử Bồ-tát
Thông đạt giải nghĩa
Không nói lời đùa
Cũng không dối trá
Tất cả vì muốn
Thể hiện lòng Từ
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Tức khiến độ được
Muôn ức quần manh
Vô số Bồ-tát
Thần thông Tam-muội
Giả sử tất cả
Thờ cúng Xá-lợi
Tạo lập chùa tháp
Vẽ họa hình tượng
Đắp, sửa, trang hoàng
Viết kinh lên vách
Dâng cúng hoa hương
Rải trên tháp tượng
Lại đem kỹ nhạc
Ca tụng Phật đức
Đàn, trống, múa ca
Tiết tấu dịu hòa
Ca ngợi vui mừng
Tỏ lòng tôn kính
Hoặc làm các việc
Tu bổ cúng dường
Đàn cầm, não bạt
Đàn bầu, tỳ bà
Ống tiêu, ống sáo
Vui xướng diệu âm
Đều vì nhất tâm
Không có phiền não
Do duyên ấy nên
Đều vui an tịnh
Hoặc đem nước rưới
Quét sạch chùa tháp
Dùng nước sạch trong
Nước mật, nước quả
Tạp hương đất sét
Trổi các nhạc khí
Lắng lòng quy mạng
Cúng Bậc Tối Thắng
Đem bao nhiêu vật
Dâng cúng xá-lợi
Như Lai diệt độ
Cung kính ít nhiều
Giả sử một lần
Đánh trống trổi nhạc
Những người như thế
Đều thành Phật đạo.
Giả sử tịnh tâm
Chiêm ngưỡng tượng vẽ
Cầm một bông hoa
Dâng lên tượng đắp
Tỏ lòng cung kính
Tin tưởng không nghi
Dần dần sẽ gặp
Vô số ức Phật.
Lại có những người
Chắp tay trước tháp
Dù chỉ một lần
Nhiễu quanh hướng về
Lễ bái Đại Thánh
Cúi đầu ca ngợi
Làm những việc ấy
Thân không cấu nhiễm
Sẽ dần dần gặp
Vô số ức Phật
Với chư Như Lai
Tạo nhiều nghĩa lợi.
Giả sử có người
Cúng dường Xá-lợi
Chỉ đọc lời rằng:
Nam-mô Phật-đà
Ai tâm loạn động
Nếu nói lời ấy
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Nhân duyên diệt độ
Dứt trừ lửa độc
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Ở trong hội chúng
Xây dựng niềm tin
Lúc ấy an trụ
Cứu giúp muôn loài
Giả sử có người
Nghe danh pháp này
Những người như thế
Sẽ thành Phật đạo.
Vào thời tương lai
Vô số ức Phật
Không thể nghĩ bàn
Không thể suy lường
Chư Phật Tối Thượng
Thầy của cõi đời
Sẽ vì họ giảng
Trí tuệ quyền biến
Các bậc Đại nhân
Dùng phương tiện khéo
Sẽ được thành Phật.
Đạo sư cõi đời
Sở dĩ khai hóa
Muôn ức chúng sinh
Thiền định trí tuệ
Vì trừ lậu nhiễm
Được nghe pháp ấy
Không có một ai
Tất cả mọi loài
Đâu không giác ngộ
Pháp chư Đại Thánh
Đều theo nguyện xưa
Khi hành Phật đạo
Giải thoát hoàn toàn
Vô lượng pháp môn
Ức ngàn vô số
Đến lúc cuối cùng
Mới vì thuyết giảng
Các Đấng Chí Tôn
Thường tuyên diệu pháp
Đó là gặp được
Chánh giáo chư Phật
Các pháp vốn tịnh
Thường hành tự nhiên
Các nghĩa lý này
Là Phật khai hóa
Chỉ Bậc Túc Tôn
Mới phân biệt giảng
Xướng dạy giáo pháp
Nghĩa lý Nhất thừa
Pháp làm định tâm
Chí giữ Giới luật
Thường ở thế gian
Tán tụng diễn giảng
Cùng nhau ngợi ca
Phương tiện khéo léo
Chư Phật Tối Thắng
Ý chí quảng đại
Là chỗ cúng dường
Trời người hướng đến
Chư Phật hiện tại
Như cát sông Hằng
Muốn lợi an ổn
Cho khắp quần sính
Bậc Đẳng Chánh giác
Cũng như chư Phật
Điều Phật diễn nói
Phương tiện quyền biến
Dạy bao nhiêu điều
Mở bày vào đạo
Đều cùng tán thán
Đạo Nhất thừa kia
Nơi chốn vắng lặng
Không có hai thừa
Phật biết chúng sinh
Công đức tu tập
Từ đời quá khứ
Nương theo chí tánh
Tinh tấn chọn lựa
Và xét cội nguồn
Người chưa giải thoát
Vì họ phân biệt
Các Đấng Đạo sư
Dùng nhiều nhân duyên
Lời lẽ dẫn dụ
Chỉ vì thị hiện
Soi xét chúng sinh
Giúp họ an vui
Dùng bao ngôn từ
Để khai hóa họ
Nay ta cũng thế
Là vừa cõi người
Mở cho chúng sinh
Pháp lợi, an ổn
Dùng các âm thanh
Trăm ngàn muôn ức
Chỉ vì hiển bày
Đạo lớn của Phật
Như Lai thuyết pháp
Dùng bao phương tiện
Biết các chúng sinh
Tâm họ ưa thích
Bao nhiêu sắc tượng
Khiến họ vui vẻ
Duyên trí tuệ ấy
Thuận theo đạo lực
Ta là Pháp Vương
Quản khắp thấy rõ
Những kẻ ngu mê
Lìa đức trí tuệ
Đọa vào sinh tử
Rơi hang hiểm sâu
Không được giải thoát;
Đời sau gian nan
Bị ái dục ràng
Rong ruổi tử sinh
Bụi trần lao nhọc.
Hôm nay tự tại
Đại Thánh oai thần
Biết chỗ mong cầu
Các pháp chưa từng
Đưa đến khổ họa
Các loại quẩn manh
Chìm trong sáu nẻo
Chấp vào tà kiến
Không thể thoát ra
Khổ não dẫy đầy
Lạc vào đường hiểm.
Ta phát đại Từ
Thương kẻ ngu si
Đến chỗ đạo tràng
Ngồi nơi an ổn
Trải cỏ làm tòa
Trong suốt bảy ngày
Tư duy suy nghĩ:
“Phải tìm pháp gì
Chấm dứt khổ đau
Kiêu mạn cõi đời?”
Quán sát đại thọ
Mắt không hề chớp.
Ta lại kinh hành
Quanh đại thọ ấy
Do tuệ thù thắng
Được đạo hy hữu
Chúng sinh luân chuyển
Trong đại vô minh.
Khi ấy Phạm thiên
Biết được ý Phật
Đế Thích, Tứ thiên
Các trời Hộ thế
Đại Tự Tại thiên
Và Thiên chúng lành
Vô số ức ngàn
Cùng nhau biết vậy
Tất cả chắp tay
Cung kính đảnh lễ.
Như Lai suy nghĩ:
“Nên làm thế nào
Nếu ta tán dương
Đạo đức của Phật
Những kẻ mê mờ
Không chịu tin theo
Những kẻ ngu si
Sẽ sinh hủy báng
Đã hủy báng rồi
Rơi vào phi pháp
Ta trước chưa từng
Nói pháp kỳ diệu
Thường vui việc khác
Nên dạy ra sao?
Ta xem việc làm
Các Phật quá khứ
Lúc ấy các Ngài
Khéo dùng phương tiện
Nay ta cũng nên
Đem Phật đạo ấy
Phân làm ba thừa
Mà khai hóa họ.”
Khi mới thành đạo
Ta nghĩ như vậy
Chư Phật Thế Tôn
Ở khắp mười phương
Đều tự hiện thân
Các Bậc Thánh ấy
Ca ngợi: Lành thay!
Chúng ta ca ngợi
Tán thán Năng Nhân
Thầy của cõi đời
Đó là chánh pháp
Phải nên vâng giữ
Phải nên tư duy
Khéo dùng phương tiện
Chư đại Thánh điển
Cũng học cứu đời,
Chúng ta là Phật
Noi theo Như Lai
Phân làm ba thừa
Mà khai hóa chúng
Vì kẻ trí nhỏ
Hạ liệt yếu mềm
Nghe chư Phật dạy
Không thể tự tin.
Do vậy chúng ta
Mới tìm cách giúp
Dùng quyền phương tiện
Vì họ thị hiện
Tán thán ngợi khen
Quả vị họ chứng
Và lại khuyến khích
Vô số Bồ-tát.
Lúc ấy Như Lai
Nghe tiếng ngợi ca
Liền hiểu rõ ràng
Lời của chư Phật
Các Đấng Chí Tôn
Tâm sinh hoan hỷ
Đấng Đại Thần Thông
Phân biệt danh sắc
Lúc đó mọi người
Sẽ tuân hành đạo
Theo lời giảng dạy
Của chư Đạo Sư.
Tỳ-kheo, lúc ta
Sinh ở cõi người
Giữa chốn phàm phu
Cũng tu pháp ấy
Này Xá-lợi-phất!
Khi hiểu điều ấy
Ta liền đi đến
Nước Ba-la-nại
Tức thời tập hợp
Các vị Tỳ-kheo
Chúng hội muốn biết
Pháp Phật khéo dùng
Đúng thời Như Lai
Chuyển bánh xe pháp
Phát khởi tuyên dương
Diệt độ Niết-bàn
Và quả La-hán
Pháp âm tán thán
Như Lai ca tụng
Đức của Thánh chúng
Ta ở giữa họ
Thuyết kinh điển này
Tất cả đều đến
Nương tựa Thế Tôn
Cùng nhau chắp tay
Đứng thật cung kính
Như Lai phương tiện
Vì khấp muôn loài.
Khi ấy Thế Tôn
Suy nghĩ như vầy:
“Nay đã đúng thời
Ta thuyết tôn pháp”
Sở dĩ Như Lai
Xuất hiện thế gian
Là để giảng nói
Phật thừa tối thượng
Vì kẻ ngu si
Khởi bao vọng tưởng
Nếu nói pháp ấy
Ít kẻ tin theo
Kiêu mạn cống cao
Không chịu vâng nhận
Nhưng mà pháp này
Bồ-tát sẽ nghe
Vui theo lời Phật
Dũng mãnh tu trì
Tất cả rang buộc
Đúng thời đoạn dứt.
Hôm nay ta nói
Pháp lớn tối thượng
Chính vì khuyên nhắc
Vào tuệ giác Phật,
Con của chư Phật
Được gặp pháp này
Nhân đây tin hiểu
Thuận hành pháp luật
Một ngàn hai trăm
Chư vị La-hán
Các lậu đã dứt
Đều sẽ ở đây
Thành tựu Phật đạo.
Cũng như xưa kia
Chư Phật Đại Thánh
Cũng ở tương lai
Là pháp tối thắng
Ta cũng như vậy
Trước bỏ vọng tưởng
Sau đó mới đến
Giảng pháp Phật thừa
Thời gian rất lâu
Thế gian mới có
Bậc Trí cao vời
Khai hiển Thánh đạo
Mắt tuệ giải thoát
Đã hiện trong đời
Tuyển chọn hy hữu,
Phật giảng pháp ấy
Trong ức trăm ngàn
Vô lượng số kiếp
Nay mới được gặp
Như thời tượng pháp.
Giả sử Bồ-tát
Được gặp kinh này
Hoặc lại được nghe
Phật đạo Tôn quý
Như hoa Linh thụy
Lâu lâu mới thấy,
Khi thấy được hoa
Ai cũng yêu thích
Sắc hoa tuyệt diệu
Vui đẹp khó có
Trên trời dưới thế
Bậc Thánh Vô thượng
Pháp đại Tôn quý
Thật là trân kỳ.
Giả sử có người
Thuyết giảng kinh này
Một lần cất tiếng
Hoan hỷ khuyên răn
Là đã cúng dường
Tất cả chư Phật
Tâm của người ấy
Không loạn, hoài nghi.
Ta là Pháp vương
Giáo hóa cùng khắp
Trong pháp của ta
Tất cả Thanh văn
Ta đều khuyến khích
Tuân theo Phật đạo.
Này Xá-lợi-phất!
Và các Thanh văn
Hiện đang ở đây
Đều đang im lặng.
Các Bồ-tát kia
Tâm trí dũng mãnh
Mật trì pháp này
Chớ nên vọng nói.
Vì sao ở đời
Có năm vẩn đục
Hoặc có chúng sinh
Tâm ác, chí thấp
Tham dục ngu si
Và thích phỉ báng
Những hạng như thế
Không thể đạt đạo;
Nếu trong tương lai
Được nghe pháp này
Phật thừa duy nhất
Của Như Lai dạy,
Nếu lại có người
Nghe pháp tối thắng
Phỉ báng kinh này
Liền đọa địa ngục.
Chỉ có những ai
Hổ thẹn, thanh tịnh
Chí nguyện phát tâm
Tuân theo Phật dạy
Ngộ pháp Đại thừa
Phước đức vô lượng,
Chư Phật Thánh trí
Liền hiện trước mắt
Bậc Thầy thế gian
Giảng pháp như vậy
Phương tiện tùy nghi
Muôn ức trăm ngàn
Phân biệt vô số
Lại không nhớ nghĩ
Nếu ai không học
Không thể hiểu thấu
Vì thế biết rằng
Rõ lời chân chánh
Bậc Thánh ra đời
Thuận tu tuệ sáng
Đoạn các hoài nghi
Dứt trừ do dự
Hoan hỷ bền chí
Đều sẽ thành Phật.
Chú thích:
[1] 1 Tam sự 三事 còn gọi là tam lực, tam niệm lực gồm: 1. Đạt thệ nguyện lực: sức nhiếp hóa đưa chủng sinh đến quả vị Phật. 2. Tam-muội định lực: Năng lực thiền định của Phật. 3. Bản công đức lực: Sức công đức do tu tập trong vô số kiếp (Phật Quang Đại từ điển, Phật Quang Sơn xuất bản, q.1 , tr 563, 1989).
***
Phẩm 3: ỨNG THỜI
Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Đức Phật dạy pháp thoại ấy xong hoan hỷ phấn chấn, tiền đứng dậy chắp tay bạch Đức Thế Tôn:
– Hôm nay con nghe Thế Tôn giảng nói pháp yếu này, trong lòng hoan hỷ, được việc chưa từng có. Vì sao? Vì ngày trước con thường theo Phật nghe thuyết pháp dạy về Bồ-t t thừa, thấy các vị Bồ-tát nghe theo lời Phật dạy đạt đến Chánh giác mà chúng con không thể dự vào nên cảm thấy tiếc nuối vô cùng, tâm bị thương tổn, tự cho rằng không thể lãnh hội nổi. Con đã đánh mất trí tuệ Như Lai; con một mình kinh hành dù ở chốn núi cao rừng rậm, hoặc ở dưới gốc cây nơi vắng vẻ , hay trong thất nhỏ an tịnh, tự thúc liễm thân tâm theo lời Phật dạy mà lòng càng thêm sầu khổ. Con tự cho rằng đã đạt được thành quả. Đức Thế Tôn đã vì con dạy bao nhiêu lời để chỉ dẫn mà con vẫn giữ ý chí Tiểu thừa, đó là lỗi của con chứ chẳng phải của Như Lai. Đức Thế Tôn đã diễn giảng cho con pháp của Bậc Đại Thánh với tâm bình đẳng, làm cho chúng cơn tán thán, tô n kính phụng trì, cho rằng đã lãnh thọ được lời dạy tối thượng của Đức Như Lai, cho đến đã thành tựu Tuệ giác vô thượng. Chúng con đã thuận theo mà mặc pháp phục, kiến 1ập hạnh nguyện không biết bao nhiêu lần.
Bạch Thế Tôn! Tuy vậy từ trước tới nay con thường tự trách mình, suốt ngày đêm suy nghĩ rằng con tuy từ pháp sinh ra mà không được tự tại, tất cả đều nhờ ân Phật mới được xa lìa các nẻo ác. Đến nay con mới được nghe pháp này.
Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ ca ngợi:
Được nghe Phật thừa
Nghĩa của một câu
Vượt khỏi mê lầm
Thật chưa từng có
Pháp con nhận lãnh
Chẳng thể nghĩ bàn
Thấy Đấng Chí Tôn
Lòng thêm hoan hỷ.
Giả sử có người
Xưa nay đã từng
Nghe pháp an ổn
Lấy đó làm vui
Các bụi trần lao
Ác nghiệp phiền não
Tin vào pháp ấy
Cũng đều dứt sạch.
Con thường ngày đêm
Lúc đi kinh hành
Hoặc dưới gốc cây
Ngồi tịnh nhất tâm
Hoặc nơi rừng sâu
Trong chốn núi cao
Con ngồi trầm tư
Suy nghĩ thế này:
Than ôi, tự trách
Lòng ác ngăn che
Do pháp bình đẳng
Mà được vô lậu
Không từ ba cõi
Kính thuận giáo pháp
Xét lỗi quá khứ
Dè răn tương lai,
Thân Phật sắc vàng
Ba mươi hai tướng
Con đã trái xa
Không tự trang nghiêm,
Tám mươi vẻ đẹp
Viên mãn thù thắng
Gồm đủ các tướng
Không cần trang sức,
Căn lực giải thoát
Tám loại thanh âm
Nơi pháp bình đẳng
Mà tự đánh mất,
Pháp của chư Phật
Có mười tám việc
Pháp nghĩa như vậy
Con đã đánh mất,
Âm thanh con nghe
Vang khắp mười phương
Con được nghe thấy
Phật thương cuộc đời
Thường sống một mình
Ngày đêm kinh hành
Lại tự trách mình
Lòng luôn tư duy
Ngày đêm hồi tưởng
Tự rất đắn đo
Suy đi nghĩ lại
Mong độ tự thân
Phải hỏi Thế Tôn
Ý nghĩa thế này:
Con sai chỗ nào
Lại mất pháp lợi
Với trí tuệ Phật
Hiện tại trước mắt?
Bất cứ lúc nào
Ngày đêm ngẫm mãi
Con thấy Bồ-tát
Đông nhiều vố số
Thầy của cõi đời
Tuỳ nghi hóa độ
Các vị được nghe
Lời dạy Thế Tôn
Vì khắp muôn loài
Diễn giảng pháp lực
Về pháp khó lường
Các lậu dứt trừ
Đều được giác ngộ
Trí tuệ nhiệm mầu
Con thấy biết bao
Các nơi tế tự
Phạm chí ngoại đạo
Các pháp tà ngụy
Do những điều ấy
Hiểu lời Phật dạy
Thấy cửa giải thoát
Nói pháp Niết-bàn
Con hiểu tất cả
Chỗ thấy và làm
Đồng thời thấu triệt
Pháp không, vô thường
Do đó tự cho
Đã được diệt độ
Nay con mới biết
Chưa thật Niết-bàn
Được thấy chư Phật
Thầy của trời, người
Khi Bậc Tôi Thắng
Được chúng vây quanh
Ba hai tướng tốt
Hào quang sáng ngời
Do đó hiểu rõ
Niết-bàn Vô dư
Con nghe Phật nói
Trừ các khổ não
Không cần âm thanh
Mà được giải thoát
Như điều con biết
Chánh giác sư tử
Chu Thiên loài người
Đều theo phụng sự
Phật dùng oai lực
Luôn trụ như thế
Lần đầu được nghe
Đức Thế Tôn dạy
Tưởng ma Ba-tuần
Biến làm hình Phật
Phật chẳng phải ma
Đến gây nhiễu hại
Phật dùng nhân duyên
Thuyết pháp dẫn dụ
Vô số ức ngàn
Hiển hiện vô vàn
Khéo lập bờ kia
Đến biển ý đạo
Con nghe pháp đó
Trừ các hồ nghi
Vô số muôn ngàn
Có trăm ức Phật
Con đều trông thấy
Đã nhập Niết-bàn
Như chư Phật kia
Đã thuyết kinh pháp
Khéo dùng phương tiện
Tùy thuận giáo hóa
Giả sử có người
Hiện hạnh cứu cánh
Chư Phật đương lai
Muôn ức trăm ngàn
Vận dụng phương tiện
Khéo dạy mọi người
Giảng nói kinh pháp
Khuyên đến Niết-bàn
Tùy căn cơ họ
Dùng tuệ giáo hóa
Phân biệt hoàn toàn
Theo đúng trình tự
Pháp của chư Phật
Sẽ đem giảng giải
Lập tức theo Phật
Nghe chuyển pháp luân
Đạo Sư Đại Hùng
Dạy pháp chân nhã
Con cũng như vậy
Nương nhờ pháp ấy
Các chúng ma kia
Đều không dám khởi
Lòng con không có
Chướng ngại nghi tà
Khởi tâm dịu êm
Với đạo thậm thâm
Nhờ âm thanh Phật
Tâm con hoan hỷ
Hôm nay được nghe
Bao nỗi nghi ngờ
Con đều dứt hẳn
Trụ nơi tuệ Thánh
Con sẽ thành Phật
Thoát lưới hoài nghi
Chư Thiên, loài người
Cùng các quyến thuộc
Hôm nay được thấy
Đạo nhãn Như Lai
Giúp con giáo hóa
Cho khắp chúng sinh.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
Hôm nay ta ở giữa hội chúng Trời, Người, Sa-môn, Phạm chí, A-tu-1a. Ở cõi trời và cõi người tuyên bố ta biết Xá-lợi-phất xưa kia đã từng cúng dường ba mươi hai ngàn ức Đức Phật và được chư Phật giáo hóa sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Chính ta thường đem giáo nghĩa Bồ-tát phương tiện dắt dẫn cho ông. Nhờ duyên này nên ông đã tu tập thành tựu trong giáo pháp của ta, được Như Lai kiến lập oai thần, cũng dạy cho ông chí nguyện Bồ-tát. Ông chưa được Niết-bàn mà tự cho là đã dược Niết-bàn.
Xá-lợi-phất! Nếu ông muốn nhớ lại việc làm xưa kia của mình ở nơi vô số Đức Phật thì nên thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, được tất cả chư Phật hộ niệm này và vì tất cả chúng Thanh văn phân tích giải nói.
Xá-lợi phất! Trong thời vị lai, vô lượng, vô biên không thể tính đếm kiếp, ông sẽ cúng dường trăm ngàn vạn ức Đức Phật, thọ trì giáo pháp chân chánh, kính giữ tu hành kính Phương đẳng này, thành tựu đầy đủ các hạnh sẽ được thành Phật, hiệu là Liên Hoa Quang Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư. Cõi nước ấy tên Ly cấu, bằng phẳng, an vui, ánh sáng chiếu rực rỡ, đời sống thanh tịnh, chỗ ở an ổn, thực phẩm dồi dào, dân chúng đông đảo, mọi người nam nữ trong nước đều được vui vẻ sung túc. Nước ấy dùng lưu ly, vàng ròng làm màn che, có những dải lụa giăng hai bên đường đi, có tám lớp cây bảy báu ở ngã tư đường, cành lá, hoa trái trên những cây ấy luôn xanh tươi, đẹp đẽ.
Đức Phật Liên Hoa Quang cũng đem pháp Tam thừa tiếp tục giáo hóa chúng sinh. Ngài thuyết pháp trọn một kiếp, những pháp Ngài dạy đều hướng dẫn chúng sinh đến với nguyện Đại thừa. Thời kỳ của Đức Phật Liên Hoa Quang tên là Đại bảo nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo nghiêm? Vì trong nước của Đức Phật ấy, chư vị Bồ-tát số đông vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn, không có hạn lượng, chỉ có Như Lai mới có thể biết hết. Chư Đại sĩ Bồ-Tát ở cõi Phật ấy đều là bậc có trí tuệ sáng suốt, đức hạnh quý báu như hoa sen, không phải mới phát tâm mà đã lâu đời gieo trồng cội rễ công đức, tu hành phạm hạnh thanh tịnh lâu dài, gần gũi Như Lai, thường tu tập trí tuệ Phật, có đủ thần thông lớn, an trụ trong chánh pháp, dõng mãnh, tinh tấn. Chư vị Bồ-tát luôn đầy đủ không suy giảm. Vì thế mà thời kỳ ấy có tên là Đại bảo nghiêm.
Đức Phật Liên Hoa Quang sẽ thọ mười hai trung kiếp, không kể thời gian làm vương tử. Nhân dân trong nước của Ngài tám kiếp. Đức Phật Liên Hoa Quang sau khi mãn mười hai trung kiếp, sẽ thọ ký cho Bồ-tát Kiên Mãn. Ngài bảo các vị Tỳ-kheo:
– Sau khi ta diệt độ Bồ-tát Kiên Mãn đây sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là Độ Liên Hoa Giới Như Lai Chánh Giác.
Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Phật Liên Hoa Quang diệt độ, thời kỳ chánh pháp và tượng pháp trụ ở đời hai mươi trung kiếp. Cõi nước của Đức Phật sau cũng giống như cõi nước Đức Phật trước không sai khác. Đức Độ Liên Hoa Giới Như Lai cũng thọ hai mươi hai trung kiếp mới diệt độ. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp và tượng pháp của Ngài cùng trụ ở đời hai mươi hai trung kiếp.
Khí ấy Đức Thế Tôn dùng kệ rằng:
Này Xá-lợi-phất!
Trong thời vị ]ai
Ông sẽ thành Phật
Như Lai Tối Thắng
Hiệu Liên Hoa Quang
Mắt tuệ bình đẳng
Truyền dạy hóa độ
Vô số chúng sính.
Ông sẽ phụng sự
Vô lượng Phật-đà
Tính tấn tu tập
Bao hạnh viên mãn
Khuyến hóa khắp cả
Đầy đủ mười Lực
Nên được thành tựu
Quả Phật tối diệu,
Không thể nghĩ bàn
Kiếp thật vô lượng
Kiếp ấy có hiệu
Đại bảo trang nghiêm,
Thế giới mang tên
Là nước Ly cấu
Cõi nước Phật ấy
Vô cùng thanh tịnh,
Dùng lưu ly biếc
Rải khắp đất bằng
Dây vàng lấp lánh
Giăng bên đường đi
Vô số loại cây
Đều bằng bảy báu
Hoa quả trên cây
Đều bằng vàng ròng
Bồ-tát cõi ấy
Ý chí vững bền
Thành tựu ngôn hạnh
Thánh trí thông minh
Khéo học Phật đạo
Muôn ức trăm ngàn
Hiện đều đã đạt
Giáo pháp tôi thắng
Phật ấy diệt độ
Không gì trở ngăn
Khi làm đồng tử
Không có đắm say
Lìa xa ái dục
Bỏ đi xuất gia
Thành tựu Tuệ giác
Phật đạo Vô thượng.
Bậc Tối Thắng ấy
Luôn được tư tại
Thọ mạng của Ngài
Mười hai trung kiếp
Giáo pháp sẽ trụ
Ở đời tám kiếp
Thọ mạng kiếp số
Của Phật như vậy
Đức Liên Hoa Quang
Sau khi diệt độ
Viên mãn tràn đầy
Hai mươi trung kiếp
Khi ấy pháp trụ
Vô lượng vô số
Thương xót trời, người
Và khắp mọi loài
Chánh pháp của Phật
Sau khi kết thúc
Tượng pháp sẽ trụ
Hai mươi trung kiếp.
Xá-lợi của Ngài
Truyền rộng khắp nơi
Trời, người, quỷ, thần
Cúng dường tối thắng
Đức độ Thế Tôn
Cũng sẽ như vậy.
Này Xá-lợi-phất!
Hãy tự vui mừng
Cõi nước của ông
Trang nghiêm như vậy
Phước trí tôn quý
Không ai sánh bằng.
Lúc ấy bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-đi và Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, tâm họ vô cùng hoan hỷ, phấn chấn không thể diễn tả được. Mỗi người tự lấy y của mình dâng lên Đức Thế Tôn. Trời Đế Thích, Phạm thiên vương cùng vô số Thiên tử cũng đem y trời cúng dường Đức Thế Tôn rồi dùng các loại hoa hương cõi trời như hoa Ý, hoa Đại ý tung rải hiến cúng Đức Phật. Y và hoa của chư Thiên tung lên đầy khắp hư không và đứng yên ở đó. Nhạc trời tự nhiên hòa tấu, trên trời tự nhiên sấm sét vang rền và mưa hoa khắp nơi. Chư Thiên cùng cất tiếng ca ngợi:
– Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được nghe pháp từ xưa chưa từng có- Trước đây trong vườn Nai, tại nước Ba-la-nại, Thế Tôn đã lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp bất khả thuyết. Hôm nay Thế Tôn lại giảng nói bánh xe chánh pháp Vô thượng.
Lúc ấy các vị Thiên tử dùng kệ tán thản:
Bậc thế gian khó sánh
Nay chuyển bánh xe pháp
Vì mọi người giảng nói
Năm ấm sinh và diệt
Tuyên thuyết đệ nhất nghĩa
Trình tự mười hai duyên
Đấng Đạo Sư diễn nói
Ít người muốn tin hiểu.
Đấng Đại Thánh trên đời
Con nghe nhiều chánh pháp
Nhưng từ xưa đến nay
Chưa từng nghe pháp này,
Lời Bậc Đạo Sư dạy
Chúng con kính tùy hỷ
Đại trí Xá-lợi-phất
Vừa được Phật thọ ký.
Chúng con xưa phát tâm
Cúng dường vô số Phật
Chúng con mong nhờ ân
Được làm Phật tối thượng,
Bao nhiêu điều phước lợi
Hạnh thanh tịnh đã làm
Phụng thờ Phật quá khứ
Nguyện đạt thành Phật đạo.
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Thế Tôn:
– Hôm nay con không còn thắc mắc, hoài nghi nữa. Nay con đối trước Thế Tôn, được Phật thọ ký cho con thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.
Bạch Thế Tôn! Một ngàn hai trăm vị tự tại giải thoát này, xưa nay chẳng phải không ở trong học địa sao? Thế Tôn có dạy các vị ấy sẽ đạt được Phật quả như con không? Các vị Tỳ-kheo này tâm hạnh an định tuân giữ pháp luật, thoát ly sinh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Những vị Tỳ-kheo này đã cúng dường muôn ngàn vô số Đức Phật, học các pháp môn, lo sợ chấp ngã trong ba đời, hủy các tà kiến, lập hạnh diệt độ, tưởng rằng đã được Niết-bàn. Từ trước đến nay họ chưa từng được nghe giáo pháp này nên tâm rất phân vân, nghi ngờ. Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài nói yếu nghĩa khiến cho chúng Tỳ-kheo đây được dứt bỏ lưới nghi. Nay cả bốn chúng đều ôm lòng buồn bã, xin Ngài giải thích khiến cho họ thoát khỏi tâm niệm hoài nghi, hối tiếc.
Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Như Lai vừa rồi đã chẳng nói giáo pháp ấy hay sao? Ta đã đem bao nhiêu phương tiện quyền biến, tùy theo nhân duyên của mỗi người mà thị hiện. Tất cả pháp mà Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác giảng nói phân biệt đều vì đạo Vô thượng chánh chân. Những gì ta tán thán, các ông cần biết chính là vì đạo Bồ-tát. Xá-lợi-phất, nay Như Lai nói ví dụ để giải thích rõ thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí tuệ nhờ ví dụ này mà được hiểu rõ hơn.
Ví như tại một thôn xóm của nước kia có vị đại trưởng giả tuổi đã già suy, đứng ngồi khó khăn. Ông trưởng giả này vô cùng giàu có, có một ngôi nhà lớn kín cổng cao tường- Ngôi nhà đã quá cũ kỹ mà lại có trăm ngàn người ở trong đó- Nhà chỉ có một cửa duy nhất và người trông nom. Phòng ốc xiêu vẹo, cột kèo mục nát, mái hiên, cửa sổ … bị rong rêu bám dày đặc. Bỗng nhiên một ngọn lửa lớn từ một phía nổi lên thiêu đốt ngôi nhà ấy-
Trưởng giả có mười người hay hai mươi người con. Ông muốn các con ra khỏi ngôi nhà ấy, nhưng các người con vẫn mê mãi vui chơi ăn uống. Cuối cùng thấy lửa bốc cháy họ đều chạy quanh, hỏi nhau mà không biết lối ra. Người cha suy nghĩ: “Nay ngôi nhà bị lửa dữ đốt cháy khắp nơi, ta phải tìm cách nào để cứu các con ta ra khỏi ngôi nhà ấy.”
Người cha biết ý thích của mỗi đứa con nên liền bày ra đủ các cỗ xe để dạo chơi như xe voi, xe ngựa, đặt ngay trước cửa để cho các con mau ra ngoài. Ông lại đánh trống và trổi lên các khúc âm nhạc tuyệt diệu, các trò vui chơi thú vị để giúp các con khỏi tai nạn lửa cháy và hứa sẽ ban cho chúng các thứ xe voi, xe ngựa, xe dê và xe kéo. Vị trưởng giả nói:
– Ta đã chuẩn bị đầy đủ và để ngoài cửa, các con hãy mau chạy ra khỏi nhà lửa. Các con sẽ được tha hồ vui chơi theo ý thích của mình.
Các người con nghe lời dạy của cha, hứa ban cho các loại xe voi, xe ngựa và âm nhạc nên ai cũng hăng hái tìm phương cách sử dụng cát, nước để dập lửa và xô đẩy nhau vội vã chạy ra khỏi nhà lửa. Trưởng giả thấy các con đã an ổn ra khỏi nhà lửa, ngồi nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư thì lòng ông khoan khoái, không còn lo sợ gì nữa.
Mỗi người con đều thưa cha:
– Xin cha ban cho con xe voi, xe ngựa và các loại nhạc cụ vui thích mà cha đã hứa.
Này Xá-1ợi-phất! Vị đại trưởng giả khi đã ban cho mỗi người con một cỗ xe lớn bằng bảy báu như nhau. Cỗ xe ấy rất cao rộng, được trang hoàng bằng các thứ ngọc làm màn bao quanh và các vật báu quý hiếm vô cùng, những đường dây anh lạc kết hoa có hương thanh khiết. Xe lại được trải lụa và những đệm gối mềm mại, màu sắc đẹp đẽ. Những con vật kéo xe đều khỏe đẹp, trắng sạch như vầng tia chớp. Mui trần được bao phủ bằng loại gấm thật hiếm có. Mỗi người con đều được nhận một cỗ xe.
Trưởng giả nghĩ: “Ta sẽ ban cho các con đồng đều những loại đồ chơi tốt đẹp. Vì sao? Vì những đứa bé này đều là con của ta, ta yêu thương chúng đồng đều không thiên lệch. Vì thế nên ta ban cho các con những cỗ xe lớn như nhau.”
Này Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy. Như Lai là cha của muôn loài, vật báu đầy ắp trong kho không thiếu. Như Lai đã đem pháp phương tiện để giáo hóa, khuyến dẫn chúng sinh phát triển trí tuệ hướng đến Đại thừa. Các người con của trưởng giả khi đã đạt được cỗ xe lớn đẹp, cho đó là được điều trân quý chưa từng có nên cưỡi xe dạo chơi khắp nơi. Ý của ông nghĩ sao? Trưởng giả ban cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không?
Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không có dối trá. Vị trưởng giả đó rất thành thật. Vì sao? Vì ông trưởng giả ấy muốn cứu giúp các con, không muốn cho chúng gặp tai nạn lửa thiêu đốt, tùy theo ý các con muốn mà hứa ban cho các con. Sau khi chúng đã thoát ra khỏi nhà lửa, ông đã ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn đẹp. Vì thế ông trưởng giả không hề hư vọng. Cuối cùng các người con đều được như ý, vì trưởng giả đã dùng phương tiện khiến cho các người con của ông thoát khỏi tai họa. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng kho tàng châu báu, nên đồng đều ban cho các con những cỗ xe lớn, thật là không hư vọng vậy.
Đức Thế Tôn bảo:
– Lành thay, Xá-lợi-phất! Thật đúng như lời ông nói! Đức Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, ánh sáng tỏa chiếu đến các chốn u tối ở khắp mười phương. Như Lai đã giải thoát và đoạn hẳn những gốc rễ của phiền não, sợ sệt, lo buồn. Như Lai với trí tuệ đã thấy rõ cành lá, hoa quả của chúng.
Như Lai là Bậc Pháp Vương có thần lực, là từ phụ của muôn loài, khéo vận dụng phương tiện, luôn nghĩ đến việc cứu độ chúng sinh, thực hành tâm đại Bi bình đẳng, đạo vô tận, thương xót ba cõi bị lửa dữ đất cháy, mọi loài không thể ra khỏi, nên Như Lai xuất hiện ở thế gian để cứu vớt chúng sinh vượt qua sinh, già, bệnh, chết và phiền não ràng buộc, không được như ý. Như Lai lại làm cho chúng sinh được thoát khỏi tham dục, sân giận và si mê, dụ dẫn nói pháp Tam thừa, khuyên họ tu tập dần dần, hướng dẫn họ tiến đến đạo Vô thượng chánh chân.
Như Lai xuất hiện ở thế gian thấy các chúng sinh bị vọng tưởng, tiền tài, danh vọng, đam mê không biết nhàm chán, từ ái dục đưa đến vô số khổ đau. Hiện tại họ tham cầu theo đuổi, nếu không được cứu giúp trong tương lai sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị gánh nặng thiêu đốt, nấu rang, đói khát, đau đớn không thể kể hết. Giả sử được sinh lên cõi trời hay ở tại nhân gian thì bị khổ vì ân ái mà chia lìa, không thể gặp được nhau mà ưu não khó lường nên đều muốn thoát khổ. Chúng sinh cứ ca múa, vui chơi mà không biết kinh sợ nạn ấy nên không thể tự giác ngộ, không chịu tư duy về cội nguồn đau khổ, cũng chẳng mong cầu được cứu giúp mà vẫn ở mãi trong cảnh thiêu đốt ấy. Vì chúng trong ba cõi đang có nỗi họa đau khổ ấy nên ta phải nói pháp, an lập cho họ vào nơi vô cùng an ổn. Đó là chánh trí của vô lượng, không thể nghĩ bàn các Đức Phật. Chúng sinh đang tràn đầy dục lạc và mê hoặc.
Như Lai vì khuyên họ thể đạt đầy đủ thần thông và trí tuệ giả thoát nên khéo dùng phương tiện quyền biến để dạy họ trí tuệ của Phật, để họ được nghe thần lực vô sở úy của Phật, nhưng chúng sinh vẫn mù mờ không chịu tin nhận, vì bị các nhân duyên trói buộc nên không giải thoát khỏi tai họa lo sầu sinh, già, bệnh, chết, xưa nay chưa bao giờ thoát khỏi được sự thiêu đốt của ba cõi, không hiểu rõ pháp để quay về thì làm sao lãnh hội được tuệ giác Phật-đà? Ví như vị trưởng giả có trí lực như sức mạnh dũng mãnh, vững vàng của nhiều lực sĩ mới cứu giúp các con ông khỏi tai họa nhà lửa, dùng phương tiện khuyên bảo khiến chúng thoát khỏi ra ngoài, sau đó mới ban cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu, tốt đẹp.
Cũng vậy, này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Chánh Giác dùng lực vô úy kiến lập các đức, khéo dùng phương tiện, tu tập trí tuệ dũng mãnh nên thấy ba cõi như ngôi nhà lửa. Vì muốn cứu giúp nạn khổ cho chúng sinh nên Như Lai thị hiện dạy đạo Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, dùng ba thừa ấy khuyến hóa họ rời khỏi ái dục. Như Lai dạy cho chúng sinh dập tắt lửa ở nơi ba cõi, thoát khỏi sự trói buộc của dâm, nộ, si và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thấp hèn. Nếu ai tham đắm ngũ dục trong ba cõi sẽ bị lửa ngũ dục nung đốt, không dựa vào ba cõi sẽ được ba thửa, tinh tấn tu tập ba thừa ấy sẽ vượt khỏi ba cõi. Tất cả chư Phật đều dạy cần tinh tấn tu tập ba thừa nên vô số chúng sinh đều tập hợp đến với đạo.
Thế Tôn đã phương tiện dạy các hạnh ấy làm cho các ông vui thích tu tập Căn, Lực, Giác ý, Thiền định, Giải thoát, Tam-muội chánh thọ, đời sau sẽ đạt đến vô lượng pháp lạc, an vui tự tại, không còn bị bất cứ chướng ngại nào.
Xá-lợi phất! Nếu chúng sinh nào chưa sinh lòng tin, Như Lai ra đời mang lại cho họ đức tin. Họ theo Phật, nghe giáo pháp và tinh tấn phụng hành, cứu cánh của họ là muốn đạt đến Niết-bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, mong cầu quả vị La-hán vượt khỏi ba cõi.
Ví như vị trưởng giả theo lời hứa ban xe để cho các người con mới thoát nạn. Nếu có người nào không gặp thầy dạy giáo pháp, tự mình xuất gia mong cầu đến nơi vắng lặng, thích sống đơn độc, giác ngộ lý duyên khởi, tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai vị ấy được gọi là Duyên giác thừa. Cũng như khi những người con của vị trưởng giả đã rời khỏi nhà lửa, ông liền theo lời hứa ban cho cỗ xe ngựa.
Nếu có người nào mong cầu trí tuệ hoàn toàn, Tuệ giác của Phật, Thánh tuệ tự tại phát xuất từ tự tâm, trí tuệ vô sư, có tâm đại Từ bi muốn đem lại sự an ổn cho chư Thiên và loài người, muốn làm lợi ích cho chư Thiên và loài người, muốn chúng sinh an trí trong pháp của Phật và được giải thoát nên người ấy tinh tấn phụng hành, mong cầu quả vị Phật, có sức trí tuệ vô sở úy thấy khắp tất cả, gọi là con đường của Như Lai. Các ví Đại sĩ Bồ-tát đi trên con đường này. Ví như ông trưởng giả khuyến dụ các con ra khỏi tai nạn lửa đốt, nên hứa cho xe voi để các con chạy ra khỏi nhà lửa. Người cha trông thấy con thoát khỏi nhà lửa an toàn, đến chỗ không sợ hãi, tự biết mình tài sản vô lượng nên ban cho các con những cỗ xe lớn đẹp bằng bảy báu bằng nhau không khác. Đức Như Lai Chánh Giác cũng lại như vậy, thấy vô số trăm ngàn muôn ức chúng sính muốn cứu họ thoát khỏi ba nạn khổ đau kinh sợ, nên do bản nguyện của Phật mà mở cửa sinh tử, khiến cho chúng sinh thoát khỏi hiểm nạn khủng khiếp, được Niết-bàn an vui.
Này Xá-lợi-phất! Như Lai lúc ấy từ ngôi nhà tam giới, dùng vô số tuệ lực vô sở úy, thấy các con của Như Lai bị khổ ách nên khuyến hóa khiến tất cả họ quay về với Phật thừa mà không để cho mỗi người tự ý Niết-bàn riêng lẻ. Như Lai đều khuyên dạy họ, đem Niết-bàn của Như Lai mà làm cho họ được Niết-bàn. Nếu có chúng sinh được thoát khỏi ba cõi, Như Lai đều dùng trí tuệ, giải thoát, thiền định của Như Lai để an ủi, ngợi khen, ban cho họ pháp nghĩa an lạc cùng một sắc thái và cùng một phẩm chất Phật đạo. Như vị trưởng giả kia lúc đầu hứa cho các con ba thứ xe, nhưng khi thấy các con đã thoát nạn mới ban cho mỗi người một loại xe lớn như nhau. Vị trưởng giả ấy thật không có lỗi dối trá. Mỗi người con được xe nhảy nhót vui mừng không xiết.
Như Lai cũng như vậy, ban đầu thị hiện tam thừa nhưng sau đó đều khuyến hóa, đưa tất cả vào Đại thừa, chẳng phải là dối trá vậy. Vì sao? Nên biết rằng Đức Như Lai Đẳng Giác có vô số kho tàng quý giá, sử dụng một cách tự tại, vì tất cả chúng sinh thị hiện pháp lớn, dạy chúng sinh các thần thông, bi mẫn, trí tuệ. Các ông nên biết, nên hiểu rõ ý nghĩa ấy, Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác khéo dùng phương tiện lực, dùng trí tuệ, lời nói chỉ để tuyên thuyết Nhất thừa, là Phật thừa mà thôi.
Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên, nói kệ:
Ví như trưởng giả
Có ngôi nhà lớn
Đã quá cũ kỹ
Nghiêng ngả, mục nát
Nơi ngôi nhà chính
Sắp sửa hư rã
Cột kèo, rui mè
Đều đã mục gãy
Bao nhiêu hiên cửa
Cửa sổ, cửa lớn
Lại các kho lẫm
Bằng cây, đất nện
Tường cao nghiêng đổ
Vách phên suy sụp
Liếp che mái lợp
Quá cũ rã rời
Hiện đang trong đó
Có năm trăm người
Cùng nhau tụ tập
Ở trong nhà ấy
Cỏ cây mọc đầy
Dùng để mà nuôi
Vô số gia súc
Tất cả các cửa
Đều luôn đóng kín
Có lầu gác đẹp
Và các hoa sen
Vô số mùi hương
Tỏa hương ngào ngạt
Biết bao loài chim
Cùng loại vây quanh
Các loài trùng, rắn
Dơi độc bay rúc
Khắp chốn, khắp nơi
Có các trùng ác
Nhiều loài thú dữ
Chuột, rít, bò cạp
Tên gọi khác nhau
Kêu la rên siết
Khắp nơi trên đất
Hoặc trong chỗ kín
Phân với nước tiểu
Ô uế chảy tràn
Sâu, giòi, gai gốc
Trong đó dẫy đầy
Sư tứ, sói lang
Cắn xé lẫn nhau
Cùng nhau nhai gặm
Thí thể người chết
Người nào nghe thấy
Không khỏi kinh sợ
Vô số bầy chó
Đua nhau vồ chụp
Chúng chạy cuống cuồng
Tranh giành bươi móc
Nơi nơi chỗ chỗ
Nga quỷ lúc đó
Đều đến tranh ăn
Đói khát rã rời
Cùng nhau gặm nhấm
Tiếng chúng cất lên
Ngôi nhà rùng rợn
Biến trạng như thế
Có các quỷ thần
Ôm lòng độc hại
Ruồi nhặng, bọ chét
Cũng rất đông nhiều
Có cả trăm loại
Và các yêu tinh
Rảo chạy bốn phía
Sản sinh cho bú
Đến giật lấy ăn
Các loại dê, cừu
Không thể chạy thoát
Trở về chỗ ở
Tuy các quỷ thần
Đến giúp đỡ chúng
Để khỏi bị hại
Nhưng không cứu được
Các quỷ thần ấy
Cũng ăn chúng sinh
Tuy đã no nê
Tâm vẫn hung ác
Phẩm loại không đồng
Giòng giống khác nhau
Có kẻ đã chết
Chôn cất đã xong
Hồn họ ra ngoài
Dạo quanh ở đó
Cưu hoàn, hương âm
Tánh tình tàn bạo
Hai tay vươn ra
Rảo chạy khắp nơi
Không chú thuật nào
Có thể trừ được
Bầy chó bị chúng
Túm lấy hai chân
Đè bắt nằm xuống
Để mà đánh đập
Trói hai chân chúng
Lấy dây quấn cổ
Ngồi trên mà chơi
Tâm ý khoái trá
Các con voi đen
Thân hình cao lớn
Thể lực hùng mạnh
Tư do ngang nhiên
Thường ngày đói khát
Tìm cầu uống ăn
Vừa thấy cỏ rơm
Vội vàng chạy đến
Có trùng cổ nhỏ
Và chim mỏ sắt
Ở giữa gò rộng
Thấy tử thi người
Quỷ ác hung hiểm
Bứt tóc kêu la
Các quỷ dẫy đầy
Đói khát thúc bách
Rình rập kiếm tìm
Trông chừng bốn phía
Qua các cửa sổ
Không thể được an
Các tà yêu mị
Và các quỷ đói
Chim dữ, cắt, thú
Đều tìm ăn uống
Ngôi nhà khủng kiếp
Các thứ như vậy
Có vườn cây lớn
Vách phên sụp đổ
Phòng ốc cửa nhà
Gãy ngã la liệt,
Chỉ có một người
Canh giữ ngôi nhà
Người ấy trong đó
Ở lại trông chừng.
Một hôm ngôi nhà
Bỗng nhiên nổi lửa
Bốn phía xung quan
Lửa đều bốc cháy
Vô số ngàn người
Kêu la thất kinh
Lửa càng cháy mạnh
Ông trưởng giả kia
Sợ thiêu con mình
Cất tiếng kêu than
Cột nhà đổ nhào
Tường, vách rã sụp
Các loại quỷ thần
La hét gọi nhau
Những loài chim dữ
Muốn bay tránh lửa
Vô số chim cú
Lo sợ bàng hoàng
Trăm ngàn yêu mị
Kinh hãi ruổi chạy
Chính mình trông thấy
Lửa cháy phùn phụt
Vô lượng quần manh
Thành tro tan tành
Chỉ vì phước mỏng
Bị lửa đốt cháy
Ai nấy hãi hùng
Thấy lửa đốt cháy
Trông chẳng còn gì
Máu thịt chảy đầy
Khi đó nhà này
Những loài hung mạnh
Tất cả quỷ mị
Giành nhau ăn nuốt
Khói hôi ngùn ngụt
Reo mừng khen ngon
Kinh hoàng sảng chạy
Vòng vo ngơ ngác
Rắn rít bò cạp
Giòi bọ dẫy đầy
Quỷ mị tha hồ
Chụp lấy ăn nuốt
Lửa cháy trên đầu
Vui vẻ dạo đi
Đói khát tìm ăn
Độc hại hỏa hoạn
Trong ngôi nhà ấy
Kinh sợ như vậy
Bao nhiêu là người
Chết nằm ngổn ngang
Khí ấy chủ nhà
Trưởng giả thế lực
Thấy việc như thế
Vội xếp các việc
Nghe nạn lửa ấy
Thương nghĩ các con
Cử nhạc đờn ca
Phủ dụ xe báu
Những đứa ngu si
Không hiểu không biết
Tha hồ vui chơi
Nô đùa trong đó
Trưởng giả nghe thấy
Vội vã trở vào
Trẻ thơ không biết
Chẳng nghĩ cách ra
Nay các con ta
Mê mờ bế tắc
Tất cả ngu muội
Không thấy, không nghe
Vì ham chơi đùa
Mà tự trói buộc
Bản tánh các con
Rất khó sửa đổi
Phàm các chúng sinh
Rất nhiều giống loài
Gặp nạn lửa lớn
Khổ não đớn đau
Quỷ thần rắn dữ
Trong lòng độc ác
Vô số yêu mị
Nhảy nhót vui mừng
Hổ mang, chó sói
Nhiều không kể xiết
Đói khát tìm ăn
Ăn uống no nê
Các con của ta
Sẽ chết trong đó
Nếu không nạn lửa
Cũng chẳng vui gì
Oán kết hồ nghi
Khổ đau như thế
Huống gì xung quanh
Lửa bốc hừng hực
Các con ngu dại
Tự ý ở trong
Say sưa chơi giỡn
Vui đùa không thôi
Không chịu suy nghĩ
Theo lời cha dạy
Tự tâm không nhớ
Tìm cách thoát mau
Khi ấy trưởng giả
Suy nghĩ thế này:
“Các con ta sinh
Dưỡng nuôi khổ nhọc
Bỗng nhiên lửa nổi
Thiêu hủy đốt cháy
Là m sao cứu con
Thoát khỏi nạn lửa”.
Khi ấy ông nghĩ
Tạo lập phương kế:
“Nay các con ta
Đắm say ca hát
Họa hại đến nơi
Vẫn cứ chơi đùa
Khổ thay, ngu muội!
Không thấy khổ đau
Các thứ xấu xa
Không hay nạ n ấy
Tâm ta lo lắng
Các con mê chơi
Nếu chúng nỗ lực
Sẽ thoát lửa cháy”.
Liền tìm phương kế
Ở ngoài ngôi nhà
Sắp xếp kỹ nhạc
Bày đủ đồ chơi
Của con ưa thích
Ông đều ban cho
Điều khiển âm tiết
Cùng lúc trổi lên
Các con nghe xong
Tham ưa âm nhạc
Ai cũng vội vàng
Hết sức cố gắng
Tất cả chạy ra
Khỏi ngôi nhà lửa
Thoát khỏi khổ não
Các con nhóm lại
Một chỗ an vui
Không còn sợ hãi
Lúc đó trưởng giả
Thấy các con ra
Trong tâm nhẹ nhõm
Ý được thư thái
Bày hết đồ chơi
Ngồi tòa Sư tử
Bây giờ thân ông
Đã được an nhiên
Các nạn khổ kia
Vĩnh viễn không còn,
Nay các con ta
Cần sức tinh tấn
Mê nơi nhà lửa
Phóng túng chơi đùa
Như trước đã từng
Ngủ nghỉ triền miên
Nơi lửa cháy mạnh
Người gặp nạn này
Bị mê che phủ
Tâm tư tăm tối
Hôm nay tất cả
Đều được giải thoát
Đến chốn an nhiên
Theo nguyện mong ước,
Cha nhìn các con
Lòng thật an ổn.
Lúc đó các con
Đến thưa trưởng giả:
Xin cha tôn quý
Ban cho chúng con
Như trước đã hứa
Các loại xe quý
Lúc trước gặp lửa
Mê muội không biết
Cha có dạy rằng:
“Các con vâng lời
Cha sẽ ban cho
Ba loại xe quý
Nay đã đến lúc
Xin thương cấp cho.”
Khi đó trưởng giả
Bảo mở kho tàng
Vàng ròng quý báu
Châu báu ngọc ngà
Đồ quý thượng diệu
Đặc biệt quý giá
Hiểm có ở đời
Làm những xe lớn
Không ai sánh bằng
Trang trí huy hoàng
Chung quanh lan can
Kết chuỗi anh lạc
Mạng lưới lụa gấm
Trông rất rực rỡ
Vàng bạc đan nhau
Bao phủ trên xe
Treo các dãi hoa
Đều là hoa báu
Bốn phía chung quanh
Treo màn rủ xuống
Lớp lớp trên xe
Trải các tọa cụ
Đủ thứ gấm ụa
Nhiều không kể hết
Lại thêm các loại
Lụa mềm làm đệm
Vô số vải quý
Thảm chiếu trải xe
Các vật trang trí
Giá đáng ức ngàn
Vô cùng hiếm có
Vô lượng của tiền
Voi sức rất mạnh
Tươi trắng như hoa
Thân voi cao lớn
Uy nghi hùng dũng
Cùng với bảo xa
Để làm xe lớn
Khi ấy trưởng giả
Chuẩn bi xe xong
Cho con rồi nghĩ:
“Các người con này
Đều là con ta
Phải ban đồng đều”
Khi ấy các con
Nhảy nhót vui mừng
Khắp nơi khắp chốn
Thích thú vui chơi
Này Xá-lợi-phất!
Như Lai cũng vậy
Là Đấng cha lành
Cứu độ quần sinh
Tất cả muôn loài
Đều là con Phật
Tham dục ba cõi
Tà kiến buộc ràng
Ta thấy ba cõi
Như nhà lửa kia
Khổ não tràn đầy
Lo buồn bất tận
Đó là nói đến
Tất cả đều bị
Sinh, già, bệnh, chết
Đau khổ khóc than
Phật vì ba cõi
Cứu giúp muôn loài
Dạo chốn thanh nhàn
Hoặc ngồi trong rừng
Luôn luôn đúng lúc
Cứu độ ba cõi
Chúng bị đốt cháy
Đều là con ta
Thức tỉnh tất cả
Khiến tự quay về
Do ý thế này
Thị hiện cách kia
Tất cả chúng sinh
Ngu không tin nhận
Đắm trước ái dục
Mà tự buộc ràng
Ta dùng phương tiện
Làm đại lương y
Phân biệt tam thừa
Để dạy chúng sinh
Ba cõi đều nghe
Bao nhiêu xấu xa
Tùy thời dạy họ
Khuyên vượt thoát khỏi
Các Bồ-tát đó
Đến nương Phật được
Tam đạt, lục thông
Thành đại Thánh tuệ
Có người thành tựu
Theo Duyên giác thừa
Được không thoái chuyển
Chứng thành Phật đạo.
Hiện tại những người
Theo Phật giải thoát
Nhờ thí dụ này
Không còn hối hận
Nhờ vậy thân cận
Gần với Phật thừa
Tin nhận tất cả
Thành Bậc Tối Thắng
Do đó xiển dương
Đức tin bình đẳng
Hàng phục dứt trừ
Cho cả thế gian
Trí tuệ chư Phật
Đạo đức đặc thù
Cúi đầu quy ngưỡng
Đấng Thánh Trung Tôn
Căn, Lực, Giải thoát
Nhất tâm như vậy
Tam-muội chánh định
Muôn vạn ức ngàn
Con của chư Phật
Thường rất tôn trọng
Nên gọi pháp này
Đại thừa tôn diệu.
Ngày đêm thệ nguyện
Hàng phục ma quân
Luôn luôn tinh tấn
Kính mộ không dời
Trong suốt nhiều năm
Trải vô tận kiếp
Độ thoát chúng sinh
Vô số muôn ngàn.
Ví dụ xe báu
Là nơi nghĩa này
Dùng đó dạo chơi
Đến đạo tràng Phật,
Vô số Phật tử
Lúc đó vui mừng
Có người lắng nghe
An trụ tu tập.
Này Xá-lợi-phất!
Hiền giả nên biết
Chỉ có một thừa
Chớ không có hai
Đến khắp mười phương
Tìm cầu tất cả
Biết Đức Như Lai
Khéo dùng phương tiện,
Khuyên tu dần dần
Từ nhỏ đến lớn
Trước hiện Thanh văn
Chứng quả Duyên giác
Đức khắp ba cõi
Chỉ mới bỏ dục
Sa u đó chỉ dạy
Đạo lớn Bồ-tát.
Ân Phật thấm nhuần
Ví như ruộng tốt
Tùy theo giống trồng
Kết quả khác nhau
Người trồng khác loại
Đất chẳng tăng giảm;
Phật cũng như thế
Vì cả mọi loài
Thường dạy đạo lớn
Người học gia giảm.
Phật đối chúng kia
Là cha muôn loài
Phật thường quán thấy
Chúng sinh khổ não
Vô số ức kiếp
Tư thiêu đốt thân,
Ở trong ba cõi
Nạn khổ kinh khủng
Phật làm hướng đạo
Khiến được Niết-bàn.
Này các Hiền giả!
Hôm nay nên biết
Từ bỏ sinh tử
Thoát nạn khổ đau
Những vị Bồ- tát
Trụ nơi pháp này
Quyết tâm chí thành
Vâng theo dụ ấy
Tất cả đều nghe
Tuệ sáng của Phật
Chư Đại Đạo Sư
Thực hành phương tiện
Như chư Bồ-tát
Cần phải truyền bá
Ái dục xấu xa .
Ác độc đáng nhàm
Người tâm tăm tối
Mà thấy ô nhiễm
Cho nên Đạo Sư
Vì nói sự khổ
Dậy bốn Thánh đế
Phân biệt rõ ràng
Giả sử mọi người
Không õ các khổ
Đắm trước trần lao
Chẳng muốn xa lìa
Vì những người này
Như Lai chỉ dạy
Nhân vì Tập đế
Đưa đến khổ đau
Ái dục đoạn trừ
Thường không đắm trước
Đã được Niết-bàn
Đối ba pháp này
Hiểu rõ không lầm
Thì được giải thoát
Hoặc tu tám đường
Liền được thoát khổ.
Này Xá-lợi-phất!
Vượt thoát bao điều
Thọ không sở hữu
Cho là giải thoát
Kỳ thật chẳng phải
Giải thoát hoàn toàn
Chưa phải diệt độ
Liền gặp Đạo Sư
Phật vì duyên gì
Nói rằng các ông
Chưa được giải thoát
Chính sẽ thành Phật
Sẽ được như ta
Là vua các pháp?
Truyền pháp an ổn
Phật hiện nơi đời.
Này Xá-lợi-phất!
Pháp ấn của ta
Là pháp tối hậu
Khéo nói vi diệu
Vì thương chư Thiên
Và chúng thế gian
Dầu ở nơi nào
Một mình truyền bá
Giả sử có người
Giảng thuyết kinh này
Hoặc ai khuyến trợ
Khiến người hoan hỷ
Nghe diệu pháp này
Phải kính người ấy
Cúng dường đầy đủ.
Các Phật quá khứ
Vâng giữ pháp này
Đến không thoái chuyển .
Nếu lại có người
Vui tin kinh này
Từ xưa đã gặp
Chư Phật quá khứ
Cũng đã vâng thuận
Các Bậc Thánh Tôn
Và từng được nghe
Kính mộ kinh này
Đều đã từng thấy
Dung nghi của ta,
Lại cũng được thấy
Tỳ-kheo chúng Tăng,
Thường lại trông thấy
Chúng Bồ-Tát này
Người tin kinh này
Đức cũng như vậy.
Tất cả đều thấy
Chư vị Bồ-Tát
Tin tưởng kinh này
Thì cũng như vậy
Kẻ nào ngu mê
Chẳng dốc lòng tin
Nếu nói kinh này
Là được thần thông
Những bậc Thanh văn
Không sao đạt được
Đến bậc Duyên giác
Cũng chưa hiểu rõ.
Hiện nay ta có
Các chúng Thanh văn
Như Xá-lợi-phất
Vững tin pháp này
Hàng Thanh văn ấy
Tin pháp lớn này
Hiện tại chấm dứt
Không vướng các duyên.
Nếu như có người
Với kinh pháp này
Sinh lòng hủy báng
Đức Phật tối thượng
Bọn người ngu tối
Thường ôm ái dục
Chưa từng hiểu rõ
Pháp Bậc Vô Sinh.
Vì kẻ huỷ báng
Phật khéo phương tiện
Hiện hữu thế gian
Phật thường thấy rõ
Người nghe Phật dạy
Giảng tội phước đây
Tâm không hoan hỷ
Mặt mày nhăn nhó,
Ta còn tại thế
Hay diệt độ rồi
Không giúp Tỳ-kheo
Biên chép kinh này,
Phật dạy tội ấy
Mọi người hãy nghe:
Nếu người phỉ báng
Kinh pháp như đây
Mất thân người rồi
Đọa ngục Vô gián.
Ở trong ngục này
Đủ trong một kiếp
Hay vô số kiếp
Qua thời gian này
Nếu tội đã hết
Thường bị ngu si.
Nếu được ra khỏi
Nơi chốn địa ngục
Sẽ lại đọa vào
Súc sinh cầm thú,
Làm chó, dã can
Thân hình tiều tụy
Vào ở nhà người
Thường bị làm hại.
Nếu người oán ghét
Kinh pháp Phật đây
Sắc thường biến đổi
Thân thể đen đúa,
Vì tội đã làm
Sắc mặt xanh xao
Thân hình gầy yếu
Không được tươi tắn,
Vì các nhân ấy
Sống nơi khốn khổ
Bị ném ngói đá
Khóc lóc kêu la,
Người này thường bị
Đánh đập nhốt trói
Đói khát thiếu thốn
Thân thể khô xấu
Đọa vào súc sinh
Lạc đà, la, lừa
Thường mang chở nặng
Lại bị đánh đập
Trong lòng áo não
Chỉ nhớ cỏ nước
Phỉ báng kinh này
Bị tội như vậy.
Tuy được làm người
Toàn thân ghẻ lác
Dung mạo xấu xí
Thân hình hôi thối
Nếu có đi vào
Xóm, làng, huyện, ấp
Bị trẻ khinh khi
Giỡn chơi dẫm đạp.
Kẻ ngu si ấy
Sau khi chết đi
Liền lại sinh vào
Bần cùng hèn hạ
Hay làm đỉa, giun
Sống bằng máu mủ.
Hoặc bị điếc ngọng
Không được tự do.
Nếu người phỉ báng
Kinh này bị tội
Thường nhiều tật bệnh
Thân thể sinh giòi
Bị nhiều trùng bọ
Rúc rỉa ăn thịt
Tâm thường uất ức
Chẳng rời bệnh đau.
Này Xá-lợi-phất!
Kẻ nam tử kia
Không tin kinh này
Ngu si đần độn
Thường sống bỏn sẻn
Tánh thường tham lam
Sinh ra mù lòa
Người đời quên lãng.
Cố chấp chẳng tin
Phật đạo đại thừa
Miệng thường hôi thối
Thân thể tanh hôi
Yêu quái, quỷ thần
Thường sống với chúng
Đối với mọi người
Nói chẳng ai tin.
Nếu người không ưa
Nơi giáo pháp này
Thường bị bần cùng
Và luôn thiếu thốn,
Thân chưa từng được
Mặc y phục đẹp
Nếu nhà có của
Chẳng dám uống ăn;
Hoặc làm điều chi
Đều không toại ý,
Giả sử muốn cầu
Vật dụng an ổn
Nếu mà có được
Cũng bị mất ngay,
Làm các hạnh ác
Quả báo như vậy.
Nếu mời thầy thuốc
Ra toa bốc thuốc
Khéo biết điều hòa
Trị liệu đúng pháp
Vẫn không hết bệnh,
Bệnh càng nguy kịch
Tật bệnh triền miên
Không được cứu chữa.
Giả sử có ý
Gầy dưng việc gì
Thì gặp khuấy phá
Hành động đấu tranh,
Lại bị hủy nhục
Và bị tù tội
Người phạm kinh này
Sẽ bị họa ấy.
Nếu người phỉ báng
Về kinh pháp này
Sẽ không thấy được
Bậc Thầy cõi đời
Là vua cõi người
Giáo pháp của Phật
Cuối cùng đọa vào
Quỷ, Thần, Tu-la
Thường gặp tai ương
Điếc lác không nghe
Ngu si mê muội
Chằng nghe chánh pháp.
Nếu có người nào
Phỉ báng kinh này
Ở vào đời sau
Trọn kiếp mù tối.
Kết quả tội này
Gặp nhiều tai ương
Vô số thời kỳ
Bao nhiêu là kiếp
Như cát sông Hằng
Thường sẽ câm ngọng
Miệng không thể nói
Giáo pháp của Phật
Như sư tử hống
Chỗ đọa địa ngục
Như chốn dạo chơi
Dọa đầy nẻo ác
Như ở nhà mình.
Nếu hủy báng kinh
Tội nhiều như thế
Làm người nhiều bệnh
Thường hay câm ngọng
Hoặc sống trong đời
Sẽ bị tội đây,
Hoặc giữa mọi người
Nói dối hai lời
Khi sắp qua đời
Mạng sống chấm dứt
Thân họ thường gặp
Biết bao khổ đau
Trăm ngàn muôn ức
Vô số tai họa
Dung mạo hắc ám
Chẳng ai muốn nhìn
Bị lở, phong hủi
Tích chứa hôi thối
Tự chấp bản ngã
Nhan sắc đen đúa
Ôm lòng ân hận
Độc hại tăng thêm
Dục tình hừng hẫy
Không có tiết chế
Lại ưa ngang ngược
Khác gì súc sinh.
Này Xá-lợi-phất!
Hôm nay Thế Tôn
Dù nói hết kiếp
Tội báo những người
Phỉ báng không tin
Kinh Pháp Hoa này,
Muốn tính thời gian
Kể sao cho xiết.
Thấy được nghĩa này
Phải nên xét kỹ
Vì vậy Như Lai
Bảo Xá-lợi-phất:
Không đem pháp này
Giảng bày phân tích
Cho kẻ ngu si
Vào thời tượng pháp.
Có kẻ thông minh
Nghe nhiều học rộng
Chí khí kiên cường
Thường tu các pháp,
Hoặc người phát tâm
Quyết cầu Phật đạo
Những người như vậy
Mới được truyền trao.
Pháp chưa từng có
Vì họ đã gặp
Trăm ngàn ức Phật
Trồng nhiều vô số
Công đức như ý
Tâm tánh người này
Sáng tỏ như trăng
Xứng được truyền dạy.
Kinh điển như thế
Nếu người tinh tấn
Thường sống Từ tâm
Suốt cả ngày đêm
Bi tâm chói rạng
Chẳng nghĩ tự thân
Không tiếc thọ mạng
Mới được nói cho.
Quyền kinh pháp ấy
Ai thường cung kính
Không nghĩ xấu người
Nội tâm chuyên nhất
Xa kẻ phàm phu
Thường ở chỗ vắng
Hoặc ẩn núi cao
Những người như vậy
Mới được nghe pháp.
Kết thân bè bạn
Thương giúp lẫn nhau
Và lánh biết xa
Loại bạn xấu ác
Nếu thấy như vậy
Mới là con Phật
Mới nên gặp gỡ
Dạy kinh pháp này.
Không phạm giới cấm
Như ngọc báu sáng
Chí luôn vâng theo
Kinh điển Đại thừa
Phải biết người ấy
Là con của Phật.
Siêng tu pháp này
Tụng một phẩm kinh
Nếu bị mắng chửi
Và bị hủy nhục
Vẫn đem lòng Từ
Thương xót chúng sinh
Chí thành cung kính
Phụng hành lời Phật
Những người như thế
Mới nói pháp này.
Nếu giữa hội chúng
Người tụng kinh này
Tâm thường ứng hợp
Lĩnh hội không ít
Cho đến vô số
Thí dụ lời lẽ
Vì khắp mọi người
Thuyết kinh giáo này.
Hôm nay Như Lai
Giảng giải đạo phẩm
Đến nơi cứu cánh
Mọi người hoan hỷ.
Nếu có Tỳ-kheo
Muốn cầu giáo pháp
Nếu thấy kinh này
Phải vui kính nhận.
Vị ấy phụng trì
Kinh Đại thừa đây
Tâm thường tinh cần
Không thích việc khác
Trì một bài tụng
Chí không dời đổi
Mới được thọ trì
Kính điển như vậy.
Nếu như có người
Ái mộ kinh này
Nên sùng kính họ
Như thân Như Lai.
Hoặc người suy nghĩ
Muốn học pháp này
Nếu đã được nghe
Cúi đầu lễ nhận,
Người ấy chẳng còn
Nghĩ tìm kinh khác
Cũng chưa từng nghĩ
Sách vở thế gian
Thực hành Phật đạo
Chí tại căn lực
Đều xả bỏ hết
Chuyên giảng kinh này,
Này Xá-lợi-phất!
Dẫu trong một kiếp
Nêu vô số dụ
Phân biệt giảng nói
Nếu người phát nguyện
Cầu tuệ giác Phật
Hãy đem kinh này
Tuyên dương rộng khắp.
***
Phẩm 4: TIN ƯA
Lúc bấy giờ Tôn-giả Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên… được nghe pháp lớn chưa từng có, vốn chưa từng nghe và thấy Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn-giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, vừa mừng vừa sợ, phấn chấn, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước chỗ Đức Thế Tôn, sửa y, để trần vai phải, quỳ gối, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mà trong lòng hân hoan, sáng suốt, thân tâm cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, tâm trí chuyên nhất bạch Đức Thế Tôn:
– Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con đứng đầu chư Tăng, tuổi già suy yếu. Kính mong Thế Tôn cho chúng con được Niết-bàn. Tâm chí của chúng con vẫn mong cầu đạo Vô thượng chánh chân, nhưng sức tinh tấn của chúng con đã suy giảm, khôn thể kham nhận việc gì nữa. Như Lai trước đây giảng pháp, chúng con theo thứ tự ngồi an định trong chúng lắng nghe, không dám mỏi mệt hay nhàm chán. Lúc ấy Như Lai vì chúng con thuyết pháp. Chúng con đã được ở nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, cho đến các pháp của Phật, không tạo tác đối với tất cả pháp, ưa thích các việc làm của chư Bồ-tát, Như Lai đã nhiều lần khuyến khích giáo hóa chúng con nhưng chúng con đối với ba cõi chỉ muốn vượt qua, thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn. Nay tâm chúng con đã mỏi mệt. Lúc vừa nghe Thế Tôn chỉ dạy giáo nghĩa kỳ diệu chúng con đều chẳng có một ý niệm ham thích đối với Tuệ giác vô thượng. Thế mà nay Thế Tôn lại thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Chánh giác nên tâm chúng con rất bàng hoàng, kinh ngạc chưa từng có. Chúng con được lợi lành lớn, đã phải nỗ lực tu tập nên mới được nghe phẩm kinh như thế này. Chúng con theo chư Phật quá khứ thường được nghe pháp ấy nên khi vừa được nghe, chúng con như người được vô lượng ngọc báu, thỏa mãn chí nguyện mong mỏi. Chúng con hiện nay ở tại thế gian mà tâm vô sở úy, tiếng trống, nhạc vi diệu tự nhiên trổi lên, ngọn đèn vĩ đại chiếu rọi khắp nơi, rừng cây Chiên-đàn tỏa hương ngào ngạt.
Bạch Thế Tôn! Chúng con há có thể kham nhận được pháp lớn mà Thế Tôn đã nói hay sao? Đó là điều chúng con xin thưa thỉnh.
Lúc ấy các vị Thanh văn cùng nhau thưa với Đức Phật:
– Thuở xưa có người con bỏ cha trốn đi lưu lạc đến địa phương khác sáu mươi năm, rong ruổi bốn phương tìm cầu cơm áo, luôn bị nghèo cùng khốn khổ, chẳng có chút tài sản nào. Người cha có việc đến địa phương ấy. Ông có vô số vàng bạc châu báu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách chứa đầy trong kho, kẻ hầu hạ, xe cộ, voi ngựa nhiều vô số kể, quyến thuộc đông đảo, bảy báu đầy ắp, thu chi tiền bạc, trồng trọt cày bừa, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo.
Người con nghèo đói phải đi khắp nơi làng mạc, thôn xóm, phố phường trong nước để xin ăn. Lúc ấy đang là mùa thu, ông trưởng giả giàu có đi vào thành xem xét các kho báu. Người cha, cùng con biệt ly đã lâu bỗng nhiên nhớ đến con, không biết con mình ở đâu. Ông tự nghĩ: “Ta có nhiều của cải đầy khắp gần xa mà lại chỉ có một mình. Nếu mai này ta chết đi thì của cải ấy sẽ tiêu tan. Ta chỉ mong được gặp lại con ta, tha hồ cho nó sự ăn mặc và giao tài sản cho nó, ta sẽ an vui không còn lo nghĩ.”
Khi ấy người con nghèo khổ lần hồi đến nhà ông trưởng giả, đứng trước của nhà nhìn vào, từ xa trông thấy người cha ngồi trên ngai sư tử được làm bằng vàng bạc và các vật quý báu, có các Bà-la-môn và mọi người kính cẩn vây quanh, có rèm báu kết ngọc và người cha ngồi trong đó để sai bảo, cắt đặt công việc cho mọi người trong các bộ phận. Dưới đất được rải đầy các thứ hoa quý, trăm ngàn muôn ức vàng dùng làm đồ dùng ăn uống. Người con nghèo thấy ông trưởng giả tư thế oai nghiêm như vậy nên rất sợ hãi, không biết vị ấy là ai, cho rằng người này là vua hoặc ngang hàng với vua, do dự không dám tiến bước, nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau.
Người cha trông thấy con lòng rất vui mừng, sai người hầu cận chạy theo gọi người con ấy quay về. Người con kinh hãi lăn xuống đất, nói với người theo bắt:
– Tôi không có xúc phạm gì đến các người, tại sao lại bắt tôi?
Người hầu dẫn người con đem về cho trưởng giả. Trưởng giả bảo:
– Chớ nên sợ hãi như thế. Ta vì con mà gầy dựng sự nghiệp với những kho tàng đầy ắp. Cha con biệt ly đã lâu không gặp, ta nay tuổi già suy yếu, cha con tình sâu nghĩa nặng mới đem con vào nhà này.
Người cha không nói điều này với ai. Vì sao? Vì người cha biết ý chí con mình nghèo hèn hạ tiện, không biết phước lực của cha. Một thời gian lâu sau, người con tâm ý thông hiểu, sắc mặt an hòa, biết được tên mình và quen dần với các vật quý giá, vị trưởng giả liền nói:
– Đây chính là con của ta.
Rồi ông dùng phương tiện bảo người con:
– Nay con muốn làm gì tùy ý.
Người con nghèo khổ rất kinh ngạc như được sự chưa từng có, liền đứng dạy đi đến xóm nghèo tìm kiếm cơm áo. Người cha hiểu con nên dùng phương tiện bảo anh ta:
– Con cứ tự nhiên đến với họ.
Sau khi người con đến, vị trưởng giả lại sai người đến bảo với anh ta:
– Ngươi hãy đến ngôi nhà kia, ở đấy đang cần người đánh xe.
Vị trưởng giả cho anh ta voi, ngựa, sai tập làm quen dần với những việc tầm thường. Nếu có ai hỏi anh ta cũng đáp là làm người đánh xe. Người cha bảo con:
– Ngươi phải điều khiển xe, ngựa và quản lý các vật báu trong nhà, tùy ý thích của ngươi, ta sẽ ban phát cho. Người con muốn gì, người cha cũng chu cấp cho đầy đủ như lời đã nói. Khi ấy người con tập điều khiển ngựa, xe và quản lý rất kỹ lưỡng các châu báu và còn dạy dỗ cho những kẻ lớn nhỏ trong nhà. Người cha ở bên cửa sổ từ xa trông thấy con mình làm việc giỏi dang, ông liền cởi chiếc áo cũ đã mặc, tắm gội sạch sẽ, tay phải kỳ cọ, mặc y phục đẹp đẽ, đeo chuỗi ngọc quý, toàn thân sạch sẽ, sáng sủa. Ông bảo với đứa con:
– Từ trước đến nay con đã xây dựng được cơ nghiệp gì không? Vì việc gì mà bỏ ta đi nơi khác đến nỗi bị khổ sở đói lạnh? Ta đã già yếu rồi, nay thật tình khuyên con rằng đã đến lúc con nên cưới vợ, vui chơi, ăn uống để nối dõi phước nhà. Sản nghiệp ta đã tạo nhiều không kể xiết, đầy đủ đồ quý báu, con có biết không? Ta mong ngóng con đã nhiều năm qua, mà con lại đi thân cận với bạn ác nay mới quay về. Con phải trừ bỏ những thói quen tật xấu ấy. Ta có viên ngọc dạ quang minh vô cùng quý giá sẽ đem cho con, kẻ hầu hạ, tôi tớ nam nữ lớn nhỏ tùy ý con muốn, tất cả đều giao cho con. Ta luôn thương nhớ con cũng như quốc vương may mắn gặp thái tử của họ.
Các ví Thanh văn cùng thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Khi ấy người con nghèo khổ đã lìa xa gia đình hơn sáu mươi năm, trôi giạt khắp nơi, đến nhà trưởng giả mới gặp người thân, suy nghĩ trước và sau khi gặp cha, tâm đều nhớ hết những việc đã làm.
Khi ấy vị trưởng giả nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết mới bảo người con:
– Ta nay đã sức cùng lực kiệt. Con nên kế thừa sản nghiệp đồ sộ của ta. Tất cả tài sản kho tàng quý báu trong nhà, nếu con nhận lãnh, đem giúp đỡ những người nghèo thiếu, sử dụng tùy ý.
Người con nghe cha dạy xong vui mừng khôn xiết, nguyện sẽ thực hành không trái lời hứa. Người cha biết chí con nên thân hành dạy bảo, trước nghèo sau giàu càng thêm vui mừng, tôn kính than thuộc, lễ bái các bậc Trưởng lão. Người cha ở trước vua, đại thần và mọi người tuyên bố:
– Xin các ngài biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra, tên đó họ đó. Con tôi đã bỏ tôi lưu lạc khắp nơi sáu mươi năm nay mới gặp nhau. Nó là con của tôi, tôi chính là cha nó. Bao nhiêu cửa cải, tài sản của tôi đều là của con tôi.
Người con nghe cha tuyên bố với mọi người lòng càng thêm vui mừng, tự nghĩ: “Ta đời trước có phước báo gì mà được lãnh kho tàng quý báu này?”
Các vị Thanh văn lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có ấy ví như Thế Tôn. Chúng Thanh văn Hữu học chúng con được gọi là con của Phật. Ngài cửu giúp chúng con thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, như ông trưởng giả giàu có trở lại đưa đứa con thoát khỏi sự sống chết. Khí ấy, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có vô số pháp bảo của bậc Thánh, dùng năm thần thông đoạn trừ màn ngăn che của năm ấm. Chúng con luôn tinh tấn tu tập theo giáo pháp ấy, đạt đến Niết-bàn cho là ấn chứng vi diệu, tinh tấn mong cầu không giải đãi, muốn được giải thoát tâm ý vắng lặng, nhờ tự thân tư duy thành thục nên đạt được rất nhiều. Nhưng Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn nương vào pháp thực hành, siêng tu thiền định và thường tin ưa, vì thấy chúng con lười biếng, tâm chí hạ liệt, không phân biệt, không có chí nguyện đối với kho pháp bảo quý giá của Như Lai, nên Thế Tôn đã dùng phương tiện chỉ cho chúng con thấy rõ kho tàng tuệ giác ấy, nhờ nó mà trừ được đói khổ và được trao ấn chứng vi diệu.
Kính bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng con tuổi đã già, như Tôn-giả Đại Ca-diếp đây được Như Lai ấn chứng rất sớm là sẽ đạt đến giải thoát. Thế Tôn lại vì chúng con mà thị hiện giáo nghĩa trí tuệ lớn của Bồ-tát. Chúng con phụng hành và đem chỉ dạy cho mọi người. Như Lai đã hiển bày đức lớn đều làm cho chúng con được thể nhập giáo nghĩa Như Lai. Vì sao? Vì Thế Tôn đã khéo dùng tất cả phương tiện biết chúng con ý chí thấp hèn, không hiểu nổi giáo pháp sâu xa nên dạy hạnh Thanh văn. Chúng con sợ hãi các pháp trong sinh, già, chết ba cõi và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, chỉ muốn tự độ mà không cứu độ tất cả chúng sinh, xa lìa phương tiện quyền biến, trí tuệ, đại Từ bi, thiền định Tam-muội, chỉ biết nhân tâm mà không thấy được căn nguyên của tất cả chúng sinh. Ví như kẻ nghèo cùng mong cầu cơm áo, người cha ân cần muốn đem đến an lạc cho con, nhưng người con không hề hay biết. Thế Tôn dùng phương tiện tùy lúc thị hiện nên chúng con không nhận thấy, nay mới tự biết mình chính là con Phật.
Chúng con đã được Phật xót thương ban cho đại trí tuệ. Vì sao? Vì chúng con tuy là con Phật mà lại hạ tiện, khiếp nhược. Đến khi thấy tâm chúng con hoan hỷ kính tin Bồ-tát thừa nên Như Lai sau đó mới nói cho pháp lớn Đại thừa. Thế Tôn đã vì hai việc mà nói pháp ấy:
1. Vì chư Bồ-tát nên Như Lai hiện pháp cam lộ.
2. Vì hạng người thấp hèn, chí nguyện nhỏ nên Như Lai khuyến khích, chuyển hóa họ đi vào giáo nghĩa vi diệu.
Ví như người con kia cùng cha biệt ly nhau đã lâu, trên đường từ xa trông thấy cha không biết là ai nên rất sợ hãi, dần dần về sau nhìn cách thể hiện uy nghi mới biết đó là của mình. Phật cũng như vậy, chúng con không hiểu rõ pháp lớn của Bồ-tát, tuy là con của Như Lai, từ pháp sinh ra nhưng chỉ mong Niết-bàn, không có ý chí ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng hàng phục ma quân và độ thoát tất cả chúng sinh. Bọn chúng con tự cho rằng đã được giải thoát. Vì lý do đó nên ngày nay chúng con thấy, nghe mà chưa được thành tựu, không phải là bậc xuất gia, chưa trở thành bậc Sa-môn. Hôm nay Thế Tôn hiện các trí tuệ siêu tuyệt nên chúng con đã đạt được pháp trân bảo của Phật.
Đức Phật là cha, chúng con là con, cha con đồng một thể tánh, không có sai khác. Giống như vị trưởng giả khi sắp mạng chung, ở trước đại chúng tuyên bố cùng vua, quan, Bà-la-môn, trưởng giả và tất cả mọi người: “Hôm nay ta đem tất cả kho tàng châu báu để ban cho con ta.” Người con nghe xong vui mừng như được điều chưa từng có. Thế Tôn cũng như vậy, ban đầu dạy pháp Tiểu thừa tạm thời làm cho chúng con được an lạc, nhưng sau cùng Ngài vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả chư Thiên và loài người mà hiển bày giáo nghĩa căn bản. Thế Tôn khéo dùng phương tiện thuyết pháp tam thừa, không hề có hai thừa, huống gì có ba? Các vị Thanh văn này đều sẽ thành Phật. Chúng con vô cùng hân hoan không kể xiết.
Khi ấy Tôn-giả Đại Ca-diếp nói lại kệ rằng:
Chúng con hôm nay
Được nghe pháp âm
Ngạc nhiên vui mừng
Được chưa từng có
Vì thế cho nên
Tâm rất hoan hỷ
Lại biết Đạo Sư
Thanh âm êm dịu
Trân bảo tôn quý
Chứa nhóm thật nhiều
Tập hợp các báu
Ban cho chúng con
Chưa hề nghĩ đến
Cũng chẳng mong cầu
Được nghe pháp sâu
Tâm rất phấn chấn.
Ví như trưởng giả
Có một người con
Bé thơ không biết
Ngu si mê muội
Tự bỏ cha mình
Đi đến nước khác
Trôi nổi xứ lạ
Gặp nhiều hiền nhân.
Khi ấy trưởng giả
Lo sầu nhớ con
Về sau nghe biết
Vội vã kiếm tìm
Dạo khắp mười phương
Lòng thường lo nghĩ
Cha con cách biệt
Đã sáu mươi năm
Thăm hỏi mọi người
Muốn được gặp con
Liền đến xứ khác
Vào thành lớn kia
Dừng chân ở đó
Xây dựng lâu đài
Đầy đủ trang nghiêm
Thọ lạc năm dục
Vô số vàng ròng
Và các châu báu
Của cải quý giá
Minh châu, ngọc bích
Voi, ngựa, cộ xe
Rất nhiều vô số
Gia súc trâu, heo
Gà, vịt, dê, lừa
Thu chi lời lãi
Buôn bán, cấy cầy
Tôi tớ hầu hạ
Nhiều không kể xiết
Các sự tôn quý
Có vạn ức người
Lại được vua mến
Oai như quốc vương
Tất cả dân chúng
Kính trọng hướng về
Quan quyền thân thích
Ai cũng tôn trọng
Ví nhiều duyên cớ
Người đến tấp nập
Tìm kiếm rất đông
Không thể kể hết
Giàu mạnh như vậy
Mà luôn than khóc
Ta đã già nua
Chí lực suy yếu
Lòng thường suy nghĩ
Muốn được gặp con
Ngày đêm nghĩ nhớ
Không lúc nào nguôi
Hỏi nghe tin con
Lòng thêm phiền muộn
Con dại bỏ ta
Hơn sáu mươi năm
Kho tàng ta có
Tài sản lớn nhiều
Nếu ta chết đi
Ai người giao phó
Kế thừa cho ta
Người con ngu si
Nghèo cùng khốn khổ
Thường tìm cơm áo
Dạo khắp các nơi
Ưu lo suy nghĩ
Miệt mài khắp chốn
Tìm cầu dè sẻn
Phiêu bạt xa xôi
Tự lo sinh sống
Có khi được của
Lúc chẳng có gì
Khốn đốn tha hương
Ưu tư lo lắng
Bức xúc trong lòng
Gian lao khổ sở
Lần lượt trải qua
Đi không dừng nghỉ
Dần dần đi đến
Chỗ ở của cha
Quanh co lui tới
Tìm kiếm áo cơm
Từ từ tiến gần
Đến ngôi nhà ấy
Liền đến trước cửa
Từ xa trông thấy
Vị đại trưởng giả
Ngồi ngai sư tử
Đông người hầu hạ
Quyến thuộc vây quanh
Tiền của thu chi
Và đem bố thí
Có rất đông người
Đi theo phục dịch
Hoặc người tính toán
Vàng bạc châu báu
Ghi chép giấy tờ
Phân phối từng ban
Thu chi riêng biệt
Tính toán ít nhiều.
Khi ấy gã nghèo
Thấy cảnh như vậy
Đứng qua bên đường
Quán sát họ làm
Tự thân suy nghĩ
Sao ta đến đây
Đây chắc là vua
Hoặc là thái tử
Nêu không sao vậy
Sẽ bắt trói ta
Nếu như không đi
Bị ép sai khiến
Suy nghĩ như thế
Người nghèo bỏ chạy
Đời không trọng nghèo
Chẳng ưa kẻ thiếu,
Khi ấy trưởng giả
Ngồi ngai sư tử
Xa thấy con mình
Thầm lặng vui mừng
Sai ngay người hầu
Đuổi theo giữ lại
Gọi kẻ nghèo kia
Đến đây ta gặp.
Người hầu vâng lời
Đuổi theo bảo rằng
Buộc ngươi phải về.
Gã té xuống đất
Kinh hãi nghĩ thầm
Vô cớ bị hại
Sao lại bi bắt
Họ muốn gì đây.
Trưởng giả giàu có
Thấy con ngã lăn
Thương xót con mình
Vô cùng hạ liệt
Cũng không tin rằng
Ta là cha nó
Lại vẫn nghi ngờ
Không xét của cải.
Người cha phủ dụ
Nói với kẻ nghèo
Ta có vàng ròng
Cất chứa tại đây
Sẽ cấp cho ngươi
Đủ thức ăn uống
Giữ gìn trông coi
Phục dịch các việc
Châu báu ta có
Bị hư cũ nhiều
Bỏ nơi nhơ nhớp
Không ai sửa dùng
Ngươi hãy tùy tiện
Lấy làm của riêng
Của cải ta nhiều
Không ai dùng hết.
Người nghèo nghe bảo
Những lời như thế
Bèn vội tới nơi
Vâng lệnh thi hành
Theo lời trưởng giả
Không dám trái lệnh
Liền vào trong nhà
Sửa sang các việc.
Khi ấy trưởng giả
Bên trong cửa sổ
Quán sát người con
Biết làm thế nào
Tuy là con ta
Mà quá hạ liệt
Chỉ biết tính toán
Điều khiển xe thôi.
Ông từ trên lầu
Đi xuống dưới đất
Cởi áo nhơ bẩn
Thay đồ sang trọng
Đi thẳng đến chỗ
Làm việc của con
Bảo con đứng dậy
Cần làm việc gì
Ta sẽ cho ngươi
Rất khó gặp ngươi
Nhân đức bố thí
Xoa bóp chân ta
Rượu nồng ngon ngọt
Cấp cho thực phẩm
Giường ghế đồ dùng
Ngựa xe không thiếu
Lúc đó ta sẽ
Cưới vợ cho ngươi.
Trưởng giả thông tuệ
Dần dà dạy bảo:
Con nên nhận lãnh
Các việc của ta
Ví yêu mến ngươi
Tâm đừng nghi ngại
Người con lần hồi
Vào trong nhà cha
Buôn bán cai quản
Tính toán thu chi
Không để thiếu hụt
Ngày càng phát đạt
Đi tới đi lui
Răn dạy tôi tớ
Các món bảo vật
Ngọc sáng lưu ly
Đều đem cất giữ
Kho tàng trong nhà
Tất cả các chỗ
Đều biết tính toán
Suy nghĩ biết rõ
Lợi của tài sản
Nhưng vì ngu si
Riêng giữ kho nhỏ
Không bằng như cha
Ở tại bên ngoài.
Khi ấy gã nghèo
Một mình suy nghĩ
Người khác không có
Kho báu như ta
Người cha biết được
Ý chí con mình
Nó tự cho rằng
Được giàu vô tận.
Liền gọi con đến
Tư thân dạy bảo
Ta muốn giao phó
Tài sản của ta
Nên bảo ngươi rằng
Ta có tất cả
Vọ số tài sản
Sinh hoạt buôn bán
Tụ tập mọi người
Trước mặt quốc vương
Trưởng giả, Phạm chí
Các bậc Hiền nhân
Sai người công bố
Lớn nhỏ gần xa
Đây là con tôi
Bỏ tôi trốn đi
Đến nơi nước khác
Tìm cầu ăn mặc
Vô cùng nghèo khổ
Nay mới trở về
Cùng tôi xa cách
Hơn sáu mươi năm
Nay đến nước này
Mới được gặp lại
Ở nơi thành ấy
Mà quên mất tôi
Nơi đây kiếm sống
Tư nhiên đến đây
Tài sản của tôi
Không thiếu thứ gì
Sản nghiệp hiện tại
Rất là đầy đủ
Tất cả đều đem
Giao phó cho con
Con sẽ giữ gìn
Cơ nghiệp của cha.
Người con vui mừng
Việc chưa từng có
Ta vốn nghèo nàn
Của cải tự đến
Người cha biết con
Ý chí thấp hèn
Được các kho báu
Ngày nay an ổn
Đấng Đại Đạo Sư
Giáo hóa chúng con
Chúng con thấp hèn
Vui ưa pháp nhỏ
Phật độ chúng con
Khiến được an ổn
Rồi Ngài thọ ký
Sẽ thành Phật đạo
An trụ nơi đây
Lập hạnh rất nhiều
Vô số Bồ-tát
Tuệ lực vô lượng
Chỉ bày phân biệt
Đạo lớn tối thượng
Ca ngợi các duyên
Muôn ngàn thí dụ
Chúng con được nghe
Là con Đức Phật
Nên gắng phụng hành
Đạo lớn tối thượng
Nơi đáng kiến lập
Cho người mắt tuệ
Sẽ ớ thế gian
Được thành Phật đạo
Vì Đấng Thế Tôn
Thực hành như thế
Nuôi dưỡng ủng hộ
Nơi giáo pháp này
Phân tích giảng nói
Tuệ nghĩa tối tháng
Rồi sẽ cảm hóa
Tất cả chúng sinh
Chí nguyện chúng con
Tâm nghèo suy nghĩ
Nếu như được nghe
Những lời Phật dạy
Không chịu phát khởi
Trí tuệ Như Lai
Thấy Bậc Tối Thắng
Tuyên nói nghĩa đạo
Trong lòng tư nghĩ
Đã được Niết-bàn
Không có mong cầu
Trí tuệ tối thượng
Nhờ nghe Thế Tôn
Chư Phật các cõi
Được ý hy hữu
Sinh tâm vui mừng
Nơi pháp vắng lặng
Tất cả vô lậu
Đã được dứt trừ
Sau được diệt độ.
Do tư duy này
Không thành Phật đạo
Nỗ lực tu hành
Siêng trừ kiêu mạn
Giáo nghĩa chư Phật
Vi diệu tối thượng
Chưa từng khuyên giúp
Chỉ trụ Niết-bàn
Cho là cứu cánh
Tối thắng trọn vẹn
Được pháp vô vi
Xả bỏ ấm, cái
Ngày đêm tinh cần
Tu pháp nghĩa không
Thoát khỏi khổ đau
Não phiền ba cõi
Thế Tôn dạy bảo
Dùng các nhân duyên
Và các thí dụ
Đầy đủ các pháp
Diễn nói tối thắng
Thân sinh trí tuệ
Nếu như có người
Mong thành Phật đạo
Chúng con vì họ
Ban cho Pháp sự
Họ đạt nhưng con
Không thích bao giờ
Đấng Đại Đạo Sư
Khắp cõi thế gian
Quán sát tất cả
Những người như con
Lo sợ các việc
Làm cho lợi ích
Ân cần khuyên bảo
Khiến con tin ưa
Phương tiện quyền biến
Giống như người cha.
Ví như trưởng giả
Vô cùng giàu có
Biết chí con mình
Bần cùng hạ liệt
Mới đem châu báu
Ban phát cho con;
Đấng Đại Đạo Sư
Nói pháp hy hữu
Phân biệt, chỉ bày
Khéo dùng phương tiện
Biết rằng chúng con
Chí thích thấp hèn
Điều phục tâm con
Mới ban pháp lớn.
Chúng con ngày nay
Đạt được vô lượng
Pháp chưa từng có
Như nghèo được của
Đức Phật giáo hóa
Được đạo quý báu
Các lậu đoạn trừ
Ngày đêm tu tập
Giới cấm, thiền định
Thọ trì giáo nghĩa
Tuân lời Đạo Sư
Nay con đã đạt
Đạo lớn Thế Tôn.
Quyến thuộc vây quanh
Tu hành tinh tấn
Nỗ lực ngày đêm
Phạm hạnh thanh tịnh
Nương Đấng Pháp Vương
Tuệ giác sâu xa
Mà được đầy đủ
Quả đức Vô thượng
Thành tựu vi diệu
Các lậu không còn.
Chúng con hôm nay
Mới là Thanh văn
Mới được nghe rõ
Phật đạo tối thượng
Được Phật hiển bày
Pháp âm toàn giác
Do đã được nghe
Vượt khỏi sợ hãi.
Hôm nay mới thành
Bậc Vô Sở Trước
Đem pháp ly thủ
Giảng cho chư Thiên
Thế nhân, ma vương
Và cho Phạm thiên
Tất cả quyến thuộc
Các loại chúng sinh
Khắp chúng hữu tình
Tạo lập tịch nhiên
Dứt bỏ sinh tử
Vô số ức kiếp,
Giáo pháp Phật giảng
Rất khó được gặp
Xét khắp thế gian
Không thể sánh kịp.
Ngày nay giác ngộ
Hết tội, giải thoát
Tu hành tinh tấn
Phấn chấn vui mừng
Chúng con quay về
Đảnh lễ bậc Thánh
Sở nguyện viên thành
Như cát sông Hằng
Thực phẩm, y phục
Nhiều đến vô lượng
Giường nằm, ngọa cụ
Thuần khiết sạch sẽ
Gỗ hương Chiên-đàn
Lấy làm nhà cửa
Đệm ngồi mềm mịn
Để trải lên trên
Nếu người tật bệnh
Vô số thuốc thang
Đem đến cúng dường
An trụ độ tận
Bố thí nhiều kiếp
Những gì đã chứng
Không bị mất đi
Pháp Phật cao xa
Vô lượng vô hạn
Đủ thần túc lớn
Kiến lập pháp lực
Phật là Đại vương
Kham nhận kiên cường
Thường tu kiên cố
An ủi khuyên dạy
Luôn theo đúng thời
Chưa từng buông bỏ
Vọng tưởng phước hạnh
Nơi tất cả đời
Pháp Đấng Trung Tôn
Đều có lực lớn,
Như Lai tối thắng
Thắp đèn sáng lớn
Dạy rất nhiều người
Biết hàng chúng sinh
Tùy sức của họ
Bao nhiêu chủng loại
Điều họ ưa thích
Trăm ngàn nhân duyên
Tùy thuận mở bày,
Như Lai đều biết
Tánh hạnh chúng sinh
Tâm niệm người khác
Tất cả quần sinh
Vì nhiều lỗi lầm
Đưa đến đọa lạc
Đem pháp thị hiện
Đưa về tuệ giác.
***
Phẩm 5: CÂY THUỐC
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các vị trưởng lão Thanh văn:
– Hay thay, hay thay, Đại Ca-diếp! Ông đã ca ngợi như thật về Như Lai. Đúng như lời ông nói, công đức của Như Lai theo như thí dụ vừa rồi còn gấp bội hơn thế, vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường bằng số kiếp giới hạn, tất cả mọi số tính toán đều không phù hợp với Như Lai. Trí tuệ của Như Lai vô cùng vô hạn, không ai có thể nghĩ hết những chỗ Như Lai đã trải qua và không thể tìm hết cội nguồn của nó. Như Lai thâm nhập hết tất cả các pháp nghĩa, quán sát biết tất cả tâm niệm của chúng sinh trong thế gian, thông suốt đến chỗ tận cùng, phân biệt tất cả. Như Lai làm cho mọi người hiểu rõ trí tuệ phương tiện, khuyến khích và an lập cho tất cả chúng sinh đến giải thoát và hiển bày trí tuệ rộng lớn khiến cho chúng sinh thâm nhập tuệ giác của Phật.
Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi ấy có các cây cỏ thuốc, tre lau, rừng cây lớn nhỏ, gốc rễ, cành, nhánh, hoa, trái, bao nhiêu giống loại màu sắc khác nhau đều sinh ra trên đất hoặc trên núi cao, hoặc giữa ghềnh đá, gò nổng, suối, khe, hang… Khi ấy một trận mưa lớn nhuần thấm khắp các cỏ cây, vườn rừng, tùy theo giống loại của mỗi cây mà tất cả đều phát triển tươi tốt. Những ai không tin tưởng, kính ngưỡng Như Lai cũng đều được như thế. Nước mưa cùng một loại rơi khắp cõi Phật, tất cả đều được sinh trưởng trên đất ấy như nhau không khác.
Đức Như Lai Chánh Giác giảng nói pháp sâu xa cũng như trận mưa lớn. Đấng Đại Thánh xuất hiện ở thế gian là vì tất cả chư Thiên, Nhân dân, A-tu-luân, Quỷ, Thần, Rồng. Như Lai hiện ra oai thần rực rỡ tràn khắp cõi nước, ngay trong hiện tại trước chúng, xướng lên âm thanh lớn, dùng trí tuệ phân biệt giáo nghĩa, bằng tiếng oai hùng như sư tử mà tuyên bố lời này:
– Ta là Đấng Như Lai sẽ làm cho chư Thiên, nhân dân trên trời hay khắp nhân gian, người chưa được độ sẽ được độ, người chưa giải thoát sẽ được giải thoát, người chưa an sẽ được an, người chưa chứng Niết-bàn sẽ làm cho chứng Niết-bàn. Đời hiện tại và các đời sau Như Lai đều biết đúng như thật. Như Lai dùng trí tuệ toàn giác có thể thấy khắp tất cả, độ người đáng độ, giải thoát người đáng giải thoát, làm cho an những người chưa an. Ai chưa được Niết-bàn, Như Lai làm cho được Niết-bàn, khiến cho tất cả đến đây nghe Như Lai thuyết pháp.
Khi ấy hàng Trời, Người, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… tất cả vân tập đến chỗ Đức Thế Tôn đang giảng pháp nghĩa. Phật là Đấng chánh dẫn đạo, phân biệt rõ ràng con đường tuệ giác.
Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp:
– Bấy giờ có vô số ngàn muôn ức loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Như Lai thấy rõ tất cả căn cơ của họ nên dung sức đại tinh tấn mà thuyết pháp, dùng vô lượng lời lẽ phân biệt rõ ràng, dạy bảo khắp các chúng sinh, khiến cho họ không mất bản tâm, được an lành vui vẻ không có tai họa, hoặc được giải thoát ngay trong đời này, đời sau được sinh chỗ an lành tùy theo ý thích của họ, mỗi người đều được sinh một cách tự nhiên. Nếu có người quen tuân theo ái dục thì Như Lai vì họ thuyết kinh, hoặc khiến họ nghe nhận giáo pháp, xa lìa các nghiệp tham, chuyển dần theo con đường trí tuệ Như Lai. Nhờ theo bản lực vô lượng như trên với tâm kiên cố nên họ thành tựu pháp thân bình đẳng. Giống như cơn mưa lớn, khắp cõi nước Phật đều được thấm nhuần nuôi dưỡng, sinh trưởng bình đẳng không sai khác.
Đức Như Lai giảng nói pháp một vị cũng như vậy, đưa đến vị giải thoát, xa lìa ái dục, đạt đến Niết-bàn, đi vào trí tuệ toàn giác. Hoặc có người nghe và thọ trì, đọc tụng, vâng giữ giáo pháp Như Lai mà họ lại không tự tỉnh thức, không quán niệm. Vì sao?
Đó là do chủng loại và căn tánh khi xưa của những chúng sinh ấy. Theo chỗ nhớ nghĩ của họ, đã nghĩ, đang nghĩ có thể làm những việc gì; những việc đã làm, đang làm và sẽ làm. Theo các nhân duyên ấy mà sẽ đạt đến đâu và cần phải nói thế nào, chỉ có Như Lai mới thấy biết hết sự việc trên ở nơi nào và cõi nào. Như nước mưa bình đẳng nhuần thấm cỏ thuốc trong rừng; các loại cỏ thuốc màu trắng, đen, xanh, đỏ, cao, vừa, thấp.
Đức Thế Tôn đối với các hạng chúng sinh đều hiện chỉ một vị, đưa họ vào vị giải thoát, cho đến Niết-bàn, độ những người chưa độ, đến Niết-bàn cứu cánh, làm cho họ đạt đến cùng một cõi, cùng một pháp vị, tâm không còn sợ hãi và được giải thoát. Như Lai giáo hóa làm cho chúng sinh được tin ưa. Ngài bảo bọc, nuôi dưỡng, che chở, khiến chúng sinh đạt đến trí tuệ thông suốt. Như Lai ca ngợi, phân tích rõ ràng, kiến lập giáo pháp của đấng Hiền thánh cũng như những điều vừa rồi Ca-diếp đã nói.
Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ:
Ta xuất hiện thế gian
Làm vua pháp nhân hòa
Vì chúng sinh thuyết pháp
Theo chỗ họ tin ưa
Ý mạnh mẽ oai hùng
Kiên trì phân biệt nói
Nhiều chúng sinh thọ trì
Chẳng vội giảng cho họ
Trí tuệ Phật khó hiểu
Nếu người thiếu trí nghe
Sẽ sinh lòng hoài nghi
Liền bỏ mất lòng tin
Tùy theo cảnh giới nói
Theo sức chúng kham nhận
Lại dạy các pháp lợi
Vì chúng hiện chánh pháp
Ví như vầng mây đen
Nổi lên trên hư không
Mưa khắp thế giới Phật
Che phủ khắp đất đai
Phóng chớp sáng chói lòa
Hơi nước tỏa xung quanh
Tiếng sấm lớn vang rền
Muôn loài đều hoan hỷ
Nhật nguyệt bị che khuất
Trừ nóng được mát mẻ
Vì trời sắp đổ mưa
Mây giăng khắp bầu trời
Trận mưa đó khắp cùng
Tuôn xuống nhiều vô lượng
Mưa chan hòa cõi Phật
Khắp nơi đều ướt đẫm
Đúng thời mưa tuôn tràn
Đại địa đều nhuận thấm
Suối khe đang khô cạn
Tất cả được tràn đầy
Nhờ trận mưa thấm nhuần
Các nguồn đều tràn dâng
Nơi đồng trống hang sâu
Cây cối trong rừng vắng
Nẩy mầm non xanh tốt
Vô số cỏ thuốc sinh
Tất cả các giống cây
Lớn nhỏ đều tăng trưởng
Cỏ thuốc mọc xanh tươi
Cây cành nhiều hoa quả
Tùy tánh loại của chúng
Tất cả được thấm nhuần.
Các cây đại thọ
Rễ bám đất sâu
Mọc nơi hiểm trở
Và sống trong đó
Như các tà đạo
Tất cả ngu si
Lớn thêm trói buộc
Như voi bị xích
Gai gốc, cỏ cây
Lúa mạ, lau sậy
Gốc thân, cành lá
Và các hoa quả
Cây trái sum suê
Được nhiều lợi ích
Đội ân mưa xuống
Cỏ thuốc lớn dần
Theo từng giống loại
Do trận mưa đó
Đều được thấm nhuần
Đói khát no đủ
Tùy theo giống trồng
Mỗi loại mỗi khác
Nhưng lúc mưa xuống
Đều thuần một vị.
Này Đại Ca-diếp!
Phật cũng như vậy
Hiện ra nơi đời
Ví như trời mưa
Rưới đều khắp cả
Vì chúng thuyết pháp
Đem hạnh chân thật
Giáo hóa chúng sinh.
Phật nói pháp ấy
Khiến mọi người nghe
Ở trước chư Thiên
Nhân dân khắp chốn,
Phật là Như Lai
Đấng Lưỡng Túc Tôn
Khéo dùng phương tiện
Giống như trận mưa
Ta làm no đủ
Tất cả quần manh
Những kẻ ngu si
Thân hình khô gầy
Trừ các khổ nạn
Được an ổn lớn
Thiêu hết ái dục
Đạt đến Niết-bàn
Chư Thiên, nhân loại
Đều nghe ta nói
Tất cả nên đến
Chỗ Phật Đại Thánh
Ta là Như Lai
Bậc không ai sánh
Điều ngự giáo hóa
Nên hiện trong đời
Vì tất cả người
Phân biệt thuyết kinh
Hóa độ muôn ngàn
Chúng sinh vô số
Phật lại diễn bày
Bao nhiêu giáo nghĩa
Thường hành bình đẳng
Không có bỉ tử
Đạt đến giải thoát
Diệt độ Niết-bàn
Hoặc trước cửa nhà
Thuyết pháp kinh điển
Đó là tạo lập
Kho tàng đạo đức
Dầu cao dầu thấp
Đều dạy như nhau
Không có ghét yêu
Dứt trừ ái dục
Ta chưa từng nói
Những lời vô ích
Chưa từng ghét ganh
Các duyên phóng dật
Dùng tất cả pháp
Thuyết cho mọi loài
Nếu như chúng sinh
Nhiều không tính kể
Vì giảng kinh lớn
Không trái nhân duyên
Đi chậm hay nhanh
Hoặc đứng tại chỗ
Hay là ngồi yên
Vẫn luôn thiền định
Ví như rồng chúa
Mưa thấm nhuần nhiều
Thấm ướt cùng khắp
Tất cả thế gian
Hiện khởi mây tuệ
Tuôn xuống mưa pháp
Xướng lên vi diệu
Tùy bệnh cho thuốc
Luôn vì chúng sinh
Thuyết pháp Thánh hiền
Khiến đều giữ giới
Như trời che mát
Những kẻ nói sai
Các hạnh sai trái
Muốn tiến gần pháp
Điều phục dần dần
Những kẻ hồ nghi
Bỏ các tà kiến
Khuyên dạy lợi ích
Thấy chốn an lạc
Bỏ chỗ hạ liệt
Xa lìa biếng nhác
Tùy ý nguyện họ
Mà khiến vào đạo
Đúng thời chỉ dạy
Khiến đều xả bỏ
Tâm niệm sai quấy
Thuận theo hạnh Phật
Chư Thế Tôn dạy
Rưới mưa pháp kinh
Làm cho đạt đến
Phật đạo tôn quý
Tùy sức chúng sinh
Khiếu được nghe nhận
Bao nhiêu đạo tuệ
Hóa lập pháp mầu
Trời người theo đó
Chí tánh an lạc
Phạm vương, Đế Thích
Chuyển luân thánh vương
Cũng giống như đây
Các thế giới nhỏ
Các loại cỏ thuốc
Mỗi loại khác nhau
Nhỏ nhoi thấp ngắn
Dược thảo như vậy
Ca-diếp hãy nghe
Ta sẽ nói hết,
Dùng tuệ nhận biết
Rõ pháp vô lậu
Chứng được Niết-bàn
Dạo chơi đến chốn
Ba minh, sáu thông
Cũng lại như vậy.
Trận mưa định ý
Cỏ thuốc Tam-muội
Hoặc có đi đến
Ở chốn núi rừng
Người này thành tựu
Bậc Duyên giác thừa
Người đó tu thiền
Sống hạnh thanh tịnh
Đó mới gọi là
Cỏ thuốc bậc trung.
Nếu như chí nguyện
Cầu đức Thượng sĩ
Ta sẽ ớ đời
Thành Đấng Đạo Sư
Thường hành tinh tấn
Thiền định nhất tâm
Đó mới gọi là
Cỏ thuốc bậc thượng.
Giả sử có người
Muốn tâm an trụ
Cứu giúp Từ bi
Sống nơi vắng lặng
Chóng được thành đạo
Làm Đấng Trung Tôn
Gọi đó cây lớn.
Là ví dụ này
Có thể tuyên thuyết
Pháp không thoái chuyển
Kiến lập thần túc
Thực hành căn lực
Trưởng dưỡng duyên này
Thuốc thang trừ bệnh
Hùng sự độ thoát
Vô số ức người
Tùy thời thị hiện
Trong Phật đạo ấy
Đó chính gọi là
Rừng cây lớn nhất.
Ta vốn tùy thuận
Khéo dung phương tiện
Tất cả chư Phật
Cũng đều như thế
Giảng pháp tối thắng
Là pháp bình đẳng,
Giống như mây lành
Tuôn mưa khắp chốn
Vô ngại thần thông
Phật dùng dụ này
Ví như cỏ thuốc
Cùng mọc trên đất
Để họ được thấy
Nghĩa pháp vi diệu
Như Lai đã lập
Dùng phương tiện khéo
Ví dụ phân tích
Pháp sự toàn diện
Cũng như trận mưa
Tưới mọi cỏ thuốc.
Phật dùng mưa pháp
Rưới khắp thế gian
Được nhiều an ổn
Thành tựu khắp cả,
Quán sát mỗi người
Khả năng kham nhận
Giáo pháp Phật dạy
Đều cùng một vị.
Ví như mưa rơi
Núi, ghềnh, cây cỏ
Và nơi khoảng giữa
Không có khác nhau,
Rưới ướt cây cối
Khắp cả rừng già
Mây dày bốn phía
Đầy tất cả cõi.
Giả sử thế gian
Hành pháp từ mẫn
Nên dùng kinh này
Đầy khắp thiên hạ,
Chỉ dạy cho đời
Khiến đều an ổn
Trời mưa cỏ thuốc
Hoa trái sum suê,
Các cỏ thuốc ấy
Dần dần lớn lên
Đó là La-hán
Các lậu đã hết.
Các hàng Duyên giác
Ở nơi rừng rậm
Pháp ta nói ra
Không có trần cấu,
Vô số Bồ-tát
Trí tuệ thấu đạt
Khắp cả ba cõi
Tất cả thực hành,
Ở trong chúng hội
Diễn đạo lớn này
Giống các cây kia
Ngày thêm lớn tốt,
Tiến tu Thần túc
Chuyên đạt Tứ thiền
Hoặc nghe Không tuệ
Tâm liền giải thoát,
Phóng hào quang sáng
Vô số ức ngàn
Đó là cây lớn
Mà lại thắm tươi.
Hoặc các Thanh văn
Chưa đạt Niết-bàn
Thế Tôn vì họ
Thuyết pháp cao tột,
Hoặc đem phân biệt
Thuyết giảng pháp này
Giống như mây nổi
Mưa xuống các cây,
Dần dần thêm lớn
Các cây cỏ thuốc
Hoa của mọi người
Nhiều không kể hết
Giữa ngay lúc ấy
Thuyết pháp nhân duyên
Mà vì mọi người
Hiện nơi Phật đạo
Tạm dùng phương tiện
Thuyết giảng giáo pháp
Tất cả Đạo sư
Cũng lại như vậy.
Thuyết giáo pháp này
Là pháp bậc nhất
Các chúng Thanh văn
Đều phải phụng trì
Thực hành duyên đây
Sẽ được hạnh Phật
Các La-hán này
Như thế không khác
Thế Tôn diễn nghĩa
Cứu cánh nơi đây
Giáo hóa Tiểu thừa
Đều được Phật đạo.
Đức Phật lại bảo Tôn giả Đại Ca-diếp:
– Như Lai giáo hóa, chỉ dạy bình đẳng không thiên lệch. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thiên hạ, ánh sáng ấy không chọn lựa chỗ nào nên chiếu và chỗ nào không nên chiếu, dù là cao, thấp, sâu, cạn, xấu, đẹp, thơm, hôi… đều chiếu soi như nhau không khác.
Đức Phật cũng như thế, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh trong năm đường sinh tử, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, trí tuệ ấy không tăng giảm, mỗi chúng sinh tùy theo sự giác ngộ của tâm mình mà tự đạt đạo. Vốn không có ba thừa, do hạnh nguyện mà đưa đến như vậy.
Tôn-giả Ca-diếp bạch Phật:
– Nếu không có ba thừa, làm sao có được bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát?
Đức Phật dạy:
– Ví như người thợ gốm dùng đất dẻo làm đồ vật đựng, hoặc đựng mật cam lồ, hoặc đựng bơ sữa, dầu mè, hoặc đựng rượu ăn uống… Đất bùn tánh chất nó như nhau nhưng khi làm đồ vật khác nhau thì chỗ dùng cũng không giống nhau. Pháp giải thoát cũng như vậy, bình đẳng không sai khác. Tùy theo chỗ thực hành của mỗi người mà thượng, trung, hạ có khác nhau.
Tôn-giả Ca-diếp lại thưa:
– Bạch Thế Tôn! Giả sử khác nhau nhưng cứu cánh có giống nhau chăng?
Đức Phật dạy:
– Sẽ giống nhau nhưng chỉ có người giác ngộ mới hiểu rõ việc này. Ví như có người sinh ra đã bị mù, không thấy được năm sắc, mặt trời, mặt trăng và mười phương. Người ấy cho rằng thiên hạ không có mặt trời, mặt trăng, năm sắc, tám phương và phương trên, phương dưới. Có người giải thích, người ấy vẫn không tin. Giả sử có vị lương y xem thấy nguyên nhân căn bệnh của người ấy: “Vì sao người ấy không thấy? Là do khi xưa vị ấy đã tạo tội nên nay mắt mù tối không thấy được ánh sáng, thân thể bị bệnh nặng. Thế nào gọi là bệnh nặng? Đó là bốn chứng bệnh phong, hàn, nhiệt, tích.”
Vị lương y thầm nghĩ: “Bệnh trạng của người này cho dù dung các dược liệu cũng không thể chữa khỏi. Trên Tuyết sơn có loại thuốc có thể trị được bốn bệnh ấy. Một là Hiển, hai là Lương, ba là Minh, bốn là An; đó là tên của bốn vị thuốc.
Lúc ấy vị lương y vì thương xót người bệnh, bày ra phương cách liền vào núi Tuyết hái bốn loại thuốc đem hợp lại rồi ngâm, giã, dùng để trị cho người mù mắt kia được sáng trở lại. Vị lương y lại châm cứu, tiêu tức, bổ tả, làm cho người mù sáng mắt, trong ngoài đều thấy rõ. Người ấy thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, năm sắc, mười phương, khi ấy ông ta mới thật tin liền tự trách mình: “Ta thật là mù lòa, đã không thấy nghe mà tự cho rằng mình đã thông đạo.- Nay mắt thấy được mới tự biết rằng trước đây đã bị sự ngu si che phủ, nay đã thấy được xa gần, cao thấp, ta không còn lầm lẫn.”
Khi ấy có vị Tiên nhân sống nơi vắng vẻ, có năm phép thần thông, thấy nghe xuyên suốt khắp cả và thân có thể bay đi, tâm có thể biết ý nghĩ người khác, tự biết nguồn gốc sinh tử từ trước đến nay. Vị Tiên nhân bèn nói rõ cho người kia:
– Ngươi chớ kiêu căng, tự cao cho rằng mình đã thấu đạt. Vì người ở trong nhà đóng cửa, không ra ngoài nên không biết mọi sự bên ngoài được. Ngươi không biết người khác nghĩ tốt xấu về mình, cũng không thể thấy xa được năm dặm mười dặm. Các tiếng nói hay tiếng trống đánh cách xa hai mươi dặm còn không thể nghe, trong gần mười hai dặm tự thân ngươi không thể đi bộ nổi, cũng không thể đạt được đến chỗ tự nhớ lại, thấy được lúc chưa sinh, còn ở trong thai, cũng không thể biết được. Ngươi thông đạt điều gì mà tự cho là thấy biết tất cả? Nay ta thấy ngươi thật là kẻ ở trong tối cho là sáng, ở trong sáng cho là tối.
Người kia hỏi:
– Phải làm cách nào để được Thánh trí ấy? Xin ngài rủ lòng ban cho lời dạy bảo.
Vị Tiên nhân đáp:
– Ngươi phải vào núi sâu sống một mình nơi thanh vắng, trừ hết các dục tình, lúc ấy mới đạt được.
Người ấy tuân lời vị Tiên nhân dạy, bỏ nhà vào chốn núi non, nhất tâm chuyên ròng không đắm say dục lạc, chứng được thần thông tự giác ngộ, quán sát những điều đã thấy không thể dung ngôn từ để gọi được. Khi đã được năm phép thần thông, không có chỗ ngăn ngại mới tự biết sở kiến xưa kia của mình bị tối tăm che phủ.
Đức Phật dạy:
– Ta sẽ giải rõ ví dụ này. Con người sống trong năm đường ấm, cái sinh tử, chẳng rõ bản vô thì gọi là si, từ si đưa đến hành, từ hành đưa đến thức, từ thức đưa đến danh sắc, từ danh sắc đưa đến lục nhập, từ lục nhập đưa đến xúc, từ xúc đưa đến thọ, từ thọ đưa đến ái, từ ái đưa đến thủ, từ thủ đưa đến hữu, từ hữu đưa đến sinh, từ sinh đưa đến lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn. Các tội tích tụ cho nên gọi là mù tối. Chính vì thương xót những người này bị trôi lăn trong ba cõi không dừng nghỉ không thể tự cứu vớt, nên Thế Tôn quán sát nguồn tâm của chúng sinh thấy có người bệnh nặng có kẻ bệnh nhẹ; có người nhiều trần cấu, có kẻ ít trần cấu; có người dễ giải thoát, có kẻ khó giải thoát; có người thấy xa, có kẻ thấy gần, phát tâm Bồ-tát đến không thoái chuyển, không còn sinh tử, đạt đến Phật quả, giống như người có mắt được làm Thần tiên. Vị lương y đó chính là Như Lai vậy.
Người không phát đại Bồ-đề tâm gọi là sống mù. Tham, dâm, sân hận, ngu si, sáu mươi hai tà kiến gọi là bốn bệnh. Không, Vô tướng, Vô nguyện, hướng đến cửa Niết-bàn gọi là bốn thứ thuốc. Thuốc làm cho khỏi bệnh thì không có si, hành, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn, tất cả đều được đoạn trừ. Chí không trụ thiện, cũng không trụ ác, như người mù hai mắt được sáng trở lại gọi là Thanh văn, Duyên giấc đã đoạn sinh tử, vượt khỏi ba cõi, thoát khỏi năm đường, tự biết rõ đã thông đạt, không bị nhầm lẫn. Lúc muốn diệt độ, có Phật thị hiện ra trước, đem chánh pháp giảng dạy khiến họ phát tâm Bồ-tát, không ở nơi sinh tử, chẳng trụ Niết-bàn, hiểu rõ nghĩa không trong ba cõi; tất cả các pháp hiện hữu trong mười phương như huyễn như hóa, như giấc mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang trong núi thẳm; tất cả đều không sở hữu, không có gì hy vọng, không thủ không xả, không tối, không sáng. Khi ấy họ mới thấy sâu xa, không có gì là không thông đạt, thấy được các pháp chưa từng thấy, hiểu biết rõ nguồn gốc sinh khởi của tất cả của chúng sinh.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên:
Ví như ánh mặt trời
Tỏa chiếu khắp muôn nơi
Ánh sáng không tăng giảm
Cũng không chọn tốt xấu.
Như Lai cũng như vậy
Trí tuệ như trời, trăng
Hóa cùng mười phương cõi
Cũng không có giảm tăng.
Như người thợ gốm kia
Nhào nặn đất làm đồ
Hoặc đựng mật cam lộ
Hoặc đựng dầu ăn, sữa
Vốn từ một chất đất
Thành vật dụng khác nhau
Nhưng chỗ dùng không khác
Vì chỗ đựng đặt tên.
Người vốn cũng như vậy
Không ba cõi năm đường
Theo hành nghiệp đọa sinh
Luân hồi không tự biết.
Rõ “Không” gọi Bồ-tát,
Bậc trung là Duyên giác
Chấp không, tuệ chưa giải
Thì gọi là Thanh văn.
Ví như người mù mắt
Không thấy ánh trời trăng
Năm sắc và mười phương
Cho rằng đời không có
Lương y xét nguyên nhân
Thấy bốn bệnh che lấp
Tự mẫn thương xót họ
Vào núi tìm thuốc thang
Hái thuốc hay diệu kỳ
Tên hiển, lương, minh, an
Ngâm, giã, hòa hợp lại
Để trị cho người mù
Gia giảm thêm châm cứu
Bệnh khỏi, mắt thấy sáng
Thấy trời, trăng, năm sắc
Mới biết mình tối ngu
Người không rõ tánh không
Đọa mãi đường sinh tử
Mười hai duyên buộc ràng
Không rõ nguyên nhân bệnh
Thế Tôn hiện ra đời
Quán sát gốc ba cõi
Tùy nhân sinh ra bệnh
Mà khai hóa tất cả
Rõ “Không” là Bồ-tát
Ý thấp là Duyên giác
Chán sợ khổ sinh tử
Nên rơi vào Thanh văn
Tự cho đạo đức cao
Không thể tự hiểu rõ
Người thấy được cứu cánh
Không có lo chướng ngại
Giống như vị Tiên nhân
Có đủ năm thần thông
Thương xót bảo người kia
Ngươi chấp chặt ngăn che
Không hiểu rộng sâu xa
Nơi tối cho là sáng
Ở trong không thấy ngoài
Tuy sáng cũng là tối
Vài mươi dặm có tiếng
Tai không thể nghe được
Hoặc người muốn ách hại
Không biết ý họ nghĩ
Muốn đến ngoài vài dặm
Phải đi bộ mới đến
Hoặc khi sinh lớn lên
Không biết việc trong thai
Rõ năm việc trong ngoài
Lúc ấy mới thông đạt
Sao lại sanh kiêu ngạo
Tự cho mình hơn hết
Người muốn được ngũ thông
Phai ở nơi thanh vắng
Chuyên tinh nghĩ nhớ đạo
Khi liễu ngộ pháp này
Phụng trì lời Phật dạy
Bỏ nhà vào núi sâu
Nhất tâm không nghĩ xấu
Liền đạt đến Thần tiên
Nếu đạt đến Thanh văn
Và được Duyên giác thừa
Tự cho tuệ đầy đủ
Bằng Niết-bàn chư Phật
Khi sắp muốn diệt độ
Phật liền đứng phía trước
Vì hiện pháp Bồ-tát
Tam đạt vô quái ngại
Tuệ giác đến vô cùng
Khéo tạm dùng phương tiện
Đạt Không, Vô tướng nguyện
Bồ-tát do đó sinh
Bốn Đẳng tâm, bốn ân
Đem khai hóa chúng sinh
Rõ tất cả như hóa
Như mộng, huyễn, sóng nắng
Như tiếng vang, thân chuối
Ba cõi không sở hữu
Không giữ cũng không bỏ
Không tối cũng không sáng
Không sinh tử Niết-bàn
Bình đẳng như hư không
Thấy cũng chẳng phải thấy
Mới thấy được tất cả
Cái nhìn ngay lúc ấy
Không phân biệt Tam thừa
Tất cả đều bình đẳng
Cứu giúp không hạn lượng.
***
Phẩm 6: THỌ KÝ CHO HÀNG THANH VĂN
Lúc bấy giờ, khi nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo tất cả các vị Tỳ-kheo:
– Ta nay nói rõ, các vị Thanh văn kia cũng như Đại Ca-diếp đã từng cúng dường ba ngàn ức Đức Phật, nay sẽ phải cúng dường số lượng chư Phật như trước đây, tôn kính phụng thờ chư Phật Thế Tôn, nhận lãnh chánh pháp, vâng giữ tu tập. Sau khi cúng dường chư Phật ấy xong sẽ được thành Phật, cõi ấy tên là Hoàn minh, kiếp ấy tên là Hoằng đại. Đức Phật khi đó hiệu là Đại Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu, trụ thế mười hai trung kiếp.
Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời hai mươi kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi kiếp. Cõi nước của Phật ấy rất thanh tịnh, không có gạch ngói, gai góc, các thứ ô uế, núi non, hầm hố, vô cùng tịnh lạc, đất bằng lưu ly, cây bằng các thứ báu, dây bằng vàng ròng giăng mắc trên các hàng cây, có tám con đường giao nhau. Các cội cây báu thường trổ hoa báu, luôn sum suê tươi đẹp. Có vô số trăm ngàn muôn ức các vị Bồ-tát trong cõi ấy, số Thanh văn cũng thật vô lượng. Cõi ấy không có các việc ác và quan thuộc, các loài quỷ đều luôn tinh tấn theo hộ trì Phật pháp không hề trái phạm.
Lúc ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ:
Ta thấy Tỳ-kheo
Bằng Tuệ nhãn Phật
Ca-diếp hiện nay
Sẽ được thành Phật.
Ở đời vị lai
Vô số ức kiếp
Cúng dường chư Phật
Bậc Thánh Trung Tôn
Viên mãn đầy đủ
Ba ngàn ức Phật
Ma-ha Ca-diếp
Các lậu đã tận,
Tu tập trọn vẹn
Công hạnh ba phẩm
Sẽ được thành Phật.
Ông thân cận pháp
Cúng dường chư Phật
Tôn sư trời, người
Tích lũy hạnh lành
Sẽ thành Phật quả
Tối tôn, tối thượng
Bậc không sánh kịp
Là Đại Đạo Sư
Là bậc Đại Thánh.
Cõi nước Phật kia
Bậc nhất tối thắng
Thanh tịnh ly cấu
Bao nhiêu điềm lành
Tùy theo mong cầu
Đều được toại nguyện
Đất màu vàng tía
Vật báu trang nghiêm
Lại có các cây
Đều bằng trân bảo
Đường xá trang nghiêm
Thẳng phân tám nẻo
Trời, người tán hương
Khắp nơi thơm ngát
Cõi nước khi ấy
Sẽ được như vậy
Bao nhiêu loại hoa
Giăng mắc trang hoàng
Tất cả loài hoa
Sắc màu vàng tía
Tỏa sáng ngân thanh
Dùng làm pháp tắc
Thường luôn vi diệu
Chưa ai từng thấy.
Các chúng Bồ-tát
Vô số ngàn muôn
Tâm chí an định
Có sức đại thần,
Các chúng Thánh trí
Theo kinh Đại thừa
Số không thể tính
Muôn ức trăm ngàn,
Tuyệt không các lậu
Bền chí vâng giữ
Có chúng Thanh văn
Pháp Phật tối thắng
Nếu dùng Thiên nhãn
Muốn tính suy lường
Số chúng đệ tử
Quyết không thể được.
Phật ấy trụ đời
Mười hai trung kiếp
Chánh pháp sẽ trụ
Hai mươi trung kiếp;
Tượng pháp cũng trụ
Số kiếp như trên
Phật Đại Quang Minh
Công đức như thế.
Lúc ấy các vị Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên… đồng lòng đứng lên cúi đầu chiêm ngưỡng dung nhan rực rỡ của Đức Phật, mắt không lay động, thành kính lễ sát chân Đức Phật. Tất cả đều đọc kệ tán thán:
Bậc Đại Hùng vô nhiễm
Đấng Thích Vương đại Từ
Đã xót thương chúng con
Tuyên nói khen hạnh Phật.
Phật nay biết chúng con
Xin thương truyền thọ ký
Được gặp pháp cam lộ
Tắm gội trong pháp âm;
Ví như kẻ đói khát
Được thức ăn thượng vị
Nghèo túng đang van cầu
Bỗng có người cho ăn.
Chúng con đều hoan hỷ.
Chúng con chí thấp hèn
Trái thời bỏ mọi người
Nên không được thọ ký,
Không tin trí Đẳng giác
Nên Phật không truyền trao
Nay chúng con ở đây
Đều không còn đói khát,
Thấy Thế Tôn khuyến phát
Được nghe pháp chí tôn
Chỉ mong được thọ ký
Thì mới được đại an.
Nguyện Thế Tôn giải nghi
Lân mẫn đại Từ bi
Thương hạnh tâm kém hèn
Pháp cam lộ dạy chúng.
Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn Trưởng lão, liền bảo chúng Tỳ-kheo:
– Các Tỳ-kheo nên biết! Vị đại Thanh văn Trưởng lão Tu-bồ-đề này sẽ theo hầu cận, cúng dường tám ngàn ba mươi ức trăm ngàn muôn Đức Phật, ở chỗ chư Phật tu tập phạm hạnh, tích lũy đầy đủ trọn vẹn công đức, sau đó trong tương lai sẽ được thành Phật, được xưng tụng hiệu là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp ấy tên là Bảo âm. Khắp nơi trong cõi nước của Đức Phật ấy đều có các loại cây báu tự trang nghiêm, không có cát sỏi, gạch đá, núi hầm, hang hố. Các hàng cây đều phát ra âm thanh từ bi, hòa nhã. Nhân dân trong nước ấy giàu có vô lượng, nhà cửa, phòng xá, lầu gác nhiều vô số. Số chúng Thanh văn cũng nhiều vô lượng không thể tính đếm cho hết được và đều là bậc đã chứng được Túc mạng thông. Bồ-tát trong nước ấy cũng đông trăm ngàn muôn ức, vô lượng không thể tính đếm. Đức Phật ấy sẽ trụ đời mười hai trung kiếp. Sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp. Đức Phật sẽ an tọa trên hư không vì tất cả chúng sinh giảng nói kinh pháp, khai hóa cho vô số trăm ngàn Bồ-tát.
Khi đó Đức Thế Tôn nói kệ:
Nay ta nói rõ
Các vị Tỳ-kheo
Đều nên lắng nghe
Lời Phật tuyên dạy.
Ông Tu-bồ-đề
Là đệ tử ta
Ở trong tương lai
Sẽ được thành Phật,
Gặp chư Thế Tôn
Tâm ý chí thành
Đầy đủ ba mươi
Muôn ngàn Đức Phật,
Sẽ ở thế gian
Huân tu đạo hạnh
Chí luôn mong cầu
Tuệ giác Như Lai.
Ở thời vị lai
Công hạnh viên mãn
Nhan sắc diệu kỳ
Ba mươi hai tướng
Rực rỡ tươi đẹp
Sắc thân vàng tía
Kiếp ấy trong lành
Tâm luôn Từ mẫn,
Cõi nước an vui
Hiện lên điềm lành
Muôn dân trông thấy
Khả ý vui mừng
Đều cùng nhau đi
Đến chỗ Đức Phật
Chúng sinh được độ
Vô lượng vô số,
Các chúng Bồ-tát
Không thể tính kể
Tâm đều giải thoát
Không còn thoái chuyển.
Nghe pháp tối diệu
Các căn thông lợi
Đều sẽ thuận kính.
Cõi nước Phật ấy
Số chúng Thanh văn
Thật đông vô lượng
Muốn biết hạn số
Tuyệt không thể được
Lục thông, tam đạt
Có đại thần túc
Giải thoát vô ngại
Đã được an ổn
Sức thần thông đó
Không thể nghĩ bà n
Nếu Phật giảng bày
Pháp bảo chư Phật
Trời, người đông đảo
Như cát rạch sông
Sẽ luôn chắp tay
Tư quy y Phật.
Phật ấy trụ đời
Mười hai trung kiếp
Chánh pháp sẽ trụ
Hai mươi trung kiếp,
Tượng pháp trụ thế
Số cũng như trên
Đấng Đại Hùng Sư
Việc đó như vậy.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các vị Tỳ-kheo:
– Các Tỳ-kheo muốn biết chắc thật việc trong tương lai thì cần phải tin tưởng vào trí phân biệt bình đẳng của Như Lai. Đại Ca-chiên-diên, vị đệ tử Thanh văn này của ta, trong tương lai sẽ theo hầu hạ, cúng dường tám ngàn ức Đức Phật. Sau khi mỗi Đức Phật diệt độ sẽ xây dựng tháp cao bốn vạn thước, mỗi tháp dài rộng hai vạn thước, đều dùng các thứ báu vật như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc bích để tạo nên, dùng các thứ hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ lọng để cúng dường.
Sau khi ông đã cúng dường xong lại phải cúng dường hai mươi ức Đức Phật rồi sẽ thành Phật, có hiệu là Tử Ma Kim Sắc, Như Lai Đẳng Chánh giác, Mình Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh, bằng phẳng, không có các điều xấu ác, danh tiếng đồn khắp, dùng lưu ly làm đất. Vô số các loại cây có các thứ báu vật như dây báu, gấm lụa màu vàng óng giăng mắc để trang hoàng. Hoa của các cây ấy luôn nở sum suê, tươi tốt đầy khắp nơi. Cõi Phật ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chỉ có chư Thiên và loài người số đông vô lượng, lại có vô số trăm ngàn muôn ức Thanh văn và Bồ-tát để trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật ấy sẽ trụ ở đời mười tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp.
Khi đó Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Các vi Tỳ-kheo
Đều nên lắng nghe
Thanh âm Phật ấy
Nhu nhuyễn tốt lành.
Ông Ca-chiên-diên
Đệ tử của ta
Sẽ cúng dường Phật
Vô số Đạo Sư
Tôn kính phụng thờ
Kính thành vô lượng
Trong vô số kiếp
Không thể tính đếm.
Chư Phật diệt độ
Xây dựng tháp thờ
Dùng hương và hoa
Cúng dường tháp Phật
Sau đó tương lai
Sẽ được thành Phật
Cõi nước trong lành
Không có dơ uế
Giáo hóa giảng dạy
Vô số chúng sinh
Mở bày hướng đạo
Cho khắp mọi người
Cõi ấy trang nghiêm
Mười phương tỏa sáng
Ông sẽ thành Phật
Dùng dụ giảng bày
Hiệu Tử Kim Sắc
Uy đức sáng ngời
Độ thoát chúng sinh
Trăm ngàn muôn ức
Vô số Bồ-tát
Và chúng Thanh văn
Đầy khắp cõi Phật
Số đông vô kể
Thường tu tinh tấn
Trong pháp của Phật
Đoạn trừ các ác
Diệt tận họa tai.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo với bốn bộ chúng trong hội:
– Nay Thế Tôn tuyên nói ông Đại Mục-kiền-liên, vị đệ tử Thanh văn của ta, sẽ phụng thờ, cúng dường tám ngàn Đức Phật, theo hầu vô số các Đức Thế Tôn. Sau khi chư Phật diệt độ, ông sẽ xây dựng tháp thờ xá-lợi, dùng bảy món báu như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc quý tạo thành. Các tháp ấy cao bốn vạn thước, dài rộng hai vạn thước. Ông lại dùng vô số các vật báu tốt đẹp, các loại hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ phướng lọng và tấu nhạc để cúng dường tháp Phật. Sau khi cúng dường các tháp ấy xong, ông lại phải kính thờ, theo hầu cận, cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật.
Vào đời sau cùng, ông sẽ được thành Phật, có hiệu là Kim Hoa Chiên-đàn Hương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nước ấy tên là Ý lạc, kiếp ấy tên là Lạc mãn.
Thế giới của Đức Phật ấy tươi đẹp, an ổn, thanh tịnh, trong sạch. Mặt đất toàn bằng ngọc lưu ly rực sáng, cây cối hoa quả đều bằng bảy báu hợp thành. Khắp nơi đều có các loại hoa bằng ngọc quý kết thành rất trang nghiêm. Cõi nước ấy bằng phẳng, tốt đẹp, đầy đủ các thứ quý báu. Đức Phật sẽ lặng im an tọa, trú trong định Vô lượng nghĩa và vì tất cả Bồ-tát rộng giảng kinh pháp. Đức Phật ấy sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ thế bốn mươi trung kiếp, thời kỳ tượng pháp cũng như vậy.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:
Đại Mục-kiền-liên
Đệ tử của ta
Xả bỏ thân người
Cũng được tự tại,
Hai mươi vạn ức
Số kiếp như vậy
Đều sẽ cúng dường
Chư Phật, giáo pháp
Ở chỗ các Phật
Tu tập hạnh lành
Chí luôn mong cầu
Đạo của chư Phật
Theo hầu tôn kính
Chư Phật Thế Tôn
Phụng sự đầy đủ
Các Bậc Đạo Sư
Và sẽ vâng giữ
Truyền bá Thánh giáo
Trong bao nhiêu kiếp
Số ức trăm ngàn
Kính cẩn tuân hành
Không hề trái phạm.
Chư Phật Thế Tôn
Sau khi diệt độ
Ông dùng bảy báu
Xây tháp thờ Phật
Vì chư Như Lai
Kiến tạo, tu sửa
Dùng gỗ Chiên-đàn
Để làm kèo cột
Tán hương, tấu nhạc
Mà cúng dường tháp.
Ở đời cuối cùng
Việc làm đã xong
Ngôn thuyết an lành
Được người kính ngưỡng
Thương yêu chúng sinh
Việc làm như thế
Sẽ được thành Phật
Hiệu Kim Chiên-đàn
Phật ấy sẽ thọ
Hai mươi trung kiếp
Số kiếp an trụ
Đức hạnh như thế
Sẽ giảng pháp kinh
Cho chư Bồ-tát
Ở số kiếp ấy
Phân biệt thật nghĩa
Hàng Thanh văn lớn
Muôn ức trăm ngàn
Số đông vô lượng
Như cát rạch sông
Tam đạt, lục thông
Có đại thần túc
An trụ ở đời
Mà được sức diệu
Vô số Bồ-tát
Đều không thoái chuyển
Dũng mãnh tin cần
Có chí, trí tuệ
Tu hành như trên
Theo lời Phật dạy
Số ấy vô lượng
Không thể nghĩ bàn.
Phật diệt độ rồi
Đệ tử vô số
Chánh pháp sẽ trụ
Truyền khắp mười phương
Hai thời chánh, tượng
Bốn mươi trung kiếp
Chánh pháp chưa hết
Tượng pháp đã khai
Hàng chúng Thanh văn
Có thần thông lớn
Phật đều khuyến lập
Nương theo Đại thừa
Không trái pháp chân
Ở trong vị lai
Thành Phật tự tại.
***
Phẩm 7: VÃNG CỔ
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Thời quá khứ xa xưa vô lượng vô biên kiếp đã qua, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu.
Thế giới đó tên Đại thực giá, kiếp tên Sở tại hình sắc. Đức Phật ấy thuyết pháp trải qua thời gian nhiều vô lượng. Ví như đất trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có người đem nghiền nát hết đất nơi cõi Phật ấy thành ra hạt bụi nhỏ, rồi lấy một hạt bụi đi qua một ngàn thế giới Phật ở phương Đông đặt một hạt bụi, lại qua một ngàn cõi nước cũng đặt một hạt bụi. Cứ như thế đặt hết những hạt bụi trong tam thiên đại thiên thế giới khắp cõi phương Đông vô lượng cõi Phật. Ý các ông nghĩ sao? Có thể nào tính đến hết giới hạn số lượng của các cõi Phật ấy không?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch Thế Tôn, không thể tính hết được!
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Này các Tỳ-kheo! Số kiếp của Đức Phật ấy đã trải qua cũng như vậy, giống như có người đem tất cả bụi đặt ở các cõi Phật, không thể tính kể hạn lượng số bụi ở các cõi Phật kia, trăm ngàn muôn ức triệu số kiếp, phải biết từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay số kiếp càng lâu dài hơn, không thể nghĩ bàn, thật vô lượng, khó thể tính lường. Đức Đại Thông Chúng Tuệ thị hiện đạo lực, sau khi diệt độ số kiếp chánh pháp trụ thế cũng lại như vậy.
Đức Thế Tôn nói kệ:
Ta nhớ quá khứ
Vô số ức kiếp
Có đấng Như Lai
Phước trí tôn quý
Tên Đại Thông Tuệ
Hết sức nhân từ.
Khi ấy Thế Tôn
Đấng trên loài người
Ví như lấy cõi
Thế giới Phật kia
Nghiền nát tan tành
Tất cả thành bụi
Giả sử có người
Đem từng hạt bụi
Qua ngàn cõi Phật
Mới đặt một hạt
Lần lượt như thế
Khắp cõi nước Phật
Người ấy đặt bụi
Đầy khắp Phật quốc
Bao nhiêu cõi đó
Tất cả khắp nơi
Thế giới vô hạn
Không thể tính đếm
Tất cả sở hữu
Cõi nước đại Thánh
Các bụi đã có
Không thể hạn lượng
Đều đem nghiền nát
Khiến không còn thừa
Đại Thánh chí tôn
Diệt độ như đây
Phật ấy an trụ
Diệt độ hoàn toàn
Số kiếp như thế
Vô lượng ức ngàn
Nếu muốn tính đếm
Không thể nghĩ bàn
Diệt độ đến nay
Bao nhiêu kiếp số.
Đấng Đạo Sư ấy
Lâu xa đến nay
Các chúng đệ tử
Và hạnh Bồ-tát
Trí tuệ Như Lai
Cao xa vời vợi
Nay Phật đều biết
Phật đó diệt độ.
Tỳ-kheo phải biết
Trí tuệ của Phật
Tỏa sáng vô cùng
Như nhau không khác
Phật biết rốt ráo
Vô lượng kiếp qua
Vi diệu vô cùng
Pháp nghĩa vô lậu.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chánh giác thọ bốn mươi bốn ức trăm ngàn kiếp. Đức Như Lai vì đạo Vô thượng chánh chân, đầu tiên ngồi dưới cội cây trong đạo tràng, lặng im trong một kiếp, cho đến hai kiếp nhưng chẳng được Chánh giác. Đức Như Lai ngồi yên đến mười kiếp thân và tâm không dao động, thân thể không mỏi mệt cũng không nhớ nghĩ, tư tưởng vắng lặng và hướng đến các pháp, nơi đạo tràng hàng phục ma quân và sắp thành Chánh giác.
Các vị Thiên tử ở cung trời Đao-lợi hóa làm tòa Sư tử lớn, cao bốn mươi dặm. Khi Phật ngồi trên tòa này an trụ trong thiền định, các vị Thiên tử ở cõi Phạm thiên tuôn hoa trời xuống như mưa trong vòng bốn ngàn dặm, gió tự nhiên thổi lên đem các hoa thơm rải trên chỗ Phật. Đức Phật ngồi dưới gốc cây mãn mười trung kiếp, hoa trời rơi mãi khắp nơi mãn kiếp không dứt. Tứ Thiên vương và các vị Thiên tử trời các kỹ nhạc âm thanh như sấm vang rền, thường đem hoa hương, kỹ nhạc cúng dường Đấng Đại Thánh chưa từng ngưng trễ.
Này các Tỳ-kheo! Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ cho đến mười kiếp thành tựu đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác cho đến lúc diệt độ, chư Thiên cúng dường không ngớt.
Lúc Phật còn là Thái tử chưa xuất gia, Ngài có mười sáu người con, tướng tốt đoan chánh, trí tuệ không ai sánh kịp, tướng mạo nhân hòa, nho nhã tuyệt đỉnh. Khi ấy mười sáu vị vương tử, mỗi vị đều có các đồ chơi tốt đẹp và ở nơi đó thưởng ngoạn vui vẻ không thể nói hết. Các loại vật dụng đều đầy đủ đàn cầm, kỹ nhạc cũng nhiều vô lượng.
Các vị vương tử nghe vua cha thành Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Giác, lúc ấy tự nhiên có tiếng Pháp âm lớn, liền bỏ nước, bỏ ngôi Chuyển luân vương và muôn ức nhân dân, các trò vui chơi ca nhạc, có quyến thuộc vây quanh cùng vô số các bậc Thánh hiền, vua chúa đông trăm ngàn muôn ức không thể tính hết; tất cả các loài chúng sinh tụ hội rất đông đều đi theo và đến đạo tràng của Đức Phật để đầu, mong được đảnh lễ, vâng thọ lời Phật dạy. Đến nơi, mọi người đều nghiêm trang cung kính, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh Đức Phật ba vòng rồ i đứng qua một bên, dùng kệ tụng:
Đại Thông Chúng Tuệ
Bậc Tối tôn quý
Tích lũy bình đẳng
Vô lượng số ức,
Dùng nghĩa thượng diệu
Thương xót chúng sinh
Hạnh nguyện đầy đủ
Ở nơi Hiền thánh
Chuyên tu khổ hạnh
Trọn mười trung kiếp
Nhất tâm chuyên tinh
Ở nơi thiền tọa
Thân tâm thanh tịnh
Mà không dao động
Thiêu hủy khổ hoạn
Như chặt rễ cây
Nơi tâm phân biệt
Và chí sâu cạn
Chưa từng tiến thoái
Cũng không tán loạn
Không có tăng giảm
Lặng lẽ ứng hợp
Tịch định cứu cánh
Không có các lậu
Hiện tại cát tường
Luôn được an ổn
Do không chấp tưởng
Nên thành Phật đạo
Các con thấy vậy
Thêm trí vô úy
Các việc như thế
Tăng lớn đức nghĩa
Không kể thân mạng
Đều đoạn họa khổ
Tích lũy nhẫn nhục
Không tham an lạc
Đạo tuệ sáng suốt
Không còn khổ đau
Ở nơi vắng lặng
Phát khởi tinh tấn
Kẻ không kính tin
Pháp âm chư Phật
Đêm dài tối tăm
Tội đọa đường ác
Khi mất thân người
Rơi vào nẻo xấu
Bị tất cả đời
Thấy đều hủy báng.
Hôm nay được gặp
Thánh phụ thế gian
Đạo ấy tối thượng
Không có các lậu,
Ở thế gian này
Mà được cứu độ
Và các quá khứ
Đại Thánh Đạo Sư
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Này các Tỳ-kheo! Các vị đế vương và các vị thái tử ấy, các anh em thái tử đều là đồng tử, đã ca ngợi, tán thán Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Tôn Đẳng Chánh Giác. Sau khi dùng những lời êm dịu tuyên dương, ca tụng xong, các vị vương tử liền thỉnh cầu Đức Thế Tôn, xin Ngài thuyết kinh pháp, phân biệt làm cho an trụ, vì sự an ổn và thương xót lớn làm lợi ích cho các chúng sinh, chư Thiên và nhân loại. Lại nói kệ ca ngợi:
Cúi xin Thế Tôn
Thuyết giảng kinh điển
Khai hóa chúng sinh
Phát khởi mọi người,
Chúng sinh ba cõi
Đều đang khát ngưỡng
Ngộ được ý đạo
Nhờ ân hóa độ.
Chư Phật đại Thánh Tôn
Trăm phước pháp trang nghiêm
Đấng thành tựu cao tột
Trí tuệ thật tối thắng.
Vì chư Thiên giảng Pháp
Và nhân loại thế gian
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sinh
Đúng thời hiện pháp sáng
Tuệ nghĩa của Đức Phật
Cũng vậy nay ở đây
Hiển bày đạo tối thượng
Khiến các loài quần sinh
Đều được hưởng pháp ấy
Thế Tôn biết tất cả
Các hạnh tuệ hoàn toàn
Nên vì phân biệt nói
Đức hạnh đời trước làm
Ngài đều biết chúng sinh
Tâm chúng ưa thích gì
Nên vì chuyển pháp luân
Tối thắng không ai sánh
Thoát khỏi ách chúng sinh
Đều đến nơi đại đạo.
Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
– Lúc ấy Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai biến hóa trong thế giới mười phương năm trăm muôn ức các cõi Phật ở mỗi phương đều chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp tận cùng thế giới, soi chiếu tất cả cảnh giới của chư Phật, bao nhiêu thứ ánh sáng của trời, thần trong hư không, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mặt trăng cũng không sánh kịp, ánh sáng ấy vượt xa hơn ánh sáng cung điện, đền đài của chư Thiên, ánh sáng ấy chiếu ngược rực rỡ lên cõi Phạm thiên.
Đức Phật biến hiện ánh sáng điềm lành bao phủ tất cả khiến cho các ánh sáng khác không trông thấy được. Ánh sáng ấy chiếu soi rực rỡ khắp chốn thiên thượng, nhân gian. Các loại chúng sinh hoặc sống ở các cõi khác đều trông thấy nhau, mỗi người đều nói:
– Hôm nay trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh khác?
Khi ấy các cõi trời khắp nơi đều chấn động.
Lúc bấy giờ phương Đông vô lượng vô biên cõi Phật, trăm ngàn muôn ức cung điện Phạm thiên, tự nhiên ánh sáng chiếu rực rỡ. Các Phạm thiên vương tự nghĩ: “Vô số cung điện, đền đài cõi trời đều sáng sủa, ánh sáng xuyên suốt nhau, vì nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này?” Muôn ức trăm ngàn chúng Đại Phạm thiên trong năm trăm thế giới mỗi vị từ nơi cung điện của mình cùng đến hội họp với nhau để suy luận về sự thể đó. Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên Hộ Quần Sinh, vì các Phạm thiên mà nói kệ ca ngợi:
Cung điện phòng xá
Chúng ta hôm nay
Chư hiền nên biết
Ánh sáng lớn này
Vượt thắng chư Thiên
Ai cũng ưa thích
Do nhân duyên gì
Hiện điềm lành này?
Hay thay đến đây
Tìm ý nghĩa ấy
Khi các Thiên tử
Hôm nay tự đến
Theo Thánh ý nào
Hiện thần như thế
Những điều thấy được
Vốn chưa từng có.
Thân cận chư Thiên
Là vua cõi người
Tướng các bậc Thánh
Xuất hiện ở đời,
Ánh sáng tối diệu
Chiếu cả mười phương
Rung động tất cả
Mới như thế này.
Này các Tỳ-kheo! Khi ấy vô số ức Phạm thiên ở năm trăm thế giới từ phương Đông đều cùng nhau đến xa, thấy ở phương Tây Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chánh Giác ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, có hàng chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân và mười sáu vị vương tử cùng quyến thuộc vây quanh. Khi thấy như vậy, tất cả cùng khuyến thỉnh mong Đức Thế Tôn thuyết kinh. Các vị Phạm thiên đến chỗ Đức Như Lai cúi đầu đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Phật vô số vòng. Họ cầm hoa sen lớn như núi Đại Tu-di rải lên cây Đức Phật ngồi, cây đó cao bốn mươi dặm. Cúng dường hoa xong, mỗi vị Phạm thiên đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn và thưa:
– Cúi xin Đức Phật xót thương nạp thọ hoa và cung điện chúng con cúng dường.
Các vị Phạm thiên dùng kệ ngợi khen:
Đức Phật vô lượng
Chưa từng được gặp
Vì lòng thương tưởng
Hiện ra nơi đời,
Thế Tôn diễn pháp
Như Sư tử rống
Thường hay cứu hộ
Mười phương chúng sinh.
Chúng con trải qua
Theo đến chỗ này
Đã đi năm trăm
Ngàn muôn ức cõi.
Tính các cõi nước
Bao nhiêu chủng oại
Đều rời cung điện
Đi đến Thánh Tôn.
Tất cả chúng con
Nhờ đức đời trước
Bao nhiêu tốt đẹp
Các cung điện báu,
Đều đem đến đây
Tôn kính dâng lên
Xin Đức Thế Tôn
Xót thương nạp thọ.
Khi ấy các vị Đại Phạm thiên ca ngợi Đức Thế Tôn rồi, cả năm trăm vị đều bạch Đức Phật:
– Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân diễn nói pháp Đại thánh, độ thoát chúng sinh, khiến cho họ được Niết-bàn.
Năm trăm vị Phạm thiên và trăm ngàn muôn ức hội chúng hợp lại cùng cất tiếng ca ngợi:
Xin Thế Tôn thuyết kinh
Đấng phước trí phân biệt
Nên hiện sức Từ tâm
Độ chúng sinh khổ não.
Lúc ấy thấy các vị Phạm thiên dâng lên cung điện Đức Phật lặng yên nhận lời. Bấy giờ các vị Phạm thiên ở năm trăm ngàn muôn ức cõi nước phương Đông nam mỗi vị đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa, rực rỡ từ xưa chưa từng có, nên tất cả đều cùng nhau hội họp lại. Trong chúng có một vị Đại Phạm thiên tên là Tối Từ Ai, vì các Phạm thiên mà nói kệ khen ngợi:
Các Đại thiên nên biết
Đây là điềm lành xưa
Cung điện đều biến động
Có rất nhiều tướng tốt,
Nên có các Thiên tử
Người người họp tại đây
Là oai thần vị nào
Khiến cung điện chói sáng
Nay Phật hiện ra đời
Đấng Trung Tôn phước trí
Cho nên các cung điện
Hiện ánh sáng như thế
Chúng ta nên đến hỏi
Việc này đúng vậy chăng?
Từ xưa cho đến nay
Chưa từng thấy như vậy
Bốn phương có ánh sáng
Chiếu soi muôn ức cõi
Nay chắc là như vậy
Phật sẽ hiện đời này.
Này các Tỳ-kheo! Khi ấy năm trăm ngàn muôn ức Phạm thiên, mỗi vị cùng nhau rời khỏi cung điện của mình, đem các loại hoa trời to như núi Tu-di đi đến hướng Tây bắc. Từ xa họ trông thấy Đức Như Lai Đại Thông Thánh Tuệ ngồi trên tòa Sư tử, dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, đang thuyết pháp cho chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và các quyến thuộc vây quanh. Khi trông thấy như vậy, các vị Phạm liền đến đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Thế Tôn vô số vòng, tay cầm hoa lớn tung rải lên Đức Phật.
Các vị Đại Phạm thiên và hàng quyến thuộc dùng kệ ngợi khen:
Lạy Đấng cao tột
Ngà i là Đại Thánh
Bậc Thầy chư Thiên
Tiếng như chim loan,
Xướng đạo độ khắp
Chư Thiên, loài người
Xin cúi đầu lễ
Vì thương thế gian
Được chưa từng có
Ở đời khó gặp
Dung nghi chói sáng
Nay mới được gặp,
Vốn trong trăm đời
Tích đức giải không
Tám mươi ức Phật
Thọ kiếp như bụi.
Đấng Nhân trung tôn
Phân biệt không tuệ
Và thường giảng thuyết
Khéo dùng phương tiện
Chư Thiên quần thần
Chúng sinh thấy được
Đầy đủ ức ngàn
Số đến tám mươi
Mắt tuệ thấy suốt
Đến nơi cứu độ
Che chở tất cả
Trong Pháp của Phật
Nên hiện ở đời
Thương xót chúng sinh
Chúng con nhờ phước
Rất khó được gặp.
Muôn ngàn vô số các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn xin Ngài chuyển Pháp luân diễn nói kinh nghĩa để hóa độ khắp quần sinh, cứu thoát ba cõi, khiến cho họ được an ổn. Các vị Phạm thiên một lòng đồng tiếng ca ngợi:
Đại nhân tối thượng
Xin chuyển pháp luân
Mong giảng kinh pháp
Vì khắp mọi loài
Độ thoát quần sinh
Tai họa khổ não
Khiến cho tất cả
Giải thoát vui mừng,
Ai mà nghe được
Đều thành Phật đạo
Chư Thiên, nhân dân
Nhờ ân an ổn,
Chúng A-tu-luân
Sẽ được giảm bớt
Ban cho nhẫn nhục
An lạc thêm nhiều
Khi ấy Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai lặng yên nhận lời.
Này các Tỳ-kheo! Lúc bấy giờ ở trăm ngàn muôn ức cõi nước Phật ở phương Nam, phương Tây, cung điện, cung điện của các vị Đại Phạm thiên đều có ánh sáng rực rỡ huy hoàng xuyên suốt khắp nơi. Khi ấy các vị Phạm thiên tự thấy cung điện mình uy nghiêm chói sáng, lấy làm lạ trước việc chưa từng có, liền cùng nhau tụ hội. Mỗi vị đều suy nghĩ: “Vì sao cung điện của chúng ta chói sáng như thế này?” Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên là Thiện Pháp nói kệ ca ngợi.
Đại Thánh ra đời
Chân thật không dối
Tất cả cung điện
Rực rỡ chói lòa,
Có điềm lành này
Hiện nơi thế gian
Lành thay mong được
Áo nghĩa như đây.
Quá khứ vô số
Ngàn muôn ức kiếp
Chưa từng thấy được
Hiện tượng thế này.
Sẽ có Như Lai
Xuất hiện ở đời
Khiến các Thiên tử
Tự nhiên cùng đến.
Này các Tỳ-kheo! Khỉ ấy năm trăm ngàn muôn ức các vị Phạm thiên từ cung điện của mình trông thấy các đóa hoa lớn như núi Tu-di, mỗi vị đều cầm theo hoa ấy để cúng dường, cùng đi đến phương Bắc. Họ thấy Đức Như Lai Đại Thông Chúng Tuệ ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề, ở nơi đạo tràng giảng thuyết kinh pháp cho vô số chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-1ưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và quyến thuộc vây quanh. Tất cả cùng đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ sát đất và nhiễu quanh vô số vòng, rồi đem hoa lớn như núi Tu-di tung lên cúng dường và đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nhận sự hiến cúng mà ở đó.
Các vị Phạm thiên một lòng đồng thanh nói kệ ngợi khen:
Chư Phật ra đời
Rất khó được gặp
Số kiếp lâu xa
Nay mới được gặp
May mắn đến đây
Đoạn trừ ái dục
Sung mãn tròn đầy
Cho cõi Tam thiên
Chư Đại Đạo Sư
No đủ kẻ đói
Từ xưa đến nay
Chưa từng thấy nghe
Như hoa Linh thụy
Khó được trông thấy
Đạo tuệ khó gặp
Lâu lâu mới có.
Cung điện chúng con
Vô lượng tốt đẹp
Nhờ oai thần Phật
Mà được thế này
Cúi xin thương xót
Kính dâng nạp thọ
Nguyện ở trong đây
Hiển bày Đạo nhãn.
Các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn:
– Cúi mong Đức Thế Tôn thương tưởng chuyển pháp luân, giảng nói kinh điển làm cho tất cả chư Thiên, Thần, Sa-môn, Phạm chí được nhiều an lạc, lợi ích. Thiên thượng, thế gian đều được nhờ ân.
Lúc ấy các vị Phạm thiên cùng đồng thanh nói kệ ngợi khen:
Cúi mong Thế Tôn
Diễn rộng kinh điển
Xót thương nên chuyển
Đại Thánh phát luân,
Giảng pháp vô lượng
Như sấm vang rền
Cúi xin thương tưởng
Thổi loa pháp lớn;
Đem đại kinh điển
Mưa pháp thế gian
Khéo dùng phân biệt
Dạy pháp diệu kỳ.
Chúng con khuyến thỉnh
Nguyện giảng đạo tuệ
Khai hóa chúng sinh
Trăm ngàn muôn ức.
Phương Tây nam, phương Tây bắc và phương Đông bắc mỗi phương cũng đều như vậy. Vô số Phạm thiên không thể tính hết. Phương trên, phương dưới, mỗi phương cũng thấy các vị Phạm thiên đều tự thấy cung điện ánh sáng chói rực khắp nơi, lấy làm lạ trước việc chưa từng có. Ở mỗi phương năm trăm ngàn muôn ức các chúng phạm thiên mỗi vị đều rời cung điện đi đến chỗ Phật, có vị Đại Phạm thiên tên Diệu Thức liền nói kệ ca ngợi:
Lành thay, xin chư Phật
Đấng Thánh Minh cứu thế
Vì chúng sinh ba cõi
Khai thị Chánh giác thừa!
Làm mắt khắp thế gian
Thấy suốt mười phương cõi
Khai thông môn cam lộ
Độ thoát cho tất cả.
Thuở xưa vô lượng kiếp
Nhân Trung Tôn chưa hiện
Chúng sinh sống mờ tối
Khiến hiện ở mười phương
Thích địa ngục thêm nhiều
Ưa vui chốn súc sinh
Đời sau đọa ngạ quỷ
Ức số khó nghĩ bàn
Được thân trời mãi vui
Thọ chung đọa nẻo ác
Nếu được nghe Phật pháp
Đạt đến đạo bình đẳng
Chí hạnh theo Phật tuệ
Sẽ giúp khắp quần sinh
Đều về nơi an ổn,
Không mất tưởng thú vui
Thường không hành Phật đạo
Không ở trong chánh pháp
Trái thánh giáo vô lượng
Liền đọa nơi ác thú.
Nay gặp ánh sáng thế
Vì thiện nên vâng hội
Vượt tất cả chúng sinh
Mà thực hành từ ái
Liền thấy Đức Thế Tôn
Rõ không, tuệ vô lậu
Chư Thiên và thế gian
Ở đây đều khuyến thỉnh
Cung điện đẹp vô lượng
Giống như đức oai thần
Ban khắp ngọc minh nguyệt
Mong Đấng Đại Đạo Sư
Nạp thọ con cúng dường
Xót thương nhận cung điện
Khiến con cùng chúng sinh
Đạt thành Vô thượng đạo.
Này các Tỳ-kheo! Lúc đó năm trăm ngàn muôn ức chúng Đại Phạm thiên tán thán, ca ngợi Đức Phật xong liền thỉnh cầu Đức Phật chuyển đại pháp luân, khai hóa làm an ổn cho chúng sinh khắp mười phương, lại ca ngợi rằng:
Cúi mong giảng nói
Vô thượng pháp luân
Xin đánh trống pháp
Dùng riêng vi diệu
Độ thoát chúng sinh
Bao tai nạn khổ
Xót thương thị hiện
Đạo lớn Niết-bàn.
Chúng con khuyến thỉnh
Cúi xin thuyết pháp
Cứu giúp muôn loài
Và khắp thế gian,
Âm thanh êm dịu
Phát ra tiếng mầu
Trăm ngàn ức kiếp
Tích lũy đức hạnh.
Lúc bấy giờ Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai thấy vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức chúng sinh ở mười phương và mười sáu vị vương tử khuyến thỉnh thuyết pháp, tức thời ba lần chuyển đại pháp luân mười hai hành, khai hóa chỉ dạy Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Long, Thần, các ma, Phạm thiên và tất cả nhân dân, vì họ mà nói về sự thật của khổ: Đây là Khổ đế, cho đến Tập đế và Đạo đế, do theo Đạo đế ấy mà chấm dứt khổ đau.
Sau đó Đức Phật giảng rõ, phân biệt đầy đủ pháp mười hai nhân duyên, từ si dẫn đến hành, từ hành dẫn đến thức, từ thức dẫn đến danh sắc, từ danh sắc dẫn đến lục nhập, từ lục nhập dẫn đến tập, từ tập dẫn đến thống, từ thống dẫn đến ái, từ ái dẫn đến thọ, từ thọ dẫn đến hữu, từ hữu dẫn đến sinh, từ sinh dẫn đến họa lớn già, bệnh, chết, ưu khổ…
Này các Tỳ-kheo! Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai nói kinh pháp đến lần thứ ba, trong khoảnh khắc phân biệt nghĩa ấy, khiến cho mười sáu ức trăm ngàn vị trong chúng được lậu tận, tâm ý giải thoát, đạt được trí Tam minh và Lục thông, vô số người đều được độ thoát. Phật thuyết pháp như vậy cho đến lần thứ ba, lần thứ tư, hằng hà sa chúng sinh nghe kinh, tất cả đều được lậu tận, tâm ý giải thoát. Từ đó các chúng Thanh văn nhiều không tính kể được.
Bấy giờ mười sáu vị Vương tử vì lòng tin nên đều xuất gia học đạo và làm Sa-di, thông minh trí tuệ, có nhiều phương tiện vì đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Đức Phật, tạo lập các hạnh mong cầu Tuệ giác vô thượng, đều cùng nhau bạch Phật:
– Nay chúng Thanh văn trong đại hội, có vô số trăm ngàn muôn ức người đã thành tựu viên mãn và có đại thần túc. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con diễn giảng đạo nghĩa Vô thượng chánh chân. Mong Thế Tôn dùng đại trí tuệ quán kiến chỉ bày cho chúng con việc ấy. Chúng con sẽ theo học đại Thánh giáo của Như Lai và cùng nhau khuyến tấn, quán sát cội nguồn của nó.
Đức Thế Tôn rõ biết tâm niệm của các vương tử, liền giảng thuyết kinh pháp cho quốc vương và hàng quyến thuộc, có tám mươi ức trăm ngàn người đều làm Sa-môn. Lúc ấy Đức Phật quán thấy nguồn tâm của các Sa-môn đó, trong hai vạn kiếp thuyết kinh Phương Đẳng Chánh Pháp Hoa Bồ-tát Sở Hạnh Nhất Thiết Phật Hộ. Đức Phật giảng kinh đó xong, bốn bộ chúng đều tin nhận như nhau, mười sáu anh em vương tử là Sa-di nghe lời Phật dạy cùng nhau thọ trì, đọc tụng, giảng giải, được Phật thọ ký sẽ đạt đạo quả Vô thượng Chánh giác.
Phật thuyết kinh ấy xong, các bậc Thanh văn hoan hỷ, mười sáu vị Sa-di và trăm ngàn vô số các chúng Bồ-tát đều đạt được chí nguyện của mình.
Đức Phật thuyết pháp như vậy trong tám vạn kiếp chưa từng ngừng nghỉ. Đức Phật thuyết kinh ấy xong, tiền vào tịnh thất nơi thanh vắng chuyên tinh thiền định bốn mươi vạn kiếp.
Bấy giờ mười sáu vương tử làm Sa-di hành đạo Bồ-tát vốn là con Phật, thấy Đức Thế Tôn độc cư nơi thanh vắng, mỗi vị đều lên pháp tòa giảng rộng pháp nghĩa kia, ở trong tám vạn bốn ngàn kiếp phân biệt thuyết kinh. Mỗi vị Bồ-tát hóa độ sáu mươi vạn hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh an trú trong đạo Vô thượng chánh chân, đều lập hạnh Đại thừa.
Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai qua tám mươi bốn vạn kiếp mới xuất thiền, đến pháp tòa, bảo tất cả chúng Tỳ-kheo:
– Mười sáu vương tử này đã thành tựu công đức vô lượng, rất là ít có, trí tuệ siêu việt hy hữu, đã từng cúng dường muôn ức chư Phật, các hạnh đầy đủ, thừa hưởng trí tuệ của Phật, vào đạo giác ngộ để chỉ dạy chúng sinh cũng thâm nhập Phật trí. Các chúng Tỳ-kheo đều phải cung kính cúi đầu, luôn luôn thân cận mười sáu vị Hiền nhân ấy mà không nên giải đãi. Vì chí nguyện mong cầu Thanh văn, Duyên giác thừa, họ đã được con đường Thanh văn, Duyên giác. Nếu ai tu tập hạnh Bồ-tát đã được thành tựu như vậy. Những ai mới phát tâm sẽ được thọ ký cho.
Này các Tỳ-kheo! Những ai nghe kinh pháp này có thể kính tin đều sẽ đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành tựu tuệ giác của Phật.
Náy các Tỳ-kheo! Những ai vâng theo lời giáo huấn của Thế Tôn, luôn luôn tin hiểu chánh pháp mà thuyết giáo cho tất cả chúng sinh. Mười sáu vương tử kia đầy đủ Bồ-tát thừa, mỗi một vị khai hóa sáu mươi hằng hà sa người.
Họ sống nơi nào cũng thường được những người kia thân cận, cũng lại theo nghe giáo nghĩa chánh pháp. Nhờ vậy mà mỗi mỗi chúng sinh ấy được gặp bốn mươi ức trăm ngàn chư Phật như ta nay đang tuyên thuyết cho bốn chúng.
Các Tỳ-kheo có biết mười sáu vương tử khi ấy là ai chăng?
Các Tỳ-kheo thưa:
– Thưa không, bạch Thế Tôn!
Đức Phật dạy:
– Mười sáu vương tử đó nay đều đã thành đạo Vô thượng chánh chân, hiện đang nói pháp trong cõi nước mười phương, cứu giúp vô số trăm ngàn muôn ức hiệu chúng Thanh văn, các vị Bồ-tát không thể kể hết.
Hiện tại ở phương Đông, thế giới Thậm lạc có hai vị Phật hiệu Vô Nộ, Sơn Cương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.
Hai vị Phật hiện ở phương Đông nam hiệu Sư Tử Hưởng và Sư Tử Tràng Như Lai.
Hai vị Phật hiện ở phương Nam hiệu Nhất Trụ và Thường Diệt Độ Như Lai.
Hai vị Phật hiện ở phương Tây nam hiệu Đế Tràng và Phạm Tràng Như Lai.
Hai vị Phật hiện ở phương Tây hiệu Vô Lượng Thọ và Siêu Độ Nhân Duyên Như Lai.
Hai vị Phật hiện ở phương Tây bắc hiệu Chiên-đàn Thần Thông và Sơn Tàng Niệm Như Lai.
Hai vị Phật hiện ở phương Bắc hiệu Nhạo Vũ và Vũ Âm Vương Như Lai.
Một vị Phật hiện ở phương Đông bắc hiệu Trừ Thế Cụ.
Ta nay hiệu là Năng Nhân ở thế giới Kham nhẫn này thành Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hợp lại là mười sáu Đức Thế Tôn.
Này các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta còn làm mười sáu vị Sa-di ở trong đời Đức Phật kia, đã giảng thuyết kinh pháp cho chúng sinh nghe nhận. Mỗi Bồ-tát khai hóa cho vô lượng hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh phát tâm hướng về đạo Vô thượng chánh chân. Những chúng sinh đó nay được thành tựu đạo Bồ-tát hoặc có người trụ bậc Thanh văn, dần dần được khuyên dạy sẽ tiến đến đạo lớn Vô thượng và dần dần sẽ thành tối Chánh giác. Vì sao? Trí tuệ của Như Lai không thể tính đếm và không có hạn lượng, chúng sinh không thể tin hiểu như thế này được.
Này các Tỳ-kheo! Vì sao như thế? Lúc còn làm Bồ-tát, ta đã khai hóa cho vô lượng trăm ngàn muôn ức hằng hà sa số chúng sinh, những người có trí nghe hiểu, tin nhận. Trong đời vị lai hoặc có người phát tâm làm đệ tử, theo học thành tựu quả Thanh văn, về sau lại không chịu nghe hiểu giáo nghĩa Bồ-tát, không biết trí tuệ Phật, không hành hạnh Bồ-tát. Tất cả đều tưởng rằng tâm chí đã an trụ trong giải thoát, cho là đã được diệt độ. Họ cần phải đến nơi thế giới Phật khác, sinh vào cõi nước Phật khác, tu tập thuận theo các hạnh đặc thù, phải cầu đạo tuệ, nghe nhận tin hiểu, khi ấy mới hiểu rõ được pháp của Như Lai chỉ có một Phật thừa mà không có hai thừa. Tất cả đều là Như Lai khéo dùng phương tiện thuyết Tam thừa mà thôi.
Khi Đức Như Lai Chánh giác diệt độ, nếu có người cúng dường dùng hạnh thanh tịnh, ưa thích, kính tin pháp vi diệu, đến với kinh điển này, nhất tâm thanh tịnh nơi đại thiền định. Nên biết rằng lúc bấy giờ người đó ở nơi Đức Như Lai nhóm họp tất cả chúng Bồ-tát và tất cả chúng Thanh văn tín thọ pháp này, khi ấy mới biết Phật đạo ở thế gian không có hai thừa đưa đến giải thoát hoàn toàn. Đó chỉ là do Đức Như Lai Chánh Giác khéo léo dùng phương tiện để nói mà thôi.
Những chúng sinh ưa hạnh Tiểu thừa hạ liệt thì đã tự đánh mất hạt giống Phật từ lâu, không hiểu rõ con người vốn bị dục vọng trói buộc. Khi Đức Như Lai diệt độ, nếu có chúng sinh nghe nói kinh, hoan hỷ kính tin, chúng sinh đó đã được ân đức chư Phật hộ niệm.
Ví như con đường vắng vẻ dài năm trăm dặm, xa thăm thẳm tuyệt nhiên không một bóng người, cũng không có làng xóm. Có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt liền tìm ngõ ngách và sự gần xa của con đường để chỉ cho đoàn người muốn vượt qua con đường xa xăm ấy, nhưng tất cả đều mỏi mệt không thể tiến bước nữa. Họ luyến tiếc nghĩ rằng: “Chúng ta ở yên nơi đất thánh, đất nước thanh bình, có vua quan, thầy bạn, mẹ cha, nay phải lặn lội đến con đường xa xôi chẳng thể đi được nữa, thà rằng cùng nhau trở về để thoát khỏi nạn khổ này.” Vị thầy dẫn đường thương xót họ đã quyết tâm đi tìm châu báu, giữa đường lại hối tiếc muốn lui về nên phương tiện quyền biến ở nơi khoảng đất trống rộng lớn độ bốn ngàn hay tám ngàn dặm, dùng sức thần túc hóa làm một cái thành lớn mà bảo những người khách buôn:
– Các ngươi chớ ôm lòng lo sợ muốn lui về, đã đến đại quốc rồi, chúng ta có thể nghỉ ngơi ở đây, tùy ý các ngươi muốn tha hồ ăn uống, hoặc muốn tìm nhiều châu báu ở đây cũng được.
Này các Tỳ-kheo! Lúc đó những người khách buôn thấy trong thành nhân dân đông đúc, vô cùng vui vẻ, lấy làm lạ việc chưa từng có. Họ hết đau khổ, được vui vẻ, an ổn, không còn lo sợ họa thiếu thốn, đói khát, tự cho rằng đã được tột đỉnh an lạc.
Lúc ấy vị hướng dẫn biết mọi người được nghỉ ngơi một ngày không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành không còn dấu vết và bảo với mọi người:
– Các người nên mau tiến bước đến vùng đất có nhiều châu báu. Vì thấy các ngươi đi đường mỏi mệt, tâm sợ sệt cho nên ta mới hóa ra thành ấy.
Này các Tỳ-kheo! Như Lai cũng như thế, vì các ông mà làm đạo sư nói kinh pháp. Vì thấy chúng sinh trôi lăn triền miên trong con đường sinh tử, tai họa gian nan, thiếu thốn nên hiện ba thừa, thiền định nhất tâm khiến được Niết-bàn. Như Lai vốn chỉ dạy có một thừa, chúng sinh nghe Như Lời giảng pháp không nhận đạo tuệ, hoặc họ nhàm chán cho rằng phải lâu ngày chịu gian lao khổ nhọc mới được thành tựu. Như Lai biết tâm niệm của họ mỏi mệt, giải đãi nên vì họ mà hiện quả Thanh văn, Duyên giác để đạt đến, giống như một vị thầy hướng đạo kia hóa thành lớn, nhân dân đông đảo. Khi đoàn người được nghỉ ngơi an ổn rồi thì thành lớn ấy tự biến mất. Vị thầy hướng đạo ấy vì các thương nhân mà nói thành huyễn hóa, vị Đạo sư đó chính là Đức Như Lai. Đồng trống mênh mông ví cho năm đường sinh tử. Những người khách buôn đó là chỉ cho các ông. Đi tìm châu báu là ý nói pháp hạnh, đạo tuệ của Bồ-tát. Giữa đường mỏi mệt muốn lui về nghĩa là Phật đạo khó được, phải trải qua nhiều kiếp tích lũy công Đức còn chưa có thể thành tựu được.
Đức Như Lai dụ dẫn để chúng Thanh văn, Duyên giác dễ tu tập nên hóa làm thành lớn gọi là Niết-bàn của bậc La-hán. Thành lớn biến mất, đó là dụ cho lúc sắp diệt độ. Đức Phật ngay lúc đó khuyến khích cho họ phát tâm hướng về đạo Vô thượng chánh chân, quả vị A-la-hán đó vẫn còn bị ngăn ngại, chẳng phải đã thật đạt đến đạo lớn. Nếu đến phương khác được thấy chư Phật, được quả vị không thoái chuyển, hoàn toàn giải thoát, đó mới gọi là chỗ cứu cánh nơi kho tàng châu báu lớn.
Này các Tỳ-kheo! Như Lai thuyết pháp cho các ông nghe vậy, cho đó là hoàn toàn đầy đủ, các ông không biết rằng chỗ tu tập của các ông vẫn chưa xong. Lại nữa, trí tuệ Như Lai thấy khắp tất cả tâm của người trong thế gian mà thị hiện Niết-bàn. Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã khéo dùng phương tiện mà nói có ba thừa.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ:
Xưa có Đạo Sư
Đại Thông Chúng Tuệ
Ngồi nơi đạo tràng
Dưới cội cây Phật,
Thiền định nhất tâm
Đến mười trung kiếp
Vốn chưa thành tựu
Đạo nghĩa cứu cánh.
Chư Thiên, Long thần
Chúng A-tu-luân
Phát lòng tinh tấn
Cúng Bậc Tối Thắng,
Hoa trời lớp lớp
Tuôn xuống như mưa
Rải trên Đức Phật
Bậc Thầy cõi người,
Ở trong hư không
Trống trời vang dội
Để dâng hiến cúng
Đại Thánh thượng tôn.
Tối thắng nơi ấy
Tinh cần khổ hạnh
Công hạnh dài lâu
Thành đạo Vô thượng
Thiền định tư duy
Trong suốt mười kiếp
Mới thành Phật quả
Đại Thông Chúng Tuệ
Chư Thiên, nhân dân
Trăm ngàn muôn ức
Tất cả chúng sinh
Hoan hỷ phấn chấn.
Đức Phật vốn có
Mười sáu người con
Đều theo vâng thọ
Như Lai khai hóa,
Các loại chúng sinh
Trăm ngàn muôn ức
Quyến thuộc vây quanh
Đi đến chỗ Phật
Cúi đầu đảnh lễ
Sư trưởng thánh tôn
Ân cần khải thỉnh
Xin giảng pháp kinh
Sư tử dũng mãnh
Pháp chưa từng nói
Chúng con đông nhiều
Và cả nhân dân
Khắp mười phương cõi
Cả thế giới này
Lâu vô lượng kiếp
Đại Thánh mới hiện.
Cung điện Phạm thiên
Bỗng nhiên rực sáng
Hiện các điềm lành
Đều phân biệt nói.
Thế giới phương Đông
Trăm ngàn muôn ức
Năm trăm cõi nước
Tự nhiên chấn động.
Các Phạm thiên ấy
Ở cung điện mình
Oai thần công đức
Tối thượng cao vời
Khi đó thấy được
Tướng điềm lành kia
Liền tìm đến Phật
Đấng xót thương đời
Rồi đem hoa trời
Rải cúng Đại nhân
Đều dùng cung điện
Dâng lên Thế Tôn.
Ca nhạc đàn sáo
Khen công Đức Phật
Thỉnh Đấng Đạo Sư
Chuyển vận pháp luân.
Đấng Nhân Trung Tôn
Lặng yên nhận lời
Vì khắp chúng sinh
Giải nói kinh pháp
Phương Tây, phương Nam
Thế giới phương Bắc
Phương trên, phương dưới
Cùng khắp các nơi
Ức ngàn muôn chúng
Phạm thiên đều đến
Dâng vật bảo trân
Cúng dường Đức Phật,
Lại có phương dưới
Các cõi Phạm thiên
Khắp nơi cũng vậy
Giống nhau không khác
Đều đem cung điện
Dâng Bậc Đại Thánh
Ca ngợi Như Lai
Cùng nhau khuyến thỉnh
Xin chuyển pháp luân.
Đấng Đại Trí tuệ
Vô số ức kiếp
Rất khó được gặp
Nguyện thương thị hiện,
Căn lực từ xưa
Xót thương rộng mở
Cửa pháp cam lộ
Mắt pháp khắp nơi
Phân biệt nghĩa tuệ
Tuyên dương kinh pháp
Cho khắp mọi loài.
Khi ấy Thế Tôn
Chỉ bày Tứ đế
Giải đủ tất cả
Mười hai nhân duyên,
Thông tuệ hiển bày
Khiến được mắt sáng.
Phật thuyết sinh tử
Là hoa khổ sầu
Tất cả thế gian
Đều từ sinh hữu
Nên biết nhân này
Đưa đến chìm đắm.
Như Lai tuyên thuyết
Pháp cứu cánh này
Bao nhiêu chủng loại
Vô số ức người
Tám mươi muôn ức
Tất cả chúng sinh
Nghe lời Phật dạy
Trụ Thanh văn thừa
Huống gì phương khác
Lập đệ nhất địa
Khi ấy Thế Tôn
Thuyết giảng nghĩa kinh
Chúng sinh thanh tịnh
Như hằng hà sa
Tâm chí đều trụ
Hạnh của Thanh văn
Thánh chúng của Phật
Số người như trên
Tất cả cùng tính
Không thể biết được,
Các loài chúng sinh
Mỗi mỗi như vậy
Đều cùng như đây
Lập Tuệ vô thượng.
Bấy giờ mười sáu
Vương tử của Phật
Cùng đến thọ học
Một lòng như nhau
Tất cả xuất gia
Đều làm Sa-di
Và đều hiểu rõ
Kinh Phương Đẳng Phật.
Họ sẽ thành quả
Từ phụ ở đời
Các ông như vậy
Đều được Thắng trí
Những chúng sinh đây
Đều được như thế.
Lại như Thế Tôn
Là mắt của pháp
Tối thắng chí thành
Biết rõ nguồn tâm,
Các con thơ bé
Thường hành bình đẳng
Mà vì chúng sinh
Thuyết đạo Vô thượng.
Trăm ngàn muôn ức
Vô số thí dụ
Thị hiện nhân duyên
Và các quả báo
Phân biệt các pháp
Các tuệ suốt thông
Công hạnh phải làm
Như chư Bồ-tát.
Lúc đó Đại Thánh
Vì hiện chân đế
Tuyên bố hiển dương
Chánh Pháp Hoa này
Thuyết giảng khắp nơi
Kinh Đại Phương Đẳng
Muôn ngàn câu kệ
Không thể nghĩ bàn
Như cát sông Hằng
Không thể hạn lượng.
Khi ấy Phật thuyết
Kinh pháp xong rồi
Liền vào tịnh thất
Tư duy thiền định
Tám muôn bốn vạn
Trong kiếp an nhiên
Thế hùng Đạo Sư
Thiền định như vậy
Thời các Sa-di
Trông thấy Đại Thánh
Ở nơi tịnh thất
Và không ra ngoài
Khai hóa nhân dân
Vô số ức ngàn
Giác liễu thiền định
Thanh tịnh vô lậu
Trí tuệ đệ nhất.
Nơi đại pháp tòa
Mỗi vị tuyên dương
Pháp kinh đại Thánh
An trụ thuyết giảng
Lưu bố giáo hóa
Như Phật không khác
Chúng sinh được độ
Như cát sông Hằng
Không thể hạn lượng
Ức ngàn vô số
Đều nghe, tin nhận
Họ được an trú
Mỗi mỗi chúng sinh
Được Phật giáo hóa
Số nhiều vô lượng.
Bậc Tối thắng ấy
Sau khi diệt độ
Chúng Hữu học kia
Thân cận, gần gũi
Bốn mươi ức Phật
Được nghe danh hiệu
Liền đến cúng dường
Đấng Lưỡng Túc Tôn.
Có bốn hành sự
Ly cấu là quý
Đều được Phật đạo
Hiện ở mười phương
Mười sáu đồng tử
Đều là con Phật
Ở khắp tám phương
Trải rộng nghĩa đạo
Với lời Phật nói
Người nghe tin nhận
Là các Thanh văn
Đệ tử của Phật
Dần dần dạy bảo
Bao nhiêu sắc tượng
Nay sẽ gần gũi
Phát ý đại đạo.
Bấy giờ chính ta
Đã được giác ngộ
Khiến cho tất cả
Đều được nghe nhận,
Nay các hiền giả
Là bậc Thanh văn
Ta dùng phương tiện
Chỉ dạy mọi người.
Đời trước của ta
Báo ứng như vậy
Đúng thời thuyết pháp
Nhân duyên như vậy.
Nếu không kham nhẫn
Tu tập Phật đạo
Tỳ-kheo nên biết
Do ma khuấy nhiễu
Tùy theo bản tánh
Hung hăng phóng túng
Chí chẳng phụng hành
Không thích không tuệ,
Vô số trăm đời
Khát không gặp nước
Lại phải ngu si
Thường luôn lo sợ
Vô sô trượng phu
Trăm ngàn muôn ức
Cất bước cao xa
Vượt qua đồng trống
Lại thấy mênh mông
Xa xăm gian khó
Dặm đường xa xôi
Năm trăm do-tuần
Có một Đại nhân
Bậc Hiền minh triết
Đạo sư khai hóa
Tâm không sợ hãi
Vì đoàn khách buôn
Chỉ dẫn con đường
Hoang vắng xa xăm
Nhiều người ngại khó
Vô số ức kẻ
Mỏi mệt, nhọc nhằn.
Họ đến Đạo sư
Mà thưa thế này:
Chúng tôi mỏi mệt
Không thể tiến bước
Hôm nay bọn tôi
Chỉ muốn quay về.
Đạo sư thông minh
Bậc thầy phương tiện
Ân cần dẫn dụ
Dạy bảo vỗ về,
Xót thương đường tối
Muốn bỏ châu báu
Mệt mỏi vô cùng
Giữa đường thoái lui,
Ta nay cần phải
Hiện sức thần thông
Tạo lập hóa làm
Thành quách rộng lớn
Tốt đẹp trang nghiêm
Nhân dân vô số
Và lập phòng ốc
Vi diệu đẹp đẽ
Lại biến hóa ra
Sông ngòi rộng lớn
Ao tắm vườn cây
Sum suê hoa trái
Dinh thự cung điện
Cửa lớn tường cao
Nam nữ đông đủ
Nhiều trăm ngàn ức
Dụ dỗ khuyến khích
Khiến họ không sợ
Ai cũng hân hoan
Vui mừng không xiết
Hôm nay được đến
Nơi thành lớn này
Vào chợ vui chơi
Muốn gì cũng được
Tâm rất vui mừng
Như được diệt độ.
Chúng ấy và ta
Gian nan đã hết
Vì được an ồn
Cho nên vui mừng
Hôm nay mọi người
Tha hồ vui chơi
Đã được an lạc
Quán sát khắp nơi
Tâm ý mọi người
Rồi trịnh trọng bảo
Tất cả đến đây
Nghe lời ta nói:
Ta dùng Thần túc
Hóa làm thành lớn
Ta nay quán sát
Gai gốc khô cằn
Mọi người sợ sệt
Muốn lui trở về
Ta dùng phương tiện
Hóa hiện các thứ
Hãy nên siêng năng
Theo đường tiến bước.
Này các Tỳ-kheo!
Ta cũng như vậy
Thấy vô số ức
Trăm ngàn chúng sinh
Chán họa khốn khổ
Mê hoặc luân hồi,
Ta dùng phương tiện
Khai đạo dạy bày
Vì Phật nghĩ thế
Nghĩa lợi như vậy
Nhàm chán Phật đạo
Không được Niết-bàn
Tất cả lời Phật
Học rõ suốt thông,
Các ông thành tựu
Nay đắc La-hán
Cho nên khuyến lập
Nhận báo đức này
Được gặp chư Hiền
Đạt quả La-hán.
Tất cả các ông
Được lìa các khổ
Tất cả chúng hội
Mới diễn pháp này.
Chư Phật Đại Thánh
Khéo dùng phương tiện
Giảng thuyết giáo pháp
Đại tiên cứu hộ
Có một Phật thừa
Chưa từng có hai
Vì các người nghỉ
Nên phân biệt nói.
Do đó giáo hóa
Các Tỳ-kheo đây
Nên phát tinh tấn
Đệ nhất nhiệm mầu,
Mọi người sẽ đạt
Tất cả mẫn tuệ
Giáo pháp Bồ-tát
Không có diệt độ.
Ta thường mong cầu
Thành các thông tuệ
Đạt đến mười phương
Pháp kinh Tôi thắng,
Dung mạo xinh đẹp
Ba mươi hai tướng
Sẽ thành Phật đạo
Mới nên diệt độ
Chư Đại Đạo Sư
Thuyết pháp như thế
Chớ khiến ngừng nghỉ
Tự cho diệt độ.
Vì được ngừng nghỉ
Nói đạt vô vỉ
Vì do duyên này
Dẫn vào tuệ giác.
***
Phẩm 8: THỌ KÝ NĂM TRĂM ĐỆ TỬ
Khi ấy Hiền giả Bân-nậu-văn-đà-ni Tử nghe Phật Thế Tôn diễn bày quyền biến, chỉ rõ phương tiện, thọ ký cho Thanh văn sẽ được thành Phật, nhớ lại hạnh nguyện đã lập từ xưa, lại chiêm ngưỡng cảnh giới chư Phật Như Lai, được điều chưa từng có, vui mừng phấn chấn, không nghĩ đến việc ăn mặc, thân thể thoải mái an vui, chẳng thể tự kiềm chế, đối với chánh pháp buồn vui lẫn lộn, liền từ chỗ ngồi đứng đậy, cúi đầu lễ dưới chân Phật, chí thành cất tiếng:
– Thế Tôn thật khó sánh kịp, an trú chưa từng có, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã dùng phương tiện thật là sâu xa, chẳng nói hết được. Các thế giới này, có biết bao chủng tánh. Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện quyền biến, tùy theo trình độ mà hiển bày tuệ nghĩa, thuận theo chúng sinh để giáo hóa, phân biệt chánh pháp rõ ràng. Thế Tôn đã vì họ nói rõ cội nguồn giải thoát và dùng phương tiện độ thoát. Thánh tuệ của Thế Tôn biết hết căn tánh, chí nguyện việc làm từ xưa đến nay của chúng con nên mới nêu lên thí dụ, nói việc đời trước và sự phát tâm từ thuở ban đầu.
Khi ấy Mãn Nguyện Tử cúi đầu lễ ngang chân Phật, đứng sang một bên, hướng về Thế Tôn, chiêm ngưỡng dung nhan sáng ngời, mắt không hề chớp.
Phật dạy:
– Lành thay, đúng như ông đã nói! Như Lai thấy suốt tất cả con đường tu tập đưa đến giác ngộ, theo căn tánh sâu, cạn mà thọ ký cho họ, như chỉ bày cho hàng Thanh văn Tiểu thừa hạ liệt dứt trừ dâm, nộ, si để được nghỉ ngơi; dẫn dắt cho Bồ-tát có trí tuệ cao tột. Giống như thuở xưa có một vị Đạo sư làm nhiều việc từ thiện, thương xót người nghèo khổ, áo cơm chẳng đủ, xin ăn không có, nghèo túng không có của cải, bèn vì họ mà đánh trống rao khắp nước là ai muốn vào biển tìm châu báu. Mọi người đều tập trung, (đạo sư) lại nói rằng ai không tiếc thân mạng, không thương cha mẹ , chẳng đoái hoài vợ con thì nên cùng nhau vào biển tìm châu báu. Dân chúng nghe vậy phần nhiều bỏ về, chỉ những người nghèo, ăn xin, không áo che thân, không có của cải tự nuôi sống, muốn tìm châu báu thì còn do dự, chẳng thể tự quyết. Vị Đạo sư biết thế nên tập hợp tất cả lại bảo rằng, nếu muốn vào biển thì sẽ được cung cấp y phục, lương thực, chẳng để thiếu thốn. Những người nghèo vui mừng, liền nghe theo lời, cùng lúc lên thuyền, xem gió giương buồm, đi vào biển cả; chẳng gặp cá lớn, chẳng đụng đá ngầm, quỷ dữ La-sát cũng chẳng quấy nhiễu, đến được Long cung; liền theo Long vương xin ngọc báu Như ý: “Kẻ phàm tục nghèo khổ, chẳng tự kiếm sống thoải mái, xin được nhờ ân bố thí, để cứu tế khắp nơi.” Long vương nên ban cho theo nhu cầu; nếu ai muốn thì cứ đến lấy. Vị Đạo sư ra lệnh, những người đi lấy thì ít, kẻ không đi lấy thì nhiều. Vì sao? Vì lòng họ còn sợ sệt là đến chỗ Long vương e không trở về được.
Khi ấy vị Đạo sư bảo các người đó rằng ; các ngươi tự do theo ý muốn. Bọn họ đều lấy được vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, xa cừ, mã não; ai nấy đều lấy đầy thuyền. Đạo sư ra lệnh trở về Diêm-phù-lợi. Mọi người nghe theo lệnh, về đến chốn cũ. Gia đình làng xóm đem đồ ăn uống, kỹ nhạc, ngựa xe ra đón rước, cùng, nhau vui chơi bảy ngày bảy đêm rồi mới trở về nhà. Mọi người hỏi được châu báu gì. Người nghèo ăn xin kém trí chỉ được bảy báu; những người bạn trí tuệ của Đạo sư được ngọc Như ý. Đạo sư lên lầu cao, tay cầm ngọc báu, hướng khắp bốn phương, bốn hướng và trên dưới (rồi nói): “Do phước đức của ngọc này sẽ khiến tuôn mưa bảy báu!” Đúng như lời nói lập tức mưa bảy báu tuôn xuống cùng khắp cả nước chỗ nào cũng tràn ngập. Ngoài ra những người bạn trí tuệ kia cũng phân bố đến các nước khác, khắp cùng bốn phương cũng tuôn mưa bảy báu. Kẻ nghèo kém trí lại than thở: “Ta cùng vào biển nhưng tiếc là không gặp thứ này.” Vị Đạo sư bảo họ: “Ta đã ra lệnh cho các ngươi, nhưng các ngươi không đến lấy, nay còn mong cầu gì nữa.” Mọi người vứt bỏ bảy báu, cùng tụ tập lại, trở lại biển để lấy ngọc báu, đi đến hỏi Long vương cầu xin ngọc Như ý. Tất cả họ đều được ngọc, trở về Diêm-phù-lợi, cũng làm mưa bảy báu.
Phật dạy:
– Phát đạo ý Vô thượng chánh chân muốn độ thoát tất cả, thí như vị Đạo sư đi vào biển cả. Thương xót những người nghèo túng nên đưa họ đi vào biển là nói vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh pháp. Xem gió giương buồm đi vào biển cả là ý nói học quyền trí. Ba nạn trên biển nghĩa là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Biển chỉ có sinh tử mà lại được ngọc Như ý. Nghĩa là đạt được Pháp thân vô cực của Như Lai. Những người đi theo lấy ngọc Như ý, đó là Thanh văn, Bồ-tát phát tâm rộng lớn, đã đạt quả Vô sinh. Người thấp kém nghèo hèn lượm bảy báu đầy thuyền, nghĩa là đắc bảy Giác ý. Trở về làng xóm, bà con ra nghênh đón, nghĩa là người ở mười phương đi đến thọ giáo. Lên lầu cao cầm ngọc hướng về tám phương và trên dưới, nghĩa là đắc Phật đạo độ thoát mười phương. Những người trí tuệ phân đến các nước làm mưa bảy báu, nghĩa là đi đến phương khác thành Bậc Tối Chánh Giác. Những người nghèo hối tiếc, cùng trở lại biển, nghĩa là chư Thanh văn nghe Phật dạy chỉ có một thừa không có hai thừa nên mới phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, sau sẽ thành Phật, đều có một hiệu.
Khi ấy, Đức Phật nói kệ tụng:
Tỳ-kheo lắng nghe
Dùng dụ giảng thuyết
Như có Đạo sư
Thương người trong nước
Phần nhiều nghèo túng
Luôn luôn chịu khổ
Đánh trống lan truyền
Ai muốn vào biển
Mọi người tụ tập
Lại bảo họ rằng
Nếu chẳng tiếc mạng
Chẳng thương mẹ cha
Chẳng nhớ vợ con
Nên cùng vào biển
Trong biển có nạn
Không được hối hận.
Khi ấy người nghèo
Cũng có ý muốn
Sợ chẳng đến được
Phân vân chẳng quyết
Đạo sư rộng lượng
Cấp cho cơm áo
Khi vào biển cả
Đều tìm bảy báu.
Khi ấy Đạo sư
Đến cung Long vương
Bảo hết mọi người
Tìm ngọc Như ý
Bạn bè nghe lời
Lượm ngọc Như ý
Trở về chốn cũ
Già trẻ nghênh đón.
Khi ấy Đạo sư
Lên trên lầu cao
Hướng về tám phương
Mưa trân báu khắp
Bè bạn phân ra
Đến các nước khác
Cũng mưa bảy báu
Khắp nơi nhờ ân.
Kẻ lượm bảy báu
Mới tự hối tiếc
Là cùng vào biển
Chẳng gặp loại này.
Đạo sư bảo rằng
Trước ta đã bảo
Chẳng chịu tự lấy
Là lỗi các ngươi
Sao lại oán trách.
Họ trở vào biển
Tìm ngọc Như ý
Tìm thì phải được.
Bồ-tát phát tâm
Đắc đạo Chánh chân
Nhàm chán sinh tử
Rơi vào Thanh văn
Phụng hành theo Không,
Vô tướng, Vô nguyện
Được thoát ba cõi
Đến cửa Niết-bàn
Thấy Phật Thế Tôn
Hàng phục chúng ma
Đạt đến vô thượng
Đạo quả Chánh chân
Khai hóa tất cả
Xuất vạn ức âm
Mười phương chúng sinh
Đều được thọ giáo
Trời. Rồng, Quỷ thần
Đều đến kính lễ
Phát tâm Bồ-tát
Đắc “Vô tùng sinh”,
Hoặc vì Thanh văn
Đoạn ba cấu độc
Thấy khắp mười phương
Không gì chướng ngại.
Các vi La-hán
Bèn tự hối lỗi
Tu hành thế nào
Để được như vậy
Đứng dạy bước đi
Đau buồn tự trách
Sau đó, Như Lai
Thị hiện ba thừa
Thiện quyền phương tiện
Tùy thuận dẫn dắt
Đạo không có hai
Huống chi ba thừa
Các vị Thanh văn
Bấy giờ vui sướng
Tâm họ sáng tỏ
Mây tan trời hiện
Phật đều thọ ký
Sẽ đạt Phật quả
Cõi nước xứ sở
Đều có danh hiệu.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
Các ông có thấy vị Thanh văn Mãn Nguyện Tử này chăng? Ở trong chúng Tỳ-kheo, vị ấy là người giảng Pháp giỏi nhất, làm sáng tỏ, ngợi khen công đức của chư Phật, diễn bày chánh pháp, tinh tấn khuyến trợ, nghe Phật thuyết pháp thì phúng tụng, thọ trì, tuyên thuyết, chỉ bày cặn kẽ cho người chưa nghe, không biếng lười bỏ bê; diễn rộng ý nghĩa, giải thông khúc mắc, ứng đáp cho bốn bộ chúng, chẳng hề mệt mỏi, làm sáng tỏ phạm hạnh, khiến tất cả đều hoan hỷ. Ngoài Như Lai và các Bồ-tát Đại sĩ ra, không ai có tài biện giải nghi vấn bằng Mãn Nguyện Tử.
Này các Tỳ-kheo! Ý các ông nghĩ sao? Vị Mãn Nguyện Tử này đâu phải chỉ vì ta mà làm Thanh văn để thọ giáo pháp. Chớ nghĩ như vậy, vị ấy đã từng hầu cận chín mươi ức Đức Phật, theo chư Thế Tôn nhận lãnh tinh hoa của chánh pháp, ở trong chúng hội thường tuyên thuyết nghĩa kinh, phân biệt không tuệ, tâm không chấp trước. Khi thuyết kinh vị ấy không hề do dự; thấu suốt tất cả, chưa từng bị trở ngại, luôn luôn tận tâm, có sức thần thông như chư Phật Thế Tôn và chư Bồ-tát, suốt đời chỉ tu phạm hạnh. Chúng Thanh văn đều tin tưởng vị ấy, vị ấy bèn dùng phương tiện khéo léo mà cứu giúp làm lợi ích cho họ. Đối với vô số ức trăm ngàn loại chúng sinh, vị ấy đã khai hóa cho vô lượng, vô số người khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Những nơi vị ấy đến đều là thường dân, chỉ bày đạo lớn, khiến họ tin Phật vững chắc. Vị ấy tu tập tất cả các hạnh luôn dùng thân mình làm thanh tịnh cõi nước của chư Phật, việc làm thích hợp để khai hóa chúng sinh. Đối với các Bậc Chánh Giác đều thị hiện làm thị giả. Nay ở đời ta, vị ấy làm người giảng pháp giỏi nhất; mỗi khi thọ nhận chánh pháp, luận giảng khó người bì kịp. Trong hiền kiếp ở tương lai, khi ngàn Đức Phật ra đời vị ấy lại sẽ cúng dường các Đức Thế Tôn và cũng là người giảng pháp giỏi nhất, thường vì vô lượng vô biên các loài chúng sinh giảng giải soi sáng, khuyến hóa tất cả không hạn cuộc số người, khiến họ phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Khi đã tinh tấn tu tập đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát, trong vô số kiếp về sau, vị ấy sẽ thành Phật, hiệu là Pháp Chiếu Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, sẽ ở ngay tại quốc độ này thành Bậc Đại Thánh.
Bấy giờ hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới tạo thành một cõi Phật, đất bằng bảy báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, khe hang, gai gốc, sỏi đá; lầu gác, tinh xá bao quanh dày đặc, toàn bằng bảy báu, xa trông đẹp đẽ giống như cung điện của chư Thiên; cõi trời nhìn thấy thế gian, thế gian trông thấy cõi đời; chư Thiên và người thế gian qua lại, giao tiếp. Cõi ấy không có chin mươi sáu loại và sáu mươi hai kiến kiêu mạn bủa vây; tất cả đều hóa sinh, chẳng phải do người nữ sinh; đều tịnh tu phạm hạnh, ai cũng có oai đức, dùng đại thần túc bay đi trên không; chí luôn tinh tấn, việc làm hoàn bị, trí tuệ thông đạt, dung nhan màu vàng tía hiện rõ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân.
Cõi ấy nhân dân thường có hai thức ăn: Một là Pháp thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô số trăm ngàn vạn vạn các chúng Bồ-tát đều đắc thần thông, phân biệt thấu đáo nghĩa lý khúc mắc. Thanh văn trong cõi ấy đều đạt Thánh hạnh, hành tám môn giải thoát, phương tiện uyển chuyển kỳ đặc, danh đức sáng ngời, đã đến được bờ kia.
Kiếp ấy tên Bảo minh, cõi nước tên Thiện tịnh. Phật thọ vô lượng kiếp, chánh pháp còn trụ lâu hơn. Sau khi Phật diệt độ, mọi người sẽ dựng tháp bằng bảy báu khắp cả nước. Chư Phật mười phương đều cùng nhau ca ngợi công đức của cõi nước ấy.
Đức Phật nói như thế xong, muốn giải nghĩa lại, liền nói bài tụng:
Tỳ-kheo lắng nghe!
Với ý chỉ này
Như lời ta nói
Các trời người đời
Hàn quyền phương tiện
Khéo học rốt ráo
Cần phải tôn sùng
Tu tập hạnh Phật.
Những chúng sinh kia
Yếu kém lười bỏ
Nên phải diễn nổi
Tịch tịnh vi diệu
Thị hiện hai thừa
Thanh văn, Duyên giác
Mà thường trụ trong
Đại đạo Bồ-tát
Phương tiện khéo léo
Biết bao ức ngàn
Dùng để khai hóa
Vô số Bồ-tát
Và chúng Thanh văn,
Lại vì tuyên nói
Phật đạo cao tột
Thật là khó được
Vô số quần sinh
Mong được thuần hóa
Đã được tu học
Tư hành như thế
Hạ liệt lười bỏ
Rơi vào kiêu mạn
Nhưng sẽ thấm dần
Đều thành Phật đạo
Thân, miệng và tâm
Thường theo việc làm
Thanh văn như vậy
Thế lực yếu kém
Sợ, chán tất cả
Đều là tai họa
Nên lại sửa sang
Tịnh cõi Phật mình,
Hoặc lại thị hiện
Thân có dục ái
Giận dữ sân hận
Tăm tối si mê
Thấy các chúng sinh
Mê hoặc tà kiến
Bại hoại bỏ bê
Lưới nghi trói buộc
Thanh văn của ta
Cũng làm như vậy
Tùy nghi theo thời
Hóa độ bọn họ
Dùng phương tiện khéo
Phát khởi tất cả
Đều vì mọi người
Tùy thuận rộng nói.
Này các Tỳ-kheo,
Thanh văn của ta
Việc làm đầy đủ
Ở ngàn ức Phật
Vì mong độ thoát
Với chánh pháp Phật
Thấu suốt thiền tư
Để mà độ thế.
Ở tại chỗ ta
Là đệ tử lớn
Nghe rộng hiểu nhiều
Giảng pháp dũng mãnh
Làm vui chúng sinh
Tâm chẳng mệt mỏi
Hưng phát Phật sự
Xây dựng đạo pháp
Đạt đại thần thông
An trụ cùng khắp
Bậc thầy hoàn hảo
Là ngọn đèn sáng
Quán biết chúng sinh
Thường thấy cội nguồn
Để thuyết kinh điển
Khiến đạt thanh tịnh
Dẫn dụ chúng mê
Ức trăm ngàn vạn
Phân biệt chi bày
Chánh pháp tối thượng
Luôn trụ Đại thừa
Vô thượng chánh chân
Tự thấy quốc độ
Thanh tịnh đẹp đẽ
Ở đời tương lai
Ức trăm ngàn Phật
Khi ấy hầu cận
Phụng kính như thế
Sẽ luôn hộ trì
Chánh pháp tối tôn,
Cũng lại nghiêm tịnh
Cõi Phật của mình
Giảng thuyết kinh điển
Ức trăm ngàn vạn
Khéo léo phương tiện
Luôn luôn dũng mãnh,
Lại sẽ khai hóa
Vô số chúng sinh
Đều trụ đạo tuệ
Không còn các lậu.
Vị ấy phụng thờ
Các bậc Đại Thánh
Sẽ thường giữ gìn
Pháp các Phật ấy
Sẽ thành Như Lai
Đạo Sư tự tại
Tên Pháp Quang Diệu
Sáng tỏ mười phương.
Cõi nước Phật ấy
An lạc vô cùng
Đất bằng bảy báu
Khắp nơi thanh tịnh
Tên kiếp bấy giờ
Gọi là Bảo mình
Thế giới tên là
Thiên tịnh nghiêm sức
Vô số ức ngàn
Các chúng Bồ-tát
Những bậc như vậy
Đắc đại thần thong.
Khi ấy cõi Phật
Khắp chốn ngợi ca
Thần thông quảng đại
Thanh tinh nhiệm mầu.
Lại các Thanh văn
Số đến ức ngàn
Đều là đại Thánh
Hiền thiện, dũng mãnh
Thần túc cao vời
Hành tám giải thoát
Phân biệt giảng bày
Đều được khai hóa.
Cõi nước Phật ấy
Tất cả chúng sinh
Việc làm thanh tịnh
Luôn tu phạm hạnh
Đủ tuệ biện tài
Vẹn toàn các đức
Chúng sinh hiền lương
Đầy đủ sung mãn
Các bậc Hiền nhân
Nhân dân đông đúc
Chỉ ưa kinh điển
Chẳng thích gì khác
Cõi Phật cũng không
Có các người nữ
Không có đường ác
Tai họa khổ đau.
Sắc vàng rực rỡ
Tự có nơi thân
Ba mươi hai tướng
Để tự trang nghiêm
Ở cõi Phật ấy
Không màng ăn mặc
Muốn là có ngay
Nên nói như vậy.
Lúc bấy giờ một ngàn hai trăm vị Thanh văn, mỗi vị đều ngạc nhiên trước việc lạ chưa từng có, ai cũng vui mừng, tự nghĩ: “Thế Tôn thương xót những vị ấy nên họ đều được thọ ký, chắc hẳn sẽ thương chúng ta, khiến được như thế.”
Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn, bảo với Hiền giả Đại Ca-diếp:
– Nay, chúng La-hán một ngàn hai trăm vị có mặt nơi đây, trừ A-nan và La-vân, còn nhóm Thanh văn Tri Bản Tế sẽ cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật; qua số lượng ấy rồi, năm trăm đệ tử đều sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Năm trăm vị La-hán của nhóm các ông Ưu-vi Ca-diếp, Tượng Ca-diếp, Giang Ca-diếp, Hải Ca-diếp, Hắc Diệu, Ưu-đà, A-nan-luật, Ly Việt, Kiếp-tân nậu, Bạc-câu-lô, Thuần nậu… đều sẽ lần lượt thành đạo Vô thượng chánh chân, là Bậc Tối Chánh Giác, đều cùng một hiệu.
Khi ấy, Thế Tôn nói bài tụng tán thán:
Đệ tử của ta
Tên là Bản Tế
Sẽ thành Như Lai
Đạo Sư của đời
Vào đời tương lai
Vô lượng số kiếp
Hóa độ chúng sinh
Vô số ức ngàn
Thành Bậc Tối Thắng
Hiệu là Phổ Quang.
Cõi nước Phật ấy
Tên là Thanh tịnh
Vào đời tương lai
Vô lượng số kiếp
Thường gặp chư Phật
Nhiều không thể tính
Thần túc quang âm
Mạnh mẽ chói sáng
Âm thanh vang khắp
Thế giới mười phương
Ức ngàn chúng sinh
Vây quanh lớp lớp
Chỉ tuyên giảng pháp
Phật đạo tối tôn.
Chư vị Bồ-tát
Luôn tu chánh hạnh
Xe chở đẹp đẽ
Cung điện nguy nga
Nơi chốn dạo qua
Không tưởng nhớ hết
Được nghe thọ pháp
Với Lưỡng Túc Tôn
Thường đến vây quanh
Cõi Phật phương khác
Chư Phật đại Thánh
Cũng giống như trên
Khi đã cúng dường
Khắp các Thế Tôn
Trong lòng hoan hỷ
Nhiều nỗi vui mừng
Các cõi nước ấy
Đều cùng một loại
Các Đại Thánh Hùng
Có cùng một tên
Cao tột trong đời
Đều hiệu Phổ Quang
Đồng lòng như vậy
Nỗ lực tinh tấn
Thọ mạng an trú
Vô hạn dài lâu
Số kiếp đầy đủ
Sáu vạn hai ngàn
Sau khi diệt độ
Chánh pháp vẫn còn
Thánh điển để lại
Số kiếp gấp ba
Rồi đến tượng pháp
Lại sẽ trụ đời
Hơn cả chánh pháp
Cũng gấp ba lần.
Giả sử chánh pháp
Sau khi diệt tận
Đa số nam n ữ
Gặp họa khổ lớn
Các Bậc Tối Thắng
Đại Thánh luân ấy
Hiệu là Phổ Quang,
Các Đại Bồ-tát
Họ đều sẽ làm
Năm trăm Đạo sư
Ai cũng như nhau
Đều thành Phật đạo,
Danh tiếng vang khắp
Mười phương cõi Phật
Có đủ oai thần
Cùng với cảnh giới
Công đức chánh pháp
Cùng loại như trên
Sẽ đều tu theo
Tuyên nói kinh này
Tất cả sở đắc
Đều sẽ như thế,
Hiện ở cõi trời
Và tại nhân gian
Như ta thuở xưa
Lòng từ rải khắp
Chiếu sáng mọi nơi.
Thượng sư cõi người
Với hạnh đã lập
Đều thuận tin theo
Đều được thọ ký
Thương xót chúng sinh
Số nhiều vô lượng
Nhất loạt bình đẳng
Như Phật hiện nay
Chánh chân ở đời
Thế Tôn phát khởi
Vì Ca-diếp nói
Ông nên trì niệm
Năm trăm hiệu Phật
Các chúng Thanh văn
Và các chúng khác
Đã là đệ tử
Đều được tự tại.
Lúc bấy giờ, năm trăm vị Vô trước (La-hán) mắt thấy tai nghe Như Lai thọ ký, vô cùng vui mừng, đi đến chỗ Phật đầu sát đất, ăn năn tự trách:
– Bọn đệ tử thô lậu chúng con nhớ lại lúc trước, tự cho mình đã được chứng nhập Nê-hoàn, không có phương tiện khéo léo, chẳng biết rèn luyện để trở về chánh chân, vứt bỏ tuệ sáng, ý chí mệt mỏi; nay mới được trí tuệ Như Lai, sẽ thành Chánh giác.
Kính bạch Thế Tôn! Ví như có kẻ vào nhà một người có đức nhân từ, được người này lấy viên minh châu đặt trong búi tóc. Kẻ ấy say rượu, nằm ngủ, chẳng tự hay biết. Khi thức dậy quên viên minh châu, chẳng biết để đâu, y bèn đi đến nước khác, vì nghèo túng, đó khát nên phải xin ăn, cùng khổ mà không được gì. Y bèn nghĩ cách lần hồi quay về, được một bữa cơm ngon, trong lòng vui mừng; khi ấy mới nhớ lại khi trước ngủ trong nhà nọ, có người cột cho viên minh châu, không biết nó rơi chỗ nào, liền chạy trở lại xin, tìm đến thấy vị trưởng giả hiền đức ấy. Vị trưởng giả liền gọi y đến bảo: “Ngươi vì sao tự làm khổ nhọc mình, sao không chấm dứt việc đi xin ăn! Ngươi muốn biết vì sao không? Vì khi xưa, ta vận y phục nghiêm chỉnh, đi khắp nơi chọn người cương nghị làm việc lợi ích, đi đến nơi này, lấy viên minh châu bỏ vào búi tóc của ngươi, nay minh châu vẫn còn trong thân, sao chẳng hay biết? Tại sao lại đến ta xin nữa? Ta phải dùng phương tiện gì nữa để người nỗ lực thực hiện. Ngươi nay xin của báu sở dĩ khó được là vì không tự xem xét việc có thể được hay không. Hãy mau mang viên minh châu đến chỗ cung rồng mà đổi, để có các của báu, tùy ý tiêu dùng.”
Xưa kia, Đức Thế Tôn lập hạnh tu tập, khi còn làm Bồ-tát, đã khai mở trí tuệ rộng lớn, nhưng chúng con chẳng hay chẳng biết. Nay chúng con đều đã trụ ở địa vị La-hán, tự cho là đã được giải thoát, ở chốn hiểm nạn cho là yên lành. Như vậy, hôm nay chúng con mới có thể có chí nguyện cầu trí tuệ Phật. Chúng con sẽ dùng pháp này để khai hóa người khác, dùng trí tuệ Như Lai để phân biệt đạo ý. Chư Tỳ-kheo cũng vậy, chớ cho đây là Nê-hoàn.
Thưa các vị Hiền giả! Chúng ta lại phải chính mình gieo trồng gốc phước đức. Xưa kia, Đức Như Lai đã dùng phương tiện khéo léo khai mở dẫn dắt; nay Ngài cũng nói lại kinh pháp như vậy. Với những ai tự chấp thủ là đã được giải thoát, nay đều được Đức Thế Tôn thọ ký cho đạo quả Vô thượng chánh chân.
Khi ấy năm trăm vị Thanh văn thuộc nhóm của Tôn giả Tri Bản Tế nói tụng khen ngợi:
Chúng con nghe vậy
Mới biết lỗi trước
Đã được thọ ký
Quả Phật Vô thượng.
Đảnh lễ Thế Tôn
Mặt trời chói sáng
Xót thương giảng nói
Rọi ánh sáng cho
Giống như kẻ mê
Chẳng thể phân biệt
Cho nên chúng con
Đều được giải thoát
Hôm nay vui mùng
Nghe pháp an trú
Chí nguyện rộng khắp
Thấu rõ mọi việc.
Ví như một người
Lang thang kiếm sống
Bỗng được đi vào
Nhà bậc nhân đức
Nơi ấy trông ra
Giàu có nhiều của.
Khi ấy người giàu
Dọn nhiều thức ăn
Kẻ ấy ngủ say
Chẳng ăn uống gì
Chỉ lấy minh châu
Cột vào búi tóc
Người kia nằm ngủ
Đến khi thức dậy
Ngồi tại nhà ấy
Sung sướng mừng vui.
Gã ngu khờ đó
Rong ruổi kiêm ăn.
Khi vừa thức dậy
Đi đến thành xa
Cầu xin ăn mặc
Nhưng chẳng được gì
Xin được bữa ngon
Tự buộc kiếm sống
Được người cho ăn
Cho là sung sướng
Minh châu trên tóc
Mà tự băn khoăn:
Viên minh châu ấy
Nằm ở chỗ nào?
Đeo mãi trên thân
Mà chẳng hay biết.
Nên khi gặp lạ
Trưởng giả nhân từ
Điều ban bố được
Là việc trượng phu
Tức là chỉ bày
Nói toàn lời thiện
Chỉ rõ diệu bảo
Giáo hóa độ thoát
Người ấy vừa thấy
Liền được an ổn
Nhờ ân vật báu
Đạt được như vậy
Có của vô cùng
Kho tàng đầy ắp
Lại dùng năm dục
Để tư vui chơi.
Thế Tôn cũng vậy
Nói thí dụ này
Chúng con đời trước
Đều phát chí nguyện,
Chẳng phải công hạn
Của Đức Như Lai
Từ thuở xa xưa
Đêm dài tinh tấn.
Nhưng bạch Thế Tôn!
Chúng con hạ liệt
Chẳng thể hiểu biết
Giáo hóa của Ngài
Tâm không chí nguyện
Chẳng chịu tiến lên
Lại lấy Nê-hoàn
Tự vui hoan hỷ,
Theo lời Phật dạy
Nên được tỏ thông.
Nếu có kẻ chấp
Không được diệt độ
Được Phật Như Lai
Khai mở tuệ sáng
Mới thật diệt độ
Giải thoát bậc nhất
Ngọc minh châu này
Thượng phẩm Ly cấu
Hôm nay chúng con
Nghe nghĩa vô cùng
Do Phật khai dẫn
Đều rất vui mừng
Tất cả đồng được
Biệt ký quả diệu.
***
Phẩm 9: THỌ KÝ CHO A NAN VÀ LA VÂN
Khi ấy Hiền giả A-nan tự nghĩ: “Ta có thể nhận được sự thọ ký như thế chăng?” Tâm nghĩ như thế, Hiền giả âm thầm mong ước, liền rời khỏi chỗ ngồi, đến cúi đầu lễ ngang chân Đức Phật, Hiền giả La-vân cũng đến trước Phật, cúi đầu lạy xuống ngang chân Thế Tôn. Hai vị cùng thưa với Đức Phật:
– Xin Thế Tôn vì chúng con mà giảng pháp cam lộ, Thế Tôn là cha lành, lẽ nào chẳng thấu suốt? Người chưa quay về đã được quay về, người chưa được cứu đã được cứu, người chưa được hộ trì đã được hộ trì; đối với chúng chư Thiên và A-tu-luân, Thế Tôn đã tạo dựng biết bao loại thần biến trang nghiêm. Chúng con A-nan, La-vân, người là con của Phật, người là thị giả giữ gìn kho báu chánh pháp. Cúi xin Thế Tôn cho chúng con hoàn thành sở nguyện, được thọ ký đắc đạo Vô thượng chánh chân.
Lại có các Thanh văn khác gồm hai ngàn người chưa đoạn hết phiền não, đều rời khỏi chỗ ngồi, vén y để trần vai phải, chắp tay, nhất tâm chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật mong được (thọ ký).
Đức Phật bảo A-nan:
– Về đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông trước phải cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật, cung phụng, hầu cận, giữ gìn chánh pháp, hộ trì kinh điển; sau đó, cuối cùng sẽ thành tựu quả vị Tối chánh giác. Lúc đó ông sẽ khai hóa cho hai mươi trăm ngàn vô số trời, người, khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Quốc độ của Đức Phật đó thanh tịnh, không cấu uế, đất bằng lưu ly xanh biếc, tràng phan dựng khắp nơi để tự trang nghiêm, thế giới bằng phẳng, không có sỏi đá, núi gò, khe hang, đất đai mềm mại như tơ lụa cõi trời. Kiếp ấy tên là Nhu hòa, không có sấm chớp. Thọ mạng của Đức Phật ấy thật là vô lượng chẳng thể tính đếm, chẳng thể ví dụ, khó đạt được chỗ tận cùng. Các chúng đệ tử, người lãnh hội giáo pháp tới ức trăm ngàn vạn, không thể kể xiết, không thể suy lường. Khi A-nan thành Phật, làm Bậc Đại Thánh, có hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông, thì nhân dân cõi Phật ấy có nhiều thần biến, vây quanh. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp sẽ trụ ở đời gấp bội (thọ mạng Phật), thời gian tượng pháp trụ ở đời lại gấp bội chánh pháp; vô lượng, vô ức trăm ngàn Đức Phật trong mười phương đều sẽ ca ngợi công đức của Đức Phật ấy.
Khi ấy, Thế Tôn nói kệ khen ngợi:
Nay ta tuyên nói
Cho chúng Tỳ-kheo
Nhân giả A -nan
Thân giữ pháp Phật,
Vào đời tương lai
Thành Bậc Tối Thắng
Cúng dường chư Phật
Sáu mươi hai ức
Hiệu là Hải Trì
Giác Lạc Thần Thông
Do vì nghe rộng
Nên thành đạo lớn.
Cõi ấy thanh tịnh
Hiện bày vi diệu
Tự nhiên dựng lên
Vô số tràng phan.
Các chúng Bồ-tát
Như cát sông ngòi
Đều do Như Lai
Giáo hóa thành tựu.
Thảy đều tối thắng
Thần túc vô biên.
Danh Đức Phật ấy
Vang khắp mười phương
Muốn tính thọ mạng
Không thể tính hết.
Giáo hóa thế gian
Bi mẫn vô lượng.
Giả sử Phật ấy,
Sau khi diệt độ
Chánh pháp sẽ trụ
Gấp bội số ấy
Tượng pháp trụ đời
Lại bội hơn trên
Phật ấy tuyên thuyết
Giáo hóa như vậy,
Chúng sinh cõi ấy
Như cát sông Hằng
Khởi tin nhân quả
Trụ vững Phật đạo.
Lúc bấy giờ, tám vạn Bồ-tát mới phát tâm, mỗi vị đều tự nghĩ: “Thật là lạ lùng, việc này chúng ta chưa từng nghe, xưa nay chưa từng có. Đâu có đề cập đến Bồ-tát chúng ta. A-nan là hàng Thanh văn kém trí mà lại được thọ ký sẽ đạt được đại đạo. Vì sao như thế?” Đức Thế Tôn biết tâm niệm của họ, bèn bảo:
– Các thiện nam và chúng Tỳ-kheo hãy lắng nghe, Phật pháp bình đẳng. Này các thiện nam! A-nan vốn đã phát tâm Vô thượng chánh chân từ trước nơi Đức Siêu Không Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác và hiện tại nghe nhiều kinh điển, thường tu tinh tấn, hầu cận ta cũng ân cần chu đáo. Do nhân duyên ấy nên mau đắc đạo Vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác. Hiền giả A-nan vì Phật Thế Tôn vâng giữ tạng pháp, tu hạnh Bồ-tát, xuất gia với ý nguyện cao nhã, vì các thiện nam, mà nhận sự phó thác.
Bấy giờ, A-nan theo hầu bên Đức Phật, được nghe pháp nghĩa rộng lớn vô lượng, được Phật thọ ký sẽ được thành Phật, cùng với quốc độ và hạnh nguyện xưa của mình, hoan hỷ vui mừng, ngay tức khắc nhớ lại vô số ức trăm ngàn vạn kinh điển của các Bậc Chánh Giác; lại thấy được các việc làm của mình trước đây trong quá khứ vô số kiếp, liền nói bài tụng ca ngợi:
Tôi vốn được nghe
Vô lượng chư Phật
Đều nghĩ vì con
Khi nói kinh pháp,
Các đấng Tối Thắng
Nếu có diệt độ
Con đều nhớ đúng
Như điều đã nghe
Con sẽ thành Phật
Tâm chẳng nghi ngờ
Gần gũi như thế
Là khéo phương tiện
Để được an trụ
Địa vị thị giả
Chỉ vì đại đạo
Phụng trì chánh pháp.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Hiền giả La-vân:
– La-vân hãy nghe! Vào đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông sẽ cúng dường phụng sự các Đức Như Lai như số vi trần trong mười thế giới, sẽ vì chư Phật mà hiện làm trưởng tử; cũng như hiện nay làm con ta. Đức Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai đó, cõi nước, thọ mạng, giáo hóa chúng sinh, có các thứ trang nghiêm cũng thanh tịnh như thế giới của Đức Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông. La-vân sẽ làm trưởng tử của các Đức Phật ấy; rồi sau đó sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
La-vân đây là
Trưởng tử của ta
Bé thơ trong trắng
Nhu hòa vô cùng.
Người con Phật này
Sẽ đạt đạo lớn
Thường dung pháp thí
Ban vui nhiều người
Vô số ức Phật
Thấy đều thương mến
Dù muốn tính đếm
Không thể hạn lượng
Đều sẽ làm con
Chư Phật tối thắng
Rồi sẽ thành Phật
Giống chúng Tỳ-kheo.
Lại La-vân này
Việc làm ôn nhã
Lập nguyện thù thắng
Phụng trì chánh giới
Khen ngợi tuyên dương
Đạo sự của đời
Nay ta nói là
Con của Như Lai
Đức nhiều vô lượng
Số cả vạn ức
Dù có suy tính
Chẳng thể lường được,
La-vân này là
Trưởng tử của Phật
Nay đã thông đạt
Trụ Phật đạo vậy.
Lúc bấy giờ A-nan, La-vân cùng bạch Phật:
– Nay chúng con thấy hai ngàn vị Thanh văn học giới đệ tử, trong lòng hân hoan, chiêm ngưỡng tôn nhan, nghe Thế Tôn giảng dạy chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn và đang mong đợi.
Thế Tôn bảo A-nan và La-vân:
– Hai ông có thấy hai ngàn Thanh văn học giới đệ tử kia chăng?
A-nan bạch Phật:
– Dạ, có thấy.
Phật bảo A-nan:
– Bọn họ sẽ cùng tu học pháp Đại thừa, sẽ cúng dường chư Như Lai như số vi trần trong năm trăm thế giới và giữ gìn chánh pháp. Rồi vào đời sau, cùng lúc tụ tập, rồ i phân bố ra mười phương cõi khác nhau, đều đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, hiệu là Bảo Anh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thọ mạng một kiếp, tuệ giác bình đẳng, chư Thanh văn nhiều, ít đồng nhau không khác, các chúng Bồ-tát cũng như thế. Sau khi diệt độ, thời gian chánh pháp trụ đời cũng không khác.
Khi ấy, Phật nói bài tụng:
Các Thanh văn này
Tất cả hai ngàn
Nay đều đứng đây
Ở trước Thế Tôn
Những Thánh trí này
Phật đều thọ ký
Vào đời tương lai
Sẽ được thành Phật
Thị hiện hiển bày
Vô lượng thí dụ
Gặp các Đức Phật
Đều sẽ cúng dường
Rồi sẽ đạt được
Đạo cả Vô thượng
Trong khi tu đạo
Vẫn được tự tại
Danh hạnh khác nhau
Đi khắp mười phương
Đều tu nhẫn nhục
Trong khoảng sát-na
Trở về một chỗ
Ngồi dưới tàng cây
Sẽ đạt Phật đạo
Thành tựu trí tuệ
Đều thành Chánh giác
Tai cả cùng hiệu
Gọi là Bảo Anh
Danh vang thế giới
Cõi nước chư Phật
Bằng phẳng đẹp đẽ
Các chúng Thanh văn
Thảy đều như nhau
Thần túc quang minh
Khắp cả cõi đời
Vòng quanh tất cả
Mười phương quốc độ
Phân biệt kinh pháp
Làm nơi nương tựa
Chánh pháp tồn tại
Như nhau không khác.
Khi ấy, các Thanh văn Hữu học nghe Phật thọ ký, vui mừng phấn chấn liền khen ngợi tán thán Đức Phật:
Con nghe Phật thọ ký
Như ánh sáng chiếu soi
Như được rưới cam lộ
Được bình an vô lượng.
***
Phẩm 10: DƯỢC VƯƠNG NHƯ LAI
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Đạo pháp chỉ có một chứ không có hai thừa, nghĩa là đạo Vô thượng chánh chân từ xưa tới nay không có hai chánh. Thí như các sông ngòi ở bốn phương chảy về biển hiệp thành một vị; như mặt trời tỏa chiếu soi sáng khắp nơi, chưa từng tăng giảm. Nếu thiện nam muốn đạt đến Chánh giác, liễu ngộ không có ba đường ác, không có quá khứ, vị lai, hiện tại, thì phải học và thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, phân biệt không tuệ, không có tưởng về sáu pháp Ba-la-mật, chẳng dùng hương, hoa, kỹ nhạc cúng dường mà là cúng dường vậy. Các ông phải liễu ngộ ba giải thoát, đến được trí tuệ vô cực của tam đạt trí mới là cúng dường. Vì sao? Bởi vì từ xưa, trong vô lượng kiếp lâu xa khó tính đếm, về trước bấy giờ có Đức Phật hiệu là Dược Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu; thế giới tên là Đại tịnh, kiếp tên là Tịnh trừ. Dược Vương Như Lai thọ hai mươi trung kiếp; các chúng Thanh văn có ba mươi sáu ức; Bồ-tát Đại sĩ có mười hai ức. Khi ấy có vị Chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái cai quản bốn khu vực. Vua có một ngàn người con tuấn tú, dũng mạnh, có bảy vị bề tôi Thánh đức hàng phục địch quân. Vua ấy cúng dường Đức Dược Vương Như Lai đủ suốt trong năm trung kiếp; vua cùng với quyến thuộc, tất cả đều hết lòng phụng kính Đức Phật Dược Vương. Sau năm trung kiếp vua bảo với một ngàn người con:
– Ta đã cúng dường hầu hạ Như Lai, các con cũng phải tuân theo nề nếp đó.
Khi ấy, các người con nghe lời vua cha dạy, lại cúng dường Đức Dược Vương Như Lai trong năm kiếp, dâng cúng đồ thượng diệu, thích hợp an lành. Tròng đó, có một thái tử tên là Thiện Cái ở nơi vắng vẻ một mình suy nghĩ: “Nay chúng ta cúng dường Đức Như Lai, nhưng có cách nào đặc thù hơn cách này chăng?”
Trên hư không có một vị trời nương oai thần của Phật nói với Thái tử:
– Thiện nam, nay muốn biết chăng? Có một pháp cúng dường tôn quý vô cùng.
Thái tử hỏi:
– Pháp cúng dường ấy gọi là gì?
Vị Trời đáp:
– Thái tử nên đến hỏi Đức Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ giảng rõ cho Thái tử.
Thiện Cái liền đi đến chỗ Dược Vương, cúi đầu sát đất bạch với Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn! Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển phải như thế nào?
Thế Tôn dạy:
– Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển thâm diệu uyên áo mà Như Lai đã nói là Khai hóa cho tất cả chúng sinh khó lãnh hội, khó hiểu biết ở thế gian, xuất gia xả lợi, có chí cầu kho báu của Bồ-tát, ở trong chốn vắng vẻ xa xôi, dùng ấn Tổng trì mà quán chiếu, nỗ lực tinh tấn không thoái chuyển, thể đạt Trí tuệ vô cực của sáu pháp Ba-la-mật, thiết tha nắm trọn đạo phẩm của Phật, chẳng khởi pháp nhẫn, mở cánh cửa, đi sâu vào chánh điển; có tâm đại Từ bi đối với chúng sinh, hàng phục quân ma, lìa các kiến chấp, thấu hiểu, diễn đạt thông suốt mười hai nhân duyên, không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp thọ, chẳng chấp mạng, có chí mong cầu các pháp Không, Vô nguyện, Vô tướng, chẳng duyên với các hành; ở nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, khuyên dạy các chúng Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa,… khiến không ai là không quy ngưỡng, khai mở kho chánh pháp, bảo hộ Hiền thánh, tuyên dương, hiển bày các hạnh Bồ-tát, giải thoát hoàn toàn các khổ, không chấp ngã, chẳng chấp thân; vì chúng sinh vi phạm cấm giới nên lập ra các phương tiện. Các ma và dị đạo rơi vào kiến chấp điên đảo, tham đắm hữu vi, thường ôm lòng sợ sệt nên phải kêu than. Công đức của chư Phật khiến họ diệt sinh tử, được dứt trừ tai họa và được yên ổn giải thoát. Cần phải tán thán chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại như thế, và phải phân tích thấu đáo sắc tượng vi diệu, tổng trì tất cả cội nguồn các pháp và pháp nhẫn; mở bày, tuyên thuyết, xiển dương các cảnh giới, tùy phương tiện mà cúng dường chánh pháp. Đó là cúng dường pháp. Đối với các kinh, tâm chí luôn trụ trong pháp nhẫn, diễn bày kinh điển, theo đó lặp đi lặp lại nhiều lần, giảng giải pháp yếu, không có các tà kiến, không khởi niệm tin chấp vào quan điểm: “Không từ đâu sinh”, thể nhập lý nhân duyên, thấy rõ vô ngã, vô nhân nên không sân hận, không tranh cãi, không kiện tụng; thấy rõ lý vô ngã, vô thọ, y cứ vào nghĩa lý ngôn từ mà trí không vướng mắc vào sự hiểu biết, không buông thả, chế ngự tâm thức, trụ tâm vào pháp “vô sở trụ”; biết nghĩa lý mục đích, nhờ đó chỉ rõ nghĩa lý sai lầm, gạn lọc, làm lưu thông các pháp chướng ngại, chẳng gây cho người nghe thấy sự ỷ lại vào chân đế mà quay về đúng như pháp vô trước, vô nhập; đoạn trừ tâm niệm vướng mắc, ỷ lại diệt các ngu si; sinh, lão, bệnh, tử đều trừ sạch, luôn quán mười hai nhân duyên, gặp những kiến chấp sai lầm không rơi vào vòng điên đảo. Đó là sự cúng dường pháp của các thiện nam.
Vương tử Thiện Cái vừa nghe Đức Phật Dược Vương giảng về sự cúng dường pháp xong, ngay khi ấy đạt được pháp nhẫn nhu thuận, liền cởi áo trên thân mình choàng lên thân Phật, rồi thưa với Đức Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thánh ân chứng minh cho sự lập nguyện của con: Sau khi Như Lai diệt độ, con nguyện hộ trì chánh pháp, cúng dường làm hưng thạnh chánh pháp, hàng phục quân ma và sẽ tiếp nối giáo pháp trong tương lai.
Khi ấy Đức Phật biết tâm niệm của vương tử, vào đời tương lai sẽ là thành trì giữ gìn chánh pháp, nên bảo với chúng Tỳ-kheo:
– Vương tử Thiện Cái đó trong đời Phật hiện tại, có lòng tin vững chắc, xuất gia hành đạo, luôn tinh tấn tu học, làm phát khởi cội nguồn của các công đức, chẳng bao lâu sẽ thành tựu năm phép thần thông, có sức tổng trì và biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, vị ấy sẽ đạt được đầy đủ sức thần thông tổng trì vô sở úy và ở trong mười trung kiếp, sẽ chuyển pháp luân, truyền bá kinh pháp mà Đức Như Lai Dược Vương đã dạy. Do Tỳ-kheo Thiện Cái hộ trì chánh pháp, giáo hóa suốt trong một đời, nên ngàn ức người đều phát tâm Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển; vô lượng người trụ bậc Thanh văn, Duyên giác, vô số người được sinh Thiên. Các Tỳ-kheo muốn biết vua Bảo Cái lúc ấy là ai chăng? Đâu phả i ai xa lạ, mà chính là Phật Bảo Diệm, Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện nay.
Ngàn người con của vua chính là ngàn Đức Phật xuất thế ở trong hiền kiếp này. Vị đầu tiên là Đức Như Lai Câu-lâu-tần, vị thành Phật sau cùng tên là Hân Lạc; còn Thái tử Thiện Cái chính là thân ta hiện nay. Do vậy các Tỳ-kheo nên biết rằng tất cả sự cúng dường không vượt qua sự cúng dường Pháp, vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đó mà thành. Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được cúng đường mười phương chư Phật, thì nên thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ bày cho tất cả chúng sinh phân biệt rõ là chỉ có một thừa, không có ba thừa.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Giả sử có người
Muốn hiểu đại pháp
Khai hóa tất cả
Đều đạt chánh pháp,
Thì nên thọ trì
Kinh Pháp Hoa này
Chỉ bày xa gần
Cho người chưa nghe.
Như các dòng sông
Đều xuôi về biển
Hợp thành một vị
Chẳng có gì khác,
Thanh văn, Duyên giác
Và Bồ-tát đạo
Tất cả quy về
Vô thượng chánh chân.
Ví như nhật nguyệt
Chiếu khắp trần gian
Trăm loại lúa, thuốc
Gai gốc, cỏ cây,
Pháp Phật cũng thế
Dùng tuệ vô cực
Chiếu soi tam giới
Đều vào một nghĩa.
Xưa có Đức Phật
Hiệu là Dược Vương
Và vị Thánh vương
Tên là Bảo Cái
Năm kiếp cúng dường
Đức Phật Dược Vương
Tất cả đồ dùng
Không hề thiếu thốn.
Rồi bảo ngàn con
Khiến cúng dường Phật
Ngàn con vâng lời
Lòng đều mừng vui
Cúng dường Đức Phật
Cũng đủ năm kiếp
Ăn uống giường nằm
Phướn lọng, kỹ nhạc.
Thái tử Thiện Cái
Nơi vắng, tự nghĩ:
Có pháp cúng nào
Hơn pháp cúng này?
Trên không, trời bảo
Cúng pháp hơn hết.
Chàng liền thưa hỏi:
Cúng pháp là gì?
Vị trời trả lời
Nên đến hỏi Phật.
Thái tử hỏi Phật
Phật giảng đầy đủ
Tạng pháp thâm diệu
Cú nghĩa khó hiểu:
Không, Vô tướng, Nguyện
Thể nhập chánh tuệ
Đại từ, đại bi
Hàng phục chúng ma
Sáu mươi hai kiến
Tự nhiên trừ được.
Các việc vô thường
Khổ, không, phi thân
Vô ngã, vô nhân
Vô thọ, vô mạng
Thuận theo sẽ được
Chẳng khởi pháp nhẫn
Chuyển bất thoái luân
Chiếu soi các pháp
Mười hai nhân duyên
Triển chuyển tương sinh
Rõ pháp vốn không
Không có thỉ, chung.
Khi ấy Thiện Cái
Đạt tâm nhẫn thuận
Sau khi Phật diệt
Giữ thành chánh pháp
Tinh tấn không lười
Chứng đắc ngũ thông
Tổng trì biện tài
Khai hóa tất cả
Cả ngàn ức người
Đều trụ đại đạo
Mười bốn vạn tỷ
Thanh văn, Duyên giác
Số người vô lượng
Được sinh cõi trời
Vì vậy ngợi khen
Cúng pháp là nhất
Giả sử có người
Muốn cúng dường pháp
Thì nên thọ trì
Kinh Chánh Pháp Hoa
Hiểu rõ Như Lai
Khéo dùng phương tiện
Không có hai thừa
Đều quy về một.
Lúc bấy giờ, nhân có Đại sĩ Dược Vương và các vị Bồ-tát, Đức Phật bảo với tám vạn Bồ-tát:
– Hãy quán sát bốn bộ chúng này, có vô số ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Kiền-đạp-hòa, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, hiện tại mắt thấy tai nghe Như Lai nói kinh này. Tất cả người trong hội chúng dù nghe một câu kệ, một bài tụng, chỉ phát khởi một ý niệm hoan hỷ tán trợ, ta đều thọ ký cho bốn bộ chúng sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân.
Đức Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
– Nếu sau khi Như Lai diệt độ, người nào nghe một bài tụng bốn câu của kinh này, mà trong khoảnh khắc khởi tâm tán thán thì ta cũng thọ ký sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân. Phải biết người đó trong quá khứ đã từng hầu hạ trăm ngàn Đức Phật, đã theo trăm ngàn ức Đức Phật phát tâm lập nguyện. Những bậc như thế vì thương xót chúng sinh nên đời sau cũng theo kinh này mà thọ trì, đọc tụng, dù một bài tụng, biên chép trên tre, lụa vẫn khắc ghi nhớ mãi không quên; hoặc nghe âm thanh đọc tụng cung kính quán sát liền biết là văn cú cao tột của Như Lai Thánh Tôn, hoặc dùng hương hoa, gấm lụa, tràng phan, phát tâm cúng dường quyển kinh ấy, chắp tay hướng về kinh, cúi đầu làm lễ thì người ấy được gọi là chỗ quy ngưỡng của thế gian.
Lại bảo Bồ-tát Dược Vương:
– Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì một bài tụng, khuyến khích, hỗ trợ, hoan hỷ khi nghe tên kinh, hoặc được nghe tên kinh rồi học tập tìm hiểu, thì Đức Thế Tôn sẽ lần lượt thọ ký cho thiện nam, thiện nữ ấy tương lai sẽ thành Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Những ai vâng theo kinh này đọc tụng, sao chép, xem, nghe cúng dường tràng phan, hương hoa, lụa là và các thứ hương xông, thì phải biết các thiện nam, tín nữ ấy sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Sau khi diệt độ, nếu gặp Như Lai, thì sẽ trải tình thương đến khắp chư Thiên và loài người, theo sở nguyện của mình mà tâm được tự tại, thường sinh vào cõi người mong muốn diễn nói kinh này. Người ấy vốn đã lập hạnh vi diệu. Do việc đã làm, sẽ sinh vào cõi Phật nghiêm tịnh, thường quán sát nhân duyên để giảng kinh pháp. Phải biết hạng người này thương xót chúng sinh, nên sau khi Phật diệt độ sẽ sinh vào chốn này. Nếu có người làm trái với lời dạy của Như Lai, thì thiện nam ấy sẽ khuyên bảo người ấy làm Phật sự theo và lời dạy của Thế Tôn.
Có người giảng thuyết lời dạy của Như Lai nhưng những điều giảng giải ấy, nếu chẳng thông suốt thì người ấy tiếp tục tìm hiểu. Giả sử có người lánh tình hung hiểm, thường ôm lòng độc hại, chỉ khởi niệm bôi nhọ vị ấy thì tội lỗi khó lường. Nếu trong một kiếp phỉ báng Như Lai, hủy báng vị ấy, thì tội lỗi bằng nhau không khác. Khi vị thiện nam giảng kinh này, nếu có trẻ con thọ trì kinh ấy nhưng có bạch y, Sa-môn dùng lời lẽ thô ác nói với chúng, đem điều bất như ý gán cho chúng, khiến chúng nghe lời nói ác cho là thật, rồi sai lầm loan truyền tiếng oán than, thì sẽ mang tội ác, giống như có ý hại Đức Như Lai.
Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh này mà không du hóa, giảng thuyết cho người khác thì sẽ có lỗi. Nếu có thọ trì kinh này thì phải dùng y phục, thức ăn ngon, hương hoa, đèn lửa, trân châu tốt đẹp mà cúng dường và tôn phụng các thiện nam, thiện nữ ấy là bậc đại bảo, xứng đáng được đảnh lễ. Vì sao? Chính vì có thể một lần được nghe kinh điển này. Nếu ai nghe kinh điển này mà cúng dường thì do đó sẽ có chí nguyện Vô thượng chánh chân.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Nếu muốn trụ Phật đạo
Chí ngưỡng mộ công đức
Nên cúng dường những ai
Đã thọ trì kinh này
Nếu ưa pháp thông tuệ
Tùy hỷ theo nghe pháp
Nên thọ trì kinh này
Và cúng dường người trì.
Người nói kinh pháp này
Thương xót các chúng sinh
Lớn tiếng giữa cõi đời
Đến giáo hóa muôn loài,
Nếu ai trì kinh này
Trọn đời luôn tinh tấn
Tâm dũng mãnh tự đến
Thương xót các chúng sinh
Muốn sinh đâu tùy ý
Rốt sau vào cõi đời
Theo duyên ấy được gặp
Kinh điển tối thượng này
Và sẽ được cúng dường
Hương hoa của trời, người
Y phục và tàng lọng
Thường cúng cho Pháp sư
Luôn kính người ấy
Như cung kính Phật
Chắp tay làm lễ
Thánh đạo tự nhiên
Vào đời sau chót
Gặp được kinh này.
Phật diệt độ rồi
Thọ trì đọc tụng
Phải luôn cúng dường
Như tôn phụng Phật
Các loại đồ ăn
Đầy đủ vị ngon
Phòng ốc giường nằm
Vô số y phục
Một lần được nghe
Cung phụng như thế
Người ấy sẽ được
Như Lai thọ ký
Ta khiến vị ấy
Sinh vào nhân gian
Đến đời sau cùng
Gặp được kinh này
Giả sử người nghe
Biên chép thọ trì
Thì ngay khi ấy
Phật hiện trước mặt
Phỉ báng Như Lai
Trọn cả một kiếp
Trong lòng ôm hận
Sắc mặt biến đổi
Kẻ ấy liền gặp
Vô số họa vương.
Giả sử có người
Thọ trì kinh này
Rồi phân biệt nói
Vì người giảng giải
Mà ai phỉ báng
Thì bọn người này
Tội còn nặng hơn
Không thể kể xiết.
Giả sử có người
Hiện tiền khen Phật
Hai tay chắp lại
Trọn trong một kiếp
Thanh tịnh chí thành
Tôn vinh Phật đạo
Ức trăm ngàn vạn
Người nào tán tụng
Ca ngợi Pháp sư
Khởi tâm hoan hỷ
Người ấy được phước
Chẳng thể cùng tận,
Do đã tán dương
Đức bậc trí sáng
Người ấy được phước
Hơn hẳn người trên.
Rồi có người đến
Cúng dường người học
Ở trong mười tám
Ngàn muôn ức kiếp
Người ấy cúng dường
Món ăn trân quý
Hương hoa cõi trời
Nhẹ mềm đẹp đẽ
Trong vô số kiếp
Mười tám ngàn muôn
Vui vẻ hòa nhã
Chịu khổ hiến cúng
Nếu có một lần
Nghe được kinh này
Được vui lợi ích
Không gì sánh kịp.
Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
– Ta đã có lần tuyên bố là kinh điển mà ta đã nói trước, sau nhiều vô lượng, kinh điển vừa nói và đang nói cũng rất nhiều, so với tất cả các pháp thế gian thì danh vị rõ ràng bao quát, cao cả đệ nhất; những người không tin, không ưa trong khắp thiên hạ, đối với Như Lai Chánh giác không hủy hoại được, chúng ở trong chỗ vắng, theo rình hại Pháp sư thọ trì kinh này, nhưng được oai lực của Như Lai hộ trì, nên chúng không thể phá hoại được, chính là nhờ đời trước đã từng được nghe kinh này. Đức Như Lai hiện còn, có người nghe kinh này, nhưng phần nhiều phỉ báng, huống là sau khi Như Lai diệt độ, khó mà gặp được. Nếu ai có chí nguyện mong cầu thì sẽ được che chở. Quán thấy thiện nam, tín nữ như thế. Các Đức Như Lai hiện tại ở thế giới khác đều chiếu cố. Do tự thân ghi nhớ những pháp đã được nghe nhờ sức tin tưởng, sức thiện căn, sức chí nguyện, nên họ được ở một chỗ trong nhà Như Lai, đó là do cùng loại phước đức nên được như thế.
Cầu nước cam lộ của Như Lai, đặt trọn niềm tin vào tay Phật, đó chính là do hạnh nguyện dời trước mà đạt được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có người tin tưởng kinh Chánh Pháp Hoa này mà thọ trì, sao chép, cúng dường, làm theo, vì người khác giảng thuyết thì phước đức cũng bằng như thế.
Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
– Nếu có người thường giảng dạy, sao chép, đọc kinh này thì ở chỗ người ấy, nên lập chùa thờ Phật, dùng nhiều châu báu xây dựng cho cao rộng, to lớn, không cần phả i thờ xá-lợi Phật. Vì sao? Vì trong ấy đã chứa tất cả xá-lợi của Như Lai. Nơi nào có nói kinh pháp này thì nên phúng tụng, ca vịnh, sao chép; sao chép trên tre, lụa thành quyển kinh rồi, nên cung phụng như là chùa tháp Phật, hướng về làm lễ, cúng dường tất cả hương hoa, các loại hương thơm, hương xông, đờn cầm, đờn sắc, không hầu, tràng phan, lọng gấm. Nếu có chúng sinh nào muốn có chùa Phật để cung kính lễ bái thì nên gần gũi kinh pháp Vô thượng này.
Lại bảo Dược Vương:
– Có nhiều Bồ-tát xuất gia hành đạo và phàm phu bạch y hành pháp Bồ-tát không thể gặp được kinh điển ấy để đọc tụng, sao chép, cúng dường; có vị hành hạnh Bồ-tát, hiểu rõ quyền nghi, giả sử được nghe cảnh giới Phật, pháp hạnh và việc làm của Bồ-tát mà tin tưởng ưa thích, thâm nhập pháp ấy, diễn đạt rõ ràng, liền nhận được sự cúng dường; ở trên tòa ngồi, sắp đạt đến đạo Vô thượng chánh chân. Nếu có người gặp bậc Bồ-tát ấy, thâm nhập ý nghĩa này thì phước đức không thể kể xiết.
Ví như một người quá khát tìm nước, bỏ nơi đất bằng mà đào tìm nước nơi gò cao, ngày ngày ra công đào xới nhưng chỉ thấy đất khô ; trải qua nhiều ngày tháng nhưng mạch nước ngầm vẫn xa xăm, nên không có nước. Lại vào thời gian khác, người ấy đào đất rất sâu mới thấy nước bùn, dơ bẩn không thế uống được. Người ấy phải làm sao? Người ấy không chán nản, đào xuống thêm nữa thì có nước. Khi ấy, người kia thấy hiện tượng tốt thì không còn hồ nghi, không còn do dự nữa, tự nhủ: “Ta bỏ công sức, trải qua ngày tháng, bây giờ mới gặp được nước.”
Cũng như vậy, này Dược Vương, nếu có Bồ-tát nghe kinh điển này mà không thọ trì, tụng đọc, học hỏi thì cách đạo Vô thượng chánh chân còn rất xa vậy. Những v ị tu tập Bồ-tát hạnh ấy, nếu nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà đọc tụng, chuyên cần tu tập, tâm luôn ghi nhớ và theo đó thực hành, thì mới mau thành tựu quả vị Tối Chánh giác.
Tất cả Bồ-tát, nếu có vị nào không chịu thọ trì, đọc tụng, tu hành (kinh này) thì không thể đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vì sao? Trước đây ta đã từng tuyên bố thế này: “Nếu có người không ưa thích kinh này thì còn cách các Đức Như Lai rất xa.” Kính này là đầu mối của đạo pháp, là cội nguồn trí tuệ, thành tựu cho chư Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nghe kinh này kinh hãi sợ sệt và không ưa thích thì nên biết vị ấy là Bồ-tát sơ học. Nếu không kinh sợ thì đó là vị tu hạnh Bồ-tát đã lâu. Nếu Thanh văn gặp được kinh pháp này mà kinh hãi sợ sệt thì kẻ ấy có tâm kiêu mạn, phóng túng.
Phật nói với Dược Vương:
– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát Đại Sĩ muốn đem kinh này nói cho bốn bộ chúng, thì phải mặc áo Như Lai, ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn, sau đó mới tuyên thuyết kinh này cho bốn bộ chúng. Thế nào là mặc áo Như Lai? Đó là tâm nhẫn nhục, nhu hòa, an ổn; như vậy gọi là mặc áo Như Lai. Các thiện nam phải tu tập tâm ấy. Thế nào là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn? Hiểu rõ tất cả pháp đều là Không tịch, an trú Vô tướng, Vô nguyện, đó gọi là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn.
Các thiện nam phải an trụ vào chỗ ngồi như thế rồi mới đem kinh pháp này rộng nói phân biệt cho hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần; tâm vị ấy dũng mãnh không khiếp nhược, chí theo đạo lớn giảng bày cho bốn chúng. Vị thiện nam ấy, nếu ở thế giới tại phương khác, hóa làm người và quyến thuộc hay Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di truyền bá pháp này, nhưng nếu có người nghe mà không ưa thích thì ta liền làm cho họ vui vẻ , khiến họ ưa thích. Nếu ở chỗ vắng vẻ, đồng trống có Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-1ưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, ta sẽ sai hóa nhân nói kinh pháp cho họ. Tuy ta ở quốc độ khác, cũng tự hiện thân khiến mọi người trông thấy. Nếu người thọ trì kinh điển này mà chẳng nhớ hiểu nghĩa kinh, quên mất thứ tự thì ta sẽ khiến cho người tụng đọc, học hỏi, nương vào oai thần của ta mà thấu đạt được thứ tự, ý nghĩ.
Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Dứt bỏ hết khiếp nhược
Nên lắng nghe kinh này
Pháp này khó gặp được
Người tin cũng khó gặp
Như người muốn tìm nước
Đào tìm ở gò cao
Dù luôn luôn gắng sức
Chỉ thấy đất khô thôi.
Vị ấy thấy tự nghĩ
Nước ấy còn rất xa.
Tiếp tục đào sâu xuống
Lại gặp đất khô cằn
Sau đó đào càng sâu
Dần thấy đất ướt hiện
Khi đó lòng hết nghi
Nay đã gần tới nước.
Ai không nghe kinh này
Chẳng thường luôn tu hành
Người ấy cách xa đạo
Cách tuệ Phật cũng thế,
Kinh này rất cao vời
Rõ các việc Thanh văn
Nghe kinh tối cao này
Nghe rồi suy nghĩ nghĩa
Thì được gần đạo lớn.
Người trí thành Thánh tuệ
Giống như thấy đất ướt
Mới biết là có nước
Nên vào nhà của Phật
Mặc áo của Như Lai
Ngồi Thánh tòa Như Lai
Người trí nói điều này
Lòng từ là vào nhà
Nhẫn, nhu hòa là áo
Hiểu “Không”, tòa Sư tử
Rồi nói không sợ sệt
Bị dao, ngói, đá đánh
Bị người khác nhục mạ
Vì để nói pháp này
Ta đều nhẫn lời ấy
Dạo trong ngàn ức cõi
Thân ta vẫn kiên trì
Số kiếp chẳng nghĩ bàn
Vì chúng sinh phân biệt
Sau khi Phật diệt độ
Vì chúng trừ oán kết
Khiến nhiều các hóa nhân
Để nói kinh điển này
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Thiện tín nam và nữ
Nên cúng những vị ấy
Và những vị đến nghe
Đá, gậy đánh, mắng nhiếc
Ôm hận, nói lời ác
Nếu có điềm dữ này
Hóa nhân sẽ răn dạy.
Giả sử ở một mình
Phúng tụng và tu tập
Chẳng bị tiếng hung dữ
Đến thẳng chốn an tịnh
Tại đó người ấy tu
Ngày đêm chỉ một mình
Ta sai người đến cùng
Làm bạn, thuyết kinh này.
Người ấy biện tài
Không gì vướng mắc
Nhiều tài, thấu rõ
Thuận theo các pháp
Khiến người hân hoan
Ức trăm ngàn vạn
Giống sự kiến lập
Của chư Phật thánh
Giả sử có người
Chẳng nương pháp ấy
Thì gọi họ là
Các nghịch Bồ-tát
Người học, du hành
Hoặc ngồi tại chỗ
Được thấy chư Phật
Như cát sông Hằng.
***
Phẩm 11: THÁP BẢY BÁU
Lúc bấy giờ, trước Phật, có tháp bảy báu từ đất hiện lên, cao hai vạn dặm. Vừa hiện lên, nhiễu Phật, rồi vọt lên trụ trên hư không. Tháp ấy màu sắc đẹp đẽ lạ thường, biến đổi ngàn màu; có năm loại hoa rải trên tháp ấy, rơi lả tả như tuyết. Giảng đường của tháp đẹp đẽ trang nghiêm, do vô số vật báu hợp lại tạo thành; trăm ngàn lan can, cửa sổ, cửa lớn, chẳng thể kể xiết; các loại tràng phan, tàng lọng treo rủ xuống; ngọc báu anh lạc, các thứ minh châu đầy khắp hư không giống các vì tinh tú ; trong lư hương, bình báu đầy ắp các loại danh hương; mùi gỗ Chiên-đàn tỏa ngát hương thơm cùng khắp. Dùng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não của các cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới làm lọng báu; lọng ấy cao tận từng trời thứ nhất. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương đều rải hương hoa cúng dường tháp bảy báu.
Trong tháp ấy, tự nhiên phát ra tiếng khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Thế Tôn an trú, đúng như đã nói, đạo đức huyền diệu, cao vời không ai sánh bằng, trí tuệ bình đẳng giống như hư không, chân thật, không gì sai khác.”
Khi ấy bốn bộ chúng thấy tháp bảy báu ở trên hư không cao lớn vi diệu, ánh sáng chiếu rực, soi chiếu khắp nơi, đều khen: “Lành thay!” và mừng vui phấn chấn, đứng chắp tay, chiêm ngưỡng không chán.
Lúc đó có vị Bồ-tát tên là Đại Biện thấy chư Thiên, loài người, trong lòng do dự, vừa lo, vừa mừng, muốn biết hiện tượng này là gì, nên liền đến trước Phật thưa hỏi:
– Kính bạch Thế Tôn! Nay vì duyên cớ gì mà tháp bảy báu cao rộng vô cùng, hiện ra trước Thế Tôn ai ai cũng thấy? Bảo tháp ấy còn tự nhiên phát ra lời khen ngợi “Lành thay!” Do cảm ứng điều gì mà có hiện tượng này?
Thế Tôn bảo với Bồ-tát Đại Biện:
– Trong tháp báu này, có thân Như Lai nguyên vẹn hoàn toàn, không có khuyết hoại. Tại thế giới chư Phật ở phương Đông, cách đây không thể tính biết, có Đức Phật hiệu là Đa Bảo, tên nước là Bảo tịnh, khi còn hành đạo đã tự phát nguyện: “Ta sẽ quyết dùng kinh Chánh Pháp Hoa này để tu hành đạo, khiến các Bồ-tát đều được nghe. Sau đó mới ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, chứng thành đạo Vô thượng chánh chân.” Do chí nguyện ấy của Phật cho nên kết quả đúng như lời nguyện, Ngài đã giảng thuyết kinh pháp khắp mười phương khai hóa tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả. Khi sắp diệt độ, Đức Phật đã dạy chư Thiên, người thế gian và chư Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, phải phụng thờ thân Như Lai, bảo toàn thân ấy một cách hoàn hảo và an trí trong một ngôi đại tháp. Nếu ai thấy tháp ấy, thì biết là có Như Lai trong đó, công đức người ấy khó lường.”
Bấy giờ, Đức Phật đã lập lời nguyện rộng lớn thế này: “Ở mười phương thế giới, nơi nào có giảng kinh Pháp Hoa này, thì tháp bảy báu của ta sẽ hiện ra trước chỗ Phật nói kinh ấy, thân xá-lợi ở trong tháp bảy báu sẽ khen rằng: “Hay thay!”
Phật bảo Đại Biện:
– Tháp bảy báu ấy ở cõi phía dưới về phương Đông, cách đây vô lượng hằng hà sa cõi Phật, trụ giữa hư không, chưa từng xuất hiện. Đức Phật ấy nay thấy ta, Đức Năng Nhân Như Lai, Bậc Chánh Giác, khi tu hành đạo Bồ-tát, vì chúng sinh không tiếc thân mạng, tinh tấn không giải đãi, thực hành phương tiện khéo léo, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, xin đầu cho đầu, xin mắt cho mắt, xin mũi cho mũi, xin tai cho tai, cho đến tay, chân, các bộ phận trong thân, vợ con, người hầu, bảy báu, xe cộ, voi ngựa, y phục, quốc thành, tụ lạc, tùy ý người xin, không có tâm luyến tiếc, cho đến khi đắc Phật quả, nên hiện đến đây để thăm ta và muốn ta ngồi trê n tòa vàng sư tử của Ngài để giảng kinh Chánh Pháp Hoa, khai hóa cho tất cả chúng sinh, khiến họ đều được thấm nhuần ân đức của Đức Phật Thích-ca liền theo đúng như nguyện của Đức Phật ấy, lên ngồi trên sư tử ở giảng đường, phân biệt, giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa, rồi nói bài tụng:
Ai nghe Phật Đa Bảo
Biết danh hiệu của Ngài
Trước sau chưa từng sợ
Lại không gặp nạn khổ,
Nếu nghe tên Dược Vương
Và nhớ danh hiệu Ngài
Các bệnh tự lành dứt
Liền biết được túc mạng.
Tất cả sự cúng dường
Kính pháp là hơn hết
Phân biệt không, vô tuệ
Tự đắc thành Phật quả,
Nói thông kinh Pháp Hoa
Để chỉ hàng thấp kém
Hiểu vốn không ba thừa
Chỉ một thừa Vô thượng.
Phật bảo Đại Biện:
– Nay Đức Đa Bảo Như Lai Chí Chân, ở trong tháp ấy, xa nghe ta thuyết kinh Pháp Hoa này, cho nê n xuất hiện, khen ngợi: “Lành thay!”
Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng các vị trong pháp hội này nay muốn được chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật Đa Bảo. Cúi xin Thế Tôn thương xót gia ân, dùng oai thần khiến cho người trong chúng hội đều được phát tâm đạo lớn.
Phật bảo Bồ-tát Đại Biện:
– Đức Phật Đa Bảo vốn cũng đã phát nguyện: “Tháp của ta đến phương nào để nghe kinh điển này, nếu chư Như Lai và bốn bộ chúng muốn thấy thân ta thì tùy theo ước muốn đó, tất cả mười phương Phật đều phải được thấy, đều cùng cúng dường hóa tượng này.” Này Đại Biện muốn biết thân ta cũng phải cảm được mười phương chư Phật khiến cho hóa thân của Như Lai ở tất cả thế giới đang thuyết pháp đều về nơi đây.
Bấy giờ Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:
– Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót gia ân làm hiện rõ thánh đức của chư Phật trong tất cả mười phương quốc độ!
Đức Phật im lặng nhận lời, tức thời từ nơi lông trắng giữa đôi mày phóng ra hào quang vi diệu, chiếu khắp năm trăm hằng hà sa số, ức trăm ngàn quốc độ của chư Phật. Tất cả Thế Tôn đều hiện rõ ngay nơi quốc độ của các Ngài, ngồi dưới cội cây, trên tòa Sư tử trang nghiêm kỳ diệu và với vô số trăm ngàn Bồ-tát ngồi trên tọa cụ tốt đẹp, trang nghiêm bằng châu báu, đẹp đẽ lạ thường; dây lụa, tràng phan, bảo cái treo rủ xuống bốn phía tòa ngồi của chư Phật. Các Ngài đang vì chúng sinh giảng thuyết kinh pháp, âm thanh nhu hòa ai cũng thông hiểu. Trăm ngàn Bồ-tát mở lòng thọ nhận những điều đã nghe. Vô số trăm ngàn vạn ức hằng hà sa thế giới chư Phật ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và phương dưới cũng đều như thế, không đâu là không thấy.
Khi ấy chư Phật ở mười phương đều bảo với chư Bồ-tát:
– Các thiện nam! Các ông nên đi đến thế giới Kham nhẫn thăm viếng Đức Phật Như Lai Năng Nhân Chí Chân và chiêm ngưỡng hình tượng cùng tháp của Đa Bảo Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, ở thế giới Kham nhẫn tất cả công đức lành huân tập và oai thần vi diệu, đặc thù đều tự nhiên hiện ra; các cây bảy báu xuất hiện chung quanh; mặt đất biến thành lưu ly xanh biếc, dây bằng vàng ròng giăng dài, nối tiếc trang hoàng tám giao lộ mặt đất bằng phẳng; các quận, huyện, ấp, xóm làng, biển rộng, song ngòi, khe suối đều không hiện ra mà tự nhiên chỉ thấy lò hương của chư Thiên đốt các loại danh hương và hoa trời rải khắp. Ở cõi Phật này, khi ấy chư Thiên và nhân dân được dời đến cõi Phật khác. Các chúng hội hiện tại ở trong màn trang hoàng bằng bảy báu đan xen nhau. Các bức màn (bảy báu) đan xen này trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường, chẳng thể tả xiết, khắp cùng cõi Phật này.
Khi ấy, tất cả chư Phật mười phương, mỗi vị đều có thị giả cùng nhau đi đến thế giới Kham nhẫn này. Các Ngài đều đến dưới những cây báu; các cây báu này cao hai vạn hai ngàn dặm, cành lá sum suê, hoa quả tươi tốt; dưới các cây ấy có giường sư tử cao hai vạn dặm, tòa ngồi đều làm bằng các loại châu báu. Như Lai ngồi trên tòa cũng giống như thế. Trong thế giới tam thiên đại thiên này, chỉ thấy chư Phật hiện ra khắp nơi, nhưng chẳng phải là do Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân Đẳng Chánh Giác biến hiện ra mà tất cả đều từ các cõi Phật ở mười phương đến đây, hiển thị oai đức của đạo lớn tối thượng.
Lúc bấy giờ ở tám phương, mỗi phương có hai vạn ức quốc độ của các hóa thân Như Lai do Đức Thế Tôn Thích-ca Văn Phật biến hóa ra, đều không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; chư Thiên và A-tu luân được dời đến thế giới chư Phật ở phương khác, mặt đất bằng lưu ly xanh biếc của hai vạn ức cõi Phật đều hóa sinh ra cây bằng bảy báu; các cây báu ấy cao hai vạn, hai ngàn dặm, cành lá hoa quả sum suê tươi tốt; các tòa Sư tử cao hai vạn dặm. Các cõi Phật ấy đều bằng phẳng, không có sông biển, khe suối, cũng không có các núi như: núi Mục-lân, Đại Mục-lân, núi chúa Tu-di, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi; tất cả các nơi trong cõi Phật, mặt đất đều bằng phẳng, do bảy báu tạo thành, trang nghiêm đẹp đẽ. Tại các giao lộ báu, vui vẻ vô cùng, rải đầy các loại hoa, đốt các danh hương. Dưới các cây báu đều có chư Như Lai ngồi trên tòa Sư tử. Cũng giống như thế, lại riêng có hai vạn thế giới của Đức Phật Năng Nhân, mỗi thế giới trang nghiêm cho các phương, hiển bày thanh tịnh, đều vì chư Phật tạo thành các cõi Phật. Những cõi Phật ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, các hàng Rồng, Quỷ, Thần và A-tu-luân; chư Thiên và nhân dân cũng được đến cõi Phật khác. Mặt đất của các cõi Phật này bằng lưu ly xanh biếc, dùng vàng ròng màu tía làm dây báu nối tiếp giữa các hàng cây ở tám giao lộ; các cây ấy cao lớn đẹp đẽ, tòa Sư tử cũng trang nghiêm đẹp đẽ như trước đã nói; mặt đất bằng phẳng, không có núi, sông, biển…, hương hoa, các báu, ngọc ngà đan xen, ngọc minh nguyệt rủ xuống, cũng giống như trước; đường xá giao thông đi lại cũng như trên, không khác.
Lúc bấy giờ các Đức Như Lai, hóa thân của Đức Phật Thích-ca Văn, tại hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông đang thuyết giảng pháp cũng đều đến; ba ngàn ức Đức Phật Chánh giác ở mỗi phương trong mười phương thế giới cũng đều đến thế giới này. Các Đức Như Lai đều ngồi trên tòa Sư tử báu, mỗi vị đều lấy hoa sen báu trao cho các thị giả và bảo: “Các thiện nam! Các ông hãy đi đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của Đức Phật Năng Nhân, nói danh hiệu của ta, rồi ân cần thăm hỏi Thánh thể, sức lực, sự đi lại của Đức Phật có được khỏe mạnh, an lành chăng? Rồi đem những hoa này, rải cúng dường trên Đức Phật cùng các đệ tử Bồ-tát và chuyển lời của ta là đã khai hóa được nhiều.”
Khi ấy Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân thấy các hóa thân Phật đều ngồi trên tòa Sư tử và các thị giả đã đến rải hoa cúng dường, liền rời khỏi chỗ ngồi, trụ trên hư không; bốn bộ chúng cũng đều đứng đậy chắp tay. Đức Phật dùng ngón tay mở cửa giảng đường của tháp bảy báu, ánh sáng tự nhiên xuyên suốt như ánh mặt trời. Giống như cửa thành lớn mà lấy chốt cửa đi thì trong ngoài thông suốt, Đức Phật Thích-ca Văn dùng hai ngón tay mở cửa giảng đường tháp bảy báu, hiển bày oai đức chẳng thể nói hết, cũng lại như thế. Như Lai mở cửa tháp bảy báu này, thân của Phật Đa Bảo Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác liền hiện ra, ngồi trên tòa Sư tử, màu da tươi nhuận như thường, không bị khô nám, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp như tranh vẽ, miệng lại phát ra lời: “Lành thay, lành thay! Phật Thích-ca Văn thuyết kinh điển này, còn gì vui hơn. Ta vì muốn nghe kinh Pháp Hoa này nên tự xuất hiện.”
Khi ấy bốn bộ chúng thấy Như Lai Đa Bảo Chí Chân Đẳng Chánh Giác, biết là Ngài diệt độ, cách đây trăm ngàn ức kiếp không thể kể xiết, và nghe lời khen: “Lành thay!” thì vô cùng kinh ngạc, cho là từ trước chưa từng có, liền dùng hoa trời rải cúng Đức Phật Thích-ca Văn Phật và Đức Như Lai Đa Bảo. Đức Phật Đa Bảo liền nhường nửa bảo tòa cho Đức Phật Thích-ca. Trong tháp bảy báu có tiếng vang ra: “Xin mời Phật Thích-ca ngồi vào tòa này!” Đức Phật Thích ca liền làm theo lời. Hai Đức Như Lai cùng ngồi một chỗ, trên tòa Sư tử trang trí bằng bảy báu, ở trên hư không.
Khi ấy trong bốn bộ chúng, mỗi người đều suy nghĩ: “Chư Phật chí chân, đạo đức cao viễn không ai có thể sánh bằng, vòi vọi khó lường, không thể kể xiết. Cúi xin Như Lai đoái thương cứu xét gia ân, dùng oai thần khiến chúng con đều được lên hư không.” Đức Phật biết tâm niệm đó, liền hiện thần lực, khiến bốn chúng tự nhiên vọt lên ở trên hư không.
Bấy giờ Đức Phật Thích-ca bảo với bốn chúng Tỳ-kheo:
– Ở trong cõi Kham nhẫn này, ai có khả năng đảm nhận thuyết kinh điển này nay chính là lúc, cũng là cơ hội lớn. Nếu sau khi Như Lai hiện tại diệt độ, thì nên thọ trì, phúng tụng pháp này. Nay Như Lai cũng sắp diệt độ, Tỳ-kheo nên thôi cúng dường, phụng sự Như Lai mà phụng thờ, cung kính kinh này.
Khi ấy Phật nói kệ:
Đại Thánh vô thượng
Đã đế nơi đây
Do Phật đã hiện
Bảo tháp diệu kỳ
Tỳ-kheo muốn biết
Người xưa nghe pháp
Ai biết việc này
Mà chẳng tinh tấn
Diệt độ đến nay
Đã vô số kiếp
Hôm nay lại muốn
Nghe kinh điển này
Cho nên đến đây
Vì tuyên giáo pháp
Được độ vô cùng
Giáo pháp thiện lợi
Ở đời quá khứ
Tự phát thệ này
Nguyện của Đạo sư
Chính là điều ấy
Diệt độ đến nay
Lâu xa cũng vậy
Nay lại hiện ra
Mười phương thế giới
Tự tại đến đây
Từ xa xôi đến
Số ức trăm ngàn
Như cát rạch sông
Cũng vì kinh này
Mà đến nơi này
Đã diệt độ rồi
Mà tự hiện ra
Dạo chơi tất cả
Ở các quốc độ
Thấy tất cả ưa
Hạnh của Thanh văn
Nên muốn hộ trì
Đối với chánh pháp
Vì lý do gì
Kinh trụ dài lâu?
Bởi vì nhờ vào
Đạo của chư Phật
Ở trong vô số
Thế giới chư Phật
Chúng sinh tụ hội
Đi đến cõi này
Sửa sang nghiêm tịnh
Nhờ sức thần túc
Ai cũng tự nói
Nghĩa rộng như thế
Do đâu được nói
Ở Pháp nhãn này
Chư Phật ở đây
Chẳng thể kể xiết
Ngồi ở dưới cây
Nơi chốn đạo tràng
Thân tướng đoan nghiêm
Muôn vàn cao cả
Các Bậc Đạo Sư
Ngồi tòa Sư tử
Thanh tịnh trang nghiêm
Sáng như mặt trời
Như ánh đại quang
Phá tan bóng tối
Hương thơm dìu dịu
Xông khắp mười phương
Dâng lên cúng dường
Thương xót cuộc đời
Các Ngài độ thoát
Tất cả chúng sinh
Ân đức thấm nhuần
Khắp cả nơi đây.
Sau khi ta diệt độ
Người trì kinh điển này
Sẽ mau được thọ ký
Sẽ gặp được Đạo Sư
Sau khi Phật diệt độ
Đức Từ phụ Đa Bảo
Thấy được tòa Sư tử
Trong tháp báu hiện lên
Kế là thân của ta
Ngàn ức đến nơi đây
Chỉ vì Bậc Tối Thắng
Giảng nói kinh điển này.
Nếu nghe pháp này
Thọ trì rốt ráo
Tức là phụng sự
Quy mạng thân ta
Và Đức Đa Bảo
Như Lai tôn quý
Phụng sự chư Phật
Hiện tại mười phương
Và trong tương lai
Kính thờ chư Phật
Trang nghiêm Thánh thể
Đẹp đẽ vô cùng
Đều vì cúng dường
Đầy đủ vô hạn
Vì người tuân theo
Thọ trì kinh này
Vì từng gặp ta
Nghe ta thuyết giảng
Cũng lại được thấy
Thế Tôn trong tháp
Và thấy vô số
Các bậc Đạo Sư
Từ trăm ngàn ức
Quốc độ đến đây.
Thiện nam tử, khéo nghĩa
Thương xót các chúng sinh
Nơi đây thật khó gặp
Chốn Đạo sư ưa thích.
Vô số các kinh điển
Giống như cát trong sông
Phật tuy nói kinh ấy
Chưa phải là kỳ đặc.
Người dùng tay đỡ nhấc
Núi Tu-di kia lên
Nhảy qua ngàn ức cõi
Không đủ cho là khó,
Dù có người phân biệt
Nói trăm ngàn chứng cứ
Nghe khắp các cõi Phật
Không đủ cho là khó,
Hoặc trụ cõi cao nhất
Vì trời người giảng pháp
Tuyên nói vô số kinh
Cũng không là kỳ diệu
Sau khi Phật diệt độ
Mạt pháp năng thọ trì
Tuyên nói kinh điển ấy
Như vậy mới kỳ đặc,
Hoặc chỉ dùng một tay
Nắm trọn cả hư không
Cho đến chỗ vô cùng
Không đủ cho là khó
Sau khi ta diệt độ
Nếu quay về Thánh tượng
Sao chép kinh điển này
Mới gọi là kỳ đặc,
Hoặc lấy mười phương cõi
Để trên đầu móng chân
Đem đi đâu tùy ý
Lên để cõi Phạm thiên
Việc này không phải khó
Tinh tấn không gì lạ
Không bằng ở đời sau
Khoảnh khắc đọc kinh này
Giả sử gặp kiếp thiêu
Mang cỏ đi trong lửa
Nhưng vẫn không bị cháy
Không đủ cho là lạ
Sau khi ta diệt độ
Nếu thọ trì kinh này
Và vì người giảng nói
Như vậy mới thù đặc
Nếu có người thọ trì
Tám vạn các Pháp tạng
Nói đúng như đã nói
Khai thị ngàn vạn người
Tỳ-kheo ở thời ấy
Khai hóa chư Thanh văn
An trụ trong thần thông
Cũng chưa lấy làm lạ
Nếu trì kinh điển này
Vui tin và ưa thích
Luôn học hỏi, ngợi khen
Như vậy mới thù thắng
Dù kiến lập vô số
Ức ngàn ngôi bảo tháp
Nhờ Đại thánh lục thông
Nhiều như cát sông Hằng.
Sau khi Phật diệt độ
Nếu ai trì kinh này
Thì công đức người ấy
Khó ai vượt qua được
Trăm ngàn các thế giới
Thuyết pháp không kể xiết,
Nay ta cũng tuyên n ói
Phân biệt trí tuệ Phật
Trong tất cả các kinh
Kinh này là hơn hết.
Người phụng trì kinh này
Là thị giả chư Phật
Thiện nam tử giảng thuyết
Trước Như Lai hiện tại
Đời sau trì kinh này
Hiền thánh mới kham nhận
Trì kinh này phút chốc
Tức là phụng kính Phật
Và tất cả Đạo Sư.
Kinh này khó gặp được
Tất cả mười phương Phật
Hiện ra để ngợi khen
Người dũng mãnh oai thần
Đã đạt được thần thông
Danh đức nhuần thấm khắp
Chư Phật đều mến thương
Chỉ vì trì kinh này
Nên đạt được tịch định.
Đạo Sư diệt độ rồi
Vì các trời, loài người
Hiện làm người dẫn đường
Tuyên bố kinh điển này
Ở vào đời vị lai
Khoảng khắc nói kinh này
Thì tất cả chúng sinh
Đều cúi đầu đảnh lễ.
Lúc bấy giờ Đức Phật Năng Nhân nói với các chúng hội:
– Ta từ vô số kiếp khó thể tính đếm, cầu kinh Pháp Hoa chưa từng mệt mỏi. Khi làm quốc vương, ta tu sáu pháp Ba-la-mật, bố thí vàng bạc, pha lê, lưu ly, hổ phách, san hô, châu ngọc, xa cứ, mã não, đầu, mắt, da thịt, tay chân, các bộ phận cơ thể, vợ con, nam nữ, voi ngựa, xe cộ, chẳng tiếc thân mạng.
Lúc bấy giờ nhân dân sống lâu không thể tính đếm. Ta vì chánh pháp mà vứt bỏ ngôi vua, giao cho thái tử để đi cầu kinh điển lớn; đánh trống, khua mỏ, tuyên bố cho khắp cả trong và ngoài nước được biết là ai có khả năng vì ta mà diễn nói đại kinh điển thì ta sẽ làm nô bộc để cung phụng và sai xử. Khi ấy có một vị Phạm chí đến bảo: “Ta có kinh điển lớn tên là Chánh Pháp Hoa. Nếu chịu làm nô bộc của ta, ta sẽ ban cho.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Ta nghe lời ấy rất vui mừng bèn theo phụng sự, hầu hạ vị Phạm chí ấy, cung cấp các thứ cần dùng như đồ ăn, thức uống; phục dịch quét dọn, lau chùi, đi hái rau quả , cất giữ lương thực, chưa từng mệt mỏi bỏ bê, hầu hạ cả ngàn năm mà không chán ngán.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Đánh trống gõ chuông
Tuyên bố xa gần
Muốn cầu đại điển
Kinh Chánh Pháp Hoa
Nếu ai ban cho
Ta làm người hầu
Đi theo phục dịch
Cấp thứ cần dùng
Cam lòng nghe theo
Không dám lười trễ
Đảm nhận cúng dường
Không màng sức khỏe
Chỉ muốn nghe được
Kinh Chánh Pháp Hoa
Nguyện khắp mười phương
Không phải vì mình
Vua ấy tinh tấn
Chưa từng nghỉ ngơi
Cung phụng áo cơm
Chẳng cầu ngon ngọt
Thương xót chúng sinh
Những kẻ chưa độ
Rồi vào khi ấy
Được kinh Pháp Hoa.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Quốc vương khí ấy chính là ta, còn vị Phạm chí chính là Điều-đạt. Nay ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đại Từ, đại Bi, thành tựu bốn tâm bình đẳng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc màu vàng ròng, mười Lực, bốn pháp Vô sở úy, bốn sự không bảo hộ, mười tám pháp Bất cọng, oai thần tôn quý, độ thoát mười phương đều là nhờ sức ân đức của Điều-đạt. Vô số kiếp về sau, Điều-đạt sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Độ Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Thế giới tên là Thiên cù.
Khi ấy Phật Thiên Vương rộng nói kinh pháp, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô số không thể kể xiết người cầu Duyên giác thừa, hằng hà sa vô lượng nhân dân đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển. Đức Phật ấy thọ hai mươi trung kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp trụ hai mươi trung kiếp; xá-lợi không phân chia, để nguyên một chỗ, dựng tháp bảy báu, cao sáu mươi dặm, rộng tám mươi dặm để thờ. Người trong khắp thiên hạ đều đem hương hoa kỹ nhạc đến cúng dường và ca tụng công đức, nhiễu quanh bảo tháp làm lễ, số người chứng đắc quả A-la-hán không thể kể xiết; vô số người có chí cầu Duyên giác thừa; vô số chư Thiên, loài người không thể nghĩ bàn phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, chí không thoái chuyển. Nếu thiện nam, thiện nữ được nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà trong tâm thông suốt, không còn hồ nghi, thì bít lắp ba đường, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sẽ được sinh đến ở trước chư Phật mười phương, học hỏi, thọ trì chánh pháp; hoặc sinh về cõi trời nhân gian giàu có; hoặc tại trước Phật, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bảy báu.
Khi ấy, vị Bồ-tát tên là Trí Tích, ở phương dưới, theo hầu Đức Thế Tôn Đa Bảo, thỉnh Phật Đa Bảo nên quay về bản quốc.
Đức Phật Năng Nhân liền bảo với Bồ-tát Trí Tích:
– Ta có vị Bồ-tát tên là Đoàn Thủ Đồng Chân, ông hãy đợi giây lát, cùng nhau gặp gở thà m hỏi vì xa vắng đã lâu và cùng giảng giải kinh điển, rồi sẽ về bản quốc-
Lúc đó Đoàn Thủ ngồi trên hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn như bánh xe và cùng với chư Bồ-tát khác cũng ngồi trên hoa sen báu, từ cung Long vương vọt lên khỏi biển lớn. Đoàn Thủ Đồng Chân rời khỏi hoa sen báu, đảnh lễ hai Đức Thế Tôn, xong rồi cùng Bồ-tát Trí Tích thăm hỏi nhau.
Bồ-tát Trí Tích hỏi Đoàn Thủ:
– Ngài đã vào biển sâu hóa độ được bao nhiêu?
Đáp:
– Số ấy vô lượng, không thể kể xiết, miệng chẳng nói hết, tâm không lường hết. Chẳng bao lâu nữa, sẽ tự ứng hiện.
Ngay lập tức một hoa sen từ biển vọt lên trụ trên hư không, có vô số Bồ-tát đều ngồi trên đó. Những Bồ-tát này đều do Đoàn Thủ đã hóa độ ở biển, đều phát tâm, chí cầu đạo Vô thượng chánh chân, cùng ở trên hư không giảng pháp Đại thừa. Những vị vốn phát tâm Thanh văn ở trên hư không nói hạnh Thanh văn nay đã hiểu biết Đại thừa.
Đoàn Thủ liền bảo với Trí Tích:
– Tại biển, tôi đã giáo hóa được như thế đó.
Bồ-tát Trí Tích dùng tụng để hỏi:
Ngài trí tuệ vô cùng
Ở biển, độ chúng sinh
Chỉ vì bày chánh giáo
Phân biệt nói pháp gì?
Đoàn Thủ đáp:
– Tại biển, tôi chỉ diễn nói kinh Chánh Pháp Hoa.
Trí Tích lại hỏi:
– Pháp ấy sâu xa, cao cả nhiệm mầu khó đạt, có ai có khả năng giác ngộ tức thời không?
Đoàn Thủ đáp:
– Có con gái của Long vương mới tám tuổi, thông minh, trí tuệ siêu việt khác thường phát tâm cầu đại đạo, chí nguyện rộng lớn, tánh hạnh hòa nhã, cử chỉ khoan thai, có thể thành Phật.
Trí Tích nói:
– Tôi thấy Đức Năng Nhân là Bậc Đại Sư khi còn làm Bồ-tát cầu Phật đạo đã tích chứa công đức, tinh tấn không biếng lười, trải qua số kiếp không thể tính đếm được, mới đạt quả vị Phật. Tôi không tin vị nữ nhân ấy có thể thành Phật được.
Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên vị nữ nhân ấy xuất hiện, cúi đầu làm lễ, nhiễu Phật ba vòng, đứng sang một bên, khen ngợi:
Đạt công đức thù diệu
Hiện ba mươi hai tướng
Được chư Thiên cung kính
Rồng, thần đều quy ngưỡng,
Tất cả loài chúng sinh
Không ai không tôn phụng
Nay tôi muốn thành Phật
Thuyết pháp cứu quần sinh.
Khi ấy Xá-lợi-phất bảo với vị nữ nhân:
– Tuy Nhân giả đã phát tâm và có trí tuệ siêu việt nhưng không thể đắc quả Phật. Lại như thân nữ nhiều kiếp tinh tấn, chứa nhóm công đức cao vời còn không thành Phật được. Vì sao? Vì thân nữ không đạt được năm bậc: Một là Thiên đế, hai là Phạm thiên, ba là Thiên ma, bốn là Chuyển luân thánh vương, năm là Đại sĩ.
Khi ấy Long nữ liền lấy một viên ngọc như ý quý giá lập tức, dâng lên Đức Phật. Phật liền thọ nhận. Long nữ hỏi Xá-lợi-phất và Trí Tích:
– Tôi dùng viên ngọc ấy dâng cúng Thế Tôn, Thế Tôn nhận lấy có nhanh không?
Đáp:
– Rất nhanh!
Long nữ nói:
– Nay tôi đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác còn nhanh hơn việc ấy.
Ngay khi ấy Long nữ ấy liền biến thành vị Bồ-tát nam tử và lập tức thành Phật, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và các vẻ đẹp. Chúng hội đều thấy rõ quốc độ, biết rõ danh hiệu, cho là việc lạ lùng chưa từng có; vô số Trời, Người, Rồng, Quỷ thần đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân; ba ngàn thế giới đều hiện ra sáu loại chấn động; ba vạn vị Đạo tích (Thanh văn) cũng đạt tâm không thoái chuyển, đều sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Xá-lợi-phất và Bồ-tát Trí Tích im lặng tin nhận.
***
Phẩm 12: KHUYẾN THUYẾT
Lúc bấy giờ có Bồ-tát tên là Dược Vương, lại có Bồ-tát tên là Đại Biện cùng hai vạn Bồ-tát khác ở trước Đức Thế Tôn thưa:
– Cúi xin Đấng Đại Thánh hãy an nhiên tuyên giáo, chớ âu lo. Sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con sẽ cùng nhau phân bố, giảng thuyết kinh này để chỉ bày cho chúng sinh. Giả sử có người tánh tình ngang ngược tự chuyên không sửa đổi, đức mỏng vô phúc, tâm tánh tự đại, tham của cúng dường, không đủ căn lành xa lìa giải thoát, khó thể thành tựu thì bạch Thế Tôn, chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục, tại thế giới ấy, thọ trì kinh điển này, biên chép, đọc tụng, cúng dường phụng sự, mang theo bên mình. Ngoài ra, chúng con còn tuyên nói kinh này để báo ân an trụ.
Bấy giờ có năm trăm vị Tỳ-kheo Hữu học và Vô học trong chúng hội, bước tới bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Chúng con xin đảm nhận tuyên bố kinh này. Lại nữa, bạch Thế Tôn chư vị Thanh văn Hữu học, Vô học của chư Như Lai ở thế giới khác, Ngài đã thọ ký thành đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.
Lại có tám ngàn Tỳ-kheo bạch Phật:
– Xin Thế Tôn an tâm, chớ lo ngại. Sau khi Ngài diệt độ, chúng con sẽ giảng nói rộng rãi, truyền bá kinh này, cũng sẽ truyền bá ở thế giới khác. Vì sao? Vì ở thế giới Kham nhẫn này, con người nhiều kiêu mạn, cội đức nông cạn, tâm thường bị loạn động như bị lửa thiêu, mê hoặc trong ba cõi, chẳng thể tự an.
Lúc bấy giờ Tỳ-kheo-ni Đại Kính cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni quỳ ngước nhìn Thế Tôn, không hề mệt mỏi và thưa với Đức Phật:
– Đấng Đạo Đức chí tôn, cao vời vô lượng, siêu tuyệt hư không, không ai sánh kịp!
Phật liền bảo:
– Kiều-đàm-di và các vị chớ ôm lòng lo âu, buồn rầu mà nhìn Thế Tôn như vậy. Các vị tưởng rằng Thế Tôn không đề cập đến, và không thấy thọ ký cho thành đạo Chánh giác chí chân Vô thượng ư? Tất cả chúng hội đều hòa đồng như nhau.
Khi ấy Đức Phật tuyên bố thọ ký cho mọi người sẽ đạt quả vị Vô thượng chánh chân, đều giống nhau không sai khác. Ngài bảo Kiều-đàm-di:
– Về sau, người sẽ gặp và cúng dường phụng sự ba vạn tám ngàn ức Đức Phật, sẽ là Bồ-tát thường làm Pháp sư. Và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học này vì các loài chúng sinh cũng làm Bồ-tát Pháp sư. Tất cả lần lượt đầy đủ hạnh Bồ-tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hàm Kính Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Sau khi thành Phật, khai hóa nhân dân, tất cả đều lần lượt thọ ký cho nhau sẽ thành Phật, độ thoát vô số người không thể kể xiết.
Khi ấy vị Tỳ-kheo-ni, mẹ của La-vân và Tỳ-kheo-ni Trì Danh Văn tự nghĩ: “Nay Phật Thế Tôn không thương xót ta, chỉ riêng ta bị bỏ quên.”
Bấy giờ Đức Phật bảo với Tỳ-kheo-ni Danh Văn:
– Nay ta tuyên bố với chúng hội xa gần rằng, ngươi sẽ tu tập ở chỗ mười vạn ức Đức Phật, thường làm Pháp sư, phụng trì hạnh Bồ-tát, tuân theo đầy đủ, sẽ đắc quả Phật, hiệu là Cụ Túc Bách Thiên Quang Tràng Phan Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thế giới của Phật ấy tên là Nhân hiền. Bấy giờ hào quang oai thần của Phật ấy vô số trăm ngàn, thọ mạng vô hạn.
Tỳ-kheo-ni Đại Kính Quỳ và Tỳ-kheo-ni mẹ La-vân được điều chưa từng có, lo mừng lẫn lộn, liền nói kệ khen ngợi Phật:
Thế Tôn đã khai thị
Đấng Đạo Sư muôn loài
Khai hóa ở thế gian
Gồm cả trời và người
Được trời, người cung phụng
Nay đây được an ủi
Bởi vì Đại Đạo Sư
Làm chúng con thỏa chí.
Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, bạch với Đức Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Chúng con vui tin theo pháp huấn của Phật, nhận lãnh đọc tụng và truyền cho người khác và đến thế giới khác.
Khi ấy Đức Thế Tôn xoay nhìn tám mươi ức vạn trăm ngàn vị Tổng trì Khai sĩ (Bồ-tát), những bậc chuyển pháp luân bất thoái. Chư Bồ-tát thấy Phật nhìn đến, liền chắp tay bạch Phật:
– Cúi xin Thế Tôn giao phó kinh điển ấy cho chúng con để chúng con được giảng thuyết, lưu bố và để hiểu biết rõ ân đức của Phật.
Các thiện nam ấy hân hoan ngước nhìn Thế Tôn và cũng xét lại mình, đời trước đã thực hành hạnh nguyện bình đẳng, nên ở trước Đức Phật, lớn tiếng thưa:
– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu kinh pháp này ở khắp mười phương, chúng con sẽ biên chép, thọ trì, phúng tụng, tư duy nghĩa lý, phân biệt truyền bá, và chỉ bày khai hóa người khác cũng làm như vậy và bằng hữu chúng con ở các cõi khác cũng làm theo lời Phật dạy. Xin Đại Thánh gia ân, dẫn dắt chúng con khiến được thành tựu.
Lúc bấy giờ các vị Đại sĩ Bồ-tát đồng lòng hiệp ý, ở trước Phật, nói bài tụng:
Cúi xin Thế Tôn
An nhiên lặng lẽ
Sau Phật diệt độ
Xiển dương lời Phật.
Mạt thế về sau
Sợ có hoạn nạn
Nên ban tuyên khắp
Phân biệt kinh này.
Nên bị người đánh, mắng
Dùng đá để ném, quăng
Đại Thánh trong đời sau
Gặp họa ác sẽ nhẫn
Giảng giải khó lãnh hội
Dua nịnh, si kiêu mạn
Về sau ở núi rừng
Không được nói có được.
Kẻ vô trí ở núi
Phải lấy gì giải đáp
Một mình buông thả tâm
Ôm lòng ác, không nhẫn
Ưa ở chỗ tiếng ác
Sẽ vì nói kinh pháp
Lời giảng ra quyết trừ
Giống như sáu thần thông
Hung bạo ôm tâm độc
Chỗ vắng hành ý này
Một mình vào chỗ vắng
Chẳng ưa sự mắng chửi
Cho chúng con không nhẫn
Đắm trước việc lợi dưỡng
Gọi là người ngoại đạo
Nói bố thí vì mình
Đối với kinh tinh tấn
Bới do của cúng dường
Ở trong chúng giảng thuyết
Là vì danh dự thôi
Hoặc đến cung của vua
Đại thần và quan thuộc
Phạm chí cùng trưởng giả
Hoặc chỗ Tỳ-kheo khác
Hủy báng chúng con ác
Việc làm như tà đạo
Chúng con đều nhẫn được
Luôn phụng hầu đại Thánh
Khi ấy lìa lo âu
Nếu đã nhẫn nhục được
Thì đem lời Phật dạy
Khuyên răn giáo huấn họ
Kiếp loạn, Tỳ-kheo tranh
Hung bạo rất kinh sợ
Mắng chửi hết chúng con
Các Tỳ-kheo như quỷ
Ở đời hành cung kính
Đều nhẫn được khổ nạn
Lấy thuận hòa mềm mỏng
Vì để nói kinh này.
Chúng con không ham thân
Cũng chẳng tiếc thọ mạng
Sẽ phụng trì kinh này
Chí nguyện thành Phật đạo.
Thế Tôn biết đầy đủ
Tỳ-kheo hung ác ấy
Về sau đời mạt thế
Sẽ phân biệt hiểu rõ,
Nhan sắc thường không vui
Luôn luôn phạm lầm lỗi
Du hành không đúng thời
Y phục không tề chỉnh.
Giả sử Phật diệt độ
Sau, vào thời mạt thế
Chúng con giữa chúng hội
Dũng mãnh nói kinh này
Nếu người cầu tịch diệt
Hoặc có điều mong cầu
Sẽ ban cho tại chỗ
Không xa rời Phật trí
Vì yêu thương cuộc đời
Nên tu tâm Từ bi
Thiểu dục, hành tri túc
Đạt diệt độ vắng lặng
Tất cả ánh sáng trần
Mười phương đều tụ hội
Lời chí thành chúng con
Biểu hiện tâm chân thật.
***
Phẩm 13: AN LẠC HẠNH
Khi ấy, Đại sĩ Đoàn Thủ bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này đang kính ngưỡng Thế Tôn, là những vị mà sự khuyến hóa của các ngài khó ai bì kịp. Vậy lúc nào thì nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh này?
Phật bảo Đoàn Thủ:
– Bồ-tát trước hết an trú trong hai pháp mới nên giảng nói kinh này: một là oai nghi, hai là lễ tiết. Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu biết oai nghi? Nếu đem tâm nhẫn nhục nhu hòa mà hộ trì tâm ý sợ sệt không tự chủ, làm cho ý chí vững vàng như đất, không thấy có người. Tuy không thấy có người mà vẫn hành pháp, quán tướng tịch nhiên, các pháp vốn không, cũng không tưởng niệm các pháp này là khuôn phép của các hạnh, thì gọi đó là oai nghi.
Thế nào gọi là lễ tiết? Nếu Bồ-tát không theo phụng sự cho quốc vương, thái tử, đại thần, quan lại, không giao tiếp với ngoại đạo, dị học, không ham chuộng học tập sách vở thế tục, ca ngợi âm nhạc, tập tục hôn phối, không gần gũi kẻ đồ tể, ngư phủ, chài lưới, thợ săn bắn chim muông, giặc cướp, không cùng ở nơi đông đảo ca nhạc, du hý, không làm việc cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ cầu quả Thanh văn, cũng không gần gũi lễ bái, thăm hỏi, không cùng ở chung, không cùng bè bạn kinh hành, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, trừ khi cùng đi đến hội giảng kinh, chỉ được cùng ở trong hội giảng kinh, dù có nói điều gì cũng không tham đắm, thì như vậy gọi là lễ tiết.
Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ không luyến tiếc nhà cửa, tông tộc, thân thuộc, không mãi mê nghĩ tưởng đến nữ nhân khi nói kinh pháp cho họ, cũng không thường đến chỗ đông đảo trẻ con, nam nữ và các người khác mà nói lời êm ái về điều không nên thuyết giảng, không vì định ý riêng tư mà nói kinh, không cũng đứng, cũng không cùng hẹn ước, cũng không một mình cùng một Tỳ-kheo-ni nào đi vào nhà, trừ khi nhớ nghĩ đến sự tinh tấn của Như Lai mà đi. Nếu vì nhân duyên nói kinh cho nữ nhân thì trong trường hợp này không làm ô nhiễm pháp vị, không làm cho họ không lãnh hội, mà chỉ rộng bàn về nghĩa lý, không cùng ở một chỗ với Sa-di, Tỳ-kheo-ni, trẻ em nam, nữ thường ưa ngồi chỗ yên tĩnh u nhã, thích nơi thanh vắng tịch lieu. Như vậy gọi là lễ tiết.
Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ quán tất cả pháp đều là rỗng không, nhưng nếu chấp chặt như thế là rơi vào điên đảo. Chỗ đứng của Thánh đế là thường trụ như pháp, chuyên giữ cho thân tâm không lay, không động, không thoái, không chuyển, xả bỏ, diệt tận, chẳng sinh chẳng có, không có tự nhiên, vô vi, vô số, không có cái gì có thể có, đạt đến vô sở hữu, loại bỏ ngôn từ, không trụ vô vi, không tưởng, chẳng tưởng, chế phục các tưởng. Giả sử Bồ-tát quán sát sâu xa tất cả pháp này, khẩn thiết tu hành những điều nên hành này thì thường trụ hai việc oai nghi, lễ tiết vậy.
Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại ý nghĩa này nên nói bài tụng:
Nếu Bồ-tát ưa thích
Giảng nói kinh điển này
Thì ở vào đời sau
Dũng mãnh không khiếp sợ.
Theo oai nghi lễ tiết
Làm sáng hạnh thanh bạch
Với quốc vương. thái tử
Đại thần cùng quan thuộc
Ngoại đạo và dị học
Hạng săn bắn, ác hại
Hạn chế việc giao du
Và không cùng qua lại.
Tỳ-kheo cầu La-hán
Ngoại trừ mặt Giới luật
Không gần người tự đại
Lại xa kẻ phạm cấm,
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Bàn luận và chuyện vãn
Xa lìa thanh tín nữ
Không nói lời vô ích,
Hiện tại muốn đạt pháp
Phải nên dứt điều quấy
Ưa ở nơi vắng lặng
Gọi đó là oai nghi.
Nếu kẻ không chịu đến
Học hỏi về đạo pháp
Vì kẻ ấy thuyết giảng
Không sợ, không chấp trước,
Chúng sinh bị bệnh hủi
Hoặc bà con họ hàng
Người mẹ, các sắc đẹp
Đều phải nên xa lìa.
Không cùng họ gần gũi
Chỉ vun trồng cội đức
Nên bỏ việc bán buôn
Kiêu mạn, không cung kính,
Từ bỏ các trú xứ
Không để hại đến thân
Biết bao loài chúng sinh
Chớ nên ăn thịt chúng.
Dứt trừ các tội lỗi
Người vui giận oán hờn
Tành tình thường như vậy
Cũng chẳng cùng luận đàm,
Không gần kẻ giả dối
Kẻ tánh tình tự chuyên
Những người tánh như vậy
Đều phải nên xa lánh.
Người trí có cơ duyên
Vì người nữ thuyết kinh
Không được đi một mình
Không dừng chỗ vui chơi
Nếu ra vào thôn xóm
Thường thường đi khất thực
Dẫn một bạn Tỳ-kheo
Luôn luôn nhớ tưởng Phật.
Nên Phật trước thị hiện
Oai nghi lễ tiết ấy
Ai phụng trì kinh này
Phải siêng năng thực hiện
Kẻ thượng, trung, hạ liệt
Nếu không hành chánh pháp
Tất cả đều chí thành
Phải thường cúng dường luôn.
Trượng phu vô tưởng niệm
Kiên cố hành dũng mãnh
Không biết tất cả pháp
Cũng không thấy Niết-bàn
Của tất cả Bồ-tát
Đó gọi là oai nghi
Cũng như hành lễ tiết
Phải nên nghe xét kỹ.
Nay sẽ giảng thuyết
Giáo pháp vô vi
Tất cả không khởi
Cũng không chỗ sinh
Kiên lập ý chí
Quán chiếu nghĩa không
Đấy là trí nhân
Đã hành lễ tiết,
Người có sở niệm
Là tưởng điên đảo
Lấy không làm có
Dùng hư làm thật
Tuy có chỗ khởi
Các pháp không sinh
Do tưởng sai lầm
Mà sinh các hữu,
Tâm thường chuyên nhất
Khéo tu Tam-muội
Kiến lập hạnh tu
Như đảnh Tu-di
An trú như thế
Quán khắp các pháp
Là tất cả pháp
Giống như hư không.
Ví như hư vô
Đều không bền vững
Không niệm nắm giữ
Không gì xả bỏ
Pháp không xứ sở
Không có thường danh
Ấy là kẻ trí
Đã hành lễ tiết.
Sau ta diệt độ
Nếu có Tỳ-kheo
Luôn thủ hộ được
Pháp tắc như thế
Không có khiếp nhược
Tâm không khởi tưởng
Vì vô số người
Thuyết kinh điển này,
Bậc minh triết ấy
Theo thời quán niệm
Nếu vào phòng ốc
Việc làm cũng vậy.
Quán sát các pháp
Tất cả đều tịnh
An nhiên nói nghĩa
Mà không dao động,
Quốc chủ đế vương
Cùng các thái tử
Các trưởng giả khác
Và các Phạm chí
Cùng chư quyến thuộc
Muốn nghe chánh pháp
Đều cúng dường cho
Tâm đều vô dục.
Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:
– Sau khi Như Lai diệt độ, người muốn nói kinh này phải trụ trong sự an ổn. Đã trụ an ổn rồi thì lòng không dua nịnh, tâm không huyễn hoặc mới nói kinh pháp đã thuộc lòng, hoặc chép trên tre lụa, vì người giảng thuyết, không nói nhiều lời, cũng không nói thêm, không khinh mạn Tỳ-kheo khác. Làm vị Pháp sư không ca ngợi, cũng không chê bai, chưa từng nêu tên và nói lầm lỗi của Tỳ-kheo có tâm khác cầu quả Thanh văn. Chưa từng tự cao, nói lỗi người, cũng không phỉ báng, cũng không có tâm oán ghét người trái ý mình. Chưa từng chê bai hành giả tại gia là không có chí nguyện, không trái hạnh nguyện, cũng không khởi tưởng, đến đi an trú vững vàng oai nghi, tới lui cùng khắp. Nếu đến pháp hội, tự giữ thân mình, không mất oai nghi, rồi nói kinh pháp. Nếu có người hỏi thì không dựa vào mà phải xa lìa pháp Thanh văn. Có điều chỉ dạy thì làm sáng tỏ Phật tuệ.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Người trí luôn luôn
An trú Phật đạo
Trước ngồi an ổn
Mói nói kinh pháp.
Nếu phải trải tòa
Trải loại mềm mại
Biết bao nhiêu thứ
Trang trí đẹp đẽ
Thân thể thường mặc
Y phục sạch sẽ
Trong bốn chín ngày
Tập đi kinh hành,
Giống như mây đen
Ở trên hư không
Tập hợp dồn chứa
Công đức rộng lớn.
Ở nơi chỗ ngồi
Kho tàng đầy đủ
Tòa ngồi kiên cố
Bằng phẳng đẹp đẽ
Vô số tọa cụ
Nệm lông mềm mại
Đường bệ chững chạc
Trông thật tôn nghiêm.
An nhiên bước lên
Pháp tòa cao rộng
Trải tâm bình đẳng
Vì tất cả người
Quốc chủ đế vương
Thái tử, đại thần
Các chúng Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam tử
Cùng thiện nữ nhân
Theo điều ưa nghe
Vì họ rộng giảng
Trí tuệ vô cùng
Lần lượt phân tích
Giảng giải các loại
Ý nghĩa vi diệu
Theo sau hầu hạ
Thưa hỏi nghĩa lý
Bậc Thánh triết ấy.
Lại vì giải thoát
Nên nhập thần túc
Nhu hòa, nhẫn nhục
Nếu người nào nghe
Đều đắc Phật đạo
Bậc Trí tuệ này
Đều vì tất cả
Tới lui dứt trừ
Biếng lười mệt mỏi
Vì chúng nói pháp
Thường dùng tâm Từ
Chưa từng khởi lên
Ý tưởng mệt mỏi
Ngày đêm ca tụng
Pháp huấn tôn quý
Phân biệt diễn thuyết
Ức ngàn thí dụ
Ai cũng phấn khởi
Tâm của hội chúng
Không có ai dám
Khởi ý làm hại
Nếu được cúng dường
Các thức ăn uống
Giường nằm chỗ nghỉ
Y phục mền gối
Thuốc thang chữa bệnh
Thì không cầu nhiều
Không theo số đông
Cầu xin của cải
Bỏ hết phiền toái
Trụ ở tinh xá
Muốn khiến mọi người
Đều hiểu Phật đạo
Nếu tất cả người
Đến nghe kinh pháp
Ta sẽ hoan hỷ
Hộ cho đại an.
Sau Phật diệt độ
Nếu có Tỳ-kheo
Tuyên dương kinh pháp
Không có mong cầu
Không bị chướng ngại
Không gặp khổ hoạn
Luôn luôn tinh tấn
Xa lìa các bệnh
Không thể bị chúng
Gây sự sợ hãi
Không bị đánh đập
Không ý phỉ báng
Thân không mệt mỏi
Không có hoạn nạn
Vị ấy trụ nhẫn
Được sức như thế.
Bậc Minh trí ấy
Chỗ ở an ổn
Có chỗ bảo trì
Đúng lời Phật dạy
Nếu đã ngợi khen
Trăm ức công đức
Khen ngợi tất cả
Không thể hết được.
Đức Phật lại nói với Đoàn Thủ:
– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát đối với kinh điển ấy hoài nghi không hiểu, nếu được thuyết giảng, giáo hóa mà không kiên nhẫn nghe, tánh không điều hòa và thấy Bồ-tát khác cầu Đại thừa, cho là làm việc hư vọng mà phỉ báng. Thấy Thanh văn, Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, hoặc gặp Bồ-tát mà tâm do dự, không đến gặp gỡ ngay thì thiện nam ấy cách xa đạo Vô thượng chánh chân, không tiếp cận được với việc làm của Đấng Thiên Trung Thiên. Giả sử cuối cùng không nhờ phước lực thì không thành Bậc Tối Chánh Giác. Bồ-tát hành ba thừa giống như Sư tử ở trong rừng, nếu có sự do dự thì tự nhiên xa lìa, không ưa thích điều ưa thích, cũng không phải không ưa thích. Nếu đối với chúng sinh tu hành từ bi thì đối với Đấng Như Lai đây như người cha vĩ đại, thấy các Bồ-tát nghĩ nhớ như Thế Tôn và với các tục gia chưa lìa trần cấu đều khoan hòa cung kính, giữ đúng lễ tiết, làm trong sáng ý nghĩa các pháp, không nghi ngờ, không ràng buộc, nghiêm trì tất cả pháp cẩn thận, chắc thật, vững vàng, thuận theo bình đẳng, không chấp trước kinh pháp. Có điều cực vui cũng không chạy theo, ở tại trú xứ ngày đêm cung kính hộ trì kinh này.
Này Đoàn Thủ! Đó là thực hành ba pháp. Khi nói, Bồ-tát quán rồi mới nói, tạo sự an ổn, không bị phiền não, cũng không nhiễu hại. Người nói kinh này cùng với người học đều là bạn đạo có tâm bình đẳng của nhau. Hoặc giảng, hoặc nghe, tin tưởng, ưa thích kinh này, trì tụng, biên chép trên tre lụa, cúng dường, phụng sự thì phước đức không thể lường được.
Vì để cho chúng hội an trú Thế Tôn bèn nói bài tụng:
Nếu người tật đố
Lòng nhiều khúc mắc
Pháp sư thương yêu
Không hề ghét bỏ
Có bậc Minh trí
Không tạo tham trước
Muốn đọc kinh này
Bắt chước làm theo
Chưa từng phỉ báng
Và nói lỗi người
Cũng không rơi vào
Lỗi nghi, tà kiến
Tâm thường trong sáng
Không bị đắm chìm
Vì thương chúng sinh
Nên đắc định này
Vị an trụ ấy
Cũng luôn nhẫn nhục
Người ấy thường ngăn
Tự cao tự đại
Luôn luôn giảng tụng
Kinh điển của Phật
Chưa từng vì đó
Sinh ra mệt mỏi
Có Bồ-tát nào
Ở mười phương cõi
Thương yêu chúng sinh
Ở đời khởi hạnh
Tùy thuận cung kính
Học tập Thánh tuệ
Đều nên nhớ nghĩ
Là Thế Tôn ta
Nghĩ nhớ chư Phật
Bi trí cao tột
Nhớ các Bồ-tát
Như nhớ mẹ cha
Nếu có cầu đạo
Thì không dục tình
Vứt bỏ ngã chấp
Và tâm tự đại
Giả sử nghe rõ
Tượng pháp như vậy
Các bậc Minh trí
Sẽ tự hộ trì
Việc làm an ổn
Thường được an định
Sẽ chứng quả Phật
Cứu vô số chúng.
Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:
– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại sĩ phụng hành kinh này, luận đúng thời tiết thì Tỳ-kheo (Bồ-tát) ấy phải thực hành từ bi, hướng đến các hàng bạch y, người xuất gia, Phạm chí, tất cả quần sinh, người hành đạo Bồ-tát, thường nghĩ đến các vị hành Đại thừa đời quá khứ mà khéo léo phương tiện diễn nói ý nghĩa chân đế. Nếu người nghe không biết, không hiểu, không vui, không tin, không thức tỉnh, không lĩnh hội được, thì tự thán rằng: “Ta phải đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đầy đủ sức oai thần, mới được tự tại!”
Đoàn Thủ nên biết! Ta thấy những việc này: Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát có bốn sự việc khi thuyết pháp không phiền bực. Bốn việc ấy là gì?
1. Được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ cung kính.
2. Vua chúa, thái tử, đại thần, quan lại, nhân dân trong nước thấy đều cúng dường.
3. Trưởng giả, Phạm chí đều làm theo.
4. Vô số Thần minh, Thiên tử trên không nghe thuyết kinh và trời, rồng, quỷ thần thị vệ sau họ đều ủng hộ.
Đó là bốn việc. Hoặc khi vào huyện, ấp hay lúc trở về nhà, cả ngày 1ẫn đêm mọi người đều đến hỏi kinh pháp. Nếu vì sự giải thoát mà phân biệt chỗ quy hướng thì ai cũng hoan hỷ. Vì sao? Đoàn Thủ nên biết, vì đều do Phật đã gia ân kiến lập kinh này. Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do kinh này xuất sinh và cũng đều hộ trì kinh này. Nếu ở thế giới Kham nhẫn được nghe phẩm Chánh Pháp Hoa cùng nghe tên kinh này thì thật là khó.
Này Đoàn Thủ! Thí như Chuyển luân thánh vương có năng lực lớn, oai đức trùm khắp, cai trị thuần hòa. Các nước thù địch khác chưa chịu thần phục, không dám dòm ngó. Chuyển luân vương hưng binh đi chinh phạt nhưng chư hầu không phục, muốn chống trả lại nước lớn. Khi ấy, các tướng sĩ dũng mãnh ra sức đánh thắng, đối phương khuất phục. Nhà vua vui mừng, xét công ban thưởng, phong cho thành ấp, ban cho ruộng vườn, bảy báu, ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nam nữ, nô tỳ. Người có công đức thù nhất, vua lấy viên minh châu trong búi tóc ban cho. Vì sao? Vì bề tôi làm cho đất nước cường thịnh, văn minh lâu dài. Như Lai Chánh Giác cũng lại như thế, là Đại Pháp Vương của chân lý tối cao, tự hàng phục tâm mình, dùng pháp giáo hóa, dùng đức trừ hại, dùng tuệ chiến đấu, hàng phục vô số chúng pháp vương khác; vô lượng trăm ngàn kinh điển ý nghĩa trọng yếu đều ban bố cho quần sinh, không hề che giấu; ra lệnh đắp thành bằng phẳng để nhìn thấy ma quân, có thể cùng quân ma chiến đấu, dùng pháp Hiền thánh phá dâm, nộ, si, hàng phục ma quân và đồng bọn, hết họa ba cõi, đạt đến diệt độ, việc làm nhanh chóng và rất dũng mãnh, rốt cùng không hoại diệt cũng không chắc thật, vì do các yếu tố hư ngụy tạo thành thế gian này, như tất cả hiện tượng, nơi chốn đều là nhân duyên. Khắp các thế giới từ xưa đến nay không có ai tin kinh Pháp Hoa này, mà chưa từng diễn nói thông suốt. Sở dĩ nói được là do sự thông tuệ và lòng đại Bi, như viên minh châu trong búi tóc của bậc Đại thánh đế, vì là pháp quan trọng đệ nhất của Đức Thế Tôn, nương vào đó mà tiến bước tu hành nên Đức Như Lai cho nghe kinh điển thâm diệu này. Từ xưa đến nay, các pháp tu hành đã được nói ra thì kinh này là pháp tối thắng để tiêu trừ tất cả hoa duyên khởi. Giống như bậc Thánh đế trân trọng giữ gìn viên minh châu trong búi tóc, lâu lắm mới lấy ra ban cho người có công đặc biệt. Như Lai cũng thế, sớm tối trân trọng giữ gìn pháp vô cùng mầu nhiệm không tỳ vết, đến nay rất lâu, là pháp đứng đầu các pháp. Hôm nay vì thương xót nên mới diễn bày rộng rãi.
Đức Thế Tôn muốn diễn bày lại ý nghĩa trọng yếu nên nói tụng:
Nay đây Như Lai
Hiện sức Từ bi
Vì thương chúng sinh
Mắc vòng đau khổ
Trong cảnh dại khờ
Nên phân biệt nói
Kinh điển tối tôn
Cầu pháp Bồ-tát
Hoặc người xuất gia
Hay hàng tại gia
Nếu nghe kinh này
Hiện khắp tất cả
Lòng sinh khiếp sợ
Chẳng được hủy báng
Ta lúc ban đầu
Khi đắc quả Phật
Cũng như Như Lai
Ở đây hôm nay
Nếu vừa được nghe
Kinh tôn quý ấy
Thì liền kiến lập
Vô số phương tiện
Như Chuyển luân vương
Thế lực mạnh mẽ
Chiến đấu hàng phục
Các quốc vương khác
Đắc thắng ban thưởng
Voi, ngựa, xe, kho
Lại thêm phong ấp
Thành quách đất đai
Hoặc được ban cho
Xuyến báu tay chân
Màu sắc vi diệu
Vàng ròng quý báu
Trân châu dạ quang
Xa cừ, ngọc bích
Đủ loại đặc thù
Của lạ kỳ diệu
Bao nhiêu tài vật
Đều đem ban cho
Khiến cho mọi người
Mừng vui kinh ngạc
Thấy việc lập công
Lạ chưa từng có
Sau cùng mở tóc
Lấy minh châu cho
Phật cũng như thế
Nay là Pháp vương
Với sức nhẫn nhục
Tuệ âm vô cực
Thường hành từ mẫn
Khởi hạnh cứu giúp
Dùng pháp giáo hóa
Tất cả thế gian
Thấy các chúng sinh
Bị họa ưu não
Giảng nói kính pháp
Số tới ức ngàn
Hiểu rõ chúng sinh
Hợp phương tiện nào
Mà chúng ngày nay
Cho là rốt ráo
Khi ấy Pháp vương
Bậc Thánh Tối Thượng
Phân biệt kinh điển
Trăm ngàn vạn ức
Vì biết chúng sinh
Trí chí mạnh mẽ
Nên nói kinh này
Như ngọc trong tóc
Vào thời mạt thế
Kinh này ở đâu
Tất cả kinh khác
Đều không sánh kịp
Người trí nghe được
Kính ngưỡng kinh này
Chưa từng xem nhẹ
Tri hành thâm sâu
Bậc trí sáng nghe
Pháp ta diễn nói
Tượng pháp như vậy.
Sau Phật diệt độ
Sẽ nương vào đó
Ai có chí cầu
Đạo tôn quý này
Đều được thọ ký
Như Phật đã dạy
Người ấy chưa từng
Có tỳ vết dục
Không có tật bệnh
Và các họa tai
Vào thời sau này
Ở đời tương lai
Sẽ thành đạt được
Chân Tuệ vô thượng
Thù thắng diệu kỳ
Đầy đủ hết thảy
Cả bốn bộ chúng
Cũng được gặp ngỡ
Nếu có người nghe
Trừ được các 1ậu
Khen pháp vô vi
Chắp tay hướng về
Thân mình chói sáng
Chiếu ánh hào quang
Do phụng kinh này
Đạt được như thế
Đạt thành Chánh giác
Rồi chuyển pháp luân
Thì thấy rộng sâu
Và thấy tối thắng
Trong mộng nghe thấy
Trăm tướng phước đức
Màu sắc vàng ròng
Kinh Phật đã nói
Nếu được nghe rồi
Nói cho chúng hội
Cùng các thân tộc
Thảy đều đầy đủ
Lại được hộ trì
Trừ bỏ tất cả
Như tỉnh cơn mộng
Thấy được như vậy
Bỏ hết xa lìa
Xuất gia hành đạo
Đều được đi đến
Đạo tràng của Phật
Nơi ấy chính là
Pháp tòa Sư tử
Vậy là cầu đạo
Đạt được lợi ích
Các thứ bảy báu
Tập hợp tại đây
Tu thì phụng sự
Như Lai tối thắng
Đã đắc Phật đạo
Giữ lệ truyền bá
Liền chuyển pháp luân
Không có các lậu
Vì hàng đệ tử
Giảng nói kinh pháp
Chẳng thể nghĩ bàn
Trong ngàn ức kiếp
Phân biệt giảng thuyết
Giáo pháp vô lậu
Giáo hóa vô số
Vạn ức chúng sinh
Trong mộng thấy được
Hiện tượng như thế
Đúng thời diệt độ
Không còn sinh tử
Đoàn Thủ nên biết
Người có tâm đạo
Đã được giáo hóa
Nhiều không kể xiết
Vào thời mạt thế
Cầu tôn pháp này
Phân biệt rộng nói
Diễn giải tự tại.
***
Phẩm l4: BỒ-TÁT TỪ ĐẤT VỌT LÊN
Khi ấy, ở thế giới khác, có tám hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ phục sức kỳ lạ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát đất, quỳ thẳng, chắp tay bạch với Thế Tôn:
– Bọn thô lậu chúng con vội vàng đến thế giới Kham nhẫn này muốn nghe kinh này, thọ trì, phúng tụng, biên chép, tinh tấn cúng dường, phụng trì như pháp. Cúi xin Đại thánh rủ lòng thương xót chúng con, Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đem kinh Chánh Pháp Hoa này truyền bá khắp nơi.
Đức Thế Tôn bảo:
– Thôi đi, thiện nam! Các ngươi không nên phát khởi ý nghĩ đó. Nay đây, ở thế giới Kham nhẫn này tự có tám hằng hà sa Đại sĩ và mỗi Đại sĩ đều có Bồ-tát Đại sĩ quyến thuộc nhiều đến sáu mươi ức hằng hà sa. Sau này vào thời mạt thế, họ đều sẽ thọ trì, tuyên nói rộng rãi (kinh này). Khi ấy, tại thế giới của Phật này, ở khắp nơi, vô số trăm ngàn ức chúng Bồ-tát tự nhiên vân tập, dung mạo đẹp đẽ khác thường, sắc thân vàng rực ba mươi hai tướng trang nghiêm thân thể, ở cõi dưới nhiếp hộ địa giới và nhân dân; đạo hạnh đều nương nhờ vào thế giới Kham nhẫn này, nên nghe tiếng Phật xiển dương kinh Pháp Hoa, từ cõi dưới vụt hiện lên. Mỗi vị Bồ-tát đều có sáu mươi ức hằng hà sa Bồ-tát tùy tùng, cùng một tâm niệm, một việc làm không sai khác; hoặc có vị có nửa phần hằng hà sa gồm trăm ngàn Bồ-tát đến, hoặc bốn mươi phần hằng hà sa, hoặc năm mươi phần hằng hà sa, hoặc trăm phần hằng hà sa, hoặc năm trăm phần hằng hà sa, hoặc ngàn phần hằng hà sa, hoặc trăm ngàn phần hằng hà sa, hoặc ức trăm ngàn phần hằng hà sa Bồ-tát đều là bạn bè cùng đến. Hoặc lại có vô số ức trăm ngàn Bồ-tát quyến thuộc đến, hoặc có hai trăm ngàn người tu hành đạo Bồ-tát, hoặc có trăm ngàn vị đều có quyến thuộc, hoặc có ngàn quyến thuộc, hoặc năm trăm quyến thuộc, hoặc bốn trăm quyến thuộc, hoặc ba trăm quyến thuộc, hoặc hai trăm quyến thuộc, hoặc một trăm quyến thuộc, hoặc năm mươi quyến thuộc, hoặc bốn mươi quyến thuộc, hoặc ba mươi quyến thuộc, hoặc hai mươi quyến thuộc, hoặc mười quyến thuộc, hoặc năm quyến thuộc, hoặc bốn quyến thuộc, hoặc ba quyến thuộc, hoặc hai quyến thuộc, hoặc một quyến thuộc, hoặc đi đến một mình, số lượng nhiều không kể xiết, khó thí dụ được, từ đất hiện lên, hoặc từ trên xuống, hoặc bốn phương lại, tất cả đến thế giới Kham nhẫn này, trụ giữa hư không.
Chúng Bồ-tát thấy Thế Tôn đã diệt độ là Đa Bảo và Đức Đại Thánh Năng Nhân cùng ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu, liền cúi đầu đảnh lễ hai Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đi quanh bên phải ba vòng, lui đứng một bên; có các Bồ-tát dùng biết bao phẩm vật tốt đẹp kỳ lạ cúng dường, khen ngợi hai Đức Thế Tôn, xưng dương chư Phật từ vô thủy đến nay; giả sử đầy đủ cả năm mươi trung kiếp cũng không thể nói hết sự tu hành cần khổ của Đức Phật Thích-ca, các Đức Phật khác cũng như vậy. Bốn bộ chúng trong pháp hội không nói gì khác nên cũng im lặng.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện thần túc như sắc tượng, khiến bốn bộ chúng đều được nhìn thấy; lại khiến nhớ biết thế giới Kham nhẫn này. Các vị Bồ-tát ở trên hư không, mỗi vị đều nhiếp hộ trăm ngàn cõi Phật. Các chúng Bồ-tát đều đầy khắp trăm ngàn cõi Phật. Lại nữa trong đại chúng ấy có bốn vị Bồ-tát được coi là Thượng thủ. Tên của họ là: Bồ-Tát Chủng Chủng Hạnh, Bồ-Tát Vô Lượng Hạnh, Bồ-tát Thanh Tịnh Hạnh, Bồ-tát Kiến Lập Hạnh. Đối với vô lượng Bồ-tát số nhiều như vi trần vân tập tại đại hội này, các ngài là trên hết. Khi ấy, bốn vị Đại sĩ Bồ-tát cùng với đại chúng nhiều không thể nghĩ bàn, cùng loạt đứng yên trước Đức Thế Tôn, chắp tay thưa:
– Đại Thánh Thế Tôn! Thánh thể khỏe mạnh chăng? Dứt hết các bệnh chăng? Sở hành an lạc chăng? Chúng sinh đều tuân hành tốt Giới luật chăng? Ở trong sự thoải mái, không phiền bực chăng? Muôn loài không bị rơi vào hầm hố nguy hiểm chăng?
Khi ấy bốn vị Đại sĩ Bồ-tát dùng kệ khen ngợi:
Thế hùng chiếu ánh sáng
Sở hành an ổn chăng?
Cứu thoát người hiện tại
Các hành không hoạn chăng?
Chúng sinh gây nhân lành
Quyết hưởng quả thanh tịnh
Không còn sinh mệt mỏi
Vâng thọ mệnh Thế Tôn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng Bồ-tát trong hội:
– Các thiện nam! Sở hành của Phật an ổn, không tật bệnh, không hoạn nạn, mọi người đều tuân theo Giới luật, khéo học đạo giáo, không dám chán nản, muốn được nghiêm tịnh. Vì sao? Vì chúng sinh này vào thuở xa xưa giác ngộ như nhau, việc làm của họ là việc Thanh văn, tin ưa pháp của ta, nhập vào Phật tuệ. Lại nữa, họ đều là người học đạo ba thừa, trụ Thanh văn thừa, ta đều giáo hóa đưa vào trí tuệ lớn của Phật.
Khi ấy các Bồ-tát hoan hỷ nói bài tụng:
Hay thay, Đức Thế Tôn
Chúng con đều khuyến trợ
Mới khiến một chúng sinh
Hành tốt luật vi diệu
Muốn được nghe Đại Thánh
Dạy con điều thâm yếu
Nghe rồi hoan hỷ tin
Để vào pháp cúng dường.
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát trong hội:
– Hay thay, hay thay! Các thiện nam, đúng như các ông nói. Điều Như Lai dạy đều tùy theo quyền nghi, không trái tôn chỉ.
Khi ấy Bồ-tát Di-lặc và tám ức hằng sa Bồ-tát cùng cất tiếng khen, tụng:
Từ xưa đến nay
Chưa từng nghe thấy
Điều mới có này
Chúng Đại Bồ-tát
Từ đất vọt lên
Trụ trước Thế Tôn
Cung phụng nương tựa
Số Bồ-tát kia
Từ đâu mà đến?
Di-lặc biết tâm niệm của tám ức hằng sa Bồ-tát, liền chắp tay dùng bài tụng hỏi Phật rằng:
Chưa từng thấy Bồ-tát
Vô số ức trăm ngàn
Dù tính đến ức năm
Không thể hết số lượng
Đến chỗ Lưỡng Túc Tôn
Vì sao nhiều như thế?
Từ đâu đến nơi đây?
Thần thông, thân cao lớn
Tất cả chí kiên cường
Là Đại Thánh dũng mãnh
Đoan chính đáng kính mộ
Nay từ đâu đến đây?
Thế Tôn thấy tất cả
Chư Bồ-tát trí tuệ
Cùng quyến thuộc vô số
Ví như cát sông Hằng
Số ấy hơn cát sông
Đủ Phật pháp giáo hóa
Bồ-tát và quyến thuộc
Đều đạt đạo Chánh giác
Hạng tinh anh như vậy
Vân tập lễ Đại Thánh
Đầy đủ cả sáu mươi
Trăm ngàn hằng hà sa
Số này còn hơn nữa
Quyến thuộc vô số kể
Năm trăm hằng hà sa
Hoặc bốn, hoặc ba trăm
Hoặc hai trăm hằng sa
Số đông cũng như thế
Số kia so số này
Hơn năm hoặc mười lần
Tất cả các quyến thuộc
Đệ tử bậc Đại Thánh
Chúng đó từ đâu tới?
Đi đến chỗ Đạo Sư
Hoặc bốn, hoặc ba, hai
Hoặc một hằng hà sa
Tất cả đều đi đến
Bạn lữ đều khéo học
Số nhiều không kể xiết
Trừ số ở trên không
Trong trăm ngàn ức kiếp
Không thể nhóm tụ hết
Nửa phần hằng hà sa
Ba, hai mươi hoặc mười
Đầy đủ chúng lập hạnh
Chúng Bồ-tát minh triết
Đều trụ ở trên không
Số hạn không thể lường
Hiện rõ không ngăn cách
Ức kiếp hành thanh tịnh
Và vô lương bộ khác
Cùng vô số quyến thuộc
Ức ức lại hơn ức
Hoặc có bộ nửa ức
Hoặc hai mươi, hoặc mười
Hoặc năm, bốn, ba, hai
Các vị cùng quyến thuộc
Không thể tính toán hết
Ai nấy tự tu hành
Tịch tĩnh ưa mến đạo
Lặng lẽ như hư không
Một mình đến cũng nhiều
Dù trải hằng sa kiếp
Không ai tính đếm được
Ở tinh xá, tịnh thất
Từ khắp phương đi đến
Tất cả Thiên, Thần thánh
Đều vì Thế Tôn đến
Chư Bồ-tát dũng mãnh
Từ đâu bỗng đến đây?
Ai vì họ thuyết kinh?
Ai kiến lập Phật đạo?
Hiển bày giáo nghĩa gì?
Kiến lập hạnh Phật gì?
Tế hạnh đều đáng kính
Từ khắp bốn phương lại
Nhờ vào Thiên nhãn thông
Đại tuệ bỗng nhiên hiện
Ở thế giới trống không
Năng nhân khiến đầy đủ
Các Bồ-tát nhân hiền
Chư vị tự nhiên đến
Từ khi sinh đến này
Chưa thấy việc như thế
Xin nói quốc độ họ
Đại Thánh nêu hết tên
Từ mười phương đến đây
Đều sẵn mười tám pháp
Con chưa từng được thấy
Các Bồ-tát như thế
Con là đệ tử đầu
Chưa nghe thấy điều này
Nay đây bao nhiêu chúng
Xin Năng Nhân nói rõ
Các Bồ-tát vô số
Trăm ngàn ức khó lường
Các ngàn ức vô lượng
Nguồn gốc ở nơi đâu?
Các Bồ-tát dũng mãnh
Ý chí chẳng thể lường
Các hạnh như thế đó
Xin Đại Hùng nói cho.
Bấy giờ ở các thế giới phương khác, vô số trăm ngàn ức các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác từ khắp mười phương đến chỗ Đức Phật Năng Nhân khuyến khích thuyết pháp. Các Ngài đều ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu. Các vị thị giả của chư Như Lai ấy thấy vô lượng Bồ-tát hàng hàng lớp lớp biến hóa ở trong đại hội, từ đất vọt lên, đều đứng lên hỏi Đức Phật của mình:
– Chư Bồ-tát Đại sĩ này từ đâu đến đây mà nhiều vô lượng vô biên như vậy?
Khi ấy các Đức Phật kia đều bảo thị giả:
– Thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát có Bồ-tát tên là Di-lặc đã được Đức Như Lai Năng Nhân thọ ký sẽ đạt đạo Vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác, tự hỏi Năng Nhân điều kỳ lạ ấy rồi, Đức Phật sẽ phân biệt rành rẽ ý nghĩa quy hướng. Tất cả hãy yên lặng, nhất tâm lắng nghe.
Bấy giờ Đức Phật bảo Đại sĩ Di-lặc:
– Hay thay, A-dật! Điều mà ông hỏi vi diệu vô cùng, sâu xa khó lường. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sắp nói đây! Tất cả Bồ-tát và chư vị trong pháp hội này đều có năng lực mạnh mẽ vững chắc đối với tâm Bồ-đề, sẽ thấu đạt tuệ kiến vô cùng sâu xa của Như Lai. Chư Đại Thánh ấy kiến lập cảnh giới vô lượng, thiền định, trí tuệ tự tại theo sở thích, không thể nào nêu ra hết để mà phân tích diễn nói, phương tiện giáo hóa cũng không hạn lượng.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Các thiện nam tử
Lắng nghe Phật đạo
Nay ta sắp nói
Trí tuệ an lạc
Nếu người thấu rõ
Lấy làm thích thú
Trí tuệ Như Lai
Không thể nghĩ bà n
Đều phải vững ý
Giữ tâm kiên cố
Kiên lập ý chí
Nhất tâm bình đẳng
Đại Thánh khó gặp
Thương xót thế gian
Nay hãy nghe thọ
Pháp chưa từng có
Phật sẽ kiến lập
Tất cả các ông
Thảy đều không được
Sinh tâm hồ nghi
Lời Đạo Sư dạy
Không có gì khác
Trí tuệ bình đẳng
An ổn không riêng
An trú trị liệu
Pháp rất sâu xa
Tâm chẳng suy được
Không thể hạn 1ượng
Nay sẽ giảng nói
Nhân duyên vô cùng
Tất cả đều nghe
Biết chỗ hướng đến.
Thế Tôn nói tụng rồi, bảo ngài Di-lặc:
– Này A-dật! Ta nói cho tất cả biết vô lượng chúng Đại sĩ Bồ-tát không thể nghĩ bàn, từ dưới đất vọt lên mà trước chưa thấy có mặt ở thế giới Kham nhẫn này là do ta, khi mới đạt đạo quả Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đã khuyến khích họ an trụ địa vị không thoái chuyển, khiến họ thành đạo lớn, truyền trao, giáo hóa an lập. Này thiện nam! Chúng Bồ-tát Đại sĩ ấy ở phương dưới và ở trong cõi đó, có sự cứu hộ, phúng tụng, tán dương kinh điển, tư duy thiền định, tinh chuyên quán sát chỗ hướng về, hân hoan vui vẻ, ưa hạnh vô vi. Các thiện nam! Tánh khí họ điềm đạm, không phân xa gần; ở cõi trời và người đời thường chuyên tu tập, chuyển pháp luân vô vi khó nghĩ bàn, ưa thần thông thâm sâu, lấy pháp lạc làm niềm vui, chí nguyện tinh tấn, cầu trí tuệ Phật.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng:
Nay đây vô số
Các chúng Bồ- tát
Chẳng thể nghĩ bàn
Không thể hạn lượng
Tạo hạnh vô số
Không thể tính đếm
Phát triển thần túc
Rộng mở trí tuệ
Ta đều khuyến dụ
Ở đạo Đại Thánh
Nay tất cả Phật
Đều thọ ký cho
Các Bồ-tát này
Là đệ tử Phật
Đều trụ nơi đây
Quốc độ của ta
Xả bỏ xa lìa
Các chỗ ở trước
Ở khắp mọi nơi
Vắng lặng giải thoát
Các Phật tử này
Thực hành vô vi
Tinh tấn tu học
Theo đạo cao cả
Chư Thánh triết này
Ở tại phương dưới
Nay đến nơi đây
Giữ gìn cõi nước
Ngày đêm tinh tấn
Không phóng túng, mạn
Tích lũy đức hạnh
Phân biệt Phật đạo
Luôn siêng tu hành
Kiến lập tuệ lực
Thảy đều vững chắc
Không đo lường được
Ý chí dũng mãnh
Tư duy kinh pháp
Đều là con ta
Đã đạt thanh tịnh
Khi ta mới thành
Đạo quả giác ngộ
Hoặc ở trong thành
Cũng như tại rừng
Cũng đều diễn giảng
Pháp luân Vô thượng
Khuyên họ lập chí
Phật đạo tôn quý
Điều Phật nói đây
Chí thành vô lậu
Nghe Phật khen ngợi
Đều nên tín thọ
Khai hóa phát khởi
Các tinh hoa này
Từ lâu đến nay
Kiến lập chánh đạo.
Bấy giờ Đại sĩ Di-lặc nghe Phật nói về số trăm ngàn ức chúng Đại Bồ-tát không thể tính biết ấy, tâm sinh ngạc nhiên, quái lạ chưa từng có. Liền bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn còn là Thái tử tại cung vua dòng họ Thích ở Ca-duy-la-vệ , vứt bỏ ngôi báu và thú vui thể nữ để xuất gia. Ngồi dưới cội cây tại đạo tràng, chứng đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, từ đó đến nay không lâu, mới bốn mươi năm, nhưng tại sao số vị được giáo hóa và độ thoát lại vô lượng? Lại mở mang cảnh giới chư Phật, khuyến hóa quá nhiều, thiết lập quyền tuệ không thể nghĩ bàn. Chúng Đại Bồ-tát trong pháp hội hôm nay đều do Như Lai khai dẫn, tầng tầng lớp lớp chúng nhiều vô lượng tu phạm hạnh đã lâu, trồng gốc phước đức, cúng dường vô số trăm ngàn chư Phật. Giả sử muốn tính đếm sự thành tựu đó phải trải qua vô số kiếp.
Di-1ặc lại bạch tiếp:
– Con muốn nêu một thí dụ nhỏ: Ví như có một thanh niên tuổi hai mươi lăm, đầu tóc đen mướt, dung mạo tươi trẻ, trang phục đẹp đẽ, đàng hoàng sạch sẽ, lòng luôn lo lắng, thấy người trăm tuổi tự cho mình là cha, bảo rằng: “Thiện nam, hãy đến đây! Ngươi là con của ta.” Người trăm tuổi kia cũng cho người hai mươi lăm tuổi là cha của mình. Người cha xem biết tự miệng nói là con của ta. Đức Thế Tôn cũng vậy, người thế tục không tin điều ấy mà làm cho họ tin. Phật cũng như thế, thành Phật chưa lâu mà nay có bao nhiêu trăm ngàn ức số (Bồ-tát) từng tu phạm hạnh, từ lâu xa đã nương theo đạo tuệ, giáo hóa vô lượng chúng, hiện tại thấu suốt thiền định, kiến lập phương tiện, thành đại thần thông, thông minh trí tuệ, an trụ Phật địa, tu tập Phật tuệ, kiến lập Phật lực, ở đời ít có. Xưa kia Thế Tôn cũng lại giáo hóa các hàng như thế, dẫn dắt kiến lập Bồ-tát địa, sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, đạt quả Chánh giác, hành mọi phương tiện, việc làm đã xong. Nay con ghi nhận, tin tưởng là đúng sự thật, tìm hiểu thấu suốt đã qua sự phán đoán, phân tích về ý nghĩa này. Nhưng kính bạch Như Lai, Bồ-tát mới học lòng còn do dự, không biết rõ điều đó nên sau khi Như Lai diệt độ, nghe kinh điển này nhất định không tin. Và vì có sự do dự nên không tuân theo pháp này, cũng không ưa thích, sẽ gặt hái tội báo. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói rõ điều này cho những người có sự hồ nghi về kinh điển này, để ở tương lai vào thời mạt pháp, những vị học Đại thừa giả sử nghe kinh này khiến họ không ngờ vực.
Khi ấy Đại sĩ Di-lặc ở trước Thế Tôn nói tụng khen ngợi:
Ví như có người
Hiện sinh con già
Năng Nhân chí thánh
Sinh vào vương cung
Vứt bỏ ngôi vua
Mà được Phật đạo
Vừa làm Đạo Sư
Đồ chúng ít ỏi
Chư vị nơi đây
Là bậc không thoái
Đã vô số kiếp
Cứu độ chúng sinh
Sức lực thần túc
An trú bất động
Tu học trí tuệ
Thảy đều thâm nhập
Nay đến nơi đây
Khai thông tại chỗ
Như sen trong nước
Toàn không nhiễm trước
Oai thần tột bực
Chí vượt thế gian
Tất cả chắp tay
Nghiêm chỉnh đứng yên
Các chúng Bồ-tát
Hình dáng như vậy
Là như thế nào
Ai tin việc ấy?
Cúi xin Đại Thánh
Xót thương chỉ bày
Phân biệt rành rẽ
Ý nghĩa chân thật.
Ví như có người
Đang lúc tráng niên
Tuổi hãy còn nhỏ
Tóc đẹp và đen
Tuổi của người ấy
Mới hai mươi lăm
Mà có thể sinh
Người già trăm tuổi,
Dưỡng nuôi, tắm rửa
Tùy thời ăn mặc
Cho là con ta
Cưng quý hết mực
Tất cả thế gian
Không có ai tin
Tuổi con đang trẻ
Sinh con lớn tuổi.
Thế Tôn cũng vậy
Nếu con không lầm
Vô số Bồ-tát
Tụ hội nơi đây
Dũng mãnh, trí tuệ
Không gì sợ sệt
Vô số ức kiếp
Sở học vững chắc
Ý chí minh triết
Thông đạt mục đích
Oai thần cao vợi
Hiện tướng đẹp đẽ
Tâm ý dũng mãnh
Hiểu rõ pháp luật
Là Thế Hùng Sư
Người thấy thăm hỏi
Nên ẩn núi cao
Tịnh tu giải thoát
Như cõi hư không
Không gì vướng mắc
Thiền định tinh tấn
Là bậc an trú
Tâm chí mong cầu
Đạt thành Phật đạo
Nhưng mà người nào
Sẽ tin lời này
Nếu Đấng Đạo Sư
Sau khi diệt độ
Con đối điều này
Không còn hồ nghi
Hiện diện trước Phật
Bồ-tát được nghe
Ngay ở nơi này
Sơ học hoang mang
Để không Bồ-tát
Đọa vào ác đạo
Khuyên bảo thế nào
Hóa độ bọn họ
Cúi xin Thế Tôn
Giảng giải rành mạch.
***
Phẩm 15: NHƯ LAI HIỆN THỌ
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cất lời bảo khắp đại chúng Bồ-tát ba lần:
– Các thiện nam! Tất cả hãy tin lời dạy bảo chắc thật của Như Lai, chớ có do dự.
Khi ấy Đại sĩ Di-lặc và các vị khác trong hội chúng đều chắp tay bạch với Thế Tôn:
– Cúi xin Đại Thánh phân biệt giảng giải, Chúng con đều tin tưởng lời Như Lai dạy.
Chư Bồ-tát cũng thưa với Thế Tôn ba lần như vậy.
Khi ấy, Thế Tôn thấy các Bồ-tát nói lên ba lần để khuyến trợ, muốn Phật tuyên thuyết như vậy. Phật bảo các Bồ-tát:
– Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ!
Tất cả cũng đáp:
– Xin vâng!
Phật bảo:
– Thiện nam! Như Lai kiến lập cảnh giới năng lực vô biên như thế. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, người thế gian đều tự biết và suy nghĩ: “Thế Tôn Năng Nhân sinh vào dòng họ Thích, từ bỏ ngôi vua, đi đến bên dòng sông, ngồi dưới cây nơi đạo tràng, chứng đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng từ lâu xa, trăm ngàn ức triệu vô số kiếp đến nay, ta đã đạt quả vị Chí Chân Đẳng Chánh Giác rồi. Ví như có năm trăm ngàn ức cõi Phật, có số vi trần đầy trong các cõi ấy, nếu có người lấy số bụi đó qua trăm ngàn ức triệu các cõi Phật không thể tính đếm ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua lại bỏ một hạt như thế và cứ như thế lấy tất cả số vi trần trong năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy rải hết các cõi Phật, cho đến hết số bụi đó. Này các thiện nam! Các ông nghĩ sao? Có ai có khả năng tính đếm số lượng các cõi Phật này hay tư duy, trù tính mà có thể biết được chăng?
Đại sĩ Di-lặc và các chúng Bồ-tát trong pháp hội đều bạch Phật:
– Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Không ai có thể tính đếm được. Vì sao? Vì thế giới chư Phật nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải là điều mà tâm biết được. Giả sử tất cả Thanh văn, Duyên giác có trí tuệ Hiền thánh cũng không thể tư duy biết được số ấy. Chỉ có trí tuệ của Đại Thánh Thế Tôn mới có thể biết được mà thôi, ngoài ra không ai có thể biết được. Chính chúng con là các Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển còn không thể biết. Thế giới của chư Phật ở đây không suy lường, không có giới hạn.
Khi ấy Thế Tôn bảo với đại chúng:
– Các thiện nam! Nay ta sẽ nói. Như người kia lấy số vi trần trong năm trăm ngàn ức triệu không thể tính đếm các cõi Phật ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua đều bỏ một hạt như thế. Và cứ như thế? lấy tất cả số vi trần trong các cõi của năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy, rải hết các cõi Phật, cho đến hết số vi trần ấy. Ta đã đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác đến nay trải qua số kiếp hơn hẳn số kiếp như số vi trần ấy.
Các thiện nam! Các ông thấy ta giảng pháp ở thế giới Kham nhẫn này, lại thị hiện tại trăm ngàn ức triệu các cõi Phật phương khác, tất cả đều gọi ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đức Định Quang Như Lai vì biết bao bạn bè mà thị hiện diệt độ.
Các thiện nam! Ta dùng phương tiện quyền biến khéo léo diễn nói kinh điển, hiện vô số điềm tốt đẹp. Như Lai lại biết nguồn gốc qua lại, đi ở của tất cả chúng sinh, quán hết tâm chúng mà tùy duyên thị hiện, tất cả đều là danh xưng, không diệt độ mà nói là Nê-hoàn, tùy thuận tập tánh thiện ác của chúng sinh mà vì họ diễn giải biết bao nhiêu phương pháp.
Chư thiện nam! Ta quán thấy vô số loại tâm tánh khác nhau, việc làm bất đồng, cội đức cạn mỏng của chúng sinh phần nhiều bị phá hoại, không chịu tin nghe nên vì họ giảng nói. Này các Tỳ-kheo! Nếu suy lường sau trước thì ta mới xuất gia, thành Đấng Bình Đẳng Giác đến nay chưa lâu, vừa mới đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng Như Lai đã thành Phật đến nay rất lâu mà phương tiện nói là thành Phật chưa lâu. Vì sao? Vì muốn hóa độ chúng sinh vậy. Đối với chúng sinh có thể thuyết kinh, đều đã độ thoát, nơi chốn có thể giảng nói thì tự hiện thân vì tất cả mà mở đường chỉ lối và cũng vì hàng trời, người ưa tạo tội phước. Vì vậy cho nên những điều Như Lai diễn giảng đều chắc thật, chí thành, chẳng phải hư dối. Như Lai thấy hết tất cả ba cõi, tùy duyên hóa hiện, không sở hành, không xuất sinh, không xoay vần, không diệt độ, không thật có, không hiện hữu, cũng không có bản vô, không biết, không như thế, không thật hư, cũng không có ba cõi. Sở hành của Như Lai là không thấy có ba cõi. Như Lai quán khắp tất cả các pháp, tại bất cứ chỗ nào cũng không bỏ mất các pháp. Tất cả điều giảng dạy chí thành bất hư. Chúng sinh khổ não không thể kể xiết, tạo nên bao nhiêu chủng tánh sai khác, tư duy niệm tưởng khác nhau, ta muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng cội phước đức cho nên nói phân biệt biết bao nhiêu pháp.
Lại nữa, những điều Như Lai phải làm đều đã làm xong. Quả Phật hiện tại và sự đắc thành quả Đẳng giác đến nay đã quá lâu xa, thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt. Như Lai không cần phải nói những điều đã nói lúc ban đầu về thời quá khứ trước đây khi hành pháp Bồ-tát để được thành tựu hạn lượng của thọ mạng.
Lại nữa, Như Lai đắc quả Phật đến nay thời gian lại nhiều gấp bội số trăm ngàn ức triệu như thí dụ trước. Rồi sau đó mới nhập Nê-hoàn. Vì sao? Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện tu hành đến nay đã lâu xa, vì loài vô đức xa lìa phước đức, vì hạng bần cùng đắm trước ái dục, bị ràng buộc vào lưới kiến chấp mà tự che lấp mình, rong ruổi bất định. Như Lai vì họ mà thị hiện, làm phát khởi tư tưởng mong chóng thành đạt, không sinh lười biếng, lo âu khó đắc. Như Lai khéo léo phương tiện bảo các Tỳ-kheo: “Cần khổ tu hành mới đắc Phật quả, chân thật chẳng hư.” Vì các chúng sinh trải vô số trăm ngàn ức triệu kiếp mới thấy Như Lai, vì việc làm của họ vội vàng không đúng, luôn luôn sợ hãi không chịu chấm dứt, cho nên nói Phật pháp khó được nghe, Như Lai khó được gặp. Sự nghe thấy quá khó như vậy nên phát khởi tư tường khó gặp, buồn vui lẫn lộn, biết Phật là hy hữu, phát tâm dũng mãnh, ưa chỗ vắng lặng, tu hành tinh tấn. Do không thấy Phật nên sinh lòng khát ngưỡng, thấy Như Lai rồi, hoan hỷ kính lễ, tạo các công đức, ai không diệt độ thì giáo hóa khiến diệt độ, khai hóa mọi người. Do vậy, Như Lai xuất hiện thuyết kinh, nói ra lời chắc thật không hư.
Ví như có vị thầy thuốc thông minh trí tuệ, tài giỏi khó sánh, rành chế phương dược, biết bệnh nặng nhẹ, trị liệu đúng thuốc. Ông có nhiều con, hoặc mười đứa cho đến trăm đứa. Ông ta đi xa, các con ở nhà không hiểu y lý, không rành phương dược, không biết thuốc độc, bị bệnh rất nặng, uống nhằm độc dược. Độc dược phát tác, choáng váng lăn lộn. Cha từ xa về, con ở trong thành đầu óc rối loạn. Thấy các con bị bệnh, người cha xót thương. Con thấy cha về vui mừng tự nói: “Cha đã về, thật là tốt lành, an ổn. Chúng con vì nhầm tin lời người mà uống phải độc dược. Cúi xin cha cứu mạng chúng con.” Khi ấy, người cha thấy các con gặp tai nạn khổ não, lăn lộn dưới đất, liền bảo người mang thuốc đến, màu thuốc rất đẹp, mùi vị thơm ngon. Người cha pha chế các thuốc, đưa cho các con và dặn: “Hãy mau uống thứ thuốc thượng hạng, mùi vị thơm ngon này. Nếu các con uống thuốc này vào thì độc kia tiêu diệt, bệnh được khỏi ngay, thân thể an ổn, khí lực khang kiện.” Các người con không bị sự điên đảo làm rối loạn đầu óc thì thấy thuốc thơm, nếm biết mùi vị, liền uống vào, lập tức lành bệnh, độc dược tiêu trừ. Những người con tâm tánh bị bấn loạn thì chẳng chịu uống thuốc. Những người con uống thuốc lành bệnh đều nói là do cha cho thuốc nên chúng ta được lành bệnh và được an ổn. Còn những người con bị tà tưởng, không chịu uống vì khi thấy màu thuốc không ưa hương vị. Người cha nghĩ: “Nay những người con của ta ngu si không biết tâm tánh điên đảo, không chịu uống thuốc, bệnh không thuyên giảm, e rằng sẽ chết. Nay ta nên dùng quyền biến để các con uống thuốc.” Nghĩ rồi, bèn bày phương tiện, muốn khiến con mau uống thuốc, liền bảo các con: “Ta nay tuổi già sức yếu sẽ chết nay mai, các con hãy gắng dậy. Nếu ta chết đi thì nên dùng thuốc này chữa lành nhiều bệnh. Các con nên ghi nhớ, uống thuốc đúng liều lượng. Giả sử chán bệnh, muốn được an ổn thì nên uống thuốc này.” Dặn dò các con xong, người cha bỏ đi đến nước khác, giả báo là chết.
Các con nghe cha chết rồi, buồn đau khóc lóc, lo sầu không thể kể xiết: “Cha chúng ta trí tuệ thông minh, nhưng xem thường không uống thuốc nên nay đã chết, để anh em cô độc.” Họ nhớ nghĩ, âu lo, tự trách mình không làm theo lời cha dạy. Rồi họ bèn làm theo những việc cha dặn lại, xem kỹ màu sắc, hương vị của thuốc, tự mình trị liệu không dám khinh suất, liền uống thuốc vào để tiêu diệt mầm bệnh, bệnh liền thuyên giảm. Khi ấy, người cha thấy con uống thuốc, bệnh lành, liền trở về nhà.
Phật dạy:
– Này các thiện nam! Như vị thầy thuốc ấy khéo quyền phương tiện khiến các con hết bệnh thì có nên chê trách việc làm của vị ấy là không chính đáng chăng?
Các vị Bồ-tát bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, không! Bạch Bậc An Trú, không!
Phật dạy:
– Ta từ vô số trăm ngàn ức kiếp không thể tính đếm, phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, cần khổ vô cùng, luôn luôn hành phương tiện, thị hiện giáo hóa khai ngộ quần sinh. Người cha thầy thuốc ấy chính là Như Lai vậy, còn các người con ấy chính là chúng sinh sinh tử trong năm đường. Người cha đi nơi khác không có mặt dụ cho Như Lai chưa xuất hiện ở đời. Các con vào thành uống độc dược lăn lóc dụ cho chúng sinh bị ba độc buộc ràng, trôi lăn trong ba cõi, năm đường không thể tự cứu. Người cha trở về dụ cho Như Lai hành hạnh đại Từ bi, thấy chúng sinh trong ba cõi lưu chuyển trong năm đường không thể tự ra khỏi, cho nên xuất hiện ở đời rộng nói kinh pháp, khai hóa chúng sinh. Uống thuốc lành bệnh dụ cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, trụ quả bất thoái, vô sinh, hoặc đắc Thanh văn, Duyên giác không đạt cứu cánh. Xem màu sắc, hương vị của thuốc mà không uống dụ cho sáu mươi hai quan điểm rơi vào tà kiến. Người cha già để thuốc lại, dặn con rồi bỏ đi dụ cho Phật thấy chúng sinh nghi đạo giáo nên thị hiện diệt độ, lưu lại kinh pháp để giáo hóa đời sau. Bốn chúng đệ tử phúng tụng học hỏi, nghĩ công đức của Phật, phát tâm cầu đại đạo, hoặc đắc La-hán, hoặc đắc Duyên giác. Phật thấy như vậy lại xuất hiện ở thế gian. Tất cả thế gian đều là con của ta.
Các thiện nam! Như Lai hành quyền phương tiện chẳng phải là dối trá.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa trên liền nói bài tụng:
Trăm ngàn ức kiếp
Không thể nghĩ bàn
Muốn biết số lượng
Cũng không biết được
Chí tôn Đại Thánh
Đắc đạo đến nay
Thường giảng thuyết kinh
Chưa từng dừng nghỉ
Khuyến khích giúp đỡ
Vô số Bồ-tát
Đều được an trú
Đạo tuệ của Phật
Vô số ức kiếp
Khai đạo chúng sinh
Trải ngàn ức kiếp
Không thể nghĩ bàn
Vì họ thị hiện
Có cảnh diệt độ
Để giáo hóa họ
Chỉ đường lợi ích
Dùng quyền phương tiện
Thị hiện diệt độ
Nên vì chúng sinh
Diễn nói kinh này
Ta đã an lập
Tất cả chúng sinh
Phân biệt cho họ
Rõ biết nghĩa ấy
Tâm họ điên đảo
Nên không hiểu biết
Muốn an lập họ
Phật bèn tuyên thuyết
Nếu gặp được Phật
Sau Ngài diệt độ
Dùng biết bao vật
Mà để cúng dường
Thấy ta diệt độ
Âu sầu lo lắng
Nếu thấy lại Phật
Mừng vui phấn chấn
Giả sử thẳng thắn
Nói lời chí thành
Này các chúng sinh
Tạm bỏ thân này
Rồi sau Như Lai
Luôn tự thị hiện
Dùng mọi âm thanh
Diễn bày Phật đạo
Người ở đời sau
Phân biệt lời này
Ta còn trong ấy
Chẳng phải diệt độ
Tỳ-kheo nên biết
Phật quyền phương tiện
Luôn luôn kham nhẫn
Hiện ra trên đời
Cùng với đồ chúng
Quyến thuộc vây quanh
Nhân đó tuyên dương
Phật đạo tôn quý
Chư hiền được nghe
Phật hiện ở đời
Làm Bậc Đạo Sư
Vào cõi tịch diệt
Quán thấy chúng sinh
Sầu lo áo não
Hoảng hốt không thấy
Tướng hảo của Ngài
Khát khao trông ngóng
Muốn được thấy Phật
Và sau đó thì
Phân biệt kinh điển
Không thể nghĩ bàn
Trăm ngàn ức kiếp
Ta thường kiến lập
Phương thức như vậy.
Phật thường đi đến
Ở núi Linh Thứu
Sàng tòa tự nhiên
Số nhiều vô lượng
Giả sử chúng sinh
Thấy thế giới ấy
Có nạn nước lửa
Thiêu hủy đất trời
Thì ngay khi ấy
Cõi Phật của ta
Đủ thứ vi diệu
Êm ả an lành
Ca múa vui chơi
Vô cùng an ổn
Giảng đường tinh xá
Phòng ốc gác lầu
Đẹp đẽ trang nghiêm
Đều bằng bảy báu
Dược thảo cây cối
Hoa quả tốt tươi
Mưa hoa tự nhiên
Hoa ấy nhiều màu
Dùng rải cúng Phật
Và chúng đệ tử
Mọi người ở nhà
Đều thấy chấn động
Có kẻ ưa thích
Phát khởi đạo tâm
Cõi nước của ta
Kiến lập thường nhiên
Người khác có thấy
Tai kiếp thiêu rụi
Thì cõi nước ấy
Lửa rất lạ thường
Do quyền phương tiện
Thị hiện như thế
Như Lai khen ngợi
Tôn pháp của Phật
Vô lượng vô biên
Hiện bày như thế
Các loài chúng sinh
Không chịu lắng nghe
Chỉ thích tạo nên
Tội khổ tai ương
Giả sử nhân dân
Nhu hòa trung thực
Khi ấy Đức Phật
Xuất hiện thế gian
Gặp được Thế Tôn
Giảng dạy kinh pháp
Mới được sáng tỏ
Nghĩa lý thanh tịnh
Phật đến vì người
Phân biệt răn dạy
Nói những sự việc
Tạo trong luân hồi
Giả sử Như Lai
Lâu mới xuất hiện
Sau đó mới vì
Thuyết giảng kinh này
Trí lực của ta
Quang minh tối thượng
Tri kiến như thế
Đâu phải mỏng bạc
Việc làm đời trước
Số kiếp vô lượng
Là do lòng Từ
Bình thản vô cầu
Người có trí tuệ
Không được hồ nghi
Vứt bỏ do dự
Chớ ôm nội kết
Những điều sẽ nêu
Chưa từng công bố
Nay Phật bảo khắp
Không nghĩa nào khác
Như vị thầy thuốc
Dùng phương tiện khéo
Mở bày phân biệt
Cho con phương thuốc
Hiện suy già chết
Nhưng thân thường tại
Dùng tiếng vi diệu
Vô thủy vô chung
Dung nạp bạn hữu
Tùy nghi sử dụng
Ở đời thuyết pháp
Trị bệnh chúng sinh
Khai dẫn kẻ ngu
Khiến lìa tăm tối
Thị hiện Niết-bàn
Thật không diệt độ
Cớ gì ân cần
Muốn được hiện rõ
Người thường mờ tối
Khiến tâm tin ưa
Do vì phóng dật
Dọa lạc ba đường
Tâm họ náo nức
Muốn được hiểu rõ
Lời của Như Lai
Thường thường biết thời
Vì các chúng sinh
Thực hành trí tuệ
Dùng phương tiện gì
Mà nói đạo pháp
Do đâu mà được
Kinh giáo của Phật.
Khi Đức Thế Tôn nói về thọ lượng ấy của Như Lai, vô số chúng sinh không thể nghĩ bàn đều đạt được ý nghĩa lợi ích của đạo giải thoát.
***
Phẩm 16: NGỰ PHƯỚC SỰ
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại sĩ Di-lặc:
– Này A-dật nên biết! Nay khi Phật nói kinh Như Lai thọ hạn này, có sáu mươi tám ức triệu trăm ngàn hằng hà sa các Bồ-tát đạt được pháp nhẫn bất khởi, hai ngàn hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ đều đắc tổng trì, số Bồ-tát Đại sĩ như số vi trần trong một cõi Phật đắc pháp tổng trì vô ngại biện tài; lại có ức trăm ngàn vô số Bồ-tát nhiều như vi trần của ngàn cõi Phật đắc tổng trì không thoái chuyển; lại có Bồ-tát Đại sĩ nhiều như số vi trần trong ngàn cõi Phật nghe kinh điển này, chuyển pháp luân không thoái chuyển; lại có Bồ-tát nhiều như số vi trần trong trung thiên cõi Phật chứng đắc bậc Đại Thánh vô cấu, phân biệt chuyển pháp luân; lại có số Bồ-tát nhiều như vi trần trong tiểu thiên cõi Phật nghe kinh điển này còn tám đời nữa sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân; lại có số Bồ-tát Đại sĩ nhiều như số vi trần trong bốn châu thiên hạ nghe pháp này rồi đắc Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Chánh giác; lại có số chúng sinh nhiều như số vi trần tám cõi Phật nghe kinh điển này đều phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân.
Phật vừa nói như thế, các Bồ-tát Đại sĩ liền được kiến lập. Ngay khi ấy, từ trên hư không các loại hoa trời như Ý hoa và Đại ý hoa rơi xuống lất phất như tuyết để rải cúng trên ức trăm ngàn Đức Phật ở vô số trăm ngàn thế giới vì thương tưởng mà đến đây ngồi trên tòa Sư tử dưới cây bảy báu và rải cúng Đức Đại Thánh Năng Nhân, cùng vô số chẳng thể tính đếm Đức Phật đã diệt độ và rải cúng thân Phật Đa Bảo; lại rải trên tất cả các Bồ-tát; đại địa chấn động. Lại có bốn loại chiên-đàn, tạp hương, mật hương, tất cả các thứ hương từ hư không rải xuống. Trong hư không phát tiếng sấm lớn, tiếng vang sâu lắng êm ái tự nhiên vi diệu. Có biết bao ngàn vạn anh lạc, châu báu như ngọc minh nguyệt, ngọc như ý… đều từ trên không thòng xuống như tràng phan. Vô số hương trong hư không, tự nhiên mùi hương tỏa ra. Lại có vô số trăm ngàn bảo cái tự nhiên đưa đến; tất cả bảo cái đều che trên tất cả Đức Phật, lên đến cõi Phạm thiên. Các chúng Bồ-tát ở trong hư không cầm bảo cái đứng hầu hai bên ức trăm ngàn Đức Như Lai.
Khi ấy ngài Di-lặc khen ngợi bằng bài tụng:
An trụ được nghe
Pháp chưa từng có
Trước nay chưa từng
Thấy ánh sáng này
Rộng lớn rất xa
Chẳng có giới hạn
Như điều vừa thấy
Không thể nghĩ bàn.
Ngày nay con đã
Được nghe kinh điển
Mà quán an trú
Đại Thánh Đạo Sư
Hiện phân biện thuyết
Kiến lập chúng sinh
Số trăm ngàn ức
Đặc biệt trong đời
Chuyển bất thoái luân
Trụ ở Phật đạo
Có người được lập
Nắm được bí mật
Có người được điều
Nghĩa lý vô hạn
Số trăm ngàn ức
Bí yếu tổng trì
Muốn có hạn lượng
Và tư duy được
Có chỗ kiến lập
Siêu vượt độ sinh
Có người hai đời
Hoặc còn tám đời
Sẽ đạt Phật đạo
Độ được vô lượng
Hoặc có Hữu học
Còn vượt bốn đời
Hoặc có người ba
Hay chỉ còn hai
Theo Đấng Đạo Sư
Nghe kinh điển này
Sẽ đạt Phật đạo
Rõ đệ nhất nghĩa
Có người kiến lập
Nhất sinh bổ xứ
Thành bậc thông tuệ
Dạo chơi các cõi
Nghe ngộ kinh này
Đại Thánh đã thuyết
Có người chứng quả
Không còn các lậu
Giống như vi trần
Trong tám cõi Phật
Muốn biết số lượng
Cũng giống như đây
Hoặc có số ức
Chúng sinh nghe kinh
Nghe rồi đều phát
Tâm đạo thù thắng
Thế Tôn Vô Thượng
Tạo được như thế
Phân biệt diễn thuyết
Kiến lập Chân đế
Vô lượng các thân
Chẳng tính kể được
Ví như hư không
Không có giới hạn
Chư Thiên đã rải
Vô số ức hoa
Chẳng thể tính đếm
Ngàn ức Thiên tử
Đế Thích, Phạm thiên
Như cát sông Hằng
Đều đến nơi đây
Vô số ngàn ức
Tạp hương, diệu hương
Mật hương, thượng hương
Dồn lại cúng dường
Để rải cúng Phật
Rơi thành từng hàng
Giống như chim bay
Đến cúng dường khắp
Chỗ Như Lai ngồi
Ở trên hư không
Tự nhiên sấm động
Âm vang êm diệu
Sâu lắng nhiệm mầu
Trăm ngàn ức trời
Đều cùng ca tụng
Châu báu minh nguyệt
Tư nhiên rủ xuống
Các mùi hương thơm
Tự nhiên xông tỏa
Trăm ngàn ức vạn
Bình báu bảy báu
Đầy dẫy hư không
Như chim nhạn bay
Cúng dường Đại Thánh
Là Đấng oai thần
Ức vạn bảo cái
Bảy báu trang hoàng
Chẳng thể tính đếm
Rộng lớn bao quanh
Các bậc Bồ-tát
Thân hình cao lớn
Lên đến Phạm thiên
Đẹp đẽ vi diệu
Trí tuệ thông minh
Oai quang rực rỡ
Tràng phan thêu đẹp
Cúng dường lên Phật
Ca ngợi Thánh chúng
Ngàn ức bài tụng
Trong lòng phấn chấn
Quy kính an trú
Nơi ấy nhìn xuống
Khen chưa từng có
Thấy biết bao nhiêu
Đấng Đạo Sư khác
Đều cùng thị hiện
Giới hạn thọ mạng
Chúng sinh này đây
Thảy đều hoan hỷ
Pháp âm Đạo sư
Vang dội rộng khắp
Cho đến mười phương
Chỗ nào cũng rõ
Thỏa lòng chúng sinh
Số trăm ngàn ức
Hiểu rõ ý đạo
Đầy đủ trang nghiêm.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ngài Di-lặc:
– Người nào nghe kinh pháp Như Lai đã nói về hiện thọ mạng mà trong khoảnh khắc sinh tâm thích thú, tin tưởng thì công đức chẳng thể suy lường. Ví như thiện nam, thiện nữ muốn đắc đạo Vô thượng chánh chân thì phụng hành năm pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm trong tám trăm ngàn ức kiếp chẳng bằng thiện nam, thiện nữ nghe hạn lượng thọ mạng của Như Lai ở đây trong khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin tưởng ưa thích, chẳng hồ nghi về bao nhiêu phép tu hành đều quy về nhất đạo thì phải biết so với công đức tám trăm ngàn ức kiếp tu hành năm pháp Ba-la-mật gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn, gấp ức, gấp hơn vạn ức, phước ấy không thể lấy gì ví dụ được.
Phật dạy:
– Này A-dật! Thiện nam, thiện nữ nghe kinh pháp này, chỉ một khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin theo thì an trụ vững chắc đạo Vô thượng Chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác.
Khi ấy Đức Phật nói tụng:
Nếu tất cả tuân theo
Hành năm Ba-la-mật
Chí mong cầu tuệ này
Lòng bảo tồn đạo cả
Dầu trăm ngàn ức kiếp
Tám kiếp đều đầy đủ
Luôn cúng dường chư Phật
Và các bậc Thanh văn
Cúng dường ngàn ức cai
Duyên giác và Bồ tát
Dâng hiến đồ ăn uống
Y phục và giường, nệm
Mền chiếu và phòng xá
Đều dùng hương chiên-đàn
Vườn cảnh luôn bằng phẳng
Để làm nơi kinh hành
Cúng dường biết bao thứ
Vô số như thế rồi
Ở trong trăm ức kiếp
Để cầu đạo Vô thượng
Lại hộ trì cấm giới
Trong sáng không vi phạm
Vì được trí tuệ Phật
Vui tin đảnh lễ Phật
Lại nữa tu nhẫn nhục
An trú chỗ điều nhu
Chí cao không oán hận
Nhẫn vô số mắng nhiếc
Dù gặp kẻ hung bạo
Ngã mạn và tự đại
Đều có thể nhẫn được
Vì để cầu Phật đạo
Thường ân cần tinh tấn
Khoan hòa tâm kiên cố
Ý nghĩ tưởng việc khác
Dạo đến ức cõi Phật
Hoặc ở chỗ thanh vắng
Muốn bỏ việc ngủ nghỉ
Người ấy tu ức kiếp
Thường tập đi kinh hành
Muốn sánh không sánh bằng
Ngàn ức kiếp thiền định
Lại thêm tám ngàn ức
Tu hành tâm chuyên nhất
Chí nguyện đạt Phật đạo
Muốn được các thông tuệ
Đủ định Ba-la-mật
Nhất tâm thiền tịch nhiên
Các phước đức đã tạo
Tụ tập dồn cả lại
Trong trăm ngàn ức kiếp
Như trước đã khen ngợi
Nếu nam tử nữ nhân
Nghe tuổi thọ của Phật
Nhất thời hoan hỷ tin
Đức ấy là hơn hết
Nên trừ bỏ do dự
Các tư tưởng chấp trước
Tin ưa nghĩa đại pháp
Phước ấy cũng như thế
Nên Bồ-tát cầu đạo
Tuân phụng qua ức kiếp
Có nghe hay chẳng nghe
Thọ mạng Phật vô lượng
Nên cúi đầu đảnh lễ
Hạng người được như thế
Đời sau, trong tương lai
Độ thoát số ức người
Như Thế Tôn Năng Nhân
Đại nhân Thích sư tử
Ngồi dưới cội Bồ-đề
Mà rống tiếng sư tử
Ta nay sở dĩ đến
Được chúng sinh cung kính
Ở tại đạo tràng Phật
Nói thọ mạng cũng thế
Người đầy đủ chí tánh
Rộng nghe và thọ trì
Pháp độ người đã nói
Thì không có hoài nghi
Phật lại bảo ngài A-dật:
– Người nào nghe nói kinh thọ mạng của Như Lai mà ở trong cõi người thọ trì, phân biệt, hiểu rõ thì người ấy được phước chẳng thể kể xiết, tức là hơn người trải bao nhiêu ức kiếp phụng hành năm pháp Ba-la-mật, hơn nữa sẽ thị hiện và phụng trì trí tuệ Phật.
Lại nữa, người nghe kinh này liền thọ trì biên chép trên tre, lụa, cúng dường, thờ phụng, rải hoa, đốt các loại hương như hương bột, hương tạp, dùng lọng lụa, tràng phan, đèn dầu mè, đèn đầu thơm, đèn đề hồ cúng dường thì phước của người này hơn phước người kia vô số, sẽ đạt đến tuệ kiến của Như Lai.
Này A-dật! Còn như thiện nam kia nếu được nghe kinh Như Lai thọ hạn này mà sinh tâm chân thật hoan hỷ tin theo thì vì tâm tánh ấy quán tướng này nên biết vị ấy đã thấy Như Lai tại núi Linh Thứu khi nói kinh này cùng các chúng Bồ-tát quyến thuộc, Thanh văn vây quanh; cũng thấy cõi Phật ở trong thế giới tam thiên đại thiên này, đất đai bằng phẳng mềm mại, màu lưu ly vàn tía, có tám lớp đường giao thông, bảy hàng cây báu, biết bao nhiêu ức nhà cửa phòng xá; các chúng Bồ-tát ở trong đó.
Này A-dật! Muốn biết tâm ý của vị kia có thường chất trực, an vui, tin tưởng thì căn cử vào hiện tượng trên mà biết được hành tướng của tâm kia đã từng thấy pháp hội của Phật. Lại Đấng Như Lai thấy hết tâm tin tưởng ưa thích của người ấy. Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh này chẳng phỉ báng mà hoan hỷ thọ trì thì được Như Lai ủng hộ. Thiện nam, thiện nữ ấy hơn người xây dựng tháp miếu thờ Phật, kiến lập tinh xá, giảng đường, hơn người chăm sóc, cấp dưỡng thuốc men, đồ cúng dường cho Tỳ-kheo tật bệnh. Vì sao? Vì người ấy cho việc kiến lập tháp miếu xây dựng chùa chiền bảy báu cao đến Phạm thiên để cúng dường hết tất cả xá-lợi là đầy đủ rồi. Chùa tháp thờ Phật mênh mông vô hạn, khắp cùng mặt đất, treo các linh báu; miếu tàng trữ xá lợi vô thượng, cúng dường hương hoa, hương tạp, hương bột tràng phan bảo cái, kỹ nhạc ca tụng và biết bao loại hương thơm khác. Các loại châu ngọc của cõi trời, cõi người, hoa trời, hương trời, kỹ nhạc trời, tiếng sấm sét trên không, âm hưởng rền vang, chung khánh, trống lớn, không hầu, nhạc khí, tiêu, cầm sắc, náo bạt rất nhiều, âm thanh êm dịu, ca múa nhịp nhàng, điều hòa vui vẻ trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp cúng dường hầu hạ, các pháp Ba-la-mật đều viên mãn.
Sau khi Phật diệt độ, người nào được nghe kinh này mà thọ trì, đọc tụng, hoặc phân biệt diễn nói thì phước đức vô lượng hơn hẳn người tu tập thọ trì lòng từ rộng khắp, tạo lập giảng đường, tinh xá, sắm giường nằm, đồ trải đẹp đẽ mời chúng Tỳ-kheo vào ở trong đó; có vườn cảnh hoa quả, có bảo châu minh nguyệt, chỗ kinh hành, chỗ ngồi, cúng dường ăn uống, bệnh hoạn cấp thuốc thang, tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ; dưới chân giường nằm có biết bao loại báu vi diệu chói sáng đến trời Phạm thiên; phan lọng giao xen trang hoàng. Vì khuyến trợ phước nên dần dần được đầy đủ mà tội tiêu trừ, trong sáng; năm vóc tinh tấn, ở chỗ thanh vắng, tích lũy công đức, trong vô số trăm ngàn ức kiếp khen ngợi tên kinh, tất cả trang nghiêm, oai thần rạng rỡ, rộng khắp.
Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen:
Nếu dựng tháp bảy báu
Lên đến cõi Phạm thiên
Hoa hương và kỹ nhạc
Phướn lọng để cúng dường
Các giường nằm nệm trải,
Dâng thức ăn uống ngon
Bệnh tật cấp thuốc men
Giường báu có nhiều loại
Đều vi diệu trang nghiêm
Lên đến cõi Phạm thiên
Trang nghiêm khắp cõi Phật
Khuyến trợ đều đầy đủ
Chỗ vắng siêng lễ bái
Chứa nhóm nhiều ức kiếp
Mọi người đều ưa thích
Bày tối thắng vi diệu
Cúng dường đầy đủ hết
Hoa tươi sạch, tràng phan
Dùng để làm y phục
Số nhiều như sấm vang
Kỹ nhạc tiếng êm dịu
Để cúng dường xá-lợi
Thắp đèn bằng dầu hương
Phân bố để chung quanh
Chỗ người trì kinh này
Ở đời loạn, giảng pháp
Mà đầy đủ biện tài
Cúng dường nhiều như thế
Vô số ức phòng xá
Đều làm bằng chiên-đàn
Ba mươi hai giảng đường
Cao tột không gì hơn
Đều trải các tòa ngồi
Ăn uống theo ý muốn
Cúng dường thức ăn ngon
Trăm ngàn ức như thế
Vườn cảnh chỗ kinh hành
Hoa rải khắp mặt đất
Lọng che nhiều vô lượng
Tranh vẽ biết bao nhiêu
Dùng cúng dường Tăng chúng
Người trì kinh điển này
Hiện tại làm vậy rồi,
Sau khi Như Lai diệt
Nếu đọc tụng chép kính
Hoan hỷ và tin ưa
Được phước nhiều vô lượng
Vượt hơn phước nói trên
Nếu có người sao chép
Tôn trí chỗ tinh khiết
Và cúng dường quyển kinh
Bằng hương hoa xông khắp
Luôn luôn thắp đèn sáng
Đốt đỉnh bằng dầu thơm
Tỏa mùi, liền hoan hỷ
Bày biện hoa như trên
Người phụng trì kinh này
Phải cúng dường như thế
Được phước rất là nhiều
Số lượng chẳng thể tính
Giống như cõi hư không
Giới hạn không thể biết
Mười phương rộng vô lượng
Phước ấy cũng như thế
Huống gì còn lại thêm
Thường hành sự an ổn
Bằng trì giới, thiền tư
Ngồi yên nơi thanh vắng
Không sân, chẳng ác khẩu
Cung kính, quyết tư duy
Tỳ-kheo-ni thường hành
Khiêm cung chẳng tự đại
Trí tuệ như trăng sáng
Người trí hỏi chẳng sợ
Theo thứ tự phân biệt
Lòng mong mỏi thành Phật
Nếu có người như thế
Là trì kinh thù thắng
Công đức của người ấy
Chẳng thể suy lường được
Nếu thấy người như vậy
Chính đó là Pháp sư
Người trì kinh điển này
Nên phụng kính cúng dường
Giả sử có người
Dùng hoa hương trời
Dùng lọng báu trời
Để mà che phủ
Phải nên dùng đầu
Lễ lạy người ấy
Luôn tưởng nghĩ là
Như Lai tối thắng
Khi thấy người ấy
Nghĩ như thế này
Người này đang cầu
Ngồi cội Bồ-đề
Sẽ thành Chánh giác
Nên cúng dường ngay
Vì làm lợi ích
Chư Thiên nhân gian
Hoặc là đứng lại
Hoặc là ngồi yên
Hoặc đi kinh hành
Hoặc nằm trên giường
Hoặc mặc y phục
Cũng giữ đức tánh
Thường hay diễn giảng
Kinh Như Lai này.
Khi ấy có người
Đối kinh điển này
Dùng đủ mọi cách
Chỉ chỗ nhiệm mầu
Thế Tôn Đạo Sư
Đã chí thành nói
Dùng vô số báu
Cúng dường người ấy.
Như ta đã khen
Có bao nơi chốn
Vị ấy đi qua
Chính là thân Phật,
Có ở nơi ấy
Như ngồi trên tòa
Rõ biết tại chỗ
Chốn đã đi qua.
***
Phẩm 17: KHUYẾN TRỢ
Bấy giờ Đại sĩ Di-lặc bạch Phật:
– Có người nghe kinh điển đã tuyên thuyết này được phước gì?
Rồi diễn lại bằng bài kệ:
Nếu Đại Hùng diệt độ
Có người nghe kinh này
Hiểu biết liền khuyến trợ
Sẽ được những phước gì?
Khi ấy Thế Tôn bảo Di-lặc:
– Sau khi Như Lai diệt độ, có người nghe kinh này, hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, quyến thuộc trai gái lớn nhỏ, nghe lời khuyến trợ, ở trong chúng hội vì người chuyển nói hoặc tại trong nhà, hoặc ở chỗ trống, hoặc nơi thanh vắng trong ấp, huyện, quận, làm những điều như dã được nghe trong kinh theo những điều đã tiếp thu được, dựa vào năng lực ấy giải nói cho người, hoặc ca ngợi, ngâm vịnh cho cha mẹ , tôn tộc nghe lời của Đại sĩ cũng tùy hỷ khen ngợi những điều có thể nghe biết, lần lượt truyền nhau. Nếu không gặp sắc mạo oai dung của Pháp sư thì người hay học thay thế khuyến trợ, vì nhân duyên ấy, nên phát khởi phương tiện khiến cho những sinh trong năm đường có năm sự ngăn che được nhìn thấy nhau. Họ đem điều nghe được khuyến hóa cho nhau nghe phước đức khuyến trợ mà ta đã nói, nghe công đức kinh pháp của Pháp sư thuyết kinh.
Này thiện nam, thiện nữ! Trải qua vô số ngàn năm, bốn châu thiên hạ, chúng sinh trong sáu đường chưa hết buộc ràng; đó là loài có sắc không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng cũng chẳng phải không tưởng, có chân, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, chư Thiên, loài người; trong đó có người muốn cầu công đức, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh này, đem những thứ tốt nhất, quý nhất của mình, đầy cả cõi Diêm-phù-đề bố thí rộng rãi cho tất cả mọi người theo ý thích của họ như nhà cửa, vàng bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, xe voi, xe ngựa, xe trâu do các báu tạo thành; trải qua vô số năm theo nhu cầu, đáp ứng đầy đủ; lại cung cấp thức ăn uống không thiếu vật gì. Giữa chừng, tự nghĩ: “(Bọn họ) tuổi già sức yếu, tâm ý mệt mỏi đâu có thể giáo hóa đưa vào Pháp luật của Như Lai được; ta phải dùng lời Phật dạy để dạy bảo chúng.” Nghĩ rồi, tiền dùng giới luật để ngăn điều sai trái, hướng dẫn bằng giáo điển. Mọi người đồng thời tìm thấy dấu đạo, chẳng còn sinh tử, không đắm sở chứng, các lậu đã hết, đầy đủ thiền định, oai thần rạng rỡ, đắc tám giải thoát, nhất tâm bất loạn.
Này A-dật, ý ông thì sao? Khi ấy phước thí mà người kia đã kiến lập có thể tư duy suy lường được chăng?
Di-lặc đáp:
– Rất nhiều, chẳng thể tính đếm! Có vậy mới có thể an ủi vô lượng chúng sinh, cung cấp đầy đủ cho sự thiếu thốn của họ, huống là còn an lập họ không đắm vào quả chửng.
Phật bảo A-dật:
– Nay ta nói rõ cho ông biết rằng, có người siêu vượt luật nghi, như người kia thiết bày việc bố thí lớn, cung cấp cho chúng sinh trong bốn châu, an lập họ không đắm quả chứng, thì đối với người nghe một câu kinh, một câu kệ ở trong kinh này, rồi khuyến trợ, vui mừng, phước nhiều hơn người bố thí nói trên; công đức khuyến trợ một câu kinh, một bài tụng không thể kể xiết, hơn trăm, hơn ngàn, hơn vạn, hơn ức, hơn ức vạn, hơn trăm ngàn ức vạn kiếp cũng không thể kể xiết, không thể thí dụ, huống là tự mắt thấy tai nghe và tùy hỷ kinh điển này thì phước đức khó bì kịp. Giả sử có người muốn nghe kinh này hoặc vào chốn tinh xá, hoặc vào huyện ấp, hoặc đứng hay ngồi, thoáng chốc được nghe kinh pháp này, hoặc được nghe lại, mà tức thời chuyên cần tinh tấn thì ngay đời hiện tại được phước đức, thường được vô số trân bảo tự nhiên, cung điện, tinh xá, giường chõng, tọa cụ, voi, ngựa, xe cộ, an nhàn vô cùng; động tác lúc thuyết kinh hoặc đứng hoặc ngồi hoặc dừng nghỉ, Thiên vương đều đến ủng hộ, chẳng gặp hoạn nạn. Đế Thích, Phạm thiên, bốn Thiên vương, hộ vệ hai bên; Chuyển luân thánh vương hầu gần tòa Sư tử.
Nếu có thiện nam xướng lên rằng: “Có kinh tên là Chánh Pháp Hoa, xứng đáng tôn kính phụng thờ, hãy cùng nhau nghe và thọ trì!”, rồi cùng hỏi ý nhau, hoặc có người thỉnh về để bụi bám, lười biếng chẳng hành, nhưng nếu có người lắng nghe được trong chốc lát hiểu rõ tội phước, thiện ác báo ứng, liền được gốc đức, sẽ đạt tổng trì, đời đời cùng theo các Bồ-tát, thọ sinh bất cứ nơi nào cũng thông minh trí tuệ, trăm ngàn ức kiếp thân thường thơm sạch, không đọa đường ác, chẳng gặp giặc cướp, đao binh, không có tà tâm, sinh vào nhà hiền thiện, sắc diện sáng nhuận, ai thấy cũng hoan hỷ, cũng đều mến ưa, chẳng mù, chẳng điếc, mũi chẳng cong vẹo, cũng chẳng tẹt gãy, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng hói, chẳng què, chẳng bị lậu, chẳng nghiện, chẳng ngu, chẳng si, chẳng lùn, chẳng cao, chẳng yếu, chẳng mạnh, chẳng trắng, chẳng đen, mặt chẳng vàng chẳng nhăn; thân thể hoàn toàn đẹp đẽ, đoan chánh như hoa đào, ai cũng kính mến; tâm tánh hiền từ, miệng nói trôi chảy, mau đạt thiền định, giáo pháp Như Lai; muốn thấy chư Phật, liền như sở nguyện được thấy Thế Tôn Chánh Giác, nên học kinh này.
Phật dạy:
– Này A-dật! Nếu quán xét phước đức của người ấy thì với người chỉ một lần nghe danh mà khuyến trợ tùy hỷ còn được phước đức như thế, huống là người chuyên cần tinh tấn lắng nghe thọ trì, tư duy, cúng dường rồi lại vì người tuyên thuyết đầy đủ.
Bây giờ Thế Tôn nói tụng khen:
Sau này có người
Nếu gặp kinh này
Giả sử nói được
Chỉ một bài tụng
Lắng nghe hiểu nghĩa
Tâm ưa khuyến trợ
Công đức người ấy
Chẳng thể hạn lượng
Nếu có người nào
Một mình bố thí
Thường cho chúng sinh
Của nhiều vô số
Như Phật vừa rồi
Đã dẫn thí dụ
Khiến vô số kiếp
Đều được no đủ
Khi người ấy thấy
Mặt họ biến đổi
Đầu bạc răng rụng
Già nua lụm khụm
Nghĩ chúng sinh này
Chết sắp đến gần
Ta muốn giáo hóa
Khiến vào đạo pháp
Cuối cùng người ấy
Dùng pháp giáo hóa
Phân biệt diễn nói
Cảnh giới vô vi
Tất cả năm đường
Giống như cây chuối
Khiến mau thành tựu
Cảnh giới diệt độ
Tất cả mọi người
Nghe kinh đều thọ
Đã theo người này
Gần gũi thưa hỏi
Chế phục tâm mình
Khiến đều vô lậu
Chỉ trong khoảnh khắc
Được chứng vô trước.
Nếu nghe một kệ
Thay nhau khuyến trợ
Công đức đạt được
Hơn bố thí kia
Số nhiều vô lượng
Công đức phân biệt
Chỉ một bài tụng
Khó kể khó lường
Bỗng dưng được nghe
Giảng một bài tụng
Công đức vô cùng
Chẳng thể hạn lượng
Người ấy được phước
Vô số như thế
Huống là hiện tại
Tự mình thưa hỏi
Giả sử có người
Đi đến chúng hội
Một lần nghe kinh
Vui mừng phấn chấn
Từ các trăm ngàn
Ức ngàn số kiếp
Pháp ấy khó gặp
Cũng khó hiểu rõ
Nếu nay có người
Được như người kia
Khoảnh khắc được nghe
Quyển kinh điển này
Đã được nghe rồi
Quả báo đạt được
Sinh ở nơi nào
Không có bệnh nặng
Đời đời sinh ra
Lưỡi không có tật
Răng thì cứng chắc
Chưa từng rụng gãy.
Khi sinh an ổn
Không các nguy hại
Tà ma ngăn ngại
Cha mẹ hiền lành
Việc làm thuận lợi
Mạng sống dài lâu
Không bị đui mù
Mắt cũng chẳng mờ
Mũi tai đẹp đẽ
Không có khuyết tật
Môi lưỡi đỏ tươi
Luôn luôn sạch sẽ
Thường được mọi người
Yêu mến kính trọng
Hơi miệng thơm tho
Không mùi xú uế
Thân thể luôn luôn
Như hoa sen xanh
Mùi thơm lan tỏa
Không đâu chẳng nghe
Nếu ở trong nhà
Đi đến tinh xá
Hoặc đến nơi nào
Được nghe kinh này
Trong khoảng chốc lát
Hay được nghe lại
Mừng vui tột độ
Liền lãnh thọ được
Thân thể người ấy
Sẽ được an ổn
Xe ngựa đẹp đẽ
Dùng để cung nghinh
Hoặc lại cưỡi lên
Xe voi hiền thiện
Du hành trong xứ
Bao nhiêu vật báu
Thường được hiến dâng
Anh lạc thượng diệu
Số trăm ngàn người
Đều cùng phát tâm
Đi đến chỗ ấy
Nơi có thuyết pháp
Liền vì họ thuyết
Giảng dạy thanh tịnh
Vì pháp thanh tịnh
Tạo dựng trong sáng
Có được giường tòa
Thiên đế, Phạm thiên
Nhanh chóng ngự tọa
Chuyển pháp luân vương
Ở lâu trong chúng
Phô diễn nghĩa kinh
***
Phẩm 18: KHEN PHÁP SƯ
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại sĩ Thường Ứng Thời:
– Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ được mười công đức về nhãn căn, tám trăm danh xưng, một ngàn hai trăm về nhĩ căn, một ngàn hai trăm về tỹ căn, một ngàn hai trăm về thiệt căn, một ngàn hai trăm về thân hành, một ngàn hai trăm về ý tịnh; đó là vô số trăm ngàn công đức, có thể nghiêm tịnh công đức sáu căn.
Người ấy nếu được nhãn căn thanh tịnh thì dùng nhục nhãn thấy vật hiện có khắp cả tam thiên đại thiên thế giới; các vị ngọt trong trong cây rừng, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến cõi trời Ba mươi ba; thấy khắp tất cả và có thể nhiếp thủ hết nên gọi là nhục nhãn. Tất cả chúng sinh hiện có trong đó, đều thấy hết và biết rõ tội phước, chỗ hướng đến của họ.
Khi ấy Thế Tôn dùng kệ khen:
Người thọ trì kinh này
Dũng mãnh ở trong chúng
Tuyên thuyết chẳng khiếp sợ
Chỉ nghe danh đức này
Tám trăm các danh xưng
Mắt thanh tịnh trong sáng
Nêu đã lìa các cấu
Mắt ấy thấy biết khắp
Người kia dùng nhục nhãn
Do từ cha mẹ sinh
Thấy thế giới chư Phật
Thấy khắp vượt Thần tiên
Các núi, núi Tu-di
Lại thấy cả Thiết vi
Và các gò đống khác
Lại xem thấy biển lớn
Yên lặng ngồi một chỗ
Chỗ nào cũng thấy hết
Dưới đến ngục Vô khả
Nhục nhãn được như thế.
Nếu chưa được Thiên nhãn
Cũng chẳng thấy biết rõ
Cảnh giới của nhục nhãn
Căn và thức nhẹ nhàng
Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời:
– Thiện nam, thiện nữ nào nói kinh điển này, hoặc nói cho hàng Thanh văn thừa và chủng loại khác thì đạt được một ngàn hai trăm danh xưng về tai, nghe khắp tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến trời ba mươi ba, vượt hơn Thần tiên, đó là nghe tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trâu, tiếng kỹ nhạc, tiếng xe, tiếng kêu khóc, tiếng sầu than, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng ca, tiếng múa, tiếng cười giỡn, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ, tiếng gió, tiếng kỳ diệu, tiếng chánh pháp, tiếng phi pháp, tiếng vui, tiếng khổ, tiếng sức lực, tiếng tánh tình, tiếng nhu, tiếng thô, tiếng Trời, tiếng Rồng, và các thử tiếng Quỷ thần, Kiền-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng trong đất, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Thanh văn, tiếng Bồ-tát, tiếng Như Lai; các loại âm thanh có trong tam thiên đại thiên thế giới, trong ngoài thông suốt, tất cả thanh tịnh; dùng nhục nhĩ căn nghe hết tiếng nói của chúng sinh; chưa đắc Thiên nhĩ mà nghe hết, hiểu rõ ngọn ngành các tiếng, cũng chẳng tư duy quán sát gốc gác của chúng sinh mà lại nghe hết, cũng chẳng tìm cầu tất cả âm thanh mà lại nghe rõ ràng êm xuôi như thế. Bồ-tát Đại sĩ Thường Ứng Thời chưa đắc Thiên nhĩ mà tai thường nghe được như vậy.
Phật nói như vậy xong, muốn giải thích lại ý nghĩa trên nên nói tụng:
Nhĩ căn thanh tịnh
Trong sạch gồm thâu
Biết bao nhiêu loại
Có ngàn hai trăm
Ở trong thế giới
Thảy đều nghe biết
Nghe âm thanh ấy
Không sót tiếng nào
Tiếng của sáu loài
Cũng đều nghe được
Tiếng của các thừa
Xe, trâu, voi, ngựa
Vỗ tay đánh trống.
Âm nhạc buồn vui
Gõ nhịp chiêng bạt
Cũng lại như thế
Kỹ nhạc êm dịu
Âm thanh tuyệt vời
Tuy ở bên chúng
Nhưng không nhiễm trước
Nghe vô số điều
Những người giảng thuyết
Người ấy so sánh.
Ưa thích phân biệt
Nghe tiếng chư Thiên
Thường nghe được tiếng
Thiên nhĩ nghe được
Tiếng nam tiếng nữ
Êm ái ngọt ngào
Các tiếng kêu khóc
Việc làm của các
Đồng nam đồng nữ
Tiếng chim loan buồn
Tiêng quạ, chim thư
Giao tinh, uyên ương
Cùng chim anh vũ
Nếu cất tiếng kêu
Người ở sơn lâm
Đều được nghe hết
Loại âm thanh này
Đớn đau khổ sở
Kêu gào thảm thiết
Tàn khốc đắng cay
Ở trong địa ngục
Mong muốn uống ăn
Van xin cầu khẩn
Bộc khởi mạnh mẽ
Phát ra thành tiếng
Các A-tu-la
Sống ở tại biển
Âm thanh thông suốt
Mỗi tiếng khác nhau
Khi ấy Pháp sư
Trụ tại một chỗ
Bất cứ tiếng nào
Thảy đều nghe biết
Tiếng kêu đói khát
Của loài ngạ quỷ
Mỗi tiếng phát ra
Hoặc kêu hoặc rống
Khi ấy Pháp sư
Đứng im tại chỗ
Cũng nghe biết được
Bao nhiêu thứ tiếng
Tiếng của chư Thiên
Trên cõi trời Phạm
Trên trời Quang âm
Trời Thiện cứu cánh
Và các âm thanh
Kỳ đặc lạ khác
Pháp sư đều nghe
Biết hết tất cả
Có người ở đời
Bỏ tục xuất gia
Làm chúng Tỳ-kheo
Hành trì phúng tụng
Phân biệt giảng thuyết
Tâm trí người ấy
Pháp sư nghe biết
Kinh đã thuyết này
Các chúng Bồ-tát
Ở cảnh giới mình
Có thể phúng tụng
Vì người tuyên thuyết
Kết tập ý nghĩa
Để thành kinh điển
Thảy đều nghe hết
Bao nhiêu âm thanh
Của Phật Thế Tôn
Vì người thuyết pháp
Vì các chúng sinh
Thuyết kinh vô số
Một mình dưới cây
Đều nghe được hết
Do Bồ-tát ấy
Thường trì kinh này
Vô số chúng sinh
Trong quốc độ Phật
Ở tam thiên giới
Âm thanh vang vọng
Hoặc ở trong nhà
Hoặc ở bên ngoài
Lời nói thô tế
Thảy đều thâu nhận
Nghe hết tất cả
Các loại âm thanh
Của loài chúng sinh
Cũng không chấp trước
Mọi nơi mọi người
Biểu lộ, sâu kín
Với tai thanh tịnh
Đều thấu rõ hết
Người này còn chưa
Đắc Thiên nhĩ thông
Vừa gặp nhân duyên
Liền nghe được ngay
Công đức Pháp sư
Khi ấy như thế
Do học kinh này
Nên được như vậy.
Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời:
– Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì phân biệt, diễn nói, đọc tụng, hoặc sao chép kinh này trên tre lụa thì được tám trăm công đức, các căn kiên cố, tỹ căn thanh tịnh. Vì vậy, các mùi hương trong tam thiên đại thiên thế giới, tỹ căn đều nghe được hết, như mùi hương êm dịu, hương tu mạn, hương sinh, hương truyền sức tu, hương hoa tư di, các loại hương hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng và bao nhiêu loại hương của cây cỏ hoa trái tỏa xông, như là hương tô hiệp, hương hoa, hương chiên-đàn, hương cây mật, hương cây mộc xanh, đủ các loại hương, trăm ngàn thứ hương đặc biệt có ở mọi nơi, hương các cây chất phác hương nam, nữ đồng nam, đồng nữ đều tự nghe; hương xoa nơi thân, hương của voi, ngựa, lục súc, chim bay, thú chạy, hương các thứ cây cỏ, hương của các loại hàm huyết ở trong rừng cây, hương của các yêu mị, hương chí thành, hương thiên thượng, hương tỷ đà mỹ, hương cây trú đạt, hương ý, hương đại ý, hương nhu nhuyễn, hương chư Thiên, hương Thiên cung, biết mùi hương thân Đế Thích phát ra từ đâu, ở nơi giảng đường khí đánh trống đờn ca, hay ở chỗ tu chỉnh thiết lập các pháp tắc quan trọng, hoặc khi thuyết pháp cho chư Thiên Đao-lợi, các mùi hương tự nhiên từ đất phát ra, mùi hương của ngọc nữ trời Lợi-nghị ca hát nô đùa, mùi hương của đồng nam, đồng nữ. Do nhân duyên ấy, giả sử mùi hương sinh ra từ thân của các Thiên tử cõi Phạm thiên, chư đại Thiên tử cõi Đại phạm, mùi hương ấy có tên khác nhau, mùi hương của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Đại sĩ, Như Lai ở nơi du cư khai hóa, vị Pháp sư ấy ở tại một nơi cách đó rất xa, chẳng đến ngay đó, cũng chẳng gần bên, chẳng đi đến ngửi mà vẫn nghe được hết các mùi hương ấy, nhưng chẳng thích, chẳng cầu, cũng chẳng nhớ nghĩ, cũng chẳng xông hương, nhưng ngửi biết mùi, trụ tâm chuyên nhất, ở tại chúng hội mà phân biệt nói các mùi hương như vậy, tâm cũng chẳng đắm trước, không ưa thích mong cầu.
Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi:
Tỹ căn người ấy
Thanh tịnh như vậy
Biết bao loại hương
Nghe được rất nhiều
Khi ấy thế giới
Tất cả nơi chốn
Chỗ có thể sinh
Loại hương rất tốt
Lại có các hình
Như hương hoa trồng
Chiên-đàn các hương
Đủ loại khác nhau
Các hương báu ấy
Phẩm loại đều khác
Xông hương ngào ngạt
Các hương nhựa cây
Nam tử, nữ nhân
Đồng tử, đồng nữ
Người ấy tại chỗ
Biết loại khác nhau
Các hương hơn kém
Sinh ở nhân gian
Trồng tại nơi nào
Xanh nhạt lẫn lộn
Lại biết trong nước
Chuyển luân thánh vương
Mềm mỏng nhân từ
Dũng lực ra sao
Và tên lụa là
Ở trong nước ấy
Các hương khác nhau
Đều phân biệt được
Của cải châu báu
Nhiều đến bao nhiêu
Tàng trữ cất giấu
Ở nơi chốn nào
Có ngọc nữ báu
Và trân bảo khác.
Khi ấy Bồ-tát
Biết rõ mùi hương
Anh lạc hiện có
Đeo ở nơi thân
Vòng ngọc trang sức
Y phục đẹp đẽ
Hoặc ngồi tại tòa.
Hoặc nằm trên giường
Dùng hương xoa thân
Bồ-tát đều biết
Ca giỡn vui chơi
Tất cả thần túc
Kẻ trí sáng suốt
Mũi đều nghe được
Hoặc có phụng trì
Lời kinh này dạy
Dùng loại hương thơm
Và hương dầu mè
Bao nhiêu chủng loại
Hương hoa báu khác
An trú tại chỗ
Đều nghe biết được
Xuất xứ nơi nào
Có loại hương này
Có thể phân biệt
Cùng các loại hương
Hiện có ở tại
Trong chốn núi rừng
Vô số chủng loại
Hương hoa chiên-đàn
Và các loại hương
Ở trong dân chúng
Ở tại một nơi
Biết được tất cả
Hoặc loại ưa thích
Của Chuyển luân vương
Hoặc giấu chỗ kín
Ở trong biển cả
Hoặc giấu trong đất
Chỗ sinh kiến trùng
Người trí đều rành
Các loại hương ấy
Biết A-tu-la
Trai gái, vợ con
Và các thần dân
Đều phân biệt biết
Vua A-tu-la
Ca múa vui chơi
Mũi đều nghe được
Quả báo như thế
Hoặc ớ đồng trống
Hoặc ngã tư đường
Có nhiều sư tử
Cọp, sói, rồng, voi
Trâu và quyến thuộc
Đủ các chủng loại
Trâu đực trâu cái
Đều có thể biết
Hoặc có nữ nhân
Tùy sự ưa thích
Hoặc ưa con trai
Hoặc thích con gái
Khi đã mang thai
Thân thể mệt mỏi
Do hương biết được
Nam, nữ trong bụng
Lại tự biết rõ
Thân từ đâu đến
Và cũng hiểu rõ
Ý nghĩa nhân duyên
Gặp gỡ người này
An ổn, khổ, vui
Sức khỏe đồng nam
Phước sẽ có được
Ước muốn nam, nữ
Thảy đều biết hết
Lại nghe riêng biệt
Từng loại hương nguyện
Tùy theo ý thích
Như vậy vô tận
Lại nghe riêng biệt
Hương thân vắng lặng
Ở tại nơi nào
Kho tàng trong đất
Của cải châu báu.
Đủ loại kim ngân
San hô nhu nhuyến
Hình như vàng tía
Ở yên một chỗ
Nghe đều biết hết
Các chuỗi anh lạc
Châu báu minh nguyệt
Thế gian hiện có
Người thường chẳng biết
Dùng mũi nghe mùi
Biết được tốt xấu
Tới lui tiến dừng
Biết rõ thiện ác
Chư Thiên trên trời
Hoa ý các hoa
Hoa âm nhu nhuyễn
Có các loại hoa
Nhóm tụ nhiều thứ
Ở trong hư không
Dùng sức của mũi
Ở đây nghe hết
Các Thiên nhân ấy
Có các cung điện
Các cung bậc thượng,
Bậc hạ, bậc trung
Đủ các phẩm loại.
Đúng như hình dáng
Đứng ở nơi đây
Dùng mũi nghe biết
Cũng phân biệt được
Cảnh vườn dạo chơi
Pháp của chư Thiên
Trong sáng vắng lặng
Cũng lại thấu hiểu
Cung điện tôn nghiêm
Của các Thiên tử
Kiến lập ở nơi
Vui chơi du hý
Đều nghe mùi hương
Do hương phân biệt
Các nhóm Thiên tử
Trụ ở pháp nào
Làm những việc gì
Ngay tại chỗ ở
Nghe hương đều biết.
Ngọc nữ chư Thiên
Chứa các hoa quả
Các anh lạc báu
Chung quanh để chơi.
Khi ấy Bồ-tát
Biết hết mùi hương
Trời Ba mươi ba
Đến trời đệ nhất
Các trời Đại phạm
Cung điện của họ
Dùng mũi nghe mùi
Đều có thể biết.
Trụ rồi hoại diệt
Có thể biết rõ
Các chỗ xa gần
Cũng đều thông suốt,
Chết rồi sinh lại
Cuộc sống đời trước
Dùng mũi nghe mùi
Biết rõ gốc ngọn.
Nếu có Bồ-tát
Trì kinh điển này
Hoặc có Tỳ-kheo
Thuận theo thỉnh giáo
Thường tu tinh tấn
Chỗ vắng kinh hành
Hoặc đã chí thành
Phúng tụng giảng thuyết
Thì Bồ-tát ấy
Thảy đều biết hết.
Cũng biết Thanh văn
Những người tối thắng
Thường ở dưới cây
Đơn độc một mình
Bậc sáng suốt ấy
Nương mùi biết được,
Có Tỳ-kheo nào
Ở bất cứ đâu
Có thể phân biệt
Biết ngay chỗ ấy.
Có Bồ-tát nào
Vững tâm thiền định
Thường tự ưa thích
Phúng tụng giảng thuyết
Lại vì người khác
Diễn giải giáo pháp.
Khi ấy Bồ-tát
Nghe hương biết được
Đại nhân an trú
Ở nơi chốn nào,
Thương xót hành từ
Phân biệt thuyết pháp
Ngay tai chỗ ngồi
Đệ tử vây quanh.
Nghe hương biết rõ
Chỗ của Pháp vương
Giả sử chúng sinh
Được nghe kinh pháp,
Đã được thọ trì
Tâm ý phấn khởi.
Khi ấy Bồ-tát
Ở đây cũng thấy
Thế lực Bồ-tát
An trú chúng hội,
Ở tất cả nơi
Hiện tượng như thế
Còn chưa đạt được
Mũi của trời người,
Tự nhiên được vậy
Điều này ứng với
Mũi của chư Thiên
Không có các lậu.
Phật dạy:
– Này thiện nam! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ đạt được một ngàn hai trăm công đức kỳ lạ về thiệt căn, thiệt căn phân biệt đầy đủ các mùi vị. Nếu có món ăn ngon, thì biến thành món ăn tự nhiên ở cõi trời. Nếu ăn món thô nhám mặn đắng thì sẽ hóa thành cỗ tiệc cõi trời, mùi vị tuyệt diệu. Nếu vào chúng hội giảng truyền pháp yếu thì mọi người hân hoan, kính ngưỡng kinh pháp. Nếu vào chỗ tranh chấp giận dữ, dùng ngôn ngữ đạo đức mềm mỏng, biện luận phân giải rõ ràng mọi khúc mắc; với lòng thương yêu thông cảm, thì mọi người sẽ hoan hỷ hòa thuận, cảm hóa những âm thanh khác.
Người ấy đã nghe kinh mà ngôn luận mỹ diệu, trời, người đi đến; Thích, Phạm, Tứ vương và trời Thanh tịnh, ngọc nữ chư Thiên mong được diện kiến; Thiên tử, Rồng, Thần và phu nhân của Rồng, Thần, A-tu-la và phu nhân của A-tu-la, Ca-lưu-la và phu nhân của Ca-lưu-la, Chân-đa-la và phu nhân của Chân-đa-la, Ma-hưu-lặc và phu nhân của Ma-hưu-lặc, Kiền-đạp-hòa và phu nhân của Kiền-đạp-hòa, nữ quỷ thần Duyệt-xoa, nữ quỷ thần Tỷ-da Phản Túc đều muốn đến chiêm ngưỡng, đảnh lễ, thăm hỏi, thọ trì kinh giới và quy y; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, thiện nữ, quốc vương, thái tử, đại thần, quan chức, người quyền quý giàu sang, Chuyển luân thánh đế uy phong lẫm liệt, bảy báu sung mãn; thái tử, quyến thuộc, vương phi, thể nữ và các Phạm chí, hiền nhân, cư sĩ ở châu thành, quận huyện, xóm làng, dinh thự đều muốn đi đến chiêm ngưỡng, mong trọn đời lễ bái quy y, cúng dường hầu cận, nghe thọ kinh pháp; lời dạy trong sáng hiền hòa như Thế Tôn Như Lai đã khen ngợi, đã tiếp xúc tư duy quan sát và đạt được cốt lõi sâu xa của trí tuệ Phật, tự nhiên nghe và được thấu đạt như thế; lại biết Đức Thế Tôn khi thuyết pháp xoay mặt về đâu.
Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi:
Thiệt căn người ấy
Thật là mềm mại
Phân biệt các vị
Chọn lựa ngon dở
Ngon lành tự nhiên
Như món ăn trời
Bao nhiêu mùi vị,
Lần lượt phát sinh
Âm thanh thù diệu
Ngôn ngữ hòa nhã
Nghe thật kỳ lạ
Hoan hỷ vui mừng
Ở trong chúng hội
Ai cũng khâm kính
Lại sẽ diễn nói
Âm thanh thâm áo
Có người nghe được
Kinh điển đã nói
Nhận thấy báo ứng
Vô cùng thanh tịnh
Liền sinh hoan hỷ
Hiểu rõ tôn kính
Cúng dường kinh điển
Chẳng thể kể xiết
Các trời, rồng, thần
Thần A-tu-la
Luôn luôn kính phục
Muốn được nhìn thấy
Lễ bái cung kính
Thưa hỏi kinh điển
Danh đức người ấy
Đạt đến như thế
Ở thế giới này
Trong khoảnh phát ý
Đều dùng âm thanh
Loan báo khắp cả
Tiếng ấy nhu nhuyến
Vi diệu thù đặc
Thâm thúy nho nhã
Lại có âm tiết
Các bậc hào quý
Chuyển luân thánh vương
Hoàng hậu vương nữ
Muốn được đến nơi
Để mà cúng dường
Thảy đều chắp tay
Từ đầu đến cuối
Lắng nghe kinh điển
Thiên thần các nơi
Hoàn toàn tôn trọng.
Các Kiền-đạp-hòa
Và các tùy tùng
Nữ quỷ Phản Túc
Cùng các nam nữ
Thảy đều cung kính
Đều đến hầu hạ.
Vua trời Phạm thiên
Tự tại tôn quý
Trời đại thần diệu
Và các Thiên tử
Đế Thích, Phạm thiên
Tập thể Thiên tử
Vô số ngọc nữ
Đến chỗ vị ấy.
Thế gian có Phật
Đạo sư sáng suốt
Đệ tử Thanh văn
Nghe tiếng êm dịu
Hiện đến tại chỗ
Mặc nhiên hộ trì
Xét pháp đã giảng
Thảy đều vui mừng.
Phật dạy:
– Này thiện nam! Bồ-tát Đại sĩ nếu nghe kinh này rồi thọ trì, đọc tụng, sao chép thì đạt được tám trăm công đức về thân: Màu da tươi sáng, âm giọng hùng dũng, giống như lưu ly trong sáng không bẩn, phàm làm việc gì, mọi người đều khâm phục bắt chước, dung mạo và cử chỉ đáng kính, hành xử tinh tế, không phân biệt ta người, chúng sinh trong thế giới tam thiên đại thiên đều cúi đầu đảnh lễ. Quần sinh tốt xấu, sắc tươi sắc héo, cõi tốt cõi xấu, Thiết vi, Đại thiết vi, núi nhỏ, núi lớn, chỗ có người ở, dưới đến trong đại địa ngục Vô khả, cho đến trời Ba mươi ba ở khắp cõi nước của Phật, tự dung oai đức thấy khắp tất cả.
Tại thế giới này, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Như Lai giảng thuyết kinh pháp ở bất cứ đâu đùng oai quang của mình, thảy đều thấy rõ. Vì sao? Vì thân thanh tịnh nên đạt đến như vậy.
Khi ấy Thế Tôn nói kệ khen:
Thân của người ấy
Đã thanh tịnh rồi
Ví như lưu ly
Không có tỳ vết,
Được tất cả người
Nhìn thấy kính mến
Người ấy đã trì
Kinh vi diệu ấy.
Giống như gương sáng
Soi thấy mặt mình
Thấy cả vạn vật
Cũng giống như thế,
Tự thấy gốc ngọn
Và thấy người khác
Thân ấy thanh tịnh
Như núi Tu-di.
Ở thế giới này
Có bao chúng sinh
Chư Thiên, nhân dân
Thần A-tu-la
Địa ngục, ngạ quỷ
Và các súc sinh
Đều thấy thân hình
Cùng với dung nhan
Cung điện phòng quán
Của hàng chư Thiên
Núi đất, núi đá
Và các Thiết vi
Tuyết sơn, Tu-di
Cùng các núi lớn
Thảy đều thấy hết.
Chúng ở nơi nào
Dùng đại oai thần
Xem thấy chư Phật
Tất cả Thanh văn
Và các đệ tử
Hoặc có Bồ-tát
Ở chỗ vắng lặng
Tuyên thuyết kinh pháp
Có thể biết hết.
Thân thanh tịnh ấy
Cũng lại như vậy
Thảy đều thấy hết
Tất cả thế gian.
Dùng thân thế tục
Biết rõ như thế
Người này còn chưa
Đạt thành Thánh đạo.
Phật dạy:
– Này thiện nam! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại sĩ thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này thì sẽ được một ngàn hai trăm công đức thanh tịnh về ý căn.
Người ấy dùng ý căn thanh tịnh thấu suốt tất cả, chỉ nghe một bài tụng mà thấu suốt ý nghĩa rốt ráo sâu rộng, rồi dùng sự hiểu biết sâu rộng đó, có thể giảng kinh pháp một tháng, bốn tháng, cho đến trải qua một năm, sự tích lũy, ghi nhớ chẳng quên. Các âm thanh trao đổi giá cả trong việc mua bán của phàm tục, nhờ pháp đều thấy, phân biệt thứ lớp, chẳng mất đầu mối; biết tâm niệm thiện ác là đúng hay chẳng đúng của sáu loại chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong đó Sa-môn là Thánh hay chẳng phải là Thánh đều thấy hết, tâm ý thanh tịnh, chẳng cần tư duy, tự nhiên phân biệt giảng thuyết ý nghĩa của pháp, lời lẽ chí thành; có giảng nói cũng đều nương vào lời nói trong kinh điển tối thắng mà xưa kia Đức Như Lai đã dạy, đã phân tích rõ cả.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng khen:
Ý căn người ấy
Thanh tịnh trong sạch
Chiếu suốt tươi sáng
Thấy rõ tâm niệm.
Vì lý do đó
Hiếu biết bao thứ
Tỳ vết, ti tiện
Tốt xấu trung bình,
Nếu nghe một tụng
Thường hay phụng trì
Hiểu được vô số
Nghĩa lý sâu xa,
Nói một, bốn tháng
Hoặc đến một năm
Việc thiện và ác
Hết sức chí thành.
Ở thế giới này
Khắp cả trong đó
Nếu có chúng sinh
Đủ các hạng loại
Chư Thiên nhân dân
Và A-tu-la
Các loại thần khác
Cùng các súc sinh
Ở trong sáu đường
Có các chúng sinh
Bọn họ tư tưởng
Biết bao tâm niệm
Người trì kinh này
Trong khoảng giây lát
Đều thấy biết hết.
Tâm ý khác nhau
Chư Phật Đại Thánh
Tướng trăm công đức
Tất cả đều vì
Thế gian thuyết pháp
Khi đến chỗ giảng
Tất cả đều nghe
Lời giảng thanh tịnh,
Tức thời thọ tụng
Đời trước đã từng
Học kinh điển này
Từ lâu giảng giải,
Tháo tung gút mắc
Luôn luôn diễn giải
Cốt lõi kinh điển
Ở trong hội chúng
Không hề sợ hãi.
Người trì kinh này
Các căn tươi sáng
Hoàn toàn chẳng gặp
Các họa tâm thần,
Bạn bè giao du
Đều là hiền lành
Ý căn thông đạt
Cũng giống như thế
Bồ-tát chưa từng
Trụ ở chỗ nào
Vì khắp chúng sinh
Phân biệt thuyết kinh.
Người thường thọ trì
An trú chánh pháp
Tùy nghi phương tiện
Biết chỗ thích ứng.
***
Phẩm 19: THƯỜNG BỊ KHINH MẠN
Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Đắc Đại Thế:
– Vì vậy nên biết, có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nào trì kinh điển này, giả sử bị bốn bộ chúng mạ lỵ mắng nhiếc, phát ra lời thô tục quở trách, cấm chỉ thì tội ấy chẳng thể lường, lại nếu có người nghe kinh này, rồi thọ trì đọc tụng, giảng giải rộng rãi ý nghĩa cho người khác thì đạt được phước thượng diệu. So sánh như thế Phật đã khen ngợi nhãn, nhĩ, tỹ, khẩu, thân, ý thanh tịnh, không chướng ngại.
Lại bảo với Đắc Đại Thế:
– Từ thời xa xưa, cách đây rất lâu, rất lâu không thể tính đếm, chẳng thể nghĩ bàn số kiếp, có Phật hiệu là Tịch Thú Âm Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp tên là Ly đại tài, thế giới tên Đại trụ.
Phật dạy:
– Này Đắc Đại Thế! Như Lai Tịch Thú Âm Vương giảng kinh hóa đạo cho khắp cõi trời, người, giảng bốn Thánh đế cho hang Thanh văn thừa, làm cho họ vượt già bệnh chết, đến gần Nê-hoàn, giảng giải cội nguồn sính khởi của mười hai nhân duyên, giảng sáu pháp Ba-la-mật cho các Bồ-tát, làm cho họ đạt đạo Vô thượng chánh chân, biểu hiện sở hành liên tục của trí tuệ Như Lai. Phật thọ bốn hằng ha sa trăm ngàn ức cai kiếp. Sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của một cõi Diêm-phù-đề; tượng pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của bốn châu thiên hạ.
Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Sau thời kỳ tượng pháp của Phật ấy diệt hết lại có Phật kế tiếp hiệu là Tịch Thú Âm Vương, rồi lần lượt có hai mươi ức ngàn Đức Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư tiếp nối nhau. Khi ấy các Đức Phật này lần lượt diệt độ. Chánh pháp diệt rồi; tượng pháp tiếp theo cũng diệt hết; Tỳ-kheo ở thời ấy kiêu mạn tự đại, làm trái giáo pháp, có một Tỳ-kheo tên là Thường Bị Khinh Mạn học hạnh Bồ-tát.
Vì sao gọi là Thường Bị Khinh Mạn?
Vì vị Khai sĩ (Bồ-tát) ấy mỗi khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ đều gọi họ và bảo rằng: “Chư Hiền, không được kiêu mạn tự cao. Vì sao? Vì ý chí của chư Hiền đương còn là Bồ-tát. Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã vì phương tiện, thuận theo đối tượng, giảng hạnh Bồ-tát cho các Tỳ-kheo.” Vị Khai sĩ ấy chẳng vâng theo lời khuyên bảo, chẳng chịu phúng tụng, hễ vừa thấy bốn chúng thì gọi họ, bảo rằng: “Tôi trọn đời chẳng dám khinh mạn quý ngài; quý ngài đang học hạnh Bồ-tát cao vời, sẽ đạt đến quả vị Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.”
Phật dạy:
– Này Đắc Đại Thế! Khi ấy bốn chúng nghe lời này đều nổi giận mạ nhục mắng chửi: “Tỳ-kheo này chẳng thưa hỏi chúng ta, chẳng biết nhân tâm nhưng lại tự cao cho là biết nhân tâm và thọ ký cho chúng ta sẽ thành Vô thượng Chí chân Đẳng chánh giác. Những việc lạ thường, điều mà người ta không muốn mà vẫn cứ nói.”
Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Như một người đi đường gặp cơn mưa lớn, nhờ oai thần của Phật che chở, thân không bị ướt vị, Tỳ-kheo ấy tuy bị nhục mạ nhưng tâm chẳng sân hận, sắc mặt chẳng đổi. Hoặc có người nghe lời nói ấy căm ghét chẳng ưa, dùng ngói đá ném. Nhưng vị ấy từ xa vẫn tiếp tục cất tiếng bảo rằng: “Chớ làm điều khinh mạn, hãy tu tâm nhẫn nhục, phát tâm Bồ-đề.” Vì sao? Vì lúc bấy giờ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ tự cao tự đại nghe thấy Đại sĩ nói là tâm tôi thường khiêm hạ chẳng dám khinh các ngài và tuy bị mạ nhục nhưng tâm vẫn bình thản, nên nhân đó bọn người của bốn chúng ấy đặt tên ngài là Thường Bị Khinh Mạn. Vị Đại sĩ này khi lâm chung được nghe Đức Tịch Thú Âm Vương Như Lai giảng trăm ngàn ức sự việc về ý nghĩa thâm diệu của hai mươi bài tụng trong kinh Chánh Pháp Hoa này. Đại sĩ khi mạng chung vọt lên hư không lớn tiếng khen ngợi kinh điển này rằng: “Người nào thọ trì kinh này, trước hết sẽ được nhãn căn thanh tịnh; nhĩ, tỹ, khẩu, thân, ý cũng thanh tịnh; đã được thanh tịnh rồi thọ mạng liền tăng thêm hai mươi ức muôn, đạt được định ý, lại giảng thuyết kinh điển này cho mọi người. Bốn chúng khi trước nghe vị ấy nói mà hủy báng gọi Đại sĩ này là Thường Bị Khinh Mạn, cho là tự đại thì nay thấy thần lực vi diệu, tuệ lực biện tài, đạo lực khéo léo của Đại sĩ này đều đến quy phục, kính trọng thân cận để nghe kinh pháp. Những hạng người ấy vô số ức người nhiều không thể đếm, ngài đều làm cho an lập tâm đạo Vô thượng chánh chân.
Ví Đại sĩ ấy, sau khi mạng chung, gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai Chánh chân. Chư Thế Tôn ấy đã giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa cho ngài; do phước đức ấy, dần dần tăng tiến lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Minh Âm Vương và được theo nghe kinh điển này. Lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Âm Vương, cũng được nghe kinh Chánh Pháp Hoa, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết cho bốn chúng. Sinh ra ở bất cứ đâu cũng thường tự nhiên được mắt thanh tịnh, tai thanh tịnh, mũi thanh tịnh, miệng thanh tịnh, thân thanh tịnh, ý thanh tịnh; nhìn nghe xuyên suốt, mũi thông, miệng lẹ, thân thể nhẹ nhàng, ý thấy rõ tâm chúng sinh, diễn nói, phân biệt ý nghĩa của kinh điển này cho bốn chúng.
Phật dạy:
– Này Đắc Đại Thế! Đại sĩ Thường Bị Khinh Mạn cúng dường phụng sự biết bao số trăm ngàn ức Đức Như Lai rồi, lại gặp vô số trăm ngàn ức Đức Như Lai, cũng vẫn theo thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa. Do căn bản phước đức này tự đạt đến đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối Chánh giác.
Này Đắc Đại Thế! Bồ-tát muốn biết vị Đại sĩ Thường Bị Khinh Mạn ở thời của Tịch Thú Âm Vương Như Lai, nói kinh pháp cho bốn bộ chúng là ai chăng? Vị ấy chính là ta vậy. Giả sử lúc ấy ta chẳng thọ kinh Chánh Pháp Hoa này, chẳng thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người thì chẳng có thể nhanh chóng đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối chánh giác. Vì ta theo chư Phật Thế Tôn ở quá khứ nghe kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người nên thành tựu Phật quả. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ mà thuở ấy vị Đại sĩ kia đã nói là: “Tôi cung kính chẳng dám khinh các ngài; các ngài sẽ đạt được trí tuệ đạo đức của Đức Như Lai Đẳng Giác” và bốn chúng ấy đã khinh khi, mắng nhiếc, cười chê vị Đại sĩ kia, không tự hối cải nên trải qua hai mươi ngàn ức kiếp sinh ra đời thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe kinh pháp; lại trải qua vạn kiếp đọa vào đại địa ngục Vô khả, bị khảo tra thiêu đốt đau đớ n không thể diễn tả; hết tội rồi, ra khỏi địa ngục, do được vị Đại sĩ kia giáo hóa làm cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, đều đắc thần thông, trí tuệ vô ngại; nay đều có mặt nơi đây.
Phật dạy:
– Này Đắc Đại Thế! Ông muốn biết bốn chúng thuở ấy đã hủy nhục chê cười, sân nhuế, mạ lỵ vị Đại sĩ ấy là ai chăng? Đó chính là năm trăm vị Bồ-tát nhóm của ông Bạt-đà-hòa, năm trăm vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ở là nhóm của ông Sư Tử Nguyệt đang ở trong pháp hội này và năm trăm thiện nam, năm trăm thiện nữ ở trước ta đây, đều không thoái chuyển sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân.
Phật dạy:
– Này Đắc Đại Thế! Nghĩa lý của kinh Chánh Pháp Hoa này rộng lớn, oai thần vô lượng, vô biên; tất cả các Bồ-tát Đại sĩ đều kính phụng. Sau khi Như Lai diệt độ, người thọ trì, đọc tụng kinh này được phước như thế và sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân.
Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen:
Nay ta nhớ nghĩ
Việc xưa đã qua
Phật tên Tịch Thú
Âm Vương Như Lai
Oai thần vô lượng
Trời, người cung kính
Giảng pháp cho các
Nhân dân, chúng sinh
Phật tối thắng ấy
Sau khi diệt độ
Chánh pháp của Ngài
Vào thời cuối cùng
Có một Tỳ-kheo
Tu hạnh Bồ-tát
Thời ấy đặt tên
Thường Bị Khinh Mạn
Thường thường đi đến
Trong chúng Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Thấy họ điên đảo
Nên khuyến hóa cho
Chí hạnh Phật đạo
Tự nói tâm ta
Chẳng dám kiêu mạn
Bị người chê cười
Mắng nhiếc nhục mạ
Khi ấy vì họ
Khiến nghe lời này
Giả sử khi được
Nghe kinh pháp này
Thì được an trụ
Dù làm việc gì
Trí tuệ sáng soi
Khi sắp lâm chung
Được phân biệt nói
Kinh Pháp Hoa này
Báo ứng tức thời
Tăng thêm tuổi thọ
Thân ấy biến hiện
Đều được tự tại
Ở trên hư không
Giảng thuyết kinh điển
Giáo hóa tất cả
Đều phát đạo tâm.
Bấy giờ Đại sĩ
Sau khi mạng chung
Được gặp chư Phật
Trăm ngàn ức muôn
Dần dần khai hóa
Thâm nhập kinh pháp
Vì được phân biệt
Giảng nói kinh này
Là người tối thắng
Đắc thành quả Phật
Chính là thân ta
Như Lai Năng Nhân
Còn các Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam tử
Cùng thiện nữ nhân
Miệng ưa phỉ báng
Có mặt thuở ấy
Họ được khai hóa
Hiểu rõ kinh điển
Thường sẽ được gặp
Vô số ức Phật
Là năm trăm vị
Nhóm Bạt-đà-hòa
Các chúng Tỳ-kheo
Và Tỳ-kheo-ni
Thiện nam, tín nữ
Nay ở trước Phật
Thuở trước ta đã
Cho nghe kinh pháp
Đều được khai hóa
Khiến cho hiểu rõ
Nay đây thân ta
Sau khi diệt độ
Nên luôn thọ trì
Phụng thờ kinh này
Phải nên tư duy
Vô số ức ức
Chưa từng được nghe
Kinh pháp như thế
Giả sử có Phật
Số trăm ngàn ức
Mong nghe giảng thuyết
Kinh điển như thế
Vì vậy khi nghe
Kinh giống như vậy
Thánh Tôn tự tại
Xưng dương tán thán
Sau ta diệt độ
Có người diễn nói
Kinh Pháp Hoa này
Cần luôn phải nhẫn
***
Phẩm 20: NHƯ LAI THẦN TÚC HẠNH
Lúc bấy giờ trăm ngàn ức muôn các vị Bồ-tát nhiều như số vi trần của ba ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, tất cả đều đứng trước Đức Thế Tôn, chắp tay bạch Phật:
– Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ truyền bá kinh này khắp quốc độ chư Phật và tại quốc độ của Thế Tôn, nơi Thế Tôn diệt độ, ở ngay những nơi ấy giảng thuyết kinh này, nhiều người được lợi ích. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép, diễn nói cho người khác kinh điển cốt yếu nhiệm mầu này thì phước đức chẳng thể lường.
Khi ấy, ở trước Bạc Thủ và vô số ức trăm ngàn muôn các Bồ-tát và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc cùng Nhân phi nhân trong thế giới Kham nhẫn này, Như Lai dùng thần túc biến hóa các Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Do hiện điềm lành này mà tất cả đều đắc pháp nhãn nhu thuận, đều khiến cho trăm ngàn ức số các Đại Bồ-tát sao chép kinh Chánh Pháp Hoa ở thế giới khác hóa hiện đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Năng Nhân và tất cả Đức Như Lai Chánh giác này cùng hiện thần túc đầy đủ sung mãn, trong trăm ngàn năm mới xảy ra như thế. Ngay khi ấy, công đức trong trăm ngàn năm tự nhiên chiếu sáng phá tan mây đen, trong khoảng khảy móng tay, tự nhiên có âm thanh vang khắp, tất cả thế giới ở trong cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhờ oai thần của Phật, ngay nơi chỗ ở của mình, ở vô số ngàn thế giới chư Phật, đều thấy cõi Phật Kham nhẫn này và vô số trăm ngàn ức muôn Như Lai trong mười phương đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu. Đức Như Lai Năng Nhân và Thế Tôn Đa Bảo ở nơi giảng đường của tháp bảy báu tự nhiên nghiêm tịnh tòa Sư tử, oai quang rực rỡ vô cùng chẳng thể diễn tả; trăm ngàn ức muôn Bồ-tát Đại sĩ và bốn bộ chúng thấy sự biến hóa này, trong lòng ngạc nhiên, mừng vui vô lượng, được điều chưa từng có; bỗng nghe âm thanh trong không trung khen ngợi: “Này nhân giả! Muốn biết vô lượng, trăm ngàn ức cai thế giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn ấy, thì có một cõi Phật tên là Kham nhẫn, ở đó có Phật hiệu là Năng Nhân Như Lai vì các Bồ-tát Đại sĩ giảng kinh điển Phương đẳng tên là Chánh Pháp Hoa, tất cả chư Phật đều hộ niệm kinh ấy để cứu độ Bồ-tát Đại sĩ. Vì vậy nên chư Hiền, tâm phải chất trực thanh tịnh, cúi đầu quy mạng khen ngợi phụng sự, hầu cận, cúng dường Đấng Năng Nhân Chánh giác kia.
Khi ấy, chúng sinh tự nhiên nghe âm thanh trên không bảo rằng có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Năng Nhân; vừa nghe danh xưng này, họ liền chắp tay, dùng bao nhiêu các loại hoa hương, y phục, tràng phan, tạp hương, đưa tay rải vào thế giới Kham nhẫn và dung anh lạc, ngọc quý, các chân châu quý, bảo châu Như ý để cúng dường. Hoa hương, phướn lọng, anh lạc, ngọc quý, minh nguyệt bảo châu ấy tự nhiên rơi vào thế giới Kham nhẫn, lập tức kết tụ thành lọng hoa báu ở trên hư không che khắp trên chư Phật và Bồ-tát.
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát từ nơi khác đến và chúng Bồ-tát đứng trước Phật:
– Này các Tộc tánh tử! Công đức oai thần của Như Lai Chánh giác chẳng thể nghĩ bàn dù trong vô số ức triệu trăm ngàn cai kiếp nói ý nghĩa kinh này cũng không thể rốt ráo, tuy vô số biết bao kinh điển khác cũng không sánh kịp và chẳng thể hạn lượng được, muốn qua bờ bên kia cũng khó đạt được mục đích.
Này các Tộc tánh tử! Nói tóm lại, giả sử có người muốn hiểu rõ cốt lõi của kinh này, đó là oai thần của chư Phật, Pháp của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, sự tinh tấn của chư Phật, sự độc cư của chư Phật, diệu lực của chư Phật mà kinh này đã thị hiện, thì này Tộc tánh tử, sau khi Phật diệt độ, nên ân cần cầu kinh điển này, thọ trì, sao chép, tinh tấn phụng hành, cúng dường phụng sự, vì người khác nói.
Giả sử có người mang kinh này giảng giải, khen ngợi, sao chép, tư duy, phụng trì, chép vào tre lụa hoặc để nơi tinh xá, trai đường nhà cửa, dưới cây trong rừng, hoặc bên dòng nước, thì phải tạo dựng tháp miếu. Vì sao? Vì đó chính là nơi chốn của Như Lai, xem như là đạo tràng, chỗ cây Phật ngồi, nên xem đó là nơi du hành của tất cả Đức Như Lai Chánh Giác, là chốn chuyển pháp luân của các Bậc Thánh giả Thế hùng; mười phương chư Phật diệt độ nơi ấy, như nhau không sai khác.
Khi ấy Thế Tôn nói tụng ngợi khen:
Pháp thương yêu đời
Chẳng thể nghĩ bàn
Luôn luôn kiến lập
Trí tuệ thần thông
Cũng lại thị hiện
Mắt sáng soi khắp
Tất cả chúng sinh
Đều được hoan hỷ
Thiệt căn thần diệu
Diễn tiếng Phạm thiên
Trong sáng thánh thót
Ức trăm ngàn muôn
Chúng sanh muôn loài
Khi thấy thần túc
Lạ chưa từng có
Đều vào Phật đạo
Bậc Thánh Đạo Sư
Phát ánh sáng lớn
Chỉ trong khoảnh khắc
Diễn âm thanh lớn
Tức thời bảo khắp
Tất cả cõi Phật
Cùng khắp mười phương
Thế giới chư Phật
Biến hóa như thế
Và biến động khác
Đại Thánh đã hiện
Điềm lành như thế
Bấy giờ Như Lai
Khiến đều hoan hỷ
Sau Phật diệt độ
Phụng trì kinh này
An trú tuyên bày
Các pháp công đức
Trải vô sô kiếp
Chẳng thể nghĩ bàn
Trì quyển kinh này
Hạn lượng phước đức.
Đạo Sư khen ngợi
Vô lượng biết bao
Muốn tận giới hạn
Chẳng thể đến cùng
Giống như hư không
Chẳng thể cùng tận
Danh xưng chí đức
Không thể tư duy
Người trì kinh này
Tịnh đức thường nhiên
Thì được thấy Phật
Đại Thánh Đạo Sư
Và ta ở đời
Đại thông diệt độ
Thì tất cả chúng
Bồ-tát nơi kia
Và bốn bộ chúng
Thấy trong hội này
Có người từng gặp
Kinh điển này rồi
Trong pháp hội này
Thì nay gặp lại.
Sau Phật diệt độ
Cũng tại nơi đây
Và mười phương kia
Thế giới chư Phật
Nếu ai có thể
Thọ trì kinh này
Thì được gặp gỡ
Chư Phật quá khứ
Ở khắp mười phương
Nay Phật hiện tại
Mắt tự trông thấy
Cúng dường phụng sự
Thảy đều vui vẻ
Hướng về Thế Tôn
Ở nơi đạo tràng
Có thể tư duy
Nên mau thọ trì
Kinh điển này đây
Tự nhiên biện tài
Không gì trở ngại
Giả sử mạn sống
Chẳng thể lâu dài
Nên phân biệt hiểu
Ý nghĩa kinh này
Và nên thọ trì
Kinh điển này đây
Hiếu rõ các kinh
Lần lượt quy kính.
Đại Thánh Thế Tôn
Sau khi diệt độ
Giả sử có người
Chí thành tuyên thuyết
Phân biệt kinh này
Nghĩa lý mục đích
Thì giảng kỹ lưỡng
Ý nghĩa các kinh
Ánh sáng người ấy
Phân biệt sở giác
Như vầng nhật nguyệt
Chiếu khắp gần xa
Khắp cả thiên hạ
Chỗ nào cũng đến
Khuyến hóa phát khởi
Vô số Bồ-tát
Cho nên các chúng
Bồ-tát trí tuệ
Được nghe kinh điển
Vô thượng như thế
Sau ta diệt độ
Phụng trì kinh này
Người ấy chẳng nghi
Đại đạo của Phật.
***
Phẩm 21: BỒ-TÁT DƯỢC VƯƠNG
Khi ấy Bồ-tát Tú Vương Hoa tới trước Phật, bạch:
– Bồ-tát Dược Vương vì duyên cớ gì du hóa ở thế giới Kham nhẫn chịu đựng vô số nạn khổ? Hay thay Thiên Tôn, xin vì Bồ-tát, Thanh văn ở khắp thế giới chư Phật trong mười phương đều vân tập nơi đây, nếu được nghe Phật tuyên nói công huân tu hành đời trước, từ khi mới phát đạo tâm của Dược Vương, thì sẽ khiến cho chúng hội hôm nay và đời sau được nghe và thọ trì, học theo đến rốt ráo, trời, người, rồng, quỷ, các tôn thần vương thảy đều vui mừng phát tâm đạo rộng lớn, tự đạt đến Chánh giác độ thoát tất cả.
Khi ấy Thế Tôn thấy Tú Vương Hoa phát tâm chí thành, vì tất cả mà thỉnh Phật nên khen ngợi:
– Hay thay! Ta sẽ vì chư Bồ-tát tương lai, khuyên răn đàn hậu học khiến họ được vào đạo trí mà trình bày. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ cho kỹ!
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con mong muốn được nghe.
Phật dạy:
– Vào thời quá khứ hằng hà sa số kiếp, lúc ấy có Phật hiệu là Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Phật ấy sống lâu bốn vạn hai ngàn tuổi. Giáo hóa chúng sinh, cứu độ nguy ách. Khi ấy Bồ-tát trong mười phương nhóm họp có tám mươi ức, các chúng Thanh văn tới bảy mươi hai hằng hà sa.
Lại nữa cõi Phật ấy không có người nữ và ba đường ác, không có A-tu-luân và tai họa của tám nạn; mặt đất bằng phẳng, màu lưu ly xanh biếc, các báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh; các loại cây báu bao bọc chung quanh, trân kỳ giao lạc che phủ chung quanh, cắm các tràng phan; bình báu lò hương đốt các danh hương; dưới tất cả cây, đặt các giường báu, tọa cụ trang hoàng đẹp đẽ, không thể tả xiết; trên các tọa cụ có năm ngàn ức tòa ngồi của chư Thiên; trổi các âm nhạc, khen công Đức Phật để cúng dường.
Bấy giờ Đức Phật kia vì các chúng Bồ-tát và Thanh văn phân biệt giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa. Khi ấy có Bồ-tát tên là Chúng Sinh Hỷ Kiến nghe Phật phô diễn giảng giải nghĩa yếu, liền phụng trì Phật pháp, tu tập khổ hạnh, ngày đêm tinh tấn, trải qua một vạn hai ngàn năm kinh hành không ngồi; xong một vạn hai ngàn năm liền đạt được Tam-muội Phổ hiện; đạt được định này rồi, liền tư duy rằng: “Ta sở dĩ đạt được Tam-muội Phổ hiện là do kinh Chánh Pháp Hoa này”, bèn vui mừng phấn chấn tự nghĩ: “Ta nên cúng dường Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân và phụng thờ kinh Chánh Pháp Hoa, liền nhập vào Tam-muội chánh thọ như thế, ở trên hư không, rải hoa trời, nhiều loại chiên-đàn để cúng dường. Ngay khi ấy, mùi thơm của các hoa hương này xông tỏa khắp thế giới chư Phật mười phương; người nào nghe được hương ấy đều đắc pháp nhẫn; loài chúng sinh đồng tâm ngưỡng vọng.
Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến từ thiền định ý xuất, lại tư duy: “Tuy dùng nhiều thứ cúng dường Phật nhưng ta chẳng có thể báo đáp hết ân đức của bậc Chí Chân; dùng thân cúng dường mới là Vô thượng”, liền làm như ý nghĩ, dứt hẳn ngũ cốc, chỉ ăn các loại hương thơm và uống nước các loại hương hoa, làm cho trong ngoài thân đều thơm.
Uống các hương hoa như thế qua mười hai năm. Lại hòa các hương dùng thoa trên thân, dùng dầu thơm thấm y, rồi lập thệ nguyện dùng thân làm đèn cho tất cả, liền đốt thân mình cúng dường chư Phật. Vì tin thành nên ánh sáng ấy chiếu khắp tám mươi hằng hà sa thế giới chư Phật. Ngay khi ấy, chư Phật đồng thanh khen ngợi:
– Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Tinh tấn như vậy mới thật là ít có trên đời. Đó là cúng dường Như Lai và kinh điển một cách chân chánh; đó là vì chúng sinh chịu khổ chẳng từ lao nhọc, siêu vượt sở hành của tất cả trời người; bố thí quốc thành, tài sản, vợ con cũng không sánh kịp. Trong các sự cúng dường, đây là hơn hết, là lâu dài, là không gì so sánh được. Dùng thân thí chính là Pháp thí.
Chư Phật Thế Tôn khen ngợi công đức như thế rồi, tiền im lặng. Khi ấy, tự nhiên thân Bồ-tát, lửa cháy suốt một ngàn hai trăm năm chẳng tắt, vì nhất tâm nên không đau đớn. Sau đó, ngọn lửa mới tắt. Vì siêng năng tu hành tinh tấn, cúng dường Pháp nên sau khi mạng chung, Bồ-tát sinh lại thế giới ấy, nhằm quốc độ của Đấng Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân. Trong vương cung nước Ly Cấu Thi, Bồ-tát bỗng nhiên hóa sinh, ngồi xếp bằng, vì vua cha nói kệ:
Tôn vương, xin biết bản nguyện con
Kiên cường siêng tu đại tinh tấn
Thân ái trọng dùng làm vật thí
Kiến lập nên Tam-muội lớn này.
Nói kệ xong, ngài thưa với cha mẹ:
– Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân nay vẫn còn tại thế. Thuở xưa, con chí tâm cúng dường, nhờ đó mới đạt được pháp yếu của tất cả âm tổng trì, là điều cốt lõi trong sự học kinh điển Vô thượng Chánh Pháp Hoa; kinh gồm có tám mươi muôn trăm ngàn ức triệu cai bài kệ; nên nhất tâm tư duy tìm chỗ nào để tạo lập mô hình tượng Phật để trong tâm không sân giận, phẫn nộ là Bồ-tát thực hành Chánh Pháp Hoa này. Đời trước con đã tập bao nhiêu ngàn ức trăm ngàn muôn bài kệ, nghe và thọ trì từ Đức Như Lai.
Vua Ly Cấu Thi khen con:
– Hay thay, hay thay! Hãy cùng đi đến cúi mình kính cẩn cúng dường Đức Thánh Tôn.
Sau khi trình bày như vậy rồi; ngài cùng với phụ vương vọt lên không trung cách đất bảy nhẫn kinh hành trên hư không; chân không chạm đất, thân ngồi ngay thẳng trong trướng làm bằng bảy báu, giao lạc, trân kỳ, đi đến chỗ Phật, chắp tay lễ Phật dùng tụng tán thán:
Đấng Nhân Trung Tôn,
Dung nhan vô nhiễm
Hào quang rạng ngời
Chiếu khắp mười phương
Xưa con cúng dường
Thế Tôn tối thắng
Nay thọ lại thân
Nên đến bái kiến.
Bấy giờ Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ này rồi, tới trước, bạch với Đức Như Lai Chí Chân Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ:
– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn rủ lòng thương xót mười phương nên hiện vẫn còn giáo huấn, độ thoát chúng sinh khiến tất cả đều được nhờ ân.
Khi ấy Đức Như Lai Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ bảo Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến:
– Nay đã đến lúc ta sắp diệt độ. Ta đem giáo pháp này giao phó cho ông. Đến đây, sự giáo hóa của ta hoàn tất; đời loạn sắp đến, ta xả bỏ nó. Hãy vì ta trải tòa, nay ta diệt độ.
Lại bảo:
– Ta đem kinh điển này một lần nữa giao phó cho ông, khiến cho lưu bố cùng khắp, nhuận thấm mười phương, làm cho tất cả đều hưởng phước an lạc.
Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bạch:
– Con xin tuân nhận lời Ngài dạy.
Vào nửa đêm, Đức Phật diệt độ. Khi ấy Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật diệt độ, dùng hương chiên-đàn và các loại hương quý khác trà tỳ thân Phật, nhặt xá-lợi, dùng nước hương rửa, Bồ-tát thương cảm khóc lóc, lệ đổ như mưa; rồi làm tám vạn bốn ngàn bình báu đựng xá-lợi, dựng bảy ngôi tháp báu cao đến Phạm thiên, trang nghiêm bằng tràng phan bảo cái, treo các thứ linh báu, tâm tự nghĩ: “Ta đã cúng dường xá-lợi Thế Tôn; lại nên thờ phụng hơn trước”, bèn bảo với các vị Bồ-tát đại Thanh văn, các trời, rồng, thần và tất cả nhân dân:
– Này các Tộc tánh tử! Cùng nhau suy niệm, xá-lợi của Thế Tôn đều cúng đường khắp.
Khi ấy Phật bảo với Bồ-tát Tú Vương Hoa:
– Vào thời ấy, Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến khuyến khích mọi người cung thờ xá-lợi, tám vạn bốn ngà n tháp; trước tháp, kiến lập hình tượng đức tướng trăm phước, đốt vô số đèn, thiêu hương, rải hoa, làm rạng rỡ đạo pháp, cúng dường phụng sự bảy vạn hai ngàn năm.
Cúng dường xong, ở giữa hội chúng, giáo hóa vô số ngàn các chúng Thanh văn, khai thị các Bồ-tát đều khiến đạt được Tam-muội Phổ hiện. Thấy chúng Bồ-tát đã an lập định rồi, Bồ-tát tự hiện than mình với các căn khuyết tật. Các chúng Bồ-tát và các đệ tử, Trời, Rồng, Quỷ, Thần cất tiếng kêu khóc, lệ đổ như mưa:
– Các Tộc tánh tử! Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ kiến là Thầy của chúng ta, khai hóa chúng ta, hiện nay các căn khuyết giảm, không đủ. Vì vậy chúng ta xót thương không kềm chế được.
Lúc đó Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bảo với các Bồ-tát và đại đệ tử, các Trời, Rồng, Thần: “Ta đã lập thệ nguyện chí thành. Nếu như lời nói của ta là tùy thuận không hư dối thì cánh tay này của ta sẽ trở thành vàng tía và khiến tay của ta bình phục như cũ. Đại địa sẽ chấn động mạnh, trên không mưa xuống các loại hương hoa.”
Nói vừa dứt lời, đại địa liền chấn động mạnh, trời mưa các loại hoa, cùng lúc cánh tay ngài bình phục như cũ. Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến muốn độ tất cả nên thị hiện sở hành của tuệ lực này, và thế lực phước đức công huân đã đạt được.
Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:
– Ông muốn biết Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ Kiến khi ấy chăng? Nay là Bồ-tát Dược Vương vậy.
Này Tộc tánh tử! Nếu Bồ-tát cần khổ chẳng thể kể xiết, tổn thân bỏ mạng không có hạn lượng, thường kiến lập chí nguyện Đại thừa, đại đạo Vô thượng, làm phát khởi đại công đức vô cực ở trước Như Lai chỉ đốt một ngón chân, thì công đức khó gì sánh bằng, huống là đốt thân dùng để cúng dường thì càng hơn cả bố thí quốc thành, thê tử, máu thịt. Dù dùng châu báu đầy cả cõi Phật để bố thí cúng dường chư Phật, Thánh chúng, phước đức tuy nhiều nhưng cũng không bằng người kia. Vì sao? Vì phước báo có lúc hết, không lợi ích cho chúng sinh.
Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì một bài tụng bốn câu của kinh Chánh Pháp Hoa, phân biệt phụng hành, vì người giải nói thì phước thí trên so với phước này không bằng một phần vạn, giống như vạn sông đều chảy về biển cả, kinh này cũng như thế, đứng đầu tất cả các pháp, giống như núi Tu-di, cao hơn các núi, như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng giữa các sao. Ánh sáng đại tuệ chiếu sáng ba cõi là vua đạo Vô thượng, đứng đầu các pháp.
Giống như mặt trời xuất hiện chiếu khắp thiên hạ làm tiêu tan tăm tối, kinh này cũng vậy, trừ hết tất cả ngu si tăm tối, đưa vào đạo sáng.
Giống như trời Đế Thích ở cõi trời Đao-lợi làm vua của chư Thiên, kinh này cũng vậy, là kinh điển đứng đầu trong tất cả các pháp, bao quát mười phương, độ thoát tất cả.
Giống như Phạm thiên vương ở cung điện thử bảy chế ngự chư Thiên, ai cũng phụng mạng, kinh này cũng vậy cứu khắp chúng sinh Hữu học, Vô học, giáo huấn dẫn dắt ba thừa, làm công việc của vua, cha.
Giống như bốn đạo quả cho đến Duyên giác đều siêu vượt cái học của tất cả phàm phu, kinh Chánh Pháp Hoa cũng lại như thế, đều siêu việt vượt tất cả thượng, trung, hạ thừa, đối với sự khai hóa chúng sinh không gì bằng.
Giống như sở hành cao viễn của Bồ-tát vượt trên việc làm của Thanh văn, Duyên giác, che chở ba đời, kinh này cũng vậy, điều ngự các pháp đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.
Giống như Thế Tôn là Pháp vương ba cõi mặc đạo phục trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, dẫn dắt chúng ngu si, kinh này cũng vậy, từ người đang học đạo Bồ-tát cho đến Như Lai, khai dẫn các Thanh văn, Duyên giác… đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.
Này Tộc tánh tử! Kinh điển này khiến sự hộ trì của ba cõi, độ thoát ách nạn nguy khốn cho tất cả chúng sinh, làm no đủ nạn đói nghèo của hữu tình: người lạnh được ấm, người nóng được mát; người trần trụi có y phục; dẫn dắt chúng sinh đều khiến vào đạo.
Giống như người dẫn đường bảo hộ châu báu, Bồ-tát cũng thế, nuôi dưỡng chúng sinh giống như mẹ hiền. Thí như người lái đò đưa người qua sông, Bồ-tát cũng thế, xoay vần ba cõi độ thoát tất cả trừ diệt tối tăm.
Giống như ngọn đuốc diệt trừ bóng tối, kinh này chuyển hóa sinh, già, chết.
Giống như vua Chuyển luân chế ngự bốn cõi, kinh này cũng thế, dùng Thánh đạo soi sáng ba cõi.
Giống như ánh sáng lớn làm tiêu sự tối tăm của cuộc đời, kinh này cũng vậy, đưa đến không thoái chuyển, vô sinh cho đến thành Phật đạo.
Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:
– Kinh điển này độ thoát tất cả họa khổ, trừ sạch các cấu nhiễm của bệnh ba độc, cứu thoát các buộc ràng trong lao ngục sinh tử. Nếu người nghe kinh này mà hiểu ngay, có thể sao chép thì công đức của người ấy không thể kể xiết, huống là nghe, thọ trì, giữ gìn tụng đọc, dùng hoa hương, hương tạp, hương mịn, đèn đuốc, tràng phan để cúng dường? Nếu có người nghe và thọ trì phẩm Bồ-tát Dược Vương Vãng Cổ Học mà thọ trì suy nghĩ thì phước của người ấy hơn người cúng dường những vật kia, không thể kể xiết. Nếu có người nữ, nghe kinh pháp này mà thọ trì ngay thì ở trong đời này khi hết thọ mạng thân nữ, sau được thân nam.
Nếu có người nữ ở trong đời mạt thế ngũ trược, nghe kinh pháp này mà có thể phụng hành thì khi mạng chung liền được vào nước An dưỡng, thấy Phật Vô Lượng Thọ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, sinh trong hoa sen báu, ngồi tòa Sư tử, không còn dâm, nộ, si, trừ bỏ các ràng buộc, cũng không tham lam tật đố, chưa từng ôm hận; vừa sinh đến nước ấy, được năm thần thông, đạt không thoái chuyển, chẳng khởi phá p nhẫn; đã đạt pháp nhẫn rồi, liền được thấy bảy mươi hai ức triệu hằng hà sa các Đức Như Lai. Vừa thấy chư Phật, nhãn căn thanh tịnh; nhãn căn đã thanh tịnh được thấy tất cả mười phương chư Phật từ xa khen ngợi: “Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Ông đã gặp đời Đức Phật Năng Nhân được nghe Phật nói kinh Chánh Pháp Hoa, thọ trì, phúng tụng, vì người khác nói, nhờ phước công đức này, lửa chẳng thiêu được, nước chẳng trôi được, đạo tặc, oan gia, quan huyện chẳng xâm phạm; ngàn Phật ngợi khen chẳng thể hết được; công đức đạt được chẳng thể hạn lượng, vời vợi như thế, duyên vào công đức này hàng phục các ma, trừ các oán dịch, vượt thoát nạn sinh tử, xoay chuyển các họa.
Lại nữa, Tộc tánh tử! Dùng kinh pháp này hàng phục các ác nghịch, là sở kiến của hàng ngàn Phật kiến lập nên, ủng hộ cho người, trên trời và nhân gian không gì sánh bằng. Trừ Như Lai ra, về công đức, phước hựu, trí tuệ, định ý không có Thanh văn và Bồ-tát nào bằng được.
Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:
– Nếu có người tu học nào thọ trì kinh này thì sự đạt đến sự thánh minh, thế lực, oai đức siêu việt như thế. Vì vậy, Nhân Giả, nếu có người giảng thuyết phẩm Dược Vương này, có người khen ngợi thì sau sinh làm người, trong miệng tự nhiên thơm mùi hoa sen, thân thơm mùi chiên-đàn. Nếu người nghe kinh này mà khen hay thì hiện tại công đức người ấy được đồn xa. Phật đã khen ngợi trước công huân của người ấy.
Phật bảo:
– Này Tú Vương Hoa! Ta đem kinh này phú chúc cho các ông chúng sinh, vui mừng thấy phẩm Vãng Cổ Pháp, cuối cùng của thời mạt thế ngũ trược lưu bố trong thiên hạ ở cõi Diêm-phù-lợi, không thể hoại diệt nửa chừng, ma Ba-tuần chẳng có thể được tiện lợi, và quyến thuộc ma, tà thần, quỷ mỵ không thể hại được; Trời, Rồng, La-sát, cưu hoàn, yểm quỷ không dám đối đầu.
Lại nữa, Tú Vương Hoa! Phẩm Dược Vương này, oai đức đã an lập, đã lưu bố đến chỗ nào nếu có người bệnh tật mà nghe kinh pháp ấy thì tật bệnh tiêu trừ, không có các hoạn nạn; nhờ công đức ấy, sau đạt đến Chánh chân, không già bệnh chết. Nếu có Tỳ-kheo cuối thời mạt thế, tay cầm hoa sen xanh tràn đầy mùi thơm rải cúng Pháp sư, tâm tự nghĩ: “Giả sử có người cầu Bồ-tát thừa đến đạo tràng này, ta sẽ dâng bông này để làm tòa ngồi trải dưới cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, đầy đủ trống pháp, thổi loa pháp lớn, nương vào đây qua biển sinh tử”. Nếu ai học Đại thừa thấy các Tỳ-kheo cầm quyển kinh này thì phải xem công đức người ấy cũng như thế.
Khi Phật nói phẩm Dược Vương Bồ-tát vãng cổ này, tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều liền hiểu được tất cả âm phương tiện tổng trì.
Khi ấy, Đức Như Lai Chúng Bảo khen ngợi:
– Hay thay, hay thay, Bồ-tát Tú Vương Hoa! Ông có thể thưa hỏi hành nghiệp của kinh điển chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đã giảng thuyết, ông có vui thích không?
***
Phẩm 22: BỒ TÁT DIỆU HỐNG
Khi ấy Thế Tôn Như Lai Năng Nhân, từ tướng Đại nhân trên đầu lông mi phát ra trăm ngàn hào quang chiếu đến một ngàn tám trăm vạn ức hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông, chỗ nào cũng rọi đến. Qua khỏi quốc độ của chư Phật ấy, có thế giới tên là Trang nghiêm chiếu minh; cõi ấy có Phật hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiệu là Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương, cũng vô số các chúng Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đang tuyên dương giáo hóa. Hào quang mà Như Lai Năng Nhân đã phóng ra chiếu khắp cõi ấy.
Lại cõi Phật ấy có một vị Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ Phật quá khứ đã gieo trồng các gốc đức, cúng dường vô số trăm ngàn triệu cai chư Phật Chánh Giác; đã từng gặp chư Phật thưa hỏi, thọ nhận kinh điển, được thành tựu Thánh tuệ, đã đắc các Tam-muội sâu xa như Tam-muội Định pháp hoa, Tam-muội Thi ly cấu, Tam-muội Lạc tú vương, Tam-muội Vô trước quang, Tam-muội Tuệ ấn, Tam-muội Phổ hiểu chư âm, Tam-muội Đẳng tập chúng đức, Tam-muội Hỷ tín tịnh, Tam-muội Thần túc hý lạc, Tam-muội Tuệ quang, Tam-muội Nghiêm tịnh vương, Tam-muội Ly cấu quang, Tam-muội Ly cấu tạng, Tam-muội Vô duyên, Tam-muội Nhật chuyển, nói tóm lại đã chứng đắc tất cả ức trăm ngàn vạn hằng hà sa số các định Tam-muội. Hào quang của Phật ấy soi khắp, chiếu đến Bồ-tát Diệu Âm. Bồ-tát Diệu Âm nương luồng sáng ấy đi đến chỗ Phật, bạch:
– Con muốn đi đến thế giới Kham nhẫn yết kiến Đức Phật Năng Nhân và đảnh lễ, để tham vấn kinh điển và muốn kính thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Tú Vương Hoa, Bồ-tát Tôn Ý Hành, Bồ-tát Tịnh Vương, Bồ-tát Siêu Dược… để luận giảng nghĩa kinh, lãnh thọ những điều còn kém, khiến cho tất cả nghe được đều phát đạo tâm.
Phật ấy bảo:
– Hãy đi đi, Tộc tánh tử! Tuy ông đến cõi ấy, chớ khởi tưởng phân biệt mà nghĩ là cõi ấy hạ liệt biếng trễ. Vì sao? Này Tộc tánh tử! Thế giới Kham nhẫn ấy đất màu đen, núi non lởm chởm, đá cát dơ bẩn uế trước dẫy đầy; khe suối núi hang không như ông tưởng. Thân Phật cõi ấy thấp nhỏ một trượng sáu, thân các Bồ-tát cao bảy tám xích, còn thân ông vốn cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, còn than ta cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, đoan chánh tốt đẹp bậc nhất, oai quang thù diệu, dung nhan đẹp đẽ khó thể thí dụ, chứa trăm ngàn đức, ai nhìn cũng vui.
Lại nữa, ông đến đấy thấy người cõi kia, cẩn thận chớ suy nghĩ khởi tưởng chẳng hay cho rằng Như Lai, Bồ-tát ở cõi Phật ấy chẳng bằng cõi này. Vì sao? Vì cõi Phật vốn không, tội phước của chúng sinh hiện hữu bất đồng.
Bồ-tát Diệu Âm lại bạch Phật:
– Con nương vào oai thần của Phật, Thánh lực và đạo đức cao vời của Như Lai để tự an lạc mà đi đến thế giới Kham nhẫn. Đạo nghiệp trí tuệ thanh tịnh của Như Lai sẽ luôn luôn làm cho con như pháp, không có điều gì sơ suất, chẳng dám khởi tưởng.
Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm tâm tự nghĩ: “Ta chẳng rời khỏi chỗ ngồi, giống như nhập Tam-muội chánh thọ mà đến núi Linh Thứu ở thế giới Kham nhẫn, sẽ ở khoảng giữa pháp tòa của Như Lai, hóa làm tám vạn bốn ngàn ức loại hoa sen báu cọng vàng tía, lá trắng bạc, nghiêm sức đẹp đẽ, hào quang rực rỡ, chiếu sáng pháp hội” và ngay khi ấy liền làm đúng theo ý nghĩ. Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Phật Năng Nhân:
– Kính bạch Thế Tôn! Tám vạn bốn ngàn hoa sen báu cọng vàng tía, lá trắng bạc hóa hiện ở đây thanh tịnh đẹp đẽ là do ai biến hóa ra như thế?
Phật bảo Văn-thù:
– Có vị Bồ-tát tên là Diệu Âm từ cõi nước của Đức Phật Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đang đi đến thế giới Kham nhẫn này, muốn thấy thân ta để lễ bái tham vấn và muốn được nghe kinh Chánh Pháp Hoa, nên trước hết hiện điềm ấy.
Văn-thù-sư-lợi lại hỏi Phật:
– Vị ấy từ xưa đã chứa công đức gì, tạo hạnh thù diệu gì mà nay đạt được công năng to lớn kỳ đặc như thế? Đã trụ Tam-muội gì, tạo lập hạnh gì? Con mong ước muốn nghe về sở hành Tam-muội và thần túc biến hóa của vị ấy. Chúng con nghe rồi sẽ ghi nhận phụng hành để thấy nhan mạo sắc tướng của các Bồ-tát ấy như thế nào, cử động lui tới lợi ích ra sao? Rất mong Thế Tôn, xin Ngài hiện thần biến khiến các Bồ-tát ấy đến đây. Chúng hội muốn thấy họ.
Phật bảo Văn-thù:
– Ông nên thưa với Như Lai Chúng Bảo xin hiện thần biến, khiến các Bồ-tát ấy đều hiện thân tướng đến nơi đây, vì tất cả chúng hội đều muốn thấy.
Văn-thù-sư-lợi liền làm theo lời dạy, thưa với Như Lai Chúng Bảo đã diệt độ hiện thần biến.
Khi ấy Bồ-tát Diệu âm bỗng nhiên biến mất khỏi quốc độ của mình, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát làm chấn động các cõi Phật, rải hoa sen báu, đồng thời trổi phát trăm ngàn ức kỹ nhạc. Các Bồ-tát đều tự hiện hình đến, mắt các ngài sáng đẹp màu xanh biếc, dung mạo tròn đầy như mặt trăng tròn sáng, thân chói màu vàng tía, vô số ức trăm ngàn công đức trang nghiêm thân Ngài, oai thần rạng rỡ, trí tuệ sáng ngời, tướng tốt lạ thường, gương mặt trong sáng, thân lực vô biên; thân ở trên màn lưới bằng bảy báu trong hư không, cách đất bốn trượng chín thước.
Bồ-tát Diệu Âm cùng các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đi đến thế giới Kham nhẫn, tới núi Linh Thứu, màn lưới báu hạ xuống, tay cầm bình báu giá trị trăm ngàn, đến chỗ Phật Năng Nhân, cúi đầu lễ dưới chân Phật, dâng lên Như Lai Năng Nhân và bạch:
– Đức Phật Tử Kim Ly Cấu Tú Vương Hoa tha thiết thăm hỏi Như Lai đi đứng nhẹ nhàng, lui tới khỏe mạnh chăng? Thế Tôn thuyết pháp có như thường chăng? Tất cả chúng sinh lãnh thọ tăng tấn chăng? Chúng diệt trừ hồ nghi và thuận pháp luật chăng?
Không còn nhiều người dâm, nộ, si làm việc tật đố xan tham chăng? Có người luôn cung kính hiếu thuận cha mẹ, thọ nhận đạo pháp như pháp phụng hành chăng? Có người theo tà kiến, luyến tiếc của cải các căn bất ổn, bị chúng ma hàng phục, lệ thuộc chăng?
Lại nữa, các chúng sinh có nghe và lãnh thọ pháp mà Như Lai Chúng Bảo diệt độ đã thuyết chăng? Nay các Bồ-tát đến nơi đây là do Như Lai ở cõi nước chúng con sai đến, muốn được bái kiến Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ ở trong tháp bảy báu, thưa hỏi Thánh thể an khang chăng, thuyết pháp như thế nào, chúng sinh có thọ nhận và thực hành đúng pháp chăng? Như Lai Đa Bảo hiện cửu trụ ra sao? Chúng con đến đây vì muốn được chiêm ngưỡng hình tượng của Như Lai Đa Bảo. Xin Phật hiện cho.
Khi ấy, Đức Phật Năng Nhân nói với Đức Như Lai Đa Bảo:
– Nay Bồ-tát Diệu Âm và các quyến thuộc muốn bái kiến hình tượng Thánh thể Thế Tôn.
Đức Như Lai Đa Bảo liền khen ngợi:
– Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Ông có thể đến bái kiến Đức Phật Năng Nhân, thưa hỏi thọ lãnh kinh Chánh Pháp Hoa và lại sẽ gặp Văn-thù -sư-lợi để giải bày những điều chưa đạt.
Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ hỏi Bồ-tát Phật Diệu Âm vào đời trước đã chứa cội đức gì mới đạt được thần biến vô cực ấy?
Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:
– Vào đời quá khử xa xưa có Phật, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiệu là Vân Lôi Âm Vương giảng thuyết đạo kinh Lục Độ Vô Cực Bồ-tát Pháp Tạng. Cõi trời nhân gian đâu đâu cũng được an lạc. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm nghe điều giảng thuyết, mừng vui thông hiểu, trổi trăm ngàn âm nhạc làm vui Phật ấy, dâng cúng Thế Tôn tám vạn bốn ngàn bát báu đẹp. Tinh tấn cúng dường Như Lai một vạn hai ngàn năm như vậy.
Lại nữa, Tộc tánh tử! Bồ-tát Diệu Âm vào đời trước, từ thời Đức Như Lai Vân Lôi Âm Vương đã tu vô lượng pháp, trồng công đức này chưa từng có mỏi mệt bê trễ, truyền thừa giáo chỉ của Như Lai, hóa độ người ngu mê chẳng biết chí chân, khiến họ đều tin ưa. Nên biết Bồ-tát Diệu Âm lúc bấy giờ là Bồ-tát Diệu Âm bây giờ vậy. Vì đời ấy bố thí bát báu và các âm thanh kỹ nhạc, lại cúng dường vô số chư Phật nên ở chỗ ngàn ức Đức Phật trồng các cội đức, tu hành các hạnh; đời trước đã gặp ức trăm ngàn cai hằng hà sa chư Phật Thế Tôn.
Này Liên Hoa Thủ! Sở hành của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể hạn lượng biến vô số hình tướng, vì các chúng sinh tuyên bố giảng nói kinh Chánh Pháp Hoa, hoặc hiện hình dạng sắc mạo Phạm thiên mà giáo hóa, hoặc hiện hình Thiên đế, hoặc hình tôn quý, giàu sang, hoặc hình tướng quân, dẫn dắt giáo hóa quân lính; hoặc các hình tướng có thế lực lớn như Thiên vương Tức ý, Chuyển luân thánh vương, các tiểu vương; hoặc hình mạo của Sa-môn, Phạm chí nói kinh Chánh Pháp Hoa; hoặc hiện hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, hình cung nhân, thể nữ, phu nhân của trưởng giả, các gái bần tiện và nam nữ lớn nhỏ khác để thuyết kinh Chánh Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc hiện hình dáng sắc mạo của A-tu-luân, Ca-lưu la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân để thuyết kinh Chánh Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và tám nạn để ủng hộ và cứu độ họ ; hoặc hiện kẻ sĩ bậc thượng, trung, hạ tiến thối trước sau, tùy theo hình thể nam, nữ nói kinh Chánh Pháp Hoa để khai hóa họ; hoặc hóa hình hoàng hậu vào trong cung độ các quý nhân. Liên Hoa Thủ nên biết, Bồ-tát Diệu Âm sẽ hộ trì tất cả chúng sinh ở thế giới Kham nhẫn.
Lại nữa, này Tộc tánh tử! Bồ-tát Diệu Âm sẽ dùng biết bao phương tiện biến hóa để giáo hóa cõi Phật Kham nhẫn, diễn nói kinh Chánh Pháp Hoa mà thần túc oai đức chưa từng suy hao mà lại càng tăng trưởng; Thánh tuệ, đạo trí cũng lại như thế.
Lại nữa, này Tộc tánh tử! Hào quang, công huân, trí tuệ của Bồ-tát Diệu Âm chói sáng cùng khắp mười phương, tùy thời khai hóa, luân chuyển vô cùng, đều khiến đi vào pháp luật; các nguyện thượng, trung, hạ đều khiến thành tựu, vừa du hóa thế giới Kham nhẫn lại đến hằng hà sa cõi Phật ở phương khác, hiện thân Bồ-tát để thuyết pháp. Lại hiện hình tượng Thanh văn, Duyên giác để khai hóa, chỉ bày sự tu học bản hạnh, người nghe tự nhiên thành tựu chí nguyện, chẳng trái bản thệ.
Nếu có chúng sinh tuân giữ luật của Như Lai thì dùng hình tượng Phật tùy theo đạo luật đó mà hiện hình tướng trao truyền rõ ràng đại đạo Vô thượng chánh chân; nếu ai mong được Nê-hoàn thì hiện thân đã diệt độ, nhân đó tùy nghi khai hóa đạo tuệ. Thế lực và thánh trí của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể so lường, siêu tuyệt sáng chói; công đức cũng như thế, không lấy gì dụ được.
Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ đến trước bạch Phật:
– Bồ-tát Diệu Âm tích chứa công đức to lớn như thế. Kính bạch Thế Tôn, vị ấy đã trụ trong tam muội gì để khai hóa chúng sinh không có hạn lượng?
Đức Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:
– Tộc tánh tử hãy lắng nghe! Có pháp Tam-muội tên là Hiện nhập chúng tượng. Bồ-tát Diệu Âm đã trụ trong Tam-muội này để khai hóa, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh khiến họ đi vào nghĩa đạo.
Khi Phật nói phẩm Chương Cú Bồ-tát Diệu Âm này, các Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm ngay lúc đó liền chứng đắc Hiện nhập chúng tượng Tam-muội chánh định, sự hành trì thù thắng. Khi ấy, tại thế giới Kham nhẫn một số vị Đại Bồ-tát cũng tu tập Tam-muội ấy. Những vị đắc được Tam-muội Hiện nhập chúng tượng liền đắc pháp Tổng trì, cả ba đời đều được giải thoát.
Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm cúng dường Đức Phật Năng Nhân Chí Chân, phụng sự xá-lợí trong tháp Đức Như Lai Đa Bảo xong, muốn trở về cõi nước của mình, tiền tới trước đảnh lễ Đức Như Lai Năng Nhân, rồi từ biệt chúng hội lui về, là m chấn động các cõi nước, mưa các hoa sen, đồng thời hòa trổi trăm ngàn ức cai bài tụng thanh nhã, kỹ nhạc, cùng với tám vạn bốn ngàn các vị Bồ-tát quay về bản quốc. Ngài đến trước đảnh lễ Đức Như Lai Tử Kim Ly Cấu Tú Hoa Vương, trình bày việc đến thế giới Kham nhẫn hướng dẫn, làm lợi ích cho chúng sinh, bái kiến xá-lợi trong bảo tháp của Đức Như Lai Đa Bảo và thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Dược Vương là những vị đã đạt được đạo lực tinh tấn vô cực, thăm Bồ-tát Diệu Dũng, làm cho tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều đắc chánh hạnh và đạt Hiện nhập chúng tượng Tam-muội. Bốn vạn hai ngàn vị Thiên tử cùng đi theo đến cõi ấy nghe kinh Chánh Pháp Hoa đều đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát Liên Hoa Thủ đạt được định Chánh Pháp Hoa.
***
Phẩm 23: QUANG THẾ ÂM PHỔ MÔN
Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai hữu, quỳ thẳng chắp tay, thưa với Đức Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Quang Thế Âm? Ý nghĩa như thế nào?
Phật bảo Vô Tận Ý:
– Vị Tộc tánh tử ấy, nếu có chúng sinh gặp trăm ngàn muôn ức khổn ách, hoạn nạn, khổ não vô cùng, vừa nghe danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm thì liền được giải thoát, không còn các khổ, nên gọi là Quang Thế Âm.
Nếu có người tâm luôn trì danh hiệu ngài, giả sử gặp lửa lớn thiêu đất núi rừng, thiêu cháy cỏ cây, rừng rậm, nhà cửa, thân ở trong lửa mà được nghe tên Quang Thế Âm, lửa liền tắt. Nếu vào sông nước lớn, dòng nước chảy xiết, trong lòng sợ hãi, mà xưng tên Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm hướng về thì do oai thần gia hộ khiến không bị chìm, làm cho an ổn. Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sinh sang hèn vào trong biển cả, ở trong biển thăm thẳm mênh mông không bờ bến, dò tìm vàng, bạc, các loại ngọc minh nguyệt, như ý, bảo châu, thủy tinh , lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách; thuyền chở đầy châu báu, giả sử gió thổi thuyền ấy trôi dạt vào dòng xoáy hắc sơn, hoặc tấp vào cõi quỷ, gặp cá kình, có một người trong chúng nhất tâm thầm nghĩ công đức oai thần của Bồ-tát Quang Thế Âm rồi xưng danh hiệu ngài thì đều được giải thoát tất cả các hoạn nạn và chúng bạn cũng được cứu độ, không gặp các ách nạn tà ma quỷ quái. Vì thế nên gọi là Quang Thế Âm.
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Nếu thấy oán tặc muốn đến làm nguy hại, liền xưng danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm và hướng về ngài thì dao gậy của giặc liền gãy từng đoạn, tay không đưa lên được, tâm họ tự nhiên hiền lành.
Này Tộc tánh tử! Giả sử các quỷ thần tà nghịch, yêu mị đầy cả thế giới tam thiên đại thiên này muốn đến quấy nhiễu người mà nhất tâm xưng danh Quang Thế Âm thì tự nhiên bị hàng phục, chẳng thể xâm phạm, tâm ác chẳng sinh, chẳng nhìn bằng con mắt tà vạy.
Nếu người phạm tội, hoặc không có tội mà bị người ác, quan huyện bắt, trói thân, cùm chân, hoặc bỏ trong lao ngục nhất lại tra khảo tàn khốc mà nhất tâm hướng về xưng danh hiệu Quang Thế Âm thì nhanh chóng được giải thoát, mở cửa ngục đi ra, không ai có thể giữ lại, cho nên gọi là Quang Thế Âm.
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Cảnh giới Quang Thế Âm oai thần công đức sáng ngời khó có thể hạn lượng như vậy, nên gọi là Quang Thế Âm.
Phật bảo Vô Tận Ý:
– Này Tộc tánh tử! Giả sử bọn giặc cướp oán tặc đầy cả tam thiên đại thiên thế giới này cầm binh khí dao, gậy mác, mâu, kích muốn giết hại vạn dân, có một đoàn khách buôn đi ngang qua con đường có đạo tặc ấy mang theo bảo vật quý giá; vị dẫn đường sợ hãi thầm nghĩ: “Nơi này nhiều giặc, để không bị nguy hại và bị cướp đoạt tài bảo thì ta nên bày quyền kế thoát khỏi nạn này, chẳng gặp nguy hại”, bèn bảo các khách buôn”
– Không nên sợ sệt, hãy cùng nhau nhất tâm đồng cất tiếng xưng niệm oai thần Bồ-tát Quang Thế Âm. Bồ-tát sẽ liền tới ủng hộ khiến chúng ta không còn sợ hãi. Hãy đồng tâm hướng về để thoát các nạn, không gặp oán. Đoàn khách buôn nghe lời làm theo, đồng thanh xưng hiệu Quang Thế Âm, thân mạng hướng về nguyện xin thoát nạn sợ hãi này. Vừa xưng danh hiệu, giặc liền thoái lui không dám xúc phạm. Đoàn khách buôn thoát nạn, không còn sợ hãi. Cảnh giới oai đức của Bồ-tát Quang Thế Âm sáng ngời như thế, cho nên gọi là Quang Thế Âm.
Phật lại bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:
– Nếu người tu học mà dâm, nộ, si còn mạnh, hãy hướng về lễ bái Bồ-tát Quang Thế Âm, thì dâm, nộ, si sẽ dừng; và quán vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) thì nhất tâm đắc định.
Nếu có người nữ không có con, muốn cầu con trai, con gái, hãy hướng về Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm tinh tấn hướng về ngài thì liền được con trai hay con gái. Là con gái thì mãi mãi đoan chánh, tướng mạo vô song, ai thấy cũng vui; nếu là con trai thì có tướng oai phong, mọi người yêu mến, mong mỏi muốn thấy, trồng các cội đức, không gây nghiệp tội. Oai thần, công đức, trí tuệ, cảnh giới của Quang Thế Âm cao vời như thế, người nào nghe danh hiệu thì mục đích đạt được không bao giờ hư vọng, không bị tà hại, đạt đến quả đạo đức vô thượng, thường gặp chư Phật, Chân nhân, Bồ-tát, Chánh sĩ có đức cao, không gặp lại người nghịch. Nếu nghe danh hiệu mà chấp trì nhớ tưởng thì công đức vô lượng chẳng thể tính kể. Nếu có người cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa các Bồ-tát thì các Bồ-tát ấy đều khiến hiện tại hành tâm Từ.
Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ trọn đời cúng dường áo mền, ẩm thực, giường, ngọa cụ, thuốc thang chữa bệnh, tất cả đều đầy đủ thì phước ấy nhiều chăng?
Vô Tận Ý thưa:
– Bạch Thế Tôn, nhiều chẳng thể hạn lượng! Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy nhiều vô số ức chẳng thể thí dụ.
Phật dạy:
– Tuy cúng dường số Bồ-tát vô hạn ấy nhưng không bằng một lần hướng về Quang Thế Âm cúi đầu làm lễ, chấp trì danh hiệu, vì phước này hơn hẳn phước người kia, huống lại cúng dường, tuy cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa số chư Bồ-tát so với sự chấp trì danh hiệu, kể hai phước này cả ức trăm ngàn kiếp cũng không thể hết được, nhưng rốt cuộc chẳng so sánh nhau được, cho nên gọi là Quang Thế Âm.
Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Đức Phật:
– Quang Thế Âm vì nhân duyên gì dạo đi trong thế giới Kham nhẫn? Thuyết pháp như thế nào? Chí nguyện ra sao? Việc hành trì chánh pháp, phương tiện khéo léo cảnh giới thế nào?
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Bồ-tát Quang Thế Âm đã đi dạo trong thế giới, hoặc hiện thân Phật để ban bố tuyên dương giáo pháp, hoặc hiện dung mạo, hình tượng Bồ-tát để giảng kinh khai hóa, hoặc hiện thân Duyên giác, hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân vua trời Phạm thiên để giảng đạo kinh, hoặc hiện thân Kiền-đạp-hòa, muốn độ quỷ thần nên hiện thân hình quỷ thần; muốn độ bậc tôn quý hiện thân tướng tôn quý; hoặc lại thị hiện thân trời ở cõi Đại thần diệu, hoặc thân hình Chuyển luân thánh vương hóa độ bốn cõi, hoặc thân hình kỳ lạ, hoặc thân hình La-sát Phản túc, hoặc thân Tướng quân, hoặc hiện thân Sa-môn, Phạm chí, hoặc thân thần Kim cang, ẩn sĩ ở một mình, Tiên nhân, trẻ nít… Bồ-tát Quang Thế Âm dạo đi các cõi Phật đều hiện khắp biết bao nhiêu than hình, tại chỗ biến hóa khai độ tất cả.
Vì vậy, này Tộc tánh tử! Tất cả chúng sinh đều nên cúng dường Bồ-tát Quang Thế Âm. Vị Tộc tánh tử ấy, nơi nào mà chung quanh có sự sợ hãi liền khiến không sợ hãi; đã được không sợ hãi rồi, khiến đều an ổn, ai nấy vui mừng. Vì vậy nên Bồ-tát dạo đi trong thế giới Kham nhẫn.
Khi ấy, Bồ-tát Vô Tận Ý liền cởi trăm ngàn anh lạc báu nơi thân dâng lên Bồ-tát Quang Thế Âm, thưa:
– Cúi xin Chánh sĩ nhận pháp cúng dường này, là anh lạc báu đặc biệt đeo ở thân tôi.
Bồ-tát Quang Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa:
– Đã đến lúc, xin ngài thương xót nhận cho, đừng từ chối.
Khi ấy Bồ-tát Quang Thế Âm tự nghĩ: “Ta không dùng vật báu ấy”.
Vô Tận Ý thưa:
– Xin hãy thương xót các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-1a, Chân-đà-la, Ma-hầu-1ặc, Nhân phi nhân mà thọ nhận.
Bồ-tát Quang Thế Âm thọ nhận anh lạc báu, liền chia làm hai phần: một phần dâng cúng Đức Như Lai Năng Nhân, một phần đặt lên tháp báu để cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác Đa Bảo.
Vị Tộc tánh tử ấy vì tất cả chúng sinh nên dùng thần túc biến hóa dạo đi trong thế giới Kham nhẫn, cứu tế khắp nơi.
Bấy giờ Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tới trước bạch Đức Phật:
– Giả sử có người nghe công đức tu hành của Bồ-tát Quang Thế Âm trọn không hư dối, thì đời đời an ổn đạt đến tuệ vô cực. Bồ-tát Quang Thế Âm ấy thần túc biến hóa đến khắp cửa đạo, oai thần hiển hiện không cùng tột.
Phật nói phẩm Phổ Môn Đạo xong có tám vạn bốn ngàn người trong hội khi ấy đạt đến Vô đẳng luân, liền phát tâm đạo Vô thượng chánh chân.
***
Phẩm 24: TỔNG TRÌ
Khi ấy Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dạy, quỳ thẳng, chắp tay, bạch Đức Phật:
– Nếu Tộc tánh tử! Tộc tánh nữ nghe kinh Chánh Pháp Hoa này, thọ trì, tư duy, sao chép kinh quyển thì được phước như thế nào?
Phật dạy:
– Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì kinh này, tụng đọc, suy tư, sao chép kinh quyển, phước đức chẳng thể lường được, không lấy gì dụ được. Nếu Tộc tánh tử cúng dường tám mươi ức trăm ngàn vạn hằng hà sa các Đức Như Lai và nếu lại thọ trì tư duy sao chép kinh Chánh Pháp Hoa này và giảng thuyết cúng dường thì phước nào nhiều hơn? Theo ý ông thì sao? Nên nhất tâm phụng trì kinh điển hay là dùng y thực cúng dường chư Phật?
Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:
– Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì những điều cốt yếu của kinh Chánh Pháp Hoa, giữ gìn sao chép một bài tụng bốn câu, giảng thuyết, tụng đọc, hoặc phụng hành thành tựu đầy đủ thì phước ấy rất nhiều, hơn sự cúng dường vô số hằng hà sa chư Phật Thế Tôn.
Phật dạy:
– Rất đúng, cúng dường pháp là hơn hết!
Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:
– Con sẽ ủng hộ những người như thế. Các Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì kinh này thì đó là những Pháp sư, dùng nghĩa để hộ vệ khiến mãi mãi không bị họa hoạn.
Lại liền tụng chú rằng: “Suy tư kỳ dị, ý niệm vô ý, thực hành vĩnh cửu, tịnh tu đạm bạc. Ý chí thầm lặng giải thoát. Tế độ bình đẳng không tà vạy. Yên ổn hòa hợp khắp cả đồng đều. Diệt hết vô tận không gì hơn. Huyền mặc đạm nhiên Tổng trì. Ánh sáng chiếu soi có chỗ nương tựa bên trong. Rốt ráo thanh tịnh, không sa đọa, không cao thấp, không quay vòng không giáp vòng. Mắt thanh tịnh không gì bằng. Giác ngộ rồi độ thoát. Quan sát các pháp hợp với âm thanh nói ra. Hiểu rõ thì dừng lại, dẹp bỏ mọi giới hạn, giảng nói bằng các âm thanh mà hiểu được ý nghĩa không cùng tận của văn tự, không thế lực nào hơn được.”
Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu chú mà sáu mươi hai hằng hà sa Đức Phật đã thuyết. Giả sử có ai phạm vào người trì chú này, hoặc lại chống đối hủy báng các vị Pháp sư chính là làm mất đạo giáo của chư Phật Thế Tôn.
Phật khen ngợi Bồ-tát Đại sĩ Dược Vương:
– Hay thay, hay thay! Nếu Tộc tánh tử nói câu chú ấy là vì chúng sinh thì nên thương tưởng ủng hộ chúng được nhiều an ổn.
Bấy giờ Bồ-tát Diệu Dũng bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Con đây cũng vì chúng sinh nên muốn khiến được vĩnh viễn an ổn. Nếu có người phụng trì kinh điển này, con trao câu chú này sẽ giúp những Phá p sư ấy khiến không ai rình tìm được chỗ sơ hở. Các loại quỷ mị như quỷ thần ở hầm xí, quỷ ống khói quỷ chán nản, quỷ đói, phản túc, tuy muốn quấy nhiễu, không được dễ dàng.
Bồ-tát Diệu Dũng chuyên tâm tư duy, rồi nói chú: “Ánh sáng lớn soi đến tràn trề hân hoan, mãi mãi kết tụ nơi đây, không hội không hợp.”
Đó là câu chú mà hằng hà sa chư Phật đã nói và đều cùng khuyến trợ. Như thế, nếu chống lại các Pháp sư thì giống như làm trái lời dạy của Như Lai, trở lại làm nguy hại mình.
Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương bạch Phật:
– Con cũng sẽ nói câu chú này để tăng thêm lòng Từ, vì chúng sinh nên ủng hộ Pháp sư: “Giàu có sinh hý lộng. Không hý rộng thì có vô lượng. Không giàu thì làm sao giàu.” Dùng nó ủng hộ các Pháp sư, trong vòng trăm do-tuần, không có gì dám xúc phạm, sự bảo vệ được thuận lợi.
Này các Tộc tánh tử! Được như thế thì những người đến học với Pháp sư mới có thể thọ trì. Vì vậy, sự ủng hộ thường được tốt đẹp.
Khi ấy Thiên vương Thuận Oán và ức trăm ngàn vạn hương âm và quỷ, quyến thuộc vây quanh ngồi trong pháp hội cùng đi đến trước, bạch Phật:
– Kính bạch Thế Tôn! Con cũng sẽ nói câu chú này: “Không số lượng có số lượng sáng tối mang hương. Chúc dữ đại thể bằng lời thô bạo.”
Kính bạch Thế Tôn! Câu chú này do bốn ngàn hai trăm ức Đức Phật đã nói, vì vậy chú này ủng hộ cúng dường những người học kinh, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở.
Lúc bấy giờ có một quỷ mỵ tên Hữu Kết Phược, lại có quỷ tên Ly Kết, lại có quỷ tên Thi Tích, lại có quỷ tên Thi Hoa, lại có quỷ tên Thi Hắc, lại có quỷ tên Bị Phát, lại có quỷ tên Vô Trước, lại có quỷ tên Trì Hoa, lại có quỷ tên Hà Sở, lại có quỷ tên Thủ Nhất Thiết Tinh cùng mẹ con các quỷ, đi đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ thường ủng hộ các bậc Pháp sư ấy, làm gia tăng sự an ổn, khiến không ai tìm được chỗ dở của Pháp sư.
Khi ấy, các quỷ mỵ đồng cất tiếng đọc chú này ủng hộ Pháp sư: “Nay ngươi rất mực không ngã, không chấp ngã, không than, không chỗ chung cùng. Đã khởi, đã sinh, đã thành mà trụ mà kiến lập thì cũng trụ ở nơi ta thán, cũng chẳng tiêu hết đại tật không được xâm hại.” Đồng loại quyến thuộc của chúng con ủng hộ Pháp sư khiến không bị xâm phạm, tiêu trừ quỷ thần vọng mị, ngạ quỷ, quỷ ở chuồng xí, quỷ ống khói, cô đạo, phù chú, quỷ si cuồng điên giả dạng đi đến, hoặc hình quỷ thần và hình phi nhân, hoặc hai ngày ba ngày, hoặc đến bốn ngày, hoặc bị bệnh nhiệt luôn, lại nằm ngủ thấy ác mộng, hoặc hiện hình các nam nữ lớn nhỏ. Chúng con sẽ ủng hộ khiến không có loài nào rình tìm được chỗ sơ hở.
Khi ấy các quỷ mỵ ở trước Phật cùng nói bài tụng:
Xúc phạm đầu vỡ bảy
Giống như chẻ hoa rau
Sẽ như tội giết mẹ
Cùng giống họa hại cha
Có ai phạm Pháp sư
Đều sẽ bị tội này
Đời đời chẳng được an
Không gặp được chư Phật
Tội phá hoại chùa Phật
Tội quấy rối Thánh chúng
Như trộn các dầu mè
Dầu mè tụ một chỗ
Phóng lửa thiêu đốt hết
Tiêu rụi chẳng còn gì
Có người phạm Pháp sư
Sẽ bị tội như vậy
Giống như dãy núi lớn
Nhóm tội cấu dồn lại
Nếu ai phạm Pháp sư
Sẽ bị trọng tội này.
Các quỷ thần Quân Đầu… nói bài tụng ấy xong, liền bạch Phật:
– Chúng con đều ủng hộ các Pháp sư giống như thế, làm cho cá c vị thường an ổn, trừ bỏ oán địch, bảo vệ chung quanh để các vị không bị tổn hại. Nếu có người bỏ thuốc độc, thuốc độc không tá c dụng.
Khi ấy Phật khen ngợi các quỷ mị đã nói chú:
– Hay thay, hay thay! Các ngươi muốn hộ vệ các Pháp sư, nếu nghe kinh này tuyên trì danh hiệu, đức chẳng thể lường, huống là tùy thời thọ trì giảng nói, sao chép đầy đủ quyển kinh. Nếu dung đồ cúng dường như hoa hương, tràng phan, lọng, hương tạp, hương đảo, thắp đèn, treo tranh, thì chọn loại vừa ý, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng, đựng dầu tô dùng thắp đèn, cúng dường kinh này siêng tu không biếng trễ, thì phước gấp trăm ngàn ức không có giới hạn. Các ngươi nên hộ trì người học kinh tinh tấn như thế.
Khi Phật thuyết phẩm Tổng Trì này, sáu vạn tám ngàn người đạt được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh.
***
Phẩm 25: TỊNH PHỤC TỊNH VƯƠNG
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Vào thuở quá khứ cách vô số kiếp, lâu xa khó lường, chẳng thể nghĩ bàn, bấy giờ có Phật hiệu là Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên là Chiếu minh nghiêm sức, kiếp tên là Ái kiến.
Lại nữa, Tộc tánh tử! Vào đời Phật ấy, có vị vua tên là Tịnh Phục Tịnh. Bấy giờ, nhà vua có một chánh hậu tên là Ly Cấu Thi; hoàng hậu có hai người con, một tên là Ly Cấu Tạng, hai tên là Ly Cấu Mục; hai người con này đều đã đắc thần túc, cử động nhẹ nhàng có thể bay được; đầy đủ trí tuệ, công đức hoàn bị, quả Thánh cao vời, hành hạnh Bồ-tát, ngày đêm tinh tấn chưa từng biếng lười bỏ phế, hết lòng chuyên tinh tu sáu pháp Ba-la-mật, khéo dùng bốn Đẳng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu tế vô cùng, đều tuân hành và thong đạt ba mươi bảy pháp đạo phẩm, thông suốt đạo nghĩa, việc làm đã xong; định Tam-muội Tấn đãi ly cấu, Tam-muội Độ túc nhật quang, Tam-muội Ly cấu hiển diệu, Tam-muội Tịnh trang nghiêm, Tam-muội Đại oai tạng đều được thông đạt; nhờ những định Tam-muội này mà vượt qua bờ kia.
Bấy giờ Đức Phật tập hợp bốn chúng, Thích Phạm, Tứ Thiên vương, chư Thiên, nhân dân ban tuyên nói phân biệt kinh Chánh Pháp Hoa. Khi ấy Phật thương tưởng tất cả chúng sinh xót thương quốc độ, muốn cho hóa độ tất cả chúng sinh đi vào đại đạo.
Lại nữa, Tộc tánh tử, hai vị thái tử ấy đi đến chỗ mẹ chắp tay thưa:
– Cúi xin mẹ rủ lòng nghĩ tưởng xót thương, chúng con một long muốn đến chỗ Phật, tham kiến thân Như Lai, cũng muốn lễ bái quy y. Vì sao? Nay Đức Như Lai vì tất cả chúng sinh cõi trời, cõi người rộng tuyên yếu điển là kinh Chánh Phá p Hoa, chúng con phải kính cẩn nghe Chánh Pháp Hoa.
Hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử:
– Phụ vương các con, chí sùng ngoại đạo, tin ưa Phạm chí, thường ôm sân hận, vì vậy các con chẳng thể đi được.
Khi ấy hai thái tử lại đồng tâm chắp tay, thưa mẹ:
– Chúng con bạc số sinh nhằm nhà tà kiến vô nghĩa. Hơn nữa, chúng con vốn là con Đấng Pháp Vương sẽ dùng kinh đạo giáo hóa phàm tục uế trược bỏ ngụy hướng chân; như vậy mới là Phật tử.
Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử:
– Hay thay, hãy thực hiện đi, các con là con chí hiếu! Vì cha mẹ mà tu đại từ mẫn, hiển hiện thần túc. Cha các con thấy xong, trong lòng vui vẻ cởi mở, mới nghe các con, cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ thọ giáo.
Khi ấy hai thái tử liền nghe lời mẹ dạy, thân vọt lên đứng trên hư không, cách đất bảy nhẫn, nghĩ thương cha mẹ, hiện oai thần biến, ở trên hư không, hai người cùng lúc ngồi, nằm, kinh hành, trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước; trên thân phun nước, dưới thân phóng lửa, tỏa ánh sáng lớn chiếu khắp xa gần, hiện thân to lớn rồi lại thu nhỏ; từ hư không hạ xuống đi vào trong đất; hoặc vào trong nước, từ đất vọt lên, ở trên hư không giống như đạp đất. Hai thái tử ấy hiện bao nhiêu biến hóa, hiển hiện thần túc dùng để khai hóa cha mẹ. Khi ấy vua cha thấy hai con thần túc biến hóa oai đức như thế, mừng vui tột độ, tâm thiện phát sinh, cúi thân chắp tay hướng về hai con, nói:
– Thầy của các con là ai mà các con thọ nhận được việc ấy?
Khi ấy hai Thái tử tâu với vua cha:
– Đại vương muốn biết Thầy của chúng con chăng? Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương là Thầy của chúng con, hiện nay đang ở dưới cây báu, ngồi trên pháp tòa vì bốn bộ chúng, chư Thiên, nhân dân quảng diễn tuyên bố kinh Chánh Pháp Hoa. Đức Phật Thế Tôn ấy chính là Thầy của chúng con.
Vua bả o hai con:
– Ta muốn đi đến chỗ Thầy của các con để đích thân kính cẩn nhận lãnh lời giáo huấn của Bậc Đại Thánh Vô Thượng Chánh Chân.
Khi ấy hai người con từ hư không hạ xuống đến chỗ mẹ, chắp tay thưa:
– Nhờ oai đức của mẹ nên cảm hóa được phụ vương; để vua cha tạo lập tâm Vô thượng chánh chân, nhờ đó mà thành tựu đạo nghiệp Thánh Tôn đã dạy. Xin mẹ thương tưởng cho chúng con đến chỗ Phật xuất gia tu đạo, được làm Sa-môn.
Khi ấy hai thái tử vì mẹ nói kệ:
Xin mẹ cho chúng con
Xuất gia làm Sa-môn
Như Lai rất khó gặp
Thời gian dài chuyên học
Đều gọi là khó gặp
Giống như hoa Linh thụy
Càng khó gặp hơn kia
Nhàn tịnh chẳng thể được.
Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi dùng tụng bảo:
Mẹ đồng ý các con
Lành thay, con chóng đi
Bậc Thánh rất khó gặp
Mẹ cũng cùng xuất gia.
Bấy giờ, hai thái tử tán thán bằng bài pháp tụng ấy để báo đáp cha mẹ xong, lại thưa với phụ vương và mẫu hậu:
– Cúi xin cha mẹ đồng nhất tâm cùng đi đến chỗ Phật Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương và cũng để kính yết lễ bái quy y Đức Thế Tôn. Vì sao? Cha mẹ nên biết, gặp Phật ra đời rất khó; giống như hoa tình thụy, cũng như minh châu như ý tối thượng, Phật cũng như vậy, chẳng thể gặp lại. Vì vậy chúng con sinh lại chốn này, tâm niệm xuất gia công đức đệ nhất. Vì thế cho nên, cha mẹ chẳng nên ngăn cản mà nên chấp thuận, và bảo rằng: “Tốt lắm! Cho phép các con được xuất gia tu học, vứt bỏ ái dục, xả nghiệp thế tục. Vì sao? Vì được gặp Như Lai, là phước may vô lượng. Mạng người khó được, đời có Phật khó gặp; xa lìa tám nạn, được nhàn tịnh là khó, như chết sống lại.”
Phụ vương và hoàng hậu đáp lời Thái tử:
– Được, nên biết đã đúng lúc!
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Bấy giờ trong cung của vua Tịnh Phục Tịnh có tám vạn bốn ngàn công nhân thể nữ, do cội đức đời trước được lãnh thọ kinh Chánh Pháp Hoa này, nên vốn là bậc đạo khí. Thái tử Ly Cấu Mục đời trước vốn tu hành tích chứa công đức từ lâu xa vô hạn. Thái tử Ly Cấu Tạng vào thuở đời trước xa xưa trong vô số trăm ngàn ức kiếp đã từng tu hành chánh định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhất thiết ác thú . Sao gọi là chánh định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhất thiết ác thú? Chánh hậu của vua, bà Ly Cấu Thi, mẹ của hai thái tử, hiểu rõ tất cả các pháp của chư Phật trong mười phương, các pháp yếu của chư Phật, tạng bí mật và Thánh tuệ vô cực của chư Phật, dùng quyền phương tiện hiện làm thân nữ vậy.
Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Khi ấy vua Tịnh Phục Tịnh thấy hai thái tử hiện thần túc giáo hóa dẫn vào pháp chí chân của Như Lai, đã đạt đến siêu việt, lần lượt nhiều người đều được độ thoát; tất cả hạng mù tối đều vào đạo sáng, liền tự phát tâm cùng với bốn vạn hai ngàn quyến thuộc, hoàng hậu Ly Cấu Thi cùng với bè bạn, thể nữ ở trong cung quần thần, bách quan theo hai thái tử đồng thời đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, lui về chỗ ngồi, theo vị trí đã có sẵn.
Khi ấy Đức Phật thấy vua Tịnh Phục Tịnh cùng với đông đảo quyến thuộc tự đến quy y, Ngài dựa vào bản hạnh, quán nhân duyên xưa, mà nói pháp cho họ, theo bệnh cho thuốc, ai cũng hiểu rõ, tâm thiện phát sinh, mừng vui phấn chấn. Ngay khi đó, quốc vương cùng chánh hậu Ly Cấu Thi và hai thái tử, cung nhân, thể nữ, tất cả người trong cung bỏ nước, bỏ cung vua làm Sa-môn. Sau khi làm Sa-môn rồi, trải qua tám vạn bốn ngàn năm tất cả để vâng giữ tu tập đạo nghiệp, tư duy quán sát yếu nghĩa của kinh Chánh Pháp Hoa, tụng đọc, làm theo như lời Phật dạy, không hề sai trái.
Vua Tịnh Phục Tịnh cùng quyến thuộc cung kính tuân hành siêng tu kinh Chánh Pháp Hoa trong tám vạn bốn ngàn năm xong liền đạt các cội đức và Tam-muội chánh định nghiêm tịnh. Vừa đạt định này, Vua tức thời vọt lên hư không, cách đất bốn trượng chin thước, đứng trên hư không, từ xa bạch với Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương:
– Hai người con ấy chính là Thánh sư đã hóa đạo chúng con. Nhờ ân đức ấy, biểu hiện thần túc, hiển dương biến hóa, con nhờ chứng kiến sự hóa hiện thần biến ấy mà tâm được khai mở, bỏ tục vào đạo làm theo lời Phật dạy, vượt qua ách uế trược, thuận theo pháp luật trụ vững vô cực, được phụng sự Như Lai, nhận lãnh kinh pháp, là bậc Chí thánh không còn thiện sư nào trên nữa. Hai người con ấy thị hiện làm con sinh vào nhà con, đều là do công đức sang suốt đời trước, nương vào tâm nhân từ của Phật, chẳng phải là chỗ nghĩ bàn của kẻ phàm phu.
Phật bảo vua:
– Đúng vậy, đúng vậy, đại vương! Như lời đại vương đã nói, hai vị thái tử ấy, vì trước đã gieo trồng phước đức nên mới thị hiện, vì muốn khai hóa vua, quyến thuộc và tất cả chúng sinh.
Phật dạy:
– Nếu Tộc tánh tử và Tộc tánh nữ học kinh điển ấy thì sinh ra chỗ nào, xoay vần sau trước dễ gặp thầy giỏi tuyên nói lời dạy của Thế Tôn, được vững vàng nơi đạo Vô thượng chánh chân, khai hóa chỉ dẫn, độ thoát tất cả; đó là việc làm vô cực vi diệu, lần lượt dạy nhau, lần lượt thành tựu cho nhau, đạt đến chỗ Thánh đế vô cực, gặp Phật là bậc Pháp Vương; do gặp Thầy giỏi nên được gặp Như Lai thọ nhận kinh pháp; nhờ ân khuyến trợ nên nay vua gặp được hai vị thái tử ấy. Các Tộc tánh tử ấy đời trước đã từng cúng dường phụng sự sáu mươi lăm ức trăm ngàn triệu vạn hằng hà sa Đức Như Lai Chí Chân và lại thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa ấy, thương xót chúng sinh, chìm trong chín mươi sáu loại tà kiến chẳng có thể tự cứu, nên khai hóa họ khiến trụ chánh kiến, tu hành tinh tấn cầu đạo lớn của Phật.
Khi ấy Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử! Vua Tịnh Phục Tịnh vào đời ấy khen ngợi các công đức, từ trên hư không hạ xuống liền đến trước Phật chắp tay bạch với Đức Phật: “Xin Phật nói rõ Đức Như Lai Chí Chân vào đời trước hành công đức gì mà Thánh tuệ cao vời, tướng giữa đôi mày phát ra ánh sáng chiếu vô số nước và con mắt sáng đẹp thấy khắp mười phương; tướng giữa đôi mày trắng như kha tuyết, mềm mại mịn đẹp rực rỡ nhuận sáng, bằng phẳng không vẹo, chỗ nào cũng chiếu sáng. Khuôn mặt Thế Tôn đầy đặn như mặt trời, đạo mục an trú như trăng mới mọc, tất cả chiêm ngưỡng không biết chán?”
Khi ấy quốc vương nói tụng:
Công huân Ngài thù dị
Nhiều ức trăm ngàn muôn
Hư không còn thể dụ
Tuệ Ngài chẳng thể lường.
Phật dùng tụng đáp:
Đời trước hành trung chánh
Bình đẳng thí cho người
Cho nên tướng giữa mày
Chiếu khắp không hạn lượng
Khai thị cho đèn tuệ
Mắt sáng hơn trời trăng
Mắt như trăng vừa m ọ c
Thấy khắp mười phương cõi.
Khi ấy vua khen ngợi rồi chắp tay bạch Phật:
– Thật chưa từng có, lời giáo huấn của Như Lai Chí Chân từ bi rộng lớn vô hạn, công đức đầy đủ chẳng thể nghĩ bàn, diễn bày đạo nghĩa, ban dạy pháp cấm, khiến không tội lỗi, hoạn nạn đường dài đều không còn nữa.
Kính bạch Thế Tôn! Như con hôm nay, tâm chẳng phóng dật, do được tự tại chẳng rơi đường tà, từ bỏ tự đại, không theo hư ngụy, cũng không ân hận, chẳng khởi tâm ác và các nghiệp tà hại. Việc nước rất nhiều nhưng con muốn xuất gia tu học, chẳng trở về cung; con muốn quy y và dâng phẩm vật cúng dường.
Phật dạy:
– Rất tốt!
Khi ấy, vua liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật. Chánh hậu của vua, bà Ly Cấu Thi cởi trăm ngàn anh lạc báu đeo trên thân để rải trên Phật. Do oai thần của Phật hóa thành tấm màn bảy báu đan xen, trong tấm màn đẹp đẽ lạ thường ấy tự nhiên có giường, trải bằng vô số tọa cụ khác lạ, Như Lai ngồi trên đó. Khi ấy quốc vương tâm tự nghĩ: “Thật chưa từng có. Thế Tôn Chí đức ở trong tấm màn đan xen, trông thấy Như Lai thật đoan chánh, oai thần rực rỡ, màu sáng đệ nhất, dung mạo đầy đặn sạch đẹp không gì sánh bằng. Nguyện khiến cho tất cả đều nhờ phước này.
Bấy giờ Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:
– Các ông có thấy vua Tịnh Phục Tịnh nhất tâm chắp tay đứng trước Phật chăng?
Đều đáp:
– Đã thấy.
Phật bảo:
– Này Tỳ-kheo! Vua ấy trong đời hiện tại này là học trò của ta hiện thân làm Tỳ-kheo. Vào đời tương lai sẽ được làm Phật hiệu là Chủng Đế Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước của Phật ấy tên là Quang phổ, kiếp tên là Siêu vương. Vào thời Phật ấy, các chúng Bồ-tát chẳng thể tính đếm, các chúng Thanh văn cũng vô số. Thế giới của Phật ấy bằng phẳng như bàn tay, không có lồi lõm, không có cát sỏi đá. Khi được làm Phật, oai thần của vị ấy vời vợi, to lớn vô cùng, sáng chói như thế.
Như Lai Năng Nhân bảo:
– Này Tộc tánh tử! Các vị muốn biết vua Tịnh Phục Tịnh phát đạo tâm lúc ấy chăng? Đâu phải người nào lạ. Chớ tưởng như thế. Vì sao? Vì đó chính là Bồ-tát Liên Hoa Thủ hiện nay. Muốn biết hoàng hậu Ly Cấu lúc đó chăng? Nay chính là Bồ-tát Quang Chiếu Nghiêm Sức; ngài thường nghĩ đến các Bồ-tát, thương xót chúng sinh nên sinh vào nước ấy khai hóa độ thoát họ. Muốn biết hai thái tử lúc ấy chăng? Nay chính là Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Siêu Dược. Lại nữa, này Tộc tánh tử, Bồ-tát Dược Vương Bồ-tát Siêu Dược, công đức cao vời vô hạn như thế đã ở chỗ vô số ức trăm ngàn vạn Đức Chư Như Lai vị trồng các cội đức. Hai vị Chánh sĩ Bồ-tát ấy, đạo đức hoàn bị, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có ai nghe danh hai vị Chánh sĩ này thì nên luôn chấp trì, tất cả mọi người đều nên lễ kính. Học sĩ như thế, cõi trời, nhân gian đều quy ngưỡng.
Khi Phật nói về sở hành ở đời quá khứ, tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, chứng Pháp nhãn tịnh.
***
Phẩm 26: PHỔ HIỀN
Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền và chư Bồ-tát vượt qua hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông đi đến, làm chấn động các cõi Phật, rải các hoa sen, trổi trăm ngàn muôn ức kỹ nhạc, ca ngợi công Đức Như Lai. Nương vào đại thần túc biến hóa vô cùng của vị Khai sĩ Bồ-tát ấy, thân của vị Đại Bồ-tát oai thần chói lọi, Thánh chỉ huyền diệu, chiếu khắp mười phương, cùng các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, tất cả đều dẫn theo quyến thuộc, đều hiển bày thần túc chẳng thể nghĩ bàn, đến núi Linh Thứu, đi tới chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, nhiễu Phật bảy vòng và bạch với Đức Phật:
– Chúng con từ cõi Phật Bảo Siêu Oai Vương Như Lai đến. Nhân nay Thế Tôn đang diễn kinh Chánh Pháp Hoa, cho nên chúng con đến thế giới nhẫn này muốn được nghe và thọ trì, cùng vô số trăm ngàn các Bồ-tát cũng ưa nghe diễn bày đạo nghĩa. Hay thay, Thế Tôn! Cúi xin thương xót, đúng thời ban nói tuyên giảng kinh Chánh Pháp Hoa. Nếu là thân người nữ, tu hành pháp gì mà được phụng trì kinh này.
Phật liền bảo Bồ-tát Phổ Hiền:
– Này Tộc tánh tử! Người nữ có bốn Pháp sự nên được kinh này. Những gì là bốn?
1. Thường kiến lập, hộ trì sở kiến của chư Phật.
2. Tích lũy công đức, chẳng hề biếng trễ.
3. Có thể phân biệt giảng hóa chỗ quy tụ những điều cốt yếu một cách rốt ráo.
4. Ủng hộ khắp chúng sinh phát khởi điều chưa phát khởi.
Đó là bốn điều để được kinh này.
Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật:
– Sau này vào thời kỳ cuối của đời mạt pháp năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, con sẽ luôn ủng hộ khiến vị ấy được an ổn, trừ các cuồng loạn, các độc không hoành hành, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở. Có người thọ kinh này đều được hộ vệ, khiến ma Ba-tuần không thể nhiễu loạn và khiến các thuộc hạ, các quỷ, thần, rồng, quỷ bên song, quỷ chuồng xí, trùng độc, phù chú không hoành hành được, cúi mình lánh đi; thường nhất tâm ủng hộ Pháp sư, khiến luôn an ổn. Nếu có Tỳ-kheo học kinh điển này, ngồi, đứng, kinh hành, tinh tấn tu tập, con sẽ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, cỡi voi ngựa, xe cộ cùng đi đến chỗ vị Tỳ-kheo Pháp sư ấy để hộ trì kinh này. Người nào thọ trì tư duy kinh Chánh Pháp Hoa này, khiến không quên mất ý nghĩa một câu thì con sẽ cỡi xe đến chỗ vị học sĩ ấy, để vị ấy tự mắt trông thấy. Vì người học kinh thấy con sẽ vui mừng lại càng siêng học. Con sẽ giúp Pháp sư đạt được Tam-muội, lại đạt được pháp Tổng trì hồi chuyển, lại sẽ thành tựu bao nhiêu trăm ngàn ức Tổng trì châu toàn, hiểu rõ tất cả âm Tổng trì.
Kính bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ sau cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược trên năm mươi năm, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ thọ kinh điển này, chỉ nói cho đồng học thọ trì, sao chép, mến mộ, vì người khác nói và vào thời sau cùng của đời mạt pháp hơn năm mươi năm nếu ai có thể thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa này mà tâm vẫn hiểu nghĩa, tinh tấn không bỏ phế, đến hai mươi mốt ngày sự tu hành gần đầy đủ, đạt đến các hạnh; trong hai mươi mốt ngày chuyên cần, tâm gắn liền với pháp, tự hiện đức sáng rỡ khả kính thì con cùng với các quyến thuộc lớn, nhỏ tùy tùng nương sáu thần thông hiện đến chỗ Pháp sư khuyến trợ Pháp sư trong hai mươi mốt ngày chuyên tu pháp này, khiến tâm vị ấy khai mở, đạt được pháp tổng trì. Nhưng nếu Phá p sư không giáo hóa chúng sinh, hoặc không khuyến trợ, chẳng khai hóa, phi nhân được thuận tiện thì dù là Pháp sư cũng không được ủng hộ, không đạt an ổn. Vì vậy người học thường hành tinh tấn, con nương oai thần Phật hộ vệ Pháp sư. Nếu có Pháp sư giữ gìn chánh pháp của Phật siêng năng tinh tấn thì nên nghe Tổng trì này: “Vô ngã trừ ngã. Nhân ngã phương tiện. Tân nhân hòa trừ. Rất nhu nhuyễn. Câu nhu nhược thấy chư Phật. Nhân các Tổng trì thực hành các thuyết. Khéo hồi chuyển, tập họp tất cả trừ các thú. Vô số các câu các số trong ba đời, vượt hữu vi, nêu các pháp hiểu rõ tiếng chúng sinh. Sư tử vui thú.”
Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu Tổng trì. Nếu có Bồ-tát tai nghe câu Tổng trì này, lọt vào tai thì phải biết ấy là chỗ kiến lập công đức của Bồ-tát Phổ Hiền là kinh Chánh Pháp Hoa nầy. Nếu lưu bố khắp thiên hạ trong cõi Diêm-phù-lợi gặp kinh này mà tâm thường nhớ nghĩ, thì phải biết đó là do oai thần của Bồ-tát Phổ Hiền, khiến cho mọi người đến với kinh này. Những chúng sinh ấy ở chỗ vô số Đức Phật chứa các cội đức, Như Lai Chí Chân dùng tay xoa đầu. Nếu có người sao chép, bưng trên tay thì đó là tôn thờ thân Phật, kính mến đạo pháp, kính chép kinh này. Sao chép kinh rồi muốn hiểu nghĩa lý thì khi mạng chung được sinh lên cõi trời Đao-lợi; vừa sinh lên cõi trời, liền có tám vạn bốn ngàn vương nữ cõi trời đánh đàn, ca tụng cúng dường và được làm Thiên tử, ngồi giữa vương nữ cùng chung vui. Nếu Tộc tánh tử chỉ sao chép kinh ấy mà công đức như thế, huống là tụng đọc tư duy ý nghĩa trong đó. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Người nào nhất tâm siêng tu kinh Chánh Pháp Hoa, sao chép, thọ trì kinh quyển, thường tư duy tất cả chẳng quên, thì nên lễ bái người ấy, vì sao chép kinh này nên được phước đức ấy, sẽ được thấy ngàn Đức Phật đưa tay, khi lâm chung cũng được diện kiến ngàn Đức Phật, dạo chơi chốn an lành, không đọa cõi ác. Sau khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Đâu-suất.
Vừa sinh lên trời, có tám vạn bốn ngàn chúng ngọc nữ đến nơi, trổi các kỹ nhạc ca tụng phước đức, ở bên ngọc nữ cùng vui bằng chánh pháp; vị Tộc tánh tử ấy sao chép kinh này công đức còn như thế, huống là tụng đọc, tuyên thuyết, tư duy ý nghĩa. Vì vậy, siêng năng tu tập đầy đủ, sao chép, tuyên truyền, tư duy phụng hành kinh Chánh Pháp Hoa chuyên cần nhất tâm, chí chưa từng loạn, vào lúc lâm chung, ngàn Phật đưa tay, diện kiến ngàn Phật, chẳng đọa cõi ác. Vào lúc mạng chung sẽ sinh đến cõi trời Đâu-suất ở chỗ Phật Di-lặc, thành Bồ-tát, có ba mươi hai tướng trang nghiêm thân, ức ngàn ngọc nữ quyến thuộc vây quanh. Vì vậy kẻ trí thường nên siêng tu, sao chép, diễn nói, tư duy kinh điển này.
Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người sao chép, tư duy, tụng đọc kinh này thì phước đức vô lượng, chẳng thể đo lường, cao vời như thế. Vì vậy người trí sao chép, thọ trì kinh này sẽ đạt được biết bao công đức. Vì thế, con kiến lập kinh này với dụng ý rộng lớn của con là siêng niệm đạo pháp lưu bố khắp nơi trong cõi Diêm-phù-lợi.
Bấy giờ Đức Như Lai Năng Nhân Chí Chân bảo Phổ Hiền:
– Hay thay, hay thay! Ông đã phát tâm thương tưởng đến nhiều chứng sinh, tinh tấn siêng năng hộ trì Bồ-tát ở tương lai, khuyến dẫn họ pháp chẳng nghĩ chẳng bàn này, tâm sẵn lòng thương bao la, trong khoảng phát tâm thâu nhiếp vô lượng hạnh; tay cầm quyển kinh, kiến lập ủng hộ. Nếu có người thọ trì, niệm danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền thì nên biết, người ấy thấy Đức Phật Năng Nhân, trước đó đã từng nghe pháp giống như vậy, cúng dường phụng sự, thấy Phật Năng Nhân tuyên giảng kinh đạo, khen rằng “Hay thay!” và được Như Lai xoa đầu thì nên biế là công đức của Phổ Hiền. Người ấy được oai lực của Phật hộ trì; Phật dùng y phục che chở cho; người đó thọ nhận lời dạy của Như Lai, chẳng ưa sự nghiệp thế tục, chẳng ưa chơi đùa, cùng bọn ton hót, chẳng thích ca vũ, chẳng đi ra ngoài, chẳng vào chỗ sát sinh, nuôi heo gà vịt, chẳng theo nữ nhân làm việc tà quấy. Nếu nghe kinh này mà sao chép, thọ trì, phúng tụng, tuyên thuyết, tư duy, phụng hành pháp tự nhiên như thế, bên trong tinh chuyên, tự khởi phước lực thì tất cả chúng sinh nếu thấy cũng đều ái kính.
Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì chẳng bị dâm, nộ, si trói buộc, chẳng bị tham lam, tật đố, tự đại buộc ràng, chẳng ôm long kiêu mạn, ương bướng tự chuyên, ương ngạnh, tà kiến, tư lợi, mà tự biết đủ. Nếu có Pháp sư tu hành đạt đến bậc hiền và hơn năm mươi năm, vào khoảng cuối cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, tư duy, hiểu nhớ thì nên biết các Tộc tánh tử ấy chắc chắn đến đạo tràng hàng phục ma quân, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi loa pháp, tuôn mưa pháp, ngồi trên pháp tòa Sư tử. Vào thời kỳ cuối cùng của thời mạt thế, thọ trì kinh này, công đức như thế.
Lại nữa, Tỳ-kheo chẳng dựa vào lợi dưỡng, chẳng tham y bát, thì những Pháp sư ấy tâm tánh chất trực, không dua nịnh, chẳng rơi vào si ám; hiện tại những vị ấy tự nhiên như thế. Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, đời đời chẳng quên, sinh ra thông minh trí tuệ, chưa từng bị đui điếc, hiện tại an ổn, không có hoạn nạn. Nếu hủy bang kinh này, chê bai người học, thọ trì, lại còn phỉ báng thì người ấy hiện tại bị bệnh hủi, thấy người sao chép kinh này, chẳng phải là việc mình có thể làm, mà đùa cợt thì khi sinh ra ở chỗ nào, thân thể cũng khuyết tật, bị lửa thiêu đốt, thường bị tranh tụng, mặt mũi sinh ghẻ lở, chân tay cong queo, miệng mắt chẳng ngay thẳng, thân thể hôi hám, sinh ghẻ lở, thuốc men chẳng lành, khốn khổ khó nói. Nếu nói kinh này mà có người nghe thấy lại nói lỗi người nói thì tăng thêm ác bất thiện, điều nói ra không phải là lời thành thật, tin theo thì phạm tội ác, bị tai ương vô lượng, chỗ ở bất an.
Phật dạy:
– Vì vậy, này Phổ Hiền! Nếu thấy Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì từ xa đứng lên cung kính nghênh đón, phụng sự như phụng sự Như Lai. Quy mạng Phật hiện tại thế nào thì quy mạng Pháp sư ấy cũng như vậy không khác, mới đúng với lời Phật dạy.
Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền này, có hằng hà sa số ức trăm ngàn vạn các chúng Bồ-tát đều chửng đắc Tổng trì.
***
Phẩm 27: CHÚC LỤY
Bấy giờ Thế Tôn Năng Nhân từ pháp tòa đứng dậy, biến chư Bồ-tát cùng một sắc tướng và thị hiện thần túc nhấc toàn đại hội đặt trên bàn tay phải, tán thán:
– Này các Tộc tánh tử! Phật từ vô số ức trăm ngàn kiếp chẳng thể tính kể, tích lũy tu hành mới thành đạo Vô thượng chánh chân, đã đạt đến vô cực nên đặt chư Hiền yên trên bàn tay phải, giở lên và hạ xuống chỉ do nghĩ biết. Chư vị phải nhận lãnh kinh này, thọ trì, phúng tụng, tuyên đọc, nên vì chúng hội phân biệt diễn thuyết, khiến cho khắp quần sinh được nghe thấy.
Lại nữa, Tộc tánh tử! Tâm không chấp trước, không được giấu giếm kinh Chánh Pháp Hoa này, ý chí không sợ hãi, bố thí trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự tại, đó là pháp thí giải thoát tối thượng. Nên họe hạnh Phật, nên khiến cho mọi người được nghe dù tới hay chẳng tới đều đến được chỗ chẳng đến, nên siêng năng nghe thọ kinh điển quan trọng này; đối với người chẳng tin, nên khiến cho tin; nên khuyên quần sinh thâm nhập tôn pháp. Này các Tộc tánh tử! Người có thể làm như vậy thì nê n biết, đó là sự kiến lập của Như Lai.
Khi ấy các Bồ-tát được Thế Tôn Năng Nhân khen ngợi đều vui mừng hớn hở, càng thêm kính trọng, cúi mình đứng một bên; chắp tay cúi đầu đảnh lễ, hướng về Đức Phật Năng Nhân đồng thanh thưa:
– Xin làm theo lời dạy của Thế Tôn, không dám trái nghịch, thuận theo điều Phật đã nói một cách đầy đủ. Xin Thế Tôn chớ lo nghĩ.
Các Bồ-tát thưa bạch ba lần như vậy, rồi đi đến khắp nơi trong mười phương ban tuyên Thánh chỉ.
Bấy giờ Đức Năng Nhân Chánh giác khiến tất cả chư Thế Tôn từ mười phương thế giới đến, đều tùy nghi trở về chỗ cũ. Khi ấy mười phương Phật đều đáp:
– Như Lai cũng nên tùy nghi trở về chốn cũ. Đức Thế Tôn Như Lai Chánh Giác Đa Bảo ở trong giảng đường của tháp bảy báu liền trở về chỗ cũ. Các Đức Như Lai cũng đều về chỗ cũ.
Khi Phật thuyết kinh này, chư Phật ở vô lượng cõi Phật khác trong mười phương đến đây, ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây Bồ-đề, Như Lai Đa Bảo và các Bồ-tát, các vị học hạnh khác đang ở trước Phật vô số vô lượng chẳng thể tính kể, cùng với các Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, và chúng đại Thanh văn, bốn bộ chúng, các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Nhân dân ở thế gian nghe lời Phật dạy, ai cũng hoan hỷ.