Kinh Hoa Chánh Pháp

Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch

Bản Việt dịch của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

***

Phẩm 1: Ánh Sáng Điềm Lành Phẩm 2: Thiện Quyền
Phẩm 3: Ứng Thời Phẩm 4: Tin Ưa
Phẩm 5: Cây Thuốc Phẩm 6: Thọ Ký Cho Hàng Thanh Văn
Phẩm 7: Vãng Cổ Phẩm 8: Thọ Ký Năm Trăm Đệ Tử
Phẩm 9: Thọ Ký Cho A Nan Và La Vân Phẩm 10: Dược Vương Như Lai
Phẩm 11: Tháp Bảy Báu Phẩm 12: Khuyến Thuyết
Phẩm 13: An Lạc Hạnh Phẩm 14: Bồ Tát Từ Đất Vọt Lên
Phẩm 15: Như Lai Hiện Thọ Phẩm 16: Ngự Phước Sự
Phẩm 17: Khuyến Trợ Phẩm 18: Khen Pháp Sư
Phẩm 19: Thường Bị Khinh Mạn Phẩm 20: Như Lai Thần Túc Hạnh
Phẩm 21: Bồ Tát Dược Vương Phẩm 22: Bồ Tát Diệu Hống
Phẩm 23: Quang Thế Âm Phổ Môn Phẩm 24: Tổng Trì
Phẩm 25: Tịnh Phục Tịnh Vương Phẩm 26: Phổ Hiền
Phẩm 27: Chúc Lụy  

Phẩm l: ÁNH SÁNG ĐIỀM LÀNH

Nghe như vầy:

Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, núi Linh Thứu, cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm vị. Các ngài đều là những bậc không còn vướng mắc, phiền não đã dứt sạch, không còn dục trần, hoàn toàn tự tại, việc lợi mình đã xong, đã chấm dứt sinh tử, đoạn hẳn sự ràng buộc ở đời, vượt qua tất cả, đạt đến giải thoát, chứng đắc hoàn toàn tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

Tên các vị ấy là Tôn giả Tri Bản Tế, Tôn giả Đại Ca-diếp, Tôn giả Thượng Thời Ca-diếp, Tôn giả Tượng Ca-diếp, Tôn giả Hồng Ca-diếp, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, Tôn giả Ca-chiên-diên, Tôn giả A-na-luật, Tôn giả Kiếp-tân-na, Tôn giả Ngưu Từ, Tôn giả Ly Việt, Tôn giả Thí Lợi Tư, Tôn giả Bạc-câu-lô, Tôn giả Câu-hy, Tôn giả Nan-đà, Tôn giả Thiện Ý, Tôn giả Mãn Nguyện Tử, Tôn giả Tu-bồ-đề, Tôn giả A-nan, Tôn giả La-vân…

Tám mươi ngàn vị Bồ-tát toàn là những bậc không thoái chuyển, vững tin nơi đạo Vô thượng chánh chân, được các pháp Tổng trì, được các tài hùng biện, thường khen ngợi việc chuyển vận bánh xe pháp không lui sụt, cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật. Các vị Bồ-tát này đã gieo trồng công đức với vô lượng Đức Phật, thường được chư Phật tán dương.

Các vị thường hành Từ bi, thể nhập trí tuệ Như Lai, khéo quyền biến, trí tuệ thông suốt đạt đến vô cực, từ vô số kiếp học rộng nghe nhiều, danh tiếng vang khắp mười phương, cứu giúp vô lượng trăm ngàn chúng sinh, du hóa trong ba cõi giống như ánh sáng mặt trời chiếu rọi, biết rõ tất cả pháp như huyễn, như hóa, như ngựa hoang, như bóng nắng, như tiếng vang nên không trụ tâm, cũng không có tâm sở hữu với chúng. Tuy hiện có thân thể bắt đầu và kết thúc nhưng không đến không đi; hiện có sắc tướng nhưng vốn không có hình tướng; hiện có sinh nhưng vĩnh viễn không khởi diệt.

Các ví dẫn dắt và làm lợi ích cho mọi người mà không đắm say ba cõi, phân biệt tuệ Không, Vô tướng, Vô nguyện, vượt khỏi ba pháp môn giải thoát, đạt đến tam đạt trí, niệm tưởng trong hiện tại không đến cũng không đi, chỉ bày cho tất cả mọi người hiểu rõ pháp vốn không.

Tên của các vị ấy là Bồ-tát Bạc Thủ, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Ấn Thủ, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Bảo Nguyệt, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nguyệt Mãn, Bồ-tát Đại Độ, Bồ-tát Siêu Vô Lượng, Bồ-tát Việt Thế, Bồ-tát Giải Phược, Bồ-tát Bảo Sự, Bồ-tát Ân Thí, Bồ-tát Hùng Thí, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Đế Thiên, Bồ-tát Đại Đạo Sư, Bồ-tát Diệu Ý, Bồ-tát Từ Thị… có tám mươi ngàn vị Đại sĩ Bồ-tát Thượng thủ như thế.

Lúc ấy có trời Đế Thích cùng hai mươi ngàn Thiên tử; Nhật Thiên tử cùng vô số quyến thuộc; Nguyệt Thiên tử dùng ánh sáng quý chiếu sáng khắp nơi; Bảo Quang Thiên tử, Quang Diệu Thiên tử, Tứ đại Thiên vương cùng mười ngàn Thiên tử; Diễm Minh Đại phạm Tự tại Thiên tử cùng ba mươi ngàn Thiên tử; Phạm Nhẫn Tích Thiên tử cùng ba mươi hai ngàn Thiên tử; Sức Càn Đại Phạm cùng vô số Thiên tử; lại có Phạm thiên Diễm Quang cùng vô số đại chúng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Có tám vị Long vương cùng trăm ngàn vô số quyến thuộc, bốn vị Chân-đà-la vương gồm Thuận Pháp Chân-đà-la vương, Đại Pháp Chân-đà-la vương, Nhân Hòa Chân-đà-la vương, Trì Pháp Chân-đà-la vương và thần Hương Âm, mỗi vị đều có chúng đi theo cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Bốn vị Tịnh thân Thiên tử gồm Nhu Nhuyễn Thiên tử, Hòa Âm Thiên tử, Mỹ Nhuyễn Thiên tử, Duyệt Hưởng Thiên tử cũng cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Bốn vị A-tu-la vương gồm Tối Thắng A-tu-la, Dục Cẩm A-tu-la, Yến Cư A-tu-la, Hấp Khí A-tu-la cùng vô số trăm ngàn A-tu-la cũng đều đến chỗ Phật, đánh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Bốn vị Kim sĩ điểu vương gồm Đại Thân vương, Đại Cụ Túc vương, Đắc Thần Túc vương, Bất Khả Động vương cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Quốc vương nước Ma-kiệt là A-xà-thế cùng mười người con và vô số tùy tùng cũng đến chỗ Phật, đảnh lễ xong rồi ngồi sang một bên.

Các chúng Trời, Rồng, Thần, nhân dân… đều cung kính quy mạng ngồi hầu bên Thế Tôn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn thuyết kinh cho bốn bộ chúng và hang quyến thuộc của họ đang vây quanh. Ngài giảng giải cho các vị Bồ-tát kinh Đại thừa Phương đẳng, được truyền thừa bởi các nghiệp thanh tịnh của chư Phật. Nói kinh ấy xong, Đức Thế Tôn lên tòa Sư tử ngồi kiết già an nhiên nhập thiền định chánh thọ, tên là Lập vô lượng tụng, thân và tâm đều không lay động. Nơi Đức Phật an tọa liền hiện ra điềm lành, trời mưa các loại hoa Ý, hoa Đại ý, hoa Nhu nhuyễn âm, hoa Đại nhu nhuyễn âm… rải trên Đức Thế Tôn và bốn bộ chúng trong đại hội, khắp cõi Phật chấn động sáu cách.

Lúc ấy đại chúng hội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, các vị Quốc vương và Chuyển luân thánh vương… tất cả đều nhất tâm chiêm ngưỡng Thế Tôn, thân tâm hoan hỷ và ngạc nhiên trước sự kiện chưa từng có này.

Khi đó, Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai hàng lông mày, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, ánh sáng ấy chiếu khắp các cõi Phật, không có nơi nào mà không chiếu đến, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Ba mươi ba, làm cho tất cả chúng hội ở thế giới kia thấy hết chúng sinh trong sáu loài và chư Phật hiện tại của thế giới này.

Hội chúng ở thế giới này, đều thấy suốt mọi chúng sinh nơi thế giới kia cũng như vậy. Họ nghe chư Phật trong mười phương đang nói kính pháp và thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di… một mình ở nơi thanh vắng tu hành, thành tựu đạo quả, lại thấy các vị Bồ-tát tâm tịch tĩnh giải thoát xuất gia mong cầu giác ngộ. Lại thấy chư Phật ở các thế giới diệt độ, các Thánh đệ tử xây dựng bảo tháp để tôn thờ.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc suy nghĩ: “Hôm nay Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nhập Tam-muội chánh thọ, hiện ra cảnh thần biến, khiến cho nhiều người trong hội chúng được thấy việc chưa từng có. Trên trời, nhân gian, các nơi tôn thờ chư Phật đều hiện ra rất rõ ràng. Thế Tôn sắp làm việc gì mà hiện điềm lành này, từ xưa đến nay chưa từng thấy. Ta nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp được nghi vấn này?”

Đức Di-lặc lại suy nghĩ: “Bồ-tát Bạc Thủ các việc đã làm xong, thông đạt tất cả các pháp, cúng dường vô số chư Phật thời quá khứ, đã từng thân cận Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Hôm nay những hiện tượng tốt đẹp hy hữu này ta nên hỏi ngài.”

Khi ấy cả bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Ma-hưu-lặc…, tất cả đều mang tâm trạng phân vân chưa từng có khi thấy cảnh biến hóa do ánh sáng thần túc muôn màu rực rỡ của Bậc Đại Thánh, người nào cũng có ý muốn thỉnh hỏi Đức Thế Tôn để giải tỏa lưới nghi ngờ.

Đức Di-lặc xét tâm tư của hội chúng nên hỏi Bồ-tát Bạc Thủ:

– Thưa Nhân giả! Hôm nay vì lý do gì mà có điềm lành ấy; Đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, làm cho cả hội chúng đều thấy, nghe được chư Phật thế giới đang thuyết kinh pháp?

Đức Di-lặc dùng kệ hỏi Bồ-tát Văn-thù:

Bồ-tát Văn-thù,

Nay vì duyên gì

Vị Thầy dẫn đạo

Phóng ánh sáng lớn

Muôn màu rực rỡ

Hiện giữa đôi mày

Tướng thần biến chiếu

Soi khắp mười phương

Trời mưa các hoa

Rơi đầy khắp chốn

Hoa Ý, Đại ý

Hoa Nhu nhuyễn âm

Vô số chủng loại

Màu sắc diệu kỳ

Chiên-đàn thơm ngát

Đẹp ý muôn loài

Khắp cả các nơi

Nghiêm tịnh vời vợi

Hôm nay bốn chúng

Vui mừng hân hoan

Cõi Phật nơi đây

Mười phương thế giới

Đều chấn động lên

Đủ cả sáu cách

Ánh quang minh ấy

Chiếu khắp phương Đông

Mười tám ngàn cõi

Xuyên suốt rạng ngời

Thế giới chư Phật

Màu sắc óng vàng

Huy hoàng chói lọi

Tỏa chiếu khắp nơi

Muôn loài khắp chốn

Tất cơ nhờ ân

Trên đến Sắc giới

Vào ngục A-tỳ

Các loài chúng sinh

Vì duyên vô minh

Đắm chìm sa đọa

Luân chuyển sáu đường

Người chúng hội này

Thấy được nhân duyên

Luân hồi các nẻo

Nay hiện nghiêm tịnh

Hiền minh, hung dữ

Ở giữa các loài

Tôi ở nơi đây

Đều thấy rõ cả.

Lại thấy chư Phật

Cất tiếng oai hùng

Diễn thuyết kinh pháp

Mở bày pháp môn

Trừ vô lượng ác

Cho các chúng sinh

Ca tụng Thánh giáo

Bằng lời dịu êm

Thanh âm thâm diệu

Khiến người vui mừng

Tất cả tự rời

Cảnh giới đã có.

Giảng thuyết thí dụ

Vận dụng vô số

Phân biệt rõ ràng

Đối với pháp Phật.

Tất cả chúng sinh

Tạo bao khổ họa

Phương tiện quyền xảo

Trị già, bệnh, chết

Vì chúng muôn loài

Thuyết pháp tịch diệt.

Tỳ-kheo nên biết,

Mọi người nơi đây

Khốn đốn bần cùng

An hòa khoái lạc

Tích lũy công đức

Mới gặp Thánh tôn

Chí cầu đạt được

Duyên giác, Nhất thừa.

Khiến cho tất cả

Với đạo nghiệp này

Thấy Phật thù thắng

Và các sách kinh

Hoặc có chí cầu

Trí tuệ vô thượng

Tất cả thế gian

Thấy bao nhiêu hình

Muôn loài chúng sinh

Ca ngợi Phật đức.

Nhân giả Văn-thù,

Những điều đã nói

Tôi nêu ra đây

Nay đều nghe, thấy

Ngoài ra vô số

Ngàn muôn ức chúng

Qua lại nơi kia

Tôi đều thấy rõ.

Lại thấy cõi Phật

Không thể tính đếm

Và các Bồ-tát

Như cát sông Hằng,

Số ngàn trăm ức

Không hề suy giảm

Lập chí tinh tấn

Phát triển đạo tâm.

Có người phóng xả

Của cải tài sản,

Hành hạnh bố thí

Vàng bạc châu báu,

Ngọc quý ma-ni

Xa cừ, mã não

Tôi tớ ngựa xe

Giường tòa, ghế đẩu

Các vật vô giá

Chuỗi ngọc san hô

Đầy đủ các thứ

Đều đem ban cho

Và để khuyến khích

Phật đạo tối thượng.

Tôi và các loài

Nghe âm thanh ấy

An trụ tán dương

Xe lớn Chánh giác

Dạo khắp ba cõi

Mà không ngăn ngại.

Người người mau chóng

Đạt được nguyện tâm,

Hoặc đem các xe

Mang ra bố thí

Các hoa, kỹ nhạc

Lan can trang nghiêm

Ống tiêu, đàn sáo

Âm tiết vui hay

Bốn việc như thế

Hoan hỷ ban cho.

Làm bố thí này

Tâm không bỏn sẻn

Thê thiếp, cháu con

Xe chở, xe kéo

Hoặc chí phi thường

Cho tay, chân, mạng

Lòng không luyến tiếc

Đều đem bố thí

Quyết chí mong cầu

Phật đạo Vô thượng.

Bố thí xả thân

Đem cho tất cả

Đầu mắt, phần thân

Không chút thương tiếc,

Mục đích bố thí

Mong thành Phật đạo

Chí nguyện thành tựu

Tuệ giác Như Lai

Bồ-tát Văn-thù,

Tôi thấy vua chúa

Cùng các quyến thuộc

Ra đi xuất gia

Hậu phi trong cung

Quý nhân, thể nữ

Dòng dõi an hòa

Cùng đến lễ Phật.

Họ hàng thân hữu

Đều đến Đạo Sư

Thỉnh vấn kinh điển

Với Đấng Pháp Vương,

Bỏ y phục đời

Cạo sạch râu tóc

Khoác áo ca-sa

Dùng làm pháp phục.

Tôi thấy số đông

Các chúng Bồ-tát

Hiện làm Tỳ-kheo

Dừng chân đỉnh núi

Thanh vắng độc cư,

Thông suốt nghĩa Không

Có vi trì kinh

Đọc tụng tán thán.

Tôi lại trông thấy

Các chúng Bồ-tát

Tinh tấn dũng mãnh

Vào chốn núi sâu.

Tư duy chuyên nhất

Quán sát các tướng

Giảng thuyết phân biệt

Giải minh Phật thừa

Trừ bỏ ái dục

Vĩnh viễn không còn

Thường tự tu tập

Mong cầu chánh hạnh,

An trụ nơi đây

Không rời nhàn xứ

Khiến cho thành tựu

Được năm thần thông.

Lại thấy Bồ-tát

Chí khí vững vàng

Hướng về chư Phật

Chắp tay cung kính.

Tâm luôn hoan hỷ

Ca ngợi Phật đức

Dùng muôn ngàn kệ

Tán thán Pháp vương.

Lòng không sợ sệt

Dũng chí điều hòa

Rõ ràng phân biệt

Sự nghiệp xuất gia

Thưa hỏi giáo pháp

Đấng Lưỡng Túc Tôn

Nghe rồi tiếp nhận

Ghi nhớ giữ gìn,

Trước tự tu tập

Sau dạy mọi người.

Nay tôi lại thấy

Đệ tử chư Phật

Vì khắp mọi loài

Giảng pháp vi diệu,

Hiện kết quả lành

Đông vô số lẻ

Tâm tư hoan hỷ

Quy y Chánh pháp

Khuyến tấn khai hóa

Vô số Bồ-tát

Chiến thắng các ma

Và quyến thuộc chủng

Trổi rền vang lên

Tiếng trống Chánh pháp

Lời Bậc Thiện Thệ.

Tôi nay lại thấy

Chư Thiên. Thần, Nhân

Hết lòng tôn phụng

An trụ nơi kìa,

Tâm không ỷ lại

Càng thêm lặng không

Thiền định kinh hành

Không có chấp trước

Giống như Sư tử

Hóa độ chúng sinh

Khiến phát đạo tâm

Chúng sinh ở đây

Chắp ấy cúng dường

Tâm thường vui vẻ

Vân tập tự tại,

Lại thấy Phật tử

Sống đời tinh tấn

Xả bỏ dục trần

Thường được an nhàn,

Bền chí kinh hành

Giữa rừng vắng vẻ

Tâm nguyện tiến tu

Siêng cầu Phật đạo.

Phòng hộ thân, khẩu

Thường hành thanh tịnh,

An trụ giới pháp

Không sợ sinh tử,

Chủ động tự tâm

Các hạnh đủ đầy

Vì giới cấm này

Thức tỉnh bất giác

Con Đấng Tối Thắng

Trụ vào sức nhẫn

Vì kẻ cống cao

Hạ thân khiêm nhường

Hoặc người đánh đập

Mắng chửi khinh khi

Vì cầu tuệ giác

Lặng im không tranh

Tôi nay lại thấy

Các chúng Bồ-tát

Từ bỏ tất cả

Trò chơi ca nhạc

Cùng các thế lực

Bà con bạn bè

Giữ tâm kiên cố

Lặng như hư không

Trừ bỏ cấu uế

Rối loạn thân tâm

Chuyên nhất tâm ý

Dứt hẳn ấm cái

Thiền định tư duy

Trăm ngàn ức năm

Lập chí bố thí

Để cầu Phật đạo

Hoặc tự lìa xa

Chỗ nhiều lợi dưỡng

Trừ bỏ tham ganh

Không còn nhớ nghĩ

Cúng dường ẩm thực

Cung cấp đầy đủ

Cho vô số người

Y dược trị bệnh

Hiến dâng tất cả

Y phục tốt đẹp

Đều đem cúng dường

Không có chứa để

Nhiều đến vô số

Cúng Phật, Pháp, Tăng.

Trên đó hóa làm

Trăm ngàn muôn ức

Vật báu trân kỳ

Gỗ thơm Chiên-đàn

Có nhiều sàng tọa

Ngọc sáng kho tàng

Hiện ra trước mắt

Giá trị ngọc đó

Thật là vô lượng

Đều đem hiến cúng.

Lại thấy vườn rừng

Cây lá quả hoa

Sum suê tươi tốt

Đẹp lòng mọi người

Sớm tối tu hành

Đều đem hiến cúng.

Dâng lên chư Phật

Và các Thanh văn

Để tăng trưởng tuệ

Phẩm vật như thế

Đủ đầy bao thứ

Hân hoan cúng dường

Tự tâm yêu thích

Mà lập đạo hạnh,

Bố thí như vậy

Nguyện cầu tuệ giác.

Hoặc thấy có người

Tuyệt đối vắng lặng

Xét các báo ứng

Nhiều muôn ức triệu

Huấn dụ vô số

Khiến họ ăn năn

Để xả các báu

Chí cầu Phật đạo

Quán xét rõ ràng

Không bỏn sẻn pháp

Thành tựu tam sự [1]

Lặng như hư không

Lại thấy con Phật

Tâm vô sở trước

Trí tuệ bình đẳng

Âm thanh từ ái

Cầu đạo Vô thượng.

Tôi nay lại thấy

Chư Phật nhập diệt

An trụ khai hóa

Nơi chỗ hiện tại

Chúng Đại Bồ-tát

Cung kính phụng thờ

Xá-lợi tối thắng

Không thể tính đếm.

Lại thấy chùa Phật

Vô số ức ngàn

Như cát sông Hằng

Trong vô số cõi

Nguy nga tráng lệ

Các vật hóa hiện

Tối thắng vô cùng.

Bảy báu tự nhiên

Hiện ra thanh tịnh

Đầy đủ hết thảy

Hai mươi lăm vạn

Cờ phướn, lọng che

Mỗi thứ cả ngàn

Chu vi rộng khắp

Đều hai ngàn dặm

Lọng kia tốt đẹp

Tuyệt hảo trang nghiêm

Tỏa các mùi hương

Châu báu tư hiện

Muôn hoa thơm ngát

Kỹ nhạc hòa vang

La-sát Quỷ thần

Cung kính Thế Tôn

Phật tử chánh tín

Tha thiết biết bao

Dùng để cúng dường

Xá-lợi của Phật

Những ngôi chùa tháp

Tráng lệ nguy nga

Rải khắp hương hoa

Như cây Chú-đạt

Mọi người tại đây

Vô số ức ngàn

Đều trông thấy cả

Muôn màu muôn vẻ

Vô cùng kinh ngạc

Lan khắp mọi người

Muốn thấy tối thượng

Phóng ánh quang minh

Hiếm có cõi nguời

Ánh sáng bao trùm

Diệu kỳ sáng thế

Ly cấu vô lậu

Năng lực hiển bày

Huy hoàng như đây

Thị hiện cõi Phật

Vô số muôn ngàn

Điềm lành hôm nay

Chưa bao giờ có

Đủ loại như vậy

Biến hóa vô cùng,

Xin ngài Văn-thù

Giải thích đầy đủ

Tôi nay muốn nghe

Và các Phật tử

Trong bốn bộ chúng

Thâm tâm vui mừng

Mong chờ Nhân giả

Và nhìn vào tôi

Hôm nay nơi đây

Vì nguyên do gì

Phật phóng ánh sáng

Từ đôi chân mày?

Giải tỏa nghi ngờ

Cho họ hoan hỷ.

Vì sao Phật hiện

Ánh quang vô lượng

Biến hóa như thế?

Hẳn có cảm ứng

Chúng hội nơi đây

Mong vì giải nói

Chánh pháp vi diệu

Đại Thánh chứng ngộ

Nơi chốn đạo tràng

Diễn bày Chánh pháp

Đạo Sư tối thượng

Do vì duyên gì?

Nguyện vì phân biệt

Các Bồ-tát đây

Vô số trăm ngàn

Và các chúng khác

Muốn thấy cõi Phật

Châu báu tịnh nghiêm

Chư Phật tự hiện

Mắt sáng vô lượng

Các chúng mới học

Đều không do dự

Con Đấng Tối Thắng

Cùng nhau thưa hỏi

Vui lòng mọi người

Thiên thần, La -sát

Bốn bộ chúng đây

Tất cả ngưỡng trông

Bồ-tát Văn-thù

Cúi xin nói rõ.

Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù nói với ngài Di-lặc và các vị Đại sĩ trong hội chúng cùng các thiện nam, tín nữ:

– Theo tôi suy xét thì nay Đức Như Lai sắp giảng nói chánh pháp vĩ đại, rưới cơn mưa pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại giảng pháp vô lượng. Trong vô lượng kiếp ở quá khứ khi tôi theo hầu chư Phật cũng đã thấy điềm lành này. Các Đức Như Lai cũng phóng ra ánh sáng như thế để báo trước sẽ giảng nói chánh pháp vĩ đại. Do đó, các vị nên biết, chư Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, vì muốn cho chúng sinh được nghe chánh pháp vĩ đại, nên hiện ra điềm lành này. Vì sao? Vì Đức Thế Tôn muốn làm cho khắp cả mọi loài tẩy sạch nhơ nhớp trần tục, tin hiểu Phật pháp nên mới hiển bày sức thần thông lớn, hiện tướng ánh sáng rộng lớn này.

Tôi nhớ trong vô lượng kiếp lâu xa không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm được. Lúc ấy có Đức Như Lai hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật giảng thuyết kinh pháp, ban đầu, giữa và sau đều thiện, đều phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh cứu cánh thanh tịnh. Đức Phật vì hàng Thanh văn mà giảng rõ về bốn thánh đế, để họ vượt qua các tai họa sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, được vào vô vi Niết-bàn. Đức Phật vì chúng Đại sĩ Bồ-tát nêu rõ, phân biệt sáu pháp Ba-la-mật, làm cho họ được Tuệ giác vô thượng.

Này các thiện nam! Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh diệt độ, lại có Đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Sau khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh này diệt độ, lại có Đức Phật cũng mang hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy, có tám mươi Đức Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều cùng một họ. Tính ra như vậy có đến hai vạn Đức Như Lai, lời chư Phật dạy đều là tối thượng. Hai vạn Đức Như Lai ấy, vị ra đời đầu tiên hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Đức Phật cuối cùng cũng có hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Các Ngài thuyết kinh phần đầu, giữa và sau đều thiện, phân biệt rõ ràng nghĩa lý sâu xa vi diệu, tu hành phạm hạnh. Chư Phật vì hàng Thanh văn giảng pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên và các tai họa của sinh, già, bệnh, chết, lo sầu, khiến cho họ được diệt độ cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật vì các Bồ-tát giảng pháp sáu pháp Ba-la-mật, khiến cho họ được tuệ giác và đạt đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối cùng, khi chưa xuất gia có tám người con. Người thử nhất tên Hữu Chí, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Gia Khuyến, thứ tư tên Bảo Chí, thứ năm tên Trì Ý, thứ sáu tên Trừ Mạn, thứ bảy tên Hưởng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Tám vị Thái tử ấy là con của Như Lai, có đầy đủ năng lực để hướng đạo chúng sinh. Lúc ấy mỗi người thống lãnh bốn cõi thiên hạ, đất đai trồng trọt phì nhiêu, dùng chánh pháp cai trị nên đất nước không có chiến tranh. Khi thấy vua cha bỏ nước đi xuất gia, tu tập và thành tựu quả vị Tối chánh giác, các người con cũng bỏ ngôi vua xuất gia theo. Họ đến chỗ Đức Thế Tôn và đều làm Sa-môn, quyết chí mong cầu đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả cùng làm Pháp sư, thường tu phạm hạnh và đã từng gieo trồng các gốc phước đức nơi ngàn vạn ức Đức Phật.

A-dật-đa! Lúc bấy giờ Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh vì khuyến phát các Bồ-tát hộ trì giáo pháp của Phật nên giảng kinh Đại thừa Phương đẳng cho hội chúng nghe. Nói kinh xong, Đức Phật ở giữa hội chúng lặng yên ngồi nhập định Vô lượng chánh thọ, thân và tâm đều không lay động.

Khi Thế Tôn nhập định, trời mưa xuống các loại hoa Ý, hoa Đại ý hoa, Nhu nhuyễn, hoa Đại nhu nhuyễn rải trên Đức Phật và tất cả chúng hội, khắp cõi đất đều chấn động đủ sáu cách, nhân dân trong nước đem hoa trời rải trên Đức Phật. Đệ tử bốn chúng, chư Thiên và các chúng khác vô cùng kinh ngạc, nghi ngờ việc chưa từng có. Đức Phật thiền định chưa bao lâu thì từ nơi khuôn mặt oai thần phước đức của Ngài phóng ra một luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở phương Đông, không cõi nào mà không được chiếu sáng. Cảnh giới trong cõi nước của chư Phật đều tự nhiên hiện ra như những cõỉ của chư Phật hiện nay.

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh khi ấy ở trong hội chúng giảng thuyết kinh pháp cho hai mươi ức Bồ-tát. Các vị Đại sĩ Bồ-tát này đều thấy ánh sáng chiếu khắp thế gian, trong số đó có vị Bồ-tát tên Siêu Quang có mười tám người đệ tử. Trong số ấy có một vị Bồ-tát ưa thích giải đãi, tên là Danh Văn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh chuyên tâm nhập định, sau khi xuất định, Ngài vì Bồ-tát Siêu Quang mà giảng kinh Đại thừa Chánh Pháp Hoa. Tất cả các Bồ-tát đều theo hộ trì Phật nói pháp. Ngài an tọa một nơi thuyết kinh ấy trong sáu mươi kiếp. Chúng hội thân không lay động, tâm cũng không vọng tưởng.

Đức Thế Tôn thuyết pháp cho hội chúng suất sáu mươi kiếp, tất cả hội chúng nghe pháp thân không mệt mỏi, tâm không lo buồn. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi kiếp vì các Bồ-tát giảng giải kinh Phương đẳng Pháp Hoa, rồi ở trong đại chúng, các Phạm vương, Ma vương, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Phạm chí, A-tu-la, Quỷ, Thần, chư Tỳ-kheo… bảo rằng: “Giữa đêm hôm nay, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.” Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Bồ-tát Thủ Tạng, Ngài bảo các Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, Bồ-tát Thủ Tạng sẽ đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Phật hiệu là Vô Cấu Thể Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.”

Sau khi thọ ký xong, ngay giữa đêm hôm ấy Đức Phật nhập Niết-bàn. Tám người con của Đức Thế Tôn Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn Bồ-tát Siêu Quang làm Thầy, vâng theo lời Thầy chỉ dạy nên đều vững tin nơi đạo Tuệ giác vô thượng, được gặp vô lượng, vô số Đức Phật để tôn thờ, hầu hạ, cúng dường nên đều được thành tựu Chánh giác, vị thành Phật cuối cùng hiệu là Pháp Sự.

Trong số mười tám đệ tử của Bồ-tát Siêu Quang, có một vị Bồ-tát đam mê danh lợi, mong cầu sự cúng dường không biết chán, tham đắm nhiều nơi ba bệnh, đối với kinh pháp không thông suốt mà hay quên mất, lại thích nơi nhàn hạ, không lo tu tập, vì thế người đệ tử này có tên là Danh Văn. Nhưng vị Bồ-tát này vốn nhờ công đức gieo trồng nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức Đức Phật, do cầu nguyện nên được gặp chư Phật để cúng dường.

Đại sĩ Di-lặc! Pháp sư Tỳ-kheo Siêu Quang lúc ấy nay chính là tôi, còn Bồ-tát Danh Văn có tánh biếng lười nay chính là Đại sĩ. Do vậy các vị nên biết, thấy Thế Tôn hiện điềm lành phóng ánh sang này, tôi nghĩ rằng: “Hôm nay Đức Thế Tôn sẽ tuyên thuyết kinh Phương Đẳng Chánh Phá p Hoa cho chúng ta.”

Lúc ấy Bồ-tát Văn-thù muốn lập lại nghĩa trên mà nói kệ:

Ta nay nhớ lại

Quá khứ lâu xa

Trong vô số kiếp

Không thể nghĩ bàn

Có Đức Tối thắng

Trí tuệ vô thượng

Danh hiệu Ngài là

Nhật Nguyệt Đăng Minh

Phật ấy giảng pháp

Đạt thành vô lượng

Hóa độ chúng sinh

Không thể tính hết

Dạy bảo phát tâm

Vô số Bồ-tát

Chẳng thể nghĩ bàn

Trăm ngàn ức vị

Lúc ấy Như Lai

Có tám người con

Tuổi đều thơ ấu

Thấy Phật thành đạo

Theo Ngài xuất gia

Cùng làm Sa-môn

Trừ bỏ ái dục

Và mọi sở hữu

Bậc Đại Đạo Sư

Vì họ nói pháp

Bản kinh được giảng

Tên Vô Lượng Tụng

Nhưng hiệu Tối Thượng

Đúng nghĩa như thế

Khai hóa mọi người

Số ngàn muôn ức

Phật tuyên thuyết xong

Bản kinh ấy rồi

Năng Nhân Chí Tôn

Ngay trên pháp tòa

Liền ngồi kiết già

Nhập thiền Tam-muội

Tên Vô lượng tụng

Liền hiện điềm lành

Khỉ ấy trời mưa

Hoa thơm Đại ý

Lại hiện chớp sáng

Sấm lớn vang rền

Chư Thiên, Quỷ, Thần

Ở nơi hư không

Một lòng cung kính

Đấng Nhân Trung Tôn

Các quốc độ Phật

Tức thời chấn động

Từ nơi giữa mày

Phóng ra hào quang

Sáng chói rực rỡ

Thật vô hạn lượng

Mọi người ngạc nhiên

Cho chưa từng có

Ánh sáng chiếu khắp

Cõi Phật phương Đông

Một vạn tám ngàn

Muôn ức thế giới.

Chính ngay khi ấy

Phật phân biệt rõ

Chỉ cho chúng sính

Cội nguồn chung thủy

Hoặc có cõi Phật

Dựng các lọng báu

Ánh sáng lưu ly

Hoặc như pha lê

Của Phật chiếu soi

Rực rỡ oai thần

Hiện bao nhiêu vẻ

Tốt đẹp trang nghiêm

Chư Thiên, Nhân dân

Và Rồng. Quỷ, Thần

Chúng Càn-thát-bà

Vui chưa từng có

Một lòng thành kính

Cùng nhau tôn phụng

Các thế giới kia

Đều tự nhiên hiện,

Lại thấy chư Phật

Đều rất tự tại

Thù thắng trang nghiêm

Sắc thân vàng tía

Như ngọc lưu ly

Ở giữa các báu

Phật trong chúng hội

Tuôn mưa giáo pháp

Chúng Thanh văn kia

Đông không kể xiết

Tán thán vô cùng

Đệ tứ chánh tín

Tất cả Đạo sư

Mỗi một thế giới

Của Phật sáng soi

Thảy đều rực rỡ

Thường hành tinh tấn

Giữ giới không phạm

Công đức nhẫn nhục

Cũng như ngọc sáng,

Lại thấy Bồ-tát

Hiện nhiều vô số

Dạo chốn tịch nhàn

Núi rừng đồng vắng

Nhập định tham thiền

Thân tâm an tịnh

Nếu có gia hại

Không nổi hận sân

Các chúng Bồ-tát

Như cát sông Hằng

Trụ trong ánh sáng

Một cách sâu xa

Nghĩ nhớ vô thường

Không sống buông lung

Vui thiền, nhẫn nhục

Không xả nhất tâm

Có thiện nam tử

Trong tất cả thời

Điều phục thân tâm

Tuân hành Phật đạo

Nội quán chân lý

Tâm tư vắng lặng

Phương tiện tùy duyên

Khai hóa muôn loài

Vô số cõi Phật

Rộng thuyết pháp kinh

Đức Phật Thế Tôn

Cảm ứng như thế,

Lại thấy Đại Thánh

Như Bậc Thuyền sư

Phát ra ánh sáng

Che lấp trời trăng

Tất cả chúng sinh

Vô cùng hoan hỷ

Trời người phụng hiến

Và cùng hỏi nhau:

Đó là điềm gì?

Từ thiền định xuất

Trong chẳng bao lâu

Đạo Sư tán thán

Vị Bồ-tát kia

Tên là Siêu Quang

Là bậc Pháp sư

Theo Phật giải thoát

Mắt của thế gian

Ai cũng quay về

Phật vui tin tôi

Chỉ bày các tướng

Vì tôi phân biệt

Nói kinh pháp này

Phật thương chúng sinh

Vì thế giáo hóa

Kiên lập khuyến tấn

Cho chúng Bồ-tát.

Nghe Phật chỉ bày

Ca ngợi hân hoan

Khi ấy Thế Tôn

Nói kinh pháp lớn

Thuyết giảng đầy đủ

Trong sáu mươi kiếp

Rồi trên pháp tòa

Kiết già nhập định

Đức Phật tuyên thuyết

Giáo pháp thù thắng.

Các Đức Phật kia

Đều đã diệt độ

Vi Pháp sư đó

Bồ- tát Siêu Quang

Diễn pháp tối thắng

Thuyết giảng kinh điển

Làm cho các chúng

Đều sinh vui mừng

Cúi xin Đại Thánh

Phân biệt giải nói

Từ trên cõi trời

Đến chốn nhân gian

Giảng thuyết kinh điển

Luận bàn tự tại

Dạy cho chúng hội

Về kinh Pháp Hoa.

Phật bảo Tỳ-kheo:

Ta đã đến lúc

Vào giữa đêm nay

Vào nơi diệt độ

Hãy siêng tu hành

Giữ tâm kiên cố

Ta đã giải nói

Dạy bảo kinh pháp.

Đại Thánh thần thông

Khó được gặp gỡ

Nơi vô số ức

Na-do-tha kiếp

Hãy luôn cúng dường.

Vô lượng Phật tử

Bị họa ưu sầu

Khổ đau cùng cực

Khi nghe Thế tôn

Chỉ bày chương cú

Quán sát vô vi

Thực hành lời dạy

Thấy Đấng Nhân Tôn

Vô số chúng sinh

Nhiều không nhớ hết

Được Phật an ủi

Tỳ-kheo chớ sợ

Vì ta Nê-hoàn

Sau khi ta diệt

Sẽ không thấy lại.

Đệ nhị Bồ-tát

Tên là Thủ Tạng

Không còn lậu hoặc

Không còn tử sinh

Đạt đến cứu cánh

Tuệ giác vô thượng

Thành Đức Phật-đà

Hiệu là Ly Cấu

Cũng tại nơi đó

Vào lúc nửa đêm

Đức Phật nhập diệt

Ánh sáng không còn

Xá-lợi của Phật

Phân bố khắp nơi

Tháp miếu được xây

Số nhiều muôn ức

Các vị Tỳ-kheo

Và Tỳ-kheo-ni

Hết lòng mong cầu

Tuệ giác vô thượng

Số lượng vô số

Như cát sông Hằng

Thường hành tinh tấn

Theo pháp tu tập

Khi ấy Tỳ-kheo

Bồ-tát Siêu Quang

Làm bậc Pháp sư

Giữ gìn kinh pháp

Một thời gian ngắn

Diễn thuyết chánh pháp

Trọn vẹn thời gian

Trong tám mươi kiếp.

Mười tám vương tử

Theo ngài xuất gia

Đều được giáo hóa

Vững tin chánh pháp,

Các vương tử này

Gặp vô sô Phật

Chí tâm cúng dường

Chư Phật Thánh Tôn

Kính phụng tôn thờ

Diệu pháp vi diệu

Đều được thành Phật

Ở nơi các cõi

Làm Đấng Tự Tại

Thọ trì vô lượng

Thứ tự thọ ký

Khiến được Chánh giác.

Ở nơi chư Phật

Đều được giải thoát.

Định Quang Thế Tôn

Thành Phật cuối cùng

Đại Thánh Nhật Nguyệt

Bậc Thầy dẫn đạo

Khai hóa Thánh chúng

Trăm ngàn vô số

An trụ giải thoát

Có đủ uy đức

Pháp sư Siêu Quang

Tức chính là ta.

Lúc ấy có vị

Tánh thường giải đãi

Tham cầu lợi dưỡng

Thân cận bạn bè

Tâm hay mong cầu

Chỉ thích tiếng khen

Hay thường giao du

Các nhà dòng dõi

Bỏ bê không học

Chẳng đọc tụng kinh

Lúc đỏ chẳng chịu

Học tập tư duy

Vì lý do ấy

Mới có tên này,

Nơi giáo pháp Phật

Muốn được ngợi khen

Tuy nhiên người này

Đã tạo công đức

Thời Phật quá khứ

Dẫu có tỳ vết

Được gặp vô số

Chư Phật Thế Tôn

Tích lũy công đức

Với chư Đại Thánh

Chuyên tu chánh hạnh

Được tối thuận nhẫn

Lại gặp Thích Tôn

Tu hành như vậy

Nên ở tương lai

Vào đời cuối cùng

Sẽ được thành đạo

Vô thượng chánh chân

Thành Đấng Phật-đà

Hiệu là Từ Thị

Giáo hóa chúng sinh

Vô số ức ngàn

Tâm thường dũng mãnh

Tự tại giải thoát

An ổn diệt độ

Việc Ngài giáo hóa

Ở trong tương lai

Sẽ là như vậy

Thuở ấy thân tôi

Chính là Pháp sư

Do thế cho nên

Điềm lành như trên

Đời trước đã thấy

Cảnh như hiện nay

Thế Tôn an trụ

Biến hiện như thế

Nay tôi thẩm quán

Điềm lành hiện nay

Đức Phật Thế Tôn

Vua dòng họ Thích

Mắt tuệ vô lượng

Hiện điềm tối thắng

Hôm nay muốn nói

Kinh Chánh Pháp Hoa

Tôi ở quá khứ

Đã từng thấy nghe

Biến hiện như vậy

Đầy đủ tất cả

Phương tiện quyền xảo

Của chư Thế Tôn

Nay Đấng Thích Tôn

Kiến lập hưng khởi

Giảng thuyết kinh pháp

Giáo hóa tự nhiên

Người có tâm đạo

Chắp tay kính ngưỡng

Đạo Sư giúp đời

Nay sẽ phân biệt

Tuôn mưa chánh pháp

Giáo pháp Vi diệu

Thấm nhuần tất cả

Che phủ mọi loài

Nếu có chư Thiên

Muốn được giải thoát

Lòng còn hồ nghi

Và còn do dự

Nếu có Bồ-tát

Ý tầm cầu đạo

Phật sẽ giải trừ

Được trí tuệ Phật.

***

Phẩm 2: THIỆN QUYỀN

Khi ấy Đức Thế Tôn xuất thiền, bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Phật đạo sâu xa vô tận, Tuệ giác vô thượng của Như Lai khó hiểu, khó biết, khó có thể vào. Tuy hàng Thanh văn, Duyên giác từ muôn ức kiếp lâu xa đã quy kính cúng dường, vô số kiếp đã tạo lập cội lành công đức, tôn trọng phụng trì pháp Phật, ân cần lao khổ, tinh tấn tu hành, còn không thể thấu hiểu diệu lý của đạo.

Lại nữa, Xá-lợi-phất! Như Lai quán sát nhân duyên sinh khởi hạnh nghiệp của chúng sinh nên dùng phương tiện quyền xảo một cách khéo léo, tùy nghi hướng dẫn điều phục họ, Như Lai dùng trí tuệ phân biệt tất cả pháp, vận dụng vô số phương tiện để cứu độ quần sinh, dùng sức trí tuệ lớn không sợ hãi, nhất tâm, giải thoát, Tam-muội không có hạn lượng. Giáo pháp mà Như Lai đã giảng nhiều không thể tính hết, nhưng Như Lai chỉ lược thuyết mà thôi. Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ là pháp hy hữu, cao tột, khó thể suy lường. Như Lai đã thấu tỏ nguyên nhân của các pháp, tự ngộ các pháp từ đâu mà đến, phân biệt hiện tượng của các pháp, tự biết rõ nguồn gốc của chúng.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ:

Bậc Thế Hùng khó lường

Trời, người ở cõi thế

Tất cả loài chúng sinh

Không ai hiểu Đạo Sư

Thanh tịnh nói giải thoát

Vắng lặng không sợ hãi

Hành tướng của các pháp

Không một ai biết được.

Vốn từ vô số Phật

Do nương tựa tu hành

Thể nhập nghĩa vi diệu

Hiện thế không phân biệt,

Trải qua vô số kiếp

Tu học theo hạnh Phật

Thành quả đến đạo tràng

Cũng như hành từ mẫn,

Khiến ta được tuệ này

Như chư Phật mười phương

Đầy đủ các tướng tốt

Vẻ đẹp cũng như vậy.

Pháp thân không phô bày

Cũng không còn ngôn ngữ

Quán sát toàn chúng sinh

Thế gian không ai sánh.

Nếu thuyết giảng kinh pháp

Có thể hiểu rõ được

Chỉ có chư Bồ-tát

Thường tin hiểu vui làm.

Giả sử các Phật

Chúng đệ tử Ngài

Việc làm đã xong

An trụ giáo pháp,

Khéo hàng phục tâm

Dứt trừ phiền não

Vẫn chưa đạt được

Trí tuệ vô lượng.

Giả sử nơi đây

Cảnh giới chư Phật

Đều đem bảy báu

Tràn đầy khấp nơi,

Dùng để hiến cúng

Chư Phật chí tôn

Muốn rõ tuệ ấy

Trọn không hiểu nổi,

Giả sử mười phương

Thế giới chư Phật

Các bậc Minh triết

Đầy khắp cõi nước,

Và trong hiện tại

Các chúng Thanh văn

Đầy đủ tất cả

Cũng như hiện nay.

Hội chúng khi ấy

Cùng nhau suy lường

Trí tuệ Như Lai

Cũng không thể biết

Trí tuệ của Phật

Vô lượng, vô biên

Muốn biết giới hạn

Chẳng thể biết được.

Các bậc Duyên giác

Lậu hoặc không còn,

Thông đạt các căn

Nhiếp trì tâm niệm.

Giả sử mười phương

Đầy chật cả người

Nhiều như mía lau

Cỏ sậy tre trúc,

Hợp lại với nhau

Cùng chung tư duy

Muốn biết trí Phật

Luận bàn các pháp,

Trải vô số kiếp

Suy niệm đo lường

Cũng không thể biết

Pháp nghĩa chân thật.

Các vị Bồ-tát

Mới phát tâm ý

Nếu được cúng dường

Vô số ức Phật,

Giảng thuyết pháp kinh

Phân biệt nghĩa lý

Tràn đầy khắp cả

Mười phương cõi nước.

Số đó ví như

Lúa mè rừng cây

Khắp cùng thế giới

Nhiều vô số kể,

Kết hợp với nhau

Mà cùng tư duy

Tuệ giác Như Lai

Thấy các pháp tánh

Không thể nghĩ bàn

Vô số ức kiếp

Như cát sông Hằng

Không thể hạn lượng.

Tâm không thay đổi

Trí tuệ siêu việt

Muốn biết pháp ấy,

Vô số Bồ-tát

Đều không thoái chuyển

Chẳng phải cõi này

Trong vô lượng kiếp

Như cát sông Hằng

Nhất tâm chuyên ròng

Cùng nhau tư duy

Tất cả bọn họ

Cũng không kham nổi.

Trí tuệ chư Phật

Không thể nghĩ bàn

Đoạn hết các lậu

Không thể suy lường.

Chỉ có chư Phật

Mới hiểu hoàn toàn

Phân biệt mười phương

Thế giới chư Phật.

Này Xá-lợi-phất!

Lời Như Lai dạy

Không có thiếu xót

Thấu rõ pháp kia,

Pháp lợi tối thắng

Thông tỏ hoàn toàn

Thuyết nghĩa Vô thượng

Sau thời gian dài.

Hôm nay Như Lai

Bảo chúng Thanh văn

Và Duyên giác thừa

Như chỗ đã lập,

Thoát nguyện buộc ràng

Hưởng được Niết-bàn

Sẽ được khai hóa

Tất cả được độ,

Pháp Phật tôi thắng

Khéo dùng phương tiện

Tuyên thuyết diễn bày

Giáo hóa thế gian

Ta thường độc hành

Độ thoát tất cả

Dùng thị hiện ấy

Nói pháp chân thật.

Khi ấy trong đại chúng có tất cả một ngàn hai trăm vị A-la-hán thuộc hàng Thanh văn đã chấm dứt các phiền não, biết rõ con đường tụ tập đưa đến giác ngộ, cùng với chúng đệ tử Hữu học Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thuộc chúng Thanh văn, mỗi vị đều suy nghĩ: “Tại sao hôm nay Đức Thế Tôn ân cần tán thán về phương tiện khéo léo, ca ngợi công hạnh và giáo pháp sâu xa vi diệu của Phật mà ngay cả bậc có trí tuệ cao tột cũng không thể hiểu biết, huống gì những vị Thanh văn, Duyên giác. Nếu nay theo lời Đức Thế Tôn vừa dạy thì pháp ấy không đưa đến Niết-bàn. Tuy Thế Tôn thuyết kinh này nhưng chúng ta không rõ tận cùng ý nghĩa đó như thế nào?”

Tôn giả Xá-lợi-phất biết sự hoài nghi trong lòng bốn chúng và muốn phá lưới nghi của mình nên thỉnh hỏi Đức Thế Tôn. Tôn giả sửa y phục, cung kính bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Hôm nay vì sao Thế Tôn ân cần tán dương phương tiện khéo léo của Ngài là pháp sâu xa vi diệu bậc nhất, đạo đức cao vời vợi không có giới hạn?

Tôn giả Xá-lợi-phất dùng kệ thỉnh hỏi:

Thánh Tuệ cao tột

Lâu xa mới dạy

Giải thoát, thiền định

Phụng trì vô số

Khen công Đức Phật

Không ai dám thưa

Ca ngợi thật pháp

Ai hiểu ý diệu

Hiển bày Thánh pháp

Tán thán hạnh Phật

Tuệ không thể lường

Xin Phật giảng pháp

Nay chúng hoài nghi

Nghe pháp dứt phiền

Mong cầu giải thoát

Nghe Phật ca ngợi

Hạng cầu Duyên giác

Tỳ-kheo nam nữ

Trời, Rồng, Quỷ, Thần

Kiền-đạp, Hưu-lặc

Tất cả các loài

Cũng đều phân vân

Muốn thỉnh hỏi Phật

Xin Phật giải thích

Cho hàng Thanh văn

Dạy tâm an trụ

Được Phật ngợi khen

Chỉ con bậc nhất

Tâm nay mê mờ

Không tự hiểu được

Con đến Niết-bàn

Lại nghe điều này

Xin giảng phân biệt

Diễn âm oai hùng

Lời Phật tuyên bày

Như Sư tử rống

Chúng đệ tử Phật

Chắp tay kính lễ

Muốn nghe chánh pháp

Cúi mong phân biệt

Tám bộ Trời, Rồng

Quỷ, Thần, Chân-đà

Trăm ngàn vô số

Như cát sông Hằng

Ai cũng chắp tay

Cúng dường Thế Tôn

Đều cùng muốn hỏi

Với Đấng Tuệ Giác

Vua trời Đế Thích

Chuyển luân thánh vương

Ai cũng một lòng

Trăm ngàn muôn ức

Tất cả cung kính

Chắp tay đứng chờ

Mong _muốn được nghe

Con đường hoàn hảo.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Thôi đi, thôi đi, không nên hỏi điều ấy! Vì sao? Vì nếu ta nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều sẽ kinh sợ.

Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa:

– Cúi xin Đức Thế Tôn hãy chỉ dạy cho chúng con ý nghĩa của thật pháp. Vì sao? Bởi vì ở trong chúng hội này có trăm ngàn vô số ức đầy dẫy những loại chúng sinh, kể cả những sâu bọ, muỗi mòng, côn trùng nhỏ nhít… từ kiếp quá khứ đã từng gặp Phật biết gieo trồng các công đức, nghe lời Đức Thế Tôn dạy, tất cả sẽ hoan hỷ kính tin, thọ trì, phụng hành.

Tôn giả Xá-lợi-phất dùng bài kệ nói:

Nguyện Đấng Nhân Vương

Thương ban lời dạy

Chúng xuất gia đây

Trăm ngàn muôn ức

Cung kính an trụ

Tin vào Tuệ giác

Tất cả các loài

Thảy đều hân hoan.

Lúc đó Đức Thế Tôn ngăn Tôn giả Xá-lợi-phất ba lần như vậy, bảo Tôn giả chớ nên lập lại lời ấy, bởi nếu Như Lai nói pháp ấy thì cả thế gian, chư Thiên và nhân loại đều ôm lòng kiêu mạn hoài nghi, những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ rơi vào khốn khổ lớn.

Đức Thế Tôn dùng kệ bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

Thôi thôi đừng hỏi

Pháp của Như lai

Sâu xa vi diệu

Những kẻ không hiểu

Giả sử ta nói

Dễ sinh nghi ngờ

Ám độn ngu si

Ôm lòng kiêu mạn.

Tôn giả Xá-lợi-phất lại thưa:

– Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn hãy thương xót chỉ dạy. Vô số chúng đây vào thời quá khứ lâu xa đã từng nghe chư Phật giảng dạy, vì thế hôm nay nếu được nghe và tư duy pháp âm bậc thánh chắc chắn họ có thể kính tin, được an ổn lâu dài, không còn nghi ngờ, kiêu mạn.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói bài kệ:

Con, trưởng tử Phật

Nay muốn thỉnh cầu

Xin Lưỡng Túc Tôn

Xót thương chỉ dạy

Trong chúng hội này

Vô số chúng sinh

Đều sẽ kính tin

Lời dạy của Phật

Xưa trồng cội đức

Dứt các lưới nghi

Suốt vô lượng kiếp

Từng được dạy bảo

Nay họ chắp tay

Đứng bên cung kính

Chắc chắn hân hoan

Vối pháp nghĩa ấy

Những người như con

Một ngàn hai trăm

Và các chúng khác

Cầu Tuệ giác Phật

Nếu được thấy, nghe

Tin nơi giáo pháp

Tâm sẽ vui mừng

Phát khởi chí lớn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thấy Xá-lợi-phất ân cần thưa thỉnh ba lần, mới bảo với Tôn giả:

– Nay ông đã tha thiết thưa thỉnh đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy ông hãy lắng nghe, khéo tư duy và ghi nhớ. Ta sẽ giải nói.

Khi Đức Thế Tôn vừa nói xong lời ấy, năm ngàn vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vì ôm lòng kiêu mạn lập tức đứng dậy, rời chỗ ngồi, đảnh lễ Đức Thế Tôn và bỏ hội chúng mà lui ra. Vì sao? Vì những người đó không tin vào pháp phương tiện khéo léo, lại có tâm tăng thượng mạn, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng. Họ góp nhặt những vật dụng như dù che, y phục, ngọa cụ… rồi tự đi ra. Đức Thế Tôn vẫn yên lặng không ngăn cản.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Những kẻ què quặt, lén bỏ hội chúng ra đi, bị âm thanh, mùi vị buộc ràng nên rời khỏi nơi đạo tràng rộng lớn. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Vì sao Như Lai tuyên thuyết pháp này? Ví như hoa Linh thụy thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần, chư Phật tán thán pháp hy hữu này rất lâu mới có. Hội chúng phải tin vào lời pháp chân thật sâu xa của Như Lai, Như Lai tùy nghi thuyết pháp sâu xa vi diệu, không hư dối, bao nhiêu âm thanh lời lẽ diễn đạt về pháp, mỗi lời đều đặc thù, là điều mà con người không thể suy niệm được. Pháp ấy chưa ai nghĩ ra được, chỉ có Như Lai mới chứng biết. Vì sao? Bởi vì điều mà Như Lai ca ngợi, khai sáng cho đời chính là lý do trọng đại duy nhất. Mà tất cả chư Phật thị hiện ra đời. Chư Phật vì muốn khuyến cho chúng sinh đang vọng tưởng nên xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh chấm dứt vọng tưởng vô minh, mong cầu Phật tuệ mà xuất hiện ở đời; muốn làm cho chúng sinh dứt bỏ vọng tưởng, đạt đến trí tuệ trân quý của Như Lai mà xuất hiện ở đời; muốn đem tuệ giác của Như Lai để giác ngộ chúng sinh vọng tưởng mà xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày, làm cho chúng sinh tỉnh thức theo con đường bát chánh, dứt trừ vọng tưởng mà xuất hiện ở đời. Vì thế nên biết, sự xuất hiện của các Bậc Chánh giác đều vì một mục đích là đem trí tuệ siêu việt mà tạo nên sự nghiệp lớn. Trí tuệ ấy cũng như hư không, vì tâm đại bi mà xuất hiện ở đời, như chư Phật đã thực hành để hóa độ, làm lợi ích cho chúng sinh cũng lại như vậy. Như Lai thể hiện trí tuệ chân thật thuyết pháp giáo hóa các Bồ-tát, dùng Tuệ giác Phật phân tích, giảng thuyết làm cho họ tiến đến cỗ xe duy nhất là Phật thừa, không hề có cỗ xe thứ hai, huống chi là cỗ xe thứ ba. Chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều vận dụng bao nhiêu lời lẽ giáo hóa phương tiện quyền xảo, âm thanh, ngôn từ khác nhau để khai hóa cho tất cả chúng sinh, thuyết pháp khiến họ đều phát tâm Đại thừa, cỗ xe đưa đến Chánh giác và tất cả trí tuệ sáng suốt của Phật.

Xá-lợi-phất! Những chúng sinh đây đều đã cúng dường chư Phật đời quá khứ, cũng từng nghe pháp, tùy theo bản hạnh của họ mà được Như Lai chỉ dạy. Như Lai thấy bản hạnh của chúng sinh không giống nhau, xem xét tâm họ ưa thích những gì, khéo dùng phương tiện theo quả báo mà họ đã thọ để giảng pháp nghĩa, đều là pháp Đại thừa Chánh giác bình đẳng, đưa đến trí tuệ giác ngộ, đức hạnh toàn thiện, không có thừa thứ hai. Chư Phật trong mười phương thế giới đều như vậy, không có tam thừa.

Xá lợi-phất! Nếu Như Lai nói về sự cấu uế của chúng sinh thì suốt trong một kiếp cũng không hết được. Nay ta xuất hiện nơi đời ngũ trước xấu ác, đó là:

1. Trần lao.

2. Hung bạo.

3. Tà kiến.

4. Thọ mạng ngắn ngủi.

5. Đang thời kiếp trược.

Vì những điều ấy nên chúng sinh có ít phước đức, tham lam, bỏn sẻn, nhiều cấu uế…, Như Lai phải vận dụng phương tiện nói có ba thừa để khuyến hóa hàng Thanh văn và Duyên giác. Nếu ta dạy về Phật thừa thì tất cả họ đều sẽ không nghe, không hiểu, không thâm nhập được; sẽ có niệm sai lầm cho rằng chỉ có đạo Thanh văn và Duyên giác là cao tột, sâu xa. Nếu những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, đã chứng La-hán, tự cho là đã hoàn tất mà không có chí mong cầu Tuệ giác vô thượng, nhất định họ sẽ phỉ báng Phật thừa. Dù có suy niệm ấy, ta vẫn giáo hóa bình đẳng. Tuy nhiên sau khi Như Lai nhập diệt, những kẻ nhiều tăng thượng mạn mới biết được. Vì sao? Vì những vị Tỳ-kheo La-hán, nhưng đã chấm dứt các lậu hoặc không có chí mong cầu, nghe kinh điển này mà không tin nhận, khi Như Lai diệt độ, không còn hiện diện trước mặt họ nữa; nếu Đấng Đại Thánh diệt độ không thuyết pháp kinh này, khiến cho họ thọ trì và tụng đọc kinh phương đẳng, thì Đức Phật khác, (ban đầu) chắc chắn họ sẽ hồ nghi, nhưng sau đó họ sẽ trọn lòng tin lời của Như Lai nói là thành thật, chỉ có pháp Nhất thừa không có thừa thứ hai.

Đức Thế Tôn tụng lại nghĩa trên:

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Tâm nhiều tăng thượng mạn

Cận sự nam và nữ

Năm ngàn người không tin

Không tự thấy tỳ vết

Sơ hở thiếu giới hạnh

Bị nhiều điều điên đảo

Nên khởi ý ngu si

Ngược cầu hạnh tạp nhiễm

Đều không phương tiện khéo

Chư Phật định tối thắng

Dược nghe pháp có duyên

Cúng dường Bậc Tịnh Trí

Trụ uy giữa chúng nghiêm

Tất cả đều nhờ ân

Chí nghịch đều thấy ác

Xá-lợi-phất hãy nghe!

Phật, Bậc Nhân Trung Tôn

Biết đúng rõ các pháp

Giảng nói bao nhiêu điều

Khéo dung phương tiện

Trăm ngàn muôn ức

Tùy tâm hạnh người

Để mà thuyết pháp

Các việc tội phước

Chúng sinh không đồng

Từ nơi kiếp trước

Theo sự báo ứng

Những chúng sinh đây

Tâm niệm mỗi khác

Tạo biết bao nhiêu

Kết sở ràng buộc

Thấy các nhân duyên

Trăm ngàn muôn ức

Tất cả phẩm loại

Tỳ vết như thế

Đại Thánh Như Lai

Thuyết kinh pháp này

Lời dạy chí thành

Không hề hư dối

Từ xưa dẫn dụ

Vô số bao nhiêu

Những điều ta nói

Đều vì phân biệt

Có người không ưa

Lời Bậc Chánh Giác

Nơi vô số Phật

Không tạo lập hạnh

Ngu si sinh tử

Bị nhiều khổ họa

Cho nên vì họ

Hiện nói Niết-bàn

Đại Thánh chuyển pháp

Vận dụng phương tiện

Để khuyến hóa người

Khiến vào Phật tuệ

Theo lời Phật dạy

Hưng thạnh thế gian.

Ta trước chưa từng

Vì họ thị hiện

Vì sao ngu mê

Gặp Bậc Đạo Sư

Tự thấy nhàm chán

Chính vì phân biệt

Nay mới được nghe

Diễn bày bình đẳng

Vì thế mới nói

Trí giác của Phật

Trong pháp của ta

Những người mới học

Phật dùng Thánh tuệ

Phương tiện quyền biến

Như Lai phân biệt

Vì muốn khai hóa

Cho các chúng sinh

Nên dạy nghĩa ấy

Muốn biết Phật đạo

Thường luôn thanh tịnh

Vui tin Thánh điển

Thật là vi diệu

Ở chỗ chư Phật

Việc làm đã xong

Vì những vị ấy

Nói pháp Phương đẳng

Chí tánh thuận hòa

Đầy đủ các hạnh

Gần gũi Thánh giác

Rồi vì họ nói

Đạt đức sâu rộng

Họ ở vị lai

Xót thương từ mẫn

Tất cả nghe pháp

Ca ngợi vui mừng

Chúng ta thành Phật

Cũng sẽ như vậy

Nhờ nhân duyên ấy

Đời đời đoan nghiêm

Và luôn học tập

Kinh Phương đẳng này

Ai vui thích nghe

Thánh giáo tuyệt diệu

Những người như thế

Là đệ tử Phật

Giả sử được nghe

Một câu kệ Phật

Đều thành Chánh giác

Không có nghi ngờ

Phật đạo có một

Chưa từng có hai

Huống gì trong đời

Lại có ba thừa

Trừ khi Như Lai

Phương tiện tuyên thuyết

Ta dùng Phật thừa

Khai hóa thuyết pháp

Muốn được giảng nói

Tuệ Phật sâu xa

Khéo dung phương tiện

Trí sáng của Phật

Chỉ có Nhất thừa

Đâu thể có hai

Những người trí thấp

Cần cầu thắng pháp

Tuệ giác Như Lai

Thường luôn như thế

Đến được quả Phật

Chẳng ai dám nghĩ

Phật lực nhất tâm

Mở cửa giải thoát

An trụ chúng sinh

Vào pháp Vô thượng

Chư Phật tối thượng

Không có tỳ vết

Không ai sánh cùng

Hiện trí bình đẳng

Chỉ dạy như vậy

Pháp lành chúng sinh

Vì vậy Thế Tôn

Khuyến lập thừa ấy

Nơi chốn an ổn

Khuyên siêng kính ngưỡng

Cảnh giới khắp nơi

Tại đó tu hành

Đoạn trừ tất cả

Các pháp tham tàn

Nên hiệu là Phật.

Đấng đại dũng mãnh

Nay đã tạ o lập

Vô số tướng hình

Quyến thuộc bao quanh

Diễn ánh sáng pháp

Vô số chúng sinh

Trăm ngà n muôn ức

Vì họ giảng pháp

Pháp ấn tự nhiên.

Này Xá-lợi-phất!

Ta thấy như vậy

Hôm nay nơi đây

Vì khắp quần sinh

Hiện ba hai tướng

Dung mạo diệu kỳ

Thân tâm tự tại

Không gì ngăn ngại.

Ta đã quán niệm

Theo chỗ nhớ nghĩ

Nay cũng như xưa

Ai có chí nguyện

Đều được viên thành

Sâu xa vi diệu

Phân biệt giảng nói

Đồng đến Phật vị.

Này Xá-lợi-phất!

Lời Phật chí thành

Mọi việc làm vì

Giác ngộ chúng sinh.

Giả sử ta nói

Không thể hiểu rõ

Không thể tiếp nhận

Lời thiện chí thành,

Như Lai suy nghĩ

Những kẻ như đây

Ở trong quá khứ

Chưa từng tu tập

Hôm nay đến lúc

Nguyện xưa đã thành

Đoạn trừ ái dục

Trừ mưa ám chướng

Chúng sinh đắm dục

Đọa vào đường ác

Ở nơi uế nhiễm

Các niệm xấu xa

Và pháp vô minh

Thường luôn tăng trưởng

Những người phước mỏng

Bị họa khổ não

Và các tà kiến

Bức bách buộc ràng

Chấp có thế này

Chấp không thế khác

Nương theo đầy đủ

Sáu mươi hai kiến

Thường ở nơi đây

Cố chấp không bỏ

Thế lực mong manh

Lòng luôn lo sợ,

Chưa từng được nghe

Phạm âm của Phật

Thưởng phải đọa lạc

Khôn lìa ba nẻo

Trăm ức ngàn đời

Chẳng hiểu giáo pháp

Vì những người ấy

Như Lai phương tiện

Tuyệt diệu vô cùng

Dạy họ diệt khổ

Đoạn tận cội nguồn

Phiền não tà kiến

Của các chúng sinh

Phật chỉ bày họ

Khiến đến Niết-bàn,

Vì vậy Như Lai

Khai thị diệt độ

Khiến tất cả pháp

Đều được tịch tĩnh.

Lại nữa quá khứ

Đệ tử chư Phật

Nên trong tương lai

Thành Bậc Tối Thắng

Ta nay vận dụng

Phương tiện như thế

Khiến họ đừng nghĩ

Nên dạy Tam thừa

Nhưng chỉ có một

Không có hai, ba

Vì vậy Thế Tôn

Lại nói Nhất thừa

Có vô sô người

Khởi niệm hoang mang

Suy nghĩ rối rắm

Do dự nghi ngờ

Lời Như Lai dạy

Trọn không đổi khác

Phật thừa duy nhất

Chưa từng có hai

Từ xưa đến nay

Đạo sư cõi đời

Vô lượng chư Phật

Đã nhập Niết-bàn

Thuộc thời quá khứ

Vô số kiếp qua

Tính toán suy lường

Không thể hết được

Tất cả Thế Tôn

Tối thượng cõi người

Giảng nói kinh pháp

Vơ lượng thanh tịnh

Đã dùng vô số

Báo ứng ví dụ

Vận dụng phương tiện

Muôn ức trăm ngàn

Rộng vì chúng sinh

Thị hiện Nhất thừa

Cho nên thuyết đạo

Độ người chưa độ

Thường giảng cho người

Trí tuệ bình đẳng

Khai hóa muôn loài

Trăm ngàn muôn ức

Phương tiện khác nhau

Vô số Đức Phật

Vì giảng phân biệt

Chân lý cao tột

Bản tánh thanh tịnh

Mới tin hiểu được

Hoặc tại trên trời

Thế gian cũng vậy

Có ai nghe kinh

Nghe xong suy ngẫm

Những chúng sinh đó

Đạt được an ổn

Thường hành bố thí

Giới hạnh đầy đủ

Nhẫn nhục không thiếu

Thường hành bình đẳng

Tinh tấn nhất tâm

Tu thiện dũng mãnh

Nơi kinh điển này

Tuân giữ trí tuệ

Hoặc là tạo lập

Bao nhiêu phước đức

Thì những người ấy

Sẽ thành Phật đạo.

Ta có diệt độ

Nơi chỗ Như Lai

Vào thời gian đó

Tất cả chúng sinh

Nhẫn nhục thiền định

An lạc vô cùng

Thì những người ấy

Sẽ thành Phật đạo.

Nếu ai cúng dường

Xá-lợi chư Phật

Bậc Thánh Tối Thắng

Khi Phật diệt độ

Xây nơi thờ Phật

Vạn ức trăm ngàn

Vàng ròng bạc trắng

Lưu ly thủy tinh

Hoặc dùng mã não

Tạo dựng chùa tháp

Xà cừ, hổ phách

Và ngọc ma-ni

Hoặc dùng bùn đất

Tạo lập hình tượng

Những người như thế

Đều thành Phật đạo.

Giả sử dùng đá

Xây dựng chùa Phật

Hoặc dùng Chiên-đàn

Hay gỗ mật hương

Tạo thành chùa tháp

Lập tôn tượng Phật

Chạm gỗ điêu khắc

Vẽ hoa trang hoàng

Hoặc người giữ giới

Tha thiết chí thành

Hoặc lại tạo dựng

Chùa tháp cao đẹp

Hoặc ở trong nhà

Tụng đọc kinh điển

Hay nơi hoang dã

Hoặc chốn hang sâu

Vì muôn ức người

Rống tiếng sư tử

Hiện ở mười phương

Các chùa tháp Phật

Đồng tử ca múa

Nơi có Xá-lợi

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Hoặc vì Như Lai

Dùng báu tạo tượng

Ba mươi hai tướng

Thù thắng tốt đẹp

Giả sử có người

Tụng kinh nói nghĩa

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Hoặc vì Như Lai

Tạo lập hình tượng

Dùng đến bảy báu

Đường đi tốt đẹp

Ánh sáng rạng ngời

Chiếu khắp chúng sinh

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Hoặc lại dùng đồng

Ngọc bích vẽ khắc

Vì Đại Thánh Tôn

Tạo hình tuyệt diệu,

Hoặc đem văn kinh

Chép trên lụa trắng

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Hoặc sửa chùa hư

Tô lại hình tượng

Công đức tín tâm

Có trăm phước tướng

Xuất gia học pháp

Sao chép Phật kinh

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Giả sử mỗi người

Làm việc kỳ lạ

Bỏ hết tất cả

Ca múa vui mừng

Đồng tử Bồ-tát

Thông đạt giải nghĩa

Không nói lời đùa

Cũng không dối trá

Tất cả vì muốn

Thể hiện lòng Từ

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Tức khiến độ được

Muôn ức quần manh

Vô số Bồ-tát

Thần thông Tam-muội

Giả sử tất cả

Thờ cúng Xá-lợi

Tạo lập chùa tháp

Vẽ họa hình tượng

Đắp, sửa, trang hoàng

Viết kinh lên vách

Dâng cúng hoa hương

Rải trên tháp tượng

Lại đem kỹ nhạc

Ca tụng Phật đức

Đàn, trống, múa ca

Tiết tấu dịu hòa

Ca ngợi vui mừng

Tỏ lòng tôn kính

Hoặc làm các việc

Tu bổ cúng dường

Đàn cầm, não bạt

Đàn bầu, tỳ bà

Ống tiêu, ống sáo

Vui xướng diệu âm

Đều vì nhất tâm

Không có phiền não

Do duyên ấy nên

Đều vui an tịnh

Hoặc đem nước rưới

Quét sạch chùa tháp

Dùng nước sạch trong

Nước mật, nước quả

Tạp hương đất sét

Trổi các nhạc khí

Lắng lòng quy mạng

Cúng Bậc Tối Thắng

Đem bao nhiêu vật

Dâng cúng xá-lợi

Như Lai diệt độ

Cung kính ít nhiều

Giả sử một lần

Đánh trống trổi nhạc

Những người như thế

Đều thành Phật đạo.

Giả sử tịnh tâm

Chiêm ngưỡng tượng vẽ

Cầm một bông hoa

Dâng lên tượng đắp

Tỏ lòng cung kính

Tin tưởng không nghi

Dần dần sẽ gặp

Vô số ức Phật.

Lại có những người

Chắp tay trước tháp

Dù chỉ một lần

Nhiễu quanh hướng về

Lễ bái Đại Thánh

Cúi đầu ca ngợi

Làm những việc ấy

Thân không cấu nhiễm

Sẽ dần dần gặp

Vô số ức Phật

Với chư Như Lai

Tạo nhiều nghĩa lợi.

Giả sử có người

Cúng dường Xá-lợi

Chỉ đọc lời rằng:

Nam-mô Phật-đà

Ai tâm loạn động

Nếu nói lời ấy

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Nhân duyên diệt độ

Dứt trừ lửa độc

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Ở trong hội chúng

Xây dựng niềm tin

Lúc ấy an trụ

Cứu giúp muôn loài

Giả sử có người

Nghe danh pháp này

Những người như thế

Sẽ thành Phật đạo.

Vào thời tương lai

Vô số ức Phật

Không thể nghĩ bàn

Không thể suy lường

Chư Phật Tối Thượng

Thầy của cõi đời

Sẽ vì họ giảng

Trí tuệ quyền biến

Các bậc Đại nhân

Dùng phương tiện khéo

Sẽ được thành Phật.

Đạo sư cõi đời

Sở dĩ khai hóa

Muôn ức chúng sinh

Thiền định trí tuệ

Vì trừ lậu nhiễm

Được nghe pháp ấy

Không có một ai

Tất cả mọi loài

Đâu không giác ngộ

Pháp chư Đại Thánh

Đều theo nguyện xưa

Khi hành Phật đạo

Giải thoát hoàn toàn

Vô lượng pháp môn

Ức ngàn vô số

Đến lúc cuối cùng

Mới vì thuyết giảng

Các Đấng Chí Tôn

Thường tuyên diệu pháp

Đó là gặp được

Chánh giáo chư Phật

Các pháp vốn tịnh

Thường hành tự nhiên

Các nghĩa lý này

Là Phật khai hóa

Chỉ Bậc Túc Tôn

Mới phân biệt giảng

Xướng dạy giáo pháp

Nghĩa lý Nhất thừa

Pháp làm định tâm

Chí giữ Giới luật

Thường ở thế gian

Tán tụng diễn giảng

Cùng nhau ngợi ca

Phương tiện khéo léo

Chư Phật Tối Thắng

Ý chí quảng đại

Là chỗ cúng dường

Trời người hướng đến

Chư Phật hiện tại

Như cát sông Hằng

Muốn lợi an ổn

Cho khắp quần sính

Bậc Đẳng Chánh giác

Cũng như chư Phật

Điều Phật diễn nói

Phương tiện quyền biến

Dạy bao nhiêu điều

Mở bày vào đạo

Đều cùng tán thán

Đạo Nhất thừa kia

Nơi chốn vắng lặng

Không có hai thừa

Phật biết chúng sinh

Công đức tu tập

Từ đời quá khứ

Nương theo chí tánh

Tinh tấn chọn lựa

Và xét cội nguồn

Người chưa giải thoát

Vì họ phân biệt

Các Đấng Đạo sư

Dùng nhiều nhân duyên

Lời lẽ dẫn dụ

Chỉ vì thị hiện

Soi xét chúng sinh

Giúp họ an vui

Dùng bao ngôn từ

Để khai hóa họ

Nay ta cũng thế

Là vừa cõi người

Mở cho chúng sinh

Pháp lợi, an ổn

Dùng các âm thanh

Trăm ngàn muôn ức

Chỉ vì hiển bày

Đạo lớn của Phật

Như Lai thuyết pháp

Dùng bao phương tiện

Biết các chúng sinh

Tâm họ ưa thích

Bao nhiêu sắc tượng

Khiến họ vui vẻ

Duyên trí tuệ ấy

Thuận theo đạo lực

Ta là Pháp Vương

Quản khắp thấy rõ

Những kẻ ngu mê

Lìa đức trí tuệ

Đọa vào sinh tử

Rơi hang hiểm sâu

Không được giải thoát;

Đời sau gian nan

Bị ái dục ràng

Rong ruổi tử sinh

Bụi trần lao nhọc.

Hôm nay tự tại

Đại Thánh oai thần

Biết chỗ mong cầu

Các pháp chưa từng

Đưa đến khổ họa

Các loại quẩn manh

Chìm trong sáu nẻo

Chấp vào tà kiến

Không thể thoát ra

Khổ não dẫy đầy

Lạc vào đường hiểm.

Ta phát đại Từ

Thương kẻ ngu si

Đến chỗ đạo tràng

Ngồi nơi an ổn

Trải cỏ làm tòa

Trong suốt bảy ngày

Tư duy suy nghĩ:

“Phải tìm pháp gì

Chấm dứt khổ đau

Kiêu mạn cõi đời?”

Quán sát đại thọ

Mắt không hề chớp.

Ta lại kinh hành

Quanh đại thọ ấy

Do tuệ thù thắng

Được đạo hy hữu

Chúng sinh luân chuyển

Trong đại vô minh.

Khi ấy Phạm thiên

Biết được ý Phật

Đế Thích, Tứ thiên

Các trời Hộ thế

Đại Tự Tại thiên

Và Thiên chúng lành

Vô số ức ngàn

Cùng nhau biết vậy

Tất cả chắp tay

Cung kính đảnh lễ.

Như Lai suy nghĩ:

“Nên làm thế nào

Nếu ta tán dương

Đạo đức của Phật

Những kẻ mê mờ

Không chịu tin theo

Những kẻ ngu si

Sẽ sinh hủy báng

Đã hủy báng rồi

Rơi vào phi pháp

Ta trước chưa từng

Nói pháp kỳ diệu

Thường vui việc khác

Nên dạy ra sao?

Ta xem việc làm

Các Phật quá khứ

Lúc ấy các Ngài

Khéo dùng phương tiện

Nay ta cũng nên

Đem Phật đạo ấy

Phân làm ba thừa

Mà khai hóa họ.”

Khi mới thành đạo

Ta nghĩ như vậy

Chư Phật Thế Tôn

Ở khắp mười phương

Đều tự hiện thân

Các Bậc Thánh ấy

Ca ngợi: Lành thay!

Chúng ta ca ngợi

Tán thán Năng Nhân

Thầy của cõi đời

Đó là chánh pháp

Phải nên vâng giữ

Phải nên tư duy

Khéo dùng phương tiện

Chư đại Thánh điển

Cũng học cứu đời,

Chúng ta là Phật

Noi theo Như Lai

Phân làm ba thừa

Mà khai hóa chúng

Vì kẻ trí nhỏ

Hạ liệt yếu mềm

Nghe chư Phật dạy

Không thể tự tin.

Do vậy chúng ta

Mới tìm cách giúp

Dùng quyền phương tiện

Vì họ thị hiện

Tán thán ngợi khen

Quả vị họ chứng

Và lại khuyến khích

Vô số Bồ-tát.

Lúc ấy Như Lai

Nghe tiếng ngợi ca

Liền hiểu rõ ràng

Lời của chư Phật

Các Đấng Chí Tôn

Tâm sinh hoan hỷ

Đấng Đại Thần Thông

Phân biệt danh sắc

Lúc đó mọi người

Sẽ tuân hành đạo

Theo lời giảng dạy

Của chư Đạo Sư.

Tỳ-kheo, lúc ta

Sinh ở cõi người

Giữa chốn phàm phu

Cũng tu pháp ấy

Này Xá-lợi-phất!

Khi hiểu điều ấy

Ta liền đi đến

Nước Ba-la-nại

Tức thời tập hợp

Các vị Tỳ-kheo

Chúng hội muốn biết

Pháp Phật khéo dùng

Đúng thời Như Lai

Chuyển bánh xe pháp

Phát khởi tuyên dương

Diệt độ Niết-bàn

Và quả La-hán

Pháp âm tán thán

Như Lai ca tụng

Đức của Thánh chúng

Ta ở giữa họ

Thuyết kinh điển này

Tất cả đều đến

Nương tựa Thế Tôn

Cùng nhau chắp tay

Đứng thật cung kính

Như Lai phương tiện

Vì khấp muôn loài.

Khi ấy Thế Tôn

Suy nghĩ như vầy:

“Nay đã đúng thời

Ta thuyết tôn pháp”

Sở dĩ Như Lai

Xuất hiện thế gian

Là để giảng nói

Phật thừa tối thượng

Vì kẻ ngu si

Khởi bao vọng tưởng

Nếu nói pháp ấy

Ít kẻ tin theo

Kiêu mạn cống cao

Không chịu vâng nhận

Nhưng mà pháp này

Bồ-tát sẽ nghe

Vui theo lời Phật

Dũng mãnh tu trì

Tất cả rang buộc

Đúng thời đoạn dứt.

Hôm nay ta nói

Pháp lớn tối thượng

Chính vì khuyên nhắc

Vào tuệ giác Phật,

Con của chư Phật

Được gặp pháp này

Nhân đây tin hiểu

Thuận hành pháp luật

Một ngàn hai trăm

Chư vị La-hán

Các lậu đã dứt

Đều sẽ ở đây

Thành tựu Phật đạo.

Cũng như xưa kia

Chư Phật Đại Thánh

Cũng ở tương lai

Là pháp tối thắng

Ta cũng như vậy

Trước bỏ vọng tưởng

Sau đó mới đến

Giảng pháp Phật thừa

Thời gian rất lâu

Thế gian mới có

Bậc Trí cao vời

Khai hiển Thánh đạo

Mắt tuệ giải thoát

Đã hiện trong đời

Tuyển chọn hy hữu,

Phật giảng pháp ấy

Trong ức trăm ngàn

Vô lượng số kiếp

Nay mới được gặp

Như thời tượng pháp.

Giả sử Bồ-tát

Được gặp kinh này

Hoặc lại được nghe

Phật đạo Tôn quý

Như hoa Linh thụy

Lâu lâu mới thấy,

Khi thấy được hoa

Ai cũng yêu thích

Sắc hoa tuyệt diệu

Vui đẹp khó có

Trên trời dưới thế

Bậc Thánh Vô thượng

Pháp đại Tôn quý

Thật là trân kỳ.

Giả sử có người

Thuyết giảng kinh này

Một lần cất tiếng

Hoan hỷ khuyên răn

Là đã cúng dường

Tất cả chư Phật

Tâm của người ấy

Không loạn, hoài nghi.

Ta là Pháp vương

Giáo hóa cùng khắp

Trong pháp của ta

Tất cả Thanh văn

Ta đều khuyến khích

Tuân theo Phật đạo.

Này Xá-lợi-phất!

Và các Thanh văn

Hiện đang ở đây

Đều đang im lặng.

Các Bồ-tát kia

Tâm trí dũng mãnh

Mật trì pháp này

Chớ nên vọng nói.

Vì sao ở đời

Có năm vẩn đục

Hoặc có chúng sinh

Tâm ác, chí thấp

Tham dục ngu si

Và thích phỉ báng

Những hạng như thế

Không thể đạt đạo;

Nếu trong tương lai

Được nghe pháp này

Phật thừa duy nhất

Của Như Lai dạy,

Nếu lại có người

Nghe pháp tối thắng

Phỉ báng kinh này

Liền đọa địa ngục.

Chỉ có những ai

Hổ thẹn, thanh tịnh

Chí nguyện phát tâm

Tuân theo Phật dạy

Ngộ pháp Đại thừa

Phước đức vô lượng,

Chư Phật Thánh trí

Liền hiện trước mắt

Bậc Thầy thế gian

Giảng pháp như vậy

Phương tiện tùy nghi

Muôn ức trăm ngàn

Phân biệt vô số

Lại không nhớ nghĩ

Nếu ai không học

Không thể hiểu thấu

Vì thế biết rằng

Rõ lời chân chánh

Bậc Thánh ra đời

Thuận tu tuệ sáng

Đoạn các hoài nghi

Dứt trừ do dự

Hoan hỷ bền chí

Đều sẽ thành Phật.

Chú thích:

[1] 1 Tam sự 三事 còn gọi là tam lực, tam niệm lực gồm: 1. Đạt thệ nguyện lực: sức nhiếp hóa đưa chủng sinh đến quả vị Phật. 2. Tam-muội định lực: Năng lực thiền định của Phật. 3. Bản công đức lực: Sức công đức do tu tập trong vô số kiếp (Phật Quang Đại từ điển, Phật Quang Sơn xuất bản, q.1 , tr 563, 1989).

***

Phẩm 3: ỨNG THỜI

Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Đức Phật dạy pháp thoại ấy xong hoan hỷ phấn chấn, tiền đứng dậy chắp tay bạch Đức Thế Tôn:

– Hôm nay con nghe Thế Tôn giảng nói pháp yếu này, trong lòng hoan hỷ, được việc chưa từng có. Vì sao? Vì ngày trước con thường theo Phật nghe thuyết pháp dạy về Bồ-t t thừa, thấy các vị Bồ-tát nghe theo lời Phật dạy đạt đến Chánh giác mà chúng con không thể dự vào nên cảm thấy tiếc nuối vô cùng, tâm bị thương tổn, tự cho rằng không thể lãnh hội nổi. Con đã đánh mất trí tuệ Như Lai; con một mình kinh hành dù ở chốn núi cao rừng rậm, hoặc ở dưới gốc cây nơi vắng vẻ , hay trong thất nhỏ an tịnh, tự thúc liễm thân tâm theo lời Phật dạy mà lòng càng thêm sầu khổ. Con tự cho rằng đã đạt được thành quả. Đức Thế Tôn đã vì con dạy bao nhiêu lời để chỉ dẫn mà con vẫn giữ ý chí Tiểu thừa, đó là lỗi của con chứ chẳng phải của Như Lai. Đức Thế Tôn đã diễn giảng cho con pháp của Bậc Đại Thánh với tâm bình đẳng, làm cho chúng cơn tán thán, tô n kính phụng trì, cho rằng đã lãnh thọ được lời dạy tối thượng của Đức Như Lai, cho đến đã thành tựu Tuệ giác vô thượng. Chúng con đã thuận theo mà mặc pháp phục, kiến 1ập hạnh nguyện không biết bao nhiêu lần.

Bạch Thế Tôn! Tuy vậy từ trước tới nay con thường tự trách mình, suốt ngày đêm suy nghĩ rằng con tuy từ pháp sinh ra mà không được tự tại, tất cả đều nhờ ân Phật mới được xa lìa các nẻo ác. Đến nay con mới được nghe pháp này.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ ca ngợi:

Được nghe Phật thừa

Nghĩa của một câu

Vượt khỏi mê lầm

Thật chưa từng có

Pháp con nhận lãnh

Chẳng thể nghĩ bàn

Thấy Đấng Chí Tôn

Lòng thêm hoan hỷ.

Giả sử có người

Xưa nay đã từng

Nghe pháp an ổn

Lấy đó làm vui

Các bụi trần lao

Ác nghiệp phiền não

Tin vào pháp ấy

Cũng đều dứt sạch.

Con thường ngày đêm

Lúc đi kinh hành

Hoặc dưới gốc cây

Ngồi tịnh nhất tâm

Hoặc nơi rừng sâu

Trong chốn núi cao

Con ngồi trầm tư

Suy nghĩ thế này:

Than ôi, tự trách

Lòng ác ngăn che

Do pháp bình đẳng

Mà được vô lậu

Không từ ba cõi

Kính thuận giáo pháp

Xét lỗi quá khứ

Dè răn tương lai,

Thân Phật sắc vàng

Ba mươi hai tướng

Con đã trái xa

Không tự trang nghiêm,

Tám mươi vẻ đẹp

Viên mãn thù thắng

Gồm đủ các tướng

Không cần trang sức,

Căn lực giải thoát

Tám loại thanh âm

Nơi pháp bình đẳng

Mà tự đánh mất,

Pháp của chư Phật

Có mười tám việc

Pháp nghĩa như vậy

Con đã đánh mất,

Âm thanh con nghe

Vang khắp mười phương

Con được nghe thấy

Phật thương cuộc đời

Thường sống một mình

Ngày đêm kinh hành

Lại tự trách mình

Lòng luôn tư duy

Ngày đêm hồi tưởng

Tự rất đắn đo

Suy đi nghĩ lại

Mong độ tự thân

Phải hỏi Thế Tôn

Ý nghĩa thế này:

Con sai chỗ nào

Lại mất pháp lợi

Với trí tuệ Phật

Hiện tại trước mắt?

Bất cứ lúc nào

Ngày đêm ngẫm mãi

Con thấy Bồ-tát

Đông nhiều vố số

Thầy của cõi đời

Tuỳ nghi hóa độ

Các vị được nghe

Lời dạy Thế Tôn

Vì khắp muôn loài

Diễn giảng pháp lực

Về pháp khó lường

Các lậu dứt trừ

Đều được giác ngộ

Trí tuệ nhiệm mầu

Con thấy biết bao

Các nơi tế tự

Phạm chí ngoại đạo

Các pháp tà ngụy

Do những điều ấy

Hiểu lời Phật dạy

Thấy cửa giải thoát

Nói pháp Niết-bàn

Con hiểu tất cả

Chỗ thấy và làm

Đồng thời thấu triệt

Pháp không, vô thường

Do đó tự cho

Đã được diệt độ

Nay con mới biết

Chưa thật Niết-bàn

Được thấy chư Phật

Thầy của trời, người

Khi Bậc Tôi Thắng

Được chúng vây quanh

Ba hai tướng tốt

Hào quang sáng ngời

Do đó hiểu rõ

Niết-bàn Vô dư

Con nghe Phật nói

Trừ các khổ não

Không cần âm thanh

Mà được giải thoát

Như điều con biết

Chánh giác sư tử

Chu Thiên loài người

Đều theo phụng sự

Phật dùng oai lực

Luôn trụ như thế

Lần đầu được nghe

Đức Thế Tôn dạy

Tưởng ma Ba-tuần

Biến làm hình Phật

Phật chẳng phải ma

Đến gây nhiễu hại

Phật dùng nhân duyên

Thuyết pháp dẫn dụ

Vô số ức ngàn

Hiển hiện vô vàn

Khéo lập bờ kia

Đến biển ý đạo

Con nghe pháp đó

Trừ các hồ nghi

Vô số muôn ngàn

Có trăm ức Phật

Con đều trông thấy

Đã nhập Niết-bàn

Như chư Phật kia

Đã thuyết kinh pháp

Khéo dùng phương tiện

Tùy thuận giáo hóa

Giả sử có người

Hiện hạnh cứu cánh

Chư Phật đương lai

Muôn ức trăm ngàn

Vận dụng phương tiện

Khéo dạy mọi người

Giảng nói kinh pháp

Khuyên đến Niết-bàn

Tùy căn cơ họ

Dùng tuệ giáo hóa

Phân biệt hoàn toàn

Theo đúng trình tự

Pháp của chư Phật

Sẽ đem giảng giải

Lập tức theo Phật

Nghe chuyển pháp luân

Đạo Sư Đại Hùng

Dạy pháp chân nhã

Con cũng như vậy

Nương nhờ pháp ấy

Các chúng ma kia

Đều không dám khởi

Lòng con không có

Chướng ngại nghi tà

Khởi tâm dịu êm

Với đạo thậm thâm

Nhờ âm thanh Phật

Tâm con hoan hỷ

Hôm nay được nghe

Bao nỗi nghi ngờ

Con đều dứt hẳn

Trụ nơi tuệ Thánh

Con sẽ thành Phật

Thoát lưới hoài nghi

Chư Thiên, loài người

Cùng các quyến thuộc

Hôm nay được thấy

Đạo nhãn Như Lai

Giúp con giáo hóa

Cho khắp chúng sinh.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

Hôm nay ta ở giữa hội chúng Trời, Người, Sa-môn, Phạm chí, A-tu-1a. Ở cõi trời và cõi người tuyên bố ta biết Xá-lợi-phất xưa kia đã từng cúng dường ba mươi hai ngàn ức Đức Phật và được chư Phật giáo hóa sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Chính ta thường đem giáo nghĩa Bồ-tát phương tiện dắt dẫn cho ông. Nhờ duyên này nên ông đã tu tập thành tựu trong giáo pháp của ta, được Như Lai kiến lập oai thần, cũng dạy cho ông chí nguyện Bồ-tát. Ông chưa được Niết-bàn mà tự cho là đã dược Niết-bàn.

Xá-lợi-phất! Nếu ông muốn nhớ lại việc làm xưa kia của mình ở nơi vô số Đức Phật thì nên thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, được tất cả chư Phật hộ niệm này và vì tất cả chúng Thanh văn phân tích giải nói.

Xá-lợi phất! Trong thời vị lai, vô lượng, vô biên không thể tính đếm kiếp, ông sẽ cúng dường trăm ngàn vạn ức Đức Phật, thọ trì giáo pháp chân chánh, kính giữ tu hành kính Phương đẳng này, thành tựu đầy đủ các hạnh sẽ được thành Phật, hiệu là Liên Hoa Quang Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư. Cõi nước ấy tên Ly cấu, bằng phẳng, an vui, ánh sáng chiếu rực rỡ, đời sống thanh tịnh, chỗ ở an ổn, thực phẩm dồi dào, dân chúng đông đảo, mọi người nam nữ trong nước đều được vui vẻ sung túc. Nước ấy dùng lưu ly, vàng ròng làm màn che, có những dải lụa giăng hai bên đường đi, có tám lớp cây bảy báu ở ngã tư đường, cành lá, hoa trái trên những cây ấy luôn xanh tươi, đẹp đẽ.

Đức Phật Liên Hoa Quang cũng đem pháp Tam thừa tiếp tục giáo hóa chúng sinh. Ngài thuyết pháp trọn một kiếp, những pháp Ngài dạy đều hướng dẫn chúng sinh đến với nguyện Đại thừa. Thời kỳ của Đức Phật Liên Hoa Quang tên là Đại bảo nghiêm. Vì sao gọi là Đại bảo nghiêm? Vì trong nước của Đức Phật ấy, chư vị Bồ-tát số đông vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn, không có hạn lượng, chỉ có Như Lai mới có thể biết hết. Chư Đại sĩ Bồ-Tát ở cõi Phật ấy đều là bậc có trí tuệ sáng suốt, đức hạnh quý báu như hoa sen, không phải mới phát tâm mà đã lâu đời gieo trồng cội rễ công đức, tu hành phạm hạnh thanh tịnh lâu dài, gần gũi Như Lai, thường tu tập trí tuệ Phật, có đủ thần thông lớn, an trụ trong chánh pháp, dõng mãnh, tinh tấn. Chư vị Bồ-tát luôn đầy đủ không suy giảm. Vì thế mà thời kỳ ấy có tên là Đại bảo nghiêm.

Đức Phật Liên Hoa Quang sẽ thọ mười hai trung kiếp, không kể thời gian làm vương tử. Nhân dân trong nước của Ngài tám kiếp. Đức Phật Liên Hoa Quang sau khi mãn mười hai trung kiếp, sẽ thọ ký cho Bồ-tát Kiên Mãn. Ngài bảo các vị Tỳ-kheo:

– Sau khi ta diệt độ Bồ-tát Kiên Mãn đây sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân hiệu là Độ Liên Hoa Giới Như Lai Chánh Giác.

Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Phật Liên Hoa Quang diệt độ, thời kỳ chánh pháp và tượng pháp trụ ở đời hai mươi trung kiếp. Cõi nước của Đức Phật sau cũng giống như cõi nước Đức Phật trước không sai khác. Đức Độ Liên Hoa Giới Như Lai cũng thọ hai mươi hai trung kiếp mới diệt độ. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp và tượng pháp của Ngài cùng trụ ở đời hai mươi hai trung kiếp.

Khí ấy Đức Thế Tôn dùng kệ rằng:

Này Xá-lợi-phất!

Trong thời vị ]ai

Ông sẽ thành Phật

Như Lai Tối Thắng

Hiệu Liên Hoa Quang

Mắt tuệ bình đẳng

Truyền dạy hóa độ

Vô số chúng sính.

Ông sẽ phụng sự

Vô lượng Phật-đà

Tính tấn tu tập

Bao hạnh viên mãn

Khuyến hóa khắp cả

Đầy đủ mười Lực

Nên được thành tựu

Quả Phật tối diệu,

Không thể nghĩ bàn

Kiếp thật vô lượng

Kiếp ấy có hiệu

Đại bảo trang nghiêm,

Thế giới mang tên

Là nước Ly cấu

Cõi nước Phật ấy

Vô cùng thanh tịnh,

Dùng lưu ly biếc

Rải khắp đất bằng

Dây vàng lấp lánh

Giăng bên đường đi

Vô số loại cây

Đều bằng bảy báu

Hoa quả trên cây

Đều bằng vàng ròng

Bồ-tát cõi ấy

Ý chí vững bền

Thành tựu ngôn hạnh

Thánh trí thông minh

Khéo học Phật đạo

Muôn ức trăm ngàn

Hiện đều đã đạt

Giáo pháp tôi thắng

Phật ấy diệt độ

Không gì trở ngăn

Khi làm đồng tử

Không có đắm say

Lìa xa ái dục

Bỏ đi xuất gia

Thành tựu Tuệ giác

Phật đạo Vô thượng.

Bậc Tối Thắng ấy

Luôn được tư tại

Thọ mạng của Ngài

Mười hai trung kiếp

Giáo pháp sẽ trụ

Ở đời tám kiếp

Thọ mạng kiếp số

Của Phật như vậy

Đức Liên Hoa Quang

Sau khi diệt độ

Viên mãn tràn đầy

Hai mươi trung kiếp

Khi ấy pháp trụ

Vô lượng vô số

Thương xót trời, người

Và khắp mọi loài

Chánh pháp của Phật

Sau khi kết thúc

Tượng pháp sẽ trụ

Hai mươi trung kiếp.

Xá-lợi của Ngài

Truyền rộng khắp nơi

Trời, người, quỷ, thần

Cúng dường tối thắng

Đức độ Thế Tôn

Cũng sẽ như vậy.

Này Xá-lợi-phất!

Hãy tự vui mừng

Cõi nước của ông

Trang nghiêm như vậy

Phước trí tôn quý

Không ai sánh bằng.

Lúc ấy bốn bộ chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-đi và Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… nghe Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, tâm họ vô cùng hoan hỷ, phấn chấn không thể diễn tả được. Mỗi người tự lấy y của mình dâng lên Đức Thế Tôn. Trời Đế Thích, Phạm thiên vương cùng vô số Thiên tử cũng đem y trời cúng dường Đức Thế Tôn rồi dùng các loại hoa hương cõi trời như hoa Ý, hoa Đại ý tung rải hiến cúng Đức Phật. Y và hoa của chư Thiên tung lên đầy khắp hư không và đứng yên ở đó. Nhạc trời tự nhiên hòa tấu, trên trời tự nhiên sấm sét vang rền và mưa hoa khắp nơi. Chư Thiên cùng cất tiếng ca ngợi:

– Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con được nghe pháp từ xưa chưa từng có- Trước đây trong vườn Nai, tại nước Ba-la-nại, Thế Tôn đã lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp bất khả thuyết. Hôm nay Thế Tôn lại giảng nói bánh xe chánh pháp Vô thượng.

Lúc ấy các vị Thiên tử dùng kệ tán thản:

Bậc thế gian khó sánh

Nay chuyển bánh xe pháp

Vì mọi người giảng nói

Năm ấm sinh và diệt

Tuyên thuyết đệ nhất nghĩa

Trình tự mười hai duyên

Đấng Đạo Sư diễn nói

Ít người muốn tin hiểu.

Đấng Đại Thánh trên đời

Con nghe nhiều chánh pháp

Nhưng từ xưa đến nay

Chưa từng nghe pháp này,

Lời Bậc Đạo Sư dạy

Chúng con kính tùy hỷ

Đại trí Xá-lợi-phất

Vừa được Phật thọ ký.

Chúng con xưa phát tâm

Cúng dường vô số Phật

Chúng con mong nhờ ân

Được làm Phật tối thượng,

Bao nhiêu điều phước lợi

Hạnh thanh tịnh đã làm

Phụng thờ Phật quá khứ

Nguyện đạt thành Phật đạo.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Đức Thế Tôn:

– Hôm nay con không còn thắc mắc, hoài nghi nữa. Nay con đối trước Thế Tôn, được Phật thọ ký cho con thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.

Bạch Thế Tôn! Một ngàn hai trăm vị tự tại giải thoát này, xưa nay chẳng phải không ở trong học địa sao? Thế Tôn có dạy các vị ấy sẽ đạt được Phật quả như con không? Các vị Tỳ-kheo này tâm hạnh an định tuân giữ pháp luật, thoát ly sinh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Những vị Tỳ-kheo này đã cúng dường muôn ngàn vô số Đức Phật, học các pháp môn, lo sợ chấp ngã trong ba đời, hủy các tà kiến, lập hạnh diệt độ, tưởng rằng đã được Niết-bàn. Từ trước đến nay họ chưa từng được nghe giáo pháp này nên tâm rất phân vân, nghi ngờ. Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài nói yếu nghĩa khiến cho chúng Tỳ-kheo đây được dứt bỏ lưới nghi. Nay cả bốn chúng đều ôm lòng buồn bã, xin Ngài giải thích khiến cho họ thoát khỏi tâm niệm hoài nghi, hối tiếc.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

– Như Lai vừa rồi đã chẳng nói giáo pháp ấy hay sao? Ta đã đem bao nhiêu phương tiện quyền biến, tùy theo nhân duyên của mỗi người mà thị hiện. Tất cả pháp mà Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác giảng nói phân biệt đều vì đạo Vô thượng chánh chân. Những gì ta tán thán, các ông cần biết chính là vì đạo Bồ-tát. Xá-lợi-phất, nay Như Lai nói ví dụ để giải thích rõ thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí tuệ nhờ ví dụ này mà được hiểu rõ hơn.

Ví như tại một thôn xóm của nước kia có vị đại trưởng giả tuổi đã già suy, đứng ngồi khó khăn. Ông trưởng giả này vô cùng giàu có, có một ngôi nhà lớn kín cổng cao tường- Ngôi nhà đã quá cũ kỹ mà lại có trăm ngàn người ở trong đó- Nhà chỉ có một cửa duy nhất và người trông nom. Phòng ốc xiêu vẹo, cột kèo mục nát, mái hiên, cửa sổ … bị rong rêu bám dày đặc. Bỗng nhiên một ngọn lửa lớn từ một phía nổi lên thiêu đốt ngôi nhà ấy-

Trưởng giả có mười người hay hai mươi người con. Ông muốn các con ra khỏi ngôi nhà ấy, nhưng các người con vẫn mê mãi vui chơi ăn uống. Cuối cùng thấy lửa bốc cháy họ đều chạy quanh, hỏi nhau mà không biết lối ra. Người cha suy nghĩ: “Nay ngôi nhà bị lửa dữ đốt cháy khắp nơi, ta phải tìm cách nào để cứu các con ta ra khỏi ngôi nhà ấy.”

Người cha biết ý thích của mỗi đứa con nên liền bày ra đủ các cỗ xe để dạo chơi như xe voi, xe ngựa, đặt ngay trước cửa để cho các con mau ra ngoài. Ông lại đánh trống và trổi lên các khúc âm nhạc tuyệt diệu, các trò vui chơi thú vị để giúp các con khỏi tai nạn lửa cháy và hứa sẽ ban cho chúng các thứ xe voi, xe ngựa, xe dê và xe kéo. Vị trưởng giả nói:

– Ta đã chuẩn bị đầy đủ và để ngoài cửa, các con hãy mau chạy ra khỏi nhà lửa. Các con sẽ được tha hồ vui chơi theo ý thích của mình.

Các người con nghe lời dạy của cha, hứa ban cho các loại xe voi, xe ngựa và âm nhạc nên ai cũng hăng hái tìm phương cách sử dụng cát, nước để dập lửa và xô đẩy nhau vội vã chạy ra khỏi nhà lửa. Trưởng giả thấy các con đã an ổn ra khỏi nhà lửa, ngồi nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư thì lòng ông khoan khoái, không còn lo sợ gì nữa.

Mỗi người con đều thưa cha:

– Xin cha ban cho con xe voi, xe ngựa và các loại nhạc cụ vui thích mà cha đã hứa.

Này Xá-1ợi-phất! Vị đại trưởng giả khi đã ban cho mỗi người con một cỗ xe lớn bằng bảy báu như nhau. Cỗ xe ấy rất cao rộng, được trang hoàng bằng các thứ ngọc làm màn bao quanh và các vật báu quý hiếm vô cùng, những đường dây anh lạc kết hoa có hương thanh khiết. Xe lại được trải lụa và những đệm gối mềm mại, màu sắc đẹp đẽ. Những con vật kéo xe đều khỏe đẹp, trắng sạch như vầng tia chớp. Mui trần được bao phủ bằng loại gấm thật hiếm có. Mỗi người con đều được nhận một cỗ xe.

Trưởng giả nghĩ: “Ta sẽ ban cho các con đồng đều những loại đồ chơi tốt đẹp. Vì sao? Vì những đứa bé này đều là con của ta, ta yêu thương chúng đồng đều không thiên lệch. Vì thế nên ta ban cho các con những cỗ xe lớn như nhau.”

Này Xá-lợi-phất! Như Lai cũng vậy. Như Lai là cha của muôn loài, vật báu đầy ắp trong kho không thiếu. Như Lai đã đem pháp phương tiện để giáo hóa, khuyến dẫn chúng sinh phát triển trí tuệ hướng đến Đại thừa. Các người con của trưởng giả khi đã đạt được cỗ xe lớn đẹp, cho đó là được điều trân quý chưa từng có nên cưỡi xe dạo chơi khắp nơi. Ý của ông nghĩ sao? Trưởng giả ban cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không có dối trá. Vị trưởng giả đó rất thành thật. Vì sao? Vì ông trưởng giả ấy muốn cứu giúp các con, không muốn cho chúng gặp tai nạn lửa thiêu đốt, tùy theo ý các con muốn mà hứa ban cho các con. Sau khi chúng đã thoát ra khỏi nhà lửa, ông đã ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn đẹp. Vì thế ông trưởng giả không hề hư vọng. Cuối cùng các người con đều được như ý, vì trưởng giả đã dùng phương tiện khiến cho các người con của ông thoát khỏi tai họa. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng kho tàng châu báu, nên đồng đều ban cho các con những cỗ xe lớn, thật là không hư vọng vậy.

Đức Thế Tôn bảo:

– Lành thay, Xá-lợi-phất! Thật đúng như lời ông nói! Đức Như Lai là Bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, ánh sáng tỏa chiếu đến các chốn u tối ở khắp mười phương. Như Lai đã giải thoát và đoạn hẳn những gốc rễ của phiền não, sợ sệt, lo buồn. Như Lai với trí tuệ đã thấy rõ cành lá, hoa quả của chúng.

Như Lai là Bậc Pháp Vương có thần lực, là từ phụ của muôn loài, khéo vận dụng phương tiện, luôn nghĩ đến việc cứu độ chúng sinh, thực hành tâm đại Bi bình đẳng, đạo vô tận, thương xót ba cõi bị lửa dữ đất cháy, mọi loài không thể ra khỏi, nên Như Lai xuất hiện ở thế gian để cứu vớt chúng sinh vượt qua sinh, già, bệnh, chết và phiền não ràng buộc, không được như ý. Như Lai lại làm cho chúng sinh được thoát khỏi tham dục, sân giận và si mê, dụ dẫn nói pháp Tam thừa, khuyên họ tu tập dần dần, hướng dẫn họ tiến đến đạo Vô thượng chánh chân.

Như Lai xuất hiện ở thế gian thấy các chúng sinh bị vọng tưởng, tiền tài, danh vọng, đam mê không biết nhàm chán, từ ái dục đưa đến vô số khổ đau. Hiện tại họ tham cầu theo đuổi, nếu không được cứu giúp trong tương lai sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, bị gánh nặng thiêu đốt, nấu rang, đói khát, đau đớn không thể kể hết. Giả sử được sinh lên cõi trời hay ở tại nhân gian thì bị khổ vì ân ái mà chia lìa, không thể gặp được nhau mà ưu não khó lường nên đều muốn thoát khổ. Chúng sinh cứ ca múa, vui chơi mà không biết kinh sợ nạn ấy nên không thể tự giác ngộ, không chịu tư duy về cội nguồn đau khổ, cũng chẳng mong cầu được cứu giúp mà vẫn ở mãi trong cảnh thiêu đốt ấy. Vì chúng trong ba cõi đang có nỗi họa đau khổ ấy nên ta phải nói pháp, an lập cho họ vào nơi vô cùng an ổn. Đó là chánh trí của vô lượng, không thể nghĩ bàn các Đức Phật. Chúng sinh đang tràn đầy dục lạc và mê hoặc.

Như Lai vì khuyên họ thể đạt đầy đủ thần thông và trí tuệ giả thoát nên khéo dùng phương tiện quyền biến để dạy họ trí tuệ của Phật, để họ được nghe thần lực vô sở úy của Phật, nhưng chúng sinh vẫn mù mờ không chịu tin nhận, vì bị các nhân duyên trói buộc nên không giải thoát khỏi tai họa lo sầu sinh, già, bệnh, chết, xưa nay chưa bao giờ thoát khỏi được sự thiêu đốt của ba cõi, không hiểu rõ pháp để quay về thì làm sao lãnh hội được tuệ giác Phật-đà? Ví như vị trưởng giả có trí lực như sức mạnh dũng mãnh, vững vàng của nhiều lực sĩ mới cứu giúp các con ông khỏi tai họa nhà lửa, dùng phương tiện khuyên bảo khiến chúng thoát khỏi ra ngoài, sau đó mới ban cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu, tốt đẹp.

Cũng vậy, này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai Chánh Giác dùng lực vô úy kiến lập các đức, khéo dùng phương tiện, tu tập trí tuệ dũng mãnh nên thấy ba cõi như ngôi nhà lửa. Vì muốn cứu giúp nạn khổ cho chúng sinh nên Như Lai thị hiện dạy đạo Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát, dùng ba thừa ấy khuyến hóa họ rời khỏi ái dục. Như Lai dạy cho chúng sinh dập tắt lửa ở nơi ba cõi, thoát khỏi sự trói buộc của dâm, nộ, si và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thấp hèn. Nếu ai tham đắm ngũ dục trong ba cõi sẽ bị lửa ngũ dục nung đốt, không dựa vào ba cõi sẽ được ba thửa, tinh tấn tu tập ba thừa ấy sẽ vượt khỏi ba cõi. Tất cả chư Phật đều dạy cần tinh tấn tu tập ba thừa nên vô số chúng sinh đều tập hợp đến với đạo.

Thế Tôn đã phương tiện dạy các hạnh ấy làm cho các ông vui thích tu tập Căn, Lực, Giác ý, Thiền định, Giải thoát, Tam-muội chánh thọ, đời sau sẽ đạt đến vô lượng pháp lạc, an vui tự tại, không còn bị bất cứ chướng ngại nào.

Xá-lợi phất! Nếu chúng sinh nào chưa sinh lòng tin, Như Lai ra đời mang lại cho họ đức tin. Họ theo Phật, nghe giáo pháp và tinh tấn phụng hành, cứu cánh của họ là muốn đạt đến Niết-bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, mong cầu quả vị La-hán vượt khỏi ba cõi.

Ví như vị trưởng giả theo lời hứa ban xe để cho các người con mới thoát nạn. Nếu có người nào không gặp thầy dạy giáo pháp, tự mình xuất gia mong cầu đến nơi vắng lặng, thích sống đơn độc, giác ngộ lý duyên khởi, tinh tấn tu tập theo giáo pháp của Như Lai vị ấy được gọi là Duyên giác thừa. Cũng như khi những người con của vị trưởng giả đã rời khỏi nhà lửa, ông liền theo lời hứa ban cho cỗ xe ngựa.

Nếu có người nào mong cầu trí tuệ hoàn toàn, Tuệ giác của Phật, Thánh tuệ tự tại phát xuất từ tự tâm, trí tuệ vô sư, có tâm đại Từ bi muốn đem lại sự an ổn cho chư Thiên và loài người, muốn làm lợi ích cho chư Thiên và loài người, muốn chúng sinh an trí trong pháp của Phật và được giải thoát nên người ấy tinh tấn phụng hành, mong cầu quả vị Phật, có sức trí tuệ vô sở úy thấy khắp tất cả, gọi là con đường của Như Lai. Các ví Đại sĩ Bồ-tát đi trên con đường này. Ví như ông trưởng giả khuyến dụ các con ra khỏi tai nạn lửa đốt, nên hứa cho xe voi để các con chạy ra khỏi nhà lửa. Người cha trông thấy con thoát khỏi nhà lửa an toàn, đến chỗ không sợ hãi, tự biết mình tài sản vô lượng nên ban cho các con những cỗ xe lớn đẹp bằng bảy báu bằng nhau không khác. Đức Như Lai Chánh Giác cũng lại như vậy, thấy vô số trăm ngàn muôn ức chúng sính muốn cứu họ thoát khỏi ba nạn khổ đau kinh sợ, nên do bản nguyện của Phật mà mở cửa sinh tử, khiến cho chúng sinh thoát khỏi hiểm nạn khủng khiếp, được Niết-bàn an vui.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai lúc ấy từ ngôi nhà tam giới, dùng vô số tuệ lực vô sở úy, thấy các con của Như Lai bị khổ ách nên khuyến hóa khiến tất cả họ quay về với Phật thừa mà không để cho mỗi người tự ý Niết-bàn riêng lẻ. Như Lai đều khuyên dạy họ, đem Niết-bàn của Như Lai mà làm cho họ được Niết-bàn. Nếu có chúng sinh được thoát khỏi ba cõi, Như Lai đều dùng trí tuệ, giải thoát, thiền định của Như Lai để an ủi, ngợi khen, ban cho họ pháp nghĩa an lạc cùng một sắc thái và cùng một phẩm chất Phật đạo. Như vị trưởng giả kia lúc đầu hứa cho các con ba thứ xe, nhưng khi thấy các con đã thoát nạn mới ban cho mỗi người một loại xe lớn như nhau. Vị trưởng giả ấy thật không có lỗi dối trá. Mỗi người con được xe nhảy nhót vui mừng không xiết.

Như Lai cũng như vậy, ban đầu thị hiện tam thừa nhưng sau đó đều khuyến hóa, đưa tất cả vào Đại thừa, chẳng phải là dối trá vậy. Vì sao? Nên biết rằng Đức Như Lai Đẳng Giác có vô số kho tàng quý giá, sử dụng một cách tự tại, vì tất cả chúng sinh thị hiện pháp lớn, dạy chúng sinh các thần thông, bi mẫn, trí tuệ. Các ông nên biết, nên hiểu rõ ý nghĩa ấy, Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác khéo dùng phương tiện lực, dùng trí tuệ, lời nói chỉ để tuyên thuyết Nhất thừa, là Phật thừa mà thôi.

Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa trên, nói kệ:

Ví như trưởng giả

Có ngôi nhà lớn

Đã quá cũ kỹ

Nghiêng ngả, mục nát

Nơi ngôi nhà chính

Sắp sửa hư rã

Cột kèo, rui mè

Đều đã mục gãy

Bao nhiêu hiên cửa

Cửa sổ, cửa lớn

Lại các kho lẫm

Bằng cây, đất nện

Tường cao nghiêng đổ

Vách phên suy sụp

Liếp che mái lợp

Quá cũ rã rời

Hiện đang trong đó

Có năm trăm người

Cùng nhau tụ tập

Ở trong nhà ấy

Cỏ cây mọc đầy

Dùng để mà nuôi

Vô số gia súc

Tất cả các cửa

Đều luôn đóng kín

Có lầu gác đẹp

Và các hoa sen

Vô số mùi hương

Tỏa hương ngào ngạt

Biết bao loài chim

Cùng loại vây quanh

Các loài trùng, rắn

Dơi độc bay rúc

Khắp chốn, khắp nơi

Có các trùng ác

Nhiều loài thú dữ

Chuột, rít, bò cạp

Tên gọi khác nhau

Kêu la rên siết

Khắp nơi trên đất

Hoặc trong chỗ kín

Phân với nước tiểu

Ô uế chảy tràn

Sâu, giòi, gai gốc

Trong đó dẫy đầy

Sư tứ, sói lang

Cắn xé lẫn nhau

Cùng nhau nhai gặm

Thí thể người chết

Người nào nghe thấy

Không khỏi kinh sợ

Vô số bầy chó

Đua nhau vồ chụp

Chúng chạy cuống cuồng

Tranh giành bươi móc

Nơi nơi chỗ chỗ

Nga quỷ lúc đó

Đều đến tranh ăn

Đói khát rã rời

Cùng nhau gặm nhấm

Tiếng chúng cất lên

Ngôi nhà rùng rợn

Biến trạng như thế

Có các quỷ thần

Ôm lòng độc hại

Ruồi nhặng, bọ chét

Cũng rất đông nhiều

Có cả trăm loại

Và các yêu tinh

Rảo chạy bốn phía

Sản sinh cho bú

Đến giật lấy ăn

Các loại dê, cừu

Không thể chạy thoát

Trở về chỗ ở

Tuy các quỷ thần

Đến giúp đỡ chúng

Để khỏi bị hại

Nhưng không cứu được

Các quỷ thần ấy

Cũng ăn chúng sinh

Tuy đã no nê

Tâm vẫn hung ác

Phẩm loại không đồng

Giòng giống khác nhau

Có kẻ đã chết

Chôn cất đã xong

Hồn họ ra ngoài

Dạo quanh ở đó

Cưu hoàn, hương âm

Tánh tình tàn bạo

Hai tay vươn ra

Rảo chạy khắp nơi

Không chú thuật nào

Có thể trừ được

Bầy chó bị chúng

Túm lấy hai chân

Đè bắt nằm xuống

Để mà đánh đập

Trói hai chân chúng

Lấy dây quấn cổ

Ngồi trên mà chơi

Tâm ý khoái trá

Các con voi đen

Thân hình cao lớn

Thể lực hùng mạnh

Tư do ngang nhiên

Thường ngày đói khát

Tìm cầu uống ăn

Vừa thấy cỏ rơm

Vội vàng chạy đến

Có trùng cổ nhỏ

Và chim mỏ sắt

Ở giữa gò rộng

Thấy tử thi người

Quỷ ác hung hiểm

Bứt tóc kêu la

Các quỷ dẫy đầy

Đói khát thúc bách

Rình rập kiếm tìm

Trông chừng bốn phía

Qua các cửa sổ

Không thể được an

Các tà yêu mị

Và các quỷ đói

Chim dữ, cắt, thú

Đều tìm ăn uống

Ngôi nhà khủng kiếp

Các thứ như vậy

Có vườn cây lớn

Vách phên sụp đổ

Phòng ốc cửa nhà

Gãy ngã la liệt,

Chỉ có một người

Canh giữ ngôi nhà

Người ấy trong đó

Ở lại trông chừng.

Một hôm ngôi nhà

Bỗng nhiên nổi lửa

Bốn phía xung quan

Lửa đều bốc cháy

Vô số ngàn người

Kêu la thất kinh

Lửa càng cháy mạnh

Ông trưởng giả kia

Sợ thiêu con mình

Cất tiếng kêu than

Cột nhà đổ nhào

Tường, vách rã sụp

Các loại quỷ thần

La hét gọi nhau

Những loài chim dữ

Muốn bay tránh lửa

Vô số chim cú

Lo sợ bàng hoàng

Trăm ngàn yêu mị

Kinh hãi ruổi chạy

Chính mình trông thấy

Lửa cháy phùn phụt

Vô lượng quần manh

Thành tro tan tành

Chỉ vì phước mỏng

Bị lửa đốt cháy

Ai nấy hãi hùng

Thấy lửa đốt cháy

Trông chẳng còn gì

Máu thịt chảy đầy

Khi đó nhà này

Những loài hung mạnh

Tất cả quỷ mị

Giành nhau ăn nuốt

Khói hôi ngùn ngụt

Reo mừng khen ngon

Kinh hoàng sảng chạy

Vòng vo ngơ ngác

Rắn rít bò cạp

Giòi bọ dẫy đầy

Quỷ mị tha hồ

Chụp lấy ăn nuốt

Lửa cháy trên đầu

Vui vẻ dạo đi

Đói khát tìm ăn

Độc hại hỏa hoạn

Trong ngôi nhà ấy

Kinh sợ như vậy

Bao nhiêu là người

Chết nằm ngổn ngang

Khí ấy chủ nhà

Trưởng giả thế lực

Thấy việc như thế

Vội xếp các việc

Nghe nạn lửa ấy

Thương nghĩ các con

Cử nhạc đờn ca

Phủ dụ xe báu

Những đứa ngu si

Không hiểu không biết

Tha hồ vui chơi

Nô đùa trong đó

Trưởng giả nghe thấy

Vội vã trở vào

Trẻ thơ không biết

Chẳng nghĩ cách ra

Nay các con ta

Mê mờ bế tắc

Tất cả ngu muội

Không thấy, không nghe

Vì ham chơi đùa

Mà tự trói buộc

Bản tánh các con

Rất khó sửa đổi

Phàm các chúng sinh

Rất nhiều giống loài

Gặp nạn lửa lớn

Khổ não đớn đau

Quỷ thần rắn dữ

Trong lòng độc ác

Vô số yêu mị

Nhảy nhót vui mừng

Hổ mang, chó sói

Nhiều không kể xiết

Đói khát tìm ăn

Ăn uống no nê

Các con của ta

Sẽ chết trong đó

Nếu không nạn lửa

Cũng chẳng vui gì

Oán kết hồ nghi

Khổ đau như thế

Huống gì xung quanh

Lửa bốc hừng hực

Các con ngu dại

Tự ý ở trong

Say sưa chơi giỡn

Vui đùa không thôi

Không chịu suy nghĩ

Theo lời cha dạy

Tự tâm không nhớ

Tìm cách thoát mau

Khi ấy trưởng giả

Suy nghĩ thế này:

“Các con ta sinh

Dưỡng nuôi khổ nhọc

Bỗng nhiên lửa nổi

Thiêu hủy đốt cháy

Là m sao cứu con

Thoát khỏi nạn lửa”.

Khi ấy ông nghĩ

Tạo lập phương kế:

“Nay các con ta

Đắm say ca hát

Họa hại đến nơi

Vẫn cứ chơi đùa

Khổ thay, ngu muội!

Không thấy khổ đau

Các thứ xấu xa

Không hay nạ n ấy

Tâm ta lo lắng

Các con mê chơi

Nếu chúng nỗ lực

Sẽ thoát lửa cháy”.

Liền tìm phương kế

Ở ngoài ngôi nhà

Sắp xếp kỹ nhạc

Bày đủ đồ chơi

Của con ưa thích

Ông đều ban cho

Điều khiển âm tiết

Cùng lúc trổi lên

Các con nghe xong

Tham ưa âm nhạc

Ai cũng vội vàng

Hết sức cố gắng

Tất cả chạy ra

Khỏi ngôi nhà lửa

Thoát khỏi khổ não

Các con nhóm lại

Một chỗ an vui

Không còn sợ hãi

Lúc đó trưởng giả

Thấy các con ra

Trong tâm nhẹ nhõm

Ý được thư thái

Bày hết đồ chơi

Ngồi tòa Sư tử

Bây giờ thân ông

Đã được an nhiên

Các nạn khổ kia

Vĩnh viễn không còn,

Nay các con ta

Cần sức tinh tấn

Mê nơi nhà lửa

Phóng túng chơi đùa

Như trước đã từng

Ngủ nghỉ triền miên

Nơi lửa cháy mạnh

Người gặp nạn này

Bị mê che phủ

Tâm tư tăm tối

Hôm nay tất cả

Đều được giải thoát

Đến chốn an nhiên

Theo nguyện mong ước,

Cha nhìn các con

Lòng thật an ổn.

Lúc đó các con

Đến thưa trưởng giả:

Xin cha tôn quý

Ban cho chúng con

Như trước đã hứa

Các loại xe quý

Lúc trước gặp lửa

Mê muội không biết

Cha có dạy rằng:

“Các con vâng lời

Cha sẽ ban cho

Ba loại xe quý

Nay đã đến lúc

Xin thương cấp cho.”

Khi đó trưởng giả

Bảo mở kho tàng

Vàng ròng quý báu

Châu báu ngọc ngà

Đồ quý thượng diệu

Đặc biệt quý giá

Hiểm có ở đời

Làm những xe lớn

Không ai sánh bằng

Trang trí huy hoàng

Chung quanh lan can

Kết chuỗi anh lạc

Mạng lưới lụa gấm

Trông rất rực rỡ

Vàng bạc đan nhau

Bao phủ trên xe

Treo các dãi hoa

Đều là hoa báu

Bốn phía chung quanh

Treo màn rủ xuống

Lớp lớp trên xe

Trải các tọa cụ

Đủ thứ gấm ụa

Nhiều không kể hết

Lại thêm các loại

Lụa mềm làm đệm

Vô số vải quý

Thảm chiếu trải xe

Các vật trang trí

Giá đáng ức ngàn

Vô cùng hiếm có

Vô lượng của tiền

Voi sức rất mạnh

Tươi trắng như hoa

Thân voi cao lớn

Uy nghi hùng dũng

Cùng với bảo xa

Để làm xe lớn

Khi ấy trưởng giả

Chuẩn bi xe xong

Cho con rồi nghĩ:

“Các người con này

Đều là con ta

Phải ban đồng đều”

Khi ấy các con

Nhảy nhót vui mừng

Khắp nơi khắp chốn

Thích thú vui chơi

Này Xá-lợi-phất!

Như Lai cũng vậy

Là Đấng cha lành

Cứu độ quần sinh

Tất cả muôn loài

Đều là con Phật

Tham dục ba cõi

Tà kiến buộc ràng

Ta thấy ba cõi

Như nhà lửa kia

Khổ não tràn đầy

Lo buồn bất tận

Đó là nói đến

Tất cả đều bị

Sinh, già, bệnh, chết

Đau khổ khóc than

Phật vì ba cõi

Cứu giúp muôn loài

Dạo chốn thanh nhàn

Hoặc ngồi trong rừng

Luôn luôn đúng lúc

Cứu độ ba cõi

Chúng bị đốt cháy

Đều là con ta

Thức tỉnh tất cả

Khiến tự quay về

Do ý thế này

Thị hiện cách kia

Tất cả chúng sinh

Ngu không tin nhận

Đắm trước ái dục

Mà tự buộc ràng

Ta dùng phương tiện

Làm đại lương y

Phân biệt tam thừa

Để dạy chúng sinh

Ba cõi đều nghe

Bao nhiêu xấu xa

Tùy thời dạy họ

Khuyên vượt thoát khỏi

Các Bồ-tát đó

Đến nương Phật được

Tam đạt, lục thông

Thành đại Thánh tuệ

Có người thành tựu

Theo Duyên giác thừa

Được không thoái chuyển

Chứng thành Phật đạo.

Hiện tại những người

Theo Phật giải thoát

Nhờ thí dụ này

Không còn hối hận

Nhờ vậy thân cận

Gần với Phật thừa

Tin nhận tất cả

Thành Bậc Tối Thắng

Do đó xiển dương

Đức tin bình đẳng

Hàng phục dứt trừ

Cho cả thế gian

Trí tuệ chư Phật

Đạo đức đặc thù

Cúi đầu quy ngưỡng

Đấng Thánh Trung Tôn

Căn, Lực, Giải thoát

Nhất tâm như vậy

Tam-muội chánh định

Muôn vạn ức ngàn

Con của chư Phật

Thường rất tôn trọng

Nên gọi pháp này

Đại thừa tôn diệu.

Ngày đêm thệ nguyện

Hàng phục ma quân

Luôn luôn tinh tấn

Kính mộ không dời

Trong suốt nhiều năm

Trải vô tận kiếp

Độ thoát chúng sinh

Vô số muôn ngàn.

Ví dụ xe báu

Là nơi nghĩa này

Dùng đó dạo chơi

Đến đạo tràng Phật,

Vô số Phật tử

Lúc đó vui mừng

Có người lắng nghe

An trụ tu tập.

Này Xá-lợi-phất!

Hiền giả nên biết

Chỉ có một thừa

Chớ không có hai

Đến khắp mười phương

Tìm cầu tất cả

Biết Đức Như Lai

Khéo dùng phương tiện,

Khuyên tu dần dần

Từ nhỏ đến lớn

Trước hiện Thanh văn

Chứng quả Duyên giác

Đức khắp ba cõi

Chỉ mới bỏ dục

Sa u đó chỉ dạy

Đạo lớn Bồ-tát.

Ân Phật thấm nhuần

Ví như ruộng tốt

Tùy theo giống trồng

Kết quả khác nhau

Người trồng khác loại

Đất chẳng tăng giảm;

Phật cũng như thế

Vì cả mọi loài

Thường dạy đạo lớn

Người học gia giảm.

Phật đối chúng kia

Là cha muôn loài

Phật thường quán thấy

Chúng sinh khổ não

Vô số ức kiếp

Tư thiêu đốt thân,

Ở trong ba cõi

Nạn khổ kinh khủng

Phật làm hướng đạo

Khiến được Niết-bàn.

Này các Hiền giả!

Hôm nay nên biết

Từ bỏ sinh tử

Thoát nạn khổ đau

Những vị Bồ- tát

Trụ nơi pháp này

Quyết tâm chí thành

Vâng theo dụ ấy

Tất cả đều nghe

Tuệ sáng của Phật

Chư Đại Đạo Sư

Thực hành phương tiện

Như chư Bồ-tát

Cần phải truyền bá

Ái dục xấu xa .

Ác độc đáng nhàm

Người tâm tăm tối

Mà thấy ô nhiễm

Cho nên Đạo Sư

Vì nói sự khổ

Dậy bốn Thánh đế

Phân biệt rõ ràng

Giả sử mọi người

Không õ các khổ

Đắm trước trần lao

Chẳng muốn xa lìa

Vì những người này

Như Lai chỉ dạy

Nhân vì Tập đế

Đưa đến khổ đau

Ái dục đoạn trừ

Thường không đắm trước

Đã được Niết-bàn

Đối ba pháp này

Hiểu rõ không lầm

Thì được giải thoát

Hoặc tu tám đường

Liền được thoát khổ.

Này Xá-lợi-phất!

Vượt thoát bao điều

Thọ không sở hữu

Cho là giải thoát

Kỳ thật chẳng phải

Giải thoát hoàn toàn

Chưa phải diệt độ

Liền gặp Đạo Sư

Phật vì duyên gì

Nói rằng các ông

Chưa được giải thoát

Chính sẽ thành Phật

Sẽ được như ta

Là vua các pháp?

Truyền pháp an ổn

Phật hiện nơi đời.

Này Xá-lợi-phất!

Pháp ấn của ta

Là pháp tối hậu

Khéo nói vi diệu

Vì thương chư Thiên

Và chúng thế gian

Dầu ở nơi nào

Một mình truyền bá

Giả sử có người

Giảng thuyết kinh này

Hoặc ai khuyến trợ

Khiến người hoan hỷ

Nghe diệu pháp này

Phải kính người ấy

Cúng dường đầy đủ.

Các Phật quá khứ

Vâng giữ pháp này

Đến không thoái chuyển .

Nếu lại có người

Vui tin kinh này

Từ xưa đã gặp

Chư Phật quá khứ

Cũng đã vâng thuận

Các Bậc Thánh Tôn

Và từng được nghe

Kính mộ kinh này

Đều đã từng thấy

Dung nghi của ta,

Lại cũng được thấy

Tỳ-kheo chúng Tăng,

Thường lại trông thấy

Chúng Bồ-Tát này

Người tin kinh này

Đức cũng như vậy.

Tất cả đều thấy

Chư vị Bồ-Tát

Tin tưởng kinh này

Thì cũng như vậy

Kẻ nào ngu mê

Chẳng dốc lòng tin

Nếu nói kinh này

Là được thần thông

Những bậc Thanh văn

Không sao đạt được

Đến bậc Duyên giác

Cũng chưa hiểu rõ.

Hiện nay ta có

Các chúng Thanh văn

Như Xá-lợi-phất

Vững tin pháp này

Hàng Thanh văn ấy

Tin pháp lớn này

Hiện tại chấm dứt

Không vướng các duyên.

Nếu như có người

Với kinh pháp này

Sinh lòng hủy báng

Đức Phật tối thượng

Bọn người ngu tối

Thường ôm ái dục

Chưa từng hiểu rõ

Pháp Bậc Vô Sinh.

Vì kẻ huỷ báng

Phật khéo phương tiện

Hiện hữu thế gian

Phật thường thấy rõ

Người nghe Phật dạy

Giảng tội phước đây

Tâm không hoan hỷ

Mặt mày nhăn nhó,

Ta còn tại thế

Hay diệt độ rồi

Không giúp Tỳ-kheo

Biên chép kinh này,

Phật dạy tội ấy

Mọi người hãy nghe:

Nếu người phỉ báng

Kinh pháp như đây

Mất thân người rồi

Đọa ngục Vô gián.

Ở trong ngục này

Đủ trong một kiếp

Hay vô số kiếp

Qua thời gian này

Nếu tội đã hết

Thường bị ngu si.

Nếu được ra khỏi

Nơi chốn địa ngục

Sẽ lại đọa vào

Súc sinh cầm thú,

Làm chó, dã can

Thân hình tiều tụy

Vào ở nhà người

Thường bị làm hại.

Nếu người oán ghét

Kinh pháp Phật đây

Sắc thường biến đổi

Thân thể đen đúa,

Vì tội đã làm

Sắc mặt xanh xao

Thân hình gầy yếu

Không được tươi tắn,

Vì các nhân ấy

Sống nơi khốn khổ

Bị ném ngói đá

Khóc lóc kêu la,

Người này thường bị

Đánh đập nhốt trói

Đói khát thiếu thốn

Thân thể khô xấu

Đọa vào súc sinh

Lạc đà, la, lừa

Thường mang chở nặng

Lại bị đánh đập

Trong lòng áo não

Chỉ nhớ cỏ nước

Phỉ báng kinh này

Bị tội như vậy.

Tuy được làm người

Toàn thân ghẻ lác

Dung mạo xấu xí

Thân hình hôi thối

Nếu có đi vào

Xóm, làng, huyện, ấp

Bị trẻ khinh khi

Giỡn chơi dẫm đạp.

Kẻ ngu si ấy

Sau khi chết đi

Liền lại sinh vào

Bần cùng hèn hạ

Hay làm đỉa, giun

Sống bằng máu mủ.

Hoặc bị điếc ngọng

Không được tự do.

Nếu người phỉ báng

Kinh này bị tội

Thường nhiều tật bệnh

Thân thể sinh giòi

Bị nhiều trùng bọ

Rúc rỉa ăn thịt

Tâm thường uất ức

Chẳng rời bệnh đau.

Này Xá-lợi-phất!

Kẻ nam tử kia

Không tin kinh này

Ngu si đần độn

Thường sống bỏn sẻn

Tánh thường tham lam

Sinh ra mù lòa

Người đời quên lãng.

Cố chấp chẳng tin

Phật đạo đại thừa

Miệng thường hôi thối

Thân thể tanh hôi

Yêu quái, quỷ thần

Thường sống với chúng

Đối với mọi người

Nói chẳng ai tin.

Nếu người không ưa

Nơi giáo pháp này

Thường bị bần cùng

Và luôn thiếu thốn,

Thân chưa từng được

Mặc y phục đẹp

Nếu nhà có của

Chẳng dám uống ăn;

Hoặc làm điều chi

Đều không toại ý,

Giả sử muốn cầu

Vật dụng an ổn

Nếu mà có được

Cũng bị mất ngay,

Làm các hạnh ác

Quả báo như vậy.

Nếu mời thầy thuốc

Ra toa bốc thuốc

Khéo biết điều hòa

Trị liệu đúng pháp

Vẫn không hết bệnh,

Bệnh càng nguy kịch

Tật bệnh triền miên

Không được cứu chữa.

Giả sử có ý

Gầy dưng việc gì

Thì gặp khuấy phá

Hành động đấu tranh,

Lại bị hủy nhục

Và bị tù tội

Người phạm kinh này

Sẽ bị họa ấy.

Nếu người phỉ báng

Về kinh pháp này

Sẽ không thấy được

Bậc Thầy cõi đời

Là vua cõi người

Giáo pháp của Phật

Cuối cùng đọa vào

Quỷ, Thần, Tu-la

Thường gặp tai ương

Điếc lác không nghe

Ngu si mê muội

Chằng nghe chánh pháp.

Nếu có người nào

Phỉ báng kinh này

Ở vào đời sau

Trọn kiếp mù tối.

Kết quả tội này

Gặp nhiều tai ương

Vô số thời kỳ

Bao nhiêu là kiếp

Như cát sông Hằng

Thường sẽ câm ngọng

Miệng không thể nói

Giáo pháp của Phật

Như sư tử hống

Chỗ đọa địa ngục

Như chốn dạo chơi

Dọa đầy nẻo ác

Như ở nhà mình.

Nếu hủy báng kinh

Tội nhiều như thế

Làm người nhiều bệnh

Thường hay câm ngọng

Hoặc sống trong đời

Sẽ bị tội đây,

Hoặc giữa mọi người

Nói dối hai lời

Khi sắp qua đời

Mạng sống chấm dứt

Thân họ thường gặp

Biết bao khổ đau

Trăm ngàn muôn ức

Vô số tai họa

Dung mạo hắc ám

Chẳng ai muốn nhìn

Bị lở, phong hủi

Tích chứa hôi thối

Tự chấp bản ngã

Nhan sắc đen đúa

Ôm lòng ân hận

Độc hại tăng thêm

Dục tình hừng hẫy

Không có tiết chế

Lại ưa ngang ngược

Khác gì súc sinh.

Này Xá-lợi-phất!

Hôm nay Thế Tôn

Dù nói hết kiếp

Tội báo những người

Phỉ báng không tin

Kinh Pháp Hoa này,

Muốn tính thời gian

Kể sao cho xiết.

Thấy được nghĩa này

Phải nên xét kỹ

Vì vậy Như Lai

Bảo Xá-lợi-phất:

Không đem pháp này

Giảng bày phân tích

Cho kẻ ngu si

Vào thời tượng pháp.

Có kẻ thông minh

Nghe nhiều học rộng

Chí khí kiên cường

Thường tu các pháp,

Hoặc người phát tâm

Quyết cầu Phật đạo

Những người như vậy

Mới được truyền trao.

Pháp chưa từng có

Vì họ đã gặp

Trăm ngàn ức Phật

Trồng nhiều vô số

Công đức như ý

Tâm tánh người này

Sáng tỏ như trăng

Xứng được truyền dạy.

Kinh điển như thế

Nếu người tinh tấn

Thường sống Từ tâm

Suốt cả ngày đêm

Bi tâm chói rạng

Chẳng nghĩ tự thân

Không tiếc thọ mạng

Mới được nói cho.

Quyền kinh pháp ấy

Ai thường cung kính

Không nghĩ xấu người

Nội tâm chuyên nhất

Xa kẻ phàm phu

Thường ở chỗ vắng

Hoặc ẩn núi cao

Những người như vậy

Mới được nghe pháp.

Kết thân bè bạn

Thương giúp lẫn nhau

Và lánh biết xa

Loại bạn xấu ác

Nếu thấy như vậy

Mới là con Phật

Mới nên gặp gỡ

Dạy kinh pháp này.

Không phạm giới cấm

Như ngọc báu sáng

Chí luôn vâng theo

Kinh điển Đại thừa

Phải biết người ấy

Là con của Phật.

Siêng tu pháp này

Tụng một phẩm kinh

Nếu bị mắng chửi

Và bị hủy nhục

Vẫn đem lòng Từ

Thương xót chúng sinh

Chí thành cung kính

Phụng hành lời Phật

Những người như thế

Mới nói pháp này.

Nếu giữa hội chúng

Người tụng kinh này

Tâm thường ứng hợp

Lĩnh hội không ít

Cho đến vô số

Thí dụ lời lẽ

Vì khắp mọi người

Thuyết kinh giáo này.

Hôm nay Như Lai

Giảng giải đạo phẩm

Đến nơi cứu cánh

Mọi người hoan hỷ.

Nếu có Tỳ-kheo

Muốn cầu giáo pháp

Nếu thấy kinh này

Phải vui kính nhận.

Vị ấy phụng trì

Kinh Đại thừa đây

Tâm thường tinh cần

Không thích việc khác

Trì một bài tụng

Chí không dời đổi

Mới được thọ trì

Kính điển như vậy.

Nếu như có người

Ái mộ kinh này

Nên sùng kính họ

Như thân Như Lai.

Hoặc người suy nghĩ

Muốn học pháp này

Nếu đã được nghe

Cúi đầu lễ nhận,

Người ấy chẳng còn

Nghĩ tìm kinh khác

Cũng chưa từng nghĩ

Sách vở thế gian

Thực hành Phật đạo

Chí tại căn lực

Đều xả bỏ hết

Chuyên giảng kinh này,

Này Xá-lợi-phất!

Dẫu trong một kiếp

Nêu vô số dụ

Phân biệt giảng nói

Nếu người phát nguyện

Cầu tuệ giác Phật

Hãy đem kinh này

Tuyên dương rộng khắp.

***

Phẩm 4: TIN ƯA

Lúc bấy giờ Tôn-giả Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên… được nghe pháp lớn chưa từng có, vốn chưa từng nghe và thấy Đức Thế Tôn thọ ký cho Tôn-giả Xá-lợi-phất sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, vừa mừng vừa sợ, phấn chấn, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước chỗ Đức Thế Tôn, sửa y, để trần vai phải, quỳ gối, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn mà trong lòng hân hoan, sáng suốt, thân tâm cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhàng, tâm trí chuyên nhất bạch Đức Thế Tôn:

– Kính bạch Đấng Đại Thánh! Chúng con đứng đầu chư Tăng, tuổi già suy yếu. Kính mong Thế Tôn cho chúng con được Niết-bàn. Tâm chí của chúng con vẫn mong cầu đạo Vô thượng chánh chân, nhưng sức tinh tấn của chúng con đã suy giảm, khôn thể kham nhận việc gì nữa. Như Lai trước đây giảng pháp, chúng con theo thứ tự ngồi an định trong chúng lắng nghe, không dám mỏi mệt hay nhàm chán. Lúc ấy Như Lai vì chúng con thuyết pháp. Chúng con đã được ở nơi Không, Vô tướng, Vô nguyện, cho đến các pháp của Phật, không tạo tác đối với tất cả pháp, ưa thích các việc làm của chư Bồ-tát, Như Lai đã nhiều lần khuyến khích giáo hóa chúng con nhưng chúng con đối với ba cõi chỉ muốn vượt qua, thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt được Niết-bàn. Nay tâm chúng con đã mỏi mệt. Lúc vừa nghe Thế Tôn chỉ dạy giáo nghĩa kỳ diệu chúng con đều chẳng có một ý niệm ham thích đối với Tuệ giác vô thượng. Thế mà nay Thế Tôn lại thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Chánh giác nên tâm chúng con rất bàng hoàng, kinh ngạc chưa từng có. Chúng con được lợi lành lớn, đã phải nỗ lực tu tập nên mới được nghe phẩm kinh như thế này. Chúng con theo chư Phật quá khứ thường được nghe pháp ấy nên khi vừa được nghe, chúng con như người được vô lượng ngọc báu, thỏa mãn chí nguyện mong mỏi. Chúng con hiện nay ở tại thế gian mà tâm vô sở úy, tiếng trống, nhạc vi diệu tự nhiên trổi lên, ngọn đèn vĩ đại chiếu rọi khắp nơi, rừng cây Chiên-đàn tỏa hương ngào ngạt.

Bạch Thế Tôn! Chúng con há có thể kham nhận được pháp lớn mà Thế Tôn đã nói hay sao? Đó là điều chúng con xin thưa thỉnh.

Lúc ấy các vị Thanh văn cùng nhau thưa với Đức Phật:

– Thuở xưa có người con bỏ cha trốn đi lưu lạc đến địa phương khác sáu mươi năm, rong ruổi bốn phương tìm cầu cơm áo, luôn bị nghèo cùng khốn khổ, chẳng có chút tài sản nào. Người cha có việc đến địa phương ấy. Ông có vô số vàng bạc châu báu, thủy tinh, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách chứa đầy trong kho, kẻ hầu hạ, xe cộ, voi ngựa nhiều vô số kể, quyến thuộc đông đảo, bảy báu đầy ắp, thu chi tiền bạc, trồng trọt cày bừa, khách thương buôn bán cũng rất đông đảo.

Người con nghèo đói phải đi khắp nơi làng mạc, thôn xóm, phố phường trong nước để xin ăn. Lúc ấy đang là mùa thu, ông trưởng giả giàu có đi vào thành xem xét các kho báu. Người cha, cùng con biệt ly đã lâu bỗng nhiên nhớ đến con, không biết con mình ở đâu. Ông tự nghĩ: “Ta có nhiều của cải đầy khắp gần xa mà lại chỉ có một mình. Nếu mai này ta chết đi thì của cải ấy sẽ tiêu tan. Ta chỉ mong được gặp lại con ta, tha hồ cho nó sự ăn mặc và giao tài sản cho nó, ta sẽ an vui không còn lo nghĩ.”

Khi ấy người con nghèo khổ lần hồi đến nhà ông trưởng giả, đứng trước của nhà nhìn vào, từ xa trông thấy người cha ngồi trên ngai sư tử được làm bằng vàng bạc và các vật quý báu, có các Bà-la-môn và mọi người kính cẩn vây quanh, có rèm báu kết ngọc và người cha ngồi trong đó để sai bảo, cắt đặt công việc cho mọi người trong các bộ phận. Dưới đất được rải đầy các thứ hoa quý, trăm ngàn muôn ức vàng dùng làm đồ dùng ăn uống. Người con nghèo thấy ông trưởng giả tư thế oai nghiêm như vậy nên rất sợ hãi, không biết vị ấy là ai, cho rằng người này là vua hoặc ngang hàng với vua, do dự không dám tiến bước, nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau.

Người cha trông thấy con lòng rất vui mừng, sai người hầu cận chạy theo gọi người con ấy quay về. Người con kinh hãi lăn xuống đất, nói với người theo bắt:

– Tôi không có xúc phạm gì đến các người, tại sao lại bắt tôi?

Người hầu dẫn người con đem về cho trưởng giả. Trưởng giả bảo:

– Chớ nên sợ hãi như thế. Ta vì con mà gầy dựng sự nghiệp với những kho tàng đầy ắp. Cha con biệt ly đã lâu không gặp, ta nay tuổi già suy yếu, cha con tình sâu nghĩa nặng mới đem con vào nhà này.

Người cha không nói điều này với ai. Vì sao? Vì người cha biết ý chí con mình nghèo hèn hạ tiện, không biết phước lực của cha. Một thời gian lâu sau, người con tâm ý thông hiểu, sắc mặt an hòa, biết được tên mình và quen dần với các vật quý giá, vị trưởng giả liền nói:

– Đây chính là con của ta.

Rồi ông dùng phương tiện bảo người con:

– Nay con muốn làm gì tùy ý.

Người con nghèo khổ rất kinh ngạc như được sự chưa từng có, liền đứng dạy đi đến xóm nghèo tìm kiếm cơm áo. Người cha hiểu con nên dùng phương tiện bảo anh ta:

– Con cứ tự nhiên đến với họ.

Sau khi người con đến, vị trưởng giả lại sai người đến bảo với anh ta:

– Ngươi hãy đến ngôi nhà kia, ở đấy đang cần người đánh xe.

Vị trưởng giả cho anh ta voi, ngựa, sai tập làm quen dần với những việc tầm thường. Nếu có ai hỏi anh ta cũng đáp là làm người đánh xe. Người cha bảo con:

– Ngươi phải điều khiển xe, ngựa và quản lý các vật báu trong nhà, tùy ý thích của ngươi, ta sẽ ban phát cho. Người con muốn gì, người cha cũng chu cấp cho đầy đủ như lời đã nói. Khi ấy người con tập điều khiển ngựa, xe và quản lý rất kỹ lưỡng các châu báu và còn dạy dỗ cho những kẻ lớn nhỏ trong nhà. Người cha ở bên cửa sổ từ xa trông thấy con mình làm việc giỏi dang, ông liền cởi chiếc áo cũ đã mặc, tắm gội sạch sẽ, tay phải kỳ cọ, mặc y phục đẹp đẽ, đeo chuỗi ngọc quý, toàn thân sạch sẽ, sáng sủa. Ông bảo với đứa con:

– Từ trước đến nay con đã xây dựng được cơ nghiệp gì không? Vì việc gì mà bỏ ta đi nơi khác đến nỗi bị khổ sở đói lạnh? Ta đã già yếu rồi, nay thật tình khuyên con rằng đã đến lúc con nên cưới vợ, vui chơi, ăn uống để nối dõi phước nhà. Sản nghiệp ta đã tạo nhiều không kể xiết, đầy đủ đồ quý báu, con có biết không? Ta mong ngóng con đã nhiều năm qua, mà con lại đi thân cận với bạn ác nay mới quay về. Con phải trừ bỏ những thói quen tật xấu ấy. Ta có viên ngọc dạ quang minh vô cùng quý giá sẽ đem cho con, kẻ hầu hạ, tôi tớ nam nữ lớn nhỏ tùy ý con muốn, tất cả đều giao cho con. Ta luôn thương nhớ con cũng như quốc vương may mắn gặp thái tử của họ.

Các ví Thanh văn cùng thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Khi ấy người con nghèo khổ đã lìa xa gia đình hơn sáu mươi năm, trôi giạt khắp nơi, đến nhà trưởng giả mới gặp người thân, suy nghĩ trước và sau khi gặp cha, tâm đều nhớ hết những việc đã làm.

Khi ấy vị trưởng giả nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết mới bảo người con:

– Ta nay đã sức cùng lực kiệt. Con nên kế thừa sản nghiệp đồ sộ của ta. Tất cả tài sản kho tàng quý báu trong nhà, nếu con nhận lãnh, đem giúp đỡ những người nghèo thiếu, sử dụng tùy ý.

Người con nghe cha dạy xong vui mừng khôn xiết, nguyện sẽ thực hành không trái lời hứa. Người cha biết chí con nên thân hành dạy bảo, trước nghèo sau giàu càng thêm vui mừng, tôn kính than thuộc, lễ bái các bậc Trưởng lão. Người cha ở trước vua, đại thần và mọi người tuyên bố:

– Xin các ngài biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra, tên đó họ đó. Con tôi đã bỏ tôi lưu lạc khắp nơi sáu mươi năm nay mới gặp nhau. Nó là con của tôi, tôi chính là cha nó. Bao nhiêu cửa cải, tài sản của tôi đều là của con tôi.

Người con nghe cha tuyên bố với mọi người lòng càng thêm vui mừng, tự nghĩ: “Ta đời trước có phước báo gì mà được lãnh kho tàng quý báu này?”

Các vị Thanh văn lại thưa:

– Bạch Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có ấy ví như Thế Tôn. Chúng Thanh văn Hữu học chúng con được gọi là con của Phật. Ngài cửu giúp chúng con thoát khỏi nỗi khổ trong ba cõi, như ông trưởng giả giàu có trở lại đưa đứa con thoát khỏi sự sống chết. Khí ấy, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có vô số pháp bảo của bậc Thánh, dùng năm thần thông đoạn trừ màn ngăn che của năm ấm. Chúng con luôn tinh tấn tu tập theo giáo pháp ấy, đạt đến Niết-bàn cho là ấn chứng vi diệu, tinh tấn mong cầu không giải đãi, muốn được giải thoát tâm ý vắng lặng, nhờ tự thân tư duy thành thục nên đạt được rất nhiều. Nhưng Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn nương vào pháp thực hành, siêng tu thiền định và thường tin ưa, vì thấy chúng con lười biếng, tâm chí hạ liệt, không phân biệt, không có chí nguyện đối với kho pháp bảo quý giá của Như Lai, nên Thế Tôn đã dùng phương tiện chỉ cho chúng con thấy rõ kho tàng tuệ giác ấy, nhờ nó mà trừ được đói khổ và được trao ấn chứng vi diệu.

Kính bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng con tuổi đã già, như Tôn-giả Đại Ca-diếp đây được Như Lai ấn chứng rất sớm là sẽ đạt đến giải thoát. Thế Tôn lại vì chúng con mà thị hiện giáo nghĩa trí tuệ lớn của Bồ-tát. Chúng con phụng hành và đem chỉ dạy cho mọi người. Như Lai đã hiển bày đức lớn đều làm cho chúng con được thể nhập giáo nghĩa Như Lai. Vì sao? Vì Thế Tôn đã khéo dùng tất cả phương tiện biết chúng con ý chí thấp hèn, không hiểu nổi giáo pháp sâu xa nên dạy hạnh Thanh văn. Chúng con sợ hãi các pháp trong sinh, già, chết ba cõi và các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, chỉ muốn tự độ mà không cứu độ tất cả chúng sinh, xa lìa phương tiện quyền biến, trí tuệ, đại Từ bi, thiền định Tam-muội, chỉ biết nhân tâm mà không thấy được căn nguyên của tất cả chúng sinh. Ví như kẻ nghèo cùng mong cầu cơm áo, người cha ân cần muốn đem đến an lạc cho con, nhưng người con không hề hay biết. Thế Tôn dùng phương tiện tùy lúc thị hiện nên chúng con không nhận thấy, nay mới tự biết mình chính là con Phật.

Chúng con đã được Phật xót thương ban cho đại trí tuệ. Vì sao? Vì chúng con tuy là con Phật mà lại hạ tiện, khiếp nhược. Đến khi thấy tâm chúng con hoan hỷ kính tin Bồ-tát thừa nên Như Lai sau đó mới nói cho pháp lớn Đại thừa. Thế Tôn đã vì hai việc mà nói pháp ấy:

1. Vì chư Bồ-tát nên Như Lai hiện pháp cam lộ.

2. Vì hạng người thấp hèn, chí nguyện nhỏ nên Như Lai khuyến khích, chuyển hóa họ đi vào giáo nghĩa vi diệu.

Ví như người con kia cùng cha biệt ly nhau đã lâu, trên đường từ xa trông thấy cha không biết là ai nên rất sợ hãi, dần dần về sau nhìn cách thể hiện uy nghi mới biết đó là của mình. Phật cũng như vậy, chúng con không hiểu rõ pháp lớn của Bồ-tát, tuy là con của Như Lai, từ pháp sinh ra nhưng chỉ mong Niết-bàn, không có ý chí ngồi dưới gốc cây nơi đạo tràng hàng phục ma quân và độ thoát tất cả chúng sinh. Bọn chúng con tự cho rằng đã được giải thoát. Vì lý do đó nên ngày nay chúng con thấy, nghe mà chưa được thành tựu, không phải là bậc xuất gia, chưa trở thành bậc Sa-môn. Hôm nay Thế Tôn hiện các trí tuệ siêu tuyệt nên chúng con đã đạt được pháp trân bảo của Phật.

Đức Phật là cha, chúng con là con, cha con đồng một thể tánh, không có sai khác. Giống như vị trưởng giả khi sắp mạng chung, ở trước đại chúng tuyên bố cùng vua, quan, Bà-la-môn, trưởng giả và tất cả mọi người: “Hôm nay ta đem tất cả kho tàng châu báu để ban cho con ta.” Người con nghe xong vui mừng như được điều chưa từng có. Thế Tôn cũng như vậy, ban đầu dạy pháp Tiểu thừa tạm thời làm cho chúng con được an lạc, nhưng sau cùng Ngài vì bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, tất cả chư Thiên và loài người mà hiển bày giáo nghĩa căn bản. Thế Tôn khéo dùng phương tiện thuyết pháp tam thừa, không hề có hai thừa, huống gì có ba? Các vị Thanh văn này đều sẽ thành Phật. Chúng con vô cùng hân hoan không kể xiết.

Khi ấy Tôn-giả Đại Ca-diếp nói lại kệ rằng:

Chúng con hôm nay

Được nghe pháp âm

Ngạc nhiên vui mừng

Được chưa từng có

Vì thế cho nên

Tâm rất hoan hỷ

Lại biết Đạo Sư

Thanh âm êm dịu

Trân bảo tôn quý

Chứa nhóm thật nhiều

Tập hợp các báu

Ban cho chúng con

Chưa hề nghĩ đến

Cũng chẳng mong cầu

Được nghe pháp sâu

Tâm rất phấn chấn.

Ví như trưởng giả

Có một người con

Bé thơ không biết

Ngu si mê muội

Tự bỏ cha mình

Đi đến nước khác

Trôi nổi xứ lạ

Gặp nhiều hiền nhân.

Khi ấy trưởng giả

Lo sầu nhớ con

Về sau nghe biết

Vội vã kiếm tìm

Dạo khắp mười phương

Lòng thường lo nghĩ

Cha con cách biệt

Đã sáu mươi năm

Thăm hỏi mọi người

Muốn được gặp con

Liền đến xứ khác

Vào thành lớn kia

Dừng chân ở đó

Xây dựng lâu đài

Đầy đủ trang nghiêm

Thọ lạc năm dục

Vô số vàng ròng

Và các châu báu

Của cải quý giá

Minh châu, ngọc bích

Voi, ngựa, cộ xe

Rất nhiều vô số

Gia súc trâu, heo

Gà, vịt, dê, lừa

Thu chi lời lãi

Buôn bán, cấy cầy

Tôi tớ hầu hạ

Nhiều không kể xiết

Các sự tôn quý

Có vạn ức người

Lại được vua mến

Oai như quốc vương

Tất cả dân chúng

Kính trọng hướng về

Quan quyền thân thích

Ai cũng tôn trọng

Ví nhiều duyên cớ

Người đến tấp nập

Tìm kiếm rất đông

Không thể kể hết

Giàu mạnh như vậy

Mà luôn than khóc

Ta đã già nua

Chí lực suy yếu

Lòng thường suy nghĩ

Muốn được gặp con

Ngày đêm nghĩ nhớ

Không lúc nào nguôi

Hỏi nghe tin con

Lòng thêm phiền muộn

Con dại bỏ ta

Hơn sáu mươi năm

Kho tàng ta có

Tài sản lớn nhiều

Nếu ta chết đi

Ai người giao phó

Kế thừa cho ta

Người con ngu si

Nghèo cùng khốn khổ

Thường tìm cơm áo

Dạo khắp các nơi

Ưu lo suy nghĩ

Miệt mài khắp chốn

Tìm cầu dè sẻn

Phiêu bạt xa xôi

Tự lo sinh sống

Có khi được của

Lúc chẳng có gì

Khốn đốn tha hương

Ưu tư lo lắng

Bức xúc trong lòng

Gian lao khổ sở

Lần lượt trải qua

Đi không dừng nghỉ

Dần dần đi đến

Chỗ ở của cha

Quanh co lui tới

Tìm kiếm áo cơm

Từ từ tiến gần

Đến ngôi nhà ấy

Liền đến trước cửa

Từ xa trông thấy

Vị đại trưởng giả

Ngồi ngai sư tử

Đông người hầu hạ

Quyến thuộc vây quanh

Tiền của thu chi

Và đem bố thí

Có rất đông người

Đi theo phục dịch

Hoặc người tính toán

Vàng bạc châu báu

Ghi chép giấy tờ

Phân phối từng ban

Thu chi riêng biệt

Tính toán ít nhiều.

Khi ấy gã nghèo

Thấy cảnh như vậy

Đứng qua bên đường

Quán sát họ làm

Tự thân suy nghĩ

Sao ta đến đây

Đây chắc là vua

Hoặc là thái tử

Nêu không sao vậy

Sẽ bắt trói ta

Nếu như không đi

Bị ép sai khiến

Suy nghĩ như thế

Người nghèo bỏ chạy

Đời không trọng nghèo

Chẳng ưa kẻ thiếu,

Khi ấy trưởng giả

Ngồi ngai sư tử

Xa thấy con mình

Thầm lặng vui mừng

Sai ngay người hầu

Đuổi theo giữ lại

Gọi kẻ nghèo kia

Đến đây ta gặp.

Người hầu vâng lời

Đuổi theo bảo rằng

Buộc ngươi phải về.

Gã té xuống đất

Kinh hãi nghĩ thầm

Vô cớ bị hại

Sao lại bi bắt

Họ muốn gì đây.

Trưởng giả giàu có

Thấy con ngã lăn

Thương xót con mình

Vô cùng hạ liệt

Cũng không tin rằng

Ta là cha nó

Lại vẫn nghi ngờ

Không xét của cải.

Người cha phủ dụ

Nói với kẻ nghèo

Ta có vàng ròng

Cất chứa tại đây

Sẽ cấp cho ngươi

Đủ thức ăn uống

Giữ gìn trông coi

Phục dịch các việc

Châu báu ta có

Bị hư cũ nhiều

Bỏ nơi nhơ nhớp

Không ai sửa dùng

Ngươi hãy tùy tiện

Lấy làm của riêng

Của cải ta nhiều

Không ai dùng hết.

Người nghèo nghe bảo

Những lời như thế

Bèn vội tới nơi

Vâng lệnh thi hành

Theo lời trưởng giả

Không dám trái lệnh

Liền vào trong nhà

Sửa sang các việc.

Khi ấy trưởng giả

Bên trong cửa sổ

Quán sát người con

Biết làm thế nào

Tuy là con ta

Mà quá hạ liệt

Chỉ biết tính toán

Điều khiển xe thôi.

Ông từ trên lầu

Đi xuống dưới đất

Cởi áo nhơ bẩn

Thay đồ sang trọng

Đi thẳng đến chỗ

Làm việc của con

Bảo con đứng dậy

Cần làm việc gì

Ta sẽ cho ngươi

Rất khó gặp ngươi

Nhân đức bố thí

Xoa bóp chân ta

Rượu nồng ngon ngọt

Cấp cho thực phẩm

Giường ghế đồ dùng

Ngựa xe không thiếu

Lúc đó ta sẽ

Cưới vợ cho ngươi.

Trưởng giả thông tuệ

Dần dà dạy bảo:

Con nên nhận lãnh

Các việc của ta

Ví yêu mến ngươi

Tâm đừng nghi ngại

Người con lần hồi

Vào trong nhà cha

Buôn bán cai quản

Tính toán thu chi

Không để thiếu hụt

Ngày càng phát đạt

Đi tới đi lui

Răn dạy tôi tớ

Các món bảo vật

Ngọc sáng lưu ly

Đều đem cất giữ

Kho tàng trong nhà

Tất cả các chỗ

Đều biết tính toán

Suy nghĩ biết rõ

Lợi của tài sản

Nhưng vì ngu si

Riêng giữ kho nhỏ

Không bằng như cha

Ở tại bên ngoài.

Khi ấy gã nghèo

Một mình suy nghĩ

Người khác không có

Kho báu như ta

Người cha biết được

Ý chí con mình

Nó tự cho rằng

Được giàu vô tận.

Liền gọi con đến

Tư thân dạy bảo

Ta muốn giao phó

Tài sản của ta

Nên bảo ngươi rằng

Ta có tất cả

Vọ số tài sản

Sinh hoạt buôn bán

Tụ tập mọi người

Trước mặt quốc vương

Trưởng giả, Phạm chí

Các bậc Hiền nhân

Sai người công bố

Lớn nhỏ gần xa

Đây là con tôi

Bỏ tôi trốn đi

Đến nơi nước khác

Tìm cầu ăn mặc

Vô cùng nghèo khổ

Nay mới trở về

Cùng tôi xa cách

Hơn sáu mươi năm

Nay đến nước này

Mới được gặp lại

Ở nơi thành ấy

Mà quên mất tôi

Nơi đây kiếm sống

Tư nhiên đến đây

Tài sản của tôi

Không thiếu thứ gì

Sản nghiệp hiện tại

Rất là đầy đủ

Tất cả đều đem

Giao phó cho con

Con sẽ giữ gìn

Cơ nghiệp của cha.

Người con vui mừng

Việc chưa từng có

Ta vốn nghèo nàn

Của cải tự đến

Người cha biết con

Ý chí thấp hèn

Được các kho báu

Ngày nay an ổn

Đấng Đại Đạo Sư

Giáo hóa chúng con

Chúng con thấp hèn

Vui ưa pháp nhỏ

Phật độ chúng con

Khiến được an ổn

Rồi Ngài thọ ký

Sẽ thành Phật đạo

An trụ nơi đây

Lập hạnh rất nhiều

Vô số Bồ-tát

Tuệ lực vô lượng

Chỉ bày phân biệt

Đạo lớn tối thượng

Ca ngợi các duyên

Muôn ngàn thí dụ

Chúng con được nghe

Là con Đức Phật

Nên gắng phụng hành

Đạo lớn tối thượng

Nơi đáng kiến lập

Cho người mắt tuệ

Sẽ ớ thế gian

Được thành Phật đạo

Vì Đấng Thế Tôn

Thực hành như thế

Nuôi dưỡng ủng hộ

Nơi giáo pháp này

Phân tích giảng nói

Tuệ nghĩa tối tháng

Rồi sẽ cảm hóa

Tất cả chúng sinh

Chí nguyện chúng con

Tâm nghèo suy nghĩ

Nếu như được nghe

Những lời Phật dạy

Không chịu phát khởi

Trí tuệ Như Lai

Thấy Bậc Tối Thắng

Tuyên nói nghĩa đạo

Trong lòng tư nghĩ

Đã được Niết-bàn

Không có mong cầu

Trí tuệ tối thượng

Nhờ nghe Thế Tôn

Chư Phật các cõi

Được ý hy hữu

Sinh tâm vui mừng

Nơi pháp vắng lặng

Tất cả vô lậu

Đã được dứt trừ

Sau được diệt độ.

Do tư duy này

Không thành Phật đạo

Nỗ lực tu hành

Siêng trừ kiêu mạn

Giáo nghĩa chư Phật

Vi diệu tối thượng

Chưa từng khuyên giúp

Chỉ trụ Niết-bàn

Cho là cứu cánh

Tối thắng trọn vẹn

Được pháp vô vi

Xả bỏ ấm, cái

Ngày đêm tinh cần

Tu pháp nghĩa không

Thoát khỏi khổ đau

Não phiền ba cõi

Thế Tôn dạy bảo

Dùng các nhân duyên

Và các thí dụ

Đầy đủ các pháp

Diễn nói tối thắng

Thân sinh trí tuệ

Nếu như có người

Mong thành Phật đạo

Chúng con vì họ

Ban cho Pháp sự

Họ đạt nhưng con

Không thích bao giờ

Đấng Đại Đạo Sư

Khắp cõi thế gian

Quán sát tất cả

Những người như con

Lo sợ các việc

Làm cho lợi ích

Ân cần khuyên bảo

Khiến con tin ưa

Phương tiện quyền biến

Giống như người cha.

Ví như trưởng giả

Vô cùng giàu có

Biết chí con mình

Bần cùng hạ liệt

Mới đem châu báu

Ban phát cho con;

Đấng Đại Đạo Sư

Nói pháp hy hữu

Phân biệt, chỉ bày

Khéo dùng phương tiện

Biết rằng chúng con

Chí thích thấp hèn

Điều phục tâm con

Mới ban pháp lớn.

Chúng con ngày nay

Đạt được vô lượng

Pháp chưa từng có

Như nghèo được của

Đức Phật giáo hóa

Được đạo quý báu

Các lậu đoạn trừ

Ngày đêm tu tập

Giới cấm, thiền định

Thọ trì giáo nghĩa

Tuân lời Đạo Sư

Nay con đã đạt

Đạo lớn Thế Tôn.

Quyến thuộc vây quanh

Tu hành tinh tấn

Nỗ lực ngày đêm

Phạm hạnh thanh tịnh

Nương Đấng Pháp Vương

Tuệ giác sâu xa

Mà được đầy đủ

Quả đức Vô thượng

Thành tựu vi diệu

Các lậu không còn.

Chúng con hôm nay

Mới là Thanh văn

Mới được nghe rõ

Phật đạo tối thượng

Được Phật hiển bày

Pháp âm toàn giác

Do đã được nghe

Vượt khỏi sợ hãi.

Hôm nay mới thành

Bậc Vô Sở Trước

Đem pháp ly thủ

Giảng cho chư Thiên

Thế nhân, ma vương

Và cho Phạm thiên

Tất cả quyến thuộc

Các loại chúng sinh

Khắp chúng hữu tình

Tạo lập tịch nhiên

Dứt bỏ sinh tử

Vô số ức kiếp,

Giáo pháp Phật giảng

Rất khó được gặp

Xét khắp thế gian

Không thể sánh kịp.

Ngày nay giác ngộ

Hết tội, giải thoát

Tu hành tinh tấn

Phấn chấn vui mừng

Chúng con quay về

Đảnh lễ bậc Thánh

Sở nguyện viên thành

Như cát sông Hằng

Thực phẩm, y phục

Nhiều đến vô lượng

Giường nằm, ngọa cụ

Thuần khiết sạch sẽ

Gỗ hương Chiên-đàn

Lấy làm nhà cửa

Đệm ngồi mềm mịn

Để trải lên trên

Nếu người tật bệnh

Vô số thuốc thang

Đem đến cúng dường

An trụ độ tận

Bố thí nhiều kiếp

Những gì đã chứng

Không bị mất đi

Pháp Phật cao xa

Vô lượng vô hạn

Đủ thần túc lớn

Kiến lập pháp lực

Phật là Đại vương

Kham nhận kiên cường

Thường tu kiên cố

An ủi khuyên dạy

Luôn theo đúng thời

Chưa từng buông bỏ

Vọng tưởng phước hạnh

Nơi tất cả đời

Pháp Đấng Trung Tôn

Đều có lực lớn,

Như Lai tối thắng

Thắp đèn sáng lớn

Dạy rất nhiều người

Biết hàng chúng sinh

Tùy sức của họ

Bao nhiêu chủng loại

Điều họ ưa thích

Trăm ngàn nhân duyên

Tùy thuận mở bày,

Như Lai đều biết

Tánh hạnh chúng sinh

Tâm niệm người khác

Tất cả quần sinh

Vì nhiều lỗi lầm

Đưa đến đọa lạc

Đem pháp thị hiện

Đưa về tuệ giác.

***

Phẩm 5: CÂY THUỐC

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Ca-diếp và các vị trưởng lão Thanh văn:

– Hay thay, hay thay, Đại Ca-diếp! Ông đã ca ngợi như thật về Như Lai. Đúng như lời ông nói, công đức của Như Lai theo như thí dụ vừa rồi còn gấp bội hơn thế, vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường bằng số kiếp giới hạn, tất cả mọi số tính toán đều không phù hợp với Như Lai. Trí tuệ của Như Lai vô cùng vô hạn, không ai có thể nghĩ hết những chỗ Như Lai đã trải qua và không thể tìm hết cội nguồn của nó. Như Lai thâm nhập hết tất cả các pháp nghĩa, quán sát biết tất cả tâm niệm của chúng sinh trong thế gian, thông suốt đến chỗ tận cùng, phân biệt tất cả. Như Lai làm cho mọi người hiểu rõ trí tuệ phương tiện, khuyến khích và an lập cho tất cả chúng sinh đến giải thoát và hiển bày trí tuệ rộng lớn khiến cho chúng sinh thâm nhập tuệ giác của Phật.

Ca-diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên, nơi ấy có các cây cỏ thuốc, tre lau, rừng cây lớn nhỏ, gốc rễ, cành, nhánh, hoa, trái, bao nhiêu giống loại màu sắc khác nhau đều sinh ra trên đất hoặc trên núi cao, hoặc giữa ghềnh đá, gò nổng, suối, khe, hang… Khi ấy một trận mưa lớn nhuần thấm khắp các cỏ cây, vườn rừng, tùy theo giống loại của mỗi cây mà tất cả đều phát triển tươi tốt. Những ai không tin tưởng, kính ngưỡng Như Lai cũng đều được như thế. Nước mưa cùng một loại rơi khắp cõi Phật, tất cả đều được sinh trưởng trên đất ấy như nhau không khác.

Đức Như Lai Chánh Giác giảng nói pháp sâu xa cũng như trận mưa lớn. Đấng Đại Thánh xuất hiện ở thế gian là vì tất cả chư Thiên, Nhân dân, A-tu-luân, Quỷ, Thần, Rồng. Như Lai hiện ra oai thần rực rỡ tràn khắp cõi nước, ngay trong hiện tại trước chúng, xướng lên âm thanh lớn, dùng trí tuệ phân biệt giáo nghĩa, bằng tiếng oai hùng như sư tử mà tuyên bố lời này:

– Ta là Đấng Như Lai sẽ làm cho chư Thiên, nhân dân trên trời hay khắp nhân gian, người chưa được độ sẽ được độ, người chưa giải thoát sẽ được giải thoát, người chưa an sẽ được an, người chưa chứng Niết-bàn sẽ làm cho chứng Niết-bàn. Đời hiện tại và các đời sau Như Lai đều biết đúng như thật. Như Lai dùng trí tuệ toàn giác có thể thấy khắp tất cả, độ người đáng độ, giải thoát người đáng giải thoát, làm cho an những người chưa an. Ai chưa được Niết-bàn, Như Lai làm cho được Niết-bàn, khiến cho tất cả đến đây nghe Như Lai thuyết pháp.

Khi ấy hàng Trời, Người, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc… tất cả vân tập đến chỗ Đức Thế Tôn đang giảng pháp nghĩa. Phật là Đấng chánh dẫn đạo, phân biệt rõ ràng con đường tuệ giác.

Đức Thế Tôn bảo Ca-diếp:

– Bấy giờ có vô số ngàn muôn ức loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai nghe pháp. Như Lai thấy rõ tất cả căn cơ của họ nên dung sức đại tinh tấn mà thuyết pháp, dùng vô lượng lời lẽ phân biệt rõ ràng, dạy bảo khắp các chúng sinh, khiến cho họ không mất bản tâm, được an lành vui vẻ không có tai họa, hoặc được giải thoát ngay trong đời này, đời sau được sinh chỗ an lành tùy theo ý thích của họ, mỗi người đều được sinh một cách tự nhiên. Nếu có người quen tuân theo ái dục thì Như Lai vì họ thuyết kinh, hoặc khiến họ nghe nhận giáo pháp, xa lìa các nghiệp tham, chuyển dần theo con đường trí tuệ Như Lai. Nhờ theo bản lực vô lượng như trên với tâm kiên cố nên họ thành tựu pháp thân bình đẳng. Giống như cơn mưa lớn, khắp cõi nước Phật đều được thấm nhuần nuôi dưỡng, sinh trưởng bình đẳng không sai khác.

Đức Như Lai giảng nói pháp một vị cũng như vậy, đưa đến vị giải thoát, xa lìa ái dục, đạt đến Niết-bàn, đi vào trí tuệ toàn giác. Hoặc có người nghe và thọ trì, đọc tụng, vâng giữ giáo pháp Như Lai mà họ lại không tự tỉnh thức, không quán niệm. Vì sao?

Đó là do chủng loại và căn tánh khi xưa của những chúng sinh ấy. Theo chỗ nhớ nghĩ của họ, đã nghĩ, đang nghĩ có thể làm những việc gì; những việc đã làm, đang làm và sẽ làm. Theo các nhân duyên ấy mà sẽ đạt đến đâu và cần phải nói thế nào, chỉ có Như Lai mới thấy biết hết sự việc trên ở nơi nào và cõi nào. Như nước mưa bình đẳng nhuần thấm cỏ thuốc trong rừng; các loại cỏ thuốc màu trắng, đen, xanh, đỏ, cao, vừa, thấp.

Đức Thế Tôn đối với các hạng chúng sinh đều hiện chỉ một vị, đưa họ vào vị giải thoát, cho đến Niết-bàn, độ những người chưa độ, đến Niết-bàn cứu cánh, làm cho họ đạt đến cùng một cõi, cùng một pháp vị, tâm không còn sợ hãi và được giải thoát. Như Lai giáo hóa làm cho chúng sinh được tin ưa. Ngài bảo bọc, nuôi dưỡng, che chở, khiến chúng sinh đạt đến trí tuệ thông suốt. Như Lai ca ngợi, phân tích rõ ràng, kiến lập giáo pháp của đấng Hiền thánh cũng như những điều vừa rồi Ca-diếp đã nói.

Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ:

Ta xuất hiện thế gian

Làm vua pháp nhân hòa

Vì chúng sinh thuyết pháp

Theo chỗ họ tin ưa

Ý mạnh mẽ oai hùng

Kiên trì phân biệt nói

Nhiều chúng sinh thọ trì

Chẳng vội giảng cho họ

Trí tuệ Phật khó hiểu

Nếu người thiếu trí nghe

Sẽ sinh lòng hoài nghi

Liền bỏ mất lòng tin

Tùy theo cảnh giới nói

Theo sức chúng kham nhận

Lại dạy các pháp lợi

Vì chúng hiện chánh pháp

Ví như vầng mây đen

Nổi lên trên hư không

Mưa khắp thế giới Phật

Che phủ khắp đất đai

Phóng chớp sáng chói lòa

Hơi nước tỏa xung quanh

Tiếng sấm lớn vang rền

Muôn loài đều hoan hỷ

Nhật nguyệt bị che khuất

Trừ nóng được mát mẻ

Vì trời sắp đổ mưa

Mây giăng khắp bầu trời

Trận mưa đó khắp cùng

Tuôn xuống nhiều vô lượng

Mưa chan hòa cõi Phật

Khắp nơi đều ướt đẫm

Đúng thời mưa tuôn tràn

Đại địa đều nhuận thấm

Suối khe đang khô cạn

Tất cả được tràn đầy

Nhờ trận mưa thấm nhuần

Các nguồn đều tràn dâng

Nơi đồng trống hang sâu

Cây cối trong rừng vắng

Nẩy mầm non xanh tốt

Vô số cỏ thuốc sinh

Tất cả các giống cây

Lớn nhỏ đều tăng trưởng

Cỏ thuốc mọc xanh tươi

Cây cành nhiều hoa quả

Tùy tánh loại của chúng

Tất cả được thấm nhuần.

Các cây đại thọ

Rễ bám đất sâu

Mọc nơi hiểm trở

Và sống trong đó

Như các tà đạo

Tất cả ngu si

Lớn thêm trói buộc

Như voi bị xích

Gai gốc, cỏ cây

Lúa mạ, lau sậy

Gốc thân, cành lá

Và các hoa quả

Cây trái sum suê

Được nhiều lợi ích

Đội ân mưa xuống

Cỏ thuốc lớn dần

Theo từng giống loại

Do trận mưa đó

Đều được thấm nhuần

Đói khát no đủ

Tùy theo giống trồng

Mỗi loại mỗi khác

Nhưng lúc mưa xuống

Đều thuần một vị.

Này Đại Ca-diếp!

Phật cũng như vậy

Hiện ra nơi đời

Ví như trời mưa

Rưới đều khắp cả

Vì chúng thuyết pháp

Đem hạnh chân thật

Giáo hóa chúng sinh.

Phật nói pháp ấy

Khiến mọi người nghe

Ở trước chư Thiên

Nhân dân khắp chốn,

Phật là Như Lai

Đấng Lưỡng Túc Tôn

Khéo dùng phương tiện

Giống như trận mưa

Ta làm no đủ

Tất cả quần manh

Những kẻ ngu si

Thân hình khô gầy

Trừ các khổ nạn

Được an ổn lớn

Thiêu hết ái dục

Đạt đến Niết-bàn

Chư Thiên, nhân loại

Đều nghe ta nói

Tất cả nên đến

Chỗ Phật Đại Thánh

Ta là Như Lai

Bậc không ai sánh

Điều ngự giáo hóa

Nên hiện trong đời

Vì tất cả người

Phân biệt thuyết kinh

Hóa độ muôn ngàn

Chúng sinh vô số

Phật lại diễn bày

Bao nhiêu giáo nghĩa

Thường hành bình đẳng

Không có bỉ tử

Đạt đến giải thoát

Diệt độ Niết-bàn

Hoặc trước cửa nhà

Thuyết pháp kinh điển

Đó là tạo lập

Kho tàng đạo đức

Dầu cao dầu thấp

Đều dạy như nhau

Không có ghét yêu

Dứt trừ ái dục

Ta chưa từng nói

Những lời vô ích

Chưa từng ghét ganh

Các duyên phóng dật

Dùng tất cả pháp

Thuyết cho mọi loài

Nếu như chúng sinh

Nhiều không tính kể

Vì giảng kinh lớn

Không trái nhân duyên

Đi chậm hay nhanh

Hoặc đứng tại chỗ

Hay là ngồi yên

Vẫn luôn thiền định

Ví như rồng chúa

Mưa thấm nhuần nhiều

Thấm ướt cùng khắp

Tất cả thế gian

Hiện khởi mây tuệ

Tuôn xuống mưa pháp

Xướng lên vi diệu

Tùy bệnh cho thuốc

Luôn vì chúng sinh

Thuyết pháp Thánh hiền

Khiến đều giữ giới

Như trời che mát

Những kẻ nói sai

Các hạnh sai trái

Muốn tiến gần pháp

Điều phục dần dần

Những kẻ hồ nghi

Bỏ các tà kiến

Khuyên dạy lợi ích

Thấy chốn an lạc

Bỏ chỗ hạ liệt

Xa lìa biếng nhác

Tùy ý nguyện họ

Mà khiến vào đạo

Đúng thời chỉ dạy

Khiến đều xả bỏ

Tâm niệm sai quấy

Thuận theo hạnh Phật

Chư Thế Tôn dạy

Rưới mưa pháp kinh

Làm cho đạt đến

Phật đạo tôn quý

Tùy sức chúng sinh

Khiếu được nghe nhận

Bao nhiêu đạo tuệ

Hóa lập pháp mầu

Trời người theo đó

Chí tánh an lạc

Phạm vương, Đế Thích

Chuyển luân thánh vương

Cũng giống như đây

Các thế giới nhỏ

Các loại cỏ thuốc

Mỗi loại khác nhau

Nhỏ nhoi thấp ngắn

Dược thảo như vậy

Ca-diếp hãy nghe

Ta sẽ nói hết,

Dùng tuệ nhận biết

Rõ pháp vô lậu

Chứng được Niết-bàn

Dạo chơi đến chốn

Ba minh, sáu thông

Cũng lại như vậy.

Trận mưa định ý

Cỏ thuốc Tam-muội

Hoặc có đi đến

Ở chốn núi rừng

Người này thành tựu

Bậc Duyên giác thừa

Người đó tu thiền

Sống hạnh thanh tịnh

Đó mới gọi là

Cỏ thuốc bậc trung.

Nếu như chí nguyện

Cầu đức Thượng sĩ

Ta sẽ ớ đời

Thành Đấng Đạo Sư

Thường hành tinh tấn

Thiền định nhất tâm

Đó mới gọi là

Cỏ thuốc bậc thượng.

Giả sử có người

Muốn tâm an trụ

Cứu giúp Từ bi

Sống nơi vắng lặng

Chóng được thành đạo

Làm Đấng Trung Tôn

Gọi đó cây lớn.

Là ví dụ này

Có thể tuyên thuyết

Pháp không thoái chuyển

Kiến lập thần túc

Thực hành căn lực

Trưởng dưỡng duyên này

Thuốc thang trừ bệnh

Hùng sự độ thoát

Vô số ức người

Tùy thời thị hiện

Trong Phật đạo ấy

Đó chính gọi là

Rừng cây lớn nhất.

Ta vốn tùy thuận

Khéo dung phương tiện

Tất cả chư Phật

Cũng đều như thế

Giảng pháp tối thắng

Là pháp bình đẳng,

Giống như mây lành

Tuôn mưa khắp chốn

Vô ngại thần thông

Phật dùng dụ này

Ví như cỏ thuốc

Cùng mọc trên đất

Để họ được thấy

Nghĩa pháp vi diệu

Như Lai đã lập

Dùng phương tiện khéo

Ví dụ phân tích

Pháp sự toàn diện

Cũng như trận mưa

Tưới mọi cỏ thuốc.

Phật dùng mưa pháp

Rưới khắp thế gian

Được nhiều an ổn

Thành tựu khắp cả,

Quán sát mỗi người

Khả năng kham nhận

Giáo pháp Phật dạy

Đều cùng một vị.

Ví như mưa rơi

Núi, ghềnh, cây cỏ

Và nơi khoảng giữa

Không có khác nhau,

Rưới ướt cây cối

Khắp cả rừng già

Mây dày bốn phía

Đầy tất cả cõi.

Giả sử thế gian

Hành pháp từ mẫn

Nên dùng kinh này

Đầy khắp thiên hạ,

Chỉ dạy cho đời

Khiến đều an ổn

Trời mưa cỏ thuốc

Hoa trái sum suê,

Các cỏ thuốc ấy

Dần dần lớn lên

Đó là La-hán

Các lậu đã hết.

Các hàng Duyên giác

Ở nơi rừng rậm

Pháp ta nói ra

Không có trần cấu,

Vô số Bồ-tát

Trí tuệ thấu đạt

Khắp cả ba cõi

Tất cả thực hành,

Ở trong chúng hội

Diễn đạo lớn này

Giống các cây kia

Ngày thêm lớn tốt,

Tiến tu Thần túc

Chuyên đạt Tứ thiền

Hoặc nghe Không tuệ

Tâm liền giải thoát,

Phóng hào quang sáng

Vô số ức ngàn

Đó là cây lớn

Mà lại thắm tươi.

Hoặc các Thanh văn

Chưa đạt Niết-bàn

Thế Tôn vì họ

Thuyết pháp cao tột,

Hoặc đem phân biệt

Thuyết giảng pháp này

Giống như mây nổi

Mưa xuống các cây,

Dần dần thêm lớn

Các cây cỏ thuốc

Hoa của mọi người

Nhiều không kể hết

Giữa ngay lúc ấy

Thuyết pháp nhân duyên

Mà vì mọi người

Hiện nơi Phật đạo

Tạm dùng phương tiện

Thuyết giảng giáo pháp

Tất cả Đạo sư

Cũng lại như vậy.

Thuyết giáo pháp này

Là pháp bậc nhất

Các chúng Thanh văn

Đều phải phụng trì

Thực hành duyên đây

Sẽ được hạnh Phật

Các La-hán này

Như thế không khác

Thế Tôn diễn nghĩa

Cứu cánh nơi đây

Giáo hóa Tiểu thừa

Đều được Phật đạo.

Đức Phật lại bảo Tôn giả Đại Ca-diếp:

– Như Lai giáo hóa, chỉ dạy bình đẳng không thiên lệch. Ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thiên hạ, ánh sáng ấy không chọn lựa chỗ nào nên chiếu và chỗ nào không nên chiếu, dù là cao, thấp, sâu, cạn, xấu, đẹp, thơm, hôi… đều chiếu soi như nhau không khác.

Đức Phật cũng như thế, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh trong năm đường sinh tử, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, trí tuệ ấy không tăng giảm, mỗi chúng sinh tùy theo sự giác ngộ của tâm mình mà tự đạt đạo. Vốn không có ba thừa, do hạnh nguyện mà đưa đến như vậy.

Tôn-giả Ca-diếp bạch Phật:

– Nếu không có ba thừa, làm sao có được bậc Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát?

Đức Phật dạy:

– Ví như người thợ gốm dùng đất dẻo làm đồ vật đựng, hoặc đựng mật cam lồ, hoặc đựng bơ sữa, dầu mè, hoặc đựng rượu ăn uống… Đất bùn tánh chất nó như nhau nhưng khi làm đồ vật khác nhau thì chỗ dùng cũng không giống nhau. Pháp giải thoát cũng như vậy, bình đẳng không sai khác. Tùy theo chỗ thực hành của mỗi người mà thượng, trung, hạ có khác nhau.

Tôn-giả Ca-diếp lại thưa:

– Bạch Thế Tôn! Giả sử khác nhau nhưng cứu cánh có giống nhau chăng?

Đức Phật dạy:

– Sẽ giống nhau nhưng chỉ có người giác ngộ mới hiểu rõ việc này. Ví như có người sinh ra đã bị mù, không thấy được năm sắc, mặt trời, mặt trăng và mười phương. Người ấy cho rằng thiên hạ không có mặt trời, mặt trăng, năm sắc, tám phương và phương trên, phương dưới. Có người giải thích, người ấy vẫn không tin. Giả sử có vị lương y xem thấy nguyên nhân căn bệnh của người ấy: “Vì sao người ấy không thấy? Là do khi xưa vị ấy đã tạo tội nên nay mắt mù tối không thấy được ánh sáng, thân thể bị bệnh nặng. Thế nào gọi là bệnh nặng? Đó là bốn chứng bệnh phong, hàn, nhiệt, tích.”

Vị lương y thầm nghĩ: “Bệnh trạng của người này cho dù dung các dược liệu cũng không thể chữa khỏi. Trên Tuyết sơn có loại thuốc có thể trị được bốn bệnh ấy. Một là Hiển, hai là Lương, ba là Minh, bốn là An; đó là tên của bốn vị thuốc.

Lúc ấy vị lương y vì thương xót người bệnh, bày ra phương cách liền vào núi Tuyết hái bốn loại thuốc đem hợp lại rồi ngâm, giã, dùng để trị cho người mù mắt kia được sáng trở lại. Vị lương y lại châm cứu, tiêu tức, bổ tả, làm cho người mù sáng mắt, trong ngoài đều thấy rõ. Người ấy thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, năm sắc, mười phương, khi ấy ông ta mới thật tin liền tự trách mình: “Ta thật là mù lòa, đã không thấy nghe mà tự cho rằng mình đã thông đạo.- Nay mắt thấy được mới tự biết rằng trước đây đã bị sự ngu si che phủ, nay đã thấy được xa gần, cao thấp, ta không còn lầm lẫn.”

Khi ấy có vị Tiên nhân sống nơi vắng vẻ, có năm phép thần thông, thấy nghe xuyên suốt khắp cả và thân có thể bay đi, tâm có thể biết ý nghĩ người khác, tự biết nguồn gốc sinh tử từ trước đến nay. Vị Tiên nhân bèn nói rõ cho người kia:

– Ngươi chớ kiêu căng, tự cao cho rằng mình đã thấu đạt. Vì người ở trong nhà đóng cửa, không ra ngoài nên không biết mọi sự bên ngoài được. Ngươi không biết người khác nghĩ tốt xấu về mình, cũng không thể thấy xa được năm dặm mười dặm. Các tiếng nói hay tiếng trống đánh cách xa hai mươi dặm còn không thể nghe, trong gần mười hai dặm tự thân ngươi không thể đi bộ nổi, cũng không thể đạt được đến chỗ tự nhớ lại, thấy được lúc chưa sinh, còn ở trong thai, cũng không thể biết được. Ngươi thông đạt điều gì mà tự cho là thấy biết tất cả? Nay ta thấy ngươi thật là kẻ ở trong tối cho là sáng, ở trong sáng cho là tối.

Người kia hỏi:

– Phải làm cách nào để được Thánh trí ấy? Xin ngài rủ lòng ban cho lời dạy bảo.

Vị Tiên nhân đáp:

– Ngươi phải vào núi sâu sống một mình nơi thanh vắng, trừ hết các dục tình, lúc ấy mới đạt được.

Người ấy tuân lời vị Tiên nhân dạy, bỏ nhà vào chốn núi non, nhất tâm chuyên ròng không đắm say dục lạc, chứng được thần thông tự giác ngộ, quán sát những điều đã thấy không thể dung ngôn từ để gọi được. Khi đã được năm phép thần thông, không có chỗ ngăn ngại mới tự biết sở kiến xưa kia của mình bị tối tăm che phủ.

Đức Phật dạy:

– Ta sẽ giải rõ ví dụ này. Con người sống trong năm đường ấm, cái sinh tử, chẳng rõ bản vô thì gọi là si, từ si đưa đến hành, từ hành đưa đến thức, từ thức đưa đến danh sắc, từ danh sắc đưa đến lục nhập, từ lục nhập đưa đến xúc, từ xúc đưa đến thọ, từ thọ đưa đến ái, từ ái đưa đến thủ, từ thủ đưa đến hữu, từ hữu đưa đến sinh, từ sinh đưa đến lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn. Các tội tích tụ cho nên gọi là mù tối. Chính vì thương xót những người này bị trôi lăn trong ba cõi không dừng nghỉ không thể tự cứu vớt, nên Thế Tôn quán sát nguồn tâm của chúng sinh thấy có người bệnh nặng có kẻ bệnh nhẹ; có người nhiều trần cấu, có kẻ ít trần cấu; có người dễ giải thoát, có kẻ khó giải thoát; có người thấy xa, có kẻ thấy gần, phát tâm Bồ-tát đến không thoái chuyển, không còn sinh tử, đạt đến Phật quả, giống như người có mắt được làm Thần tiên. Vị lương y đó chính là Như Lai vậy.

Người không phát đại Bồ-đề tâm gọi là sống mù. Tham, dâm, sân hận, ngu si, sáu mươi hai tà kiến gọi là bốn bệnh. Không, Vô tướng, Vô nguyện, hướng đến cửa Niết-bàn gọi là bốn thứ thuốc. Thuốc làm cho khỏi bệnh thì không có si, hành, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, bệnh, tử, ưu não khổ hoạn, tất cả đều được đoạn trừ. Chí không trụ thiện, cũng không trụ ác, như người mù hai mắt được sáng trở lại gọi là Thanh văn, Duyên giấc đã đoạn sinh tử, vượt khỏi ba cõi, thoát khỏi năm đường, tự biết rõ đã thông đạt, không bị nhầm lẫn. Lúc muốn diệt độ, có Phật thị hiện ra trước, đem chánh pháp giảng dạy khiến họ phát tâm Bồ-tát, không ở nơi sinh tử, chẳng trụ Niết-bàn, hiểu rõ nghĩa không trong ba cõi; tất cả các pháp hiện hữu trong mười phương như huyễn như hóa, như giấc mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang trong núi thẳm; tất cả đều không sở hữu, không có gì hy vọng, không thủ không xả, không tối, không sáng. Khi ấy họ mới thấy sâu xa, không có gì là không thông đạt, thấy được các pháp chưa từng thấy, hiểu biết rõ nguồn gốc sinh khởi của tất cả của chúng sinh.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên:

Ví như ánh mặt trời

Tỏa chiếu khắp muôn nơi

Ánh sáng không tăng giảm

Cũng không chọn tốt xấu.

Như Lai cũng như vậy

Trí tuệ như trời, trăng

Hóa cùng mười phương cõi

Cũng không có giảm tăng.

Như người thợ gốm kia

Nhào nặn đất làm đồ

Hoặc đựng mật cam lộ

Hoặc đựng dầu ăn, sữa

Vốn từ một chất đất

Thành vật dụng khác nhau

Nhưng chỗ dùng không khác

Vì chỗ đựng đặt tên.

Người vốn cũng như vậy

Không ba cõi năm đường

Theo hành nghiệp đọa sinh

Luân hồi không tự biết.

Rõ “Không” gọi Bồ-tát,

Bậc trung là Duyên giác

Chấp không, tuệ chưa giải

Thì gọi là Thanh văn.

Ví như người mù mắt

Không thấy ánh trời trăng

Năm sắc và mười phương

Cho rằng đời không có

Lương y xét nguyên nhân

Thấy bốn bệnh che lấp

Tự mẫn thương xót họ

Vào núi tìm thuốc thang

Hái thuốc hay diệu kỳ

Tên hiển, lương, minh, an

Ngâm, giã, hòa hợp lại

Để trị cho người mù

Gia giảm thêm châm cứu

Bệnh khỏi, mắt thấy sáng

Thấy trời, trăng, năm sắc

Mới biết mình tối ngu

Người không rõ tánh không

Đọa mãi đường sinh tử

Mười hai duyên buộc ràng

Không rõ nguyên nhân bệnh

Thế Tôn hiện ra đời

Quán sát gốc ba cõi

Tùy nhân sinh ra bệnh

Mà khai hóa tất cả

Rõ “Không” là Bồ-tát

Ý thấp là Duyên giác

Chán sợ khổ sinh tử

Nên rơi vào Thanh văn

Tự cho đạo đức cao

Không thể tự hiểu rõ

Người thấy được cứu cánh

Không có lo chướng ngại

Giống như vị Tiên nhân

Có đủ năm thần thông

Thương xót bảo người kia

Ngươi chấp chặt ngăn che

Không hiểu rộng sâu xa

Nơi tối cho là sáng

Ở trong không thấy ngoài

Tuy sáng cũng là tối

Vài mươi dặm có tiếng

Tai không thể nghe được

Hoặc người muốn ách hại

Không biết ý họ nghĩ

Muốn đến ngoài vài dặm

Phải đi bộ mới đến

Hoặc khi sinh lớn lên

Không biết việc trong thai

Rõ năm việc trong ngoài

Lúc ấy mới thông đạt

Sao lại sanh kiêu ngạo

Tự cho mình hơn hết

Người muốn được ngũ thông

Phai ở nơi thanh vắng

Chuyên tinh nghĩ nhớ đạo

Khi liễu ngộ pháp này

Phụng trì lời Phật dạy

Bỏ nhà vào núi sâu

Nhất tâm không nghĩ xấu

Liền đạt đến Thần tiên

Nếu đạt đến Thanh văn

Và được Duyên giác thừa

Tự cho tuệ đầy đủ

Bằng Niết-bàn chư Phật

Khi sắp muốn diệt độ

Phật liền đứng phía trước

Vì hiện pháp Bồ-tát

Tam đạt vô quái ngại

Tuệ giác đến vô cùng

Khéo tạm dùng phương tiện

Đạt Không, Vô tướng nguyện

Bồ-tát do đó sinh

Bốn Đẳng tâm, bốn ân

Đem khai hóa chúng sinh

Rõ tất cả như hóa

Như mộng, huyễn, sóng nắng

Như tiếng vang, thân chuối

Ba cõi không sở hữu

Không giữ cũng không bỏ

Không tối cũng không sáng

Không sinh tử Niết-bàn

Bình đẳng như hư không

Thấy cũng chẳng phải thấy

Mới thấy được tất cả

Cái nhìn ngay lúc ấy

Không phân biệt Tam thừa

Tất cả đều bình đẳng

Cứu giúp không hạn lượng.

***

Phẩm 6: THỌ KÝ CHO HÀNG THANH VĂN

Lúc bấy giờ, khi nói kệ xong, Đức Thế Tôn bảo tất cả các vị Tỳ-kheo:

– Ta nay nói rõ, các vị Thanh văn kia cũng như Đại Ca-diếp đã từng cúng dường ba ngàn ức Đức Phật, nay sẽ phải cúng dường số lượng chư Phật như trước đây, tôn kính phụng thờ chư Phật Thế Tôn, nhận lãnh chánh pháp, vâng giữ tu tập. Sau khi cúng dường chư Phật ấy xong sẽ được thành Phật, cõi ấy tên là Hoàn minh, kiếp ấy tên là Hoằng đại. Đức Phật khi đó hiệu là Đại Quang Minh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu, trụ thế mười hai trung kiếp.

Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ ở đời hai mươi kiếp, tượng pháp cũng trụ đời hai mươi kiếp. Cõi nước của Phật ấy rất thanh tịnh, không có gạch ngói, gai góc, các thứ ô uế, núi non, hầm hố, vô cùng tịnh lạc, đất bằng lưu ly, cây bằng các thứ báu, dây bằng vàng ròng giăng mắc trên các hàng cây, có tám con đường giao nhau. Các cội cây báu thường trổ hoa báu, luôn sum suê tươi đẹp. Có vô số trăm ngàn muôn ức các vị Bồ-tát trong cõi ấy, số Thanh văn cũng thật vô lượng. Cõi ấy không có các việc ác và quan thuộc, các loài quỷ đều luôn tinh tấn theo hộ trì Phật pháp không hề trái phạm.

Lúc ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ:

Ta thấy Tỳ-kheo

Bằng Tuệ nhãn Phật

Ca-diếp hiện nay

Sẽ được thành Phật.

Ở đời vị lai

Vô số ức kiếp

Cúng dường chư Phật

Bậc Thánh Trung Tôn

Viên mãn đầy đủ

Ba ngàn ức Phật

Ma-ha Ca-diếp

Các lậu đã tận,

Tu tập trọn vẹn

Công hạnh ba phẩm

Sẽ được thành Phật.

Ông thân cận pháp

Cúng dường chư Phật

Tôn sư trời, người

Tích lũy hạnh lành

Sẽ thành Phật quả

Tối tôn, tối thượng

Bậc không sánh kịp

Là Đại Đạo Sư

Là bậc Đại Thánh.

Cõi nước Phật kia

Bậc nhất tối thắng

Thanh tịnh ly cấu

Bao nhiêu điềm lành

Tùy theo mong cầu

Đều được toại nguyện

Đất màu vàng tía

Vật báu trang nghiêm

Lại có các cây

Đều bằng trân bảo

Đường xá trang nghiêm

Thẳng phân tám nẻo

Trời, người tán hương

Khắp nơi thơm ngát

Cõi nước khi ấy

Sẽ được như vậy

Bao nhiêu loại hoa

Giăng mắc trang hoàng

Tất cả loài hoa

Sắc màu vàng tía

Tỏa sáng ngân thanh

Dùng làm pháp tắc

Thường luôn vi diệu

Chưa ai từng thấy.

Các chúng Bồ-tát

Vô số ngàn muôn

Tâm chí an định

Có sức đại thần,

Các chúng Thánh trí

Theo kinh Đại thừa

Số không thể tính

Muôn ức trăm ngàn,

Tuyệt không các lậu

Bền chí vâng giữ

Có chúng Thanh văn

Pháp Phật tối thắng

Nếu dùng Thiên nhãn

Muốn tính suy lường

Số chúng đệ tử

Quyết không thể được.

Phật ấy trụ đời

Mười hai trung kiếp

Chánh pháp sẽ trụ

Hai mươi trung kiếp;

Tượng pháp cũng trụ

Số kiếp như trên

Phật Đại Quang Minh

Công đức như thế.

Lúc ấy các vị Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên… đồng lòng đứng lên cúi đầu chiêm ngưỡng dung nhan rực rỡ của Đức Phật, mắt không lay động, thành kính lễ sát chân Đức Phật. Tất cả đều đọc kệ tán thán:

Bậc Đại Hùng vô nhiễm

Đấng Thích Vương đại Từ

Đã xót thương chúng con

Tuyên nói khen hạnh Phật.

Phật nay biết chúng con

Xin thương truyền thọ ký

Được gặp pháp cam lộ

Tắm gội trong pháp âm;

Ví như kẻ đói khát

Được thức ăn thượng vị

Nghèo túng đang van cầu

Bỗng có người cho ăn.

Chúng con đều hoan hỷ.

Chúng con chí thấp hèn

Trái thời bỏ mọi người

Nên không được thọ ký,

Không tin trí Đẳng giác

Nên Phật không truyền trao

Nay chúng con ở đây

Đều không còn đói khát,

Thấy Thế Tôn khuyến phát

Được nghe pháp chí tôn

Chỉ mong được thọ ký

Thì mới được đại an.

Nguyện Thế Tôn giải nghi

Lân mẫn đại Từ bi

Thương hạnh tâm kém hèn

Pháp cam lộ dạy chúng.

Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn Trưởng lão, liền bảo chúng Tỳ-kheo:

– Các Tỳ-kheo nên biết! Vị đại Thanh văn Trưởng lão Tu-bồ-đề này sẽ theo hầu cận, cúng dường tám ngàn ba mươi ức trăm ngàn muôn Đức Phật, ở chỗ chư Phật tu tập phạm hạnh, tích lũy đầy đủ trọn vẹn công đức, sau đó trong tương lai sẽ được thành Phật, được xưng tụng hiệu là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp ấy tên là Bảo âm. Khắp nơi trong cõi nước của Đức Phật ấy đều có các loại cây báu tự trang nghiêm, không có cát sỏi, gạch đá, núi hầm, hang hố. Các hàng cây đều phát ra âm thanh từ bi, hòa nhã. Nhân dân trong nước ấy giàu có vô lượng, nhà cửa, phòng xá, lầu gác nhiều vô số. Số chúng Thanh văn cũng nhiều vô lượng không thể tính đếm cho hết được và đều là bậc đã chứng được Túc mạng thông. Bồ-tát trong nước ấy cũng đông trăm ngàn muôn ức, vô lượng không thể tính đếm. Đức Phật ấy sẽ trụ đời mười hai trung kiếp. Sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp. Đức Phật sẽ an tọa trên hư không vì tất cả chúng sinh giảng nói kinh pháp, khai hóa cho vô số trăm ngàn Bồ-tát.

Khi đó Đức Thế Tôn nói kệ:

Nay ta nói rõ

Các vị Tỳ-kheo

Đều nên lắng nghe

Lời Phật tuyên dạy.

Ông Tu-bồ-đề

Là đệ tử ta

Ở trong tương lai

Sẽ được thành Phật,

Gặp chư Thế Tôn

Tâm ý chí thành

Đầy đủ ba mươi

Muôn ngàn Đức Phật,

Sẽ ở thế gian

Huân tu đạo hạnh

Chí luôn mong cầu

Tuệ giác Như Lai.

Ở thời vị lai

Công hạnh viên mãn

Nhan sắc diệu kỳ

Ba mươi hai tướng

Rực rỡ tươi đẹp

Sắc thân vàng tía

Kiếp ấy trong lành

Tâm luôn Từ mẫn,

Cõi nước an vui

Hiện lên điềm lành

Muôn dân trông thấy

Khả ý vui mừng

Đều cùng nhau đi

Đến chỗ Đức Phật

Chúng sinh được độ

Vô lượng vô số,

Các chúng Bồ-tát

Không thể tính kể

Tâm đều giải thoát

Không còn thoái chuyển.

Nghe pháp tối diệu

Các căn thông lợi

Đều sẽ thuận kính.

Cõi nước Phật ấy

Số chúng Thanh văn

Thật đông vô lượng

Muốn biết hạn số

Tuyệt không thể được

Lục thông, tam đạt

Có đại thần túc

Giải thoát vô ngại

Đã được an ổn

Sức thần thông đó

Không thể nghĩ bà n

Nếu Phật giảng bày

Pháp bảo chư Phật

Trời, người đông đảo

Như cát rạch sông

Sẽ luôn chắp tay

Tư quy y Phật.

Phật ấy trụ đời

Mười hai trung kiếp

Chánh pháp sẽ trụ

Hai mươi trung kiếp,

Tượng pháp trụ thế

Số cũng như trên

Đấng Đại Hùng Sư

Việc đó như vậy.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo các vị Tỳ-kheo:

– Các Tỳ-kheo muốn biết chắc thật việc trong tương lai thì cần phải tin tưởng vào trí phân biệt bình đẳng của Như Lai. Đại Ca-chiên-diên, vị đệ tử Thanh văn này của ta, trong tương lai sẽ theo hầu hạ, cúng dường tám ngàn ức Đức Phật. Sau khi mỗi Đức Phật diệt độ sẽ xây dựng tháp cao bốn vạn thước, mỗi tháp dài rộng hai vạn thước, đều dùng các thứ báu vật như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc bích để tạo nên, dùng các thứ hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ lọng để cúng dường.

Sau khi ông đã cúng dường xong lại phải cúng dường hai mươi ức Đức Phật rồi sẽ thành Phật, có hiệu là Tử Ma Kim Sắc, Như Lai Đẳng Chánh giác, Mình Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Cõi nước trang nghiêm, thanh tịnh, bằng phẳng, không có các điều xấu ác, danh tiếng đồn khắp, dùng lưu ly làm đất. Vô số các loại cây có các thứ báu vật như dây báu, gấm lụa màu vàng óng giăng mắc để trang hoàng. Hoa của các cây ấy luôn nở sum suê, tươi tốt đầy khắp nơi. Cõi Phật ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh mà chỉ có chư Thiên và loài người số đông vô lượng, lại có vô số trăm ngàn muôn ức Thanh văn và Bồ-tát để trang nghiêm cõi Phật. Đức Phật ấy sẽ trụ ở đời mười tiểu kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ hai mươi trung kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi trung kiếp.

Khi đó Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Các vi Tỳ-kheo

Đều nên lắng nghe

Thanh âm Phật ấy

Nhu nhuyễn tốt lành.

Ông Ca-chiên-diên

Đệ tử của ta

Sẽ cúng dường Phật

Vô số Đạo Sư

Tôn kính phụng thờ

Kính thành vô lượng

Trong vô số kiếp

Không thể tính đếm.

Chư Phật diệt độ

Xây dựng tháp thờ

Dùng hương và hoa

Cúng dường tháp Phật

Sau đó tương lai

Sẽ được thành Phật

Cõi nước trong lành

Không có dơ uế

Giáo hóa giảng dạy

Vô số chúng sinh

Mở bày hướng đạo

Cho khắp mọi người

Cõi ấy trang nghiêm

Mười phương tỏa sáng

Ông sẽ thành Phật

Dùng dụ giảng bày

Hiệu Tử Kim Sắc

Uy đức sáng ngời

Độ thoát chúng sinh

Trăm ngàn muôn ức

Vô số Bồ-tát

Và chúng Thanh văn

Đầy khắp cõi Phật

Số đông vô kể

Thường tu tinh tấn

Trong pháp của Phật

Đoạn trừ các ác

Diệt tận họa tai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo với bốn bộ chúng trong hội:

– Nay Thế Tôn tuyên nói ông Đại Mục-kiền-liên, vị đệ tử Thanh văn của ta, sẽ phụng thờ, cúng dường tám ngàn Đức Phật, theo hầu vô số các Đức Thế Tôn. Sau khi chư Phật diệt độ, ông sẽ xây dựng tháp thờ xá-lợi, dùng bảy món báu như vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, ngọc quý tạo thành. Các tháp ấy cao bốn vạn thước, dài rộng hai vạn thước. Ông lại dùng vô số các vật báu tốt đẹp, các loại hương hoa, tạp hương, bột hương, gấm lụa, cờ phướng lọng và tấu nhạc để cúng dường tháp Phật. Sau khi cúng dường các tháp ấy xong, ông lại phải kính thờ, theo hầu cận, cúng dường hai trăm vạn ức Đức Phật.

Vào đời sau cùng, ông sẽ được thành Phật, có hiệu là Kim Hoa Chiên-đàn Hương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu. Nước ấy tên là Ý lạc, kiếp ấy tên là Lạc mãn.

Thế giới của Đức Phật ấy tươi đẹp, an ổn, thanh tịnh, trong sạch. Mặt đất toàn bằng ngọc lưu ly rực sáng, cây cối hoa quả đều bằng bảy báu hợp thành. Khắp nơi đều có các loại hoa bằng ngọc quý kết thành rất trang nghiêm. Cõi nước ấy bằng phẳng, tốt đẹp, đầy đủ các thứ quý báu. Đức Phật sẽ lặng im an tọa, trú trong định Vô lượng nghĩa và vì tất cả Bồ-tát rộng giảng kinh pháp. Đức Phật ấy sẽ trụ đời hai mươi trung kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp sẽ trụ thế bốn mươi trung kiếp, thời kỳ tượng pháp cũng như vậy.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại Mục-kiền-liên

Đệ tử của ta

Xả bỏ thân người

Cũng được tự tại,

Hai mươi vạn ức

Số kiếp như vậy

Đều sẽ cúng dường

Chư Phật, giáo pháp

Ở chỗ các Phật

Tu tập hạnh lành

Chí luôn mong cầu

Đạo của chư Phật

Theo hầu tôn kính

Chư Phật Thế Tôn

Phụng sự đầy đủ

Các Bậc Đạo Sư

Và sẽ vâng giữ

Truyền bá Thánh giáo

Trong bao nhiêu kiếp

Số ức trăm ngàn

Kính cẩn tuân hành

Không hề trái phạm.

Chư Phật Thế Tôn

Sau khi diệt độ

Ông dùng bảy báu

Xây tháp thờ Phật

Vì chư Như Lai

Kiến tạo, tu sửa

Dùng gỗ Chiên-đàn

Để làm kèo cột

Tán hương, tấu nhạc

Mà cúng dường tháp.

Ở đời cuối cùng

Việc làm đã xong

Ngôn thuyết an lành

Được người kính ngưỡng

Thương yêu chúng sinh

Việc làm như thế

Sẽ được thành Phật

Hiệu Kim Chiên-đàn

Phật ấy sẽ thọ

Hai mươi trung kiếp

Số kiếp an trụ

Đức hạnh như thế

Sẽ giảng pháp kinh

Cho chư Bồ-tát

Ở số kiếp ấy

Phân biệt thật nghĩa

Hàng Thanh văn lớn

Muôn ức trăm ngàn

Số đông vô lượng

Như cát rạch sông

Tam đạt, lục thông

Có đại thần túc

An trụ ở đời

Mà được sức diệu

Vô số Bồ-tát

Đều không thoái chuyển

Dũng mãnh tin cần

Có chí, trí tuệ

Tu hành như trên

Theo lời Phật dạy

Số ấy vô lượng

Không thể nghĩ bàn.

Phật diệt độ rồi

Đệ tử vô số

Chánh pháp sẽ trụ

Truyền khắp mười phương

Hai thời chánh, tượng

Bốn mươi trung kiếp

Chánh pháp chưa hết

Tượng pháp đã khai

Hàng chúng Thanh văn

Có thần thông lớn

Phật đều khuyến lập

Nương theo Đại thừa

Không trái pháp chân

Ở trong vị lai

Thành Phật tự tại.

***

Phẩm 7: VÃNG CỔ

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Thời quá khứ xa xưa vô lượng vô biên kiếp đã qua, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu.

Thế giới đó tên Đại thực giá, kiếp tên Sở tại hình sắc. Đức Phật ấy thuyết pháp trải qua thời gian nhiều vô lượng. Ví như đất trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, giả sử có người đem nghiền nát hết đất nơi cõi Phật ấy thành ra hạt bụi nhỏ, rồi lấy một hạt bụi đi qua một ngàn thế giới Phật ở phương Đông đặt một hạt bụi, lại qua một ngàn cõi nước cũng đặt một hạt bụi. Cứ như thế đặt hết những hạt bụi trong tam thiên đại thiên thế giới khắp cõi phương Đông vô lượng cõi Phật. Ý các ông nghĩ sao? Có thể nào tính đến hết giới hạn số lượng của các cõi Phật ấy không?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch Thế Tôn, không thể tính hết được!

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo! Số kiếp của Đức Phật ấy đã trải qua cũng như vậy, giống như có người đem tất cả bụi đặt ở các cõi Phật, không thể tính kể hạn lượng số bụi ở các cõi Phật kia, trăm ngàn muôn ức triệu số kiếp, phải biết từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay số kiếp càng lâu dài hơn, không thể nghĩ bàn, thật vô lượng, khó thể tính lường. Đức Đại Thông Chúng Tuệ thị hiện đạo lực, sau khi diệt độ số kiếp chánh pháp trụ thế cũng lại như vậy.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta nhớ quá khứ

Vô số ức kiếp

Có đấng Như Lai

Phước trí tôn quý

Tên Đại Thông Tuệ

Hết sức nhân từ.

Khi ấy Thế Tôn

Đấng trên loài người

Ví như lấy cõi

Thế giới Phật kia

Nghiền nát tan tành

Tất cả thành bụi

Giả sử có người

Đem từng hạt bụi

Qua ngàn cõi Phật

Mới đặt một hạt

Lần lượt như thế

Khắp cõi nước Phật

Người ấy đặt bụi

Đầy khắp Phật quốc

Bao nhiêu cõi đó

Tất cả khắp nơi

Thế giới vô hạn

Không thể tính đếm

Tất cả sở hữu

Cõi nước đại Thánh

Các bụi đã có

Không thể hạn lượng

Đều đem nghiền nát

Khiến không còn thừa

Đại Thánh chí tôn

Diệt độ như đây

Phật ấy an trụ

Diệt độ hoàn toàn

Số kiếp như thế

Vô lượng ức ngàn

Nếu muốn tính đếm

Không thể nghĩ bàn

Diệt độ đến nay

Bao nhiêu kiếp số.

Đấng Đạo Sư ấy

Lâu xa đến nay

Các chúng đệ tử

Và hạnh Bồ-tát

Trí tuệ Như Lai

Cao xa vời vợi

Nay Phật đều biết

Phật đó diệt độ.

Tỳ-kheo phải biết

Trí tuệ của Phật

Tỏa sáng vô cùng

Như nhau không khác

Phật biết rốt ráo

Vô lượng kiếp qua

Vi diệu vô cùng

Pháp nghĩa vô lậu.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chánh giác thọ bốn mươi bốn ức trăm ngàn kiếp. Đức Như Lai vì đạo Vô thượng chánh chân, đầu tiên ngồi dưới cội cây trong đạo tràng, lặng im trong một kiếp, cho đến hai kiếp nhưng chẳng được Chánh giác. Đức Như Lai ngồi yên đến mười kiếp thân và tâm không dao động, thân thể không mỏi mệt cũng không nhớ nghĩ, tư tưởng vắng lặng và hướng đến các pháp, nơi đạo tràng hàng phục ma quân và sắp thành Chánh giác.

Các vị Thiên tử ở cung trời Đao-lợi hóa làm tòa Sư tử lớn, cao bốn mươi dặm. Khi Phật ngồi trên tòa này an trụ trong thiền định, các vị Thiên tử ở cõi Phạm thiên tuôn hoa trời xuống như mưa trong vòng bốn ngàn dặm, gió tự nhiên thổi lên đem các hoa thơm rải trên chỗ Phật. Đức Phật ngồi dưới gốc cây mãn mười trung kiếp, hoa trời rơi mãi khắp nơi mãn kiếp không dứt. Tứ Thiên vương và các vị Thiên tử trời các kỹ nhạc âm thanh như sấm vang rền, thường đem hoa hương, kỹ nhạc cúng dường Đấng Đại Thánh chưa từng ngưng trễ.

Này các Tỳ-kheo! Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ cho đến mười kiếp thành tựu đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác cho đến lúc diệt độ, chư Thiên cúng dường không ngớt.

Lúc Phật còn là Thái tử chưa xuất gia, Ngài có mười sáu người con, tướng tốt đoan chánh, trí tuệ không ai sánh kịp, tướng mạo nhân hòa, nho nhã tuyệt đỉnh. Khi ấy mười sáu vị vương tử, mỗi vị đều có các đồ chơi tốt đẹp và ở nơi đó thưởng ngoạn vui vẻ không thể nói hết. Các loại vật dụng đều đầy đủ đàn cầm, kỹ nhạc cũng nhiều vô lượng.

Các vị vương tử nghe vua cha thành Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Giác, lúc ấy tự nhiên có tiếng Pháp âm lớn, liền bỏ nước, bỏ ngôi Chuyển luân vương và muôn ức nhân dân, các trò vui chơi ca nhạc, có quyến thuộc vây quanh cùng vô số các bậc Thánh hiền, vua chúa đông trăm ngàn muôn ức không thể tính hết; tất cả các loài chúng sinh tụ hội rất đông đều đi theo và đến đạo tràng của Đức Phật để đầu, mong được đảnh lễ, vâng thọ lời Phật dạy. Đến nơi, mọi người đều nghiêm trang cung kính, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh Đức Phật ba vòng rồ i đứng qua một bên, dùng kệ tụng:

Đại Thông Chúng Tuệ

Bậc Tối tôn quý

Tích lũy bình đẳng

Vô lượng số ức,

Dùng nghĩa thượng diệu

Thương xót chúng sinh

Hạnh nguyện đầy đủ

Ở nơi Hiền thánh

Chuyên tu khổ hạnh

Trọn mười trung kiếp

Nhất tâm chuyên tinh

Ở nơi thiền tọa

Thân tâm thanh tịnh

Mà không dao động

Thiêu hủy khổ hoạn

Như chặt rễ cây

Nơi tâm phân biệt

Và chí sâu cạn

Chưa từng tiến thoái

Cũng không tán loạn

Không có tăng giảm

Lặng lẽ ứng hợp

Tịch định cứu cánh

Không có các lậu

Hiện tại cát tường

Luôn được an ổn

Do không chấp tưởng

Nên thành Phật đạo

Các con thấy vậy

Thêm trí vô úy

Các việc như thế

Tăng lớn đức nghĩa

Không kể thân mạng

Đều đoạn họa khổ

Tích lũy nhẫn nhục

Không tham an lạc

Đạo tuệ sáng suốt

Không còn khổ đau

Ở nơi vắng lặng

Phát khởi tinh tấn

Kẻ không kính tin

Pháp âm chư Phật

Đêm dài tối tăm

Tội đọa đường ác

Khi mất thân người

Rơi vào nẻo xấu

Bị tất cả đời

Thấy đều hủy báng.

Hôm nay được gặp

Thánh phụ thế gian

Đạo ấy tối thượng

Không có các lậu,

Ở thế gian này

Mà được cứu độ

Và các quá khứ

Đại Thánh Đạo Sư

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Này các Tỳ-kheo! Các vị đế vương và các vị thái tử ấy, các anh em thái tử đều là đồng tử, đã ca ngợi, tán thán Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chí Tôn Đẳng Chánh Giác. Sau khi dùng những lời êm dịu tuyên dương, ca tụng xong, các vị vương tử liền thỉnh cầu Đức Thế Tôn, xin Ngài thuyết kinh pháp, phân biệt làm cho an trụ, vì sự an ổn và thương xót lớn làm lợi ích cho các chúng sinh, chư Thiên và nhân loại. Lại nói kệ ca ngợi:

Cúi xin Thế Tôn

Thuyết giảng kinh điển

Khai hóa chúng sinh

Phát khởi mọi người,

Chúng sinh ba cõi

Đều đang khát ngưỡng

Ngộ được ý đạo

Nhờ ân hóa độ.

Chư Phật đại Thánh Tôn

Trăm phước pháp trang nghiêm

Đấng thành tựu cao tột

Trí tuệ thật tối thắng.

Vì chư Thiên giảng Pháp

Và nhân loại thế gian

Độ thoát cho chúng con

Và các loài chúng sinh

Đúng thời hiện pháp sáng

Tuệ nghĩa của Đức Phật

Cũng vậy nay ở đây

Hiển bày đạo tối thượng

Khiến các loài quần sinh

Đều được hưởng pháp ấy

Thế Tôn biết tất cả

Các hạnh tuệ hoàn toàn

Nên vì phân biệt nói

Đức hạnh đời trước làm

Ngài đều biết chúng sinh

Tâm chúng ưa thích gì

Nên vì chuyển pháp luân

Tối thắng không ai sánh

Thoát khỏi ách chúng sinh

Đều đến nơi đại đạo.

Phật bảo các vị Tỳ-kheo:

– Lúc ấy Đức Thế Tôn Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai biến hóa trong thế giới mười phương năm trăm muôn ức các cõi Phật ở mỗi phương đều chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp tận cùng thế giới, soi chiếu tất cả cảnh giới của chư Phật, bao nhiêu thứ ánh sáng của trời, thần trong hư không, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, mặt trăng cũng không sánh kịp, ánh sáng ấy vượt xa hơn ánh sáng cung điện, đền đài của chư Thiên, ánh sáng ấy chiếu ngược rực rỡ lên cõi Phạm thiên.

Đức Phật biến hiện ánh sáng điềm lành bao phủ tất cả khiến cho các ánh sáng khác không trông thấy được. Ánh sáng ấy chiếu soi rực rỡ khắp chốn thiên thượng, nhân gian. Các loại chúng sinh hoặc sống ở các cõi khác đều trông thấy nhau, mỗi người đều nói:

– Hôm nay trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh khác?

Khi ấy các cõi trời khắp nơi đều chấn động.

Lúc bấy giờ phương Đông vô lượng vô biên cõi Phật, trăm ngàn muôn ức cung điện Phạm thiên, tự nhiên ánh sáng chiếu rực rỡ. Các Phạm thiên vương tự nghĩ: “Vô số cung điện, đền đài cõi trời đều sáng sủa, ánh sáng xuyên suốt nhau, vì nhân duyên gì mà hiện điềm tốt này?” Muôn ức trăm ngàn chúng Đại Phạm thiên trong năm trăm thế giới mỗi vị từ nơi cung điện của mình cùng đến hội họp với nhau để suy luận về sự thể đó. Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên Hộ Quần Sinh, vì các Phạm thiên mà nói kệ ca ngợi:

Cung điện phòng xá

Chúng ta hôm nay

Chư hiền nên biết

Ánh sáng lớn này

Vượt thắng chư Thiên

Ai cũng ưa thích

Do nhân duyên gì

Hiện điềm lành này?

Hay thay đến đây

Tìm ý nghĩa ấy

Khi các Thiên tử

Hôm nay tự đến

Theo Thánh ý nào

Hiện thần như thế

Những điều thấy được

Vốn chưa từng có.

Thân cận chư Thiên

Là vua cõi người

Tướng các bậc Thánh

Xuất hiện ở đời,

Ánh sáng tối diệu

Chiếu cả mười phương

Rung động tất cả

Mới như thế này.

Này các Tỳ-kheo! Khi ấy vô số ức Phạm thiên ở năm trăm thế giới từ phương Đông đều cùng nhau đến xa, thấy ở phương Tây Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai Chánh Giác ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, có hàng chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân và mười sáu vị vương tử cùng quyến thuộc vây quanh. Khi thấy như vậy, tất cả cùng khuyến thỉnh mong Đức Thế Tôn thuyết kinh. Các vị Phạm thiên đến chỗ Đức Như Lai cúi đầu đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Phật vô số vòng. Họ cầm hoa sen lớn như núi Đại Tu-di rải lên cây Đức Phật ngồi, cây đó cao bốn mươi dặm. Cúng dường hoa xong, mỗi vị Phạm thiên đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn và thưa:

– Cúi xin Đức Phật xót thương nạp thọ hoa và cung điện chúng con cúng dường.

Các vị Phạm thiên dùng kệ ngợi khen:

Đức Phật vô lượng

Chưa từng được gặp

Vì lòng thương tưởng

Hiện ra nơi đời,

Thế Tôn diễn pháp

Như Sư tử rống

Thường hay cứu hộ

Mười phương chúng sinh.

Chúng con trải qua

Theo đến chỗ này

Đã đi năm trăm

Ngàn muôn ức cõi.

Tính các cõi nước

Bao nhiêu chủng oại

Đều rời cung điện

Đi đến Thánh Tôn.

Tất cả chúng con

Nhờ đức đời trước

Bao nhiêu tốt đẹp

Các cung điện báu,

Đều đem đến đây

Tôn kính dâng lên

Xin Đức Thế Tôn

Xót thương nạp thọ.

Khi ấy các vị Đại Phạm thiên ca ngợi Đức Thế Tôn rồi, cả năm trăm vị đều bạch Đức Phật:

– Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân diễn nói pháp Đại thánh, độ thoát chúng sinh, khiến cho họ được Niết-bàn.

Năm trăm vị Phạm thiên và trăm ngàn muôn ức hội chúng hợp lại cùng cất tiếng ca ngợi:

Xin Thế Tôn thuyết kinh

Đấng phước trí phân biệt

Nên hiện sức Từ tâm

Độ chúng sinh khổ não.

Lúc ấy thấy các vị Phạm thiên dâng lên cung điện Đức Phật lặng yên nhận lời. Bấy giờ các vị Phạm thiên ở năm trăm ngàn muôn ức cõi nước phương Đông nam mỗi vị đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa, rực rỡ từ xưa chưa từng có, nên tất cả đều cùng nhau hội họp lại. Trong chúng có một vị Đại Phạm thiên tên là Tối Từ Ai, vì các Phạm thiên mà nói kệ khen ngợi:

Các Đại thiên nên biết

Đây là điềm lành xưa

Cung điện đều biến động

Có rất nhiều tướng tốt,

Nên có các Thiên tử

Người người họp tại đây

Là oai thần vị nào

Khiến cung điện chói sáng

Nay Phật hiện ra đời

Đấng Trung Tôn phước trí

Cho nên các cung điện

Hiện ánh sáng như thế

Chúng ta nên đến hỏi

Việc này đúng vậy chăng?

Từ xưa cho đến nay

Chưa từng thấy như vậy

Bốn phương có ánh sáng

Chiếu soi muôn ức cõi

Nay chắc là như vậy

Phật sẽ hiện đời này.

Này các Tỳ-kheo! Khi ấy năm trăm ngàn muôn ức Phạm thiên, mỗi vị cùng nhau rời khỏi cung điện của mình, đem các loại hoa trời to như núi Tu-di đi đến hướng Tây bắc. Từ xa họ trông thấy Đức Như Lai Đại Thông Thánh Tuệ ngồi trên tòa Sư tử, dưới cội Bồ-đề nơi đạo tràng, đang thuyết pháp cho chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và các quyến thuộc vây quanh. Khi trông thấy như vậy, các vị Phạm liền đến đảnh lễ sát đất, đi quanh Đức Thế Tôn vô số vòng, tay cầm hoa lớn tung rải lên Đức Phật.

Các vị Đại Phạm thiên và hàng quyến thuộc dùng kệ ngợi khen:

Lạy Đấng cao tột

Ngà i là Đại Thánh

Bậc Thầy chư Thiên

Tiếng như chim loan,

Xướng đạo độ khắp

Chư Thiên, loài người

Xin cúi đầu lễ

Vì thương thế gian

Được chưa từng có

Ở đời khó gặp

Dung nghi chói sáng

Nay mới được gặp,

Vốn trong trăm đời

Tích đức giải không

Tám mươi ức Phật

Thọ kiếp như bụi.

Đấng Nhân trung tôn

Phân biệt không tuệ

Và thường giảng thuyết

Khéo dùng phương tiện

Chư Thiên quần thần

Chúng sinh thấy được

Đầy đủ ức ngàn

Số đến tám mươi

Mắt tuệ thấy suốt

Đến nơi cứu độ

Che chở tất cả

Trong Pháp của Phật

Nên hiện ở đời

Thương xót chúng sinh

Chúng con nhờ phước

Rất khó được gặp.

Muôn ngàn vô số các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn xin Ngài chuyển Pháp luân diễn nói kinh nghĩa để hóa độ khắp quần sinh, cứu thoát ba cõi, khiến cho họ được an ổn. Các vị Phạm thiên một lòng đồng tiếng ca ngợi:

Đại nhân tối thượng

Xin chuyển pháp luân

Mong giảng kinh pháp

Vì khắp mọi loài

Độ thoát quần sinh

Tai họa khổ não

Khiến cho tất cả

Giải thoát vui mừng,

Ai mà nghe được

Đều thành Phật đạo

Chư Thiên, nhân dân

Nhờ ân an ổn,

Chúng A-tu-luân

Sẽ được giảm bớt

Ban cho nhẫn nhục

An lạc thêm nhiều

Khi ấy Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai lặng yên nhận lời.

Này các Tỳ-kheo! Lúc bấy giờ ở trăm ngàn muôn ức cõi nước Phật ở phương Nam, phương Tây, cung điện, cung điện của các vị Đại Phạm thiên đều có ánh sáng rực rỡ huy hoàng xuyên suốt khắp nơi. Khi ấy các vị Phạm thiên tự thấy cung điện mình uy nghiêm chói sáng, lấy làm lạ trước việc chưa từng có, liền cùng nhau tụ hội. Mỗi vị đều suy nghĩ: “Vì sao cung điện của chúng ta chói sáng như thế này?” Trong chúng đó có vị Đại Phạm thiên tên là Thiện Pháp nói kệ ca ngợi.

Đại Thánh ra đời

Chân thật không dối

Tất cả cung điện

Rực rỡ chói lòa,

Có điềm lành này

Hiện nơi thế gian

Lành thay mong được

Áo nghĩa như đây.

Quá khứ vô số

Ngàn muôn ức kiếp

Chưa từng thấy được

Hiện tượng thế này.

Sẽ có Như Lai

Xuất hiện ở đời

Khiến các Thiên tử

Tự nhiên cùng đến.

Này các Tỳ-kheo! Khỉ ấy năm trăm ngàn muôn ức các vị Phạm thiên từ cung điện của mình trông thấy các đóa hoa lớn như núi Tu-di, mỗi vị đều cầm theo hoa ấy để cúng dường, cùng đi đến phương Bắc. Họ thấy Đức Như Lai Đại Thông Chúng Tuệ ngồi trên tòa Sư tử dưới cội Bồ-đề, ở nơi đạo tràng giảng thuyết kinh pháp cho vô số chư Thiên, Long, Thần, A-tu-luân, Ca-1ưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc và quyến thuộc vây quanh. Tất cả cùng đến chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ sát đất và nhiễu quanh vô số vòng, rồi đem hoa lớn như núi Tu-di tung lên cúng dường và đem cung điện dâng lên Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nhận sự hiến cúng mà ở đó.

Các vị Phạm thiên một lòng đồng thanh nói kệ ngợi khen:

Chư Phật ra đời

Rất khó được gặp

Số kiếp lâu xa

Nay mới được gặp

May mắn đến đây

Đoạn trừ ái dục

Sung mãn tròn đầy

Cho cõi Tam thiên

Chư Đại Đạo Sư

No đủ kẻ đói

Từ xưa đến nay

Chưa từng thấy nghe

Như hoa Linh thụy

Khó được trông thấy

Đạo tuệ khó gặp

Lâu lâu mới có.

Cung điện chúng con

Vô lượng tốt đẹp

Nhờ oai thần Phật

Mà được thế này

Cúi xin thương xót

Kính dâng nạp thọ

Nguyện ở trong đây

Hiển bày Đạo nhãn.

Các vị Phạm thiên khuyến thỉnh Đức Thế Tôn:

– Cúi mong Đức Thế Tôn thương tưởng chuyển pháp luân, giảng nói kinh điển làm cho tất cả chư Thiên, Thần, Sa-môn, Phạm chí được nhiều an lạc, lợi ích. Thiên thượng, thế gian đều được nhờ ân.

Lúc ấy các vị Phạm thiên cùng đồng thanh nói kệ ngợi khen:

Cúi mong Thế Tôn

Diễn rộng kinh điển

Xót thương nên chuyển

Đại Thánh phát luân,

Giảng pháp vô lượng

Như sấm vang rền

Cúi xin thương tưởng

Thổi loa pháp lớn;

Đem đại kinh điển

Mưa pháp thế gian

Khéo dùng phân biệt

Dạy pháp diệu kỳ.

Chúng con khuyến thỉnh

Nguyện giảng đạo tuệ

Khai hóa chúng sinh

Trăm ngàn muôn ức.

Phương Tây nam, phương Tây bắc và phương Đông bắc mỗi phương cũng đều như vậy. Vô số Phạm thiên không thể tính hết. Phương trên, phương dưới, mỗi phương cũng thấy các vị Phạm thiên đều tự thấy cung điện ánh sáng chói rực khắp nơi, lấy làm lạ trước việc chưa từng có. Ở mỗi phương năm trăm ngàn muôn ức các chúng phạm thiên mỗi vị đều rời cung điện đi đến chỗ Phật, có vị Đại Phạm thiên tên Diệu Thức liền nói kệ ca ngợi:

Lành thay, xin chư Phật

Đấng Thánh Minh cứu thế

Vì chúng sinh ba cõi

Khai thị Chánh giác thừa!

Làm mắt khắp thế gian

Thấy suốt mười phương cõi

Khai thông môn cam lộ

Độ thoát cho tất cả.

Thuở xưa vô lượng kiếp

Nhân Trung Tôn chưa hiện

Chúng sinh sống mờ tối

Khiến hiện ở mười phương

Thích địa ngục thêm nhiều

Ưa vui chốn súc sinh

Đời sau đọa ngạ quỷ

Ức số khó nghĩ bàn

Được thân trời mãi vui

Thọ chung đọa nẻo ác

Nếu được nghe Phật pháp

Đạt đến đạo bình đẳng

Chí hạnh theo Phật tuệ

Sẽ giúp khắp quần sinh

Đều về nơi an ổn,

Không mất tưởng thú vui

Thường không hành Phật đạo

Không ở trong chánh pháp

Trái thánh giáo vô lượng

Liền đọa nơi ác thú.

Nay gặp ánh sáng thế

Vì thiện nên vâng hội

Vượt tất cả chúng sinh

Mà thực hành từ ái

Liền thấy Đức Thế Tôn

Rõ không, tuệ vô lậu

Chư Thiên và thế gian

Ở đây đều khuyến thỉnh

Cung điện đẹp vô lượng

Giống như đức oai thần

Ban khắp ngọc minh nguyệt

Mong Đấng Đại Đạo Sư

Nạp thọ con cúng dường

Xót thương nhận cung điện

Khiến con cùng chúng sinh

Đạt thành Vô thượng đạo.

Này các Tỳ-kheo! Lúc đó năm trăm ngàn muôn ức chúng Đại Phạm thiên tán thán, ca ngợi Đức Phật xong liền thỉnh cầu Đức Phật chuyển đại pháp luân, khai hóa làm an ổn cho chúng sinh khắp mười phương, lại ca ngợi rằng:

Cúi mong giảng nói

Vô thượng pháp luân

Xin đánh trống pháp

Dùng riêng vi diệu

Độ thoát chúng sinh

Bao tai nạn khổ

Xót thương thị hiện

Đạo lớn Niết-bàn.

Chúng con khuyến thỉnh

Cúi xin thuyết pháp

Cứu giúp muôn loài

Và khắp thế gian,

Âm thanh êm dịu

Phát ra tiếng mầu

Trăm ngàn ức kiếp

Tích lũy đức hạnh.

Lúc bấy giờ Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai thấy vô lượng, vô số trăm ngàn muôn ức chúng sinh ở mười phương và mười sáu vị vương tử khuyến thỉnh thuyết pháp, tức thời ba lần chuyển đại pháp luân mười hai hành, khai hóa chỉ dạy Sa-môn, Phạm chí, chư Thiên, Long, Thần, các ma, Phạm thiên và tất cả nhân dân, vì họ mà nói về sự thật của khổ: Đây là Khổ đế, cho đến Tập đế và Đạo đế, do theo Đạo đế ấy mà chấm dứt khổ đau.

Sau đó Đức Phật giảng rõ, phân biệt đầy đủ pháp mười hai nhân duyên, từ si dẫn đến hành, từ hành dẫn đến thức, từ thức dẫn đến danh sắc, từ danh sắc dẫn đến lục nhập, từ lục nhập dẫn đến tập, từ tập dẫn đến thống, từ thống dẫn đến ái, từ ái dẫn đến thọ, từ thọ dẫn đến hữu, từ hữu dẫn đến sinh, từ sinh dẫn đến họa lớn già, bệnh, chết, ưu khổ…

Này các Tỳ-kheo! Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai nói kinh pháp đến lần thứ ba, trong khoảnh khắc phân biệt nghĩa ấy, khiến cho mười sáu ức trăm ngàn vị trong chúng được lậu tận, tâm ý giải thoát, đạt được trí Tam minh và Lục thông, vô số người đều được độ thoát. Phật thuyết pháp như vậy cho đến lần thứ ba, lần thứ tư, hằng hà sa chúng sinh nghe kinh, tất cả đều được lậu tận, tâm ý giải thoát. Từ đó các chúng Thanh văn nhiều không tính kể được.

Bấy giờ mười sáu vị Vương tử vì lòng tin nên đều xuất gia học đạo và làm Sa-di, thông minh trí tuệ, có nhiều phương tiện vì đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức Đức Phật, tạo lập các hạnh mong cầu Tuệ giác vô thượng, đều cùng nhau bạch Phật:

– Nay chúng Thanh văn trong đại hội, có vô số trăm ngàn muôn ức người đã thành tựu viên mãn và có đại thần túc. Cúi xin Thế Tôn vì chúng con diễn giảng đạo nghĩa Vô thượng chánh chân. Mong Thế Tôn dùng đại trí tuệ quán kiến chỉ bày cho chúng con việc ấy. Chúng con sẽ theo học đại Thánh giáo của Như Lai và cùng nhau khuyến tấn, quán sát cội nguồn của nó.

Đức Thế Tôn rõ biết tâm niệm của các vương tử, liền giảng thuyết kinh pháp cho quốc vương và hàng quyến thuộc, có tám mươi ức trăm ngàn người đều làm Sa-môn. Lúc ấy Đức Phật quán thấy nguồn tâm của các Sa-môn đó, trong hai vạn kiếp thuyết kinh Phương Đẳng Chánh Pháp Hoa Bồ-tát Sở Hạnh Nhất Thiết Phật Hộ. Đức Phật giảng kinh đó xong, bốn bộ chúng đều tin nhận như nhau, mười sáu anh em vương tử là Sa-di nghe lời Phật dạy cùng nhau thọ trì, đọc tụng, giảng giải, được Phật thọ ký sẽ đạt đạo quả Vô thượng Chánh giác.

Phật thuyết kinh ấy xong, các bậc Thanh văn hoan hỷ, mười sáu vị Sa-di và trăm ngàn vô số các chúng Bồ-tát đều đạt được chí nguyện của mình.

Đức Phật thuyết pháp như vậy trong tám vạn kiếp chưa từng ngừng nghỉ. Đức Phật thuyết kinh ấy xong, tiền vào tịnh thất nơi thanh vắng chuyên tinh thiền định bốn mươi vạn kiếp.

Bấy giờ mười sáu vương tử làm Sa-di hành đạo Bồ-tát vốn là con Phật, thấy Đức Thế Tôn độc cư nơi thanh vắng, mỗi vị đều lên pháp tòa giảng rộng pháp nghĩa kia, ở trong tám vạn bốn ngàn kiếp phân biệt thuyết kinh. Mỗi vị Bồ-tát hóa độ sáu mươi vạn hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh an trú trong đạo Vô thượng chánh chân, đều lập hạnh Đại thừa.

Đức Đại Thông Chúng Tuệ Như Lai qua tám mươi bốn vạn kiếp mới xuất thiền, đến pháp tòa, bảo tất cả chúng Tỳ-kheo:

– Mười sáu vương tử này đã thành tựu công đức vô lượng, rất là ít có, trí tuệ siêu việt hy hữu, đã từng cúng dường muôn ức chư Phật, các hạnh đầy đủ, thừa hưởng trí tuệ của Phật, vào đạo giác ngộ để chỉ dạy chúng sinh cũng thâm nhập Phật trí. Các chúng Tỳ-kheo đều phải cung kính cúi đầu, luôn luôn thân cận mười sáu vị Hiền nhân ấy mà không nên giải đãi. Vì chí nguyện mong cầu Thanh văn, Duyên giác thừa, họ đã được con đường Thanh văn, Duyên giác. Nếu ai tu tập hạnh Bồ-tát đã được thành tựu như vậy. Những ai mới phát tâm sẽ được thọ ký cho.

Này các Tỳ-kheo! Những ai nghe kinh pháp này có thể kính tin đều sẽ đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành tựu tuệ giác của Phật.

Náy các Tỳ-kheo! Những ai vâng theo lời giáo huấn của Thế Tôn, luôn luôn tin hiểu chánh pháp mà thuyết giáo cho tất cả chúng sinh. Mười sáu vương tử kia đầy đủ Bồ-tát thừa, mỗi một vị khai hóa sáu mươi hằng hà sa người.

Họ sống nơi nào cũng thường được những người kia thân cận, cũng lại theo nghe giáo nghĩa chánh pháp. Nhờ vậy mà mỗi mỗi chúng sinh ấy được gặp bốn mươi ức trăm ngàn chư Phật như ta nay đang tuyên thuyết cho bốn chúng.

Các Tỳ-kheo có biết mười sáu vương tử khi ấy là ai chăng?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Thưa không, bạch Thế Tôn!

Đức Phật dạy:

– Mười sáu vương tử đó nay đều đã thành đạo Vô thượng chánh chân, hiện đang nói pháp trong cõi nước mười phương, cứu giúp vô số trăm ngàn muôn ức hiệu chúng Thanh văn, các vị Bồ-tát không thể kể hết.

Hiện tại ở phương Đông, thế giới Thậm lạc có hai vị Phật hiệu Vô Nộ, Sơn Cương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Hai vị Phật hiện ở phương Đông nam hiệu Sư Tử Hưởng và Sư Tử Tràng Như Lai.

Hai vị Phật hiện ở phương Nam hiệu Nhất Trụ và Thường Diệt Độ Như Lai.

Hai vị Phật hiện ở phương Tây nam hiệu Đế Tràng và Phạm Tràng Như Lai.

Hai vị Phật hiện ở phương Tây hiệu Vô Lượng Thọ và Siêu Độ Nhân Duyên Như Lai.

Hai vị Phật hiện ở phương Tây bắc hiệu Chiên-đàn Thần Thông và Sơn Tàng Niệm Như Lai.

Hai vị Phật hiện ở phương Bắc hiệu Nhạo Vũ và Vũ Âm Vương Như Lai.

Một vị Phật hiện ở phương Đông bắc hiệu Trừ Thế Cụ.

Ta nay hiệu là Năng Nhân ở thế giới Kham nhẫn này thành Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, hợp lại là mười sáu Đức Thế Tôn.

Này các Tỳ-kheo! Lúc chúng ta còn làm mười sáu vị Sa-di ở trong đời Đức Phật kia, đã giảng thuyết kinh pháp cho chúng sinh nghe nhận. Mỗi Bồ-tát khai hóa cho vô lượng hằng hà sa trăm ngàn muôn ức chúng sinh phát tâm hướng về đạo Vô thượng chánh chân. Những chúng sinh đó nay được thành tựu đạo Bồ-tát hoặc có người trụ bậc Thanh văn, dần dần được khuyên dạy sẽ tiến đến đạo lớn Vô thượng và dần dần sẽ thành tối Chánh giác. Vì sao? Trí tuệ của Như Lai không thể tính đếm và không có hạn lượng, chúng sinh không thể tin hiểu như thế này được.

Này các Tỳ-kheo! Vì sao như thế? Lúc còn làm Bồ-tát, ta đã khai hóa cho vô lượng trăm ngàn muôn ức hằng hà sa số chúng sinh, những người có trí nghe hiểu, tin nhận. Trong đời vị lai hoặc có người phát tâm làm đệ tử, theo học thành tựu quả Thanh văn, về sau lại không chịu nghe hiểu giáo nghĩa Bồ-tát, không biết trí tuệ Phật, không hành hạnh Bồ-tát. Tất cả đều tưởng rằng tâm chí đã an trụ trong giải thoát, cho là đã được diệt độ. Họ cần phải đến nơi thế giới Phật khác, sinh vào cõi nước Phật khác, tu tập thuận theo các hạnh đặc thù, phải cầu đạo tuệ, nghe nhận tin hiểu, khi ấy mới hiểu rõ được pháp của Như Lai chỉ có một Phật thừa mà không có hai thừa. Tất cả đều là Như Lai khéo dùng phương tiện thuyết Tam thừa mà thôi.

Khi Đức Như Lai Chánh giác diệt độ, nếu có người cúng dường dùng hạnh thanh tịnh, ưa thích, kính tin pháp vi diệu, đến với kinh điển này, nhất tâm thanh tịnh nơi đại thiền định. Nên biết rằng lúc bấy giờ người đó ở nơi Đức Như Lai nhóm họp tất cả chúng Bồ-tát và tất cả chúng Thanh văn tín thọ pháp này, khi ấy mới biết Phật đạo ở thế gian không có hai thừa đưa đến giải thoát hoàn toàn. Đó chỉ là do Đức Như Lai Chánh Giác khéo léo dùng phương tiện để nói mà thôi.

Những chúng sinh ưa hạnh Tiểu thừa hạ liệt thì đã tự đánh mất hạt giống Phật từ lâu, không hiểu rõ con người vốn bị dục vọng trói buộc. Khi Đức Như Lai diệt độ, nếu có chúng sinh nghe nói kinh, hoan hỷ kính tin, chúng sinh đó đã được ân đức chư Phật hộ niệm.

Ví như con đường vắng vẻ dài năm trăm dặm, xa thăm thẳm tuyệt nhiên không một bóng người, cũng không có làng xóm. Có một vị thầy dẫn đường thông minh sáng suốt liền tìm ngõ ngách và sự gần xa của con đường để chỉ cho đoàn người muốn vượt qua con đường xa xăm ấy, nhưng tất cả đều mỏi mệt không thể tiến bước nữa. Họ luyến tiếc nghĩ rằng: “Chúng ta ở yên nơi đất thánh, đất nước thanh bình, có vua quan, thầy bạn, mẹ cha, nay phải lặn lội đến con đường xa xôi chẳng thể đi được nữa, thà rằng cùng nhau trở về để thoát khỏi nạn khổ này.” Vị thầy dẫn đường thương xót họ đã quyết tâm đi tìm châu báu, giữa đường lại hối tiếc muốn lui về nên phương tiện quyền biến ở nơi khoảng đất trống rộng lớn độ bốn ngàn hay tám ngàn dặm, dùng sức thần túc hóa làm một cái thành lớn mà bảo những người khách buôn:

– Các ngươi chớ ôm lòng lo sợ muốn lui về, đã đến đại quốc rồi, chúng ta có thể nghỉ ngơi ở đây, tùy ý các ngươi muốn tha hồ ăn uống, hoặc muốn tìm nhiều châu báu ở đây cũng được.

Này các Tỳ-kheo! Lúc đó những người khách buôn thấy trong thành nhân dân đông đúc, vô cùng vui vẻ, lấy làm lạ việc chưa từng có. Họ hết đau khổ, được vui vẻ, an ổn, không còn lo sợ họa thiếu thốn, đói khát, tự cho rằng đã được tột đỉnh an lạc.

Lúc ấy vị hướng dẫn biết mọi người được nghỉ ngơi một ngày không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành không còn dấu vết và bảo với mọi người:

– Các người nên mau tiến bước đến vùng đất có nhiều châu báu. Vì thấy các ngươi đi đường mỏi mệt, tâm sợ sệt cho nên ta mới hóa ra thành ấy.

Này các Tỳ-kheo! Như Lai cũng như thế, vì các ông mà làm đạo sư nói kinh pháp. Vì thấy chúng sinh trôi lăn triền miên trong con đường sinh tử, tai họa gian nan, thiếu thốn nên hiện ba thừa, thiền định nhất tâm khiến được Niết-bàn. Như Lai vốn chỉ dạy có một thừa, chúng sinh nghe Như Lời giảng pháp không nhận đạo tuệ, hoặc họ nhàm chán cho rằng phải lâu ngày chịu gian lao khổ nhọc mới được thành tựu. Như Lai biết tâm niệm của họ mỏi mệt, giải đãi nên vì họ mà hiện quả Thanh văn, Duyên giác để đạt đến, giống như một vị thầy hướng đạo kia hóa thành lớn, nhân dân đông đảo. Khi đoàn người được nghỉ ngơi an ổn rồi thì thành lớn ấy tự biến mất. Vị thầy hướng đạo ấy vì các thương nhân mà nói thành huyễn hóa, vị Đạo sư đó chính là Đức Như Lai. Đồng trống mênh mông ví cho năm đường sinh tử. Những người khách buôn đó là chỉ cho các ông. Đi tìm châu báu là ý nói pháp hạnh, đạo tuệ của Bồ-tát. Giữa đường mỏi mệt muốn lui về nghĩa là Phật đạo khó được, phải trải qua nhiều kiếp tích lũy công Đức còn chưa có thể thành tựu được.

Đức Như Lai dụ dẫn để chúng Thanh văn, Duyên giác dễ tu tập nên hóa làm thành lớn gọi là Niết-bàn của bậc La-hán. Thành lớn biến mất, đó là dụ cho lúc sắp diệt độ. Đức Phật ngay lúc đó khuyến khích cho họ phát tâm hướng về đạo Vô thượng chánh chân, quả vị A-la-hán đó vẫn còn bị ngăn ngại, chẳng phải đã thật đạt đến đạo lớn. Nếu đến phương khác được thấy chư Phật, được quả vị không thoái chuyển, hoàn toàn giải thoát, đó mới gọi là chỗ cứu cánh nơi kho tàng châu báu lớn.

Này các Tỳ-kheo! Như Lai thuyết pháp cho các ông nghe vậy, cho đó là hoàn toàn đầy đủ, các ông không biết rằng chỗ tu tập của các ông vẫn chưa xong. Lại nữa, trí tuệ Như Lai thấy khắp tất cả tâm của người trong thế gian mà thị hiện Niết-bàn. Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã khéo dùng phương tiện mà nói có ba thừa.

Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ:

Xưa có Đạo Sư

Đại Thông Chúng Tuệ

Ngồi nơi đạo tràng

Dưới cội cây Phật,

Thiền định nhất tâm

Đến mười trung kiếp

Vốn chưa thành tựu

Đạo nghĩa cứu cánh.

Chư Thiên, Long thần

Chúng A-tu-luân

Phát lòng tinh tấn

Cúng Bậc Tối Thắng,

Hoa trời lớp lớp

Tuôn xuống như mưa

Rải trên Đức Phật

Bậc Thầy cõi người,

Ở trong hư không

Trống trời vang dội

Để dâng hiến cúng

Đại Thánh thượng tôn.

Tối thắng nơi ấy

Tinh cần khổ hạnh

Công hạnh dài lâu

Thành đạo Vô thượng

Thiền định tư duy

Trong suốt mười kiếp

Mới thành Phật quả

Đại Thông Chúng Tuệ

Chư Thiên, nhân dân

Trăm ngàn muôn ức

Tất cả chúng sinh

Hoan hỷ phấn chấn.

Đức Phật vốn có

Mười sáu người con

Đều theo vâng thọ

Như Lai khai hóa,

Các loại chúng sinh

Trăm ngàn muôn ức

Quyến thuộc vây quanh

Đi đến chỗ Phật

Cúi đầu đảnh lễ

Sư trưởng thánh tôn

Ân cần khải thỉnh

Xin giảng pháp kinh

Sư tử dũng mãnh

Pháp chưa từng nói

Chúng con đông nhiều

Và cả nhân dân

Khắp mười phương cõi

Cả thế giới này

Lâu vô lượng kiếp

Đại Thánh mới hiện.

Cung điện Phạm thiên

Bỗng nhiên rực sáng

Hiện các điềm lành

Đều phân biệt nói.

Thế giới phương Đông

Trăm ngàn muôn ức

Năm trăm cõi nước

Tự nhiên chấn động.

Các Phạm thiên ấy

Ở cung điện mình

Oai thần công đức

Tối thượng cao vời

Khi đó thấy được

Tướng điềm lành kia

Liền tìm đến Phật

Đấng xót thương đời

Rồi đem hoa trời

Rải cúng Đại nhân

Đều dùng cung điện

Dâng lên Thế Tôn.

Ca nhạc đàn sáo

Khen công Đức Phật

Thỉnh Đấng Đạo Sư

Chuyển vận pháp luân.

Đấng Nhân Trung Tôn

Lặng yên nhận lời

Vì khắp chúng sinh

Giải nói kinh pháp

Phương Tây, phương Nam

Thế giới phương Bắc

Phương trên, phương dưới

Cùng khắp các nơi

Ức ngàn muôn chúng

Phạm thiên đều đến

Dâng vật bảo trân

Cúng dường Đức Phật,

Lại có phương dưới

Các cõi Phạm thiên

Khắp nơi cũng vậy

Giống nhau không khác

Đều đem cung điện

Dâng Bậc Đại Thánh

Ca ngợi Như Lai

Cùng nhau khuyến thỉnh

Xin chuyển pháp luân.

Đấng Đại Trí tuệ

Vô số ức kiếp

Rất khó được gặp

Nguyện thương thị hiện,

Căn lực từ xưa

Xót thương rộng mở

Cửa pháp cam lộ

Mắt pháp khắp nơi

Phân biệt nghĩa tuệ

Tuyên dương kinh pháp

Cho khắp mọi loài.

Khi ấy Thế Tôn

Chỉ bày Tứ đế

Giải đủ tất cả

Mười hai nhân duyên,

Thông tuệ hiển bày

Khiến được mắt sáng.

Phật thuyết sinh tử

Là hoa khổ sầu

Tất cả thế gian

Đều từ sinh hữu

Nên biết nhân này

Đưa đến chìm đắm.

Như Lai tuyên thuyết

Pháp cứu cánh này

Bao nhiêu chủng loại

Vô số ức người

Tám mươi muôn ức

Tất cả chúng sinh

Nghe lời Phật dạy

Trụ Thanh văn thừa

Huống gì phương khác

Lập đệ nhất địa

Khi ấy Thế Tôn

Thuyết giảng nghĩa kinh

Chúng sinh thanh tịnh

Như hằng hà sa

Tâm chí đều trụ

Hạnh của Thanh văn

Thánh chúng của Phật

Số người như trên

Tất cả cùng tính

Không thể biết được,

Các loài chúng sinh

Mỗi mỗi như vậy

Đều cùng như đây

Lập Tuệ vô thượng.

Bấy giờ mười sáu

Vương tử của Phật

Cùng đến thọ học

Một lòng như nhau

Tất cả xuất gia

Đều làm Sa-di

Và đều hiểu rõ

Kinh Phương Đẳng Phật.

Họ sẽ thành quả

Từ phụ ở đời

Các ông như vậy

Đều được Thắng trí

Những chúng sinh đây

Đều được như thế.

Lại như Thế Tôn

Là mắt của pháp

Tối thắng chí thành

Biết rõ nguồn tâm,

Các con thơ bé

Thường hành bình đẳng

Mà vì chúng sinh

Thuyết đạo Vô thượng.

Trăm ngàn muôn ức

Vô số thí dụ

Thị hiện nhân duyên

Và các quả báo

Phân biệt các pháp

Các tuệ suốt thông

Công hạnh phải làm

Như chư Bồ-tát.

Lúc đó Đại Thánh

Vì hiện chân đế

Tuyên bố hiển dương

Chánh Pháp Hoa này

Thuyết giảng khắp nơi

Kinh Đại Phương Đẳng

Muôn ngàn câu kệ

Không thể nghĩ bàn

Như cát sông Hằng

Không thể hạn lượng.

Khi ấy Phật thuyết

Kinh pháp xong rồi

Liền vào tịnh thất

Tư duy thiền định

Tám muôn bốn vạn

Trong kiếp an nhiên

Thế hùng Đạo Sư

Thiền định như vậy

Thời các Sa-di

Trông thấy Đại Thánh

Ở nơi tịnh thất

Và không ra ngoài

Khai hóa nhân dân

Vô số ức ngàn

Giác liễu thiền định

Thanh tịnh vô lậu

Trí tuệ đệ nhất.

Nơi đại pháp tòa

Mỗi vị tuyên dương

Pháp kinh đại Thánh

An trụ thuyết giảng

Lưu bố giáo hóa

Như Phật không khác

Chúng sinh được độ

Như cát sông Hằng

Không thể hạn lượng

Ức ngàn vô số

Đều nghe, tin nhận

Họ được an trú

Mỗi mỗi chúng sinh

Được Phật giáo hóa

Số nhiều vô lượng.

Bậc Tối thắng ấy

Sau khi diệt độ

Chúng Hữu học kia

Thân cận, gần gũi

Bốn mươi ức Phật

Được nghe danh hiệu

Liền đến cúng dường

Đấng Lưỡng Túc Tôn.

Có bốn hành sự

Ly cấu là quý

Đều được Phật đạo

Hiện ở mười phương

Mười sáu đồng tử

Đều là con Phật

Ở khắp tám phương

Trải rộng nghĩa đạo

Với lời Phật nói

Người nghe tin nhận

Là các Thanh văn

Đệ tử của Phật

Dần dần dạy bảo

Bao nhiêu sắc tượng

Nay sẽ gần gũi

Phát ý đại đạo.

Bấy giờ chính ta

Đã được giác ngộ

Khiến cho tất cả

Đều được nghe nhận,

Nay các hiền giả

Là bậc Thanh văn

Ta dùng phương tiện

Chỉ dạy mọi người.

Đời trước của ta

Báo ứng như vậy

Đúng thời thuyết pháp

Nhân duyên như vậy.

Nếu không kham nhẫn

Tu tập Phật đạo

Tỳ-kheo nên biết

Do ma khuấy nhiễu

Tùy theo bản tánh

Hung hăng phóng túng

Chí chẳng phụng hành

Không thích không tuệ,

Vô số trăm đời

Khát không gặp nước

Lại phải ngu si

Thường luôn lo sợ

Vô sô trượng phu

Trăm ngàn muôn ức

Cất bước cao xa

Vượt qua đồng trống

Lại thấy mênh mông

Xa xăm gian khó

Dặm đường xa xôi

Năm trăm do-tuần

Có một Đại nhân

Bậc Hiền minh triết

Đạo sư khai hóa

Tâm không sợ hãi

Vì đoàn khách buôn

Chỉ dẫn con đường

Hoang vắng xa xăm

Nhiều người ngại khó

Vô số ức kẻ

Mỏi mệt, nhọc nhằn.

Họ đến Đạo sư

Mà thưa thế này:

Chúng tôi mỏi mệt

Không thể tiến bước

Hôm nay bọn tôi

Chỉ muốn quay về.

Đạo sư thông minh

Bậc thầy phương tiện

Ân cần dẫn dụ

Dạy bảo vỗ về,

Xót thương đường tối

Muốn bỏ châu báu

Mệt mỏi vô cùng

Giữa đường thoái lui,

Ta nay cần phải

Hiện sức thần thông

Tạo lập hóa làm

Thành quách rộng lớn

Tốt đẹp trang nghiêm

Nhân dân vô số

Và lập phòng ốc

Vi diệu đẹp đẽ

Lại biến hóa ra

Sông ngòi rộng lớn

Ao tắm vườn cây

Sum suê hoa trái

Dinh thự cung điện

Cửa lớn tường cao

Nam nữ đông đủ

Nhiều trăm ngàn ức

Dụ dỗ khuyến khích

Khiến họ không sợ

Ai cũng hân hoan

Vui mừng không xiết

Hôm nay được đến

Nơi thành lớn này

Vào chợ vui chơi

Muốn gì cũng được

Tâm rất vui mừng

Như được diệt độ.

Chúng ấy và ta

Gian nan đã hết

Vì được an ồn

Cho nên vui mừng

Hôm nay mọi người

Tha hồ vui chơi

Đã được an lạc

Quán sát khắp nơi

Tâm ý mọi người

Rồi trịnh trọng bảo

Tất cả đến đây

Nghe lời ta nói:

Ta dùng Thần túc

Hóa làm thành lớn

Ta nay quán sát

Gai gốc khô cằn

Mọi người sợ sệt

Muốn lui trở về

Ta dùng phương tiện

Hóa hiện các thứ

Hãy nên siêng năng

Theo đường tiến bước.

Này các Tỳ-kheo!

Ta cũng như vậy

Thấy vô số ức

Trăm ngàn chúng sinh

Chán họa khốn khổ

Mê hoặc luân hồi,

Ta dùng phương tiện

Khai đạo dạy bày

Vì Phật nghĩ thế

Nghĩa lợi như vậy

Nhàm chán Phật đạo

Không được Niết-bàn

Tất cả lời Phật

Học rõ suốt thông,

Các ông thành tựu

Nay đắc La-hán

Cho nên khuyến lập

Nhận báo đức này

Được gặp chư Hiền

Đạt quả La-hán.

Tất cả các ông

Được lìa các khổ

Tất cả chúng hội

Mới diễn pháp này.

Chư Phật Đại Thánh

Khéo dùng phương tiện

Giảng thuyết giáo pháp

Đại tiên cứu hộ

Có một Phật thừa

Chưa từng có hai

Vì các người nghỉ

Nên phân biệt nói.

Do đó giáo hóa

Các Tỳ-kheo đây

Nên phát tinh tấn

Đệ nhất nhiệm mầu,

Mọi người sẽ đạt

Tất cả mẫn tuệ

Giáo pháp Bồ-tát

Không có diệt độ.

Ta thường mong cầu

Thành các thông tuệ

Đạt đến mười phương

Pháp kinh Tôi thắng,

Dung mạo xinh đẹp

Ba mươi hai tướng

Sẽ thành Phật đạo

Mới nên diệt độ

Chư Đại Đạo Sư

Thuyết pháp như thế

Chớ khiến ngừng nghỉ

Tự cho diệt độ.

Vì được ngừng nghỉ

Nói đạt vô vỉ

Vì do duyên này

Dẫn vào tuệ giác.

***

Phẩm 8: THỌ KÝ NĂM TRĂM ĐỆ TỬ

Khi ấy Hiền giả Bân-nậu-văn-đà-ni Tử nghe Phật Thế Tôn diễn bày quyền biến, chỉ rõ phương tiện, thọ ký cho Thanh văn sẽ được thành Phật, nhớ lại hạnh nguyện đã lập từ xưa, lại chiêm ngưỡng cảnh giới chư Phật Như Lai, được điều chưa từng có, vui mừng phấn chấn, không nghĩ đến việc ăn mặc, thân thể thoải mái an vui, chẳng thể tự kiềm chế, đối với chánh pháp buồn vui lẫn lộn, liền từ chỗ ngồi đứng đậy, cúi đầu lễ dưới chân Phật, chí thành cất tiếng:

– Thế Tôn thật khó sánh kịp, an trú chưa từng có, Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã dùng phương tiện thật là sâu xa, chẳng nói hết được. Các thế giới này, có biết bao chủng tánh. Thế Tôn đã dùng vô số phương tiện quyền biến, tùy theo trình độ mà hiển bày tuệ nghĩa, thuận theo chúng sinh để giáo hóa, phân biệt chánh pháp rõ ràng. Thế Tôn đã vì họ nói rõ cội nguồn giải thoát và dùng phương tiện độ thoát. Thánh tuệ của Thế Tôn biết hết căn tánh, chí nguyện việc làm từ xưa đến nay của chúng con nên mới nêu lên thí dụ, nói việc đời trước và sự phát tâm từ thuở ban đầu.

Khi ấy Mãn Nguyện Tử cúi đầu lễ ngang chân Phật, đứng sang một bên, hướng về Thế Tôn, chiêm ngưỡng dung nhan sáng ngời, mắt không hề chớp.

Phật dạy:

– Lành thay, đúng như ông đã nói! Như Lai thấy suốt tất cả con đường tu tập đưa đến giác ngộ, theo căn tánh sâu, cạn mà thọ ký cho họ, như chỉ bày cho hàng Thanh văn Tiểu thừa hạ liệt dứt trừ dâm, nộ, si để được nghỉ ngơi; dẫn dắt cho Bồ-tát có trí tuệ cao tột. Giống như thuở xưa có một vị Đạo sư làm nhiều việc từ thiện, thương xót người nghèo khổ, áo cơm chẳng đủ, xin ăn không có, nghèo túng không có của cải, bèn vì họ mà đánh trống rao khắp nước là ai muốn vào biển tìm châu báu. Mọi người đều tập trung, (đạo sư) lại nói rằng ai không tiếc thân mạng, không thương cha mẹ , chẳng đoái hoài vợ con thì nên cùng nhau vào biển tìm châu báu. Dân chúng nghe vậy phần nhiều bỏ về, chỉ những người nghèo, ăn xin, không áo che thân, không có của cải tự nuôi sống, muốn tìm châu báu thì còn do dự, chẳng thể tự quyết. Vị Đạo sư biết thế nên tập hợp tất cả lại bảo rằng, nếu muốn vào biển thì sẽ được cung cấp y phục, lương thực, chẳng để thiếu thốn. Những người nghèo vui mừng, liền nghe theo lời, cùng lúc lên thuyền, xem gió giương buồm, đi vào biển cả; chẳng gặp cá lớn, chẳng đụng đá ngầm, quỷ dữ La-sát cũng chẳng quấy nhiễu, đến được Long cung; liền theo Long vương xin ngọc báu Như ý: “Kẻ phàm tục nghèo khổ, chẳng tự kiếm sống thoải mái, xin được nhờ ân bố thí, để cứu tế khắp nơi.” Long vương nên ban cho theo nhu cầu; nếu ai muốn thì cứ đến lấy. Vị Đạo sư ra lệnh, những người đi lấy thì ít, kẻ không đi lấy thì nhiều. Vì sao? Vì lòng họ còn sợ sệt là đến chỗ Long vương e không trở về được.

Khi ấy vị Đạo sư bảo các người đó rằng ; các ngươi tự do theo ý muốn. Bọn họ đều lấy được vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, xa cừ, mã não; ai nấy đều lấy đầy thuyền. Đạo sư ra lệnh trở về Diêm-phù-lợi. Mọi người nghe theo lệnh, về đến chốn cũ. Gia đình làng xóm đem đồ ăn uống, kỹ nhạc, ngựa xe ra đón rước, cùng, nhau vui chơi bảy ngày bảy đêm rồi mới trở về nhà. Mọi người hỏi được châu báu gì. Người nghèo ăn xin kém trí chỉ được bảy báu; những người bạn trí tuệ của Đạo sư được ngọc Như ý. Đạo sư lên lầu cao, tay cầm ngọc báu, hướng khắp bốn phương, bốn hướng và trên dưới (rồi nói): “Do phước đức của ngọc này sẽ khiến tuôn mưa bảy báu!” Đúng như lời nói lập tức mưa bảy báu tuôn xuống cùng khắp cả nước chỗ nào cũng tràn ngập. Ngoài ra những người bạn trí tuệ kia cũng phân bố đến các nước khác, khắp cùng bốn phương cũng tuôn mưa bảy báu. Kẻ nghèo kém trí lại than thở: “Ta cùng vào biển nhưng tiếc là không gặp thứ này.” Vị Đạo sư bảo họ: “Ta đã ra lệnh cho các ngươi, nhưng các ngươi không đến lấy, nay còn mong cầu gì nữa.” Mọi người vứt bỏ bảy báu, cùng tụ tập lại, trở lại biển để lấy ngọc báu, đi đến hỏi Long vương cầu xin ngọc Như ý. Tất cả họ đều được ngọc, trở về Diêm-phù-lợi, cũng làm mưa bảy báu.

Phật dạy:

– Phát đạo ý Vô thượng chánh chân muốn độ thoát tất cả, thí như vị Đạo sư đi vào biển cả. Thương xót những người nghèo túng nên đưa họ đi vào biển là nói vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh pháp. Xem gió giương buồm đi vào biển cả là ý nói học quyền trí. Ba nạn trên biển nghĩa là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Biển chỉ có sinh tử mà lại được ngọc Như ý. Nghĩa là đạt được Pháp thân vô cực của Như Lai. Những người đi theo lấy ngọc Như ý, đó là Thanh văn, Bồ-tát phát tâm rộng lớn, đã đạt quả Vô sinh. Người thấp kém nghèo hèn lượm bảy báu đầy thuyền, nghĩa là đắc bảy Giác ý. Trở về làng xóm, bà con ra nghênh đón, nghĩa là người ở mười phương đi đến thọ giáo. Lên lầu cao cầm ngọc hướng về tám phương và trên dưới, nghĩa là đắc Phật đạo độ thoát mười phương. Những người trí tuệ phân đến các nước làm mưa bảy báu, nghĩa là đi đến phương khác thành Bậc Tối Chánh Giác. Những người nghèo hối tiếc, cùng trở lại biển, nghĩa là chư Thanh văn nghe Phật dạy chỉ có một thừa không có hai thừa nên mới phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, sau sẽ thành Phật, đều có một hiệu.

Khi ấy, Đức Phật nói kệ tụng:

Tỳ-kheo lắng nghe

Dùng dụ giảng thuyết

Như có Đạo sư

Thương người trong nước

Phần nhiều nghèo túng

Luôn luôn chịu khổ

Đánh trống lan truyền

Ai muốn vào biển

Mọi người tụ tập

Lại bảo họ rằng

Nếu chẳng tiếc mạng

Chẳng thương mẹ cha

Chẳng nhớ vợ con

Nên cùng vào biển

Trong biển có nạn

Không được hối hận.

Khi ấy người nghèo

Cũng có ý muốn

Sợ chẳng đến được

Phân vân chẳng quyết

Đạo sư rộng lượng

Cấp cho cơm áo

Khi vào biển cả

Đều tìm bảy báu.

Khi ấy Đạo sư

Đến cung Long vương

Bảo hết mọi người

Tìm ngọc Như ý

Bạn bè nghe lời

Lượm ngọc Như ý

Trở về chốn cũ

Già trẻ nghênh đón.

Khi ấy Đạo sư

Lên trên lầu cao

Hướng về tám phương

Mưa trân báu khắp

Bè bạn phân ra

Đến các nước khác

Cũng mưa bảy báu

Khắp nơi nhờ ân.

Kẻ lượm bảy báu

Mới tự hối tiếc

Là cùng vào biển

Chẳng gặp loại này.

Đạo sư bảo rằng

Trước ta đã bảo

Chẳng chịu tự lấy

Là lỗi các ngươi

Sao lại oán trách.

Họ trở vào biển

Tìm ngọc Như ý

Tìm thì phải được.

Bồ-tát phát tâm

Đắc đạo Chánh chân

Nhàm chán sinh tử

Rơi vào Thanh văn

Phụng hành theo Không,

Vô tướng, Vô nguyện

Được thoát ba cõi

Đến cửa Niết-bàn

Thấy Phật Thế Tôn

Hàng phục chúng ma

Đạt đến vô thượng

Đạo quả Chánh chân

Khai hóa tất cả

Xuất vạn ức âm

Mười phương chúng sinh

Đều được thọ giáo

Trời. Rồng, Quỷ thần

Đều đến kính lễ

Phát tâm Bồ-tát

Đắc “Vô tùng sinh”,

Hoặc vì Thanh văn

Đoạn ba cấu độc

Thấy khắp mười phương

Không gì chướng ngại.

Các vi La-hán

Bèn tự hối lỗi

Tu hành thế nào

Để được như vậy

Đứng dạy bước đi

Đau buồn tự trách

Sau đó, Như Lai

Thị hiện ba thừa

Thiện quyền phương tiện

Tùy thuận dẫn dắt

Đạo không có hai

Huống chi ba thừa

Các vị Thanh văn

Bấy giờ vui sướng

Tâm họ sáng tỏ

Mây tan trời hiện

Phật đều thọ ký

Sẽ đạt Phật quả

Cõi nước xứ sở

Đều có danh hiệu.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

Các ông có thấy vị Thanh văn Mãn Nguyện Tử này chăng? Ở trong chúng Tỳ-kheo, vị ấy là người giảng Pháp giỏi nhất, làm sáng tỏ, ngợi khen công đức của chư Phật, diễn bày chánh pháp, tinh tấn khuyến trợ, nghe Phật thuyết pháp thì phúng tụng, thọ trì, tuyên thuyết, chỉ bày cặn kẽ cho người chưa nghe, không biếng lười bỏ bê; diễn rộng ý nghĩa, giải thông khúc mắc, ứng đáp cho bốn bộ chúng, chẳng hề mệt mỏi, làm sáng tỏ phạm hạnh, khiến tất cả đều hoan hỷ. Ngoài Như Lai và các Bồ-tát Đại sĩ ra, không ai có tài biện giải nghi vấn bằng Mãn Nguyện Tử.

Này các Tỳ-kheo! Ý các ông nghĩ sao? Vị Mãn Nguyện Tử này đâu phải chỉ vì ta mà làm Thanh văn để thọ giáo pháp. Chớ nghĩ như vậy, vị ấy đã từng hầu cận chín mươi ức Đức Phật, theo chư Thế Tôn nhận lãnh tinh hoa của chánh pháp, ở trong chúng hội thường tuyên thuyết nghĩa kinh, phân biệt không tuệ, tâm không chấp trước. Khi thuyết kinh vị ấy không hề do dự; thấu suốt tất cả, chưa từng bị trở ngại, luôn luôn tận tâm, có sức thần thông như chư Phật Thế Tôn và chư Bồ-tát, suốt đời chỉ tu phạm hạnh. Chúng Thanh văn đều tin tưởng vị ấy, vị ấy bèn dùng phương tiện khéo léo mà cứu giúp làm lợi ích cho họ. Đối với vô số ức trăm ngàn loại chúng sinh, vị ấy đã khai hóa cho vô lượng, vô số người khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Những nơi vị ấy đến đều là thường dân, chỉ bày đạo lớn, khiến họ tin Phật vững chắc. Vị ấy tu tập tất cả các hạnh luôn dùng thân mình làm thanh tịnh cõi nước của chư Phật, việc làm thích hợp để khai hóa chúng sinh. Đối với các Bậc Chánh Giác đều thị hiện làm thị giả. Nay ở đời ta, vị ấy làm người giảng pháp giỏi nhất; mỗi khi thọ nhận chánh pháp, luận giảng khó người bì kịp. Trong hiền kiếp ở tương lai, khi ngàn Đức Phật ra đời vị ấy lại sẽ cúng dường các Đức Thế Tôn và cũng là người giảng pháp giỏi nhất, thường vì vô lượng vô biên các loài chúng sinh giảng giải soi sáng, khuyến hóa tất cả không hạn cuộc số người, khiến họ phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Khi đã tinh tấn tu tập đầy đủ đạo hạnh Bồ-tát, trong vô số kiếp về sau, vị ấy sẽ thành Phật, hiệu là Pháp Chiếu Diệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, sẽ ở ngay tại quốc độ này thành Bậc Đại Thánh.

Bấy giờ hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới tạo thành một cõi Phật, đất bằng bảy báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, khe hang, gai gốc, sỏi đá; lầu gác, tinh xá bao quanh dày đặc, toàn bằng bảy báu, xa trông đẹp đẽ giống như cung điện của chư Thiên; cõi trời nhìn thấy thế gian, thế gian trông thấy cõi đời; chư Thiên và người thế gian qua lại, giao tiếp. Cõi ấy không có chin mươi sáu loại và sáu mươi hai kiến kiêu mạn bủa vây; tất cả đều hóa sinh, chẳng phải do người nữ sinh; đều tịnh tu phạm hạnh, ai cũng có oai đức, dùng đại thần túc bay đi trên không; chí luôn tinh tấn, việc làm hoàn bị, trí tuệ thông đạt, dung nhan màu vàng tía hiện rõ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân.

Cõi ấy nhân dân thường có hai thức ăn: Một là Pháp thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô số trăm ngàn vạn vạn các chúng Bồ-tát đều đắc thần thông, phân biệt thấu đáo nghĩa lý khúc mắc. Thanh văn trong cõi ấy đều đạt Thánh hạnh, hành tám môn giải thoát, phương tiện uyển chuyển kỳ đặc, danh đức sáng ngời, đã đến được bờ kia.

Kiếp ấy tên Bảo minh, cõi nước tên Thiện tịnh. Phật thọ vô lượng kiếp, chánh pháp còn trụ lâu hơn. Sau khi Phật diệt độ, mọi người sẽ dựng tháp bằng bảy báu khắp cả nước. Chư Phật mười phương đều cùng nhau ca ngợi công đức của cõi nước ấy.

Đức Phật nói như thế xong, muốn giải nghĩa lại, liền nói bài tụng:

Tỳ-kheo lắng nghe!

Với ý chỉ này

Như lời ta nói

Các trời người đời

Hàn quyền phương tiện

Khéo học rốt ráo

Cần phải tôn sùng

Tu tập hạnh Phật.

Những chúng sinh kia

Yếu kém lười bỏ

Nên phải diễn nổi

Tịch tịnh vi diệu

Thị hiện hai thừa

Thanh văn, Duyên giác

Mà thường trụ trong

Đại đạo Bồ-tát

Phương tiện khéo léo

Biết bao ức ngàn

Dùng để khai hóa

Vô số Bồ-tát

Và chúng Thanh văn,

Lại vì tuyên nói

Phật đạo cao tột

Thật là khó được

Vô số quần sinh

Mong được thuần hóa

Đã được tu học

Tư hành như thế

Hạ liệt lười bỏ

Rơi vào kiêu mạn

Nhưng sẽ thấm dần

Đều thành Phật đạo

Thân, miệng và tâm

Thường theo việc làm

Thanh văn như vậy

Thế lực yếu kém

Sợ, chán tất cả

Đều là tai họa

Nên lại sửa sang

Tịnh cõi Phật mình,

Hoặc lại thị hiện

Thân có dục ái

Giận dữ sân hận

Tăm tối si mê

Thấy các chúng sinh

Mê hoặc tà kiến

Bại hoại bỏ bê

Lưới nghi trói buộc

Thanh văn của ta

Cũng làm như vậy

Tùy nghi theo thời

Hóa độ bọn họ

Dùng phương tiện khéo

Phát khởi tất cả

Đều vì mọi người

Tùy thuận rộng nói.

Này các Tỳ-kheo,

Thanh văn của ta

Việc làm đầy đủ

Ở ngàn ức Phật

Vì mong độ thoát

Với chánh pháp Phật

Thấu suốt thiền tư

Để mà độ thế.

Ở tại chỗ ta

Là đệ tử lớn

Nghe rộng hiểu nhiều

Giảng pháp dũng mãnh

Làm vui chúng sinh

Tâm chẳng mệt mỏi

Hưng phát Phật sự

Xây dựng đạo pháp

Đạt đại thần thông

An trụ cùng khắp

Bậc thầy hoàn hảo

Là ngọn đèn sáng

Quán biết chúng sinh

Thường thấy cội nguồn

Để thuyết kinh điển

Khiến đạt thanh tịnh

Dẫn dụ chúng mê

Ức trăm ngàn vạn

Phân biệt chi bày

Chánh pháp tối thượng

Luôn trụ Đại thừa

Vô thượng chánh chân

Tự thấy quốc độ

Thanh tịnh đẹp đẽ

Ở đời tương lai

Ức trăm ngàn Phật

Khi ấy hầu cận

Phụng kính như thế

Sẽ luôn hộ trì

Chánh pháp tối tôn,

Cũng lại nghiêm tịnh

Cõi Phật của mình

Giảng thuyết kinh điển

Ức trăm ngàn vạn

Khéo léo phương tiện

Luôn luôn dũng mãnh,

Lại sẽ khai hóa

Vô số chúng sinh

Đều trụ đạo tuệ

Không còn các lậu.

Vị ấy phụng thờ

Các bậc Đại Thánh

Sẽ thường giữ gìn

Pháp các Phật ấy

Sẽ thành Như Lai

Đạo Sư tự tại

Tên Pháp Quang Diệu

Sáng tỏ mười phương.

Cõi nước Phật ấy

An lạc vô cùng

Đất bằng bảy báu

Khắp nơi thanh tịnh

Tên kiếp bấy giờ

Gọi là Bảo mình

Thế giới tên là

Thiên tịnh nghiêm sức

Vô số ức ngàn

Các chúng Bồ-tát

Những bậc như vậy

Đắc đại thần thong.

Khi ấy cõi Phật

Khắp chốn ngợi ca

Thần thông quảng đại

Thanh tinh nhiệm mầu.

Lại các Thanh văn

Số đến ức ngàn

Đều là đại Thánh

Hiền thiện, dũng mãnh

Thần túc cao vời

Hành tám giải thoát

Phân biệt giảng bày

Đều được khai hóa.

Cõi nước Phật ấy

Tất cả chúng sinh

Việc làm thanh tịnh

Luôn tu phạm hạnh

Đủ tuệ biện tài

Vẹn toàn các đức

Chúng sinh hiền lương

Đầy đủ sung mãn

Các bậc Hiền nhân

Nhân dân đông đúc

Chỉ ưa kinh điển

Chẳng thích gì khác

Cõi Phật cũng không

Có các người nữ

Không có đường ác

Tai họa khổ đau.

Sắc vàng rực rỡ

Tự có nơi thân

Ba mươi hai tướng

Để tự trang nghiêm

Ở cõi Phật ấy

Không màng ăn mặc

Muốn là có ngay

Nên nói như vậy.

Lúc bấy giờ một ngàn hai trăm vị Thanh văn, mỗi vị đều ngạc nhiên trước việc lạ chưa từng có, ai cũng vui mừng, tự nghĩ: “Thế Tôn thương xót những vị ấy nên họ đều được thọ ký, chắc hẳn sẽ thương chúng ta, khiến được như thế.”

Khi ấy Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Thanh văn, bảo với Hiền giả Đại Ca-diếp:

– Nay, chúng La-hán một ngàn hai trăm vị có mặt nơi đây, trừ A-nan và La-vân, còn nhóm Thanh văn Tri Bản Tế sẽ cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật; qua số lượng ấy rồi, năm trăm đệ tử đều sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Năm trăm vị La-hán của nhóm các ông Ưu-vi Ca-diếp, Tượng Ca-diếp, Giang Ca-diếp, Hải Ca-diếp, Hắc Diệu, Ưu-đà, A-nan-luật, Ly Việt, Kiếp-tân nậu, Bạc-câu-lô, Thuần nậu… đều sẽ lần lượt thành đạo Vô thượng chánh chân, là Bậc Tối Chánh Giác, đều cùng một hiệu.

Khi ấy, Thế Tôn nói bài tụng tán thán:

Đệ tử của ta

Tên là Bản Tế

Sẽ thành Như Lai

Đạo Sư của đời

Vào đời tương lai

Vô lượng số kiếp

Hóa độ chúng sinh

Vô số ức ngàn

Thành Bậc Tối Thắng

Hiệu là Phổ Quang.

Cõi nước Phật ấy

Tên là Thanh tịnh

Vào đời tương lai

Vô lượng số kiếp

Thường gặp chư Phật

Nhiều không thể tính

Thần túc quang âm

Mạnh mẽ chói sáng

Âm thanh vang khắp

Thế giới mười phương

Ức ngàn chúng sinh

Vây quanh lớp lớp

Chỉ tuyên giảng pháp

Phật đạo tối tôn.

Chư vị Bồ-tát

Luôn tu chánh hạnh

Xe chở đẹp đẽ

Cung điện nguy nga

Nơi chốn dạo qua

Không tưởng nhớ hết

Được nghe thọ pháp

Với Lưỡng Túc Tôn

Thường đến vây quanh

Cõi Phật phương khác

Chư Phật đại Thánh

Cũng giống như trên

Khi đã cúng dường

Khắp các Thế Tôn

Trong lòng hoan hỷ

Nhiều nỗi vui mừng

Các cõi nước ấy

Đều cùng một loại

Các Đại Thánh Hùng

Có cùng một tên

Cao tột trong đời

Đều hiệu Phổ Quang

Đồng lòng như vậy

Nỗ lực tinh tấn

Thọ mạng an trú

Vô hạn dài lâu

Số kiếp đầy đủ

Sáu vạn hai ngàn

Sau khi diệt độ

Chánh pháp vẫn còn

Thánh điển để lại

Số kiếp gấp ba

Rồi đến tượng pháp

Lại sẽ trụ đời

Hơn cả chánh pháp

Cũng gấp ba lần.

Giả sử chánh pháp

Sau khi diệt tận

Đa số nam n ữ

Gặp họa khổ lớn

Các Bậc Tối Thắng

Đại Thánh luân ấy

Hiệu là Phổ Quang,

Các Đại Bồ-tát

Họ đều sẽ làm

Năm trăm Đạo sư

Ai cũng như nhau

Đều thành Phật đạo,

Danh tiếng vang khắp

Mười phương cõi Phật

Có đủ oai thần

Cùng với cảnh giới

Công đức chánh pháp

Cùng loại như trên

Sẽ đều tu theo

Tuyên nói kinh này

Tất cả sở đắc

Đều sẽ như thế,

Hiện ở cõi trời

Và tại nhân gian

Như ta thuở xưa

Lòng từ rải khắp

Chiếu sáng mọi nơi.

Thượng sư cõi người

Với hạnh đã lập

Đều thuận tin theo

Đều được thọ ký

Thương xót chúng sinh

Số nhiều vô lượng

Nhất loạt bình đẳng

Như Phật hiện nay

Chánh chân ở đời

Thế Tôn phát khởi

Vì Ca-diếp nói

Ông nên trì niệm

Năm trăm hiệu Phật

Các chúng Thanh văn

Và các chúng khác

Đã là đệ tử

Đều được tự tại.

Lúc bấy giờ, năm trăm vị Vô trước (La-hán) mắt thấy tai nghe Như Lai thọ ký, vô cùng vui mừng, đi đến chỗ Phật đầu sát đất, ăn năn tự trách:

– Bọn đệ tử thô lậu chúng con nhớ lại lúc trước, tự cho mình đã được chứng nhập Nê-hoàn, không có phương tiện khéo léo, chẳng biết rèn luyện để trở về chánh chân, vứt bỏ tuệ sáng, ý chí mệt mỏi; nay mới được trí tuệ Như Lai, sẽ thành Chánh giác.

Kính bạch Thế Tôn! Ví như có kẻ vào nhà một người có đức nhân từ, được người này lấy viên minh châu đặt trong búi tóc. Kẻ ấy say rượu, nằm ngủ, chẳng tự hay biết. Khi thức dậy quên viên minh châu, chẳng biết để đâu, y bèn đi đến nước khác, vì nghèo túng, đó khát nên phải xin ăn, cùng khổ mà không được gì. Y bèn nghĩ cách lần hồi quay về, được một bữa cơm ngon, trong lòng vui mừng; khi ấy mới nhớ lại khi trước ngủ trong nhà nọ, có người cột cho viên minh châu, không biết nó rơi chỗ nào, liền chạy trở lại xin, tìm đến thấy vị trưởng giả hiền đức ấy. Vị trưởng giả liền gọi y đến bảo: “Ngươi vì sao tự làm khổ nhọc mình, sao không chấm dứt việc đi xin ăn! Ngươi muốn biết vì sao không? Vì khi xưa, ta vận y phục nghiêm chỉnh, đi khắp nơi chọn người cương nghị làm việc lợi ích, đi đến nơi này, lấy viên minh châu bỏ vào búi tóc của ngươi, nay minh châu vẫn còn trong thân, sao chẳng hay biết? Tại sao lại đến ta xin nữa? Ta phải dùng phương tiện gì nữa để người nỗ lực thực hiện. Ngươi nay xin của báu sở dĩ khó được là vì không tự xem xét việc có thể được hay không. Hãy mau mang viên minh châu đến chỗ cung rồng mà đổi, để có các của báu, tùy ý tiêu dùng.”

Xưa kia, Đức Thế Tôn lập hạnh tu tập, khi còn làm Bồ-tát, đã khai mở trí tuệ rộng lớn, nhưng chúng con chẳng hay chẳng biết. Nay chúng con đều đã trụ ở địa vị La-hán, tự cho là đã được giải thoát, ở chốn hiểm nạn cho là yên lành. Như vậy, hôm nay chúng con mới có thể có chí nguyện cầu trí tuệ Phật. Chúng con sẽ dùng pháp này để khai hóa người khác, dùng trí tuệ Như Lai để phân biệt đạo ý. Chư Tỳ-kheo cũng vậy, chớ cho đây là Nê-hoàn.

Thưa các vị Hiền giả! Chúng ta lại phải chính mình gieo trồng gốc phước đức. Xưa kia, Đức Như Lai đã dùng phương tiện khéo léo khai mở dẫn dắt; nay Ngài cũng nói lại kinh pháp như vậy. Với những ai tự chấp thủ là đã được giải thoát, nay đều được Đức Thế Tôn thọ ký cho đạo quả Vô thượng chánh chân.

Khi ấy năm trăm vị Thanh văn thuộc nhóm của Tôn giả Tri Bản Tế nói tụng khen ngợi:

Chúng con nghe vậy

Mới biết lỗi trước

Đã được thọ ký

Quả Phật Vô thượng.

Đảnh lễ Thế Tôn

Mặt trời chói sáng

Xót thương giảng nói

Rọi ánh sáng cho

Giống như kẻ mê

Chẳng thể phân biệt

Cho nên chúng con

Đều được giải thoát

Hôm nay vui mùng

Nghe pháp an trú

Chí nguyện rộng khắp

Thấu rõ mọi việc.

Ví như một người

Lang thang kiếm sống

Bỗng được đi vào

Nhà bậc nhân đức

Nơi ấy trông ra

Giàu có nhiều của.

Khi ấy người giàu

Dọn nhiều thức ăn

Kẻ ấy ngủ say

Chẳng ăn uống gì

Chỉ lấy minh châu

Cột vào búi tóc

Người kia nằm ngủ

Đến khi thức dậy

Ngồi tại nhà ấy

Sung sướng mừng vui.

Gã ngu khờ đó

Rong ruổi kiêm ăn.

Khi vừa thức dậy

Đi đến thành xa

Cầu xin ăn mặc

Nhưng chẳng được gì

Xin được bữa ngon

Tự buộc kiếm sống

Được người cho ăn

Cho là sung sướng

Minh châu trên tóc

Mà tự băn khoăn:

Viên minh châu ấy

Nằm ở chỗ nào?

Đeo mãi trên thân

Mà chẳng hay biết.

Nên khi gặp lạ

Trưởng giả nhân từ

Điều ban bố được

Là việc trượng phu

Tức là chỉ bày

Nói toàn lời thiện

Chỉ rõ diệu bảo

Giáo hóa độ thoát

Người ấy vừa thấy

Liền được an ổn

Nhờ ân vật báu

Đạt được như vậy

Có của vô cùng

Kho tàng đầy ắp

Lại dùng năm dục

Để tư vui chơi.

Thế Tôn cũng vậy

Nói thí dụ này

Chúng con đời trước

Đều phát chí nguyện,

Chẳng phải công hạn

Của Đức Như Lai

Từ thuở xa xưa

Đêm dài tinh tấn.

Nhưng bạch Thế Tôn!

Chúng con hạ liệt

Chẳng thể hiểu biết

Giáo hóa của Ngài

Tâm không chí nguyện

Chẳng chịu tiến lên

Lại lấy Nê-hoàn

Tự vui hoan hỷ,

Theo lời Phật dạy

Nên được tỏ thông.

Nếu có kẻ chấp

Không được diệt độ

Được Phật Như Lai

Khai mở tuệ sáng

Mới thật diệt độ

Giải thoát bậc nhất

Ngọc minh châu này

Thượng phẩm Ly cấu

Hôm nay chúng con

Nghe nghĩa vô cùng

Do Phật khai dẫn

Đều rất vui mừng

Tất cả đồng được

Biệt ký quả diệu.

***

Phẩm 9: THỌ KÝ CHO A NAN VÀ LA VÂN

Khi ấy Hiền giả A-nan tự nghĩ: “Ta có thể nhận được sự thọ ký như thế chăng?” Tâm nghĩ như thế, Hiền giả âm thầm mong ước, liền rời khỏi chỗ ngồi, đến cúi đầu lễ ngang chân Đức Phật, Hiền giả La-vân cũng đến trước Phật, cúi đầu lạy xuống ngang chân Thế Tôn. Hai vị cùng thưa với Đức Phật:

– Xin Thế Tôn vì chúng con mà giảng pháp cam lộ, Thế Tôn là cha lành, lẽ nào chẳng thấu suốt? Người chưa quay về đã được quay về, người chưa được cứu đã được cứu, người chưa được hộ trì đã được hộ trì; đối với chúng chư Thiên và A-tu-luân, Thế Tôn đã tạo dựng biết bao loại thần biến trang nghiêm. Chúng con A-nan, La-vân, người là con của Phật, người là thị giả giữ gìn kho báu chánh pháp. Cúi xin Thế Tôn cho chúng con hoàn thành sở nguyện, được thọ ký đắc đạo Vô thượng chánh chân.

Lại có các Thanh văn khác gồm hai ngàn người chưa đoạn hết phiền não, đều rời khỏi chỗ ngồi, vén y để trần vai phải, chắp tay, nhất tâm chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật mong được (thọ ký).

Đức Phật bảo A-nan:

– Về đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông trước phải cúng dường sáu mươi hai ức Đức Phật, cung phụng, hầu cận, giữ gìn chánh pháp, hộ trì kinh điển; sau đó, cuối cùng sẽ thành tựu quả vị Tối chánh giác. Lúc đó ông sẽ khai hóa cho hai mươi trăm ngàn vô số trời, người, khiến họ đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân. Quốc độ của Đức Phật đó thanh tịnh, không cấu uế, đất bằng lưu ly xanh biếc, tràng phan dựng khắp nơi để tự trang nghiêm, thế giới bằng phẳng, không có sỏi đá, núi gò, khe hang, đất đai mềm mại như tơ lụa cõi trời. Kiếp ấy tên là Nhu hòa, không có sấm chớp. Thọ mạng của Đức Phật ấy thật là vô lượng chẳng thể tính đếm, chẳng thể ví dụ, khó đạt được chỗ tận cùng. Các chúng đệ tử, người lãnh hội giáo pháp tới ức trăm ngàn vạn, không thể kể xiết, không thể suy lường. Khi A-nan thành Phật, làm Bậc Đại Thánh, có hiệu là Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông, thì nhân dân cõi Phật ấy có nhiều thần biến, vây quanh. Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp sẽ trụ ở đời gấp bội (thọ mạng Phật), thời gian tượng pháp trụ ở đời lại gấp bội chánh pháp; vô lượng, vô ức trăm ngàn Đức Phật trong mười phương đều sẽ ca ngợi công đức của Đức Phật ấy.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ khen ngợi:

Nay ta tuyên nói

Cho chúng Tỳ-kheo

Nhân giả A -nan

Thân giữ pháp Phật,

Vào đời tương lai

Thành Bậc Tối Thắng

Cúng dường chư Phật

Sáu mươi hai ức

Hiệu là Hải Trì

Giác Lạc Thần Thông

Do vì nghe rộng

Nên thành đạo lớn.

Cõi ấy thanh tịnh

Hiện bày vi diệu

Tự nhiên dựng lên

Vô số tràng phan.

Các chúng Bồ-tát

Như cát sông ngòi

Đều do Như Lai

Giáo hóa thành tựu.

Thảy đều tối thắng

Thần túc vô biên.

Danh Đức Phật ấy

Vang khắp mười phương

Muốn tính thọ mạng

Không thể tính hết.

Giáo hóa thế gian

Bi mẫn vô lượng.

Giả sử Phật ấy,

Sau khi diệt độ

Chánh pháp sẽ trụ

Gấp bội số ấy

Tượng pháp trụ đời

Lại bội hơn trên

Phật ấy tuyên thuyết

Giáo hóa như vậy,

Chúng sinh cõi ấy

Như cát sông Hằng

Khởi tin nhân quả

Trụ vững Phật đạo.

Lúc bấy giờ, tám vạn Bồ-tát mới phát tâm, mỗi vị đều tự nghĩ: “Thật là lạ lùng, việc này chúng ta chưa từng nghe, xưa nay chưa từng có. Đâu có đề cập đến Bồ-tát chúng ta. A-nan là hàng Thanh văn kém trí mà lại được thọ ký sẽ đạt được đại đạo. Vì sao như thế?” Đức Thế Tôn biết tâm niệm của họ, bèn bảo:

– Các thiện nam và chúng Tỳ-kheo hãy lắng nghe, Phật pháp bình đẳng. Này các thiện nam! A-nan vốn đã phát tâm Vô thượng chánh chân từ trước nơi Đức Siêu Không Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác và hiện tại nghe nhiều kinh điển, thường tu tinh tấn, hầu cận ta cũng ân cần chu đáo. Do nhân duyên ấy nên mau đắc đạo Vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác. Hiền giả A-nan vì Phật Thế Tôn vâng giữ tạng pháp, tu hạnh Bồ-tát, xuất gia với ý nguyện cao nhã, vì các thiện nam, mà nhận sự phó thác.

Bấy giờ, A-nan theo hầu bên Đức Phật, được nghe pháp nghĩa rộng lớn vô lượng, được Phật thọ ký sẽ được thành Phật, cùng với quốc độ và hạnh nguyện xưa của mình, hoan hỷ vui mừng, ngay tức khắc nhớ lại vô số ức trăm ngàn vạn kinh điển của các Bậc Chánh Giác; lại thấy được các việc làm của mình trước đây trong quá khứ vô số kiếp, liền nói bài tụng ca ngợi:

Tôi vốn được nghe

Vô lượng chư Phật

Đều nghĩ vì con

Khi nói kinh pháp,

Các đấng Tối Thắng

Nếu có diệt độ

Con đều nhớ đúng

Như điều đã nghe

Con sẽ thành Phật

Tâm chẳng nghi ngờ

Gần gũi như thế

Là khéo phương tiện

Để được an trụ

Địa vị thị giả

Chỉ vì đại đạo

Phụng trì chánh pháp.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Hiền giả La-vân:

– La-vân hãy nghe! Vào đời tương lai, ông sẽ thành Phật, hiệu là Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Ông sẽ cúng dường phụng sự các Đức Như Lai như số vi trần trong mười thế giới, sẽ vì chư Phật mà hiện làm trưởng tử; cũng như hiện nay làm con ta. Đức Độ Thất Bảo Liên Hoa Như Lai đó, cõi nước, thọ mạng, giáo hóa chúng sinh, có các thứ trang nghiêm cũng thanh tịnh như thế giới của Đức Hải Trì Giác Ngộ Lạc Thần Thông. La-vân sẽ làm trưởng tử của các Đức Phật ấy; rồi sau đó sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

La-vân đây là

Trưởng tử của ta

Bé thơ trong trắng

Nhu hòa vô cùng.

Người con Phật này

Sẽ đạt đạo lớn

Thường dung pháp thí

Ban vui nhiều người

Vô số ức Phật

Thấy đều thương mến

Dù muốn tính đếm

Không thể hạn lượng

Đều sẽ làm con

Chư Phật tối thắng

Rồi sẽ thành Phật

Giống chúng Tỳ-kheo.

Lại La-vân này

Việc làm ôn nhã

Lập nguyện thù thắng

Phụng trì chánh giới

Khen ngợi tuyên dương

Đạo sự của đời

Nay ta nói là

Con của Như Lai

Đức nhiều vô lượng

Số cả vạn ức

Dù có suy tính

Chẳng thể lường được,

La-vân này là

Trưởng tử của Phật

Nay đã thông đạt

Trụ Phật đạo vậy.

Lúc bấy giờ A-nan, La-vân cùng bạch Phật:

– Nay chúng con thấy hai ngàn vị Thanh văn học giới đệ tử, trong lòng hân hoan, chiêm ngưỡng tôn nhan, nghe Thế Tôn giảng dạy chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn và đang mong đợi.

Thế Tôn bảo A-nan và La-vân:

– Hai ông có thấy hai ngàn Thanh văn học giới đệ tử kia chăng?

A-nan bạch Phật:

– Dạ, có thấy.

Phật bảo A-nan:

– Bọn họ sẽ cùng tu học pháp Đại thừa, sẽ cúng dường chư Như Lai như số vi trần trong năm trăm thế giới và giữ gìn chánh pháp. Rồi vào đời sau, cùng lúc tụ tập, rồ i phân bố ra mười phương cõi khác nhau, đều đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, hiệu là Bảo Anh Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thọ mạng một kiếp, tuệ giác bình đẳng, chư Thanh văn nhiều, ít đồng nhau không khác, các chúng Bồ-tát cũng như thế. Sau khi diệt độ, thời gian chánh pháp trụ đời cũng không khác.

Khi ấy, Phật nói bài tụng:

Các Thanh văn này

Tất cả hai ngàn

Nay đều đứng đây

Ở trước Thế Tôn

Những Thánh trí này

Phật đều thọ ký

Vào đời tương lai

Sẽ được thành Phật

Thị hiện hiển bày

Vô lượng thí dụ

Gặp các Đức Phật

Đều sẽ cúng dường

Rồi sẽ đạt được

Đạo cả Vô thượng

Trong khi tu đạo

Vẫn được tự tại

Danh hạnh khác nhau

Đi khắp mười phương

Đều tu nhẫn nhục

Trong khoảng sát-na

Trở về một chỗ

Ngồi dưới tàng cây

Sẽ đạt Phật đạo

Thành tựu trí tuệ

Đều thành Chánh giác

Tai cả cùng hiệu

Gọi là Bảo Anh

Danh vang thế giới

Cõi nước chư Phật

Bằng phẳng đẹp đẽ

Các chúng Thanh văn

Thảy đều như nhau

Thần túc quang minh

Khắp cả cõi đời

Vòng quanh tất cả

Mười phương quốc độ

Phân biệt kinh pháp

Làm nơi nương tựa

Chánh pháp tồn tại

Như nhau không khác.

Khi ấy, các Thanh văn Hữu học nghe Phật thọ ký, vui mừng phấn chấn liền khen ngợi tán thán Đức Phật:

Con nghe Phật thọ ký

Như ánh sáng chiếu soi

Như được rưới cam lộ

Được bình an vô lượng.

***

Phẩm 10: DƯỢC VƯƠNG NHƯ LAI

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Đạo pháp chỉ có một chứ không có hai thừa, nghĩa là đạo Vô thượng chánh chân từ xưa tới nay không có hai chánh. Thí như các sông ngòi ở bốn phương chảy về biển hiệp thành một vị; như mặt trời tỏa chiếu soi sáng khắp nơi, chưa từng tăng giảm. Nếu thiện nam muốn đạt đến Chánh giác, liễu ngộ không có ba đường ác, không có quá khứ, vị lai, hiện tại, thì phải học và thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, phân biệt không tuệ, không có tưởng về sáu pháp Ba-la-mật, chẳng dùng hương, hoa, kỹ nhạc cúng dường mà là cúng dường vậy. Các ông phải liễu ngộ ba giải thoát, đến được trí tuệ vô cực của tam đạt trí mới là cúng dường. Vì sao? Bởi vì từ xưa, trong vô lượng kiếp lâu xa khó tính đếm, về trước bấy giờ có Đức Phật hiệu là Dược Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu; thế giới tên là Đại tịnh, kiếp tên là Tịnh trừ. Dược Vương Như Lai thọ hai mươi trung kiếp; các chúng Thanh văn có ba mươi sáu ức; Bồ-tát Đại sĩ có mười hai ức. Khi ấy có vị Chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái cai quản bốn khu vực. Vua có một ngàn người con tuấn tú, dũng mạnh, có bảy vị bề tôi Thánh đức hàng phục địch quân. Vua ấy cúng dường Đức Dược Vương Như Lai đủ suốt trong năm trung kiếp; vua cùng với quyến thuộc, tất cả đều hết lòng phụng kính Đức Phật Dược Vương. Sau năm trung kiếp vua bảo với một ngàn người con:

– Ta đã cúng dường hầu hạ Như Lai, các con cũng phải tuân theo nề nếp đó.

Khi ấy, các người con nghe lời vua cha dạy, lại cúng dường Đức Dược Vương Như Lai trong năm kiếp, dâng cúng đồ thượng diệu, thích hợp an lành. Tròng đó, có một thái tử tên là Thiện Cái ở nơi vắng vẻ một mình suy nghĩ: “Nay chúng ta cúng dường Đức Như Lai, nhưng có cách nào đặc thù hơn cách này chăng?”

Trên hư không có một vị trời nương oai thần của Phật nói với Thái tử:

– Thiện nam, nay muốn biết chăng? Có một pháp cúng dường tôn quý vô cùng.

Thái tử hỏi:

– Pháp cúng dường ấy gọi là gì?

Vị Trời đáp:

– Thái tử nên đến hỏi Đức Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ giảng rõ cho Thái tử.

Thiện Cái liền đi đến chỗ Dược Vương, cúi đầu sát đất bạch với Đức Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển phải như thế nào?

Thế Tôn dạy:

– Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển thâm diệu uyên áo mà Như Lai đã nói là Khai hóa cho tất cả chúng sinh khó lãnh hội, khó hiểu biết ở thế gian, xuất gia xả lợi, có chí cầu kho báu của Bồ-tát, ở trong chốn vắng vẻ xa xôi, dùng ấn Tổng trì mà quán chiếu, nỗ lực tinh tấn không thoái chuyển, thể đạt Trí tuệ vô cực của sáu pháp Ba-la-mật, thiết tha nắm trọn đạo phẩm của Phật, chẳng khởi pháp nhẫn, mở cánh cửa, đi sâu vào chánh điển; có tâm đại Từ bi đối với chúng sinh, hàng phục quân ma, lìa các kiến chấp, thấu hiểu, diễn đạt thông suốt mười hai nhân duyên, không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp thọ, chẳng chấp mạng, có chí mong cầu các pháp Không, Vô nguyện, Vô tướng, chẳng duyên với các hành; ở nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, khuyên dạy các chúng Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa,… khiến không ai là không quy ngưỡng, khai mở kho chánh pháp, bảo hộ Hiền thánh, tuyên dương, hiển bày các hạnh Bồ-tát, giải thoát hoàn toàn các khổ, không chấp ngã, chẳng chấp thân; vì chúng sinh vi phạm cấm giới nên lập ra các phương tiện. Các ma và dị đạo rơi vào kiến chấp điên đảo, tham đắm hữu vi, thường ôm lòng sợ sệt nên phải kêu than. Công đức của chư Phật khiến họ diệt sinh tử, được dứt trừ tai họa và được yên ổn giải thoát. Cần phải tán thán chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại như thế, và phải phân tích thấu đáo sắc tượng vi diệu, tổng trì tất cả cội nguồn các pháp và pháp nhẫn; mở bày, tuyên thuyết, xiển dương các cảnh giới, tùy phương tiện mà cúng dường chánh pháp. Đó là cúng dường pháp. Đối với các kinh, tâm chí luôn trụ trong pháp nhẫn, diễn bày kinh điển, theo đó lặp đi lặp lại nhiều lần, giảng giải pháp yếu, không có các tà kiến, không khởi niệm tin chấp vào quan điểm: “Không từ đâu sinh”, thể nhập lý nhân duyên, thấy rõ vô ngã, vô nhân nên không sân hận, không tranh cãi, không kiện tụng; thấy rõ lý vô ngã, vô thọ, y cứ vào nghĩa lý ngôn từ mà trí không vướng mắc vào sự hiểu biết, không buông thả, chế ngự tâm thức, trụ tâm vào pháp “vô sở trụ”; biết nghĩa lý mục đích, nhờ đó chỉ rõ nghĩa lý sai lầm, gạn lọc, làm lưu thông các pháp chướng ngại, chẳng gây cho người nghe thấy sự ỷ lại vào chân đế mà quay về đúng như pháp vô trước, vô nhập; đoạn trừ tâm niệm vướng mắc, ỷ lại diệt các ngu si; sinh, lão, bệnh, tử đều trừ sạch, luôn quán mười hai nhân duyên, gặp những kiến chấp sai lầm không rơi vào vòng điên đảo. Đó là sự cúng dường pháp của các thiện nam.

Vương tử Thiện Cái vừa nghe Đức Phật Dược Vương giảng về sự cúng dường pháp xong, ngay khi ấy đạt được pháp nhẫn nhu thuận, liền cởi áo trên thân mình choàng lên thân Phật, rồi thưa với Đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thánh ân chứng minh cho sự lập nguyện của con: Sau khi Như Lai diệt độ, con nguyện hộ trì chánh pháp, cúng dường làm hưng thạnh chánh pháp, hàng phục quân ma và sẽ tiếp nối giáo pháp trong tương lai.

Khi ấy Đức Phật biết tâm niệm của vương tử, vào đời tương lai sẽ là thành trì giữ gìn chánh pháp, nên bảo với chúng Tỳ-kheo:

– Vương tử Thiện Cái đó trong đời Phật hiện tại, có lòng tin vững chắc, xuất gia hành đạo, luôn tinh tấn tu học, làm phát khởi cội nguồn của các công đức, chẳng bao lâu sẽ thành tựu năm phép thần thông, có sức tổng trì và biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, vị ấy sẽ đạt được đầy đủ sức thần thông tổng trì vô sở úy và ở trong mười trung kiếp, sẽ chuyển pháp luân, truyền bá kinh pháp mà Đức Như Lai Dược Vương đã dạy. Do Tỳ-kheo Thiện Cái hộ trì chánh pháp, giáo hóa suốt trong một đời, nên ngàn ức người đều phát tâm Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển; vô lượng người trụ bậc Thanh văn, Duyên giác, vô số người được sinh Thiên. Các Tỳ-kheo muốn biết vua Bảo Cái lúc ấy là ai chăng? Đâu phả i ai xa lạ, mà chính là Phật Bảo Diệm, Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện nay.

Ngàn người con của vua chính là ngàn Đức Phật xuất thế ở trong hiền kiếp này. Vị đầu tiên là Đức Như Lai Câu-lâu-tần, vị thành Phật sau cùng tên là Hân Lạc; còn Thái tử Thiện Cái chính là thân ta hiện nay. Do vậy các Tỳ-kheo nên biết rằng tất cả sự cúng dường không vượt qua sự cúng dường Pháp, vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đó mà thành. Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được cúng đường mười phương chư Phật, thì nên thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ bày cho tất cả chúng sinh phân biệt rõ là chỉ có một thừa, không có ba thừa.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Giả sử có người

Muốn hiểu đại pháp

Khai hóa tất cả

Đều đạt chánh pháp,

Thì nên thọ trì

Kinh Pháp Hoa này

Chỉ bày xa gần

Cho người chưa nghe.

Như các dòng sông

Đều xuôi về biển

Hợp thành một vị

Chẳng có gì khác,

Thanh văn, Duyên giác

Và Bồ-tát đạo

Tất cả quy về

Vô thượng chánh chân.

Ví như nhật nguyệt

Chiếu khắp trần gian

Trăm loại lúa, thuốc

Gai gốc, cỏ cây,

Pháp Phật cũng thế

Dùng tuệ vô cực

Chiếu soi tam giới

Đều vào một nghĩa.

Xưa có Đức Phật

Hiệu là Dược Vương

Và vị Thánh vương

Tên là Bảo Cái

Năm kiếp cúng dường

Đức Phật Dược Vương

Tất cả đồ dùng

Không hề thiếu thốn.

Rồi bảo ngàn con

Khiến cúng dường Phật

Ngàn con vâng lời

Lòng đều mừng vui

Cúng dường Đức Phật

Cũng đủ năm kiếp

Ăn uống giường nằm

Phướn lọng, kỹ nhạc.

Thái tử Thiện Cái

Nơi vắng, tự nghĩ:

Có pháp cúng nào

Hơn pháp cúng này?

Trên không, trời bảo

Cúng pháp hơn hết.

Chàng liền thưa hỏi:

Cúng pháp là gì?

Vị trời trả lời

Nên đến hỏi Phật.

Thái tử hỏi Phật

Phật giảng đầy đủ

Tạng pháp thâm diệu

Cú nghĩa khó hiểu:

Không, Vô tướng, Nguyện

Thể nhập chánh tuệ

Đại từ, đại bi

Hàng phục chúng ma

Sáu mươi hai kiến

Tự nhiên trừ được.

Các việc vô thường

Khổ, không, phi thân

Vô ngã, vô nhân

Vô thọ, vô mạng

Thuận theo sẽ được

Chẳng khởi pháp nhẫn

Chuyển bất thoái luân

Chiếu soi các pháp

Mười hai nhân duyên

Triển chuyển tương sinh

Rõ pháp vốn không

Không có thỉ, chung.

Khi ấy Thiện Cái

Đạt tâm nhẫn thuận

Sau khi Phật diệt

Giữ thành chánh pháp

Tinh tấn không lười

Chứng đắc ngũ thông

Tổng trì biện tài

Khai hóa tất cả

Cả ngàn ức người

Đều trụ đại đạo

Mười bốn vạn tỷ

Thanh văn, Duyên giác

Số người vô lượng

Được sinh cõi trời

Vì vậy ngợi khen

Cúng pháp là nhất

Giả sử có người

Muốn cúng dường pháp

Thì nên thọ trì

Kinh Chánh Pháp Hoa

Hiểu rõ Như Lai

Khéo dùng phương tiện

Không có hai thừa

Đều quy về một.

Lúc bấy giờ, nhân có Đại sĩ Dược Vương và các vị Bồ-tát, Đức Phật bảo với tám vạn Bồ-tát:

– Hãy quán sát bốn bộ chúng này, có vô số ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Kiền-đạp-hòa, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, hiện tại mắt thấy tai nghe Như Lai nói kinh này. Tất cả người trong hội chúng dù nghe một câu kệ, một bài tụng, chỉ phát khởi một ý niệm hoan hỷ tán trợ, ta đều thọ ký cho bốn bộ chúng sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân.

Đức Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:

– Nếu sau khi Như Lai diệt độ, người nào nghe một bài tụng bốn câu của kinh này, mà trong khoảnh khắc khởi tâm tán thán thì ta cũng thọ ký sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân. Phải biết người đó trong quá khứ đã từng hầu hạ trăm ngàn Đức Phật, đã theo trăm ngàn ức Đức Phật phát tâm lập nguyện. Những bậc như thế vì thương xót chúng sinh nên đời sau cũng theo kinh này mà thọ trì, đọc tụng, dù một bài tụng, biên chép trên tre, lụa vẫn khắc ghi nhớ mãi không quên; hoặc nghe âm thanh đọc tụng cung kính quán sát liền biết là văn cú cao tột của Như Lai Thánh Tôn, hoặc dùng hương hoa, gấm lụa, tràng phan, phát tâm cúng dường quyển kinh ấy, chắp tay hướng về kinh, cúi đầu làm lễ thì người ấy được gọi là chỗ quy ngưỡng của thế gian.

Lại bảo Bồ-tát Dược Vương:

– Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì một bài tụng, khuyến khích, hỗ trợ, hoan hỷ khi nghe tên kinh, hoặc được nghe tên kinh rồi học tập tìm hiểu, thì Đức Thế Tôn sẽ lần lượt thọ ký cho thiện nam, thiện nữ ấy tương lai sẽ thành Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Những ai vâng theo kinh này đọc tụng, sao chép, xem, nghe cúng dường tràng phan, hương hoa, lụa là và các thứ hương xông, thì phải biết các thiện nam, tín nữ ấy sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Sau khi diệt độ, nếu gặp Như Lai, thì sẽ trải tình thương đến khắp chư Thiên và loài người, theo sở nguyện của mình mà tâm được tự tại, thường sinh vào cõi người mong muốn diễn nói kinh này. Người ấy vốn đã lập hạnh vi diệu. Do việc đã làm, sẽ sinh vào cõi Phật nghiêm tịnh, thường quán sát nhân duyên để giảng kinh pháp. Phải biết hạng người này thương xót chúng sinh, nên sau khi Phật diệt độ sẽ sinh vào chốn này. Nếu có người làm trái với lời dạy của Như Lai, thì thiện nam ấy sẽ khuyên bảo người ấy làm Phật sự theo và lời dạy của Thế Tôn.

Có người giảng thuyết lời dạy của Như Lai nhưng những điều giảng giải ấy, nếu chẳng thông suốt thì người ấy tiếp tục tìm hiểu. Giả sử có người lánh tình hung hiểm, thường ôm lòng độc hại, chỉ khởi niệm bôi nhọ vị ấy thì tội lỗi khó lường. Nếu trong một kiếp phỉ báng Như Lai, hủy báng vị ấy, thì tội lỗi bằng nhau không khác. Khi vị thiện nam giảng kinh này, nếu có trẻ con thọ trì kinh ấy nhưng có bạch y, Sa-môn dùng lời lẽ thô ác nói với chúng, đem điều bất như ý gán cho chúng, khiến chúng nghe lời nói ác cho là thật, rồi sai lầm loan truyền tiếng oán than, thì sẽ mang tội ác, giống như có ý hại Đức Như Lai.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh này mà không du hóa, giảng thuyết cho người khác thì sẽ có lỗi. Nếu có thọ trì kinh này thì phải dùng y phục, thức ăn ngon, hương hoa, đèn lửa, trân châu tốt đẹp mà cúng dường và tôn phụng các thiện nam, thiện nữ ấy là bậc đại bảo, xứng đáng được đảnh lễ. Vì sao? Chính vì có thể một lần được nghe kinh điển này. Nếu ai nghe kinh điển này mà cúng dường thì do đó sẽ có chí nguyện Vô thượng chánh chân.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Nếu muốn trụ Phật đạo

Chí ngưỡng mộ công đức

Nên cúng dường những ai

Đã thọ trì kinh này

Nếu ưa pháp thông tuệ

Tùy hỷ theo nghe pháp

Nên thọ trì kinh này

Và cúng dường người trì.

Người nói kinh pháp này

Thương xót các chúng sinh

Lớn tiếng giữa cõi đời

Đến giáo hóa muôn loài,

Nếu ai trì kinh này

Trọn đời luôn tinh tấn

Tâm dũng mãnh tự đến

Thương xót các chúng sinh

Muốn sinh đâu tùy ý

Rốt sau vào cõi đời

Theo duyên ấy được gặp

Kinh điển tối thượng này

Và sẽ được cúng dường

Hương hoa của trời, người

Y phục và tàng lọng

Thường cúng cho Pháp sư

Luôn kính người ấy

Như cung kính Phật

Chắp tay làm lễ

Thánh đạo tự nhiên

Vào đời sau chót

Gặp được kinh này.

Phật diệt độ rồi

Thọ trì đọc tụng

Phải luôn cúng dường

Như tôn phụng Phật

Các loại đồ ăn

Đầy đủ vị ngon

Phòng ốc giường nằm

Vô số y phục

Một lần được nghe

Cung phụng như thế

Người ấy sẽ được

Như Lai thọ ký

Ta khiến vị ấy

Sinh vào nhân gian

Đến đời sau cùng

Gặp được kinh này

Giả sử người nghe

Biên chép thọ trì

Thì ngay khi ấy

Phật hiện trước mặt

Phỉ báng Như Lai

Trọn cả một kiếp

Trong lòng ôm hận

Sắc mặt biến đổi

Kẻ ấy liền gặp

Vô số họa vương.

Giả sử có người

Thọ trì kinh này

Rồi phân biệt nói

Vì người giảng giải

Mà ai phỉ báng

Thì bọn người này

Tội còn nặng hơn

Không thể kể xiết.

Giả sử có người

Hiện tiền khen Phật

Hai tay chắp lại

Trọn trong một kiếp

Thanh tịnh chí thành

Tôn vinh Phật đạo

Ức trăm ngàn vạn

Người nào tán tụng

Ca ngợi Pháp sư

Khởi tâm hoan hỷ

Người ấy được phước

Chẳng thể cùng tận,

Do đã tán dương

Đức bậc trí sáng

Người ấy được phước

Hơn hẳn người trên.

Rồi có người đến

Cúng dường người học

Ở trong mười tám

Ngàn muôn ức kiếp

Người ấy cúng dường

Món ăn trân quý

Hương hoa cõi trời

Nhẹ mềm đẹp đẽ

Trong vô số kiếp

Mười tám ngàn muôn

Vui vẻ hòa nhã

Chịu khổ hiến cúng

Nếu có một lần

Nghe được kinh này

Được vui lợi ích

Không gì sánh kịp.

Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:

– Ta đã có lần tuyên bố là kinh điển mà ta đã nói trước, sau nhiều vô lượng, kinh điển vừa nói và đang nói cũng rất nhiều, so với tất cả các pháp thế gian thì danh vị rõ ràng bao quát, cao cả đệ nhất; những người không tin, không ưa trong khắp thiên hạ, đối với Như Lai Chánh giác không hủy hoại được, chúng ở trong chỗ vắng, theo rình hại Pháp sư thọ trì kinh này, nhưng được oai lực của Như Lai hộ trì, nên chúng không thể phá hoại được, chính là nhờ đời trước đã từng được nghe kinh này. Đức Như Lai hiện còn, có người nghe kinh này, nhưng phần nhiều phỉ báng, huống là sau khi Như Lai diệt độ, khó mà gặp được. Nếu ai có chí nguyện mong cầu thì sẽ được che chở. Quán thấy thiện nam, tín nữ như thế. Các Đức Như Lai hiện tại ở thế giới khác đều chiếu cố. Do tự thân ghi nhớ những pháp đã được nghe nhờ sức tin tưởng, sức thiện căn, sức chí nguyện, nên họ được ở một chỗ trong nhà Như Lai, đó là do cùng loại phước đức nên được như thế.

Cầu nước cam lộ của Như Lai, đặt trọn niềm tin vào tay Phật, đó chính là do hạnh nguyện dời trước mà đạt được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có người tin tưởng kinh Chánh Pháp Hoa này mà thọ trì, sao chép, cúng dường, làm theo, vì người khác giảng thuyết thì phước đức cũng bằng như thế.

Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:

– Nếu có người thường giảng dạy, sao chép, đọc kinh này thì ở chỗ người ấy, nên lập chùa thờ Phật, dùng nhiều châu báu xây dựng cho cao rộng, to lớn, không cần phả i thờ xá-lợi Phật. Vì sao? Vì trong ấy đã chứa tất cả xá-lợi của Như Lai. Nơi nào có nói kinh pháp này thì nên phúng tụng, ca vịnh, sao chép; sao chép trên tre, lụa thành quyển kinh rồi, nên cung phụng như là chùa tháp Phật, hướng về làm lễ, cúng dường tất cả hương hoa, các loại hương thơm, hương xông, đờn cầm, đờn sắc, không hầu, tràng phan, lọng gấm. Nếu có chúng sinh nào muốn có chùa Phật để cung kính lễ bái thì nên gần gũi kinh pháp Vô thượng này.

Lại bảo Dược Vương:

– Có nhiều Bồ-tát xuất gia hành đạo và phàm phu bạch y hành pháp Bồ-tát không thể gặp được kinh điển ấy để đọc tụng, sao chép, cúng dường; có vị hành hạnh Bồ-tát, hiểu rõ quyền nghi, giả sử được nghe cảnh giới Phật, pháp hạnh và việc làm của Bồ-tát mà tin tưởng ưa thích, thâm nhập pháp ấy, diễn đạt rõ ràng, liền nhận được sự cúng dường; ở trên tòa ngồi, sắp đạt đến đạo Vô thượng chánh chân. Nếu có người gặp bậc Bồ-tát ấy, thâm nhập ý nghĩa này thì phước đức không thể kể xiết.

Ví như một người quá khát tìm nước, bỏ nơi đất bằng mà đào tìm nước nơi gò cao, ngày ngày ra công đào xới nhưng chỉ thấy đất khô ; trải qua nhiều ngày tháng nhưng mạch nước ngầm vẫn xa xăm, nên không có nước. Lại vào thời gian khác, người ấy đào đất rất sâu mới thấy nước bùn, dơ bẩn không thế uống được. Người ấy phải làm sao? Người ấy không chán nản, đào xuống thêm nữa thì có nước. Khi ấy, người kia thấy hiện tượng tốt thì không còn hồ nghi, không còn do dự nữa, tự nhủ: “Ta bỏ công sức, trải qua ngày tháng, bây giờ mới gặp được nước.”

Cũng như vậy, này Dược Vương, nếu có Bồ-tát nghe kinh điển này mà không thọ trì, tụng đọc, học hỏi thì cách đạo Vô thượng chánh chân còn rất xa vậy. Những v ị tu tập Bồ-tát hạnh ấy, nếu nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà đọc tụng, chuyên cần tu tập, tâm luôn ghi nhớ và theo đó thực hành, thì mới mau thành tựu quả vị Tối Chánh giác.

Tất cả Bồ-tát, nếu có vị nào không chịu thọ trì, đọc tụng, tu hành (kinh này) thì không thể đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vì sao? Trước đây ta đã từng tuyên bố thế này: “Nếu có người không ưa thích kinh này thì còn cách các Đức Như Lai rất xa.” Kính này là đầu mối của đạo pháp, là cội nguồn trí tuệ, thành tựu cho chư Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nghe kinh này kinh hãi sợ sệt và không ưa thích thì nên biết vị ấy là Bồ-tát sơ học. Nếu không kinh sợ thì đó là vị tu hạnh Bồ-tát đã lâu. Nếu Thanh văn gặp được kinh pháp này mà kinh hãi sợ sệt thì kẻ ấy có tâm kiêu mạn, phóng túng.

Phật nói với Dược Vương:

– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát Đại Sĩ muốn đem kinh này nói cho bốn bộ chúng, thì phải mặc áo Như Lai, ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn, sau đó mới tuyên thuyết kinh này cho bốn bộ chúng. Thế nào là mặc áo Như Lai? Đó là tâm nhẫn nhục, nhu hòa, an ổn; như vậy gọi là mặc áo Như Lai. Các thiện nam phải tu tập tâm ấy. Thế nào là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn? Hiểu rõ tất cả pháp đều là Không tịch, an trú Vô tướng, Vô nguyện, đó gọi là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn.

Các thiện nam phải an trụ vào chỗ ngồi như thế rồi mới đem kinh pháp này rộng nói phân biệt cho hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần; tâm vị ấy dũng mãnh không khiếp nhược, chí theo đạo lớn giảng bày cho bốn chúng. Vị thiện nam ấy, nếu ở thế giới tại phương khác, hóa làm người và quyến thuộc hay Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di truyền bá pháp này, nhưng nếu có người nghe mà không ưa thích thì ta liền làm cho họ vui vẻ , khiến họ ưa thích. Nếu ở chỗ vắng vẻ, đồng trống có Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-1ưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, ta sẽ sai hóa nhân nói kinh pháp cho họ. Tuy ta ở quốc độ khác, cũng tự hiện thân khiến mọi người trông thấy. Nếu người thọ trì kinh điển này mà chẳng nhớ hiểu nghĩa kinh, quên mất thứ tự thì ta sẽ khiến cho người tụng đọc, học hỏi, nương vào oai thần của ta mà thấu đạt được thứ tự, ý nghĩ.

Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Dứt bỏ hết khiếp nhược

Nên lắng nghe kinh này

Pháp này khó gặp được

Người tin cũng khó gặp

Như người muốn tìm nước

Đào tìm ở gò cao

Dù luôn luôn gắng sức

Chỉ thấy đất khô thôi.

Vị ấy thấy tự nghĩ

Nước ấy còn rất xa.

Tiếp tục đào sâu xuống

Lại gặp đất khô cằn

Sau đó đào càng sâu

Dần thấy đất ướt hiện

Khi đó lòng hết nghi

Nay đã gần tới nước.

Ai không nghe kinh này

Chẳng thường luôn tu hành

Người ấy cách xa đạo

Cách tuệ Phật cũng thế,

Kinh này rất cao vời

Rõ các việc Thanh văn

Nghe kinh tối cao này

Nghe rồi suy nghĩ nghĩa

Thì được gần đạo lớn.

Người trí thành Thánh tuệ

Giống như thấy đất ướt

Mới biết là có nước

Nên vào nhà của Phật

Mặc áo của Như Lai

Ngồi Thánh tòa Như Lai

Người trí nói điều này

Lòng từ là vào nhà

Nhẫn, nhu hòa là áo

Hiểu “Không”, tòa Sư tử

Rồi nói không sợ sệt

Bị dao, ngói, đá đánh

Bị người khác nhục mạ

Vì để nói pháp này

Ta đều nhẫn lời ấy

Dạo trong ngàn ức cõi

Thân ta vẫn kiên trì

Số kiếp chẳng nghĩ bàn

Vì chúng sinh phân biệt

Sau khi Phật diệt độ

Vì chúng trừ oán kết

Khiến nhiều các hóa nhân

Để nói kinh điển này

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Thiện tín nam và nữ

Nên cúng những vị ấy

Và những vị đến nghe

Đá, gậy đánh, mắng nhiếc

Ôm hận, nói lời ác

Nếu có điềm dữ này

Hóa nhân sẽ răn dạy.

Giả sử ở một mình

Phúng tụng và tu tập

Chẳng bị tiếng hung dữ

Đến thẳng chốn an tịnh

Tại đó người ấy tu

Ngày đêm chỉ một mình

Ta sai người đến cùng

Làm bạn, thuyết kinh này.

Người ấy biện tài

Không gì vướng mắc

Nhiều tài, thấu rõ

Thuận theo các pháp

Khiến người hân hoan

Ức trăm ngàn vạn

Giống sự kiến lập

Của chư Phật thánh

Giả sử có người

Chẳng nương pháp ấy

Thì gọi họ là

Các nghịch Bồ-tát

Người học, du hành

Hoặc ngồi tại chỗ

Được thấy chư Phật

Như cát sông Hằng.

***

Phẩm 11: THÁP BẢY BÁU

Lúc bấy giờ, trước Phật, có tháp bảy báu từ đất hiện lên, cao hai vạn dặm. Vừa hiện lên, nhiễu Phật, rồi vọt lên trụ trên hư không. Tháp ấy màu sắc đẹp đẽ lạ thường, biến đổi ngàn màu; có năm loại hoa rải trên tháp ấy, rơi lả tả như tuyết. Giảng đường của tháp đẹp đẽ trang nghiêm, do vô số vật báu hợp lại tạo thành; trăm ngàn lan can, cửa sổ, cửa lớn, chẳng thể kể xiết; các loại tràng phan, tàng lọng treo rủ xuống; ngọc báu anh lạc, các thứ minh châu đầy khắp hư không giống các vì tinh tú ; trong lư hương, bình báu đầy ắp các loại danh hương; mùi gỗ Chiên-đàn tỏa ngát hương thơm cùng khắp. Dùng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não của các cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới làm lọng báu; lọng ấy cao tận từng trời thứ nhất. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương đều rải hương hoa cúng dường tháp bảy báu.

Trong tháp ấy, tự nhiên phát ra tiếng khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Thế Tôn an trú, đúng như đã nói, đạo đức huyền diệu, cao vời không ai sánh bằng, trí tuệ bình đẳng giống như hư không, chân thật, không gì sai khác.”

Khi ấy bốn bộ chúng thấy tháp bảy báu ở trên hư không cao lớn vi diệu, ánh sáng chiếu rực, soi chiếu khắp nơi, đều khen: “Lành thay!” và mừng vui phấn chấn, đứng chắp tay, chiêm ngưỡng không chán.

Lúc đó có vị Bồ-tát tên là Đại Biện thấy chư Thiên, loài người, trong lòng do dự, vừa lo, vừa mừng, muốn biết hiện tượng này là gì, nên liền đến trước Phật thưa hỏi:

– Kính bạch Thế Tôn! Nay vì duyên cớ gì mà tháp bảy báu cao rộng vô cùng, hiện ra trước Thế Tôn ai ai cũng thấy? Bảo tháp ấy còn tự nhiên phát ra lời khen ngợi “Lành thay!” Do cảm ứng điều gì mà có hiện tượng này?

Thế Tôn bảo với Bồ-tát Đại Biện:

– Trong tháp báu này, có thân Như Lai nguyên vẹn hoàn toàn, không có khuyết hoại. Tại thế giới chư Phật ở phương Đông, cách đây không thể tính biết, có Đức Phật hiệu là Đa Bảo, tên nước là Bảo tịnh, khi còn hành đạo đã tự phát nguyện: “Ta sẽ quyết dùng kinh Chánh Pháp Hoa này để tu hành đạo, khiến các Bồ-tát đều được nghe. Sau đó mới ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, chứng thành đạo Vô thượng chánh chân.” Do chí nguyện ấy của Phật cho nên kết quả đúng như lời nguyện, Ngài đã giảng thuyết kinh pháp khắp mười phương khai hóa tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả. Khi sắp diệt độ, Đức Phật đã dạy chư Thiên, người thế gian và chư Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, phải phụng thờ thân Như Lai, bảo toàn thân ấy một cách hoàn hảo và an trí trong một ngôi đại tháp. Nếu ai thấy tháp ấy, thì biết là có Như Lai trong đó, công đức người ấy khó lường.”

Bấy giờ, Đức Phật đã lập lời nguyện rộng lớn thế này: “Ở mười phương thế giới, nơi nào có giảng kinh Pháp Hoa này, thì tháp bảy báu của ta sẽ hiện ra trước chỗ Phật nói kinh ấy, thân xá-lợi ở trong tháp bảy báu sẽ khen rằng: “Hay thay!”

Phật bảo Đại Biện:

– Tháp bảy báu ấy ở cõi phía dưới về phương Đông, cách đây vô lượng hằng hà sa cõi Phật, trụ giữa hư không, chưa từng xuất hiện. Đức Phật ấy nay thấy ta, Đức Năng Nhân Như Lai, Bậc Chánh Giác, khi tu hành đạo Bồ-tát, vì chúng sinh không tiếc thân mạng, tinh tấn không giải đãi, thực hành phương tiện khéo léo, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, xin đầu cho đầu, xin mắt cho mắt, xin mũi cho mũi, xin tai cho tai, cho đến tay, chân, các bộ phận trong thân, vợ con, người hầu, bảy báu, xe cộ, voi ngựa, y phục, quốc thành, tụ lạc, tùy ý người xin, không có tâm luyến tiếc, cho đến khi đắc Phật quả, nên hiện đến đây để thăm ta và muốn ta ngồi trê n tòa vàng sư tử của Ngài để giảng kinh Chánh Pháp Hoa, khai hóa cho tất cả chúng sinh, khiến họ đều được thấm nhuần ân đức của Đức Phật Thích-ca liền theo đúng như nguyện của Đức Phật ấy, lên ngồi trên sư tử ở giảng đường, phân biệt, giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa, rồi nói bài tụng:

Ai nghe Phật Đa Bảo

Biết danh hiệu của Ngài

Trước sau chưa từng sợ

Lại không gặp nạn khổ,

Nếu nghe tên Dược Vương

Và nhớ danh hiệu Ngài

Các bệnh tự lành dứt

Liền biết được túc mạng.

Tất cả sự cúng dường

Kính pháp là hơn hết

Phân biệt không, vô tuệ

Tự đắc thành Phật quả,

Nói thông kinh Pháp Hoa

Để chỉ hàng thấp kém

Hiểu vốn không ba thừa

Chỉ một thừa Vô thượng.

Phật bảo Đại Biện:

– Nay Đức Đa Bảo Như Lai Chí Chân, ở trong tháp ấy, xa nghe ta thuyết kinh Pháp Hoa này, cho nê n xuất hiện, khen ngợi: “Lành thay!”

Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng các vị trong pháp hội này nay muốn được chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật Đa Bảo. Cúi xin Thế Tôn thương xót gia ân, dùng oai thần khiến cho người trong chúng hội đều được phát tâm đạo lớn.

Phật bảo Bồ-tát Đại Biện:

– Đức Phật Đa Bảo vốn cũng đã phát nguyện: “Tháp của ta đến phương nào để nghe kinh điển này, nếu chư Như Lai và bốn bộ chúng muốn thấy thân ta thì tùy theo ước muốn đó, tất cả mười phương Phật đều phải được thấy, đều cùng cúng dường hóa tượng này.” Này Đại Biện muốn biết thân ta cũng phải cảm được mười phương chư Phật khiến cho hóa thân của Như Lai ở tất cả thế giới đang thuyết pháp đều về nơi đây.

Bấy giờ Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:

– Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót gia ân làm hiện rõ thánh đức của chư Phật trong tất cả mười phương quốc độ!

Đức Phật im lặng nhận lời, tức thời từ nơi lông trắng giữa đôi mày phóng ra hào quang vi diệu, chiếu khắp năm trăm hằng hà sa số, ức trăm ngàn quốc độ của chư Phật. Tất cả Thế Tôn đều hiện rõ ngay nơi quốc độ của các Ngài, ngồi dưới cội cây, trên tòa Sư tử trang nghiêm kỳ diệu và với vô số trăm ngàn Bồ-tát ngồi trên tọa cụ tốt đẹp, trang nghiêm bằng châu báu, đẹp đẽ lạ thường; dây lụa, tràng phan, bảo cái treo rủ xuống bốn phía tòa ngồi của chư Phật. Các Ngài đang vì chúng sinh giảng thuyết kinh pháp, âm thanh nhu hòa ai cũng thông hiểu. Trăm ngàn Bồ-tát mở lòng thọ nhận những điều đã nghe. Vô số trăm ngàn vạn ức hằng hà sa thế giới chư Phật ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và phương dưới cũng đều như thế, không đâu là không thấy.

Khi ấy chư Phật ở mười phương đều bảo với chư Bồ-tát:

– Các thiện nam! Các ông nên đi đến thế giới Kham nhẫn thăm viếng Đức Phật Như Lai Năng Nhân Chí Chân và chiêm ngưỡng hình tượng cùng tháp của Đa Bảo Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, ở thế giới Kham nhẫn tất cả công đức lành huân tập và oai thần vi diệu, đặc thù đều tự nhiên hiện ra; các cây bảy báu xuất hiện chung quanh; mặt đất biến thành lưu ly xanh biếc, dây bằng vàng ròng giăng dài, nối tiếc trang hoàng tám giao lộ mặt đất bằng phẳng; các quận, huyện, ấp, xóm làng, biển rộng, song ngòi, khe suối đều không hiện ra mà tự nhiên chỉ thấy lò hương của chư Thiên đốt các loại danh hương và hoa trời rải khắp. Ở cõi Phật này, khi ấy chư Thiên và nhân dân được dời đến cõi Phật khác. Các chúng hội hiện tại ở trong màn trang hoàng bằng bảy báu đan xen nhau. Các bức màn (bảy báu) đan xen này trang nghiêm đẹp đẽ lạ thường, chẳng thể tả xiết, khắp cùng cõi Phật này.

Khi ấy, tất cả chư Phật mười phương, mỗi vị đều có thị giả cùng nhau đi đến thế giới Kham nhẫn này. Các Ngài đều đến dưới những cây báu; các cây báu này cao hai vạn hai ngàn dặm, cành lá sum suê, hoa quả tươi tốt; dưới các cây ấy có giường sư tử cao hai vạn dặm, tòa ngồi đều làm bằng các loại châu báu. Như Lai ngồi trên tòa cũng giống như thế. Trong thế giới tam thiên đại thiên này, chỉ thấy chư Phật hiện ra khắp nơi, nhưng chẳng phải là do Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân Đẳng Chánh Giác biến hiện ra mà tất cả đều từ các cõi Phật ở mười phương đến đây, hiển thị oai đức của đạo lớn tối thượng.

Lúc bấy giờ ở tám phương, mỗi phương có hai vạn ức quốc độ của các hóa thân Như Lai do Đức Thế Tôn Thích-ca Văn Phật biến hóa ra, đều không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; chư Thiên và A-tu luân được dời đến thế giới chư Phật ở phương khác, mặt đất bằng lưu ly xanh biếc của hai vạn ức cõi Phật đều hóa sinh ra cây bằng bảy báu; các cây báu ấy cao hai vạn, hai ngàn dặm, cành lá hoa quả sum suê tươi tốt; các tòa Sư tử cao hai vạn dặm. Các cõi Phật ấy đều bằng phẳng, không có sông biển, khe suối, cũng không có các núi như: núi Mục-lân, Đại Mục-lân, núi chúa Tu-di, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi; tất cả các nơi trong cõi Phật, mặt đất đều bằng phẳng, do bảy báu tạo thành, trang nghiêm đẹp đẽ. Tại các giao lộ báu, vui vẻ vô cùng, rải đầy các loại hoa, đốt các danh hương. Dưới các cây báu đều có chư Như Lai ngồi trên tòa Sư tử. Cũng giống như thế, lại riêng có hai vạn thế giới của Đức Phật Năng Nhân, mỗi thế giới trang nghiêm cho các phương, hiển bày thanh tịnh, đều vì chư Phật tạo thành các cõi Phật. Những cõi Phật ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, các hàng Rồng, Quỷ, Thần và A-tu-luân; chư Thiên và nhân dân cũng được đến cõi Phật khác. Mặt đất của các cõi Phật này bằng lưu ly xanh biếc, dùng vàng ròng màu tía làm dây báu nối tiếp giữa các hàng cây ở tám giao lộ; các cây ấy cao lớn đẹp đẽ, tòa Sư tử cũng trang nghiêm đẹp đẽ như trước đã nói; mặt đất bằng phẳng, không có núi, sông, biển…, hương hoa, các báu, ngọc ngà đan xen, ngọc minh nguyệt rủ xuống, cũng giống như trước; đường xá giao thông đi lại cũng như trên, không khác.

Lúc bấy giờ các Đức Như Lai, hóa thân của Đức Phật Thích-ca Văn, tại hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông đang thuyết giảng pháp cũng đều đến; ba ngàn ức Đức Phật Chánh giác ở mỗi phương trong mười phương thế giới cũng đều đến thế giới này. Các Đức Như Lai đều ngồi trên tòa Sư tử báu, mỗi vị đều lấy hoa sen báu trao cho các thị giả và bảo: “Các thiện nam! Các ông hãy đi đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của Đức Phật Năng Nhân, nói danh hiệu của ta, rồi ân cần thăm hỏi Thánh thể, sức lực, sự đi lại của Đức Phật có được khỏe mạnh, an lành chăng? Rồi đem những hoa này, rải cúng dường trên Đức Phật cùng các đệ tử Bồ-tát và chuyển lời của ta là đã khai hóa được nhiều.”

Khi ấy Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân thấy các hóa thân Phật đều ngồi trên tòa Sư tử và các thị giả đã đến rải hoa cúng dường, liền rời khỏi chỗ ngồi, trụ trên hư không; bốn bộ chúng cũng đều đứng đậy chắp tay. Đức Phật dùng ngón tay mở cửa giảng đường của tháp bảy báu, ánh sáng tự nhiên xuyên suốt như ánh mặt trời. Giống như cửa thành lớn mà lấy chốt cửa đi thì trong ngoài thông suốt, Đức Phật Thích-ca Văn dùng hai ngón tay mở cửa giảng đường tháp bảy báu, hiển bày oai đức chẳng thể nói hết, cũng lại như thế. Như Lai mở cửa tháp bảy báu này, thân của Phật Đa Bảo Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác liền hiện ra, ngồi trên tòa Sư tử, màu da tươi nhuận như thường, không bị khô nám, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp như tranh vẽ, miệng lại phát ra lời: “Lành thay, lành thay! Phật Thích-ca Văn thuyết kinh điển này, còn gì vui hơn. Ta vì muốn nghe kinh Pháp Hoa này nên tự xuất hiện.”

Khi ấy bốn bộ chúng thấy Như Lai Đa Bảo Chí Chân Đẳng Chánh Giác, biết là Ngài diệt độ, cách đây trăm ngàn ức kiếp không thể kể xiết, và nghe lời khen: “Lành thay!” thì vô cùng kinh ngạc, cho là từ trước chưa từng có, liền dùng hoa trời rải cúng Đức Phật Thích-ca Văn Phật và Đức Như Lai Đa Bảo. Đức Phật Đa Bảo liền nhường nửa bảo tòa cho Đức Phật Thích-ca. Trong tháp bảy báu có tiếng vang ra: “Xin mời Phật Thích-ca ngồi vào tòa này!” Đức Phật Thích ca liền làm theo lời. Hai Đức Như Lai cùng ngồi một chỗ, trên tòa Sư tử trang trí bằng bảy báu, ở trên hư không.

Khi ấy trong bốn bộ chúng, mỗi người đều suy nghĩ: “Chư Phật chí chân, đạo đức cao viễn không ai có thể sánh bằng, vòi vọi khó lường, không thể kể xiết. Cúi xin Như Lai đoái thương cứu xét gia ân, dùng oai thần khiến chúng con đều được lên hư không.” Đức Phật biết tâm niệm đó, liền hiện thần lực, khiến bốn chúng tự nhiên vọt lên ở trên hư không.

Bấy giờ Đức Phật Thích-ca bảo với bốn chúng Tỳ-kheo:

– Ở trong cõi Kham nhẫn này, ai có khả năng đảm nhận thuyết kinh điển này nay chính là lúc, cũng là cơ hội lớn. Nếu sau khi Như Lai hiện tại diệt độ, thì nên thọ trì, phúng tụng pháp này. Nay Như Lai cũng sắp diệt độ, Tỳ-kheo nên thôi cúng dường, phụng sự Như Lai mà phụng thờ, cung kính kinh này.

Khi ấy Phật nói kệ:

Đại Thánh vô thượng

Đã đế nơi đây

Do Phật đã hiện

Bảo tháp diệu kỳ

Tỳ-kheo muốn biết

Người xưa nghe pháp

Ai biết việc này

Mà chẳng tinh tấn

Diệt độ đến nay

Đã vô số kiếp

Hôm nay lại muốn

Nghe kinh điển này

Cho nên đến đây

Vì tuyên giáo pháp

Được độ vô cùng

Giáo pháp thiện lợi

Ở đời quá khứ

Tự phát thệ này

Nguyện của Đạo sư

Chính là điều ấy

Diệt độ đến nay

Lâu xa cũng vậy

Nay lại hiện ra

Mười phương thế giới

Tự tại đến đây

Từ xa xôi đến

Số ức trăm ngàn

Như cát rạch sông

Cũng vì kinh này

Mà đến nơi này

Đã diệt độ rồi

Mà tự hiện ra

Dạo chơi tất cả

Ở các quốc độ

Thấy tất cả ưa

Hạnh của Thanh văn

Nên muốn hộ trì

Đối với chánh pháp

Vì lý do gì

Kinh trụ dài lâu?

Bởi vì nhờ vào

Đạo của chư Phật

Ở trong vô số

Thế giới chư Phật

Chúng sinh tụ hội

Đi đến cõi này

Sửa sang nghiêm tịnh

Nhờ sức thần túc

Ai cũng tự nói

Nghĩa rộng như thế

Do đâu được nói

Ở Pháp nhãn này

Chư Phật ở đây

Chẳng thể kể xiết

Ngồi ở dưới cây

Nơi chốn đạo tràng

Thân tướng đoan nghiêm

Muôn vàn cao cả

Các Bậc Đạo Sư

Ngồi tòa Sư tử

Thanh tịnh trang nghiêm

Sáng như mặt trời

Như ánh đại quang

Phá tan bóng tối

Hương thơm dìu dịu

Xông khắp mười phương

Dâng lên cúng dường

Thương xót cuộc đời

Các Ngài độ thoát

Tất cả chúng sinh

Ân đức thấm nhuần

Khắp cả nơi đây.

Sau khi ta diệt độ

Người trì kinh điển này

Sẽ mau được thọ ký

Sẽ gặp được Đạo Sư

Sau khi Phật diệt độ

Đức Từ phụ Đa Bảo

Thấy được tòa Sư tử

Trong tháp báu hiện lên

Kế là thân của ta

Ngàn ức đến nơi đây

Chỉ vì Bậc Tối Thắng

Giảng nói kinh điển này.

Nếu nghe pháp này

Thọ trì rốt ráo

Tức là phụng sự

Quy mạng thân ta

Và Đức Đa Bảo

Như Lai tôn quý

Phụng sự chư Phật

Hiện tại mười phương

Và trong tương lai

Kính thờ chư Phật

Trang nghiêm Thánh thể

Đẹp đẽ vô cùng

Đều vì cúng dường

Đầy đủ vô hạn

Vì người tuân theo

Thọ trì kinh này

Vì từng gặp ta

Nghe ta thuyết giảng

Cũng lại được thấy

Thế Tôn trong tháp

Và thấy vô số

Các bậc Đạo Sư

Từ trăm ngàn ức

Quốc độ đến đây.

Thiện nam tử, khéo nghĩa

Thương xót các chúng sinh

Nơi đây thật khó gặp

Chốn Đạo sư ưa thích.

Vô số các kinh điển

Giống như cát trong sông

Phật tuy nói kinh ấy

Chưa phải là kỳ đặc.

Người dùng tay đỡ nhấc

Núi Tu-di kia lên

Nhảy qua ngàn ức cõi

Không đủ cho là khó,

Dù có người phân biệt

Nói trăm ngàn chứng cứ

Nghe khắp các cõi Phật

Không đủ cho là khó,

Hoặc trụ cõi cao nhất

Vì trời người giảng pháp

Tuyên nói vô số kinh

Cũng không là kỳ diệu

Sau khi Phật diệt độ

Mạt pháp năng thọ trì

Tuyên nói kinh điển ấy

Như vậy mới kỳ đặc,

Hoặc chỉ dùng một tay

Nắm trọn cả hư không

Cho đến chỗ vô cùng

Không đủ cho là khó

Sau khi ta diệt độ

Nếu quay về Thánh tượng

Sao chép kinh điển này

Mới gọi là kỳ đặc,

Hoặc lấy mười phương cõi

Để trên đầu móng chân

Đem đi đâu tùy ý

Lên để cõi Phạm thiên

Việc này không phải khó

Tinh tấn không gì lạ

Không bằng ở đời sau

Khoảnh khắc đọc kinh này

Giả sử gặp kiếp thiêu

Mang cỏ đi trong lửa

Nhưng vẫn không bị cháy

Không đủ cho là lạ

Sau khi ta diệt độ

Nếu thọ trì kinh này

Và vì người giảng nói

Như vậy mới thù đặc

Nếu có người thọ trì

Tám vạn các Pháp tạng

Nói đúng như đã nói

Khai thị ngàn vạn người

Tỳ-kheo ở thời ấy

Khai hóa chư Thanh văn

An trụ trong thần thông

Cũng chưa lấy làm lạ

Nếu trì kinh điển này

Vui tin và ưa thích

Luôn học hỏi, ngợi khen

Như vậy mới thù thắng

Dù kiến lập vô số

Ức ngàn ngôi bảo tháp

Nhờ Đại thánh lục thông

Nhiều như cát sông Hằng.

Sau khi Phật diệt độ

Nếu ai trì kinh này

Thì công đức người ấy

Khó ai vượt qua được

Trăm ngàn các thế giới

Thuyết pháp không kể xiết,

Nay ta cũng tuyên n ói

Phân biệt trí tuệ Phật

Trong tất cả các kinh

Kinh này là hơn hết.

Người phụng trì kinh này

Là thị giả chư Phật

Thiện nam tử giảng thuyết

Trước Như Lai hiện tại

Đời sau trì kinh này

Hiền thánh mới kham nhận

Trì kinh này phút chốc

Tức là phụng kính Phật

Và tất cả Đạo Sư.

Kinh này khó gặp được

Tất cả mười phương Phật

Hiện ra để ngợi khen

Người dũng mãnh oai thần

Đã đạt được thần thông

Danh đức nhuần thấm khắp

Chư Phật đều mến thương

Chỉ vì trì kinh này

Nên đạt được tịch định.

Đạo Sư diệt độ rồi

Vì các trời, loài người

Hiện làm người dẫn đường

Tuyên bố kinh điển này

Ở vào đời vị lai

Khoảng khắc nói kinh này

Thì tất cả chúng sinh

Đều cúi đầu đảnh lễ.

Lúc bấy giờ Đức Phật Năng Nhân nói với các chúng hội:

– Ta từ vô số kiếp khó thể tính đếm, cầu kinh Pháp Hoa chưa từng mệt mỏi. Khi làm quốc vương, ta tu sáu pháp Ba-la-mật, bố thí vàng bạc, pha lê, lưu ly, hổ phách, san hô, châu ngọc, xa cứ, mã não, đầu, mắt, da thịt, tay chân, các bộ phận cơ thể, vợ con, nam nữ, voi ngựa, xe cộ, chẳng tiếc thân mạng.

Lúc bấy giờ nhân dân sống lâu không thể tính đếm. Ta vì chánh pháp mà vứt bỏ ngôi vua, giao cho thái tử để đi cầu kinh điển lớn; đánh trống, khua mỏ, tuyên bố cho khắp cả trong và ngoài nước được biết là ai có khả năng vì ta mà diễn nói đại kinh điển thì ta sẽ làm nô bộc để cung phụng và sai xử. Khi ấy có một vị Phạm chí đến bảo: “Ta có kinh điển lớn tên là Chánh Pháp Hoa. Nếu chịu làm nô bộc của ta, ta sẽ ban cho.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Ta nghe lời ấy rất vui mừng bèn theo phụng sự, hầu hạ vị Phạm chí ấy, cung cấp các thứ cần dùng như đồ ăn, thức uống; phục dịch quét dọn, lau chùi, đi hái rau quả , cất giữ lương thực, chưa từng mệt mỏi bỏ bê, hầu hạ cả ngàn năm mà không chán ngán.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Đánh trống gõ chuông

Tuyên bố xa gần

Muốn cầu đại điển

Kinh Chánh Pháp Hoa

Nếu ai ban cho

Ta làm người hầu

Đi theo phục dịch

Cấp thứ cần dùng

Cam lòng nghe theo

Không dám lười trễ

Đảm nhận cúng dường

Không màng sức khỏe

Chỉ muốn nghe được

Kinh Chánh Pháp Hoa

Nguyện khắp mười phương

Không phải vì mình

Vua ấy tinh tấn

Chưa từng nghỉ ngơi

Cung phụng áo cơm

Chẳng cầu ngon ngọt

Thương xót chúng sinh

Những kẻ chưa độ

Rồi vào khi ấy

Được kinh Pháp Hoa.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Quốc vương khí ấy chính là ta, còn vị Phạm chí chính là Điều-đạt. Nay ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đại Từ, đại Bi, thành tựu bốn tâm bình đẳng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc màu vàng ròng, mười Lực, bốn pháp Vô sở úy, bốn sự không bảo hộ, mười tám pháp Bất cọng, oai thần tôn quý, độ thoát mười phương đều là nhờ sức ân đức của Điều-đạt. Vô số kiếp về sau, Điều-đạt sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Độ Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Thế giới tên là Thiên cù.

Khi ấy Phật Thiên Vương rộng nói kinh pháp, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô số không thể kể xiết người cầu Duyên giác thừa, hằng hà sa vô lượng nhân dân đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển. Đức Phật ấy thọ hai mươi trung kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp trụ hai mươi trung kiếp; xá-lợi không phân chia, để nguyên một chỗ, dựng tháp bảy báu, cao sáu mươi dặm, rộng tám mươi dặm để thờ. Người trong khắp thiên hạ đều đem hương hoa kỹ nhạc đến cúng dường và ca tụng công đức, nhiễu quanh bảo tháp làm lễ, số người chứng đắc quả A-la-hán không thể kể xiết; vô số người có chí cầu Duyên giác thừa; vô số chư Thiên, loài người không thể nghĩ bàn phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, chí không thoái chuyển. Nếu thiện nam, thiện nữ được nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà trong tâm thông suốt, không còn hồ nghi, thì bít lắp ba đường, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sẽ được sinh đến ở trước chư Phật mười phương, học hỏi, thọ trì chánh pháp; hoặc sinh về cõi trời nhân gian giàu có; hoặc tại trước Phật, tự nhiên hóa sinh trong hoa sen bảy báu.

Khi ấy, vị Bồ-tát tên là Trí Tích, ở phương dưới, theo hầu Đức Thế Tôn Đa Bảo, thỉnh Phật Đa Bảo nên quay về bản quốc.

Đức Phật Năng Nhân liền bảo với Bồ-tát Trí Tích:

– Ta có vị Bồ-tát tên là Đoàn Thủ Đồng Chân, ông hãy đợi giây lát, cùng nhau gặp gở thà m hỏi vì xa vắng đã lâu và cùng giảng giải kinh điển, rồi sẽ về bản quốc-

Lúc đó Đoàn Thủ ngồi trên hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn như bánh xe và cùng với chư Bồ-tát khác cũng ngồi trên hoa sen báu, từ cung Long vương vọt lên khỏi biển lớn. Đoàn Thủ Đồng Chân rời khỏi hoa sen báu, đảnh lễ hai Đức Thế Tôn, xong rồi cùng Bồ-tát Trí Tích thăm hỏi nhau.

Bồ-tát Trí Tích hỏi Đoàn Thủ:

– Ngài đã vào biển sâu hóa độ được bao nhiêu?

Đáp:

– Số ấy vô lượng, không thể kể xiết, miệng chẳng nói hết, tâm không lường hết. Chẳng bao lâu nữa, sẽ tự ứng hiện.

Ngay lập tức một hoa sen từ biển vọt lên trụ trên hư không, có vô số Bồ-tát đều ngồi trên đó. Những Bồ-tát này đều do Đoàn Thủ đã hóa độ ở biển, đều phát tâm, chí cầu đạo Vô thượng chánh chân, cùng ở trên hư không giảng pháp Đại thừa. Những vị vốn phát tâm Thanh văn ở trên hư không nói hạnh Thanh văn nay đã hiểu biết Đại thừa.

Đoàn Thủ liền bảo với Trí Tích:

– Tại biển, tôi đã giáo hóa được như thế đó.

Bồ-tát Trí Tích dùng tụng để hỏi:

Ngài trí tuệ vô cùng

Ở biển, độ chúng sinh

Chỉ vì bày chánh giáo

Phân biệt nói pháp gì?

Đoàn Thủ đáp:

– Tại biển, tôi chỉ diễn nói kinh Chánh Pháp Hoa.

Trí Tích lại hỏi:

– Pháp ấy sâu xa, cao cả nhiệm mầu khó đạt, có ai có khả năng giác ngộ tức thời không?

Đoàn Thủ đáp:

– Có con gái của Long vương mới tám tuổi, thông minh, trí tuệ siêu việt khác thường phát tâm cầu đại đạo, chí nguyện rộng lớn, tánh hạnh hòa nhã, cử chỉ khoan thai, có thể thành Phật.

Trí Tích nói:

– Tôi thấy Đức Năng Nhân là Bậc Đại Sư khi còn làm Bồ-tát cầu Phật đạo đã tích chứa công đức, tinh tấn không biếng lười, trải qua số kiếp không thể tính đếm được, mới đạt quả vị Phật. Tôi không tin vị nữ nhân ấy có thể thành Phật được.

Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên vị nữ nhân ấy xuất hiện, cúi đầu làm lễ, nhiễu Phật ba vòng, đứng sang một bên, khen ngợi:

Đạt công đức thù diệu

Hiện ba mươi hai tướng

Được chư Thiên cung kính

Rồng, thần đều quy ngưỡng,

Tất cả loài chúng sinh

Không ai không tôn phụng

Nay tôi muốn thành Phật

Thuyết pháp cứu quần sinh.

Khi ấy Xá-lợi-phất bảo với vị nữ nhân:

– Tuy Nhân giả đã phát tâm và có trí tuệ siêu việt nhưng không thể đắc quả Phật. Lại như thân nữ nhiều kiếp tinh tấn, chứa nhóm công đức cao vời còn không thành Phật được. Vì sao? Vì thân nữ không đạt được năm bậc: Một là Thiên đế, hai là Phạm thiên, ba là Thiên ma, bốn là Chuyển luân thánh vương, năm là Đại sĩ.

Khi ấy Long nữ liền lấy một viên ngọc như ý quý giá lập tức, dâng lên Đức Phật. Phật liền thọ nhận. Long nữ hỏi Xá-lợi-phất và Trí Tích:

– Tôi dùng viên ngọc ấy dâng cúng Thế Tôn, Thế Tôn nhận lấy có nhanh không?

Đáp:

– Rất nhanh!

Long nữ nói:

– Nay tôi đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác còn nhanh hơn việc ấy.

Ngay khi ấy Long nữ ấy liền biến thành vị Bồ-tát nam tử và lập tức thành Phật, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và các vẻ đẹp. Chúng hội đều thấy rõ quốc độ, biết rõ danh hiệu, cho là việc lạ lùng chưa từng có; vô số Trời, Người, Rồng, Quỷ thần đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân; ba ngàn thế giới đều hiện ra sáu loại chấn động; ba vạn vị Đạo tích (Thanh văn) cũng đạt tâm không thoái chuyển, đều sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Xá-lợi-phất và Bồ-tát Trí Tích im lặng tin nhận.

***

Phẩm 12: KHUYẾN THUYẾT

Lúc bấy giờ có Bồ-tát tên là Dược Vương, lại có Bồ-tát tên là Đại Biện cùng hai vạn Bồ-tát khác ở trước Đức Thế Tôn thưa:

– Cúi xin Đấng Đại Thánh hãy an nhiên tuyên giáo, chớ âu lo. Sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con sẽ cùng nhau phân bố, giảng thuyết kinh này để chỉ bày cho chúng sinh. Giả sử có người tánh tình ngang ngược tự chuyên không sửa đổi, đức mỏng vô phúc, tâm tánh tự đại, tham của cúng dường, không đủ căn lành xa lìa giải thoát, khó thể thành tựu thì bạch Thế Tôn, chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục, tại thế giới ấy, thọ trì kinh điển này, biên chép, đọc tụng, cúng dường phụng sự, mang theo bên mình. Ngoài ra, chúng con còn tuyên nói kinh này để báo ân an trụ.

Bấy giờ có năm trăm vị Tỳ-kheo Hữu học và Vô học trong chúng hội, bước tới bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Chúng con xin đảm nhận tuyên bố kinh này. Lại nữa, bạch Thế Tôn chư vị Thanh văn Hữu học, Vô học của chư Như Lai ở thế giới khác, Ngài đã thọ ký thành đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.

Lại có tám ngàn Tỳ-kheo bạch Phật:

– Xin Thế Tôn an tâm, chớ lo ngại. Sau khi Ngài diệt độ, chúng con sẽ giảng nói rộng rãi, truyền bá kinh này, cũng sẽ truyền bá ở thế giới khác. Vì sao? Vì ở thế giới Kham nhẫn này, con người nhiều kiêu mạn, cội đức nông cạn, tâm thường bị loạn động như bị lửa thiêu, mê hoặc trong ba cõi, chẳng thể tự an.

Lúc bấy giờ Tỳ-kheo-ni Đại Kính cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni quỳ ngước nhìn Thế Tôn, không hề mệt mỏi và thưa với Đức Phật:

– Đấng Đạo Đức chí tôn, cao vời vô lượng, siêu tuyệt hư không, không ai sánh kịp!

Phật liền bảo:

– Kiều-đàm-di và các vị chớ ôm lòng lo âu, buồn rầu mà nhìn Thế Tôn như vậy. Các vị tưởng rằng Thế Tôn không đề cập đến, và không thấy thọ ký cho thành đạo Chánh giác chí chân Vô thượng ư? Tất cả chúng hội đều hòa đồng như nhau.

Khi ấy Đức Phật tuyên bố thọ ký cho mọi người sẽ đạt quả vị Vô thượng chánh chân, đều giống nhau không sai khác. Ngài bảo Kiều-đàm-di:

– Về sau, người sẽ gặp và cúng dường phụng sự ba vạn tám ngàn ức Đức Phật, sẽ là Bồ-tát thường làm Pháp sư. Và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học này vì các loài chúng sinh cũng làm Bồ-tát Pháp sư. Tất cả lần lượt đầy đủ hạnh Bồ-tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hàm Kính Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Sau khi thành Phật, khai hóa nhân dân, tất cả đều lần lượt thọ ký cho nhau sẽ thành Phật, độ thoát vô số người không thể kể xiết.

Khi ấy vị Tỳ-kheo-ni, mẹ của La-vân và Tỳ-kheo-ni Trì Danh Văn tự nghĩ: “Nay Phật Thế Tôn không thương xót ta, chỉ riêng ta bị bỏ quên.”

Bấy giờ Đức Phật bảo với Tỳ-kheo-ni Danh Văn:

– Nay ta tuyên bố với chúng hội xa gần rằng, ngươi sẽ tu tập ở chỗ mười vạn ức Đức Phật, thường làm Pháp sư, phụng trì hạnh Bồ-tát, tuân theo đầy đủ, sẽ đắc quả Phật, hiệu là Cụ Túc Bách Thiên Quang Tràng Phan Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thế giới của Phật ấy tên là Nhân hiền. Bấy giờ hào quang oai thần của Phật ấy vô số trăm ngàn, thọ mạng vô hạn.

Tỳ-kheo-ni Đại Kính Quỳ và Tỳ-kheo-ni mẹ La-vân được điều chưa từng có, lo mừng lẫn lộn, liền nói kệ khen ngợi Phật:

Thế Tôn đã khai thị

Đấng Đạo Sư muôn loài

Khai hóa ở thế gian

Gồm cả trời và người

Được trời, người cung phụng

Nay đây được an ủi

Bởi vì Đại Đạo Sư

Làm chúng con thỏa chí.

Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, bạch với Đức Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Chúng con vui tin theo pháp huấn của Phật, nhận lãnh đọc tụng và truyền cho người khác và đến thế giới khác.

Khi ấy Đức Thế Tôn xoay nhìn tám mươi ức vạn trăm ngàn vị Tổng trì Khai sĩ (Bồ-tát), những bậc chuyển pháp luân bất thoái. Chư Bồ-tát thấy Phật nhìn đến, liền chắp tay bạch Phật:

– Cúi xin Thế Tôn giao phó kinh điển ấy cho chúng con để chúng con được giảng thuyết, lưu bố và để hiểu biết rõ ân đức của Phật.

Các thiện nam ấy hân hoan ngước nhìn Thế Tôn và cũng xét lại mình, đời trước đã thực hành hạnh nguyện bình đẳng, nên ở trước Đức Phật, lớn tiếng thưa:

– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu kinh pháp này ở khắp mười phương, chúng con sẽ biên chép, thọ trì, phúng tụng, tư duy nghĩa lý, phân biệt truyền bá, và chỉ bày khai hóa người khác cũng làm như vậy và bằng hữu chúng con ở các cõi khác cũng làm theo lời Phật dạy. Xin Đại Thánh gia ân, dẫn dắt chúng con khiến được thành tựu.

Lúc bấy giờ các vị Đại sĩ Bồ-tát đồng lòng hiệp ý, ở trước Phật, nói bài tụng:

Cúi xin Thế Tôn

An nhiên lặng lẽ

Sau Phật diệt độ

Xiển dương lời Phật.

Mạt thế về sau

Sợ có hoạn nạn

Nên ban tuyên khắp

Phân biệt kinh này.

Nên bị người đánh, mắng

Dùng đá để ném, quăng

Đại Thánh trong đời sau

Gặp họa ác sẽ nhẫn

Giảng giải khó lãnh hội

Dua nịnh, si kiêu mạn

Về sau ở núi rừng

Không được nói có được.

Kẻ vô trí ở núi

Phải lấy gì giải đáp

Một mình buông thả tâm

Ôm lòng ác, không nhẫn

Ưa ở chỗ tiếng ác

Sẽ vì nói kinh pháp

Lời giảng ra quyết trừ

Giống như sáu thần thông

Hung bạo ôm tâm độc

Chỗ vắng hành ý này

Một mình vào chỗ vắng

Chẳng ưa sự mắng chửi

Cho chúng con không nhẫn

Đắm trước việc lợi dưỡng

Gọi là người ngoại đạo

Nói bố thí vì mình

Đối với kinh tinh tấn

Bới do của cúng dường

Ở trong chúng giảng thuyết

Là vì danh dự thôi

Hoặc đến cung của vua

Đại thần và quan thuộc

Phạm chí cùng trưởng giả

Hoặc chỗ Tỳ-kheo khác

Hủy báng chúng con ác

Việc làm như tà đạo

Chúng con đều nhẫn được

Luôn phụng hầu đại Thánh

Khi ấy lìa lo âu

Nếu đã nhẫn nhục được

Thì đem lời Phật dạy

Khuyên răn giáo huấn họ

Kiếp loạn, Tỳ-kheo tranh

Hung bạo rất kinh sợ

Mắng chửi hết chúng con

Các Tỳ-kheo như quỷ

Ở đời hành cung kính

Đều nhẫn được khổ nạn

Lấy thuận hòa mềm mỏng

Vì để nói kinh này.

Chúng con không ham thân

Cũng chẳng tiếc thọ mạng

Sẽ phụng trì kinh này

Chí nguyện thành Phật đạo.

Thế Tôn biết đầy đủ

Tỳ-kheo hung ác ấy

Về sau đời mạt thế

Sẽ phân biệt hiểu rõ,

Nhan sắc thường không vui

Luôn luôn phạm lầm lỗi

Du hành không đúng thời

Y phục không tề chỉnh.

Giả sử Phật diệt độ

Sau, vào thời mạt thế

Chúng con giữa chúng hội

Dũng mãnh nói kinh này

Nếu người cầu tịch diệt

Hoặc có điều mong cầu

Sẽ ban cho tại chỗ

Không xa rời Phật trí

Vì yêu thương cuộc đời

Nên tu tâm Từ bi

Thiểu dục, hành tri túc

Đạt diệt độ vắng lặng

Tất cả ánh sáng trần

Mười phương đều tụ hội

Lời chí thành chúng con

Biểu hiện tâm chân thật.

***

Phẩm 13: AN LẠC HẠNH

Khi ấy, Đại sĩ Đoàn Thủ bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát này đang kính ngưỡng Thế Tôn, là những vị mà sự khuyến hóa của các ngài khó ai bì kịp. Vậy lúc nào thì nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết kinh này?

Phật bảo Đoàn Thủ:

– Bồ-tát trước hết an trú trong hai pháp mới nên giảng nói kinh này: một là oai nghi, hai là lễ tiết. Thế nào gọi là Bồ-tát hiểu biết oai nghi? Nếu đem tâm nhẫn nhục nhu hòa mà hộ trì tâm ý sợ sệt không tự chủ, làm cho ý chí vững vàng như đất, không thấy có người. Tuy không thấy có người mà vẫn hành pháp, quán tướng tịch nhiên, các pháp vốn không, cũng không tưởng niệm các pháp này là khuôn phép của các hạnh, thì gọi đó là oai nghi.

Thế nào gọi là lễ tiết? Nếu Bồ-tát không theo phụng sự cho quốc vương, thái tử, đại thần, quan lại, không giao tiếp với ngoại đạo, dị học, không ham chuộng học tập sách vở thế tục, ca ngợi âm nhạc, tập tục hôn phối, không gần gũi kẻ đồ tể, ngư phủ, chài lưới, thợ săn bắn chim muông, giặc cướp, không cùng ở nơi đông đảo ca nhạc, du hý, không làm việc cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận sự nam, Cận sự nữ cầu quả Thanh văn, cũng không gần gũi lễ bái, thăm hỏi, không cùng ở chung, không cùng bè bạn kinh hành, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, trừ khi cùng đi đến hội giảng kinh, chỉ được cùng ở trong hội giảng kinh, dù có nói điều gì cũng không tham đắm, thì như vậy gọi là lễ tiết.

Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ không luyến tiếc nhà cửa, tông tộc, thân thuộc, không mãi mê nghĩ tưởng đến nữ nhân khi nói kinh pháp cho họ, cũng không thường đến chỗ đông đảo trẻ con, nam nữ và các người khác mà nói lời êm ái về điều không nên thuyết giảng, không vì định ý riêng tư mà nói kinh, không cũng đứng, cũng không cùng hẹn ước, cũng không một mình cùng một Tỳ-kheo-ni nào đi vào nhà, trừ khi nhớ nghĩ đến sự tinh tấn của Như Lai mà đi. Nếu vì nhân duyên nói kinh cho nữ nhân thì trong trường hợp này không làm ô nhiễm pháp vị, không làm cho họ không lãnh hội, mà chỉ rộng bàn về nghĩa lý, không cùng ở một chỗ với Sa-di, Tỳ-kheo-ni, trẻ em nam, nữ thường ưa ngồi chỗ yên tĩnh u nhã, thích nơi thanh vắng tịch lieu. Như vậy gọi là lễ tiết.

Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ-tát Đại sĩ quán tất cả pháp đều là rỗng không, nhưng nếu chấp chặt như thế là rơi vào điên đảo. Chỗ đứng của Thánh đế là thường trụ như pháp, chuyên giữ cho thân tâm không lay, không động, không thoái, không chuyển, xả bỏ, diệt tận, chẳng sinh chẳng có, không có tự nhiên, vô vi, vô số, không có cái gì có thể có, đạt đến vô sở hữu, loại bỏ ngôn từ, không trụ vô vi, không tưởng, chẳng tưởng, chế phục các tưởng. Giả sử Bồ-tát quán sát sâu xa tất cả pháp này, khẩn thiết tu hành những điều nên hành này thì thường trụ hai việc oai nghi, lễ tiết vậy.

Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại ý nghĩa này nên nói bài tụng:

Nếu Bồ-tát ưa thích

Giảng nói kinh điển này

Thì ở vào đời sau

Dũng mãnh không khiếp sợ.

Theo oai nghi lễ tiết

Làm sáng hạnh thanh bạch

Với quốc vương. thái tử

Đại thần cùng quan thuộc

Ngoại đạo và dị học

Hạng săn bắn, ác hại

Hạn chế việc giao du

Và không cùng qua lại.

Tỳ-kheo cầu La-hán

Ngoại trừ mặt Giới luật

Không gần người tự đại

Lại xa kẻ phạm cấm,

Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Bàn luận và chuyện vãn

Xa lìa thanh tín nữ

Không nói lời vô ích,

Hiện tại muốn đạt pháp

Phải nên dứt điều quấy

Ưa ở nơi vắng lặng

Gọi đó là oai nghi.

Nếu kẻ không chịu đến

Học hỏi về đạo pháp

Vì kẻ ấy thuyết giảng

Không sợ, không chấp trước,

Chúng sinh bị bệnh hủi

Hoặc bà con họ hàng

Người mẹ, các sắc đẹp

Đều phải nên xa lìa.

Không cùng họ gần gũi

Chỉ vun trồng cội đức

Nên bỏ việc bán buôn

Kiêu mạn, không cung kính,

Từ bỏ các trú xứ

Không để hại đến thân

Biết bao loài chúng sinh

Chớ nên ăn thịt chúng.

Dứt trừ các tội lỗi

Người vui giận oán hờn

Tành tình thường như vậy

Cũng chẳng cùng luận đàm,

Không gần kẻ giả dối

Kẻ tánh tình tự chuyên

Những người tánh như vậy

Đều phải nên xa lánh.

Người trí có cơ duyên

Vì người nữ thuyết kinh

Không được đi một mình

Không dừng chỗ vui chơi

Nếu ra vào thôn xóm

Thường thường đi khất thực

Dẫn một bạn Tỳ-kheo

Luôn luôn nhớ tưởng Phật.

Nên Phật trước thị hiện

Oai nghi lễ tiết ấy

Ai phụng trì kinh này

Phải siêng năng thực hiện

Kẻ thượng, trung, hạ liệt

Nếu không hành chánh pháp

Tất cả đều chí thành

Phải thường cúng dường luôn.

Trượng phu vô tưởng niệm

Kiên cố hành dũng mãnh

Không biết tất cả pháp

Cũng không thấy Niết-bàn

Của tất cả Bồ-tát

Đó gọi là oai nghi

Cũng như hành lễ tiết

Phải nên nghe xét kỹ.

Nay sẽ giảng thuyết

Giáo pháp vô vi

Tất cả không khởi

Cũng không chỗ sinh

Kiên lập ý chí

Quán chiếu nghĩa không

Đấy là trí nhân

Đã hành lễ tiết,

Người có sở niệm

Là tưởng điên đảo

Lấy không làm có

Dùng hư làm thật

Tuy có chỗ khởi

Các pháp không sinh

Do tưởng sai lầm

Mà sinh các hữu,

Tâm thường chuyên nhất

Khéo tu Tam-muội

Kiến lập hạnh tu

Như đảnh Tu-di

An trú như thế

Quán khắp các pháp

Là tất cả pháp

Giống như hư không.

Ví như hư vô

Đều không bền vững

Không niệm nắm giữ

Không gì xả bỏ

Pháp không xứ sở

Không có thường danh

Ấy là kẻ trí

Đã hành lễ tiết.

Sau ta diệt độ

Nếu có Tỳ-kheo

Luôn thủ hộ được

Pháp tắc như thế

Không có khiếp nhược

Tâm không khởi tưởng

Vì vô số người

Thuyết kinh điển này,

Bậc minh triết ấy

Theo thời quán niệm

Nếu vào phòng ốc

Việc làm cũng vậy.

Quán sát các pháp

Tất cả đều tịnh

An nhiên nói nghĩa

Mà không dao động,

Quốc chủ đế vương

Cùng các thái tử

Các trưởng giả khác

Và các Phạm chí

Cùng chư quyến thuộc

Muốn nghe chánh pháp

Đều cúng dường cho

Tâm đều vô dục.

Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:

– Sau khi Như Lai diệt độ, người muốn nói kinh này phải trụ trong sự an ổn. Đã trụ an ổn rồi thì lòng không dua nịnh, tâm không huyễn hoặc mới nói kinh pháp đã thuộc lòng, hoặc chép trên tre lụa, vì người giảng thuyết, không nói nhiều lời, cũng không nói thêm, không khinh mạn Tỳ-kheo khác. Làm vị Pháp sư không ca ngợi, cũng không chê bai, chưa từng nêu tên và nói lầm lỗi của Tỳ-kheo có tâm khác cầu quả Thanh văn. Chưa từng tự cao, nói lỗi người, cũng không phỉ báng, cũng không có tâm oán ghét người trái ý mình. Chưa từng chê bai hành giả tại gia là không có chí nguyện, không trái hạnh nguyện, cũng không khởi tưởng, đến đi an trú vững vàng oai nghi, tới lui cùng khắp. Nếu đến pháp hội, tự giữ thân mình, không mất oai nghi, rồi nói kinh pháp. Nếu có người hỏi thì không dựa vào mà phải xa lìa pháp Thanh văn. Có điều chỉ dạy thì làm sáng tỏ Phật tuệ.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Người trí luôn luôn

An trú Phật đạo

Trước ngồi an ổn

Mói nói kinh pháp.

Nếu phải trải tòa

Trải loại mềm mại

Biết bao nhiêu thứ

Trang trí đẹp đẽ

Thân thể thường mặc

Y phục sạch sẽ

Trong bốn chín ngày

Tập đi kinh hành,

Giống như mây đen

Ở trên hư không

Tập hợp dồn chứa

Công đức rộng lớn.

Ở nơi chỗ ngồi

Kho tàng đầy đủ

Tòa ngồi kiên cố

Bằng phẳng đẹp đẽ

Vô số tọa cụ

Nệm lông mềm mại

Đường bệ chững chạc

Trông thật tôn nghiêm.

An nhiên bước lên

Pháp tòa cao rộng

Trải tâm bình đẳng

Vì tất cả người

Quốc chủ đế vương

Thái tử, đại thần

Các chúng Tỳ-kheo

Và Tỳ-kheo-ni

Các thiện nam tử

Cùng thiện nữ nhân

Theo điều ưa nghe

Vì họ rộng giảng

Trí tuệ vô cùng

Lần lượt phân tích

Giảng giải các loại

Ý nghĩa vi diệu

Theo sau hầu hạ

Thưa hỏi nghĩa lý

Bậc Thánh triết ấy.

Lại vì giải thoát

Nên nhập thần túc

Nhu hòa, nhẫn nhục

Nếu người nào nghe

Đều đắc Phật đạo

Bậc Trí tuệ này

Đều vì tất cả

Tới lui dứt trừ

Biếng lười mệt mỏi

Vì chúng nói pháp

Thường dùng tâm Từ

Chưa từng khởi lên

Ý tưởng mệt mỏi

Ngày đêm ca tụng

Pháp huấn tôn quý

Phân biệt diễn thuyết

Ức ngàn thí dụ

Ai cũng phấn khởi

Tâm của hội chúng

Không có ai dám

Khởi ý làm hại

Nếu được cúng dường

Các thức ăn uống

Giường nằm chỗ nghỉ

Y phục mền gối

Thuốc thang chữa bệnh

Thì không cầu nhiều

Không theo số đông

Cầu xin của cải

Bỏ hết phiền toái

Trụ ở tinh xá

Muốn khiến mọi người

Đều hiểu Phật đạo

Nếu tất cả người

Đến nghe kinh pháp

Ta sẽ hoan hỷ

Hộ cho đại an.

Sau Phật diệt độ

Nếu có Tỳ-kheo

Tuyên dương kinh pháp

Không có mong cầu

Không bị chướng ngại

Không gặp khổ hoạn

Luôn luôn tinh tấn

Xa lìa các bệnh

Không thể bị chúng

Gây sự sợ hãi

Không bị đánh đập

Không ý phỉ báng

Thân không mệt mỏi

Không có hoạn nạn

Vị ấy trụ nhẫn

Được sức như thế.

Bậc Minh trí ấy

Chỗ ở an ổn

Có chỗ bảo trì

Đúng lời Phật dạy

Nếu đã ngợi khen

Trăm ức công đức

Khen ngợi tất cả

Không thể hết được.

Đức Phật lại nói với Đoàn Thủ:

– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát đối với kinh điển ấy hoài nghi không hiểu, nếu được thuyết giảng, giáo hóa mà không kiên nhẫn nghe, tánh không điều hòa và thấy Bồ-tát khác cầu Đại thừa, cho là làm việc hư vọng mà phỉ báng. Thấy Thanh văn, Duyên giác, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, hoặc gặp Bồ-tát mà tâm do dự, không đến gặp gỡ ngay thì thiện nam ấy cách xa đạo Vô thượng chánh chân, không tiếp cận được với việc làm của Đấng Thiên Trung Thiên. Giả sử cuối cùng không nhờ phước lực thì không thành Bậc Tối Chánh Giác. Bồ-tát hành ba thừa giống như Sư tử ở trong rừng, nếu có sự do dự thì tự nhiên xa lìa, không ưa thích điều ưa thích, cũng không phải không ưa thích. Nếu đối với chúng sinh tu hành từ bi thì đối với Đấng Như Lai đây như người cha vĩ đại, thấy các Bồ-tát nghĩ nhớ như Thế Tôn và với các tục gia chưa lìa trần cấu đều khoan hòa cung kính, giữ đúng lễ tiết, làm trong sáng ý nghĩa các pháp, không nghi ngờ, không ràng buộc, nghiêm trì tất cả pháp cẩn thận, chắc thật, vững vàng, thuận theo bình đẳng, không chấp trước kinh pháp. Có điều cực vui cũng không chạy theo, ở tại trú xứ ngày đêm cung kính hộ trì kinh này.

Này Đoàn Thủ! Đó là thực hành ba pháp. Khi nói, Bồ-tát quán rồi mới nói, tạo sự an ổn, không bị phiền não, cũng không nhiễu hại. Người nói kinh này cùng với người học đều là bạn đạo có tâm bình đẳng của nhau. Hoặc giảng, hoặc nghe, tin tưởng, ưa thích kinh này, trì tụng, biên chép trên tre lụa, cúng dường, phụng sự thì phước đức không thể lường được.

Vì để cho chúng hội an trú Thế Tôn bèn nói bài tụng:

Nếu người tật đố

Lòng nhiều khúc mắc

Pháp sư thương yêu

Không hề ghét bỏ

Có bậc Minh trí

Không tạo tham trước

Muốn đọc kinh này

Bắt chước làm theo

Chưa từng phỉ báng

Và nói lỗi người

Cũng không rơi vào

Lỗi nghi, tà kiến

Tâm thường trong sáng

Không bị đắm chìm

Vì thương chúng sinh

Nên đắc định này

Vị an trụ ấy

Cũng luôn nhẫn nhục

Người ấy thường ngăn

Tự cao tự đại

Luôn luôn giảng tụng

Kinh điển của Phật

Chưa từng vì đó

Sinh ra mệt mỏi

Có Bồ-tát nào

Ở mười phương cõi

Thương yêu chúng sinh

Ở đời khởi hạnh

Tùy thuận cung kính

Học tập Thánh tuệ

Đều nên nhớ nghĩ

Là Thế Tôn ta

Nghĩ nhớ chư Phật

Bi trí cao tột

Nhớ các Bồ-tát

Như nhớ mẹ cha

Nếu có cầu đạo

Thì không dục tình

Vứt bỏ ngã chấp

Và tâm tự đại

Giả sử nghe rõ

Tượng pháp như vậy

Các bậc Minh trí

Sẽ tự hộ trì

Việc làm an ổn

Thường được an định

Sẽ chứng quả Phật

Cứu vô số chúng.

Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ:

– Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại sĩ phụng hành kinh này, luận đúng thời tiết thì Tỳ-kheo (Bồ-tát) ấy phải thực hành từ bi, hướng đến các hàng bạch y, người xuất gia, Phạm chí, tất cả quần sinh, người hành đạo Bồ-tát, thường nghĩ đến các vị hành Đại thừa đời quá khứ mà khéo léo phương tiện diễn nói ý nghĩa chân đế. Nếu người nghe không biết, không hiểu, không vui, không tin, không thức tỉnh, không lĩnh hội được, thì tự thán rằng: “Ta phải đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đầy đủ sức oai thần, mới được tự tại!”

Đoàn Thủ nên biết! Ta thấy những việc này: Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát có bốn sự việc khi thuyết pháp không phiền bực. Bốn việc ấy là gì?

1. Được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ cung kính.

2. Vua chúa, thái tử, đại thần, quan lại, nhân dân trong nước thấy đều cúng dường.

3. Trưởng giả, Phạm chí đều làm theo.

4. Vô số Thần minh, Thiên tử trên không nghe thuyết kinh và trời, rồng, quỷ thần thị vệ sau họ đều ủng hộ.

Đó là bốn việc. Hoặc khi vào huyện, ấp hay lúc trở về nhà, cả ngày 1ẫn đêm mọi người đều đến hỏi kinh pháp. Nếu vì sự giải thoát mà phân biệt chỗ quy hướng thì ai cũng hoan hỷ. Vì sao? Đoàn Thủ nên biết, vì đều do Phật đã gia ân kiến lập kinh này. Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do kinh này xuất sinh và cũng đều hộ trì kinh này. Nếu ở thế giới Kham nhẫn được nghe phẩm Chánh Pháp Hoa cùng nghe tên kinh này thì thật là khó.

Này Đoàn Thủ! Thí như Chuyển luân thánh vương có năng lực lớn, oai đức trùm khắp, cai trị thuần hòa. Các nước thù địch khác chưa chịu thần phục, không dám dòm ngó. Chuyển luân vương hưng binh đi chinh phạt nhưng chư hầu không phục, muốn chống trả lại nước lớn. Khi ấy, các tướng sĩ dũng mãnh ra sức đánh thắng, đối phương khuất phục. Nhà vua vui mừng, xét công ban thưởng, phong cho thành ấp, ban cho ruộng vườn, bảy báu, ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nam nữ, nô tỳ. Người có công đức thù nhất, vua lấy viên minh châu trong búi tóc ban cho. Vì sao? Vì bề tôi làm cho đất nước cường thịnh, văn minh lâu dài. Như Lai Chánh Giác cũng lại như thế, là Đại Pháp Vương của chân lý tối cao, tự hàng phục tâm mình, dùng pháp giáo hóa, dùng đức trừ hại, dùng tuệ chiến đấu, hàng phục vô số chúng pháp vương khác; vô lượng trăm ngàn kinh điển ý nghĩa trọng yếu đều ban bố cho quần sinh, không hề che giấu; ra lệnh đắp thành bằng phẳng để nhìn thấy ma quân, có thể cùng quân ma chiến đấu, dùng pháp Hiền thánh phá dâm, nộ, si, hàng phục ma quân và đồng bọn, hết họa ba cõi, đạt đến diệt độ, việc làm nhanh chóng và rất dũng mãnh, rốt cùng không hoại diệt cũng không chắc thật, vì do các yếu tố hư ngụy tạo thành thế gian này, như tất cả hiện tượng, nơi chốn đều là nhân duyên. Khắp các thế giới từ xưa đến nay không có ai tin kinh Pháp Hoa này, mà chưa từng diễn nói thông suốt. Sở dĩ nói được là do sự thông tuệ và lòng đại Bi, như viên minh châu trong búi tóc của bậc Đại thánh đế, vì là pháp quan trọng đệ nhất của Đức Thế Tôn, nương vào đó mà tiến bước tu hành nên Đức Như Lai cho nghe kinh điển thâm diệu này. Từ xưa đến nay, các pháp tu hành đã được nói ra thì kinh này là pháp tối thắng để tiêu trừ tất cả hoa duyên khởi. Giống như bậc Thánh đế trân trọng giữ gìn viên minh châu trong búi tóc, lâu lắm mới lấy ra ban cho người có công đặc biệt. Như Lai cũng thế, sớm tối trân trọng giữ gìn pháp vô cùng mầu nhiệm không tỳ vết, đến nay rất lâu, là pháp đứng đầu các pháp. Hôm nay vì thương xót nên mới diễn bày rộng rãi.

Đức Thế Tôn muốn diễn bày lại ý nghĩa trọng yếu nên nói tụng:

Nay đây Như Lai

Hiện sức Từ bi

Vì thương chúng sinh

Mắc vòng đau khổ

Trong cảnh dại khờ

Nên phân biệt nói

Kinh điển tối tôn

Cầu pháp Bồ-tát

Hoặc người xuất gia

Hay hàng tại gia

Nếu nghe kinh này

Hiện khắp tất cả

Lòng sinh khiếp sợ

Chẳng được hủy báng

Ta lúc ban đầu

Khi đắc quả Phật

Cũng như Như Lai

Ở đây hôm nay

Nếu vừa được nghe

Kinh tôn quý ấy

Thì liền kiến lập

Vô số phương tiện

Như Chuyển luân vương

Thế lực mạnh mẽ

Chiến đấu hàng phục

Các quốc vương khác

Đắc thắng ban thưởng

Voi, ngựa, xe, kho

Lại thêm phong ấp

Thành quách đất đai

Hoặc được ban cho

Xuyến báu tay chân

Màu sắc vi diệu

Vàng ròng quý báu

Trân châu dạ quang

Xa cừ, ngọc bích

Đủ loại đặc thù

Của lạ kỳ diệu

Bao nhiêu tài vật

Đều đem ban cho

Khiến cho mọi người

Mừng vui kinh ngạc

Thấy việc lập công

Lạ chưa từng có

Sau cùng mở tóc

Lấy minh châu cho

Phật cũng như thế

Nay là Pháp vương

Với sức nhẫn nhục

Tuệ âm vô cực

Thường hành từ mẫn

Khởi hạnh cứu giúp

Dùng pháp giáo hóa

Tất cả thế gian

Thấy các chúng sinh

Bị họa ưu não

Giảng nói kính pháp

Số tới ức ngàn

Hiểu rõ chúng sinh

Hợp phương tiện nào

Mà chúng ngày nay

Cho là rốt ráo

Khi ấy Pháp vương

Bậc Thánh Tối Thượng

Phân biệt kinh điển

Trăm ngàn vạn ức

Vì biết chúng sinh

Trí chí mạnh mẽ

Nên nói kinh này

Như ngọc trong tóc

Vào thời mạt thế

Kinh này ở đâu

Tất cả kinh khác

Đều không sánh kịp

Người trí nghe được

Kính ngưỡng kinh này

Chưa từng xem nhẹ

Tri hành thâm sâu

Bậc trí sáng nghe

Pháp ta diễn nói

Tượng pháp như vậy.

Sau Phật diệt độ

Sẽ nương vào đó

Ai có chí cầu

Đạo tôn quý này

Đều được thọ ký

Như Phật đã dạy

Người ấy chưa từng

Có tỳ vết dục

Không có tật bệnh

Và các họa tai

Vào thời sau này

Ở đời tương lai

Sẽ thành đạt được

Chân Tuệ vô thượng

Thù thắng diệu kỳ

Đầy đủ hết thảy

Cả bốn bộ chúng

Cũng được gặp ngỡ

Nếu có người nghe

Trừ được các 1ậu

Khen pháp vô vi

Chắp tay hướng về

Thân mình chói sáng

Chiếu ánh hào quang

Do phụng kinh này

Đạt được như thế

Đạt thành Chánh giác

Rồi chuyển pháp luân

Thì thấy rộng sâu

Và thấy tối thắng

Trong mộng nghe thấy

Trăm tướng phước đức

Màu sắc vàng ròng

Kinh Phật đã nói

Nếu được nghe rồi

Nói cho chúng hội

Cùng các thân tộc

Thảy đều đầy đủ

Lại được hộ trì

Trừ bỏ tất cả

Như tỉnh cơn mộng

Thấy được như vậy

Bỏ hết xa lìa

Xuất gia hành đạo

Đều được đi đến

Đạo tràng của Phật

Nơi ấy chính là

Pháp tòa Sư tử

Vậy là cầu đạo

Đạt được lợi ích

Các thứ bảy báu

Tập hợp tại đây

Tu thì phụng sự

Như Lai tối thắng

Đã đắc Phật đạo

Giữ lệ truyền bá

Liền chuyển pháp luân

Không có các lậu

Vì hàng đệ tử

Giảng nói kinh pháp

Chẳng thể nghĩ bàn

Trong ngàn ức kiếp

Phân biệt giảng thuyết

Giáo pháp vô lậu

Giáo hóa vô số

Vạn ức chúng sinh

Trong mộng thấy được

Hiện tượng như thế

Đúng thời diệt độ

Không còn sinh tử

Đoàn Thủ nên biết

Người có tâm đạo

Đã được giáo hóa

Nhiều không kể xiết

Vào thời mạt thế

Cầu tôn pháp này

Phân biệt rộng nói

Diễn giải tự tại.

***

Phẩm l4: BỒ-TÁT TỪ ĐẤT VỌT LÊN

Khi ấy, ở thế giới khác, có tám hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ phục sức kỳ lạ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát đất, quỳ thẳng, chắp tay bạch với Thế Tôn:

– Bọn thô lậu chúng con vội vàng đến thế giới Kham nhẫn này muốn nghe kinh này, thọ trì, phúng tụng, biên chép, tinh tấn cúng dường, phụng trì như pháp. Cúi xin Đại thánh rủ lòng thương xót chúng con, Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đem kinh Chánh Pháp Hoa này truyền bá khắp nơi.

Đức Thế Tôn bảo:

– Thôi đi, thiện nam! Các ngươi không nên phát khởi ý nghĩ đó. Nay đây, ở thế giới Kham nhẫn này tự có tám hằng hà sa Đại sĩ và mỗi Đại sĩ đều có Bồ-tát Đại sĩ quyến thuộc nhiều đến sáu mươi ức hằng hà sa. Sau này vào thời mạt thế, họ đều sẽ thọ trì, tuyên nói rộng rãi (kinh này). Khi ấy, tại thế giới của Phật này, ở khắp nơi, vô số trăm ngàn ức chúng Bồ-tát tự nhiên vân tập, dung mạo đẹp đẽ khác thường, sắc thân vàng rực ba mươi hai tướng trang nghiêm thân thể, ở cõi dưới nhiếp hộ địa giới và nhân dân; đạo hạnh đều nương nhờ vào thế giới Kham nhẫn này, nên nghe tiếng Phật xiển dương kinh Pháp Hoa, từ cõi dưới vụt hiện lên. Mỗi vị Bồ-tát đều có sáu mươi ức hằng hà sa Bồ-tát tùy tùng, cùng một tâm niệm, một việc làm không sai khác; hoặc có vị có nửa phần hằng hà sa gồm trăm ngàn Bồ-tát đến, hoặc bốn mươi phần hằng hà sa, hoặc năm mươi phần hằng hà sa, hoặc trăm phần hằng hà sa, hoặc năm trăm phần hằng hà sa, hoặc ngàn phần hằng hà sa, hoặc trăm ngàn phần hằng hà sa, hoặc ức trăm ngàn phần hằng hà sa Bồ-tát đều là bạn bè cùng đến. Hoặc lại có vô số ức trăm ngàn Bồ-tát quyến thuộc đến, hoặc có hai trăm ngàn người tu hành đạo Bồ-tát, hoặc có trăm ngàn vị đều có quyến thuộc, hoặc có ngàn quyến thuộc, hoặc năm trăm quyến thuộc, hoặc bốn trăm quyến thuộc, hoặc ba trăm quyến thuộc, hoặc hai trăm quyến thuộc, hoặc một trăm quyến thuộc, hoặc năm mươi quyến thuộc, hoặc bốn mươi quyến thuộc, hoặc ba mươi quyến thuộc, hoặc hai mươi quyến thuộc, hoặc mười quyến thuộc, hoặc năm quyến thuộc, hoặc bốn quyến thuộc, hoặc ba quyến thuộc, hoặc hai quyến thuộc, hoặc một quyến thuộc, hoặc đi đến một mình, số lượng nhiều không kể xiết, khó thí dụ được, từ đất hiện lên, hoặc từ trên xuống, hoặc bốn phương lại, tất cả đến thế giới Kham nhẫn này, trụ giữa hư không.

Chúng Bồ-tát thấy Thế Tôn đã diệt độ là Đa Bảo và Đức Đại Thánh Năng Nhân cùng ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu, liền cúi đầu đảnh lễ hai Đấng Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, đi quanh bên phải ba vòng, lui đứng một bên; có các Bồ-tát dùng biết bao phẩm vật tốt đẹp kỳ lạ cúng dường, khen ngợi hai Đức Thế Tôn, xưng dương chư Phật từ vô thủy đến nay; giả sử đầy đủ cả năm mươi trung kiếp cũng không thể nói hết sự tu hành cần khổ của Đức Phật Thích-ca, các Đức Phật khác cũng như vậy. Bốn bộ chúng trong pháp hội không nói gì khác nên cũng im lặng.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn liền hiện thần túc như sắc tượng, khiến bốn bộ chúng đều được nhìn thấy; lại khiến nhớ biết thế giới Kham nhẫn này. Các vị Bồ-tát ở trên hư không, mỗi vị đều nhiếp hộ trăm ngàn cõi Phật. Các chúng Bồ-tát đều đầy khắp trăm ngàn cõi Phật. Lại nữa trong đại chúng ấy có bốn vị Bồ-tát được coi là Thượng thủ. Tên của họ là: Bồ-Tát Chủng Chủng Hạnh, Bồ-Tát Vô Lượng Hạnh, Bồ-tát Thanh Tịnh Hạnh, Bồ-tát Kiến Lập Hạnh. Đối với vô lượng Bồ-tát số nhiều như vi trần vân tập tại đại hội này, các ngài là trên hết. Khi ấy, bốn vị Đại sĩ Bồ-tát cùng với đại chúng nhiều không thể nghĩ bàn, cùng loạt đứng yên trước Đức Thế Tôn, chắp tay thưa:

– Đại Thánh Thế Tôn! Thánh thể khỏe mạnh chăng? Dứt hết các bệnh chăng? Sở hành an lạc chăng? Chúng sinh đều tuân hành tốt Giới luật chăng? Ở trong sự thoải mái, không phiền bực chăng? Muôn loài không bị rơi vào hầm hố nguy hiểm chăng?

Khi ấy bốn vị Đại sĩ Bồ-tát dùng kệ khen ngợi:

Thế hùng chiếu ánh sáng

Sở hành an ổn chăng?

Cứu thoát người hiện tại

Các hành không hoạn chăng?

Chúng sinh gây nhân lành

Quyết hưởng quả thanh tịnh

Không còn sinh mệt mỏi

Vâng thọ mệnh Thế Tôn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đại chúng Bồ-tát trong hội:

– Các thiện nam! Sở hành của Phật an ổn, không tật bệnh, không hoạn nạn, mọi người đều tuân theo Giới luật, khéo học đạo giáo, không dám chán nản, muốn được nghiêm tịnh. Vì sao? Vì chúng sinh này vào thuở xa xưa giác ngộ như nhau, việc làm của họ là việc Thanh văn, tin ưa pháp của ta, nhập vào Phật tuệ. Lại nữa, họ đều là người học đạo ba thừa, trụ Thanh văn thừa, ta đều giáo hóa đưa vào trí tuệ lớn của Phật.

Khi ấy các Bồ-tát hoan hỷ nói bài tụng:

Hay thay, Đức Thế Tôn

Chúng con đều khuyến trợ

Mới khiến một chúng sinh

Hành tốt luật vi diệu

Muốn được nghe Đại Thánh

Dạy con điều thâm yếu

Nghe rồi hoan hỷ tin

Để vào pháp cúng dường.

Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi các Bồ-tát trong hội:

– Hay thay, hay thay! Các thiện nam, đúng như các ông nói. Điều Như Lai dạy đều tùy theo quyền nghi, không trái tôn chỉ.

Khi ấy Bồ-tát Di-lặc và tám ức hằng sa Bồ-tát cùng cất tiếng khen, tụng:

Từ xưa đến nay

Chưa từng nghe thấy

Điều mới có này

Chúng Đại Bồ-tát

Từ đất vọt lên

Trụ trước Thế Tôn

Cung phụng nương tựa

Số Bồ-tát kia

Từ đâu mà đến?

Di-lặc biết tâm niệm của tám ức hằng sa Bồ-tát, liền chắp tay dùng bài tụng hỏi Phật rằng:

Chưa từng thấy Bồ-tát

Vô số ức trăm ngàn

Dù tính đến ức năm

Không thể hết số lượng

Đến chỗ Lưỡng Túc Tôn

Vì sao nhiều như thế?

Từ đâu đến nơi đây?

Thần thông, thân cao lớn

Tất cả chí kiên cường

Là Đại Thánh dũng mãnh

Đoan chính đáng kính mộ

Nay từ đâu đến đây?

Thế Tôn thấy tất cả

Chư Bồ-tát trí tuệ

Cùng quyến thuộc vô số

Ví như cát sông Hằng

Số ấy hơn cát sông

Đủ Phật pháp giáo hóa

Bồ-tát và quyến thuộc

Đều đạt đạo Chánh giác

Hạng tinh anh như vậy

Vân tập lễ Đại Thánh

Đầy đủ cả sáu mươi

Trăm ngàn hằng hà sa

Số này còn hơn nữa

Quyến thuộc vô số kể

Năm trăm hằng hà sa

Hoặc bốn, hoặc ba trăm

Hoặc hai trăm hằng sa

Số đông cũng như thế

Số kia so số này

Hơn năm hoặc mười lần

Tất cả các quyến thuộc

Đệ tử bậc Đại Thánh

Chúng đó từ đâu tới?

Đi đến chỗ Đạo Sư

Hoặc bốn, hoặc ba, hai

Hoặc một hằng hà sa

Tất cả đều đi đến

Bạn lữ đều khéo học

Số nhiều không kể xiết

Trừ số ở trên không

Trong trăm ngàn ức kiếp

Không thể nhóm tụ hết

Nửa phần hằng hà sa

Ba, hai mươi hoặc mười

Đầy đủ chúng lập hạnh

Chúng Bồ-tát minh triết

Đều trụ ở trên không

Số hạn không thể lường

Hiện rõ không ngăn cách

Ức kiếp hành thanh tịnh

Và vô lương bộ khác

Cùng vô số quyến thuộc

Ức ức lại hơn ức

Hoặc có bộ nửa ức

Hoặc hai mươi, hoặc mười

Hoặc năm, bốn, ba, hai

Các vị cùng quyến thuộc

Không thể tính toán hết

Ai nấy tự tu hành

Tịch tĩnh ưa mến đạo

Lặng lẽ như hư không

Một mình đến cũng nhiều

Dù trải hằng sa kiếp

Không ai tính đếm được

Ở tinh xá, tịnh thất

Từ khắp phương đi đến

Tất cả Thiên, Thần thánh

Đều vì Thế Tôn đến

Chư Bồ-tát dũng mãnh

Từ đâu bỗng đến đây?

Ai vì họ thuyết kinh?

Ai kiến lập Phật đạo?

Hiển bày giáo nghĩa gì?

Kiến lập hạnh Phật gì?

Tế hạnh đều đáng kính

Từ khắp bốn phương lại

Nhờ vào Thiên nhãn thông

Đại tuệ bỗng nhiên hiện

Ở thế giới trống không

Năng nhân khiến đầy đủ

Các Bồ-tát nhân hiền

Chư vị tự nhiên đến

Từ khi sinh đến này

Chưa thấy việc như thế

Xin nói quốc độ họ

Đại Thánh nêu hết tên

Từ mười phương đến đây

Đều sẵn mười tám pháp

Con chưa từng được thấy

Các Bồ-tát như thế

Con là đệ tử đầu

Chưa nghe thấy điều này

Nay đây bao nhiêu chúng

Xin Năng Nhân nói rõ

Các Bồ-tát vô số

Trăm ngàn ức khó lường

Các ngàn ức vô lượng

Nguồn gốc ở nơi đâu?

Các Bồ-tát dũng mãnh

Ý chí chẳng thể lường

Các hạnh như thế đó

Xin Đại Hùng nói cho.

Bấy giờ ở các thế giới phương khác, vô số trăm ngàn ức các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác từ khắp mười phương đến chỗ Đức Phật Năng Nhân khuyến khích thuyết pháp. Các Ngài đều ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây bảy báu. Các vị thị giả của chư Như Lai ấy thấy vô lượng Bồ-tát hàng hàng lớp lớp biến hóa ở trong đại hội, từ đất vọt lên, đều đứng lên hỏi Đức Phật của mình:

– Chư Bồ-tát Đại sĩ này từ đâu đến đây mà nhiều vô lượng vô biên như vậy?

Khi ấy các Đức Phật kia đều bảo thị giả:

– Thiện nam! Hãy đợi trong chốc lát có Bồ-tát tên là Di-lặc đã được Đức Như Lai Năng Nhân thọ ký sẽ đạt đạo Vô thượng chánh chân thành Bậc Tối Chánh Giác, tự hỏi Năng Nhân điều kỳ lạ ấy rồi, Đức Phật sẽ phân biệt rành rẽ ý nghĩa quy hướng. Tất cả hãy yên lặng, nhất tâm lắng nghe.

Bấy giờ Đức Phật bảo Đại sĩ Di-lặc:

– Hay thay, A-dật! Điều mà ông hỏi vi diệu vô cùng, sâu xa khó lường. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sắp nói đây! Tất cả Bồ-tát và chư vị trong pháp hội này đều có năng lực mạnh mẽ vững chắc đối với tâm Bồ-đề, sẽ thấu đạt tuệ kiến vô cùng sâu xa của Như Lai. Chư Đại Thánh ấy kiến lập cảnh giới vô lượng, thiền định, trí tuệ tự tại theo sở thích, không thể nào nêu ra hết để mà phân tích diễn nói, phương tiện giáo hóa cũng không hạn lượng.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Các thiện nam tử

Lắng nghe Phật đạo

Nay ta sắp nói

Trí tuệ an lạc

Nếu người thấu rõ

Lấy làm thích thú

Trí tuệ Như Lai

Không thể nghĩ bà n

Đều phải vững ý

Giữ tâm kiên cố

Kiên lập ý chí

Nhất tâm bình đẳng

Đại Thánh khó gặp

Thương xót thế gian

Nay hãy nghe thọ

Pháp chưa từng có

Phật sẽ kiến lập

Tất cả các ông

Thảy đều không được

Sinh tâm hồ nghi

Lời Đạo Sư dạy

Không có gì khác

Trí tuệ bình đẳng

An ổn không riêng

An trú trị liệu

Pháp rất sâu xa

Tâm chẳng suy được

Không thể hạn 1ượng

Nay sẽ giảng nói

Nhân duyên vô cùng

Tất cả đều nghe

Biết chỗ hướng đến.

Thế Tôn nói tụng rồi, bảo ngài Di-lặc:

– Này A-dật! Ta nói cho tất cả biết vô lượng chúng Đại sĩ Bồ-tát không thể nghĩ bàn, từ dưới đất vọt lên mà trước chưa thấy có mặt ở thế giới Kham nhẫn này là do ta, khi mới đạt đạo quả Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đã khuyến khích họ an trụ địa vị không thoái chuyển, khiến họ thành đạo lớn, truyền trao, giáo hóa an lập. Này thiện nam! Chúng Bồ-tát Đại sĩ ấy ở phương dưới và ở trong cõi đó, có sự cứu hộ, phúng tụng, tán dương kinh điển, tư duy thiền định, tinh chuyên quán sát chỗ hướng về, hân hoan vui vẻ, ưa hạnh vô vi. Các thiện nam! Tánh khí họ điềm đạm, không phân xa gần; ở cõi trời và người đời thường chuyên tu tập, chuyển pháp luân vô vi khó nghĩ bàn, ưa thần thông thâm sâu, lấy pháp lạc làm niềm vui, chí nguyện tinh tấn, cầu trí tuệ Phật.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng:

Nay đây vô số

Các chúng Bồ- tát

Chẳng thể nghĩ bàn

Không thể hạn lượng

Tạo hạnh vô số

Không thể tính đếm

Phát triển thần túc

Rộng mở trí tuệ

Ta đều khuyến dụ

Ở đạo Đại Thánh

Nay tất cả Phật

Đều thọ ký cho

Các Bồ-tát này

Là đệ tử Phật

Đều trụ nơi đây

Quốc độ của ta

Xả bỏ xa lìa

Các chỗ ở trước

Ở khắp mọi nơi

Vắng lặng giải thoát

Các Phật tử này

Thực hành vô vi

Tinh tấn tu học

Theo đạo cao cả

Chư Thánh triết này

Ở tại phương dưới

Nay đến nơi đây

Giữ gìn cõi nước

Ngày đêm tinh tấn

Không phóng túng, mạn

Tích lũy đức hạnh

Phân biệt Phật đạo

Luôn siêng tu hành

Kiến lập tuệ lực

Thảy đều vững chắc

Không đo lường được

Ý chí dũng mãnh

Tư duy kinh pháp

Đều là con ta

Đã đạt thanh tịnh

Khi ta mới thành

Đạo quả giác ngộ

Hoặc ở trong thành

Cũng như tại rừng

Cũng đều diễn giảng

Pháp luân Vô thượng

Khuyên họ lập chí

Phật đạo tôn quý

Điều Phật nói đây

Chí thành vô lậu

Nghe Phật khen ngợi

Đều nên tín thọ

Khai hóa phát khởi

Các tinh hoa này

Từ lâu đến nay

Kiến lập chánh đạo.

Bấy giờ Đại sĩ Di-lặc nghe Phật nói về số trăm ngàn ức chúng Đại Bồ-tát không thể tính biết ấy, tâm sinh ngạc nhiên, quái lạ chưa từng có. Liền bạch Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn còn là Thái tử tại cung vua dòng họ Thích ở Ca-duy-la-vệ , vứt bỏ ngôi báu và thú vui thể nữ để xuất gia. Ngồi dưới cội cây tại đạo tràng, chứng đắc đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, từ đó đến nay không lâu, mới bốn mươi năm, nhưng tại sao số vị được giáo hóa và độ thoát lại vô lượng? Lại mở mang cảnh giới chư Phật, khuyến hóa quá nhiều, thiết lập quyền tuệ không thể nghĩ bàn. Chúng Đại Bồ-tát trong pháp hội hôm nay đều do Như Lai khai dẫn, tầng tầng lớp lớp chúng nhiều vô lượng tu phạm hạnh đã lâu, trồng gốc phước đức, cúng dường vô số trăm ngàn chư Phật. Giả sử muốn tính đếm sự thành tựu đó phải trải qua vô số kiếp.

Di-1ặc lại bạch tiếp:

– Con muốn nêu một thí dụ nhỏ: Ví như có một thanh niên tuổi hai mươi lăm, đầu tóc đen mướt, dung mạo tươi trẻ, trang phục đẹp đẽ, đàng hoàng sạch sẽ, lòng luôn lo lắng, thấy người trăm tuổi tự cho mình là cha, bảo rằng: “Thiện nam, hãy đến đây! Ngươi là con của ta.” Người trăm tuổi kia cũng cho người hai mươi lăm tuổi là cha của mình. Người cha xem biết tự miệng nói là con của ta. Đức Thế Tôn cũng vậy, người thế tục không tin điều ấy mà làm cho họ tin. Phật cũng như thế, thành Phật chưa lâu mà nay có bao nhiêu trăm ngàn ức số (Bồ-tát) từng tu phạm hạnh, từ lâu xa đã nương theo đạo tuệ, giáo hóa vô lượng chúng, hiện tại thấu suốt thiền định, kiến lập phương tiện, thành đại thần thông, thông minh trí tuệ, an trụ Phật địa, tu tập Phật tuệ, kiến lập Phật lực, ở đời ít có. Xưa kia Thế Tôn cũng lại giáo hóa các hàng như thế, dẫn dắt kiến lập Bồ-tát địa, sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân, đạt quả Chánh giác, hành mọi phương tiện, việc làm đã xong. Nay con ghi nhận, tin tưởng là đúng sự thật, tìm hiểu thấu suốt đã qua sự phán đoán, phân tích về ý nghĩa này. Nhưng kính bạch Như Lai, Bồ-tát mới học lòng còn do dự, không biết rõ điều đó nên sau khi Như Lai diệt độ, nghe kinh điển này nhất định không tin. Và vì có sự do dự nên không tuân theo pháp này, cũng không ưa thích, sẽ gặt hái tội báo. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói rõ điều này cho những người có sự hồ nghi về kinh điển này, để ở tương lai vào thời mạt pháp, những vị học Đại thừa giả sử nghe kinh này khiến họ không ngờ vực.

Khi ấy Đại sĩ Di-lặc ở trước Thế Tôn nói tụng khen ngợi:

Ví như có người

Hiện sinh con già

Năng Nhân chí thánh

Sinh vào vương cung

Vứt bỏ ngôi vua

Mà được Phật đạo

Vừa làm Đạo Sư

Đồ chúng ít ỏi

Chư vị nơi đây

Là bậc không thoái

Đã vô số kiếp

Cứu độ chúng sinh

Sức lực thần túc

An trú bất động

Tu học trí tuệ

Thảy đều thâm nhập

Nay đến nơi đây

Khai thông tại chỗ

Như sen trong nước

Toàn không nhiễm trước

Oai thần tột bực

Chí vượt thế gian

Tất cả chắp tay

Nghiêm chỉnh đứng yên

Các chúng Bồ-tát

Hình dáng như vậy

Là như thế nào

Ai tin việc ấy?

Cúi xin Đại Thánh

Xót thương chỉ bày

Phân biệt rành rẽ

Ý nghĩa chân thật.

Ví như có người

Đang lúc tráng niên

Tuổi hãy còn nhỏ

Tóc đẹp và đen

Tuổi của người ấy

Mới hai mươi lăm

Mà có thể sinh

Người già trăm tuổi,

Dưỡng nuôi, tắm rửa

Tùy thời ăn mặc

Cho là con ta

Cưng quý hết mực

Tất cả thế gian

Không có ai tin

Tuổi con đang trẻ

Sinh con lớn tuổi.

Thế Tôn cũng vậy

Nếu con không lầm

Vô số Bồ-tát

Tụ hội nơi đây

Dũng mãnh, trí tuệ

Không gì sợ sệt

Vô số ức kiếp

Sở học vững chắc

Ý chí minh triết

Thông đạt mục đích

Oai thần cao vợi

Hiện tướng đẹp đẽ

Tâm ý dũng mãnh

Hiểu rõ pháp luật

Là Thế Hùng Sư

Người thấy thăm hỏi

Nên ẩn núi cao

Tịnh tu giải thoát

Như cõi hư không

Không gì vướng mắc

Thiền định tinh tấn

Là bậc an trú

Tâm chí mong cầu

Đạt thành Phật đạo

Nhưng mà người nào

Sẽ tin lời này

Nếu Đấng Đạo Sư

Sau khi diệt độ

Con đối điều này

Không còn hồ nghi

Hiện diện trước Phật

Bồ-tát được nghe

Ngay ở nơi này

Sơ học hoang mang

Để không Bồ-tát

Đọa vào ác đạo

Khuyên bảo thế nào

Hóa độ bọn họ

Cúi xin Thế Tôn

Giảng giải rành mạch.

***

Phẩm 15: NHƯ LAI HIỆN THỌ

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cất lời bảo khắp đại chúng Bồ-tát ba lần:

– Các thiện nam! Tất cả hãy tin lời dạy bảo chắc thật của Như Lai, chớ có do dự.

Khi ấy Đại sĩ Di-lặc và các vị khác trong hội chúng đều chắp tay bạch với Thế Tôn:

– Cúi xin Đại Thánh phân biệt giảng giải, Chúng con đều tin tưởng lời Như Lai dạy.

Chư Bồ-tát cũng thưa với Thế Tôn ba lần như vậy.

Khi ấy, Thế Tôn thấy các Bồ-tát nói lên ba lần để khuyến trợ, muốn Phật tuyên thuyết như vậy. Phật bảo các Bồ-tát:

– Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ!

Tất cả cũng đáp:

– Xin vâng!

Phật bảo:

– Thiện nam! Như Lai kiến lập cảnh giới năng lực vô biên như thế. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, người thế gian đều tự biết và suy nghĩ: “Thế Tôn Năng Nhân sinh vào dòng họ Thích, từ bỏ ngôi vua, đi đến bên dòng sông, ngồi dưới cây nơi đạo tràng, chứng đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng từ lâu xa, trăm ngàn ức triệu vô số kiếp đến nay, ta đã đạt quả vị Chí Chân Đẳng Chánh Giác rồi. Ví như có năm trăm ngàn ức cõi Phật, có số vi trần đầy trong các cõi ấy, nếu có người lấy số bụi đó qua trăm ngàn ức triệu các cõi Phật không thể tính đếm ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua lại bỏ một hạt như thế và cứ như thế lấy tất cả số vi trần trong năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy rải hết các cõi Phật, cho đến hết số bụi đó. Này các thiện nam! Các ông nghĩ sao? Có ai có khả năng tính đếm số lượng các cõi Phật này hay tư duy, trù tính mà có thể biết được chăng?

Đại sĩ Di-lặc và các chúng Bồ-tát trong pháp hội đều bạch Phật:

– Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Không ai có thể tính đếm được. Vì sao? Vì thế giới chư Phật nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải là điều mà tâm biết được. Giả sử tất cả Thanh văn, Duyên giác có trí tuệ Hiền thánh cũng không thể tư duy biết được số ấy. Chỉ có trí tuệ của Đại Thánh Thế Tôn mới có thể biết được mà thôi, ngoài ra không ai có thể biết được. Chính chúng con là các Bồ-tát ở địa vị không thoái chuyển còn không thể biết. Thế giới của chư Phật ở đây không suy lường, không có giới hạn.

Khi ấy Thế Tôn bảo với đại chúng:

– Các thiện nam! Nay ta sẽ nói. Như người kia lấy số vi trần trong năm trăm ngàn ức triệu không thể tính đếm các cõi Phật ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua đều bỏ một hạt như thế. Và cứ như thế? lấy tất cả số vi trần trong các cõi của năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy, rải hết các cõi Phật, cho đến hết số vi trần ấy. Ta đã đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác đến nay trải qua số kiếp hơn hẳn số kiếp như số vi trần ấy.

Các thiện nam! Các ông thấy ta giảng pháp ở thế giới Kham nhẫn này, lại thị hiện tại trăm ngàn ức triệu các cõi Phật phương khác, tất cả đều gọi ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đức Định Quang Như Lai vì biết bao bạn bè mà thị hiện diệt độ.

Các thiện nam! Ta dùng phương tiện quyền biến khéo léo diễn nói kinh điển, hiện vô số điềm tốt đẹp. Như Lai lại biết nguồn gốc qua lại, đi ở của tất cả chúng sinh, quán hết tâm chúng mà tùy duyên thị hiện, tất cả đều là danh xưng, không diệt độ mà nói là Nê-hoàn, tùy thuận tập tánh thiện ác của chúng sinh mà vì họ diễn giải biết bao nhiêu phương pháp.

Chư thiện nam! Ta quán thấy vô số loại tâm tánh khác nhau, việc làm bất đồng, cội đức cạn mỏng của chúng sinh phần nhiều bị phá hoại, không chịu tin nghe nên vì họ giảng nói. Này các Tỳ-kheo! Nếu suy lường sau trước thì ta mới xuất gia, thành Đấng Bình Đẳng Giác đến nay chưa lâu, vừa mới đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng Như Lai đã thành Phật đến nay rất lâu mà phương tiện nói là thành Phật chưa lâu. Vì sao? Vì muốn hóa độ chúng sinh vậy. Đối với chúng sinh có thể thuyết kinh, đều đã độ thoát, nơi chốn có thể giảng nói thì tự hiện thân vì tất cả mà mở đường chỉ lối và cũng vì hàng trời, người ưa tạo tội phước. Vì vậy cho nên những điều Như Lai diễn giảng đều chắc thật, chí thành, chẳng phải hư dối. Như Lai thấy hết tất cả ba cõi, tùy duyên hóa hiện, không sở hành, không xuất sinh, không xoay vần, không diệt độ, không thật có, không hiện hữu, cũng không có bản vô, không biết, không như thế, không thật hư, cũng không có ba cõi. Sở hành của Như Lai là không thấy có ba cõi. Như Lai quán khắp tất cả các pháp, tại bất cứ chỗ nào cũng không bỏ mất các pháp. Tất cả điều giảng dạy chí thành bất hư. Chúng sinh khổ não không thể kể xiết, tạo nên bao nhiêu chủng tánh sai khác, tư duy niệm tưởng khác nhau, ta muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng cội phước đức cho nên nói phân biệt biết bao nhiêu pháp.

Lại nữa, những điều Như Lai phải làm đều đã làm xong. Quả Phật hiện tại và sự đắc thành quả Đẳng giác đến nay đã quá lâu xa, thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt. Như Lai không cần phải nói những điều đã nói lúc ban đầu về thời quá khứ trước đây khi hành pháp Bồ-tát để được thành tựu hạn lượng của thọ mạng.

Lại nữa, Như Lai đắc quả Phật đến nay thời gian lại nhiều gấp bội số trăm ngàn ức triệu như thí dụ trước. Rồi sau đó mới nhập Nê-hoàn. Vì sao? Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện tu hành đến nay đã lâu xa, vì loài vô đức xa lìa phước đức, vì hạng bần cùng đắm trước ái dục, bị ràng buộc vào lưới kiến chấp mà tự che lấp mình, rong ruổi bất định. Như Lai vì họ mà thị hiện, làm phát khởi tư tưởng mong chóng thành đạt, không sinh lười biếng, lo âu khó đắc. Như Lai khéo léo phương tiện bảo các Tỳ-kheo: “Cần khổ tu hành mới đắc Phật quả, chân thật chẳng hư.” Vì các chúng sinh trải vô số trăm ngàn ức triệu kiếp mới thấy Như Lai, vì việc làm của họ vội vàng không đúng, luôn luôn sợ hãi không chịu chấm dứt, cho nên nói Phật pháp khó được nghe, Như Lai khó được gặp. Sự nghe thấy quá khó như vậy nên phát khởi tư tường khó gặp, buồn vui lẫn lộn, biết Phật là hy hữu, phát tâm dũng mãnh, ưa chỗ vắng lặng, tu hành tinh tấn. Do không thấy Phật nên sinh lòng khát ngưỡng, thấy Như Lai rồi, hoan hỷ kính lễ, tạo các công đức, ai không diệt độ thì giáo hóa khiến diệt độ, khai hóa mọi người. Do vậy, Như Lai xuất hiện thuyết kinh, nói ra lời chắc thật không hư.

Ví như có vị thầy thuốc thông minh trí tuệ, tài giỏi khó sánh, rành chế phương dược, biết bệnh nặng nhẹ, trị liệu đúng thuốc. Ông có nhiều con, hoặc mười đứa cho đến trăm đứa. Ông ta đi xa, các con ở nhà không hiểu y lý, không rành phương dược, không biết thuốc độc, bị bệnh rất nặng, uống nhằm độc dược. Độc dược phát tác, choáng váng lăn lộn. Cha từ xa về, con ở trong thành đầu óc rối loạn. Thấy các con bị bệnh, người cha xót thương. Con thấy cha về vui mừng tự nói: “Cha đã về, thật là tốt lành, an ổn. Chúng con vì nhầm tin lời người mà uống phải độc dược. Cúi xin cha cứu mạng chúng con.” Khi ấy, người cha thấy các con gặp tai nạn khổ não, lăn lộn dưới đất, liền bảo người mang thuốc đến, màu thuốc rất đẹp, mùi vị thơm ngon. Người cha pha chế các thuốc, đưa cho các con và dặn: “Hãy mau uống thứ thuốc thượng hạng, mùi vị thơm ngon này. Nếu các con uống thuốc này vào thì độc kia tiêu diệt, bệnh được khỏi ngay, thân thể an ổn, khí lực khang kiện.” Các người con không bị sự điên đảo làm rối loạn đầu óc thì thấy thuốc thơm, nếm biết mùi vị, liền uống vào, lập tức lành bệnh, độc dược tiêu trừ. Những người con tâm tánh bị bấn loạn thì chẳng chịu uống thuốc. Những người con uống thuốc lành bệnh đều nói là do cha cho thuốc nên chúng ta được lành bệnh và được an ổn. Còn những người con bị tà tưởng, không chịu uống vì khi thấy màu thuốc không ưa hương vị. Người cha nghĩ: “Nay những người con của ta ngu si không biết tâm tánh điên đảo, không chịu uống thuốc, bệnh không thuyên giảm, e rằng sẽ chết. Nay ta nên dùng quyền biến để các con uống thuốc.” Nghĩ rồi, bèn bày phương tiện, muốn khiến con mau uống thuốc, liền bảo các con: “Ta nay tuổi già sức yếu sẽ chết nay mai, các con hãy gắng dậy. Nếu ta chết đi thì nên dùng thuốc này chữa lành nhiều bệnh. Các con nên ghi nhớ, uống thuốc đúng liều lượng. Giả sử chán bệnh, muốn được an ổn thì nên uống thuốc này.” Dặn dò các con xong, người cha bỏ đi đến nước khác, giả báo là chết.

Các con nghe cha chết rồi, buồn đau khóc lóc, lo sầu không thể kể xiết: “Cha chúng ta trí tuệ thông minh, nhưng xem thường không uống thuốc nên nay đã chết, để anh em cô độc.” Họ nhớ nghĩ, âu lo, tự trách mình không làm theo lời cha dạy. Rồi họ bèn làm theo những việc cha dặn lại, xem kỹ màu sắc, hương vị của thuốc, tự mình trị liệu không dám khinh suất, liền uống thuốc vào để tiêu diệt mầm bệnh, bệnh liền thuyên giảm. Khi ấy, người cha thấy con uống thuốc, bệnh lành, liền trở về nhà.

Phật dạy:

– Này các thiện nam! Như vị thầy thuốc ấy khéo quyền phương tiện khiến các con hết bệnh thì có nên chê trách việc làm của vị ấy là không chính đáng chăng?

Các vị Bồ-tát bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, không! Bạch Bậc An Trú, không!

Phật dạy:

– Ta từ vô số trăm ngàn ức kiếp không thể tính đếm, phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, cần khổ vô cùng, luôn luôn hành phương tiện, thị hiện giáo hóa khai ngộ quần sinh. Người cha thầy thuốc ấy chính là Như Lai vậy, còn các người con ấy chính là chúng sinh sinh tử trong năm đường. Người cha đi nơi khác không có mặt dụ cho Như Lai chưa xuất hiện ở đời. Các con vào thành uống độc dược lăn lóc dụ cho chúng sinh bị ba độc buộc ràng, trôi lăn trong ba cõi, năm đường không thể tự cứu. Người cha trở về dụ cho Như Lai hành hạnh đại Từ bi, thấy chúng sinh trong ba cõi lưu chuyển trong năm đường không thể tự ra khỏi, cho nên xuất hiện ở đời rộng nói kinh pháp, khai hóa chúng sinh. Uống thuốc lành bệnh dụ cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, trụ quả bất thoái, vô sinh, hoặc đắc Thanh văn, Duyên giác không đạt cứu cánh. Xem màu sắc, hương vị của thuốc mà không uống dụ cho sáu mươi hai quan điểm rơi vào tà kiến. Người cha già để thuốc lại, dặn con rồi bỏ đi dụ cho Phật thấy chúng sinh nghi đạo giáo nên thị hiện diệt độ, lưu lại kinh pháp để giáo hóa đời sau. Bốn chúng đệ tử phúng tụng học hỏi, nghĩ công đức của Phật, phát tâm cầu đại đạo, hoặc đắc La-hán, hoặc đắc Duyên giác. Phật thấy như vậy lại xuất hiện ở thế gian. Tất cả thế gian đều là con của ta.

Các thiện nam! Như Lai hành quyền phương tiện chẳng phải là dối trá.

Khi ấy Đức Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa trên liền nói bài tụng:

Trăm ngàn ức kiếp

Không thể nghĩ bàn

Muốn biết số lượng

Cũng không biết được

Chí tôn Đại Thánh

Đắc đạo đến nay

Thường giảng thuyết kinh

Chưa từng dừng nghỉ

Khuyến khích giúp đỡ

Vô số Bồ-tát

Đều được an trú

Đạo tuệ của Phật

Vô số ức kiếp

Khai đạo chúng sinh

Trải ngàn ức kiếp

Không thể nghĩ bàn

Vì họ thị hiện

Có cảnh diệt độ

Để giáo hóa họ

Chỉ đường lợi ích

Dùng quyền phương tiện

Thị hiện diệt độ

Nên vì chúng sinh

Diễn nói kinh này

Ta đã an lập

Tất cả chúng sinh

Phân biệt cho họ

Rõ biết nghĩa ấy

Tâm họ điên đảo

Nên không hiểu biết

Muốn an lập họ

Phật bèn tuyên thuyết

Nếu gặp được Phật

Sau Ngài diệt độ

Dùng biết bao vật

Mà để cúng dường

Thấy ta diệt độ

Âu sầu lo lắng

Nếu thấy lại Phật

Mừng vui phấn chấn

Giả sử thẳng thắn

Nói lời chí thành

Này các chúng sinh

Tạm bỏ thân này

Rồi sau Như Lai

Luôn tự thị hiện

Dùng mọi âm thanh

Diễn bày Phật đạo

Người ở đời sau

Phân biệt lời này

Ta còn trong ấy

Chẳng phải diệt độ

Tỳ-kheo nên biết

Phật quyền phương tiện

Luôn luôn kham nhẫn

Hiện ra trên đời

Cùng với đồ chúng

Quyến thuộc vây quanh

Nhân đó tuyên dương

Phật đạo tôn quý

Chư hiền được nghe

Phật hiện ở đời

Làm Bậc Đạo Sư

Vào cõi tịch diệt

Quán thấy chúng sinh

Sầu lo áo não

Hoảng hốt không thấy

Tướng hảo của Ngài

Khát khao trông ngóng

Muốn được thấy Phật

Và sau đó thì

Phân biệt kinh điển

Không thể nghĩ bàn

Trăm ngàn ức kiếp

Ta thường kiến lập

Phương thức như vậy.

Phật thường đi đến

Ở núi Linh Thứu

Sàng tòa tự nhiên

Số nhiều vô lượng

Giả sử chúng sinh

Thấy thế giới ấy

Có nạn nước lửa

Thiêu hủy đất trời

Thì ngay khi ấy

Cõi Phật của ta

Đủ thứ vi diệu

Êm ả an lành

Ca múa vui chơi

Vô cùng an ổn

Giảng đường tinh xá

Phòng ốc gác lầu

Đẹp đẽ trang nghiêm

Đều bằng bảy báu

Dược thảo cây cối

Hoa quả tốt tươi

Mưa hoa tự nhiên

Hoa ấy nhiều màu

Dùng rải cúng Phật

Và chúng đệ tử

Mọi người ở nhà

Đều thấy chấn động

Có kẻ ưa thích

Phát khởi đạo tâm

Cõi nước của ta

Kiến lập thường nhiên

Người khác có thấy

Tai kiếp thiêu rụi

Thì cõi nước ấy

Lửa rất lạ thường

Do quyền phương tiện

Thị hiện như thế

Như Lai khen ngợi

Tôn pháp của Phật

Vô lượng vô biên

Hiện bày như thế

Các loài chúng sinh

Không chịu lắng nghe

Chỉ thích tạo nên

Tội khổ tai ương

Giả sử nhân dân

Nhu hòa trung thực

Khi ấy Đức Phật

Xuất hiện thế gian

Gặp được Thế Tôn

Giảng dạy kinh pháp

Mới được sáng tỏ

Nghĩa lý thanh tịnh

Phật đến vì người

Phân biệt răn dạy

Nói những sự việc

Tạo trong luân hồi

Giả sử Như Lai

Lâu mới xuất hiện

Sau đó mới vì

Thuyết giảng kinh này

Trí lực của ta

Quang minh tối thượng

Tri kiến như thế

Đâu phải mỏng bạc

Việc làm đời trước

Số kiếp vô lượng

Là do lòng Từ

Bình thản vô cầu

Người có trí tuệ

Không được hồ nghi

Vứt bỏ do dự

Chớ ôm nội kết

Những điều sẽ nêu

Chưa từng công bố

Nay Phật bảo khắp

Không nghĩa nào khác

Như vị thầy thuốc

Dùng phương tiện khéo

Mở bày phân biệt

Cho con phương thuốc

Hiện suy già chết

Nhưng thân thường tại

Dùng tiếng vi diệu

Vô thủy vô chung

Dung nạp bạn hữu

Tùy nghi sử dụng

Ở đời thuyết pháp

Trị bệnh chúng sinh

Khai dẫn kẻ ngu

Khiến lìa tăm tối

Thị hiện Niết-bàn

Thật không diệt độ

Cớ gì ân cần

Muốn được hiện rõ

Người thường mờ tối

Khiến tâm tin ưa

Do vì phóng dật

Dọa lạc ba đường

Tâm họ náo nức

Muốn được hiểu rõ

Lời của Như Lai

Thường thường biết thời

Vì các chúng sinh

Thực hành trí tuệ

Dùng phương tiện gì

Mà nói đạo pháp

Do đâu mà được

Kinh giáo của Phật.

Khi Đức Thế Tôn nói về thọ lượng ấy của Như Lai, vô số chúng sinh không thể nghĩ bàn đều đạt được ý nghĩa lợi ích của đạo giải thoát.

***

Phẩm 16: NGỰ PHƯỚC SỰ

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại sĩ Di-lặc:

– Này A-dật nên biết! Nay khi Phật nói kinh Như Lai thọ hạn này, có sáu mươi tám ức triệu trăm ngàn hằng hà sa các Bồ-tát đạt được pháp nhẫn bất khởi, hai ngàn hằng hà sa Bồ-tát Đại sĩ đều đắc tổng trì, số Bồ-tát Đại sĩ như số vi trần trong một cõi Phật đắc pháp tổng trì vô ngại biện tài; lại có ức trăm ngàn vô số Bồ-tát nhiều như vi trần của ngàn cõi Phật đắc tổng trì không thoái chuyển; lại có Bồ-tát Đại sĩ nhiều như số vi trần trong ngàn cõi Phật nghe kinh điển này, chuyển pháp luân không thoái chuyển; lại có Bồ-tát nhiều như số vi trần trong trung thiên cõi Phật chứng đắc bậc Đại Thánh vô cấu, phân biệt chuyển pháp luân; lại có số Bồ-tát nhiều như vi trần trong tiểu thiên cõi Phật nghe kinh điển này còn tám đời nữa sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân; lại có số Bồ-tát Đại sĩ nhiều như số vi trần trong bốn châu thiên hạ nghe pháp này rồi đắc Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Chánh giác; lại có số chúng sinh nhiều như số vi trần tám cõi Phật nghe kinh điển này đều phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân.

Phật vừa nói như thế, các Bồ-tát Đại sĩ liền được kiến lập. Ngay khi ấy, từ trên hư không các loại hoa trời như Ý hoa và Đại ý hoa rơi xuống lất phất như tuyết để rải cúng trên ức trăm ngàn Đức Phật ở vô số trăm ngàn thế giới vì thương tưởng mà đến đây ngồi trên tòa Sư tử dưới cây bảy báu và rải cúng Đức Đại Thánh Năng Nhân, cùng vô số chẳng thể tính đếm Đức Phật đã diệt độ và rải cúng thân Phật Đa Bảo; lại rải trên tất cả các Bồ-tát; đại địa chấn động. Lại có bốn loại chiên-đàn, tạp hương, mật hương, tất cả các thứ hương từ hư không rải xuống. Trong hư không phát tiếng sấm lớn, tiếng vang sâu lắng êm ái tự nhiên vi diệu. Có biết bao ngàn vạn anh lạc, châu báu như ngọc minh nguyệt, ngọc như ý… đều từ trên không thòng xuống như tràng phan. Vô số hương trong hư không, tự nhiên mùi hương tỏa ra. Lại có vô số trăm ngàn bảo cái tự nhiên đưa đến; tất cả bảo cái đều che trên tất cả Đức Phật, lên đến cõi Phạm thiên. Các chúng Bồ-tát ở trong hư không cầm bảo cái đứng hầu hai bên ức trăm ngàn Đức Như Lai.

Khi ấy ngài Di-lặc khen ngợi bằng bài tụng:

An trụ được nghe

Pháp chưa từng có

Trước nay chưa từng

Thấy ánh sáng này

Rộng lớn rất xa

Chẳng có giới hạn

Như điều vừa thấy

Không thể nghĩ bàn.

Ngày nay con đã

Được nghe kinh điển

Mà quán an trú

Đại Thánh Đạo Sư

Hiện phân biện thuyết

Kiến lập chúng sinh

Số trăm ngàn ức

Đặc biệt trong đời

Chuyển bất thoái luân

Trụ ở Phật đạo

Có người được lập

Nắm được bí mật

Có người được điều

Nghĩa lý vô hạn

Số trăm ngàn ức

Bí yếu tổng trì

Muốn có hạn lượng

Và tư duy được

Có chỗ kiến lập

Siêu vượt độ sinh

Có người hai đời

Hoặc còn tám đời

Sẽ đạt Phật đạo

Độ được vô lượng

Hoặc có Hữu học

Còn vượt bốn đời

Hoặc có người ba

Hay chỉ còn hai

Theo Đấng Đạo Sư

Nghe kinh điển này

Sẽ đạt Phật đạo

Rõ đệ nhất nghĩa

Có người kiến lập

Nhất sinh bổ xứ

Thành bậc thông tuệ

Dạo chơi các cõi

Nghe ngộ kinh này

Đại Thánh đã thuyết

Có người chứng quả

Không còn các lậu

Giống như vi trần

Trong tám cõi Phật

Muốn biết số lượng

Cũng giống như đây

Hoặc có số ức

Chúng sinh nghe kinh

Nghe rồi đều phát

Tâm đạo thù thắng

Thế Tôn Vô Thượng

Tạo được như thế

Phân biệt diễn thuyết

Kiến lập Chân đế

Vô lượng các thân

Chẳng tính kể được

Ví như hư không

Không có giới hạn

Chư Thiên đã rải

Vô số ức hoa

Chẳng thể tính đếm

Ngàn ức Thiên tử

Đế Thích, Phạm thiên

Như cát sông Hằng

Đều đến nơi đây

Vô số ngàn ức

Tạp hương, diệu hương

Mật hương, thượng hương

Dồn lại cúng dường

Để rải cúng Phật

Rơi thành từng hàng

Giống như chim bay

Đến cúng dường khắp

Chỗ Như Lai ngồi

Ở trên hư không

Tự nhiên sấm động

Âm vang êm diệu

Sâu lắng nhiệm mầu

Trăm ngàn ức trời

Đều cùng ca tụng

Châu báu minh nguyệt

Tư nhiên rủ xuống

Các mùi hương thơm

Tự nhiên xông tỏa

Trăm ngàn ức vạn

Bình báu bảy báu

Đầy dẫy hư không

Như chim nhạn bay

Cúng dường Đại Thánh

Là Đấng oai thần

Ức vạn bảo cái

Bảy báu trang hoàng

Chẳng thể tính đếm

Rộng lớn bao quanh

Các bậc Bồ-tát

Thân hình cao lớn

Lên đến Phạm thiên

Đẹp đẽ vi diệu

Trí tuệ thông minh

Oai quang rực rỡ

Tràng phan thêu đẹp

Cúng dường lên Phật

Ca ngợi Thánh chúng

Ngàn ức bài tụng

Trong lòng phấn chấn

Quy kính an trú

Nơi ấy nhìn xuống

Khen chưa từng có

Thấy biết bao nhiêu

Đấng Đạo Sư khác

Đều cùng thị hiện

Giới hạn thọ mạng

Chúng sinh này đây

Thảy đều hoan hỷ

Pháp âm Đạo sư

Vang dội rộng khắp

Cho đến mười phương

Chỗ nào cũng rõ

Thỏa lòng chúng sinh

Số trăm ngàn ức

Hiểu rõ ý đạo

Đầy đủ trang nghiêm.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo ngài Di-lặc:

– Người nào nghe kinh pháp Như Lai đã nói về hiện thọ mạng mà trong khoảnh khắc sinh tâm thích thú, tin tưởng thì công đức chẳng thể suy lường. Ví như thiện nam, thiện nữ muốn đắc đạo Vô thượng chánh chân thì phụng hành năm pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm trong tám trăm ngàn ức kiếp chẳng bằng thiện nam, thiện nữ nghe hạn lượng thọ mạng của Như Lai ở đây trong khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin tưởng ưa thích, chẳng hồ nghi về bao nhiêu phép tu hành đều quy về nhất đạo thì phải biết so với công đức tám trăm ngàn ức kiếp tu hành năm pháp Ba-la-mật gấp trăm, gấp ngàn, gấp vạn, gấp ức, gấp hơn vạn ức, phước ấy không thể lấy gì ví dụ được.

Phật dạy:

– Này A-dật! Thiện nam, thiện nữ nghe kinh pháp này, chỉ một khoảnh khắc phát tâm hoan hỷ tin theo thì an trụ vững chắc đạo Vô thượng Chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác.

Khi ấy Đức Phật nói tụng:

Nếu tất cả tuân theo

Hành năm Ba-la-mật

Chí mong cầu tuệ này

Lòng bảo tồn đạo cả

Dầu trăm ngàn ức kiếp

Tám kiếp đều đầy đủ

Luôn cúng dường chư Phật

Và các bậc Thanh văn

Cúng dường ngàn ức cai

Duyên giác và Bồ tát

Dâng hiến đồ ăn uống

Y phục và giường, nệm

Mền chiếu và phòng xá

Đều dùng hương chiên-đàn

Vườn cảnh luôn bằng phẳng

Để làm nơi kinh hành

Cúng dường biết bao thứ

Vô số như thế rồi

Ở trong trăm ức kiếp

Để cầu đạo Vô thượng

Lại hộ trì cấm giới

Trong sáng không vi phạm

Vì được trí tuệ Phật

Vui tin đảnh lễ Phật

Lại nữa tu nhẫn nhục

An trú chỗ điều nhu

Chí cao không oán hận

Nhẫn vô số mắng nhiếc

Dù gặp kẻ hung bạo

Ngã mạn và tự đại

Đều có thể nhẫn được

Vì để cầu Phật đạo

Thường ân cần tinh tấn

Khoan hòa tâm kiên cố

Ý nghĩ tưởng việc khác

Dạo đến ức cõi Phật

Hoặc ở chỗ thanh vắng

Muốn bỏ việc ngủ nghỉ

Người ấy tu ức kiếp

Thường tập đi kinh hành

Muốn sánh không sánh bằng

Ngàn ức kiếp thiền định

Lại thêm tám ngàn ức

Tu hành tâm chuyên nhất

Chí nguyện đạt Phật đạo

Muốn được các thông tuệ

Đủ định Ba-la-mật

Nhất tâm thiền tịch nhiên

Các phước đức đã tạo

Tụ tập dồn cả lại

Trong trăm ngàn ức kiếp

Như trước đã khen ngợi

Nếu nam tử nữ nhân

Nghe tuổi thọ của Phật

Nhất thời hoan hỷ tin

Đức ấy là hơn hết

Nên trừ bỏ do dự

Các tư tưởng chấp trước

Tin ưa nghĩa đại pháp

Phước ấy cũng như thế

Nên Bồ-tát cầu đạo

Tuân phụng qua ức kiếp

Có nghe hay chẳng nghe

Thọ mạng Phật vô lượng

Nên cúi đầu đảnh lễ

Hạng người được như thế

Đời sau, trong tương lai

Độ thoát số ức người

Như Thế Tôn Năng Nhân

Đại nhân Thích sư tử

Ngồi dưới cội Bồ-đề

Mà rống tiếng sư tử

Ta nay sở dĩ đến

Được chúng sinh cung kính

Ở tại đạo tràng Phật

Nói thọ mạng cũng thế

Người đầy đủ chí tánh

Rộng nghe và thọ trì

Pháp độ người đã nói

Thì không có hoài nghi

Phật lại bảo ngài A-dật:

– Người nào nghe nói kinh thọ mạng của Như Lai mà ở trong cõi người thọ trì, phân biệt, hiểu rõ thì người ấy được phước chẳng thể kể xiết, tức là hơn người trải bao nhiêu ức kiếp phụng hành năm pháp Ba-la-mật, hơn nữa sẽ thị hiện và phụng trì trí tuệ Phật.

Lại nữa, người nghe kinh này liền thọ trì biên chép trên tre, lụa, cúng dường, thờ phụng, rải hoa, đốt các loại hương như hương bột, hương tạp, dùng lọng lụa, tràng phan, đèn dầu mè, đèn đầu thơm, đèn đề hồ cúng dường thì phước của người này hơn phước người kia vô số, sẽ đạt đến tuệ kiến của Như Lai.

Này A-dật! Còn như thiện nam kia nếu được nghe kinh Như Lai thọ hạn này mà sinh tâm chân thật hoan hỷ tin theo thì vì tâm tánh ấy quán tướng này nên biết vị ấy đã thấy Như Lai tại núi Linh Thứu khi nói kinh này cùng các chúng Bồ-tát quyến thuộc, Thanh văn vây quanh; cũng thấy cõi Phật ở trong thế giới tam thiên đại thiên này, đất đai bằng phẳng mềm mại, màu lưu ly vàn tía, có tám lớp đường giao thông, bảy hàng cây báu, biết bao nhiêu ức nhà cửa phòng xá; các chúng Bồ-tát ở trong đó.

Này A-dật! Muốn biết tâm ý của vị kia có thường chất trực, an vui, tin tưởng thì căn cử vào hiện tượng trên mà biết được hành tướng của tâm kia đã từng thấy pháp hội của Phật. Lại Đấng Như Lai thấy hết tâm tin tưởng ưa thích của người ấy. Sau khi Như Lai diệt độ, thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh này chẳng phỉ báng mà hoan hỷ thọ trì thì được Như Lai ủng hộ. Thiện nam, thiện nữ ấy hơn người xây dựng tháp miếu thờ Phật, kiến lập tinh xá, giảng đường, hơn người chăm sóc, cấp dưỡng thuốc men, đồ cúng dường cho Tỳ-kheo tật bệnh. Vì sao? Vì người ấy cho việc kiến lập tháp miếu xây dựng chùa chiền bảy báu cao đến Phạm thiên để cúng dường hết tất cả xá-lợi là đầy đủ rồi. Chùa tháp thờ Phật mênh mông vô hạn, khắp cùng mặt đất, treo các linh báu; miếu tàng trữ xá lợi vô thượng, cúng dường hương hoa, hương tạp, hương bột tràng phan bảo cái, kỹ nhạc ca tụng và biết bao loại hương thơm khác. Các loại châu ngọc của cõi trời, cõi người, hoa trời, hương trời, kỹ nhạc trời, tiếng sấm sét trên không, âm hưởng rền vang, chung khánh, trống lớn, không hầu, nhạc khí, tiêu, cầm sắc, náo bạt rất nhiều, âm thanh êm dịu, ca múa nhịp nhàng, điều hòa vui vẻ trải qua vô số trăm ngàn ức kiếp cúng dường hầu hạ, các pháp Ba-la-mật đều viên mãn.

Sau khi Phật diệt độ, người nào được nghe kinh này mà thọ trì, đọc tụng, hoặc phân biệt diễn nói thì phước đức vô lượng hơn hẳn người tu tập thọ trì lòng từ rộng khắp, tạo lập giảng đường, tinh xá, sắm giường nằm, đồ trải đẹp đẽ mời chúng Tỳ-kheo vào ở trong đó; có vườn cảnh hoa quả, có bảo châu minh nguyệt, chỗ kinh hành, chỗ ngồi, cúng dường ăn uống, bệnh hoạn cấp thuốc thang, tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ; dưới chân giường nằm có biết bao loại báu vi diệu chói sáng đến trời Phạm thiên; phan lọng giao xen trang hoàng. Vì khuyến trợ phước nên dần dần được đầy đủ mà tội tiêu trừ, trong sáng; năm vóc tinh tấn, ở chỗ thanh vắng, tích lũy công đức, trong vô số trăm ngàn ức kiếp khen ngợi tên kinh, tất cả trang nghiêm, oai thần rạng rỡ, rộng khắp.

Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen:

Nếu dựng tháp bảy báu

Lên đến cõi Phạm thiên

Hoa hương và kỹ nhạc

Phướn lọng để cúng dường

Các giường nằm nệm trải,

Dâng thức ăn uống ngon

Bệnh tật cấp thuốc men

Giường báu có nhiều loại

Đều vi diệu trang nghiêm

Lên đến cõi Phạm thiên

Trang nghiêm khắp cõi Phật

Khuyến trợ đều đầy đủ

Chỗ vắng siêng lễ bái

Chứa nhóm nhiều ức kiếp

Mọi người đều ưa thích

Bày tối thắng vi diệu

Cúng dường đầy đủ hết

Hoa tươi sạch, tràng phan

Dùng để làm y phục

Số nhiều như sấm vang

Kỹ nhạc tiếng êm dịu

Để cúng dường xá-lợi

Thắp đèn bằng dầu hương

Phân bố để chung quanh

Chỗ người trì kinh này

Ở đời loạn, giảng pháp

Mà đầy đủ biện tài

Cúng dường nhiều như thế

Vô số ức phòng xá

Đều làm bằng chiên-đàn

Ba mươi hai giảng đường

Cao tột không gì hơn

Đều trải các tòa ngồi

Ăn uống theo ý muốn

Cúng dường thức ăn ngon

Trăm ngàn ức như thế

Vườn cảnh chỗ kinh hành

Hoa rải khắp mặt đất

Lọng che nhiều vô lượng

Tranh vẽ biết bao nhiêu

Dùng cúng dường Tăng chúng

Người trì kinh điển này

Hiện tại làm vậy rồi,

Sau khi Như Lai diệt

Nếu đọc tụng chép kính

Hoan hỷ và tin ưa

Được phước nhiều vô lượng

Vượt hơn phước nói trên

Nếu có người sao chép

Tôn trí chỗ tinh khiết

Và cúng dường quyển kinh

Bằng hương hoa xông khắp

Luôn luôn thắp đèn sáng

Đốt đỉnh bằng dầu thơm

Tỏa mùi, liền hoan hỷ

Bày biện hoa như trên

Người phụng trì kinh này

Phải cúng dường như thế

Được phước rất là nhiều

Số lượng chẳng thể tính

Giống như cõi hư không

Giới hạn không thể biết

Mười phương rộng vô lượng

Phước ấy cũng như thế

Huống gì còn lại thêm

Thường hành sự an ổn

Bằng trì giới, thiền tư

Ngồi yên nơi thanh vắng

Không sân, chẳng ác khẩu

Cung kính, quyết tư duy

Tỳ-kheo-ni thường hành

Khiêm cung chẳng tự đại

Trí tuệ như trăng sáng

Người trí hỏi chẳng sợ

Theo thứ tự phân biệt

Lòng mong mỏi thành Phật

Nếu có người như thế

Là trì kinh thù thắng

Công đức của người ấy

Chẳng thể suy lường được

Nếu thấy người như vậy

Chính đó là Pháp sư

Người trì kinh điển này

Nên phụng kính cúng dường

Giả sử có người

Dùng hoa hương trời

Dùng lọng báu trời

Để mà che phủ

Phải nên dùng đầu

Lễ lạy người ấy

Luôn tưởng nghĩ là

Như Lai tối thắng

Khi thấy người ấy

Nghĩ như thế này

Người này đang cầu

Ngồi cội Bồ-đề

Sẽ thành Chánh giác

Nên cúng dường ngay

Vì làm lợi ích

Chư Thiên nhân gian

Hoặc là đứng lại

Hoặc là ngồi yên

Hoặc đi kinh hành

Hoặc nằm trên giường

Hoặc mặc y phục

Cũng giữ đức tánh

Thường hay diễn giảng

Kinh Như Lai này.

Khi ấy có người

Đối kinh điển này

Dùng đủ mọi cách

Chỉ chỗ nhiệm mầu

Thế Tôn Đạo Sư

Đã chí thành nói

Dùng vô số báu

Cúng dường người ấy.

Như ta đã khen

Có bao nơi chốn

Vị ấy đi qua

Chính là thân Phật,

Có ở nơi ấy

Như ngồi trên tòa

Rõ biết tại chỗ

Chốn đã đi qua.

***

Phẩm 17: KHUYẾN TRỢ

Bấy giờ Đại sĩ Di-lặc bạch Phật:

– Có người nghe kinh điển đã tuyên thuyết này được phước gì?

Rồi diễn lại bằng bài kệ:

Nếu Đại Hùng diệt độ

Có người nghe kinh này

Hiểu biết liền khuyến trợ

Sẽ được những phước gì?

Khi ấy Thế Tôn bảo Di-lặc:

– Sau khi Như Lai diệt độ, có người nghe kinh này, hoặc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, quyến thuộc trai gái lớn nhỏ, nghe lời khuyến trợ, ở trong chúng hội vì người chuyển nói hoặc tại trong nhà, hoặc ở chỗ trống, hoặc nơi thanh vắng trong ấp, huyện, quận, làm những điều như dã được nghe trong kinh theo những điều đã tiếp thu được, dựa vào năng lực ấy giải nói cho người, hoặc ca ngợi, ngâm vịnh cho cha mẹ , tôn tộc nghe lời của Đại sĩ cũng tùy hỷ khen ngợi những điều có thể nghe biết, lần lượt truyền nhau. Nếu không gặp sắc mạo oai dung của Pháp sư thì người hay học thay thế khuyến trợ, vì nhân duyên ấy, nên phát khởi phương tiện khiến cho những sinh trong năm đường có năm sự ngăn che được nhìn thấy nhau. Họ đem điều nghe được khuyến hóa cho nhau nghe phước đức khuyến trợ mà ta đã nói, nghe công đức kinh pháp của Pháp sư thuyết kinh.

Này thiện nam, thiện nữ! Trải qua vô số ngàn năm, bốn châu thiên hạ, chúng sinh trong sáu đường chưa hết buộc ràng; đó là loài có sắc không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng cũng chẳng phải không tưởng, có chân, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, chư Thiên, loài người; trong đó có người muốn cầu công đức, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh này, đem những thứ tốt nhất, quý nhất của mình, đầy cả cõi Diêm-phù-đề bố thí rộng rãi cho tất cả mọi người theo ý thích của họ như nhà cửa, vàng bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, xe voi, xe ngựa, xe trâu do các báu tạo thành; trải qua vô số năm theo nhu cầu, đáp ứng đầy đủ; lại cung cấp thức ăn uống không thiếu vật gì. Giữa chừng, tự nghĩ: “(Bọn họ) tuổi già sức yếu, tâm ý mệt mỏi đâu có thể giáo hóa đưa vào Pháp luật của Như Lai được; ta phải dùng lời Phật dạy để dạy bảo chúng.” Nghĩ rồi, tiền dùng giới luật để ngăn điều sai trái, hướng dẫn bằng giáo điển. Mọi người đồng thời tìm thấy dấu đạo, chẳng còn sinh tử, không đắm sở chứng, các lậu đã hết, đầy đủ thiền định, oai thần rạng rỡ, đắc tám giải thoát, nhất tâm bất loạn.

Này A-dật, ý ông thì sao? Khi ấy phước thí mà người kia đã kiến lập có thể tư duy suy lường được chăng?

Di-lặc đáp:

– Rất nhiều, chẳng thể tính đếm! Có vậy mới có thể an ủi vô lượng chúng sinh, cung cấp đầy đủ cho sự thiếu thốn của họ, huống là còn an lập họ không đắm vào quả chửng.

Phật bảo A-dật:

– Nay ta nói rõ cho ông biết rằng, có người siêu vượt luật nghi, như người kia thiết bày việc bố thí lớn, cung cấp cho chúng sinh trong bốn châu, an lập họ không đắm quả chứng, thì đối với người nghe một câu kinh, một câu kệ ở trong kinh này, rồi khuyến trợ, vui mừng, phước nhiều hơn người bố thí nói trên; công đức khuyến trợ một câu kinh, một bài tụng không thể kể xiết, hơn trăm, hơn ngàn, hơn vạn, hơn ức, hơn ức vạn, hơn trăm ngàn ức vạn kiếp cũng không thể kể xiết, không thể thí dụ, huống là tự mắt thấy tai nghe và tùy hỷ kinh điển này thì phước đức khó bì kịp. Giả sử có người muốn nghe kinh này hoặc vào chốn tinh xá, hoặc vào huyện ấp, hoặc đứng hay ngồi, thoáng chốc được nghe kinh pháp này, hoặc được nghe lại, mà tức thời chuyên cần tinh tấn thì ngay đời hiện tại được phước đức, thường được vô số trân bảo tự nhiên, cung điện, tinh xá, giường chõng, tọa cụ, voi, ngựa, xe cộ, an nhàn vô cùng; động tác lúc thuyết kinh hoặc đứng hoặc ngồi hoặc dừng nghỉ, Thiên vương đều đến ủng hộ, chẳng gặp hoạn nạn. Đế Thích, Phạm thiên, bốn Thiên vương, hộ vệ hai bên; Chuyển luân thánh vương hầu gần tòa Sư tử.

Nếu có thiện nam xướng lên rằng: “Có kinh tên là Chánh Pháp Hoa, xứng đáng tôn kính phụng thờ, hãy cùng nhau nghe và thọ trì!”, rồi cùng hỏi ý nhau, hoặc có người thỉnh về để bụi bám, lười biếng chẳng hành, nhưng nếu có người lắng nghe được trong chốc lát hiểu rõ tội phước, thiện ác báo ứng, liền được gốc đức, sẽ đạt tổng trì, đời đời cùng theo các Bồ-tát, thọ sinh bất cứ nơi nào cũng thông minh trí tuệ, trăm ngàn ức kiếp thân thường thơm sạch, không đọa đường ác, chẳng gặp giặc cướp, đao binh, không có tà tâm, sinh vào nhà hiền thiện, sắc diện sáng nhuận, ai thấy cũng hoan hỷ, cũng đều mến ưa, chẳng mù, chẳng điếc, mũi chẳng cong vẹo, cũng chẳng tẹt gãy, chẳng câm, chẳng ngọng, chẳng hói, chẳng què, chẳng bị lậu, chẳng nghiện, chẳng ngu, chẳng si, chẳng lùn, chẳng cao, chẳng yếu, chẳng mạnh, chẳng trắng, chẳng đen, mặt chẳng vàng chẳng nhăn; thân thể hoàn toàn đẹp đẽ, đoan chánh như hoa đào, ai cũng kính mến; tâm tánh hiền từ, miệng nói trôi chảy, mau đạt thiền định, giáo pháp Như Lai; muốn thấy chư Phật, liền như sở nguyện được thấy Thế Tôn Chánh Giác, nên học kinh này.

Phật dạy:

– Này A-dật! Nếu quán xét phước đức của người ấy thì với người chỉ một lần nghe danh mà khuyến trợ tùy hỷ còn được phước đức như thế, huống là người chuyên cần tinh tấn lắng nghe thọ trì, tư duy, cúng dường rồi lại vì người tuyên thuyết đầy đủ.

Bây giờ Thế Tôn nói tụng khen:

Sau này có người

Nếu gặp kinh này

Giả sử nói được

Chỉ một bài tụng

Lắng nghe hiểu nghĩa

Tâm ưa khuyến trợ

Công đức người ấy

Chẳng thể hạn lượng

Nếu có người nào

Một mình bố thí

Thường cho chúng sinh

Của nhiều vô số

Như Phật vừa rồi

Đã dẫn thí dụ

Khiến vô số kiếp

Đều được no đủ

Khi người ấy thấy

Mặt họ biến đổi

Đầu bạc răng rụng

Già nua lụm khụm

Nghĩ chúng sinh này

Chết sắp đến gần

Ta muốn giáo hóa

Khiến vào đạo pháp

Cuối cùng người ấy

Dùng pháp giáo hóa

Phân biệt diễn nói

Cảnh giới vô vi

Tất cả năm đường

Giống như cây chuối

Khiến mau thành tựu

Cảnh giới diệt độ

Tất cả mọi người

Nghe kinh đều thọ

Đã theo người này

Gần gũi thưa hỏi

Chế phục tâm mình

Khiến đều vô lậu

Chỉ trong khoảnh khắc

Được chứng vô trước.

Nếu nghe một kệ

Thay nhau khuyến trợ

Công đức đạt được

Hơn bố thí kia

Số nhiều vô lượng

Công đức phân biệt

Chỉ một bài tụng

Khó kể khó lường

Bỗng dưng được nghe

Giảng một bài tụng

Công đức vô cùng

Chẳng thể hạn lượng

Người ấy được phước

Vô số như thế

Huống là hiện tại

Tự mình thưa hỏi

Giả sử có người

Đi đến chúng hội

Một lần nghe kinh

Vui mừng phấn chấn

Từ các trăm ngàn

Ức ngàn số kiếp

Pháp ấy khó gặp

Cũng khó hiểu rõ

Nếu nay có người

Được như người kia

Khoảnh khắc được nghe

Quyển kinh điển này

Đã được nghe rồi

Quả báo đạt được

Sinh ở nơi nào

Không có bệnh nặng

Đời đời sinh ra

Lưỡi không có tật

Răng thì cứng chắc

Chưa từng rụng gãy.

Khi sinh an ổn

Không các nguy hại

Tà ma ngăn ngại

Cha mẹ hiền lành

Việc làm thuận lợi

Mạng sống dài lâu

Không bị đui mù

Mắt cũng chẳng mờ

Mũi tai đẹp đẽ

Không có khuyết tật

Môi lưỡi đỏ tươi

Luôn luôn sạch sẽ

Thường được mọi người

Yêu mến kính trọng

Hơi miệng thơm tho

Không mùi xú uế

Thân thể luôn luôn

Như hoa sen xanh

Mùi thơm lan tỏa

Không đâu chẳng nghe

Nếu ở trong nhà

Đi đến tinh xá

Hoặc đến nơi nào

Được nghe kinh này

Trong khoảng chốc lát

Hay được nghe lại

Mừng vui tột độ

Liền lãnh thọ được

Thân thể người ấy

Sẽ được an ổn

Xe ngựa đẹp đẽ

Dùng để cung nghinh

Hoặc lại cưỡi lên

Xe voi hiền thiện

Du hành trong xứ

Bao nhiêu vật báu

Thường được hiến dâng

Anh lạc thượng diệu

Số trăm ngàn người

Đều cùng phát tâm

Đi đến chỗ ấy

Nơi có thuyết pháp

Liền vì họ thuyết

Giảng dạy thanh tịnh

Vì pháp thanh tịnh

Tạo dựng trong sáng

Có được giường tòa

Thiên đế, Phạm thiên

Nhanh chóng ngự tọa

Chuyển pháp luân vương

Ở lâu trong chúng

Phô diễn nghĩa kinh

***

Phẩm 18: KHEN PHÁP SƯ

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại sĩ Thường Ứng Thời:

– Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ được mười công đức về nhãn căn, tám trăm danh xưng, một ngàn hai trăm về nhĩ căn, một ngàn hai trăm về tỹ căn, một ngàn hai trăm về thiệt căn, một ngàn hai trăm về thân hành, một ngàn hai trăm về ý tịnh; đó là vô số trăm ngàn công đức, có thể nghiêm tịnh công đức sáu căn.

Người ấy nếu được nhãn căn thanh tịnh thì dùng nhục nhãn thấy vật hiện có khắp cả tam thiên đại thiên thế giới; các vị ngọt trong trong cây rừng, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến cõi trời Ba mươi ba; thấy khắp tất cả và có thể nhiếp thủ hết nên gọi là nhục nhãn. Tất cả chúng sinh hiện có trong đó, đều thấy hết và biết rõ tội phước, chỗ hướng đến của họ.

Khi ấy Thế Tôn dùng kệ khen:

Người thọ trì kinh này

Dũng mãnh ở trong chúng

Tuyên thuyết chẳng khiếp sợ

Chỉ nghe danh đức này

Tám trăm các danh xưng

Mắt thanh tịnh trong sáng

Nêu đã lìa các cấu

Mắt ấy thấy biết khắp

Người kia dùng nhục nhãn

Do từ cha mẹ sinh

Thấy thế giới chư Phật

Thấy khắp vượt Thần tiên

Các núi, núi Tu-di

Lại thấy cả Thiết vi

Và các gò đống khác

Lại xem thấy biển lớn

Yên lặng ngồi một chỗ

Chỗ nào cũng thấy hết

Dưới đến ngục Vô khả

Nhục nhãn được như thế.

Nếu chưa được Thiên nhãn

Cũng chẳng thấy biết rõ

Cảnh giới của nhục nhãn

Căn và thức nhẹ nhàng

Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời:

– Thiện nam, thiện nữ nào nói kinh điển này, hoặc nói cho hàng Thanh văn thừa và chủng loại khác thì đạt được một ngàn hai trăm danh xưng về tai, nghe khắp tam thiên đại thiên thế giới, dưới đến đại địa ngục Vô khả, trên đến trời ba mươi ba, vượt hơn Thần tiên, đó là nghe tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trâu, tiếng kỹ nhạc, tiếng xe, tiếng kêu khóc, tiếng sầu than, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng ca, tiếng múa, tiếng cười giỡn, tiếng nam, tiếng nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ, tiếng gió, tiếng kỳ diệu, tiếng chánh pháp, tiếng phi pháp, tiếng vui, tiếng khổ, tiếng sức lực, tiếng tánh tình, tiếng nhu, tiếng thô, tiếng Trời, tiếng Rồng, và các thử tiếng Quỷ thần, Kiền-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng trong đất, tiếng Tỳ-kheo, tiếng Thanh văn, tiếng Bồ-tát, tiếng Như Lai; các loại âm thanh có trong tam thiên đại thiên thế giới, trong ngoài thông suốt, tất cả thanh tịnh; dùng nhục nhĩ căn nghe hết tiếng nói của chúng sinh; chưa đắc Thiên nhĩ mà nghe hết, hiểu rõ ngọn ngành các tiếng, cũng chẳng tư duy quán sát gốc gác của chúng sinh mà lại nghe hết, cũng chẳng tìm cầu tất cả âm thanh mà lại nghe rõ ràng êm xuôi như thế. Bồ-tát Đại sĩ Thường Ứng Thời chưa đắc Thiên nhĩ mà tai thường nghe được như vậy.

Phật nói như vậy xong, muốn giải thích lại ý nghĩa trên nên nói tụng:

Nhĩ căn thanh tịnh

Trong sạch gồm thâu

Biết bao nhiêu loại

Có ngàn hai trăm

Ở trong thế giới

Thảy đều nghe biết

Nghe âm thanh ấy

Không sót tiếng nào

Tiếng của sáu loài

Cũng đều nghe được

Tiếng của các thừa

Xe, trâu, voi, ngựa

Vỗ tay đánh trống.

Âm nhạc buồn vui

Gõ nhịp chiêng bạt

Cũng lại như thế

Kỹ nhạc êm dịu

Âm thanh tuyệt vời

Tuy ở bên chúng

Nhưng không nhiễm trước

Nghe vô số điều

Những người giảng thuyết

Người ấy so sánh.

Ưa thích phân biệt

Nghe tiếng chư Thiên

Thường nghe được tiếng

Thiên nhĩ nghe được

Tiếng nam tiếng nữ

Êm ái ngọt ngào

Các tiếng kêu khóc

Việc làm của các

Đồng nam đồng nữ

Tiếng chim loan buồn

Tiêng quạ, chim thư

Giao tinh, uyên ương

Cùng chim anh vũ

Nếu cất tiếng kêu

Người ở sơn lâm

Đều được nghe hết

Loại âm thanh này

Đớn đau khổ sở

Kêu gào thảm thiết

Tàn khốc đắng cay

Ở trong địa ngục

Mong muốn uống ăn

Van xin cầu khẩn

Bộc khởi mạnh mẽ

Phát ra thành tiếng

Các A-tu-la

Sống ở tại biển

Âm thanh thông suốt

Mỗi tiếng khác nhau

Khi ấy Pháp sư

Trụ tại một chỗ

Bất cứ tiếng nào

Thảy đều nghe biết

Tiếng kêu đói khát

Của loài ngạ quỷ

Mỗi tiếng phát ra

Hoặc kêu hoặc rống

Khi ấy Pháp sư

Đứng im tại chỗ

Cũng nghe biết được

Bao nhiêu thứ tiếng

Tiếng của chư Thiên

Trên cõi trời Phạm

Trên trời Quang âm

Trời Thiện cứu cánh

Và các âm thanh

Kỳ đặc lạ khác

Pháp sư đều nghe

Biết hết tất cả

Có người ở đời

Bỏ tục xuất gia

Làm chúng Tỳ-kheo

Hành trì phúng tụng

Phân biệt giảng thuyết

Tâm trí người ấy

Pháp sư nghe biết

Kinh đã thuyết này

Các chúng Bồ-tát

Ở cảnh giới mình

Có thể phúng tụng

Vì người tuyên thuyết

Kết tập ý nghĩa

Để thành kinh điển

Thảy đều nghe hết

Bao nhiêu âm thanh

Của Phật Thế Tôn

Vì người thuyết pháp

Vì các chúng sinh

Thuyết kinh vô số

Một mình dưới cây

Đều nghe được hết

Do Bồ-tát ấy

Thường trì kinh này

Vô số chúng sinh

Trong quốc độ Phật

Ở tam thiên giới

Âm thanh vang vọng

Hoặc ở trong nhà

Hoặc ở bên ngoài

Lời nói thô tế

Thảy đều thâu nhận

Nghe hết tất cả

Các loại âm thanh

Của loài chúng sinh

Cũng không chấp trước

Mọi nơi mọi người

Biểu lộ, sâu kín

Với tai thanh tịnh

Đều thấu rõ hết

Người này còn chưa

Đắc Thiên nhĩ thông

Vừa gặp nhân duyên

Liền nghe được ngay

Công đức Pháp sư

Khi ấy như thế

Do học kinh này

Nên được như vậy.

Phật lại bảo Bồ-tát Thường Ứng Thời:

– Nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì phân biệt, diễn nói, đọc tụng, hoặc sao chép kinh này trên tre lụa thì được tám trăm công đức, các căn kiên cố, tỹ căn thanh tịnh. Vì vậy, các mùi hương trong tam thiên đại thiên thế giới, tỹ căn đều nghe được hết, như mùi hương êm dịu, hương tu mạn, hương sinh, hương truyền sức tu, hương hoa tư di, các loại hương hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng và bao nhiêu loại hương của cây cỏ hoa trái tỏa xông, như là hương tô hiệp, hương hoa, hương chiên-đàn, hương cây mật, hương cây mộc xanh, đủ các loại hương, trăm ngàn thứ hương đặc biệt có ở mọi nơi, hương các cây chất phác hương nam, nữ đồng nam, đồng nữ đều tự nghe; hương xoa nơi thân, hương của voi, ngựa, lục súc, chim bay, thú chạy, hương các thứ cây cỏ, hương của các loại hàm huyết ở trong rừng cây, hương của các yêu mị, hương chí thành, hương thiên thượng, hương tỷ đà mỹ, hương cây trú đạt, hương ý, hương đại ý, hương nhu nhuyễn, hương chư Thiên, hương Thiên cung, biết mùi hương thân Đế Thích phát ra từ đâu, ở nơi giảng đường khí đánh trống đờn ca, hay ở chỗ tu chỉnh thiết lập các pháp tắc quan trọng, hoặc khi thuyết pháp cho chư Thiên Đao-lợi, các mùi hương tự nhiên từ đất phát ra, mùi hương của ngọc nữ trời Lợi-nghị ca hát nô đùa, mùi hương của đồng nam, đồng nữ. Do nhân duyên ấy, giả sử mùi hương sinh ra từ thân của các Thiên tử cõi Phạm thiên, chư đại Thiên tử cõi Đại phạm, mùi hương ấy có tên khác nhau, mùi hương của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Đại sĩ, Như Lai ở nơi du cư khai hóa, vị Pháp sư ấy ở tại một nơi cách đó rất xa, chẳng đến ngay đó, cũng chẳng gần bên, chẳng đi đến ngửi mà vẫn nghe được hết các mùi hương ấy, nhưng chẳng thích, chẳng cầu, cũng chẳng nhớ nghĩ, cũng chẳng xông hương, nhưng ngửi biết mùi, trụ tâm chuyên nhất, ở tại chúng hội mà phân biệt nói các mùi hương như vậy, tâm cũng chẳng đắm trước, không ưa thích mong cầu.

Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi:

Tỹ căn người ấy

Thanh tịnh như vậy

Biết bao loại hương

Nghe được rất nhiều

Khi ấy thế giới

Tất cả nơi chốn

Chỗ có thể sinh

Loại hương rất tốt

Lại có các hình

Như hương hoa trồng

Chiên-đàn các hương

Đủ loại khác nhau

Các hương báu ấy

Phẩm loại đều khác

Xông hương ngào ngạt

Các hương nhựa cây

Nam tử, nữ nhân

Đồng tử, đồng nữ

Người ấy tại chỗ

Biết loại khác nhau

Các hương hơn kém

Sinh ở nhân gian

Trồng tại nơi nào

Xanh nhạt lẫn lộn

Lại biết trong nước

Chuyển luân thánh vương

Mềm mỏng nhân từ

Dũng lực ra sao

Và tên lụa là

Ở trong nước ấy

Các hương khác nhau

Đều phân biệt được

Của cải châu báu

Nhiều đến bao nhiêu

Tàng trữ cất giấu

Ở nơi chốn nào

Có ngọc nữ báu

Và trân bảo khác.

Khi ấy Bồ-tát

Biết rõ mùi hương

Anh lạc hiện có

Đeo ở nơi thân

Vòng ngọc trang sức

Y phục đẹp đẽ

Hoặc ngồi tại tòa.

Hoặc nằm trên giường

Dùng hương xoa thân

Bồ-tát đều biết

Ca giỡn vui chơi

Tất cả thần túc

Kẻ trí sáng suốt

Mũi đều nghe được

Hoặc có phụng trì

Lời kinh này dạy

Dùng loại hương thơm

Và hương dầu mè

Bao nhiêu chủng loại

Hương hoa báu khác

An trú tại chỗ

Đều nghe biết được

Xuất xứ nơi nào

Có loại hương này

Có thể phân biệt

Cùng các loại hương

Hiện có ở tại

Trong chốn núi rừng

Vô số chủng loại

Hương hoa chiên-đàn

Và các loại hương

Ở trong dân chúng

Ở tại một nơi

Biết được tất cả

Hoặc loại ưa thích

Của Chuyển luân vương

Hoặc giấu chỗ kín

Ở trong biển cả

Hoặc giấu trong đất

Chỗ sinh kiến trùng

Người trí đều rành

Các loại hương ấy

Biết A-tu-la

Trai gái, vợ con

Và các thần dân

Đều phân biệt biết

Vua A-tu-la

Ca múa vui chơi

Mũi đều nghe được

Quả báo như thế

Hoặc ớ đồng trống

Hoặc ngã tư đường

Có nhiều sư tử

Cọp, sói, rồng, voi

Trâu và quyến thuộc

Đủ các chủng loại

Trâu đực trâu cái

Đều có thể biết

Hoặc có nữ nhân

Tùy sự ưa thích

Hoặc ưa con trai

Hoặc thích con gái

Khi đã mang thai

Thân thể mệt mỏi

Do hương biết được

Nam, nữ trong bụng

Lại tự biết rõ

Thân từ đâu đến

Và cũng hiểu rõ

Ý nghĩa nhân duyên

Gặp gỡ người này

An ổn, khổ, vui

Sức khỏe đồng nam

Phước sẽ có được

Ước muốn nam, nữ

Thảy đều biết hết

Lại nghe riêng biệt

Từng loại hương nguyện

Tùy theo ý thích

Như vậy vô tận

Lại nghe riêng biệt

Hương thân vắng lặng

Ở tại nơi nào

Kho tàng trong đất

Của cải châu báu.

Đủ loại kim ngân

San hô nhu nhuyến

Hình như vàng tía

Ở yên một chỗ

Nghe đều biết hết

Các chuỗi anh lạc

Châu báu minh nguyệt

Thế gian hiện có

Người thường chẳng biết

Dùng mũi nghe mùi

Biết được tốt xấu

Tới lui tiến dừng

Biết rõ thiện ác

Chư Thiên trên trời

Hoa ý các hoa

Hoa âm nhu nhuyễn

Có các loại hoa

Nhóm tụ nhiều thứ

Ở trong hư không

Dùng sức của mũi

Ở đây nghe hết

Các Thiên nhân ấy

Có các cung điện

Các cung bậc thượng,

Bậc hạ, bậc trung

Đủ các phẩm loại.

Đúng như hình dáng

Đứng ở nơi đây

Dùng mũi nghe biết

Cũng phân biệt được

Cảnh vườn dạo chơi

Pháp của chư Thiên

Trong sáng vắng lặng

Cũng lại thấu hiểu

Cung điện tôn nghiêm

Của các Thiên tử

Kiến lập ở nơi

Vui chơi du hý

Đều nghe mùi hương

Do hương phân biệt

Các nhóm Thiên tử

Trụ ở pháp nào

Làm những việc gì

Ngay tại chỗ ở

Nghe hương đều biết.

Ngọc nữ chư Thiên

Chứa các hoa quả

Các anh lạc báu

Chung quanh để chơi.

Khi ấy Bồ-tát

Biết hết mùi hương

Trời Ba mươi ba

Đến trời đệ nhất

Các trời Đại phạm

Cung điện của họ

Dùng mũi nghe mùi

Đều có thể biết.

Trụ rồi hoại diệt

Có thể biết rõ

Các chỗ xa gần

Cũng đều thông suốt,

Chết rồi sinh lại

Cuộc sống đời trước

Dùng mũi nghe mùi

Biết rõ gốc ngọn.

Nếu có Bồ-tát

Trì kinh điển này

Hoặc có Tỳ-kheo

Thuận theo thỉnh giáo

Thường tu tinh tấn

Chỗ vắng kinh hành

Hoặc đã chí thành

Phúng tụng giảng thuyết

Thì Bồ-tát ấy

Thảy đều biết hết.

Cũng biết Thanh văn

Những người tối thắng

Thường ở dưới cây

Đơn độc một mình

Bậc sáng suốt ấy

Nương mùi biết được,

Có Tỳ-kheo nào

Ở bất cứ đâu

Có thể phân biệt

Biết ngay chỗ ấy.

Có Bồ-tát nào

Vững tâm thiền định

Thường tự ưa thích

Phúng tụng giảng thuyết

Lại vì người khác

Diễn giải giáo pháp.

Khi ấy Bồ-tát

Nghe hương biết được

Đại nhân an trú

Ở nơi chốn nào,

Thương xót hành từ

Phân biệt thuyết pháp

Ngay tai chỗ ngồi

Đệ tử vây quanh.

Nghe hương biết rõ

Chỗ của Pháp vương

Giả sử chúng sinh

Được nghe kinh pháp,

Đã được thọ trì

Tâm ý phấn khởi.

Khi ấy Bồ-tát

Ở đây cũng thấy

Thế lực Bồ-tát

An trú chúng hội,

Ở tất cả nơi

Hiện tượng như thế

Còn chưa đạt được

Mũi của trời người,

Tự nhiên được vậy

Điều này ứng với

Mũi của chư Thiên

Không có các lậu.

Phật dạy:

– Này thiện nam! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép kinh điển này thì sẽ đạt được một ngàn hai trăm công đức kỳ lạ về thiệt căn, thiệt căn phân biệt đầy đủ các mùi vị. Nếu có món ăn ngon, thì biến thành món ăn tự nhiên ở cõi trời. Nếu ăn món thô nhám mặn đắng thì sẽ hóa thành cỗ tiệc cõi trời, mùi vị tuyệt diệu. Nếu vào chúng hội giảng truyền pháp yếu thì mọi người hân hoan, kính ngưỡng kinh pháp. Nếu vào chỗ tranh chấp giận dữ, dùng ngôn ngữ đạo đức mềm mỏng, biện luận phân giải rõ ràng mọi khúc mắc; với lòng thương yêu thông cảm, thì mọi người sẽ hoan hỷ hòa thuận, cảm hóa những âm thanh khác.

Người ấy đã nghe kinh mà ngôn luận mỹ diệu, trời, người đi đến; Thích, Phạm, Tứ vương và trời Thanh tịnh, ngọc nữ chư Thiên mong được diện kiến; Thiên tử, Rồng, Thần và phu nhân của Rồng, Thần, A-tu-la và phu nhân của A-tu-la, Ca-lưu-la và phu nhân của Ca-lưu-la, Chân-đa-la và phu nhân của Chân-đa-la, Ma-hưu-lặc và phu nhân của Ma-hưu-lặc, Kiền-đạp-hòa và phu nhân của Kiền-đạp-hòa, nữ quỷ thần Duyệt-xoa, nữ quỷ thần Tỷ-da Phản Túc đều muốn đến chiêm ngưỡng, đảnh lễ, thăm hỏi, thọ trì kinh giới và quy y; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, thiện nữ, quốc vương, thái tử, đại thần, quan chức, người quyền quý giàu sang, Chuyển luân thánh đế uy phong lẫm liệt, bảy báu sung mãn; thái tử, quyến thuộc, vương phi, thể nữ và các Phạm chí, hiền nhân, cư sĩ ở châu thành, quận huyện, xóm làng, dinh thự đều muốn đi đến chiêm ngưỡng, mong trọn đời lễ bái quy y, cúng dường hầu cận, nghe thọ kinh pháp; lời dạy trong sáng hiền hòa như Thế Tôn Như Lai đã khen ngợi, đã tiếp xúc tư duy quan sát và đạt được cốt lõi sâu xa của trí tuệ Phật, tự nhiên nghe và được thấu đạt như thế; lại biết Đức Thế Tôn khi thuyết pháp xoay mặt về đâu.

Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen ngợi:

Thiệt căn người ấy

Thật là mềm mại

Phân biệt các vị

Chọn lựa ngon dở

Ngon lành tự nhiên

Như món ăn trời

Bao nhiêu mùi vị,

Lần lượt phát sinh

Âm thanh thù diệu

Ngôn ngữ hòa nhã

Nghe thật kỳ lạ

Hoan hỷ vui mừng

Ở trong chúng hội

Ai cũng khâm kính

Lại sẽ diễn nói

Âm thanh thâm áo

Có người nghe được

Kinh điển đã nói

Nhận thấy báo ứng

Vô cùng thanh tịnh

Liền sinh hoan hỷ

Hiểu rõ tôn kính

Cúng dường kinh điển

Chẳng thể kể xiết

Các trời, rồng, thần

Thần A-tu-la

Luôn luôn kính phục

Muốn được nhìn thấy

Lễ bái cung kính

Thưa hỏi kinh điển

Danh đức người ấy

Đạt đến như thế

Ở thế giới này

Trong khoảnh phát ý

Đều dùng âm thanh

Loan báo khắp cả

Tiếng ấy nhu nhuyến

Vi diệu thù đặc

Thâm thúy nho nhã

Lại có âm tiết

Các bậc hào quý

Chuyển luân thánh vương

Hoàng hậu vương nữ

Muốn được đến nơi

Để mà cúng dường

Thảy đều chắp tay

Từ đầu đến cuối

Lắng nghe kinh điển

Thiên thần các nơi

Hoàn toàn tôn trọng.

Các Kiền-đạp-hòa

Và các tùy tùng

Nữ quỷ Phản Túc

Cùng các nam nữ

Thảy đều cung kính

Đều đến hầu hạ.

Vua trời Phạm thiên

Tự tại tôn quý

Trời đại thần diệu

Và các Thiên tử

Đế Thích, Phạm thiên

Tập thể Thiên tử

Vô số ngọc nữ

Đến chỗ vị ấy.

Thế gian có Phật

Đạo sư sáng suốt

Đệ tử Thanh văn

Nghe tiếng êm dịu

Hiện đến tại chỗ

Mặc nhiên hộ trì

Xét pháp đã giảng

Thảy đều vui mừng.

Phật dạy:

– Này thiện nam! Bồ-tát Đại sĩ nếu nghe kinh này rồi thọ trì, đọc tụng, sao chép thì đạt được tám trăm công đức về thân: Màu da tươi sáng, âm giọng hùng dũng, giống như lưu ly trong sáng không bẩn, phàm làm việc gì, mọi người đều khâm phục bắt chước, dung mạo và cử chỉ đáng kính, hành xử tinh tế, không phân biệt ta người, chúng sinh trong thế giới tam thiên đại thiên đều cúi đầu đảnh lễ. Quần sinh tốt xấu, sắc tươi sắc héo, cõi tốt cõi xấu, Thiết vi, Đại thiết vi, núi nhỏ, núi lớn, chỗ có người ở, dưới đến trong đại địa ngục Vô khả, cho đến trời Ba mươi ba ở khắp cõi nước của Phật, tự dung oai đức thấy khắp tất cả.

Tại thế giới này, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Như Lai giảng thuyết kinh pháp ở bất cứ đâu đùng oai quang của mình, thảy đều thấy rõ. Vì sao? Vì thân thanh tịnh nên đạt đến như vậy.

Khi ấy Thế Tôn nói kệ khen:

Thân của người ấy

Đã thanh tịnh rồi

Ví như lưu ly

Không có tỳ vết,

Được tất cả người

Nhìn thấy kính mến

Người ấy đã trì

Kinh vi diệu ấy.

Giống như gương sáng

Soi thấy mặt mình

Thấy cả vạn vật

Cũng giống như thế,

Tự thấy gốc ngọn

Và thấy người khác

Thân ấy thanh tịnh

Như núi Tu-di.

Ở thế giới này

Có bao chúng sinh

Chư Thiên, nhân dân

Thần A-tu-la

Địa ngục, ngạ quỷ

Và các súc sinh

Đều thấy thân hình

Cùng với dung nhan

Cung điện phòng quán

Của hàng chư Thiên

Núi đất, núi đá

Và các Thiết vi

Tuyết sơn, Tu-di

Cùng các núi lớn

Thảy đều thấy hết.

Chúng ở nơi nào

Dùng đại oai thần

Xem thấy chư Phật

Tất cả Thanh văn

Và các đệ tử

Hoặc có Bồ-tát

Ở chỗ vắng lặng

Tuyên thuyết kinh pháp

Có thể biết hết.

Thân thanh tịnh ấy

Cũng lại như vậy

Thảy đều thấy hết

Tất cả thế gian.

Dùng thân thế tục

Biết rõ như thế

Người này còn chưa

Đạt thành Thánh đạo.

Phật dạy:

– Này thiện nam! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ-tát Đại sĩ thọ trì, đọc tụng, giải nói kinh này thì sẽ được một ngàn hai trăm công đức thanh tịnh về ý căn.

Người ấy dùng ý căn thanh tịnh thấu suốt tất cả, chỉ nghe một bài tụng mà thấu suốt ý nghĩa rốt ráo sâu rộng, rồi dùng sự hiểu biết sâu rộng đó, có thể giảng kinh pháp một tháng, bốn tháng, cho đến trải qua một năm, sự tích lũy, ghi nhớ chẳng quên. Các âm thanh trao đổi giá cả trong việc mua bán của phàm tục, nhờ pháp đều thấy, phân biệt thứ lớp, chẳng mất đầu mối; biết tâm niệm thiện ác là đúng hay chẳng đúng của sáu loại chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới, trong đó Sa-môn là Thánh hay chẳng phải là Thánh đều thấy hết, tâm ý thanh tịnh, chẳng cần tư duy, tự nhiên phân biệt giảng thuyết ý nghĩa của pháp, lời lẽ chí thành; có giảng nói cũng đều nương vào lời nói trong kinh điển tối thắng mà xưa kia Đức Như Lai đã dạy, đã phân tích rõ cả.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng khen:

Ý căn người ấy

Thanh tịnh trong sạch

Chiếu suốt tươi sáng

Thấy rõ tâm niệm.

Vì lý do đó

Hiếu biết bao thứ

Tỳ vết, ti tiện

Tốt xấu trung bình,

Nếu nghe một tụng

Thường hay phụng trì

Hiểu được vô số

Nghĩa lý sâu xa,

Nói một, bốn tháng

Hoặc đến một năm

Việc thiện và ác

Hết sức chí thành.

Ở thế giới này

Khắp cả trong đó

Nếu có chúng sinh

Đủ các hạng loại

Chư Thiên nhân dân

Và A-tu-la

Các loại thần khác

Cùng các súc sinh

Ở trong sáu đường

Có các chúng sinh

Bọn họ tư tưởng

Biết bao tâm niệm

Người trì kinh này

Trong khoảng giây lát

Đều thấy biết hết.

Tâm ý khác nhau

Chư Phật Đại Thánh

Tướng trăm công đức

Tất cả đều vì

Thế gian thuyết pháp

Khi đến chỗ giảng

Tất cả đều nghe

Lời giảng thanh tịnh,

Tức thời thọ tụng

Đời trước đã từng

Học kinh điển này

Từ lâu giảng giải,

Tháo tung gút mắc

Luôn luôn diễn giải

Cốt lõi kinh điển

Ở trong hội chúng

Không hề sợ hãi.

Người trì kinh này

Các căn tươi sáng

Hoàn toàn chẳng gặp

Các họa tâm thần,

Bạn bè giao du

Đều là hiền lành

Ý căn thông đạt

Cũng giống như thế

Bồ-tát chưa từng

Trụ ở chỗ nào

Vì khắp chúng sinh

Phân biệt thuyết kinh.

Người thường thọ trì

An trú chánh pháp

Tùy nghi phương tiện

Biết chỗ thích ứng.

***

Phẩm 19: THƯỜNG BỊ KHINH MẠN

Khi ấy Phật bảo Bồ-tát Đắc Đại Thế:

– Vì vậy nên biết, có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ nào trì kinh điển này, giả sử bị bốn bộ chúng mạ lỵ mắng nhiếc, phát ra lời thô tục quở trách, cấm chỉ thì tội ấy chẳng thể lường, lại nếu có người nghe kinh này, rồi thọ trì đọc tụng, giảng giải rộng rãi ý nghĩa cho người khác thì đạt được phước thượng diệu. So sánh như thế Phật đã khen ngợi nhãn, nhĩ, tỹ, khẩu, thân, ý thanh tịnh, không chướng ngại.

Lại bảo với Đắc Đại Thế:

– Từ thời xa xưa, cách đây rất lâu, rất lâu không thể tính đếm, chẳng thể nghĩ bàn số kiếp, có Phật hiệu là Tịch Thú Âm Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Kiếp tên là Ly đại tài, thế giới tên Đại trụ.

Phật dạy:

– Này Đắc Đại Thế! Như Lai Tịch Thú Âm Vương giảng kinh hóa đạo cho khắp cõi trời, người, giảng bốn Thánh đế cho hang Thanh văn thừa, làm cho họ vượt già bệnh chết, đến gần Nê-hoàn, giảng giải cội nguồn sính khởi của mười hai nhân duyên, giảng sáu pháp Ba-la-mật cho các Bồ-tát, làm cho họ đạt đạo Vô thượng chánh chân, biểu hiện sở hành liên tục của trí tuệ Như Lai. Phật thọ bốn hằng ha sa trăm ngàn ức cai kiếp. Sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của một cõi Diêm-phù-đề; tượng pháp tồn tại trăm ngàn ức kiếp như số vi trần của bốn châu thiên hạ.

Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Sau thời kỳ tượng pháp của Phật ấy diệt hết lại có Phật kế tiếp hiệu là Tịch Thú Âm Vương, rồi lần lượt có hai mươi ức ngàn Đức Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư tiếp nối nhau. Khi ấy các Đức Phật này lần lượt diệt độ. Chánh pháp diệt rồi; tượng pháp tiếp theo cũng diệt hết; Tỳ-kheo ở thời ấy kiêu mạn tự đại, làm trái giáo pháp, có một Tỳ-kheo tên là Thường Bị Khinh Mạn học hạnh Bồ-tát.

Vì sao gọi là Thường Bị Khinh Mạn?

Vì vị Khai sĩ (Bồ-tát) ấy mỗi khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ đều gọi họ và bảo rằng: “Chư Hiền, không được kiêu mạn tự cao. Vì sao? Vì ý chí của chư Hiền đương còn là Bồ-tát. Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đã vì phương tiện, thuận theo đối tượng, giảng hạnh Bồ-tát cho các Tỳ-kheo.” Vị Khai sĩ ấy chẳng vâng theo lời khuyên bảo, chẳng chịu phúng tụng, hễ vừa thấy bốn chúng thì gọi họ, bảo rằng: “Tôi trọn đời chẳng dám khinh mạn quý ngài; quý ngài đang học hạnh Bồ-tát cao vời, sẽ đạt đến quả vị Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.”

Phật dạy:

– Này Đắc Đại Thế! Khi ấy bốn chúng nghe lời này đều nổi giận mạ nhục mắng chửi: “Tỳ-kheo này chẳng thưa hỏi chúng ta, chẳng biết nhân tâm nhưng lại tự cao cho là biết nhân tâm và thọ ký cho chúng ta sẽ thành Vô thượng Chí chân Đẳng chánh giác. Những việc lạ thường, điều mà người ta không muốn mà vẫn cứ nói.”

Lại nữa, này Đắc Đại Thế! Như một người đi đường gặp cơn mưa lớn, nhờ oai thần của Phật che chở, thân không bị ướt vị, Tỳ-kheo ấy tuy bị nhục mạ nhưng tâm chẳng sân hận, sắc mặt chẳng đổi. Hoặc có người nghe lời nói ấy căm ghét chẳng ưa, dùng ngói đá ném. Nhưng vị ấy từ xa vẫn tiếp tục cất tiếng bảo rằng: “Chớ làm điều khinh mạn, hãy tu tâm nhẫn nhục, phát tâm Bồ-đề.” Vì sao? Vì lúc bấy giờ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ tự cao tự đại nghe thấy Đại sĩ nói là tâm tôi thường khiêm hạ chẳng dám khinh các ngài và tuy bị mạ nhục nhưng tâm vẫn bình thản, nên nhân đó bọn người của bốn chúng ấy đặt tên ngài là Thường Bị Khinh Mạn. Vị Đại sĩ này khi lâm chung được nghe Đức Tịch Thú Âm Vương Như Lai giảng trăm ngàn ức sự việc về ý nghĩa thâm diệu của hai mươi bài tụng trong kinh Chánh Pháp Hoa này. Đại sĩ khi mạng chung vọt lên hư không lớn tiếng khen ngợi kinh điển này rằng: “Người nào thọ trì kinh này, trước hết sẽ được nhãn căn thanh tịnh; nhĩ, tỹ, khẩu, thân, ý cũng thanh tịnh; đã được thanh tịnh rồi thọ mạng liền tăng thêm hai mươi ức muôn, đạt được định ý, lại giảng thuyết kinh điển này cho mọi người. Bốn chúng khi trước nghe vị ấy nói mà hủy báng gọi Đại sĩ này là Thường Bị Khinh Mạn, cho là tự đại thì nay thấy thần lực vi diệu, tuệ lực biện tài, đạo lực khéo léo của Đại sĩ này đều đến quy phục, kính trọng thân cận để nghe kinh pháp. Những hạng người ấy vô số ức người nhiều không thể đếm, ngài đều làm cho an lập tâm đạo Vô thượng chánh chân.

Ví Đại sĩ ấy, sau khi mạng chung, gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai Chánh chân. Chư Thế Tôn ấy đã giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa cho ngài; do phước đức ấy, dần dần tăng tiến lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Đức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Minh Âm Vương và được theo nghe kinh điển này. Lại gặp hai mươi trăm ngàn ức Như Lai đều cùng một hiệu là Lôi Âm Vương, cũng được nghe kinh Chánh Pháp Hoa, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết cho bốn chúng. Sinh ra ở bất cứ đâu cũng thường tự nhiên được mắt thanh tịnh, tai thanh tịnh, mũi thanh tịnh, miệng thanh tịnh, thân thanh tịnh, ý thanh tịnh; nhìn nghe xuyên suốt, mũi thông, miệng lẹ, thân thể nhẹ nhàng, ý thấy rõ tâm chúng sinh, diễn nói, phân biệt ý nghĩa của kinh điển này cho bốn chúng.

Phật dạy:

– Này Đắc Đại Thế! Đại sĩ Thường Bị Khinh Mạn cúng dường phụng sự biết bao số trăm ngàn ức Đức Như Lai rồi, lại gặp vô số trăm ngàn ức Đức Như Lai, cũng vẫn theo thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa. Do căn bản phước đức này tự đạt đến đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối Chánh giác.

Này Đắc Đại Thế! Bồ-tát muốn biết vị Đại sĩ Thường Bị Khinh Mạn ở thời của Tịch Thú Âm Vương Như Lai, nói kinh pháp cho bốn bộ chúng là ai chăng? Vị ấy chính là ta vậy. Giả sử lúc ấy ta chẳng thọ kinh Chánh Pháp Hoa này, chẳng thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người thì chẳng có thể nhanh chóng đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Tối chánh giác. Vì ta theo chư Phật Thế Tôn ở quá khứ nghe kinh điển này, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho mọi người nên thành tựu Phật quả. Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ mà thuở ấy vị Đại sĩ kia đã nói là: “Tôi cung kính chẳng dám khinh các ngài; các ngài sẽ đạt được trí tuệ đạo đức của Đức Như Lai Đẳng Giác” và bốn chúng ấy đã khinh khi, mắng nhiếc, cười chê vị Đại sĩ kia, không tự hối cải nên trải qua hai mươi ngàn ức kiếp sinh ra đời thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe kinh pháp; lại trải qua vạn kiếp đọa vào đại địa ngục Vô khả, bị khảo tra thiêu đốt đau đớ n không thể diễn tả; hết tội rồi, ra khỏi địa ngục, do được vị Đại sĩ kia giáo hóa làm cho phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh chân, đều đắc thần thông, trí tuệ vô ngại; nay đều có mặt nơi đây.

Phật dạy:

– Này Đắc Đại Thế! Ông muốn biết bốn chúng thuở ấy đã hủy nhục chê cười, sân nhuế, mạ lỵ vị Đại sĩ ấy là ai chăng? Đó chính là năm trăm vị Bồ-tát nhóm của ông Bạt-đà-hòa, năm trăm vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ở là nhóm của ông Sư Tử Nguyệt đang ở trong pháp hội này và năm trăm thiện nam, năm trăm thiện nữ ở trước ta đây, đều không thoái chuyển sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân.

Phật dạy:

– Này Đắc Đại Thế! Nghĩa lý của kinh Chánh Pháp Hoa này rộng lớn, oai thần vô lượng, vô biên; tất cả các Bồ-tát Đại sĩ đều kính phụng. Sau khi Như Lai diệt độ, người thọ trì, đọc tụng kinh này được phước như thế và sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân.

Khi ấy Thế Tôn nói tụng khen:

Nay ta nhớ nghĩ

Việc xưa đã qua

Phật tên Tịch Thú

Âm Vương Như Lai

Oai thần vô lượng

Trời, người cung kính

Giảng pháp cho các

Nhân dân, chúng sinh

Phật tối thắng ấy

Sau khi diệt độ

Chánh pháp của Ngài

Vào thời cuối cùng

Có một Tỳ-kheo

Tu hạnh Bồ-tát

Thời ấy đặt tên

Thường Bị Khinh Mạn

Thường thường đi đến

Trong chúng Tỳ-kheo

Và Tỳ-kheo-ni

Thấy họ điên đảo

Nên khuyến hóa cho

Chí hạnh Phật đạo

Tự nói tâm ta

Chẳng dám kiêu mạn

Bị người chê cười

Mắng nhiếc nhục mạ

Khi ấy vì họ

Khiến nghe lời này

Giả sử khi được

Nghe kinh pháp này

Thì được an trụ

Dù làm việc gì

Trí tuệ sáng soi

Khi sắp lâm chung

Được phân biệt nói

Kinh Pháp Hoa này

Báo ứng tức thời

Tăng thêm tuổi thọ

Thân ấy biến hiện

Đều được tự tại

Ở trên hư không

Giảng thuyết kinh điển

Giáo hóa tất cả

Đều phát đạo tâm.

Bấy giờ Đại sĩ

Sau khi mạng chung

Được gặp chư Phật

Trăm ngàn ức muôn

Dần dần khai hóa

Thâm nhập kinh pháp

Vì được phân biệt

Giảng nói kinh này

Là người tối thắng

Đắc thành quả Phật

Chính là thân ta

Như Lai Năng Nhân

Còn các Tỳ-kheo

Và Tỳ-kheo-ni

Các thiện nam tử

Cùng thiện nữ nhân

Miệng ưa phỉ báng

Có mặt thuở ấy

Họ được khai hóa

Hiểu rõ kinh điển

Thường sẽ được gặp

Vô số ức Phật

Là năm trăm vị

Nhóm Bạt-đà-hòa

Các chúng Tỳ-kheo

Và Tỳ-kheo-ni

Thiện nam, tín nữ

Nay ở trước Phật

Thuở trước ta đã

Cho nghe kinh pháp

Đều được khai hóa

Khiến cho hiểu rõ

Nay đây thân ta

Sau khi diệt độ

Nên luôn thọ trì

Phụng thờ kinh này

Phải nên tư duy

Vô số ức ức

Chưa từng được nghe

Kinh pháp như thế

Giả sử có Phật

Số trăm ngàn ức

Mong nghe giảng thuyết

Kinh điển như thế

Vì vậy khi nghe

Kinh giống như vậy

Thánh Tôn tự tại

Xưng dương tán thán

Sau ta diệt độ

Có người diễn nói

Kinh Pháp Hoa này

Cần luôn phải nhẫn

***

Phẩm 20: NHƯ LAI THẦN TÚC HẠNH

Lúc bấy giờ trăm ngàn ức muôn các vị Bồ-tát nhiều như số vi trần của ba ngàn thế giới từ dưới đất vọt lên, tất cả đều đứng trước Đức Thế Tôn, chắp tay bạch Phật:

– Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ truyền bá kinh này khắp quốc độ chư Phật và tại quốc độ của Thế Tôn, nơi Thế Tôn diệt độ, ở ngay những nơi ấy giảng thuyết kinh này, nhiều người được lợi ích. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, sao chép, diễn nói cho người khác kinh điển cốt yếu nhiệm mầu này thì phước đức chẳng thể lường.

Khi ấy, ở trước Bạc Thủ và vô số ức trăm ngàn muôn các Bồ-tát và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện nam, tín nữ, các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc cùng Nhân phi nhân trong thế giới Kham nhẫn này, Như Lai dùng thần túc biến hóa các Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Do hiện điềm lành này mà tất cả đều đắc pháp nhãn nhu thuận, đều khiến cho trăm ngàn ức số các Đại Bồ-tát sao chép kinh Chánh Pháp Hoa ở thế giới khác hóa hiện đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Năng Nhân và tất cả Đức Như Lai Chánh giác này cùng hiện thần túc đầy đủ sung mãn, trong trăm ngàn năm mới xảy ra như thế. Ngay khi ấy, công đức trong trăm ngàn năm tự nhiên chiếu sáng phá tan mây đen, trong khoảng khảy móng tay, tự nhiên có âm thanh vang khắp, tất cả thế giới ở trong cõi Phật khắp mười phương đều chấn động sáu cách. Các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, nhờ oai thần của Phật, ngay nơi chỗ ở của mình, ở vô số ngàn thế giới chư Phật, đều thấy cõi Phật Kham nhẫn này và vô số trăm ngàn ức muôn Như Lai trong mười phương đều ngồi trên tòa Sư tử dưới các cây báu. Đức Như Lai Năng Nhân và Thế Tôn Đa Bảo ở nơi giảng đường của tháp bảy báu tự nhiên nghiêm tịnh tòa Sư tử, oai quang rực rỡ vô cùng chẳng thể diễn tả; trăm ngàn ức muôn Bồ-tát Đại sĩ và bốn bộ chúng thấy sự biến hóa này, trong lòng ngạc nhiên, mừng vui vô lượng, được điều chưa từng có; bỗng nghe âm thanh trong không trung khen ngợi: “Này nhân giả! Muốn biết vô lượng, trăm ngàn ức cai thế giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn ấy, thì có một cõi Phật tên là Kham nhẫn, ở đó có Phật hiệu là Năng Nhân Như Lai vì các Bồ-tát Đại sĩ giảng kinh điển Phương đẳng tên là Chánh Pháp Hoa, tất cả chư Phật đều hộ niệm kinh ấy để cứu độ Bồ-tát Đại sĩ. Vì vậy nên chư Hiền, tâm phải chất trực thanh tịnh, cúi đầu quy mạng khen ngợi phụng sự, hầu cận, cúng dường Đấng Năng Nhân Chánh giác kia.

Khi ấy, chúng sinh tự nhiên nghe âm thanh trên không bảo rằng có Đức Phật Thế Tôn hiệu là Năng Nhân; vừa nghe danh xưng này, họ liền chắp tay, dùng bao nhiêu các loại hoa hương, y phục, tràng phan, tạp hương, đưa tay rải vào thế giới Kham nhẫn và dung anh lạc, ngọc quý, các chân châu quý, bảo châu Như ý để cúng dường. Hoa hương, phướn lọng, anh lạc, ngọc quý, minh nguyệt bảo châu ấy tự nhiên rơi vào thế giới Kham nhẫn, lập tức kết tụ thành lọng hoa báu ở trên hư không che khắp trên chư Phật và Bồ-tát.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo các Bồ-tát từ nơi khác đến và chúng Bồ-tát đứng trước Phật:

– Này các Tộc tánh tử! Công đức oai thần của Như Lai Chánh giác chẳng thể nghĩ bàn dù trong vô số ức triệu trăm ngàn cai kiếp nói ý nghĩa kinh này cũng không thể rốt ráo, tuy vô số biết bao kinh điển khác cũng không sánh kịp và chẳng thể hạn lượng được, muốn qua bờ bên kia cũng khó đạt được mục đích.

Này các Tộc tánh tử! Nói tóm lại, giả sử có người muốn hiểu rõ cốt lõi của kinh này, đó là oai thần của chư Phật, Pháp của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, sự tinh tấn của chư Phật, sự độc cư của chư Phật, diệu lực của chư Phật mà kinh này đã thị hiện, thì này Tộc tánh tử, sau khi Phật diệt độ, nên ân cần cầu kinh điển này, thọ trì, sao chép, tinh tấn phụng hành, cúng dường phụng sự, vì người khác nói.

Giả sử có người mang kinh này giảng giải, khen ngợi, sao chép, tư duy, phụng trì, chép vào tre lụa hoặc để nơi tinh xá, trai đường nhà cửa, dưới cây trong rừng, hoặc bên dòng nước, thì phải tạo dựng tháp miếu. Vì sao? Vì đó chính là nơi chốn của Như Lai, xem như là đạo tràng, chỗ cây Phật ngồi, nên xem đó là nơi du hành của tất cả Đức Như Lai Chánh Giác, là chốn chuyển pháp luân của các Bậc Thánh giả Thế hùng; mười phương chư Phật diệt độ nơi ấy, như nhau không sai khác.

Khi ấy Thế Tôn nói tụng ngợi khen:

Pháp thương yêu đời

Chẳng thể nghĩ bàn

Luôn luôn kiến lập

Trí tuệ thần thông

Cũng lại thị hiện

Mắt sáng soi khắp

Tất cả chúng sinh

Đều được hoan hỷ

Thiệt căn thần diệu

Diễn tiếng Phạm thiên

Trong sáng thánh thót

Ức trăm ngàn muôn

Chúng sanh muôn loài

Khi thấy thần túc

Lạ chưa từng có

Đều vào Phật đạo

Bậc Thánh Đạo Sư

Phát ánh sáng lớn

Chỉ trong khoảnh khắc

Diễn âm thanh lớn

Tức thời bảo khắp

Tất cả cõi Phật

Cùng khắp mười phương

Thế giới chư Phật

Biến hóa như thế

Và biến động khác

Đại Thánh đã hiện

Điềm lành như thế

Bấy giờ Như Lai

Khiến đều hoan hỷ

Sau Phật diệt độ

Phụng trì kinh này

An trú tuyên bày

Các pháp công đức

Trải vô sô kiếp

Chẳng thể nghĩ bàn

Trì quyển kinh này

Hạn lượng phước đức.

Đạo Sư khen ngợi

Vô lượng biết bao

Muốn tận giới hạn

Chẳng thể đến cùng

Giống như hư không

Chẳng thể cùng tận

Danh xưng chí đức

Không thể tư duy

Người trì kinh này

Tịnh đức thường nhiên

Thì được thấy Phật

Đại Thánh Đạo Sư

Và ta ở đời

Đại thông diệt độ

Thì tất cả chúng

Bồ-tát nơi kia

Và bốn bộ chúng

Thấy trong hội này

Có người từng gặp

Kinh điển này rồi

Trong pháp hội này

Thì nay gặp lại.

Sau Phật diệt độ

Cũng tại nơi đây

Và mười phương kia

Thế giới chư Phật

Nếu ai có thể

Thọ trì kinh này

Thì được gặp gỡ

Chư Phật quá khứ

Ở khắp mười phương

Nay Phật hiện tại

Mắt tự trông thấy

Cúng dường phụng sự

Thảy đều vui vẻ

Hướng về Thế Tôn

Ở nơi đạo tràng

Có thể tư duy

Nên mau thọ trì

Kinh điển này đây

Tự nhiên biện tài

Không gì trở ngại

Giả sử mạn sống

Chẳng thể lâu dài

Nên phân biệt hiểu

Ý nghĩa kinh này

Và nên thọ trì

Kinh điển này đây

Hiếu rõ các kinh

Lần lượt quy kính.

Đại Thánh Thế Tôn

Sau khi diệt độ

Giả sử có người

Chí thành tuyên thuyết

Phân biệt kinh này

Nghĩa lý mục đích

Thì giảng kỹ lưỡng

Ý nghĩa các kinh

Ánh sáng người ấy

Phân biệt sở giác

Như vầng nhật nguyệt

Chiếu khắp gần xa

Khắp cả thiên hạ

Chỗ nào cũng đến

Khuyến hóa phát khởi

Vô số Bồ-tát

Cho nên các chúng

Bồ-tát trí tuệ

Được nghe kinh điển

Vô thượng như thế

Sau ta diệt độ

Phụng trì kinh này

Người ấy chẳng nghi

Đại đạo của Phật.

***

Phẩm 21: BỒ-TÁT DƯỢC VƯƠNG

Khi ấy Bồ-tát Tú Vương Hoa tới trước Phật, bạch:

– Bồ-tát Dược Vương vì duyên cớ gì du hóa ở thế giới Kham nhẫn chịu đựng vô số nạn khổ? Hay thay Thiên Tôn, xin vì Bồ-tát, Thanh văn ở khắp thế giới chư Phật trong mười phương đều vân tập nơi đây, nếu được nghe Phật tuyên nói công huân tu hành đời trước, từ khi mới phát đạo tâm của Dược Vương, thì sẽ khiến cho chúng hội hôm nay và đời sau được nghe và thọ trì, học theo đến rốt ráo, trời, người, rồng, quỷ, các tôn thần vương thảy đều vui mừng phát tâm đạo rộng lớn, tự đạt đến Chánh giác độ thoát tất cả.

Khi ấy Thế Tôn thấy Tú Vương Hoa phát tâm chí thành, vì tất cả mà thỉnh Phật nên khen ngợi:

– Hay thay! Ta sẽ vì chư Bồ-tát tương lai, khuyên răn đàn hậu học khiến họ được vào đạo trí mà trình bày. Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ cho kỹ!

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Chúng con mong muốn được nghe.

Phật dạy:

– Vào thời quá khứ hằng hà sa số kiếp, lúc ấy có Phật hiệu là Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Phật ấy sống lâu bốn vạn hai ngàn tuổi. Giáo hóa chúng sinh, cứu độ nguy ách. Khi ấy Bồ-tát trong mười phương nhóm họp có tám mươi ức, các chúng Thanh văn tới bảy mươi hai hằng hà sa.

Lại nữa cõi Phật ấy không có người nữ và ba đường ác, không có A-tu-luân và tai họa của tám nạn; mặt đất bằng phẳng, màu lưu ly xanh biếc, các báu tạo thành, trang nghiêm thanh tịnh; các loại cây báu bao bọc chung quanh, trân kỳ giao lạc che phủ chung quanh, cắm các tràng phan; bình báu lò hương đốt các danh hương; dưới tất cả cây, đặt các giường báu, tọa cụ trang hoàng đẹp đẽ, không thể tả xiết; trên các tọa cụ có năm ngàn ức tòa ngồi của chư Thiên; trổi các âm nhạc, khen công Đức Phật để cúng dường.

Bấy giờ Đức Phật kia vì các chúng Bồ-tát và Thanh văn phân biệt giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa. Khi ấy có Bồ-tát tên là Chúng Sinh Hỷ Kiến nghe Phật phô diễn giảng giải nghĩa yếu, liền phụng trì Phật pháp, tu tập khổ hạnh, ngày đêm tinh tấn, trải qua một vạn hai ngàn năm kinh hành không ngồi; xong một vạn hai ngàn năm liền đạt được Tam-muội Phổ hiện; đạt được định này rồi, liền tư duy rằng: “Ta sở dĩ đạt được Tam-muội Phổ hiện là do kinh Chánh Pháp Hoa này”, bèn vui mừng phấn chấn tự nghĩ: “Ta nên cúng dường Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân và phụng thờ kinh Chánh Pháp Hoa, liền nhập vào Tam-muội chánh thọ như thế, ở trên hư không, rải hoa trời, nhiều loại chiên-đàn để cúng dường. Ngay khi ấy, mùi thơm của các hoa hương này xông tỏa khắp thế giới chư Phật mười phương; người nào nghe được hương ấy đều đắc pháp nhẫn; loài chúng sinh đồng tâm ngưỡng vọng.

Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến từ thiền định ý xuất, lại tư duy: “Tuy dùng nhiều thứ cúng dường Phật nhưng ta chẳng có thể báo đáp hết ân đức của bậc Chí Chân; dùng thân cúng dường mới là Vô thượng”, liền làm như ý nghĩ, dứt hẳn ngũ cốc, chỉ ăn các loại hương thơm và uống nước các loại hương hoa, làm cho trong ngoài thân đều thơm.

Uống các hương hoa như thế qua mười hai năm. Lại hòa các hương dùng thoa trên thân, dùng dầu thơm thấm y, rồi lập thệ nguyện dùng thân làm đèn cho tất cả, liền đốt thân mình cúng dường chư Phật. Vì tin thành nên ánh sáng ấy chiếu khắp tám mươi hằng hà sa thế giới chư Phật. Ngay khi ấy, chư Phật đồng thanh khen ngợi:

– Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Tinh tấn như vậy mới thật là ít có trên đời. Đó là cúng dường Như Lai và kinh điển một cách chân chánh; đó là vì chúng sinh chịu khổ chẳng từ lao nhọc, siêu vượt sở hành của tất cả trời người; bố thí quốc thành, tài sản, vợ con cũng không sánh kịp. Trong các sự cúng dường, đây là hơn hết, là lâu dài, là không gì so sánh được. Dùng thân thí chính là Pháp thí.

Chư Phật Thế Tôn khen ngợi công đức như thế rồi, tiền im lặng. Khi ấy, tự nhiên thân Bồ-tát, lửa cháy suốt một ngàn hai trăm năm chẳng tắt, vì nhất tâm nên không đau đớn. Sau đó, ngọn lửa mới tắt. Vì siêng năng tu hành tinh tấn, cúng dường Pháp nên sau khi mạng chung, Bồ-tát sinh lại thế giới ấy, nhằm quốc độ của Đấng Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân. Trong vương cung nước Ly Cấu Thi, Bồ-tát bỗng nhiên hóa sinh, ngồi xếp bằng, vì vua cha nói kệ:

Tôn vương, xin biết bản nguyện con

Kiên cường siêng tu đại tinh tấn

Thân ái trọng dùng làm vật thí

Kiến lập nên Tam-muội lớn này.

Nói kệ xong, ngài thưa với cha mẹ:

– Đức Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ Như Lai Chí Chân nay vẫn còn tại thế. Thuở xưa, con chí tâm cúng dường, nhờ đó mới đạt được pháp yếu của tất cả âm tổng trì, là điều cốt lõi trong sự học kinh điển Vô thượng Chánh Pháp Hoa; kinh gồm có tám mươi muôn trăm ngàn ức triệu cai bài kệ; nên nhất tâm tư duy tìm chỗ nào để tạo lập mô hình tượng Phật để trong tâm không sân giận, phẫn nộ là Bồ-tát thực hành Chánh Pháp Hoa này. Đời trước con đã tập bao nhiêu ngàn ức trăm ngàn muôn bài kệ, nghe và thọ trì từ Đức Như Lai.

Vua Ly Cấu Thi khen con:

– Hay thay, hay thay! Hãy cùng đi đến cúi mình kính cẩn cúng dường Đức Thánh Tôn.

Sau khi trình bày như vậy rồi; ngài cùng với phụ vương vọt lên không trung cách đất bảy nhẫn kinh hành trên hư không; chân không chạm đất, thân ngồi ngay thẳng trong trướng làm bằng bảy báu, giao lạc, trân kỳ, đi đến chỗ Phật, chắp tay lễ Phật dùng tụng tán thán:

Đấng Nhân Trung Tôn,

Dung nhan vô nhiễm

Hào quang rạng ngời

Chiếu khắp mười phương

Xưa con cúng dường

Thế Tôn tối thắng

Nay thọ lại thân

Nên đến bái kiến.

Bấy giờ Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ này rồi, tới trước, bạch với Đức Như Lai Chí Chân Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ:

– Bạch Thế Tôn! Thế Tôn rủ lòng thương xót mười phương nên hiện vẫn còn giáo huấn, độ thoát chúng sinh khiến tất cả đều được nhờ ân.

Khi ấy Đức Như Lai Ly Cấu Nhật Nguyệt Quang Thủ bảo Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến:

– Nay đã đến lúc ta sắp diệt độ. Ta đem giáo pháp này giao phó cho ông. Đến đây, sự giáo hóa của ta hoàn tất; đời loạn sắp đến, ta xả bỏ nó. Hãy vì ta trải tòa, nay ta diệt độ.

Lại bảo:

– Ta đem kinh điển này một lần nữa giao phó cho ông, khiến cho lưu bố cùng khắp, nhuận thấm mười phương, làm cho tất cả đều hưởng phước an lạc.

Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bạch:

– Con xin tuân nhận lời Ngài dạy.

Vào nửa đêm, Đức Phật diệt độ. Khi ấy Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật diệt độ, dùng hương chiên-đàn và các loại hương quý khác trà tỳ thân Phật, nhặt xá-lợi, dùng nước hương rửa, Bồ-tát thương cảm khóc lóc, lệ đổ như mưa; rồi làm tám vạn bốn ngàn bình báu đựng xá-lợi, dựng bảy ngôi tháp báu cao đến Phạm thiên, trang nghiêm bằng tràng phan bảo cái, treo các thứ linh báu, tâm tự nghĩ: “Ta đã cúng dường xá-lợi Thế Tôn; lại nên thờ phụng hơn trước”, bèn bảo với các vị Bồ-tát đại Thanh văn, các trời, rồng, thần và tất cả nhân dân:

– Này các Tộc tánh tử! Cùng nhau suy niệm, xá-lợi của Thế Tôn đều cúng đường khắp.

Khi ấy Phật bảo với Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Vào thời ấy, Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến khuyến khích mọi người cung thờ xá-lợi, tám vạn bốn ngà n tháp; trước tháp, kiến lập hình tượng đức tướng trăm phước, đốt vô số đèn, thiêu hương, rải hoa, làm rạng rỡ đạo pháp, cúng dường phụng sự bảy vạn hai ngàn năm.

Cúng dường xong, ở giữa hội chúng, giáo hóa vô số ngàn các chúng Thanh văn, khai thị các Bồ-tát đều khiến đạt được Tam-muội Phổ hiện. Thấy chúng Bồ-tát đã an lập định rồi, Bồ-tát tự hiện than mình với các căn khuyết tật. Các chúng Bồ-tát và các đệ tử, Trời, Rồng, Quỷ, Thần cất tiếng kêu khóc, lệ đổ như mưa:

– Các Tộc tánh tử! Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ kiến là Thầy của chúng ta, khai hóa chúng ta, hiện nay các căn khuyết giảm, không đủ. Vì vậy chúng ta xót thương không kềm chế được.

Lúc đó Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến bảo với các Bồ-tát và đại đệ tử, các Trời, Rồng, Thần: “Ta đã lập thệ nguyện chí thành. Nếu như lời nói của ta là tùy thuận không hư dối thì cánh tay này của ta sẽ trở thành vàng tía và khiến tay của ta bình phục như cũ. Đại địa sẽ chấn động mạnh, trên không mưa xuống các loại hương hoa.”

Nói vừa dứt lời, đại địa liền chấn động mạnh, trời mưa các loại hoa, cùng lúc cánh tay ngài bình phục như cũ. Bồ-tát Chúng Sinh Hỷ Kiến muốn độ tất cả nên thị hiện sở hành của tuệ lực này, và thế lực phước đức công huân đã đạt được.

Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Ông muốn biết Bồ-tát Đại sĩ Chúng Sinh Hỷ Kiến khi ấy chăng? Nay là Bồ-tát Dược Vương vậy.

Này Tộc tánh tử! Nếu Bồ-tát cần khổ chẳng thể kể xiết, tổn thân bỏ mạng không có hạn lượng, thường kiến lập chí nguyện Đại thừa, đại đạo Vô thượng, làm phát khởi đại công đức vô cực ở trước Như Lai chỉ đốt một ngón chân, thì công đức khó gì sánh bằng, huống là đốt thân dùng để cúng dường thì càng hơn cả bố thí quốc thành, thê tử, máu thịt. Dù dùng châu báu đầy cả cõi Phật để bố thí cúng dường chư Phật, Thánh chúng, phước đức tuy nhiều nhưng cũng không bằng người kia. Vì sao? Vì phước báo có lúc hết, không lợi ích cho chúng sinh.

Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì một bài tụng bốn câu của kinh Chánh Pháp Hoa, phân biệt phụng hành, vì người giải nói thì phước thí trên so với phước này không bằng một phần vạn, giống như vạn sông đều chảy về biển cả, kinh này cũng như thế, đứng đầu tất cả các pháp, giống như núi Tu-di, cao hơn các núi, như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng giữa các sao. Ánh sáng đại tuệ chiếu sáng ba cõi là vua đạo Vô thượng, đứng đầu các pháp.

Giống như mặt trời xuất hiện chiếu khắp thiên hạ làm tiêu tan tăm tối, kinh này cũng vậy, trừ hết tất cả ngu si tăm tối, đưa vào đạo sáng.

Giống như trời Đế Thích ở cõi trời Đao-lợi làm vua của chư Thiên, kinh này cũng vậy, là kinh điển đứng đầu trong tất cả các pháp, bao quát mười phương, độ thoát tất cả.

Giống như Phạm thiên vương ở cung điện thử bảy chế ngự chư Thiên, ai cũng phụng mạng, kinh này cũng vậy cứu khắp chúng sinh Hữu học, Vô học, giáo huấn dẫn dắt ba thừa, làm công việc của vua, cha.

Giống như bốn đạo quả cho đến Duyên giác đều siêu vượt cái học của tất cả phàm phu, kinh Chánh Pháp Hoa cũng lại như thế, đều siêu việt vượt tất cả thượng, trung, hạ thừa, đối với sự khai hóa chúng sinh không gì bằng.

Giống như sở hành cao viễn của Bồ-tát vượt trên việc làm của Thanh văn, Duyên giác, che chở ba đời, kinh này cũng vậy, điều ngự các pháp đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.

Giống như Thế Tôn là Pháp vương ba cõi mặc đạo phục trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng, dẫn dắt chúng ngu si, kinh này cũng vậy, từ người đang học đạo Bồ-tát cho đến Như Lai, khai dẫn các Thanh văn, Duyên giác… đều khiến thành tựu đạo Vô thượng chánh chân.

Này Tộc tánh tử! Kinh điển này khiến sự hộ trì của ba cõi, độ thoát ách nạn nguy khốn cho tất cả chúng sinh, làm no đủ nạn đói nghèo của hữu tình: người lạnh được ấm, người nóng được mát; người trần trụi có y phục; dẫn dắt chúng sinh đều khiến vào đạo.

Giống như người dẫn đường bảo hộ châu báu, Bồ-tát cũng thế, nuôi dưỡng chúng sinh giống như mẹ hiền. Thí như người lái đò đưa người qua sông, Bồ-tát cũng thế, xoay vần ba cõi độ thoát tất cả trừ diệt tối tăm.

Giống như ngọn đuốc diệt trừ bóng tối, kinh này chuyển hóa sinh, già, chết.

Giống như vua Chuyển luân chế ngự bốn cõi, kinh này cũng thế, dùng Thánh đạo soi sáng ba cõi.

Giống như ánh sáng lớn làm tiêu sự tối tăm của cuộc đời, kinh này cũng vậy, đưa đến không thoái chuyển, vô sinh cho đến thành Phật đạo.

Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Kinh điển này độ thoát tất cả họa khổ, trừ sạch các cấu nhiễm của bệnh ba độc, cứu thoát các buộc ràng trong lao ngục sinh tử. Nếu người nghe kinh này mà hiểu ngay, có thể sao chép thì công đức của người ấy không thể kể xiết, huống là nghe, thọ trì, giữ gìn tụng đọc, dùng hoa hương, hương tạp, hương mịn, đèn đuốc, tràng phan để cúng dường? Nếu có người nghe và thọ trì phẩm Bồ-tát Dược Vương Vãng Cổ Học mà thọ trì suy nghĩ thì phước của người ấy hơn người cúng dường những vật kia, không thể kể xiết. Nếu có người nữ, nghe kinh pháp này mà thọ trì ngay thì ở trong đời này khi hết thọ mạng thân nữ, sau được thân nam.

Nếu có người nữ ở trong đời mạt thế ngũ trược, nghe kinh pháp này mà có thể phụng hành thì khi mạng chung liền được vào nước An dưỡng, thấy Phật Vô Lượng Thọ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, sinh trong hoa sen báu, ngồi tòa Sư tử, không còn dâm, nộ, si, trừ bỏ các ràng buộc, cũng không tham lam tật đố, chưa từng ôm hận; vừa sinh đến nước ấy, được năm thần thông, đạt không thoái chuyển, chẳng khởi phá p nhẫn; đã đạt pháp nhẫn rồi, liền được thấy bảy mươi hai ức triệu hằng hà sa các Đức Như Lai. Vừa thấy chư Phật, nhãn căn thanh tịnh; nhãn căn đã thanh tịnh được thấy tất cả mười phương chư Phật từ xa khen ngợi: “Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Ông đã gặp đời Đức Phật Năng Nhân được nghe Phật nói kinh Chánh Pháp Hoa, thọ trì, phúng tụng, vì người khác nói, nhờ phước công đức này, lửa chẳng thiêu được, nước chẳng trôi được, đạo tặc, oan gia, quan huyện chẳng xâm phạm; ngàn Phật ngợi khen chẳng thể hết được; công đức đạt được chẳng thể hạn lượng, vời vợi như thế, duyên vào công đức này hàng phục các ma, trừ các oán dịch, vượt thoát nạn sinh tử, xoay chuyển các họa.

Lại nữa, Tộc tánh tử! Dùng kinh pháp này hàng phục các ác nghịch, là sở kiến của hàng ngàn Phật kiến lập nên, ủng hộ cho người, trên trời và nhân gian không gì sánh bằng. Trừ Như Lai ra, về công đức, phước hựu, trí tuệ, định ý không có Thanh văn và Bồ-tát nào bằng được.

Phật bảo Bồ-tát Tú Vương Hoa:

– Nếu có người tu học nào thọ trì kinh này thì sự đạt đến sự thánh minh, thế lực, oai đức siêu việt như thế. Vì vậy, Nhân Giả, nếu có người giảng thuyết phẩm Dược Vương này, có người khen ngợi thì sau sinh làm người, trong miệng tự nhiên thơm mùi hoa sen, thân thơm mùi chiên-đàn. Nếu người nghe kinh này mà khen hay thì hiện tại công đức người ấy được đồn xa. Phật đã khen ngợi trước công huân của người ấy.

Phật bảo:

– Này Tú Vương Hoa! Ta đem kinh này phú chúc cho các ông chúng sinh, vui mừng thấy phẩm Vãng Cổ Pháp, cuối cùng của thời mạt thế ngũ trược lưu bố trong thiên hạ ở cõi Diêm-phù-lợi, không thể hoại diệt nửa chừng, ma Ba-tuần chẳng có thể được tiện lợi, và quyến thuộc ma, tà thần, quỷ mỵ không thể hại được; Trời, Rồng, La-sát, cưu hoàn, yểm quỷ không dám đối đầu.

Lại nữa, Tú Vương Hoa! Phẩm Dược Vương này, oai đức đã an lập, đã lưu bố đến chỗ nào nếu có người bệnh tật mà nghe kinh pháp ấy thì tật bệnh tiêu trừ, không có các hoạn nạn; nhờ công đức ấy, sau đạt đến Chánh chân, không già bệnh chết. Nếu có Tỳ-kheo cuối thời mạt thế, tay cầm hoa sen xanh tràn đầy mùi thơm rải cúng Pháp sư, tâm tự nghĩ: “Giả sử có người cầu Bồ-tát thừa đến đạo tràng này, ta sẽ dâng bông này để làm tòa ngồi trải dưới cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, đầy đủ trống pháp, thổi loa pháp lớn, nương vào đây qua biển sinh tử”. Nếu ai học Đại thừa thấy các Tỳ-kheo cầm quyển kinh này thì phải xem công đức người ấy cũng như thế.

Khi Phật nói phẩm Dược Vương Bồ-tát vãng cổ này, tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều liền hiểu được tất cả âm phương tiện tổng trì.

Khi ấy, Đức Như Lai Chúng Bảo khen ngợi:

– Hay thay, hay thay, Bồ-tát Tú Vương Hoa! Ông có thể thưa hỏi hành nghiệp của kinh điển chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai đã giảng thuyết, ông có vui thích không?

***

Phẩm 22: BỒ TÁT DIỆU HỐNG

Khi ấy Thế Tôn Như Lai Năng Nhân, từ tướng Đại nhân trên đầu lông mi phát ra trăm ngàn hào quang chiếu đến một ngàn tám trăm vạn ức hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông, chỗ nào cũng rọi đến. Qua khỏi quốc độ của chư Phật ấy, có thế giới tên là Trang nghiêm chiếu minh; cõi ấy có Phật hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiệu là Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương, cũng vô số các chúng Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đang tuyên dương giáo hóa. Hào quang mà Như Lai Năng Nhân đã phóng ra chiếu khắp cõi ấy.

Lại cõi Phật ấy có một vị Bồ-tát tên là Diệu Âm, từ Phật quá khứ đã gieo trồng các gốc đức, cúng dường vô số trăm ngàn triệu cai chư Phật Chánh Giác; đã từng gặp chư Phật thưa hỏi, thọ nhận kinh điển, được thành tựu Thánh tuệ, đã đắc các Tam-muội sâu xa như Tam-muội Định pháp hoa, Tam-muội Thi ly cấu, Tam-muội Lạc tú vương, Tam-muội Vô trước quang, Tam-muội Tuệ ấn, Tam-muội Phổ hiểu chư âm, Tam-muội Đẳng tập chúng đức, Tam-muội Hỷ tín tịnh, Tam-muội Thần túc hý lạc, Tam-muội Tuệ quang, Tam-muội Nghiêm tịnh vương, Tam-muội Ly cấu quang, Tam-muội Ly cấu tạng, Tam-muội Vô duyên, Tam-muội Nhật chuyển, nói tóm lại đã chứng đắc tất cả ức trăm ngàn vạn hằng hà sa số các định Tam-muội. Hào quang của Phật ấy soi khắp, chiếu đến Bồ-tát Diệu Âm. Bồ-tát Diệu Âm nương luồng sáng ấy đi đến chỗ Phật, bạch:

– Con muốn đi đến thế giới Kham nhẫn yết kiến Đức Phật Năng Nhân và đảnh lễ, để tham vấn kinh điển và muốn kính thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Dũng, Bồ-tát Tú Vương Hoa, Bồ-tát Tôn Ý Hành, Bồ-tát Tịnh Vương, Bồ-tát Siêu Dược… để luận giảng nghĩa kinh, lãnh thọ những điều còn kém, khiến cho tất cả nghe được đều phát đạo tâm.

Phật ấy bảo:

– Hãy đi đi, Tộc tánh tử! Tuy ông đến cõi ấy, chớ khởi tưởng phân biệt mà nghĩ là cõi ấy hạ liệt biếng trễ. Vì sao? Này Tộc tánh tử! Thế giới Kham nhẫn ấy đất màu đen, núi non lởm chởm, đá cát dơ bẩn uế trước dẫy đầy; khe suối núi hang không như ông tưởng. Thân Phật cõi ấy thấp nhỏ một trượng sáu, thân các Bồ-tát cao bảy tám xích, còn thân ông vốn cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, còn than ta cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, đoan chánh tốt đẹp bậc nhất, oai quang thù diệu, dung nhan đẹp đẽ khó thể thí dụ, chứa trăm ngàn đức, ai nhìn cũng vui.

Lại nữa, ông đến đấy thấy người cõi kia, cẩn thận chớ suy nghĩ khởi tưởng chẳng hay cho rằng Như Lai, Bồ-tát ở cõi Phật ấy chẳng bằng cõi này. Vì sao? Vì cõi Phật vốn không, tội phước của chúng sinh hiện hữu bất đồng.

Bồ-tát Diệu Âm lại bạch Phật:

– Con nương vào oai thần của Phật, Thánh lực và đạo đức cao vời của Như Lai để tự an lạc mà đi đến thế giới Kham nhẫn. Đạo nghiệp trí tuệ thanh tịnh của Như Lai sẽ luôn luôn làm cho con như pháp, không có điều gì sơ suất, chẳng dám khởi tưởng.

Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm tâm tự nghĩ: “Ta chẳng rời khỏi chỗ ngồi, giống như nhập Tam-muội chánh thọ mà đến núi Linh Thứu ở thế giới Kham nhẫn, sẽ ở khoảng giữa pháp tòa của Như Lai, hóa làm tám vạn bốn ngàn ức loại hoa sen báu cọng vàng tía, lá trắng bạc, nghiêm sức đẹp đẽ, hào quang rực rỡ, chiếu sáng pháp hội” và ngay khi ấy liền làm đúng theo ý nghĩ. Văn-thù-sư-lợi hỏi Đức Phật Năng Nhân:

– Kính bạch Thế Tôn! Tám vạn bốn ngàn hoa sen báu cọng vàng tía, lá trắng bạc hóa hiện ở đây thanh tịnh đẹp đẽ là do ai biến hóa ra như thế?

Phật bảo Văn-thù:

– Có vị Bồ-tát tên là Diệu Âm từ cõi nước của Đức Phật Ly Cấu Tử Kim Tú Hoa Vương cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đang đi đến thế giới Kham nhẫn này, muốn thấy thân ta để lễ bái tham vấn và muốn được nghe kinh Chánh Pháp Hoa, nên trước hết hiện điềm ấy.

Văn-thù-sư-lợi lại hỏi Phật:

– Vị ấy từ xưa đã chứa công đức gì, tạo hạnh thù diệu gì mà nay đạt được công năng to lớn kỳ đặc như thế? Đã trụ Tam-muội gì, tạo lập hạnh gì? Con mong ước muốn nghe về sở hành Tam-muội và thần túc biến hóa của vị ấy. Chúng con nghe rồi sẽ ghi nhận phụng hành để thấy nhan mạo sắc tướng của các Bồ-tát ấy như thế nào, cử động lui tới lợi ích ra sao? Rất mong Thế Tôn, xin Ngài hiện thần biến khiến các Bồ-tát ấy đến đây. Chúng hội muốn thấy họ.

Phật bảo Văn-thù:

– Ông nên thưa với Như Lai Chúng Bảo xin hiện thần biến, khiến các Bồ-tát ấy đều hiện thân tướng đến nơi đây, vì tất cả chúng hội đều muốn thấy.

Văn-thù-sư-lợi liền làm theo lời dạy, thưa với Như Lai Chúng Bảo đã diệt độ hiện thần biến.

Khi ấy Bồ-tát Diệu âm bỗng nhiên biến mất khỏi quốc độ của mình, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ-tát làm chấn động các cõi Phật, rải hoa sen báu, đồng thời trổi phát trăm ngàn ức kỹ nhạc. Các Bồ-tát đều tự hiện hình đến, mắt các ngài sáng đẹp màu xanh biếc, dung mạo tròn đầy như mặt trăng tròn sáng, thân chói màu vàng tía, vô số ức trăm ngàn công đức trang nghiêm thân Ngài, oai thần rạng rỡ, trí tuệ sáng ngời, tướng tốt lạ thường, gương mặt trong sáng, thân lực vô biên; thân ở trên màn lưới bằng bảy báu trong hư không, cách đất bốn trượng chín thước.

Bồ-tát Diệu Âm cùng các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, đi đến thế giới Kham nhẫn, tới núi Linh Thứu, màn lưới báu hạ xuống, tay cầm bình báu giá trị trăm ngàn, đến chỗ Phật Năng Nhân, cúi đầu lễ dưới chân Phật, dâng lên Như Lai Năng Nhân và bạch:

– Đức Phật Tử Kim Ly Cấu Tú Vương Hoa tha thiết thăm hỏi Như Lai đi đứng nhẹ nhàng, lui tới khỏe mạnh chăng? Thế Tôn thuyết pháp có như thường chăng? Tất cả chúng sinh lãnh thọ tăng tấn chăng? Chúng diệt trừ hồ nghi và thuận pháp luật chăng?

Không còn nhiều người dâm, nộ, si làm việc tật đố xan tham chăng? Có người luôn cung kính hiếu thuận cha mẹ, thọ nhận đạo pháp như pháp phụng hành chăng? Có người theo tà kiến, luyến tiếc của cải các căn bất ổn, bị chúng ma hàng phục, lệ thuộc chăng?

Lại nữa, các chúng sinh có nghe và lãnh thọ pháp mà Như Lai Chúng Bảo diệt độ đã thuyết chăng? Nay các Bồ-tát đến nơi đây là do Như Lai ở cõi nước chúng con sai đến, muốn được bái kiến Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ ở trong tháp bảy báu, thưa hỏi Thánh thể an khang chăng, thuyết pháp như thế nào, chúng sinh có thọ nhận và thực hành đúng pháp chăng? Như Lai Đa Bảo hiện cửu trụ ra sao? Chúng con đến đây vì muốn được chiêm ngưỡng hình tượng của Như Lai Đa Bảo. Xin Phật hiện cho.

Khi ấy, Đức Phật Năng Nhân nói với Đức Như Lai Đa Bảo:

– Nay Bồ-tát Diệu Âm và các quyến thuộc muốn bái kiến hình tượng Thánh thể Thế Tôn.

Đức Như Lai Đa Bảo liền khen ngợi:

– Hay thay, hay thay, Tộc tánh tử! Ông có thể đến bái kiến Đức Phật Năng Nhân, thưa hỏi thọ lãnh kinh Chánh Pháp Hoa và lại sẽ gặp Văn-thù -sư-lợi để giải bày những điều chưa đạt.

Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ hỏi Bồ-tát Phật Diệu Âm vào đời trước đã chứa cội đức gì mới đạt được thần biến vô cực ấy?

Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:

– Vào đời quá khử xa xưa có Phật, Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiệu là Vân Lôi Âm Vương giảng thuyết đạo kinh Lục Độ Vô Cực Bồ-tát Pháp Tạng. Cõi trời nhân gian đâu đâu cũng được an lạc. Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm nghe điều giảng thuyết, mừng vui thông hiểu, trổi trăm ngàn âm nhạc làm vui Phật ấy, dâng cúng Thế Tôn tám vạn bốn ngàn bát báu đẹp. Tinh tấn cúng dường Như Lai một vạn hai ngàn năm như vậy.

Lại nữa, Tộc tánh tử! Bồ-tát Diệu Âm vào đời trước, từ thời Đức Như Lai Vân Lôi Âm Vương đã tu vô lượng pháp, trồng công đức này chưa từng có mỏi mệt bê trễ, truyền thừa giáo chỉ của Như Lai, hóa độ người ngu mê chẳng biết chí chân, khiến họ đều tin ưa. Nên biết Bồ-tát Diệu Âm lúc bấy giờ là Bồ-tát Diệu Âm bây giờ vậy. Vì đời ấy bố thí bát báu và các âm thanh kỹ nhạc, lại cúng dường vô số chư Phật nên ở chỗ ngàn ức Đức Phật trồng các cội đức, tu hành các hạnh; đời trước đã gặp ức trăm ngàn cai hằng hà sa chư Phật Thế Tôn.

Này Liên Hoa Thủ! Sở hành của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể hạn lượng biến vô số hình tướng, vì các chúng sinh tuyên bố giảng nói kinh Chánh Pháp Hoa, hoặc hiện hình dạng sắc mạo Phạm thiên mà giáo hóa, hoặc hiện hình Thiên đế, hoặc hình tôn quý, giàu sang, hoặc hình tướng quân, dẫn dắt giáo hóa quân lính; hoặc các hình tướng có thế lực lớn như Thiên vương Tức ý, Chuyển luân thánh vương, các tiểu vương; hoặc hình mạo của Sa-môn, Phạm chí nói kinh Chánh Pháp Hoa; hoặc hiện hình Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, hình cung nhân, thể nữ, phu nhân của trưởng giả, các gái bần tiện và nam nữ lớn nhỏ khác để thuyết kinh Chánh Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc hiện hình dáng sắc mạo của A-tu-luân, Ca-lưu la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân để thuyết kinh Chánh Pháp Hoa giáo hóa họ; hoặc vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và tám nạn để ủng hộ và cứu độ họ ; hoặc hiện kẻ sĩ bậc thượng, trung, hạ tiến thối trước sau, tùy theo hình thể nam, nữ nói kinh Chánh Pháp Hoa để khai hóa họ; hoặc hóa hình hoàng hậu vào trong cung độ các quý nhân. Liên Hoa Thủ nên biết, Bồ-tát Diệu Âm sẽ hộ trì tất cả chúng sinh ở thế giới Kham nhẫn.

Lại nữa, này Tộc tánh tử! Bồ-tát Diệu Âm sẽ dùng biết bao phương tiện biến hóa để giáo hóa cõi Phật Kham nhẫn, diễn nói kinh Chánh Pháp Hoa mà thần túc oai đức chưa từng suy hao mà lại càng tăng trưởng; Thánh tuệ, đạo trí cũng lại như thế.

Lại nữa, này Tộc tánh tử! Hào quang, công huân, trí tuệ của Bồ-tát Diệu Âm chói sáng cùng khắp mười phương, tùy thời khai hóa, luân chuyển vô cùng, đều khiến đi vào pháp luật; các nguyện thượng, trung, hạ đều khiến thành tựu, vừa du hóa thế giới Kham nhẫn lại đến hằng hà sa cõi Phật ở phương khác, hiện thân Bồ-tát để thuyết pháp. Lại hiện hình tượng Thanh văn, Duyên giác để khai hóa, chỉ bày sự tu học bản hạnh, người nghe tự nhiên thành tựu chí nguyện, chẳng trái bản thệ.

Nếu có chúng sinh tuân giữ luật của Như Lai thì dùng hình tượng Phật tùy theo đạo luật đó mà hiện hình tướng trao truyền rõ ràng đại đạo Vô thượng chánh chân; nếu ai mong được Nê-hoàn thì hiện thân đã diệt độ, nhân đó tùy nghi khai hóa đạo tuệ. Thế lực và thánh trí của Bồ-tát Diệu Âm chẳng thể so lường, siêu tuyệt sáng chói; công đức cũng như thế, không lấy gì dụ được.

Khi ấy, Bồ-tát Liên Hoa Thủ đến trước bạch Phật:

– Bồ-tát Diệu Âm tích chứa công đức to lớn như thế. Kính bạch Thế Tôn, vị ấy đã trụ trong tam muội gì để khai hóa chúng sinh không có hạn lượng?

Đức Phật Năng Nhân bảo Bồ-tát Liên Hoa Thủ:

– Tộc tánh tử hãy lắng nghe! Có pháp Tam-muội tên là Hiện nhập chúng tượng. Bồ-tát Diệu Âm đã trụ trong Tam-muội này để khai hóa, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh khiến họ đi vào nghĩa đạo.

Khi Phật nói phẩm Chương Cú Bồ-tát Diệu Âm này, các Bồ-tát cùng đi với Bồ-tát Diệu Âm ngay lúc đó liền chứng đắc Hiện nhập chúng tượng Tam-muội chánh định, sự hành trì thù thắng. Khi ấy, tại thế giới Kham nhẫn một số vị Đại Bồ-tát cũng tu tập Tam-muội ấy. Những vị đắc được Tam-muội Hiện nhập chúng tượng liền đắc pháp Tổng trì, cả ba đời đều được giải thoát.

Khi ấy Bồ-tát Diệu Âm cúng dường Đức Phật Năng Nhân Chí Chân, phụng sự xá-lợí trong tháp Đức Như Lai Đa Bảo xong, muốn trở về cõi nước của mình, tiền tới trước đảnh lễ Đức Như Lai Năng Nhân, rồi từ biệt chúng hội lui về, là m chấn động các cõi nước, mưa các hoa sen, đồng thời hòa trổi trăm ngàn ức cai bài tụng thanh nhã, kỹ nhạc, cùng với tám vạn bốn ngàn các vị Bồ-tát quay về bản quốc. Ngài đến trước đảnh lễ Đức Như Lai Tử Kim Ly Cấu Tú Hoa Vương, trình bày việc đến thế giới Kham nhẫn hướng dẫn, làm lợi ích cho chúng sinh, bái kiến xá-lợi trong bảo tháp của Đức Như Lai Đa Bảo và thăm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Dược Vương là những vị đã đạt được đạo lực tinh tấn vô cực, thăm Bồ-tát Diệu Dũng, làm cho tám vạn bốn ngàn Bồ-tát đều đắc chánh hạnh và đạt Hiện nhập chúng tượng Tam-muội. Bốn vạn hai ngàn vị Thiên tử cùng đi theo đến cõi ấy nghe kinh Chánh Pháp Hoa đều đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát Liên Hoa Thủ đạt được định Chánh Pháp Hoa.

***

Phẩm 23: QUANG THẾ ÂM PHỔ MÔN

Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để trần vai hữu, quỳ thẳng chắp tay, thưa với Đức Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Quang Thế Âm? Ý nghĩa như thế nào?

Phật bảo Vô Tận Ý:

– Vị Tộc tánh tử ấy, nếu có chúng sinh gặp trăm ngàn muôn ức khổn ách, hoạn nạn, khổ não vô cùng, vừa nghe danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm thì liền được giải thoát, không còn các khổ, nên gọi là Quang Thế Âm.

Nếu có người tâm luôn trì danh hiệu ngài, giả sử gặp lửa lớn thiêu đất núi rừng, thiêu cháy cỏ cây, rừng rậm, nhà cửa, thân ở trong lửa mà được nghe tên Quang Thế Âm, lửa liền tắt. Nếu vào sông nước lớn, dòng nước chảy xiết, trong lòng sợ hãi, mà xưng tên Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm hướng về thì do oai thần gia hộ khiến không bị chìm, làm cho an ổn. Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sinh sang hèn vào trong biển cả, ở trong biển thăm thẳm mênh mông không bờ bến, dò tìm vàng, bạc, các loại ngọc minh nguyệt, như ý, bảo châu, thủy tinh , lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách; thuyền chở đầy châu báu, giả sử gió thổi thuyền ấy trôi dạt vào dòng xoáy hắc sơn, hoặc tấp vào cõi quỷ, gặp cá kình, có một người trong chúng nhất tâm thầm nghĩ công đức oai thần của Bồ-tát Quang Thế Âm rồi xưng danh hiệu ngài thì đều được giải thoát tất cả các hoạn nạn và chúng bạn cũng được cứu độ, không gặp các ách nạn tà ma quỷ quái. Vì thế nên gọi là Quang Thế Âm.

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Nếu thấy oán tặc muốn đến làm nguy hại, liền xưng danh hiệu Bồ-tát Quang Thế Âm và hướng về ngài thì dao gậy của giặc liền gãy từng đoạn, tay không đưa lên được, tâm họ tự nhiên hiền lành.

Này Tộc tánh tử! Giả sử các quỷ thần tà nghịch, yêu mị đầy cả thế giới tam thiên đại thiên này muốn đến quấy nhiễu người mà nhất tâm xưng danh Quang Thế Âm thì tự nhiên bị hàng phục, chẳng thể xâm phạm, tâm ác chẳng sinh, chẳng nhìn bằng con mắt tà vạy.

Nếu người phạm tội, hoặc không có tội mà bị người ác, quan huyện bắt, trói thân, cùm chân, hoặc bỏ trong lao ngục nhất lại tra khảo tàn khốc mà nhất tâm hướng về xưng danh hiệu Quang Thế Âm thì nhanh chóng được giải thoát, mở cửa ngục đi ra, không ai có thể giữ lại, cho nên gọi là Quang Thế Âm.

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Cảnh giới Quang Thế Âm oai thần công đức sáng ngời khó có thể hạn lượng như vậy, nên gọi là Quang Thế Âm.

Phật bảo Vô Tận Ý:

– Này Tộc tánh tử! Giả sử bọn giặc cướp oán tặc đầy cả tam thiên đại thiên thế giới này cầm binh khí dao, gậy mác, mâu, kích muốn giết hại vạn dân, có một đoàn khách buôn đi ngang qua con đường có đạo tặc ấy mang theo bảo vật quý giá; vị dẫn đường sợ hãi thầm nghĩ: “Nơi này nhiều giặc, để không bị nguy hại và bị cướp đoạt tài bảo thì ta nên bày quyền kế thoát khỏi nạn này, chẳng gặp nguy hại”, bèn bảo các khách buôn”

– Không nên sợ sệt, hãy cùng nhau nhất tâm đồng cất tiếng xưng niệm oai thần Bồ-tát Quang Thế Âm. Bồ-tát sẽ liền tới ủng hộ khiến chúng ta không còn sợ hãi. Hãy đồng tâm hướng về để thoát các nạn, không gặp oán. Đoàn khách buôn nghe lời làm theo, đồng thanh xưng hiệu Quang Thế Âm, thân mạng hướng về nguyện xin thoát nạn sợ hãi này. Vừa xưng danh hiệu, giặc liền thoái lui không dám xúc phạm. Đoàn khách buôn thoát nạn, không còn sợ hãi. Cảnh giới oai đức của Bồ-tát Quang Thế Âm sáng ngời như thế, cho nên gọi là Quang Thế Âm.

Phật lại bảo Bồ-tát Vô Tận Ý:

– Nếu người tu học mà dâm, nộ, si còn mạnh, hãy hướng về lễ bái Bồ-tát Quang Thế Âm, thì dâm, nộ, si sẽ dừng; và quán vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) thì nhất tâm đắc định.

Nếu có người nữ không có con, muốn cầu con trai, con gái, hãy hướng về Bồ-tát Quang Thế Âm, nhất tâm tinh tấn hướng về ngài thì liền được con trai hay con gái. Là con gái thì mãi mãi đoan chánh, tướng mạo vô song, ai thấy cũng vui; nếu là con trai thì có tướng oai phong, mọi người yêu mến, mong mỏi muốn thấy, trồng các cội đức, không gây nghiệp tội. Oai thần, công đức, trí tuệ, cảnh giới của Quang Thế Âm cao vời như thế, người nào nghe danh hiệu thì mục đích đạt được không bao giờ hư vọng, không bị tà hại, đạt đến quả đạo đức vô thượng, thường gặp chư Phật, Chân nhân, Bồ-tát, Chánh sĩ có đức cao, không gặp lại người nghịch. Nếu nghe danh hiệu mà chấp trì nhớ tưởng thì công đức vô lượng chẳng thể tính kể. Nếu có người cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa các Bồ-tát thì các Bồ-tát ấy đều khiến hiện tại hành tâm Từ.

Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ trọn đời cúng dường áo mền, ẩm thực, giường, ngọa cụ, thuốc thang chữa bệnh, tất cả đều đầy đủ thì phước ấy nhiều chăng?

Vô Tận Ý thưa:

– Bạch Thế Tôn, nhiều chẳng thể hạn lượng! Vì sao? Vì các Bồ-tát ấy nhiều vô số ức chẳng thể thí dụ.

Phật dạy:

– Tuy cúng dường số Bồ-tát vô hạn ấy nhưng không bằng một lần hướng về Quang Thế Âm cúi đầu làm lễ, chấp trì danh hiệu, vì phước này hơn hẳn phước người kia, huống lại cúng dường, tuy cúng dường sáu mươi hai ức hằng hà sa số chư Bồ-tát so với sự chấp trì danh hiệu, kể hai phước này cả ức trăm ngàn kiếp cũng không thể hết được, nhưng rốt cuộc chẳng so sánh nhau được, cho nên gọi là Quang Thế Âm.

Khi ấy Bồ-tát Vô Tận Ý bạch Đức Phật:

– Quang Thế Âm vì nhân duyên gì dạo đi trong thế giới Kham nhẫn? Thuyết pháp như thế nào? Chí nguyện ra sao? Việc hành trì chánh pháp, phương tiện khéo léo cảnh giới thế nào?

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Bồ-tát Quang Thế Âm đã đi dạo trong thế giới, hoặc hiện thân Phật để ban bố tuyên dương giáo pháp, hoặc hiện dung mạo, hình tượng Bồ-tát để giảng kinh khai hóa, hoặc hiện thân Duyên giác, hoặc hiện thân Thanh văn, hoặc hiện thân vua trời Phạm thiên để giảng đạo kinh, hoặc hiện thân Kiền-đạp-hòa, muốn độ quỷ thần nên hiện thân hình quỷ thần; muốn độ bậc tôn quý hiện thân tướng tôn quý; hoặc lại thị hiện thân trời ở cõi Đại thần diệu, hoặc thân hình Chuyển luân thánh vương hóa độ bốn cõi, hoặc thân hình kỳ lạ, hoặc thân hình La-sát Phản túc, hoặc thân Tướng quân, hoặc hiện thân Sa-môn, Phạm chí, hoặc thân thần Kim cang, ẩn sĩ ở một mình, Tiên nhân, trẻ nít… Bồ-tát Quang Thế Âm dạo đi các cõi Phật đều hiện khắp biết bao nhiêu than hình, tại chỗ biến hóa khai độ tất cả.

Vì vậy, này Tộc tánh tử! Tất cả chúng sinh đều nên cúng dường Bồ-tát Quang Thế Âm. Vị Tộc tánh tử ấy, nơi nào mà chung quanh có sự sợ hãi liền khiến không sợ hãi; đã được không sợ hãi rồi, khiến đều an ổn, ai nấy vui mừng. Vì vậy nên Bồ-tát dạo đi trong thế giới Kham nhẫn.

Khi ấy, Bồ-tát Vô Tận Ý liền cởi trăm ngàn anh lạc báu nơi thân dâng lên Bồ-tát Quang Thế Âm, thưa:

– Cúi xin Chánh sĩ nhận pháp cúng dường này, là anh lạc báu đặc biệt đeo ở thân tôi.

Bồ-tát Quang Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa:

– Đã đến lúc, xin ngài thương xót nhận cho, đừng từ chối.

Khi ấy Bồ-tát Quang Thế Âm tự nghĩ: “Ta không dùng vật báu ấy”.

Vô Tận Ý thưa:

– Xin hãy thương xót các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-1a, Chân-đà-la, Ma-hầu-1ặc, Nhân phi nhân mà thọ nhận.

Bồ-tát Quang Thế Âm thọ nhận anh lạc báu, liền chia làm hai phần: một phần dâng cúng Đức Như Lai Năng Nhân, một phần đặt lên tháp báu để cúng dường Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác Đa Bảo.

Vị Tộc tánh tử ấy vì tất cả chúng sinh nên dùng thần túc biến hóa dạo đi trong thế giới Kham nhẫn, cứu tế khắp nơi.

Bấy giờ Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, tới trước bạch Đức Phật:

– Giả sử có người nghe công đức tu hành của Bồ-tát Quang Thế Âm trọn không hư dối, thì đời đời an ổn đạt đến tuệ vô cực. Bồ-tát Quang Thế Âm ấy thần túc biến hóa đến khắp cửa đạo, oai thần hiển hiện không cùng tột.

Phật nói phẩm Phổ Môn Đạo xong có tám vạn bốn ngàn người trong hội khi ấy đạt đến Vô đẳng luân, liền phát tâm đạo Vô thượng chánh chân.

***

Phẩm 24: TỔNG TRÌ

Khi ấy Bồ-tát Dược Vương liền từ chỗ ngồi đứng dạy, quỳ thẳng, chắp tay, bạch Đức Phật:

– Nếu Tộc tánh tử! Tộc tánh nữ nghe kinh Chánh Pháp Hoa này, thọ trì, tư duy, sao chép kinh quyển thì được phước như thế nào?

Phật dạy:

– Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì kinh này, tụng đọc, suy tư, sao chép kinh quyển, phước đức chẳng thể lường được, không lấy gì dụ được. Nếu Tộc tánh tử cúng dường tám mươi ức trăm ngàn vạn hằng hà sa các Đức Như Lai và nếu lại thọ trì tư duy sao chép kinh Chánh Pháp Hoa này và giảng thuyết cúng dường thì phước nào nhiều hơn? Theo ý ông thì sao? Nên nhất tâm phụng trì kinh điển hay là dùng y thực cúng dường chư Phật?

Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:

– Nếu Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì những điều cốt yếu của kinh Chánh Pháp Hoa, giữ gìn sao chép một bài tụng bốn câu, giảng thuyết, tụng đọc, hoặc phụng hành thành tựu đầy đủ thì phước ấy rất nhiều, hơn sự cúng dường vô số hằng hà sa chư Phật Thế Tôn.

Phật dạy:

– Rất đúng, cúng dường pháp là hơn hết!

Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:

– Con sẽ ủng hộ những người như thế. Các Tộc tánh tử, Tộc tánh nữ thọ trì kinh này thì đó là những Pháp sư, dùng nghĩa để hộ vệ khiến mãi mãi không bị họa hoạn.

Lại liền tụng chú rằng: “Suy tư kỳ dị, ý niệm vô ý, thực hành vĩnh cửu, tịnh tu đạm bạc. Ý chí thầm lặng giải thoát. Tế độ bình đẳng không tà vạy. Yên ổn hòa hợp khắp cả đồng đều. Diệt hết vô tận không gì hơn. Huyền mặc đạm nhiên Tổng trì. Ánh sáng chiếu soi có chỗ nương tựa bên trong. Rốt ráo thanh tịnh, không sa đọa, không cao thấp, không quay vòng không giáp vòng. Mắt thanh tịnh không gì bằng. Giác ngộ rồi độ thoát. Quan sát các pháp hợp với âm thanh nói ra. Hiểu rõ thì dừng lại, dẹp bỏ mọi giới hạn, giảng nói bằng các âm thanh mà hiểu được ý nghĩa không cùng tận của văn tự, không thế lực nào hơn được.”

Bồ-tát Dược Vương bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu chú mà sáu mươi hai hằng hà sa Đức Phật đã thuyết. Giả sử có ai phạm vào người trì chú này, hoặc lại chống đối hủy báng các vị Pháp sư chính là làm mất đạo giáo của chư Phật Thế Tôn.

Phật khen ngợi Bồ-tát Đại sĩ Dược Vương:

– Hay thay, hay thay! Nếu Tộc tánh tử nói câu chú ấy là vì chúng sinh thì nên thương tưởng ủng hộ chúng được nhiều an ổn.

Bấy giờ Bồ-tát Diệu Dũng bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Con đây cũng vì chúng sinh nên muốn khiến được vĩnh viễn an ổn. Nếu có người phụng trì kinh điển này, con trao câu chú này sẽ giúp những Phá p sư ấy khiến không ai rình tìm được chỗ sơ hở. Các loại quỷ mị như quỷ thần ở hầm xí, quỷ ống khói quỷ chán nản, quỷ đói, phản túc, tuy muốn quấy nhiễu, không được dễ dàng.

Bồ-tát Diệu Dũng chuyên tâm tư duy, rồi nói chú: “Ánh sáng lớn soi đến tràn trề hân hoan, mãi mãi kết tụ nơi đây, không hội không hợp.”

Đó là câu chú mà hằng hà sa chư Phật đã nói và đều cùng khuyến trợ. Như thế, nếu chống lại các Pháp sư thì giống như làm trái lời dạy của Như Lai, trở lại làm nguy hại mình.

Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiên vương bạch Phật:

– Con cũng sẽ nói câu chú này để tăng thêm lòng Từ, vì chúng sinh nên ủng hộ Pháp sư: “Giàu có sinh hý lộng. Không hý rộng thì có vô lượng. Không giàu thì làm sao giàu.” Dùng nó ủng hộ các Pháp sư, trong vòng trăm do-tuần, không có gì dám xúc phạm, sự bảo vệ được thuận lợi.

Này các Tộc tánh tử! Được như thế thì những người đến học với Pháp sư mới có thể thọ trì. Vì vậy, sự ủng hộ thường được tốt đẹp.

Khi ấy Thiên vương Thuận Oán và ức trăm ngàn vạn hương âm và quỷ, quyến thuộc vây quanh ngồi trong pháp hội cùng đi đến trước, bạch Phật:

– Kính bạch Thế Tôn! Con cũng sẽ nói câu chú này: “Không số lượng có số lượng sáng tối mang hương. Chúc dữ đại thể bằng lời thô bạo.”

Kính bạch Thế Tôn! Câu chú này do bốn ngàn hai trăm ức Đức Phật đã nói, vì vậy chú này ủng hộ cúng dường những người học kinh, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở.

Lúc bấy giờ có một quỷ mỵ tên Hữu Kết Phược, lại có quỷ tên Ly Kết, lại có quỷ tên Thi Tích, lại có quỷ tên Thi Hoa, lại có quỷ tên Thi Hắc, lại có quỷ tên Bị Phát, lại có quỷ tên Vô Trước, lại có quỷ tên Trì Hoa, lại có quỷ tên Hà Sở, lại có quỷ tên Thủ Nhất Thiết Tinh cùng mẹ con các quỷ, đi đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ thường ủng hộ các bậc Pháp sư ấy, làm gia tăng sự an ổn, khiến không ai tìm được chỗ dở của Pháp sư.

Khi ấy, các quỷ mỵ đồng cất tiếng đọc chú này ủng hộ Pháp sư: “Nay ngươi rất mực không ngã, không chấp ngã, không than, không chỗ chung cùng. Đã khởi, đã sinh, đã thành mà trụ mà kiến lập thì cũng trụ ở nơi ta thán, cũng chẳng tiêu hết đại tật không được xâm hại.” Đồng loại quyến thuộc của chúng con ủng hộ Pháp sư khiến không bị xâm phạm, tiêu trừ quỷ thần vọng mị, ngạ quỷ, quỷ ở chuồng xí, quỷ ống khói, cô đạo, phù chú, quỷ si cuồng điên giả dạng đi đến, hoặc hình quỷ thần và hình phi nhân, hoặc hai ngày ba ngày, hoặc đến bốn ngày, hoặc bị bệnh nhiệt luôn, lại nằm ngủ thấy ác mộng, hoặc hiện hình các nam nữ lớn nhỏ. Chúng con sẽ ủng hộ khiến không có loài nào rình tìm được chỗ sơ hở.

Khi ấy các quỷ mỵ ở trước Phật cùng nói bài tụng:

Xúc phạm đầu vỡ bảy

Giống như chẻ hoa rau

Sẽ như tội giết mẹ

Cùng giống họa hại cha

Có ai phạm Pháp sư

Đều sẽ bị tội này

Đời đời chẳng được an

Không gặp được chư Phật

Tội phá hoại chùa Phật

Tội quấy rối Thánh chúng

Như trộn các dầu mè

Dầu mè tụ một chỗ

Phóng lửa thiêu đốt hết

Tiêu rụi chẳng còn gì

Có người phạm Pháp sư

Sẽ bị tội như vậy

Giống như dãy núi lớn

Nhóm tội cấu dồn lại

Nếu ai phạm Pháp sư

Sẽ bị trọng tội này.

Các quỷ thần Quân Đầu… nói bài tụng ấy xong, liền bạch Phật:

– Chúng con đều ủng hộ các Pháp sư giống như thế, làm cho cá c vị thường an ổn, trừ bỏ oán địch, bảo vệ chung quanh để các vị không bị tổn hại. Nếu có người bỏ thuốc độc, thuốc độc không tá c dụng.

Khi ấy Phật khen ngợi các quỷ mị đã nói chú:

– Hay thay, hay thay! Các ngươi muốn hộ vệ các Pháp sư, nếu nghe kinh này tuyên trì danh hiệu, đức chẳng thể lường, huống là tùy thời thọ trì giảng nói, sao chép đầy đủ quyển kinh. Nếu dung đồ cúng dường như hoa hương, tràng phan, lọng, hương tạp, hương đảo, thắp đèn, treo tranh, thì chọn loại vừa ý, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng, đựng dầu tô dùng thắp đèn, cúng dường kinh này siêng tu không biếng trễ, thì phước gấp trăm ngàn ức không có giới hạn. Các ngươi nên hộ trì người học kinh tinh tấn như thế.

Khi Phật thuyết phẩm Tổng Trì này, sáu vạn tám ngàn người đạt được pháp Nhẫn vô sở tùng sinh.

***

Phẩm 25: TỊNH PHỤC TỊNH VƯƠNG

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Vào thuở quá khứ cách vô số kiếp, lâu xa khó lường, chẳng thể nghĩ bàn, bấy giờ có Phật hiệu là Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thế giới tên là Chiếu minh nghiêm sức, kiếp tên là Ái kiến.

Lại nữa, Tộc tánh tử! Vào đời Phật ấy, có vị vua tên là Tịnh Phục Tịnh. Bấy giờ, nhà vua có một chánh hậu tên là Ly Cấu Thi; hoàng hậu có hai người con, một tên là Ly Cấu Tạng, hai tên là Ly Cấu Mục; hai người con này đều đã đắc thần túc, cử động nhẹ nhàng có thể bay được; đầy đủ trí tuệ, công đức hoàn bị, quả Thánh cao vời, hành hạnh Bồ-tát, ngày đêm tinh tấn chưa từng biếng lười bỏ phế, hết lòng chuyên tinh tu sáu pháp Ba-la-mật, khéo dùng bốn Đẳng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả, cứu tế vô cùng, đều tuân hành và thong đạt ba mươi bảy pháp đạo phẩm, thông suốt đạo nghĩa, việc làm đã xong; định Tam-muội Tấn đãi ly cấu, Tam-muội Độ túc nhật quang, Tam-muội Ly cấu hiển diệu, Tam-muội Tịnh trang nghiêm, Tam-muội Đại oai tạng đều được thông đạt; nhờ những định Tam-muội này mà vượt qua bờ kia.

Bấy giờ Đức Phật tập hợp bốn chúng, Thích Phạm, Tứ Thiên vương, chư Thiên, nhân dân ban tuyên nói phân biệt kinh Chánh Pháp Hoa. Khi ấy Phật thương tưởng tất cả chúng sinh xót thương quốc độ, muốn cho hóa độ tất cả chúng sinh đi vào đại đạo.

Lại nữa, Tộc tánh tử, hai vị thái tử ấy đi đến chỗ mẹ chắp tay thưa:

– Cúi xin mẹ rủ lòng nghĩ tưởng xót thương, chúng con một long muốn đến chỗ Phật, tham kiến thân Như Lai, cũng muốn lễ bái quy y. Vì sao? Nay Đức Như Lai vì tất cả chúng sinh cõi trời, cõi người rộng tuyên yếu điển là kinh Chánh Phá p Hoa, chúng con phải kính cẩn nghe Chánh Pháp Hoa.

Hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử:

– Phụ vương các con, chí sùng ngoại đạo, tin ưa Phạm chí, thường ôm sân hận, vì vậy các con chẳng thể đi được.

Khi ấy hai thái tử lại đồng tâm chắp tay, thưa mẹ:

– Chúng con bạc số sinh nhằm nhà tà kiến vô nghĩa. Hơn nữa, chúng con vốn là con Đấng Pháp Vương sẽ dùng kinh đạo giáo hóa phàm tục uế trược bỏ ngụy hướng chân; như vậy mới là Phật tử.

Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi bảo hai thái tử:

– Hay thay, hãy thực hiện đi, các con là con chí hiếu! Vì cha mẹ mà tu đại từ mẫn, hiển hiện thần túc. Cha các con thấy xong, trong lòng vui vẻ cởi mở, mới nghe các con, cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ thọ giáo.

Khi ấy hai thái tử liền nghe lời mẹ dạy, thân vọt lên đứng trên hư không, cách đất bảy nhẫn, nghĩ thương cha mẹ, hiện oai thần biến, ở trên hư không, hai người cùng lúc ngồi, nằm, kinh hành, trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước; trên thân phun nước, dưới thân phóng lửa, tỏa ánh sáng lớn chiếu khắp xa gần, hiện thân to lớn rồi lại thu nhỏ; từ hư không hạ xuống đi vào trong đất; hoặc vào trong nước, từ đất vọt lên, ở trên hư không giống như đạp đất. Hai thái tử ấy hiện bao nhiêu biến hóa, hiển hiện thần túc dùng để khai hóa cha mẹ. Khi ấy vua cha thấy hai con thần túc biến hóa oai đức như thế, mừng vui tột độ, tâm thiện phát sinh, cúi thân chắp tay hướng về hai con, nói:

– Thầy của các con là ai mà các con thọ nhận được việc ấy?

Khi ấy hai Thái tử tâu với vua cha:

– Đại vương muốn biết Thầy của chúng con chăng? Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương là Thầy của chúng con, hiện nay đang ở dưới cây báu, ngồi trên pháp tòa vì bốn bộ chúng, chư Thiên, nhân dân quảng diễn tuyên bố kinh Chánh Pháp Hoa. Đức Phật Thế Tôn ấy chính là Thầy của chúng con.

Vua bả o hai con:

– Ta muốn đi đến chỗ Thầy của các con để đích thân kính cẩn nhận lãnh lời giáo huấn của Bậc Đại Thánh Vô Thượng Chánh Chân.

Khi ấy hai người con từ hư không hạ xuống đến chỗ mẹ, chắp tay thưa:

– Nhờ oai đức của mẹ nên cảm hóa được phụ vương; để vua cha tạo lập tâm Vô thượng chánh chân, nhờ đó mà thành tựu đạo nghiệp Thánh Tôn đã dạy. Xin mẹ thương tưởng cho chúng con đến chỗ Phật xuất gia tu đạo, được làm Sa-môn.

Khi ấy hai thái tử vì mẹ nói kệ:

Xin mẹ cho chúng con

Xuất gia làm Sa-môn

Như Lai rất khó gặp

Thời gian dài chuyên học

Đều gọi là khó gặp

Giống như hoa Linh thụy

Càng khó gặp hơn kia

Nhàn tịnh chẳng thể được.

Khi ấy hoàng hậu Ly Cấu Thi dùng tụng bảo:

Mẹ đồng ý các con

Lành thay, con chóng đi

Bậc Thánh rất khó gặp

Mẹ cũng cùng xuất gia.

Bấy giờ, hai thái tử tán thán bằng bài pháp tụng ấy để báo đáp cha mẹ xong, lại thưa với phụ vương và mẫu hậu:

– Cúi xin cha mẹ đồng nhất tâm cùng đi đến chỗ Phật Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương và cũng để kính yết lễ bái quy y Đức Thế Tôn. Vì sao? Cha mẹ nên biết, gặp Phật ra đời rất khó; giống như hoa tình thụy, cũng như minh châu như ý tối thượng, Phật cũng như vậy, chẳng thể gặp lại. Vì vậy chúng con sinh lại chốn này, tâm niệm xuất gia công đức đệ nhất. Vì thế cho nên, cha mẹ chẳng nên ngăn cản mà nên chấp thuận, và bảo rằng: “Tốt lắm! Cho phép các con được xuất gia tu học, vứt bỏ ái dục, xả nghiệp thế tục. Vì sao? Vì được gặp Như Lai, là phước may vô lượng. Mạng người khó được, đời có Phật khó gặp; xa lìa tám nạn, được nhàn tịnh là khó, như chết sống lại.”

Phụ vương và hoàng hậu đáp lời Thái tử:

– Được, nên biết đã đúng lúc!

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Bấy giờ trong cung của vua Tịnh Phục Tịnh có tám vạn bốn ngàn công nhân thể nữ, do cội đức đời trước được lãnh thọ kinh Chánh Pháp Hoa này, nên vốn là bậc đạo khí. Thái tử Ly Cấu Mục đời trước vốn tu hành tích chứa công đức từ lâu xa vô hạn. Thái tử Ly Cấu Tạng vào thuở đời trước xa xưa trong vô số trăm ngàn ức kiếp đã từng tu hành chánh định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhất thiết ác thú . Sao gọi là chánh định Tam-muội Khí ư chúng sinh nhất thiết ác thú? Chánh hậu của vua, bà Ly Cấu Thi, mẹ của hai thái tử, hiểu rõ tất cả các pháp của chư Phật trong mười phương, các pháp yếu của chư Phật, tạng bí mật và Thánh tuệ vô cực của chư Phật, dùng quyền phương tiện hiện làm thân nữ vậy.

Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Khi ấy vua Tịnh Phục Tịnh thấy hai thái tử hiện thần túc giáo hóa dẫn vào pháp chí chân của Như Lai, đã đạt đến siêu việt, lần lượt nhiều người đều được độ thoát; tất cả hạng mù tối đều vào đạo sáng, liền tự phát tâm cùng với bốn vạn hai ngàn quyến thuộc, hoàng hậu Ly Cấu Thi cùng với bè bạn, thể nữ ở trong cung quần thần, bách quan theo hai thái tử đồng thời đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, lui về chỗ ngồi, theo vị trí đã có sẵn.

Khi ấy Đức Phật thấy vua Tịnh Phục Tịnh cùng với đông đảo quyến thuộc tự đến quy y, Ngài dựa vào bản hạnh, quán nhân duyên xưa, mà nói pháp cho họ, theo bệnh cho thuốc, ai cũng hiểu rõ, tâm thiện phát sinh, mừng vui phấn chấn. Ngay khi đó, quốc vương cùng chánh hậu Ly Cấu Thi và hai thái tử, cung nhân, thể nữ, tất cả người trong cung bỏ nước, bỏ cung vua làm Sa-môn. Sau khi làm Sa-môn rồi, trải qua tám vạn bốn ngàn năm tất cả để vâng giữ tu tập đạo nghiệp, tư duy quán sát yếu nghĩa của kinh Chánh Pháp Hoa, tụng đọc, làm theo như lời Phật dạy, không hề sai trái.

Vua Tịnh Phục Tịnh cùng quyến thuộc cung kính tuân hành siêng tu kinh Chánh Pháp Hoa trong tám vạn bốn ngàn năm xong liền đạt các cội đức và Tam-muội chánh định nghiêm tịnh. Vừa đạt định này, Vua tức thời vọt lên hư không, cách đất bốn trượng chin thước, đứng trên hư không, từ xa bạch với Đức Như Lai Chí Chân Tổng Thủy Lôi Âm Tú Hoa Tuệ Vương:

– Hai người con ấy chính là Thánh sư đã hóa đạo chúng con. Nhờ ân đức ấy, biểu hiện thần túc, hiển dương biến hóa, con nhờ chứng kiến sự hóa hiện thần biến ấy mà tâm được khai mở, bỏ tục vào đạo làm theo lời Phật dạy, vượt qua ách uế trược, thuận theo pháp luật trụ vững vô cực, được phụng sự Như Lai, nhận lãnh kinh pháp, là bậc Chí thánh không còn thiện sư nào trên nữa. Hai người con ấy thị hiện làm con sinh vào nhà con, đều là do công đức sang suốt đời trước, nương vào tâm nhân từ của Phật, chẳng phải là chỗ nghĩ bàn của kẻ phàm phu.

Phật bảo vua:

– Đúng vậy, đúng vậy, đại vương! Như lời đại vương đã nói, hai vị thái tử ấy, vì trước đã gieo trồng phước đức nên mới thị hiện, vì muốn khai hóa vua, quyến thuộc và tất cả chúng sinh.

Phật dạy:

– Nếu Tộc tánh tử và Tộc tánh nữ học kinh điển ấy thì sinh ra chỗ nào, xoay vần sau trước dễ gặp thầy giỏi tuyên nói lời dạy của Thế Tôn, được vững vàng nơi đạo Vô thượng chánh chân, khai hóa chỉ dẫn, độ thoát tất cả; đó là việc làm vô cực vi diệu, lần lượt dạy nhau, lần lượt thành tựu cho nhau, đạt đến chỗ Thánh đế vô cực, gặp Phật là bậc Pháp Vương; do gặp Thầy giỏi nên được gặp Như Lai thọ nhận kinh pháp; nhờ ân khuyến trợ nên nay vua gặp được hai vị thái tử ấy. Các Tộc tánh tử ấy đời trước đã từng cúng dường phụng sự sáu mươi lăm ức trăm ngàn triệu vạn hằng hà sa Đức Như Lai Chí Chân và lại thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa ấy, thương xót chúng sinh, chìm trong chín mươi sáu loại tà kiến chẳng có thể tự cứu, nên khai hóa họ khiến trụ chánh kiến, tu hành tinh tấn cầu đạo lớn của Phật.

Khi ấy Phật dạy:

– Này Tộc tánh tử! Vua Tịnh Phục Tịnh vào đời ấy khen ngợi các công đức, từ trên hư không hạ xuống liền đến trước Phật chắp tay bạch với Đức Phật: “Xin Phật nói rõ Đức Như Lai Chí Chân vào đời trước hành công đức gì mà Thánh tuệ cao vời, tướng giữa đôi mày phát ra ánh sáng chiếu vô số nước và con mắt sáng đẹp thấy khắp mười phương; tướng giữa đôi mày trắng như kha tuyết, mềm mại mịn đẹp rực rỡ nhuận sáng, bằng phẳng không vẹo, chỗ nào cũng chiếu sáng. Khuôn mặt Thế Tôn đầy đặn như mặt trời, đạo mục an trú như trăng mới mọc, tất cả chiêm ngưỡng không biết chán?”

Khi ấy quốc vương nói tụng:

Công huân Ngài thù dị

Nhiều ức trăm ngàn muôn

Hư không còn thể dụ

Tuệ Ngài chẳng thể lường.

Phật dùng tụng đáp:

Đời trước hành trung chánh

Bình đẳng thí cho người

Cho nên tướng giữa mày

Chiếu khắp không hạn lượng

Khai thị cho đèn tuệ

Mắt sáng hơn trời trăng

Mắt như trăng vừa m ọ c

Thấy khắp mười phương cõi.

Khi ấy vua khen ngợi rồi chắp tay bạch Phật:

– Thật chưa từng có, lời giáo huấn của Như Lai Chí Chân từ bi rộng lớn vô hạn, công đức đầy đủ chẳng thể nghĩ bàn, diễn bày đạo nghĩa, ban dạy pháp cấm, khiến không tội lỗi, hoạn nạn đường dài đều không còn nữa.

Kính bạch Thế Tôn! Như con hôm nay, tâm chẳng phóng dật, do được tự tại chẳng rơi đường tà, từ bỏ tự đại, không theo hư ngụy, cũng không ân hận, chẳng khởi tâm ác và các nghiệp tà hại. Việc nước rất nhiều nhưng con muốn xuất gia tu học, chẳng trở về cung; con muốn quy y và dâng phẩm vật cúng dường.

Phật dạy:

– Rất tốt!

Khi ấy, vua liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật. Chánh hậu của vua, bà Ly Cấu Thi cởi trăm ngàn anh lạc báu đeo trên thân để rải trên Phật. Do oai thần của Phật hóa thành tấm màn bảy báu đan xen, trong tấm màn đẹp đẽ lạ thường ấy tự nhiên có giường, trải bằng vô số tọa cụ khác lạ, Như Lai ngồi trên đó. Khi ấy quốc vương tâm tự nghĩ: “Thật chưa từng có. Thế Tôn Chí đức ở trong tấm màn đan xen, trông thấy Như Lai thật đoan chánh, oai thần rực rỡ, màu sáng đệ nhất, dung mạo đầy đặn sạch đẹp không gì sánh bằng. Nguyện khiến cho tất cả đều nhờ phước này.

Bấy giờ Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:

– Các ông có thấy vua Tịnh Phục Tịnh nhất tâm chắp tay đứng trước Phật chăng?

Đều đáp:

– Đã thấy.

Phật bảo:

– Này Tỳ-kheo! Vua ấy trong đời hiện tại này là học trò của ta hiện thân làm Tỳ-kheo. Vào đời tương lai sẽ được làm Phật hiệu là Chủng Đế Vương Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiên Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước của Phật ấy tên là Quang phổ, kiếp tên là Siêu vương. Vào thời Phật ấy, các chúng Bồ-tát chẳng thể tính đếm, các chúng Thanh văn cũng vô số. Thế giới của Phật ấy bằng phẳng như bàn tay, không có lồi lõm, không có cát sỏi đá. Khi được làm Phật, oai thần của vị ấy vời vợi, to lớn vô cùng, sáng chói như thế.

Như Lai Năng Nhân bảo:

– Này Tộc tánh tử! Các vị muốn biết vua Tịnh Phục Tịnh phát đạo tâm lúc ấy chăng? Đâu phải người nào lạ. Chớ tưởng như thế. Vì sao? Vì đó chính là Bồ-tát Liên Hoa Thủ hiện nay. Muốn biết hoàng hậu Ly Cấu lúc đó chăng? Nay chính là Bồ-tát Quang Chiếu Nghiêm Sức; ngài thường nghĩ đến các Bồ-tát, thương xót chúng sinh nên sinh vào nước ấy khai hóa độ thoát họ. Muốn biết hai thái tử lúc ấy chăng? Nay chính là Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Siêu Dược. Lại nữa, này Tộc tánh tử, Bồ-tát Dược Vương Bồ-tát Siêu Dược, công đức cao vời vô hạn như thế đã ở chỗ vô số ức trăm ngàn vạn Đức Chư Như Lai vị trồng các cội đức. Hai vị Chánh sĩ Bồ-tát ấy, đạo đức hoàn bị, chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có ai nghe danh hai vị Chánh sĩ này thì nên luôn chấp trì, tất cả mọi người đều nên lễ kính. Học sĩ như thế, cõi trời, nhân gian đều quy ngưỡng.

Khi Phật nói về sở hành ở đời quá khứ, tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, chứng Pháp nhãn tịnh.

***

Phẩm 26: PHỔ HIỀN

Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền và chư Bồ-tát vượt qua hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông đi đến, làm chấn động các cõi Phật, rải các hoa sen, trổi trăm ngàn muôn ức kỹ nhạc, ca ngợi công Đức Như Lai. Nương vào đại thần túc biến hóa vô cùng của vị Khai sĩ Bồ-tát ấy, thân của vị Đại Bồ-tát oai thần chói lọi, Thánh chỉ huyền diệu, chiếu khắp mười phương, cùng các Trời, Rồng, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, tất cả đều dẫn theo quyến thuộc, đều hiển bày thần túc chẳng thể nghĩ bàn, đến núi Linh Thứu, đi tới chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, nhiễu Phật bảy vòng và bạch với Đức Phật:

– Chúng con từ cõi Phật Bảo Siêu Oai Vương Như Lai đến. Nhân nay Thế Tôn đang diễn kinh Chánh Pháp Hoa, cho nên chúng con đến thế giới nhẫn này muốn được nghe và thọ trì, cùng vô số trăm ngàn các Bồ-tát cũng ưa nghe diễn bày đạo nghĩa. Hay thay, Thế Tôn! Cúi xin thương xót, đúng thời ban nói tuyên giảng kinh Chánh Pháp Hoa. Nếu là thân người nữ, tu hành pháp gì mà được phụng trì kinh này.

Phật liền bảo Bồ-tát Phổ Hiền:

– Này Tộc tánh tử! Người nữ có bốn Pháp sự nên được kinh này. Những gì là bốn?

1. Thường kiến lập, hộ trì sở kiến của chư Phật.

2. Tích lũy công đức, chẳng hề biếng trễ.

3. Có thể phân biệt giảng hóa chỗ quy tụ những điều cốt yếu một cách rốt ráo.

4. Ủng hộ khắp chúng sinh phát khởi điều chưa phát khởi.

Đó là bốn điều để được kinh này.

Khi ấy Bồ-tát Phổ Hiền bạch Phật:

– Sau này vào thời kỳ cuối của đời mạt pháp năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, con sẽ luôn ủng hộ khiến vị ấy được an ổn, trừ các cuồng loạn, các độc không hoành hành, khiến không ai rình tìm chỗ sơ hở. Có người thọ kinh này đều được hộ vệ, khiến ma Ba-tuần không thể nhiễu loạn và khiến các thuộc hạ, các quỷ, thần, rồng, quỷ bên song, quỷ chuồng xí, trùng độc, phù chú không hoành hành được, cúi mình lánh đi; thường nhất tâm ủng hộ Pháp sư, khiến luôn an ổn. Nếu có Tỳ-kheo học kinh điển này, ngồi, đứng, kinh hành, tinh tấn tu tập, con sẽ cùng với các Bồ-tát quyến thuộc vây quanh, cỡi voi ngựa, xe cộ cùng đi đến chỗ vị Tỳ-kheo Pháp sư ấy để hộ trì kinh này. Người nào thọ trì tư duy kinh Chánh Pháp Hoa này, khiến không quên mất ý nghĩa một câu thì con sẽ cỡi xe đến chỗ vị học sĩ ấy, để vị ấy tự mắt trông thấy. Vì người học kinh thấy con sẽ vui mừng lại càng siêng học. Con sẽ giúp Pháp sư đạt được Tam-muội, lại đạt được pháp Tổng trì hồi chuyển, lại sẽ thành tựu bao nhiêu trăm ngàn ức Tổng trì châu toàn, hiểu rõ tất cả âm Tổng trì.

Kính bạch Thế Tôn! Vào thời kỳ sau cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược trên năm mươi năm, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ thọ kinh điển này, chỉ nói cho đồng học thọ trì, sao chép, mến mộ, vì người khác nói và vào thời sau cùng của đời mạt pháp hơn năm mươi năm nếu ai có thể thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa này mà tâm vẫn hiểu nghĩa, tinh tấn không bỏ phế, đến hai mươi mốt ngày sự tu hành gần đầy đủ, đạt đến các hạnh; trong hai mươi mốt ngày chuyên cần, tâm gắn liền với pháp, tự hiện đức sáng rỡ khả kính thì con cùng với các quyến thuộc lớn, nhỏ tùy tùng nương sáu thần thông hiện đến chỗ Pháp sư khuyến trợ Pháp sư trong hai mươi mốt ngày chuyên tu pháp này, khiến tâm vị ấy khai mở, đạt được pháp tổng trì. Nhưng nếu Phá p sư không giáo hóa chúng sinh, hoặc không khuyến trợ, chẳng khai hóa, phi nhân được thuận tiện thì dù là Pháp sư cũng không được ủng hộ, không đạt an ổn. Vì vậy người học thường hành tinh tấn, con nương oai thần Phật hộ vệ Pháp sư. Nếu có Pháp sư giữ gìn chánh pháp của Phật siêng năng tinh tấn thì nên nghe Tổng trì này: “Vô ngã trừ ngã. Nhân ngã phương tiện. Tân nhân hòa trừ. Rất nhu nhuyễn. Câu nhu nhược thấy chư Phật. Nhân các Tổng trì thực hành các thuyết. Khéo hồi chuyển, tập họp tất cả trừ các thú. Vô số các câu các số trong ba đời, vượt hữu vi, nêu các pháp hiểu rõ tiếng chúng sinh. Sư tử vui thú.”

Kính bạch Thế Tôn! Đó là câu Tổng trì. Nếu có Bồ-tát tai nghe câu Tổng trì này, lọt vào tai thì phải biết ấy là chỗ kiến lập công đức của Bồ-tát Phổ Hiền là kinh Chánh Pháp Hoa nầy. Nếu lưu bố khắp thiên hạ trong cõi Diêm-phù-lợi gặp kinh này mà tâm thường nhớ nghĩ, thì phải biết đó là do oai thần của Bồ-tát Phổ Hiền, khiến cho mọi người đến với kinh này. Những chúng sinh ấy ở chỗ vô số Đức Phật chứa các cội đức, Như Lai Chí Chân dùng tay xoa đầu. Nếu có người sao chép, bưng trên tay thì đó là tôn thờ thân Phật, kính mến đạo pháp, kính chép kinh này. Sao chép kinh rồi muốn hiểu nghĩa lý thì khi mạng chung được sinh lên cõi trời Đao-lợi; vừa sinh lên cõi trời, liền có tám vạn bốn ngàn vương nữ cõi trời đánh đàn, ca tụng cúng dường và được làm Thiên tử, ngồi giữa vương nữ cùng chung vui. Nếu Tộc tánh tử chỉ sao chép kinh ấy mà công đức như thế, huống là tụng đọc tư duy ý nghĩa trong đó. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Người nào nhất tâm siêng tu kinh Chánh Pháp Hoa, sao chép, thọ trì kinh quyển, thường tư duy tất cả chẳng quên, thì nên lễ bái người ấy, vì sao chép kinh này nên được phước đức ấy, sẽ được thấy ngàn Đức Phật đưa tay, khi lâm chung cũng được diện kiến ngàn Đức Phật, dạo chơi chốn an lành, không đọa cõi ác. Sau khi mạng chung, được sinh lên cõi trời Đâu-suất.

Vừa sinh lên trời, có tám vạn bốn ngàn chúng ngọc nữ đến nơi, trổi các kỹ nhạc ca tụng phước đức, ở bên ngọc nữ cùng vui bằng chánh pháp; vị Tộc tánh tử ấy sao chép kinh này công đức còn như thế, huống là tụng đọc, tuyên thuyết, tư duy ý nghĩa. Vì vậy, siêng năng tu tập đầy đủ, sao chép, tuyên truyền, tư duy phụng hành kinh Chánh Pháp Hoa chuyên cần nhất tâm, chí chưa từng loạn, vào lúc lâm chung, ngàn Phật đưa tay, diện kiến ngàn Phật, chẳng đọa cõi ác. Vào lúc mạng chung sẽ sinh đến cõi trời Đâu-suất ở chỗ Phật Di-lặc, thành Bồ-tát, có ba mươi hai tướng trang nghiêm thân, ức ngàn ngọc nữ quyến thuộc vây quanh. Vì vậy kẻ trí thường nên siêng tu, sao chép, diễn nói, tư duy kinh điển này.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người sao chép, tư duy, tụng đọc kinh này thì phước đức vô lượng, chẳng thể đo lường, cao vời như thế. Vì vậy người trí sao chép, thọ trì kinh này sẽ đạt được biết bao công đức. Vì thế, con kiến lập kinh này với dụng ý rộng lớn của con là siêng niệm đạo pháp lưu bố khắp nơi trong cõi Diêm-phù-lợi.

Bấy giờ Đức Như Lai Năng Nhân Chí Chân bảo Phổ Hiền:

– Hay thay, hay thay! Ông đã phát tâm thương tưởng đến nhiều chứng sinh, tinh tấn siêng năng hộ trì Bồ-tát ở tương lai, khuyến dẫn họ pháp chẳng nghĩ chẳng bàn này, tâm sẵn lòng thương bao la, trong khoảng phát tâm thâu nhiếp vô lượng hạnh; tay cầm quyển kinh, kiến lập ủng hộ. Nếu có người thọ trì, niệm danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền thì nên biết, người ấy thấy Đức Phật Năng Nhân, trước đó đã từng nghe pháp giống như vậy, cúng dường phụng sự, thấy Phật Năng Nhân tuyên giảng kinh đạo, khen rằng “Hay thay!” và được Như Lai xoa đầu thì nên biế là công đức của Phổ Hiền. Người ấy được oai lực của Phật hộ trì; Phật dùng y phục che chở cho; người đó thọ nhận lời dạy của Như Lai, chẳng ưa sự nghiệp thế tục, chẳng ưa chơi đùa, cùng bọn ton hót, chẳng thích ca vũ, chẳng đi ra ngoài, chẳng vào chỗ sát sinh, nuôi heo gà vịt, chẳng theo nữ nhân làm việc tà quấy. Nếu nghe kinh này mà sao chép, thọ trì, phúng tụng, tuyên thuyết, tư duy, phụng hành pháp tự nhiên như thế, bên trong tinh chuyên, tự khởi phước lực thì tất cả chúng sinh nếu thấy cũng đều ái kính.

Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì chẳng bị dâm, nộ, si trói buộc, chẳng bị tham lam, tật đố, tự đại buộc ràng, chẳng ôm long kiêu mạn, ương bướng tự chuyên, ương ngạnh, tà kiến, tư lợi, mà tự biết đủ. Nếu có Pháp sư tu hành đạt đến bậc hiền và hơn năm mươi năm, vào khoảng cuối cùng của thời mạt pháp trong đời năm trược, nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, tư duy, hiểu nhớ thì nên biết các Tộc tánh tử ấy chắc chắn đến đạo tràng hàng phục ma quân, chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi loa pháp, tuôn mưa pháp, ngồi trên pháp tòa Sư tử. Vào thời kỳ cuối cùng của thời mạt thế, thọ trì kinh này, công đức như thế.

Lại nữa, Tỳ-kheo chẳng dựa vào lợi dưỡng, chẳng tham y bát, thì những Pháp sư ấy tâm tánh chất trực, không dua nịnh, chẳng rơi vào si ám; hiện tại những vị ấy tự nhiên như thế. Nếu có Tỳ-kheo thọ trì kinh này, đời đời chẳng quên, sinh ra thông minh trí tuệ, chưa từng bị đui điếc, hiện tại an ổn, không có hoạn nạn. Nếu hủy bang kinh này, chê bai người học, thọ trì, lại còn phỉ báng thì người ấy hiện tại bị bệnh hủi, thấy người sao chép kinh này, chẳng phải là việc mình có thể làm, mà đùa cợt thì khi sinh ra ở chỗ nào, thân thể cũng khuyết tật, bị lửa thiêu đốt, thường bị tranh tụng, mặt mũi sinh ghẻ lở, chân tay cong queo, miệng mắt chẳng ngay thẳng, thân thể hôi hám, sinh ghẻ lở, thuốc men chẳng lành, khốn khổ khó nói. Nếu nói kinh này mà có người nghe thấy lại nói lỗi người nói thì tăng thêm ác bất thiện, điều nói ra không phải là lời thành thật, tin theo thì phạm tội ác, bị tai ương vô lượng, chỗ ở bất an.

Phật dạy:

– Vì vậy, này Phổ Hiền! Nếu thấy Tỳ-kheo thọ trì kinh này thì từ xa đứng lên cung kính nghênh đón, phụng sự như phụng sự Như Lai. Quy mạng Phật hiện tại thế nào thì quy mạng Pháp sư ấy cũng như vậy không khác, mới đúng với lời Phật dạy.

Khi Phật nói phẩm Phổ Hiền này, có hằng hà sa số ức trăm ngàn vạn các chúng Bồ-tát đều chửng đắc Tổng trì.

***

Phẩm 27: CHÚC LỤY

Bấy giờ Thế Tôn Năng Nhân từ pháp tòa đứng dậy, biến chư Bồ-tát cùng một sắc tướng và thị hiện thần túc nhấc toàn đại hội đặt trên bàn tay phải, tán thán:

– Này các Tộc tánh tử! Phật từ vô số ức trăm ngàn kiếp chẳng thể tính kể, tích lũy tu hành mới thành đạo Vô thượng chánh chân, đã đạt đến vô cực nên đặt chư Hiền yên trên bàn tay phải, giở lên và hạ xuống chỉ do nghĩ biết. Chư vị phải nhận lãnh kinh này, thọ trì, phúng tụng, tuyên đọc, nên vì chúng hội phân biệt diễn thuyết, khiến cho khắp quần sinh được nghe thấy.

Lại nữa, Tộc tánh tử! Tâm không chấp trước, không được giấu giếm kinh Chánh Pháp Hoa này, ý chí không sợ hãi, bố thí trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự tại, đó là pháp thí giải thoát tối thượng. Nên họe hạnh Phật, nên khiến cho mọi người được nghe dù tới hay chẳng tới đều đến được chỗ chẳng đến, nên siêng năng nghe thọ kinh điển quan trọng này; đối với người chẳng tin, nên khiến cho tin; nên khuyên quần sinh thâm nhập tôn pháp. Này các Tộc tánh tử! Người có thể làm như vậy thì nê n biết, đó là sự kiến lập của Như Lai.

Khi ấy các Bồ-tát được Thế Tôn Năng Nhân khen ngợi đều vui mừng hớn hở, càng thêm kính trọng, cúi mình đứng một bên; chắp tay cúi đầu đảnh lễ, hướng về Đức Phật Năng Nhân đồng thanh thưa:

– Xin làm theo lời dạy của Thế Tôn, không dám trái nghịch, thuận theo điều Phật đã nói một cách đầy đủ. Xin Thế Tôn chớ lo nghĩ.

Các Bồ-tát thưa bạch ba lần như vậy, rồi đi đến khắp nơi trong mười phương ban tuyên Thánh chỉ.

Bấy giờ Đức Năng Nhân Chánh giác khiến tất cả chư Thế Tôn từ mười phương thế giới đến, đều tùy nghi trở về chỗ cũ. Khi ấy mười phương Phật đều đáp:

– Như Lai cũng nên tùy nghi trở về chốn cũ. Đức Thế Tôn Như Lai Chánh Giác Đa Bảo ở trong giảng đường của tháp bảy báu liền trở về chỗ cũ. Các Đức Như Lai cũng đều về chỗ cũ.

Khi Phật thuyết kinh này, chư Phật ở vô lượng cõi Phật khác trong mười phương đến đây, ngồi trên tòa Sư tử, dưới cây Bồ-đề, Như Lai Đa Bảo và các Bồ-tát, các vị học hạnh khác đang ở trước Phật vô số vô lượng chẳng thể tính kể, cùng với các Bồ-tát từ dưới đất vọt lên, và chúng đại Thanh văn, bốn bộ chúng, các Trời, Rồng, Thần, A-tu-luân, Kiền-đạp-hòa, Nhân dân ở thế gian nghe lời Phật dạy, ai cũng hoan hỷ.

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Hoa Tam Muội - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 13 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Ðại Tịnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 14 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng