1
2
3
4
5
6
7

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch

Bản Việt dịch của Thích Trí Quang

***

CUỐN 1

Phẩm 1: Mở Đầu

Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế Tôn ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỷ kheo mười hai ngàn vị, toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Đại Ca Diếp, tôn giả Tần Loa Ca Diếp, tôn giả Già Da Ca Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Chiên Diên, tôn giả A Nâu Lâu Đà, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, tôn giả Ly Bà Đa, tôn giả Tất Lăng Già, tôn giả Bạc Câu La, tôn giả Câu Hy La, tôn giả Nan Đà, tôn giả Tôn Đà Ra Nan Đà, tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả A Nan Đà, tôn giả La Hầu La, đại loại như vậy, những vị A La Hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, có Tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủ cùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫu tôn giả La Hầu La là Tỷ kheo ni Trì Dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Chúng đại Bồ tát có tám mươi ngàn, toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, được các pháp tổng trì, được các tài hùng biện mà trong đó có sự biện thuyết hoan hỷ, biện thuyết về pháp không thoái chuyển; đã phụng sự vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấy, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa mình bằng đức tính từ bi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng quốc độ, hoá độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Thường Tinh Tấn, Bồ tát Bất Hưu Tức, Bồ tát Bảo Chưởng, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dũng Thí, Bồ tát Bảo Nguyệt, Bồ tát Nguyệt Quang, Bồ tát Mãn Nguyệt, Bồ tát Đại Lực, Bồ tát Vô Lượng Lực, Bồ tát Việt Tam Giới, Bồ tát Hiền Hộ, Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Bảo Tích, Bồ tát Đạo Sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ tập.

Chư Thiên thì có Đế Thích cùng hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, và bốn vị đại thiên vương, cùng mười hai ngàn thiên nhân tùy thuộc; Tự Tại thiên tử và Đại Tự Tại thiên tử cùng ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn, cùng các Phạn vương đại loại Phạn vương Thi Khí, Phạn vương Quang Minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập.

Các bộ khác thì có tám Long vương là Hỷ, Hiền Hỷ, Diêm Hải, Cửu Đầu, Đa Thiệt, Vô Nhiệt Não, Từ Tâm và Hồng Liên Hoa, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Khẩn na la vương là Pháp và Diệu Pháp, Đại Pháp và Trì Pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Càn thát bà vương là Nhạc và Nhạc Âm, Mỹ và Mỹ Âm, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc; có bốn A tu la vương là Tối Thắng, Dục Cẩm, Yến Cư và Hấp Khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Ca lâu la vương là Đại Uy Đức, Đại Thân, Đại Mãn và Như Ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc, đều đến tụ tập. Nhân loại thì có con Hoàng hậu Vi Đề Hy là Hoàng đế A Xà Thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến tụ tập.

Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.

Vào lúc này, đức Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói cho các vị Bồ tát bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Thế Tôn vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hội mà nhập định. Vị trí của Nghĩa Vô Lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động.

Ngay khi ấy chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức Thế Tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng là Tỷ kheo và Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương và các vị luân vương, hết thảy các chúng như vậy đều được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế Tôn.

Còn đức Thế Tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hội ở thế giới hệ này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạo và đắc đạo trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu mà tôn thờ.

Bấy giờ đức Di Lặc suy nghĩ, hôm nay đức Thế Tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có điềm lành như vậy? Đức Thế Tôn đang nhập định, sự thể ngoài sự nghĩ bàn ấy biểu hiện cảnh tượng hiếm có này, ta nên hỏi ai, ai giải đáp được? Đức Di Lặc lại nghĩ, bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế Tôn như vầy, nên đem hỏi ai? Đức Di Lặc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tát Văn Thù, vì lý do nào mà có điềm lành — có cảnh tượng thần biến là đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật ấy? Đức Di Lặc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn Thù bằng những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Văn Thù đại sĩ,

vì lý do nào

mà đức Thế Tôn,

vị thầy dẫn đạo,

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

phóng ánh sáng lớn

chiếu soi khắp cả?

(2) Chư thiên mưa xuống

bao nhiêu hoa quí

mạn đà mạn thù,

và thổi làn gió

hơi thơm đàn hương,

đẹp lòng đại hội.

(3) Vì vậy mặt đất

cả quốc độ này

rực rỡ huy hoàng,

và cả quốc độ

đều chấn động lên

đủ hết sáu cách.

Làm cho bốn chúng

hoan hỷ tất cả,

cơ thể tâm trí

đều thấy thích thú,

cảm nhận sự thể

chưa bao giờ có.

(4) Chỉ một ánh sáng

phóng từ lông trắng

giữa hai đầu mày

chiếu soi hướng đông,

mà khiến một vạn

tám ngàn quốc độ

đều như màu sắc

ánh từ vàng ròng.

(5) Trong các quốc độ

được chiếu như vậy,

từ Vô gián ngục

đến Sắc cứu cánh,

hết thảy chúng sinh

thuộc cả sáu loài

sinh từ loài này

chết đến loài khác,

(6) Hành vi lành dữ,

kết quả tốt xấu,

ở quốc độ này

mà thấy rõ cả.

(7) Lại thấy chư Phật,

chúa của thánh hiền,

tuyên thuyết kinh pháp

tinh túy bậc nhất,

bằng tiếng trong thanh

xuất lời hòa nhã

mà dạy bồ tát

vô số ức vạn.

(8) Bằng tiếng Phạn thiên

thâm thúy kỳ diệu

khiến người thích nghe,

chư Phật ở nơi

quốc độ của mình

diễn giảng chánh pháp,

vận dụng vô số

yếu tố, ví dụ,

soi sáng chánh pháp

thức tỉnh chúng sinh:

(9) Ai bị khổ não,

chán già bịnh chết,

thì nói cho họ

về pháp niết bàn,

để họ diệt tận

biên cương khổ não.

(10) Ai có phước đức

từng hiến cúng Phật,

chí cầu đạt được

chân lý cao hơn,

thì nói cho họ

về pháp duyên giác.

(11) Còn các con Phật

làm mọi hạnh nguyện

để cầu thành tựu

tuệ giác vô thượng,

thì nói cho họ

tuệ giác trong suốt.

(12) Văn Thù đại sĩ,

tôi ở nơi đây

mà thấy và nghe

đến như thế đó,

có ngàn ức việc.

Việc nhiều như vậy

nay tôi chỉ kể

một cách vắn tắt.

(13) Tôi thấy bồ tát

như cát sông Hằng,

của trong tất cả

thế giới hệ ấy,

đem mọi yếu tố

cầu tuệ giác Phật.

(14) Có người thực hành

hạnh nguyện bố thí:

bạc, vàng, san hô,

chân châu, ma ni,

xa cừ, mã não,

kim cương, của quí,

tôi tớ, xe thuyền,

vật để cỡi, chở,

(15) xe liễn, xe dư

trang hoàng vàng ngọc,

cũng rất hoan hỷ

mà đem hiến cho,

rồi hồi hướng cả

về nơi trí Phật,

(16) nguyện được xe Phật

cỗ xe bậc nhất

trong cả ba cõi,

được Phật tán dương.

(17) Hoặc có bồ tát

cho xe quí báu

kéo bởi bốn ngựa,

lại có lan can

mui trần hoa mỹ

mái riềm trang hoàng.

(18) Lại thấy bồ tát

cho thân cho thịt

cho tay cho chân

cho cả vợ con,

quyết chí đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(19) Lại thấy bồ tát

cho đầu cho mắt

cho cả thân thể _

cho mà vui thích,

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(20) Văn Thù đại sĩ,

tôi thấy vua chúa

đi đến chỗ Phật

hỏi pháp vô thượng,

rồi từ bỏ liền

đất nước thịnh vượng,

bỏ cả cung điện

đình thần hậu phi,

(21) cạo sạch râu tóc

mà mặc pháp y.

(22) Hoặc thấy bồ tát

mà làm tỷ kheo,

chỉ ở một mình

nơi chỗ thanh vắng,

vui vẻ thích thú

đọc tụng kinh điển.

(23) Lại thấy bồ tát

dũng mãnh tinh tiến,

vào chốn núi sâu

suy nghĩ trí Phật.

(24) Lại thấy bồ tát

tách rời dục vọng,

thường xuyên trú ở

những chỗ trống vắng,

tu sâu thuyền định

được năm thần thông.

(25) Lại thấy bồ tát

chân đứng vững vàng

tư tưởng tập trung

hai tay chắp lại,

đem cả ngàn vạn

bài văn chỉnh cú

hoan hỷ ca tụng

các đấng Pháp vương.

(26) Lại thấy bồ tát

trí sâu, nhớ chắc

có thể thưa hỏi

chánh pháp nơi Phật,

nghe rồi tiếp nhận

ghi nhớ đủ cả.

(27) Lại thấy con Phật

đủ cả định tuệ,

áp dụng vô số

mọi sự ví dụ,

diễn giảng chánh pháp

cho các chúng khác;

(28) lại vui thuyết pháp

giáo hóa bồ tát,

chiến thắng ma vương

và binh đội nó,

rồi gióng lớn lên

tiếng trống chánh pháp.

(29) Lại thấy bồ tát

vắng bặt im lặng,

trời rồng cung kính

không lấy làm mừng.

(30) Lại thấy bồ tát

ở trong núi rừng

mà phóng ánh sáng

cứu khổ địa ngục,

thức tỉnh cho họ

hướng vào trí Phật.

(31) Lại thấy con Phật

chưa từng ngủ nghỉ,

kinh hành trong rừng

siêng cầu trí Phật.

(32) Lại thấy có vị

giới pháp đầy đủ,

uy nghi vẹn toàn,

sạch sẽ trong suốt

in như ngọc quí

để cầu trí Phật.

(33) Lại thấy con Phật

trụ vào sức nhẫn,

bao kẻ thượng mạn

mắng nhiếc đánh đập

vẫn nhẫn được cả

để cầu trí Phật

(34) Lại thấy bồ tát

từ bỏ trò chơi,

bỏ luôn những kẻ

thân thuộc ngu dốt,

chỉ biết thân gần

những người thánh trí,

(35) chuyên nhất tâm ý

trừ bỏ loạn động,

trú ở núi rừng

tập trung tư tưởng,

trải qua ức vạn

những năm như vậy

để cầu thành tựu

tuệ giác Phật đà.

(36) Hoặc thấy bồ tát

cỗ bàn quí trọng,

thức uống, đồ ăn,

các loại dược phẩm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(37) Y phục danh tiếng

và thượng hảo hạng,

giá trị ngàn vạn

hoặc đến vô giá,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(38) Nhà cửa quí báu

bằng gỗ đàn hương,

trong đó đồ nằm

rất tốt và đẹp,

nhà và đồ ấy

nhiều đến vạn ức,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(39) Vườn rừng quang đãng,

trong đó đủ cả

hoa trái tốt nhiều,

suối chảy ao tắm,

đều đem hiến cúng

Phật bảo Tăng bảo.

(40) Đồng đẳng như vậy,

họ đem hiến cúng

đủ hết những thứ

rất là tinh tế,

mà lòng hoan lạc

không biết nhàm chán,

chí quyết đạt đến

tuệ giác vô thượng.

(41) Hoặc có bồ tát

bằng nhiều minh chứng,

nói về nguyên lý

tuyệt đối vắng lặng,

huấn dụ vô số

các loại chúng sinh.

(42) Hoặc thấy bồ tát

xét thấy bản thể

tất cả vạn hữu

in như hư không:

không những khái niệm

thuộc về nhị biên.

Lại thấy con Phật

tâm không vướng mắc,

đem tuệ mầu này

cầu tuệ vô thượng.

(43) Văn Thù đại sĩ,

có những bồ tát

Phật nhập diệt rồi

hiến cúng xá lợi.

(44) Lại thấy con Phật

dựng bao chùa tháp

nhiều bằng Hằng sa

tô điểm quốc độ.

(45) Tháp thì tráng lệ,

làm bằng bảy báu,

chiều cao có đến

năm ngàn do tuần,

chu vi rộng đến

hai ngàn do tuần.

(46) Mỗi một chùa tháp

cờ phan cả ngàn,

màn được kết ngọc,

chuông nhỏ hòa reo,

tám bộ thiên long,

loài người loài khác,

thường đem hiến cúng

hoa hương, kịch nhạc.

(47) Văn Thù đại sĩ,

những con Phật ấy

chính vì hiến cúng

xá lợi của Phật

mà cố trang hoàng

những ngôi chùa tháp,

nên cả quốc độ

tự nhiên tráng lệ

tuyệt diệu tuyệt hảo,

in như cây chúa

của trời Đế Thích

toàn bộ nở hoa.

(48) Thế Tôn chỉ phóng

một đường ánh sáng

mà làm cho tôi

và cả đại hội

thấy quốc độ này

đủ mọi vẻ đẹp.

(49) Những thần thông lực

của đức Thế Tôn

thật là hiếm có:

chỉ phóng một đường

ánh sáng rực rỡ

mà chiếu khắp cả

vô lượng quốc độ.

(50) Làm cho chúng tôi

nhìn cảnh tượng này

ai cũng cảm được

sự chưa từng có.

Phật tử Văn Thù,

xin hãy giải thích

cho nỗi nghi ngờ

của cả đại hội.

(51) Tất cả bốn chúng

thích thú trông ngóng,

nhìn vào nhân giả

và nhìn vào tôi.

(52) Ai cũng muốn biết

tại sao Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này?

(53) Phật tử Văn Thù,

hãy đáp ứng gấp,

giải tỏa nghi ngờ

cho họ hoan hỷ:

vì ích lợi nào

mà đức Thế Tôn

phóng ra ánh sáng

đến như thế này –

(54) Chánh pháp tinh túy

mà đức Thế Tôn

đã chứng ngộ được

trong khi mới ngồi

nơi bồ đề tràng,

ngài muốn tuyên thuyết

về chánh pháp ấy,

hay muốn thọ ký?

(55) Ánh sáng Thế Tôn

đã làm hiện ra

cho chúng tôi thấy

bao nhiêu cõi Phật

đẹp và sáng lên

với những ngọc quí,

lại được thấy cả

chư vị Phật đà,

thì đó không phải

là sự kiện nhỏ.

(56) Văn Thù đại sĩ,

nên biết tất cả

bốn chúng tám bộ

và các chúng khác,

nhìn xem nhân giả

nói cho thế nào?

Lúc ấy bồ tát Văn Thù nói với đức Di Lặc, và các vị đại sĩ khác, chư vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì đức Thế Tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị thiện nam tử, nơi chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức Thế Tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vậy. Muốn làm cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó tin, nên đức Thế Tôn biểu hiện điềm lành như vầy.

Chư vị thiện nam tử, như trong quá khứ, lâu đến rất nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ngài tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủ hết sắc thái phạn hạnh trắng trong. Ấy là người cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua sinh, già, bịnh, chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng, nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả.

Kế đó lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một tên, tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, và cùng một họ, họ Phả La Đọa. Di Lặc đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối cùng đều cùng một tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, cùng đủ mười đức hiệu, và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vương tử, thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Cả tám vương tử đều uy đức tự tại, thống lãnh bốn đại lục. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua mà xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn vạn đức Phật.

Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng đã nói bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại hội mà ngồi xếp bằng, nhập định vị trí của nghĩa vô lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống hoa Mạn Đà, hoa Mạn Đà lớn, hoa Mạn Thù, hoa Mạn Thù lớn, rải trên đức Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, chuyên chú mà chiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phật nào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị đang thấy.

Di Lặc đại sĩ, đại sĩ nên biết, trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy thì cũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh sáng ấy.

Bấy giờ có một vị bồ tát tên Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, nhân bồ tát Diệu Quang mà nói bản kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ, không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ mà thân thể và tâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng giữa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bàn hoàn toàn.

Bấy giờ có bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bằng cách nói với chư vị Tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức Tạng này sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệu Tịnh Thân, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Thọ ký rồi, ngay giữa đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu Quang ghi nhớ Pháp Hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ. Tám vương tử con đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn thờ bồ tát Diệu Quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, phụng sự rất nhiều ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm đệ tử của bồ tát Diệu Quang, có một vị tên là Cầu Danh, đam mê danh lợi, dẫu cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên mới có cái tên Cầu Danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc rễ điều lành mà được gặp rất nhiều ức đức Phật, hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Di Lặc đại sĩ, đại sĩ nên biết bồ tát Diệu Quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây, còn bồ tát Cầu Danh thì chính là đại sĩ. Ngày nay thấy điềm lành như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế Tôn hiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh Đại thừa tên là Pháp Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát Văn Thù muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(57) Tôi nhớ quá khứ

vô số thời kỳ,

có đức Phật đà,

bậc tôn cao nhất,

danh hiệu ngài là

Nhật Nguyệt Đăng Minh.

(58) Đức Phật đà ấy

tuyên thuyết chánh pháp

hóa độ vô lượng

các loại chúng sinh,

và vô số ức

các vị Bồ tát,

làm cho vào được

tuệ giác Phật đà.

(59) Có tám vương tử

con của Phật sinh

lúc chưa xuất gia,

thấy Phật xuất gia

cũng xuất gia theo

thực hành phạn hạnh.

(60) Bấy giờ Phật nói

bản kinh đại thừa

tên Nghĩa Vô Lượng,

giảng giải rộng rãi

nghĩa lý vô lượng

cho cả đại hội.

(61) Phật tuyên thuyết xong

bản kinh ấy rồi,

liền ngồi xếp bằng

ngay trên pháp tòa,

nhập định Vị trí

của nghĩa vô lượng.

(62) Chư thiên mưa xuống

hoa mạn đà la,

và trống chư thiên

tự kêu vang rền;

tám bộ thiên long

dùng hoa trống ấy

hiến cúng lên bậc

tôn cao nhất người.

(63) Toàn cõi Phật này

đồng thời chấn động.

Và rồi đức Phật

phóng ra ánh sáng

từ nơi lông trắng

giữa hai đầu mày,

biểu hiện đủ cả

cảnh tượng hiếm có.

(64) Ánh sáng như vậy

chiếu soi một vạn

tám ngàn cõi Phật

ở về hướng đông,

biểu hiện cho thấy

tất cả những chỗ

các loại chúng sinh

sinh ra chết đi,

hành động lành dữ,

hưởng chịu tốt xấu.

(65) Lại được nhìn thấy

có những cõi Phật

toàn thể trang hoàng

bằng bao vàng ngọc,

ánh lên màu sắc

lưu ly pha lê;

đại hội thấy được

đến như thế này

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(66) Lại thấy tất cả

tám bộ thiên long

cùng với nhân loại

tại mỗi quốc độ

cùng nhau hiến cúng

đức Phật của mình.

(67) Lại thấy chư Phật

tự thành Phật tuệ,

thân như núi vàng

cực kỳ tráng lệ.

Các ngài ở giữa

đại hội thánh hiền

diễn giảng nghĩa ý

của pháp sâu xa,

thì trông giống như

những tượng vàng thật

hiện trong các khối

lưu ly trong suốt.

(68) Trong mỗi cõi Phật,

thanh văn vô số,

cũng nhờ ánh sáng

của Phật chiếu soi

mà thấy rõ cả

chúng thanh văn ấy.

(69) Thấy chư tỷ kheo

ở trong núi rừng,

tinh tiến giữ giới

như giữ ngọc sáng.

(70) Lại thấy bồ tát

nỗ lực bố thí

kiên trì nhẫn nhục,

số bồ tát ấy

nhiều như hằng sa

mà thấy được cả,

là do ánh sáng

của Phật chiếu soi.

(71) Thấy các bồ tát

tinh tiến nhập định

một cách sâu xa,

thân tâm bất động,

đem thiền định ấy

cầu trí vô thượng.

(72) Thấy các bồ tát

biết rất thấu suốt

thật tướng vắng lặng

của tất cả pháp,

thuyết thật tướng ấy

nơi quốc độ mình,

đem bát nhã này

cầu thành trí Phật.

(73) Bấy giờ bốn chúng

được thấy đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

biểu hiện thần lực

đến như thế ấy,

lòng họ hoan hỷ

và cùng hỏi nhau,

rằng cảnh tượng này

vì lý do nào

mà Phật biểu hiện?

(74) Khi ấy đức Phật,

đấng mà trời người

ai cũng tôn thờ,

vừa mới xuất định,

tức thì khen ngợi

bồ tát Diệu Quang:

(75) Ông là con mắt

của cả thế gian!

Ai cũng qui về

tin tưởng nơi ông!

Ông kính giữ được

kho tàng chánh pháp!

Kho tàng chánh pháp

mà rồi Như Lai

sẽ nói hết ra,

chỉ ông chứng biết!

(76) Đức Phật khen ngợi

làm cho bồ tát

Diệu Quang hoan hỷ,

rồi nói Pháp Hoa

suốt hết sáu mươi

thời kỳ bậc nhỏ.

(77) Và pháp tối thượng

tuyệt diệu như vậy

được Phật tuyên thuyết

mà không đứng dậy

rời khỏi pháp tòa,

pháp sư Diệu Quang

vẫn tiếp nhận được

và ghi nhớ cả.

(78) Đức Phật tuyên thuyết

về kinh Pháp Hoa

làm cho các chúng

hoan hỷ cả rồi,

liền trong ngày ấy

ngài bảo các chúng:

(79) Thật tướng các pháp

Như Lai đã đem

nói cho các người.

Giữa đêm hôm nay

Như Lai sẽ nhập

niết bàn hoàn toàn.

(80) Các người cần phải

một lòng tinh tiến

chuyên chú vào pháp

Như Lai đã nói,

còn sự phóng dật

nên tránh thật xa;

vì lẽ chư Phật

rất là khó gặp,

vạn ức thời kỳ

mới thấy một lần.

(81) Đệ tử của Phật

nghe Phật loan báo

sắp sửa nhập diệt,

ai cũng đau buồn

nghĩ Phật nhập diệt

sao mà mau chóng.

(82) Vị chúa thánh triết

và vua các pháp

an ủi các chúng:

sau khi Như Lai

nhập niết bàn rồi

các người đừng lo.

(83) Bồ tát Đức Tạng

tâm trí thấu triệt

thật tướng thuần khiết,

sẽ kế Như Lai

thành đức Phật đà

danh hiệu Tịnh Thân,

và cũng hóa độ

vô lượng các chúng.

(84) Rồi giữa đêm ấy

đức Phật nhập diệt

như củi mà hết

thì lửa cũng tắt.

Sau đó xá lợi

được phân bủa ra

và xây dựng lên

vô số bảo tháp.

(85) Chư vị tỷ kheo

và tỷ kheo ni

số lượng nhiều đến

như cát sông Hằng,

lại càng nỗ lực

tinh tiến hơn lên

để cầu đạt được

tuệ giác vô thượng.

(86) Phần ngài Diệu Quang,

pháp sư bồ tát,

kính giữ kho tàng

chánh pháp của Phật,

trải qua tám mươi

thời kỳ bậc nhỏ

tuyên thuyết rộng rãi

Diệu Pháp Liên Hoa.

(87) Còn tám vương tử

thì nhờ bồ tát

Diệu Quang khai hóa,

tất cả đều được

vững chắc đối với

tuệ giác vô thượng,

nên sau gặp được

vô số Phật đà.

(88) Các vị phụng sự

chư Phật như vậy,

cùng nhau đi theo

con đường vĩ đại,

nên kế tiếp nhau

được thành Phật cả,

và theo thứ tự

thọ ký cho nhau.

(89) Đức Phật cuối cùng,

vị trời nhất trời,

danh hiệu ngài là

Nhiên Đăng Như Lai,

bậc thầy dẫn đạo

các vị hiền triết,

độ cho giải thoát

vô số các chúng.

(90) Pháp sư Diệu Quang

có một đệ tử

tính thường biếng nhác

đam mê danh lợi,

(91) cầu hồ danh lợi

một cách không chán,

nên hay giao du

với nhà dòng dõi,

bỏ bê kinh pháp

đã được tụng tập,

nên hay quên mất

chứ không thông suốt.

(92) Vì lý do ấy

có tên Cầu Danh.

(93) Nhưng cũng thực hành

đủ các pháp lành,

gặp được vô số

chư vị Phật đà,

phụng sự hiến cúng

Phật đà như vậy

và cũng đi theo

con đường vĩ đại,

hoàn thiện sáu pháp

đến bờ bên kia,

nên nay lại gặp

Sư tử họ Thích.

(94) Thì gian sau ngài,

sẽ kế làm Phật

với danh hiệu là

Di Lặc từ tôn,

cứu độ rộng rãi

các loại chúng sinh

mà số lượng ấy

không thể tính kể.

(95) Sau khi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

nhập niết bàn rồi,

người hay biếng nhác

chính là đại sĩ,

còn vị pháp sư

bồ tát Diệu Quang

là bản thân tôi.

(96) Chính tôi xưa kia

Ở nơi đức Phật

Nhật Nguyệt Đăng Minh

đã từng thấy được

điềm lành ánh sáng

như tôi vừa nói.

(97) Vì vậy tôi biết

Thế Tôn ngày nay

chủ ý muốn nói

về kinh Pháp Hoa.

(98) Cảnh tượng hiện nay

giống điềm lành cũ,

và là phương tiện

của chư Thế Tôn:

Thế Tôn ngày nay

phóng ánh sáng lớn

là để hổ trợ

phát hiện thật tướng.

(99) Chư vị nên biết

chủ ý như vậy,

và hãy chắp tay

nhất tâm mà chờ.

Thế Tôn sẽ đổ

nước mưa chánh pháp,

sung túc những người

cầu tuệ giác Phật.

(100) Tất cả những người

cầu ba cỗ xe

nếu có điều gì

hoài nghi hối tiếc,

thì vị Toàn giác

sẽ giải trừ cho –

giải trừ sạch hết,

không còn sót lại.

***

Phẩm 2: Phương Tiện

Khi ấy đức Thế Tôn thung dung xuất định, nói với tôn giả Xá lợi Phất, tuệ giác Như Lai sâu xa vô tận, cửa ngõ tuệ giác ấy khó biết khó vào. Hết thảy Thanh văn Duyên giác không thể biết thấu. Vì sao, vì Như Lai đã từng thân gần vô số chư Phật, thực hành trọn vẹn vô số các pháp đạt đến tuệ giác vô thượng mà chư Phật ấy đã thực hành, dũng mãnh tinh tiến, danh tiếng vang khắp, thành tựu sự chưa từng có rất là sâu xa, ấy là tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu.

Xá lợi Phất, từ khi trở thành bậc Toàn giác cho đến ngày nay, Như Lai đem mọi thứ yếu tố và mọi sự ví dụ mà diễn rộng các cách lập luận, vận dụng vô số phương tiện ấy dẫn dắt chúng sinh thoát được sự vướng mắc vào điểm này hay điểm khác. Tại sao Như Lai làm được như vậy? Vì Như Lai đã hoàn thành sự thấy biết toàn hảo và sự phương tiện toàn hảo.

Xá lợi Phất, sự thấy biết của Như Lai rộng lớn sâu xa: những phẩm chất của sự thấy biết ấy đại loại như:

– bốn tâm vô hạn,

– bốn trí thông suốt,

– mười đại năng lực,

– bốn sự không sợ,

– bốn thiền,

– bốn định,

– tám sự giải thoát,

– ba pháp tam muội,

Như Lai đã đi sâu vào một cách không có giới hạn, nên thành tựu sự chưa từng có nói trên. Do đó, Xá lợi Phất, Như Lai phân tích và khéo nói các pháp, lời chữ hòa nhã, đẹp lòng mọi người. Lấy cốt yếu mà nói, thì sự chưa từng có có tính cách vô lượng vô biên, Như Lai đã thành tựu đầy đủ.

Xá lợi Phất, thôi, không nên nói nữa, vì sự chưa từng có, và khó hiểu bậc nhất ấy, mà Như Lai đã thành tựu, là chỉ Như Lai với chư vị Như Lai mới cứu xét cùng tận và tuyên thuyết khéo léo về thật tướng các pháp. Thật tướng ấy là biểu hiện như vậy, đặc tính như vậy, bản thể như vậy, năng lực như vậy, động tác như vậy, nhân tố như vậy, duyên tố như vậy, kết quả như vậy, hình thành như vậy, toàn bộ như vậy.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Vô lượng những bậc

anh hùng trong đời,

chư thiên nhân loại

hết thảy chúng sinh,

không ai hiểu thấu

đối với Như Lai.

(2) Mười đại năng lực

bốn sự không sợ

tám sự giải thoát

ba pháp tam muội

cùng với bao nhiêu

phẩm chất Phật đà

mà Như Lai có,

thì không một ai

có thể biết được

một cách tận cùng.

(3) Vốn từ vô số

chư Phật Như Lai

Như Lai trọn vẹn

thực hành các pháp

tuệ giác vô thượng,

là pháp cực kỳ

sâu xa tinh túy

khó mà thấy biết.

(4) Trải qua vô lượng

vạn ức thời kỳ,

thực hành trọn vẹn

các pháp ấy rồi,

Như Lai đến ngồi

nơi bồ đề tràng,

được đại thành quả

biết rõ tất cả.

(5) Đại thành quả này

biết rõ những nghĩa

biểu hiện như vậy

đặc tính như vậy…

chỉ có Như Lai

cùng với mười phương

chư Như Lai khác

mới biết như vậy.

(6) Và pháp như vậy

không thể phô bày,

khái niệm ngôn ngữ

bặt dấu ở đây.

(7) Hết thảy chúng sinh

không ai hiểu nổi,

trừ chư bồ tát

đức tin vững chắc.

(8) Những con Phật khác

dẫu từng hiến cúng

chư Phật Như Lai,

phiền não đã hết,

đã đến trạng thái

thân này là thân

sống chết cuối cùng,

các vị như vậy

năng lực của họ

cũng vẫn bất kham.

(9) Giả sử tràn đầy

thế giới loài người

ai nấy đều như

Xá lợi Phất cả,

cùng tận tư duy

chung nhau suy lường,

cũng không lường được

tuệ giác Như Lai.

(10) Nếu thật đầy khắp

mười phương quốc độ

ai nấy đều như

Xá lợi Phất cả,

hoặc như các vị

đại đệ tử khác

cũng đầy khắp cả

mười phương quốc độ,

(11) cùng tận tư duy

chung nhau suy lường,

vẫn không biết được

tuệ giác Như Lai.

(12) Các vị Duyên giác

trí tuệ lanh lợi

phiền não không còn,

thân họ cũng là

cái thân cuối cùng;

các vị như vậy

cũng đầy mười phương

như một rừng tre,

(13) cùng nhau một lòng,

trải qua vô lượng

vạn ức thời kỳ,

suy nghĩ cho thấu

tuệ giác chân thật

mà Như Lai có,

cũng vẫn không thể

biết được ít phần.

(14) Các vị bồ tát

mới phát tâm chí,

phụng sự vô số

chư Phật Như Lai,

thấu triệt pháp nghĩa

lại khéo thuyết pháp;

(15) các vị như vậy

như lúa như tre,

tràn đầy khắp cả

mười phương quốc độ,

(16) kết hợp vận dụng

trí tuệ tinh tế,

trải qua thời kỳ

nhiều bằng hằng sa,

chung sức tư duy

chung nhau ước lượng,

cũng không biết được

tuệ giác Như Lai.

(17) Các vị bồ tát

đã không thoái chuyển,

số lượng nhiều bằng

cát của sông Hằng,

cùng nhau tìm xét

cũng không biết được.

(18) Này Xá lợi Phất,

cái pháp cực kỳ

sâu xa, tinh túy,

không còn sai sót,

ngoài tầm nghĩ bàn,

Như Lai đã biết

một cách đầy đủ.

Và chỉ Như Lai

mới biết pháp ấy,

cũng như chư vị

Như Lai mười phương

mới biết như vậy.

(19) Này Xá lợi Phất,

tôn giả nên biết

lời Như Lai nói

không có mâu thuẫn.

Đối với cái pháp

của Như Lai nói,

các người phải có

đức tin lớn lao.

Bởi vì nguyên tắc

của chư Như Lai

sau thì gian dài

phải nói sự thật.

(20) Cho nên ngày nay

Như Lai tuyên cáo

với chư Thanh văn

và chư Duyên giác,

những người đã được

Như Lai làm cho

thoát khổ thắt buộc

đạt được niết bàn,

(21) rằng đó chỉ là

Như Lai vận dụng

năng lực phương tiện

thiết ba cỗ xe,

để ai vướng mắc

bất cứ chỗ nào

Như Lai cũng dắt

cho được thoát ra.

Lúc ấy trong đại hội có một ngàn hai trăm vị A la hán đã hết phiền não, thuộc chúng Thanh văn, đại loại như tôn giả Kiều trần Như, cùng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, những người tâm chí thanh văn duyên giác, đều nghĩ như vầy, tại sao hôm nay đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện, bằng cách nói rằng pháp Như Lai được cực kỳ sâu xa tinh túy và khó hiểu, rằng Như Lai nói gì ý hướng cũng khó biết, rằng hết thảy thanh văn duyên giác không thể đạt đến? Đức Thế Tôn nói về sự giải thoát đồng nhất thì chúng ta cũng thành tựu sự ấy, đạt đến niết bàn. Nhưng hôm nay thì chúng ta không biết sự ấy về đâu.

Tôn giả Xá lợi Phất biết nỗi hoài nghi trong lòng bốn chúng và chính mình cũng chưa thấu triệt, nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, vì yếu tố chính và yếu tố phụ nào mà đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện bậc nhất của ngài là pháp sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Hồi nào đến giờ con chưa hề nghe đức Thế Tôn nói như vậy. Hiện giờ bốn chúng đều nghi ngại. Con thỉnh cầu đức Thế Tôn giải thích vấn đề này cho chúng con: vì lý do nào mà ngài ân cần tán dương sự phương tiện của ngài là sâu xa, tinh túy và khó hiểu?

Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(22) Mặt trời tuệ giác,

bậc đại thánh triết,

lâu rồi mới nói

điều đặc biệt này.

Là ngài tự nói

bao nhiêu phẩm chất

mà Như Lai có,

đại loại như là

mười đại năng lực

bốn sự không sợ

ba pháp tam muội

bốn thiền bốn định

tám sự giải thoát,

toàn là những pháp

trên sự tư duy

ngoài tầm thảo luận.

(23) Ngài tự nói đến

pháp mà ngài biết

trong khi ngài ngồi

nơi Bồ đề tràng,

chứ không một ai

có thể hỏi thấu.

Ngài lại tự nói

ý ngài khó biết,

điều này cũng không

một ai hỏi được.

(24) Không ai hỏi được,

chỉ ngài tự nói,

tán dương con đường

mà ngài đã đi,

tán dương tuệ giác

cực kỳ tinh túy

mà như chư Phật,

ngài đã đạt được.

(25) Các vị La Hán

đã hết phiền não,

cùng với những vị

cầu được Niết bàn,

hôm nay cùng sa

vào lưới ngờ vực:

Thế Tôn vì gì

tự nói như vậy?

(26) Những vị cầu được

tuệ giác duyên giác,

các vị tỷ kheo

và tỷ kheo ni,

cùng với tất cả

tám bộ thiên long,

ai cũng bối rối

mà nhìn lẫn nhau

và nhìn lên ngài,

một bậc hoàn hảo

cả hai phương diện

phước đức tuệ giác.

(27) Bạch đức Thế Tôn,

việc này thế nào?

xin ngài giải thích

cho chúng con rõ.

(28) Trong chúng Thanh văn,

Thế Tôn nói con

là bậc thứ nhất,

nhưng nay chính con

tự mình đối với

tuệ giác của mình

cũng sinh nghi hoặc:

không rõ tuệ ấy

đã là cứu cánh

hay phải tới nữa?

(29) Bao nhiêu con Phật

sinh từ miệng Phật

nay đang chắp tay

ngước nhìn chờ đợi,

ước mong Thế Tôn

xuất ra âm thanh

cực kỳ tuyệt diệu,

kịp thời nói cho

về pháp của ngài

đúng như pháp ấy.

(30) Tám bộ thiên long

số bằng hằng sa,

chư vị Bồ tát

cầu tuệ giác Phật

số lượng đại khái

cũng có tám vạn.

(31) Lại còn xuất từ

vạn ức các nước,

các vị luân vương

cùng nhau đến đây,

ai cũng chắp tay

đem lòng cung kính

mong muốn được nghe

con đường hoàn hảo.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, thôi thôi, không nên nói. Nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên và nhân loại, sẽ kinh sợ ngờ vực. Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Vì đại hội này nhiều đến trăm ngàn, vạn ức, vô số, có nhiều người từng gặp chư Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng tỏ, nghe đức Thế Tôn dạy thì có thể kính tin.

Tôn giả Xá Lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói lời chỉnh cú sau đây:

(32) Bạch đức Vô Thượng,

vị vua các pháp!

xin ngài dạy cho

không cần e ngại.

Đại hội các chúng

vô số như vầy,

tất có những người

có thể kính tin.

Đức Thế Tôn lại ngăn tôn giả Xá Lợi Phất, rằng nếu Như Lai nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, sẽ cùng kinh sợ, ngờ vực, những vị tỷ kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hố lớn.

Đức Thế Tôn lặp lại ý ngài bằng lời chỉnh cú sau đây:

(33) Thôi thôi, đừng hỏi!

Pháp của Như Lai

tinh túy, khó biết.

Những kẻ thượng mạn

nghe nói pháp ấy

tất không kính tin.

Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Nay trong đại hội này, những người như con, và trăm ngàn vạn ức người, đời đời đã từng tiếp nhận sự giáo hóa của đức Thế Tôn; những người như vậy chắc chắn có thể kính tin, ổn định lâu dài và lợi ích lớn lao. Tôn giả Xá Lợi Phất lặp lại ý mình bằng những lời chỉnh cú sau đây:

(34) Thưa đấng Vô Thượng,

phước trí toàn hảo!

xin ngài dạy cho

cái pháp bậc nhất.

Con là con trưởng

của đức Thế Tôn,

con thỉnh cầu ngài

dạy cho chúng con.

Trong đại hội này

có vô số người

có thể kính tin

về pháp ngài dạy.

(35) Đời đời liên tiếp,

Thế Tôn đã từng

giáo hóa tiếp độ

những người như vầy.

Nay họ chắp tay

đồng nhất tâm nguyện

muốn nghe và nhận

lời Thế Tôn nói.

(36) Những người như con

một ngàn hai trăm,

cùng với các vị

cầu tuệ giác Phật,

xin đức Thế Tôn

vì những người này

rủ lòng thương xót

mà giảng giải cho.

Những người này đây

nghe được pháp này

thì lòng sinh ra

hoan hỷ cùng cực.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tôn giả đã thiết tha thỉnh cầu đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy tôn giả hãy lắng nghe, hãy khéo nghĩ và khéo nhớ! Như Lai sẽ phân tích giảng giải cho tôn giả. Khi đức Thế Tôn dạy như vậy, trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ đức Thế Tôn mà lui ra.

Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại. Đức Thế Tôn cũng yên lặng mà không ngăn cản. Ngài bảo tôn giả Xá lợi Phất, đại hội này của Như Lai nay không còn trấu lép, mà chỉ toàn là hạt chắc. Xá lợi Phất, tăng thượng mạn như những người kia thì lui ra cũng tốt. Bây giờ tôn giả hãy nghe cho khéo, Như Lai sẽ giảng giải cho tôn giả. Tôn giả Xá lợi Phất thưa, dạ, bạch đức Thế Tôn; chúng con ước nguyện và thích thú muốn nghe.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, cái pháp tinh túy này Như Lai thỉnh thoảng mới nói, như hoa ưu đàm thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Xá lợi Phất, chư vị hãy tin lời Như Lai nói không trống rỗng, dối trá. Xá lợi Phất, Như Lai tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Tại sao, vì Như Lai hoạt dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà diễn đạt về pháp. Pháp ấy không phải tư duy phân tích mà lĩnh hội được. Pháp ấy chỉ có chư Phật Như Lai mới chứng biết.

Sự thể là chư Phật Như Lai chỉ vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất hiện thế gian. Xá lợi Phất, lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian là gì?

– Là chư Phật Như Lai muốn làm cho chúng sinh khai mở sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian,

– muốn chỉ thị cho chúng sinh sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian,

– muốn làm cho chúng sinh tỉnh ngộ sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian,

– muốn làm cho chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian.

Xá lợi Phất, như thế đó là lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian. Và Xá lợi Phất, như thế đó tức là chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát, nghĩa là làm gì cũng thường vì một việc, ấy là đem sự thấy biết của Phật mà chỉ thị cho chúng sinh tỉnh ngộ.

Xá lợi Phất, Như Lai chỉ đem cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà thuyết pháp cho chúng sinh, không có cỗ xe nào khác dầu là cỗ xe thứ hai hay là cỗ xe thứ ba. Xá lợi Phất, pháp của chư Phật mười phương cũng là như vậy.

– Xá lợi Phất, chư Phật quá khứ đã vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh đều được tuệ giác biết tất cả.

– Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện thế gian cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả.

– Hiện tại, trong vô lượng cõi Phật khắp cả mười phương, chư Phật đang làm lợi ích và yên vui rất nhiều cho chúng sinh, chư Phật như vậy cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả.

Xá lợi Phất, chư Phật ba đời trong mười phương làm như vậy là đồng nghĩa với việc chỉ giáo hóa bồ tát: muốn đem sự thấy biết của Phật khai mở cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật chỉ thị cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật thức tỉnh cho chúng sinh, muốn dẫn chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật. Xá lợi Phất, nay Như Lai cũng làm như vậy.

Như Lai biết rõ những thị hiếu và vướng mắc của các loại chúng sinh; tùy bản tính của họ, Như Lai vận dụng các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, nghĩa là vận dụng năng lực phương tiện, mà thuyết pháp. Xá lợi Phất, Như Lai làm như vậy toàn là để cho họ cùng được tuệ giác biết tất cả của cỗ xe Phật đà duy nhất.

Xá lợi Phất, như vậy là trong mười phương quốc độ, cỗ xe thứ hai còn không có, huống chi có cỗ xe thứ ba. Nhưng, Xá lợi Phất, chư Phật Như Lai xuất hiện trong thời kỳ dữ dội thì đó là thời kỳ đủ cả năm thứ vẩn đục:

– thời kỳ vẩn đục,

– tâm lý vẩn đục,

– con người vẩn đục,

– kiến thức vẩn đục,

– mạng sống vẩn đục.

Khi thời kỳ vẩn đục loạn lên, thì chúng sinh dơ bẩn dày nặng, keo lẫn, tham lam, ganh ghét, hoàn thành đủ thứ bất thiện, nên chư Phật Như Lai phải vận dụng năng lực phương tiện: chính nơi cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà giả thiết ra, nói có ba cỗ xe.

Do đó, Xá lợi Phất, nếu là đệ tử của Như Lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không nghe không biết đến việc Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát như trên, thì những người ấy không phải đệ tử của Như Lai: không phải La hán, không phải Duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã thành La hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi không còn có chí mong cầu tuệ giác vô thượng, thì tôn giả nên biết họ toàn là người tăng thượng mạn.

Vì lẽ nếu có vị nào thật được thành La hán mà không tin pháp này thì vô lý, trừ ra sau khi Như Lai đã nhập diệt, trước mặt họ không có Như Lai nữa — Sau khi Như Lai nhập diệt, kinh Pháp Hoa này có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải ý nghĩa…, người ấy thật khó có. Nếu gặp đức Phật khác thì đối với kinh này họ nhận thức được ngay.

Nói tóm, Xá lợi Phất, chư vị hãy nhất tâm mà tin tưởng, lý giải, tiếp nhận và ghi nhớ lời của Như Lai nói. Lời của chư Phật Như Lai nói thì không trống rỗng, dối trá, nói rằng không có cỗ xe nào khác mà chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(37) Chư vị tỷ kheo

và tỷ kheo ni

mà có thượng mạn,

cùng ưu bà tắc

và ưu bà di

mà lòng không tin,

bốn chúng như vậy

số có năm ngàn.

(38) Họ không tự thấy

mình đã khinh suất.

Họ thiếu giới hạnh,

che giấu tỳ vết.

Hạng trí nhỏ ấy

đã lui hết rồi.

(39) Trong đại hội này

họ là cặn bã.

Họ lui là vì

uy thần Như Lai.

Họ là những kẻ

thiếu cả phước đức,

không kham tiếp nhận

diệu pháp như vầy.

(40) Trong đại hội này

nay hết trấu lép,

còn lại chỉ có

toàn là hạt chắc.

(41) Này Xá lợi Phất,

hãy nghe cho khéo

về pháp Như Lai

đã thành tựu được,

và về phương tiện

Như Lai hoạt dụng

để nói pháp ấy

cho các chúng sinh.

(42) Quan niệm, đạo hạnh,

thị hiếu, khuynh hướng,

hành vi lành dữ

đời trước đã làm,

tất cả điều này

của các chúng sinh

Như Lai nhận thức

rất là rõ ràng.

(43) Thế rồi Như Lai

sử dụng mọi thứ

yếu tố, ví dụ,

cùng với lời chữ,

nghĩa là dùng đến

năng lực phương tiện,

làm cho chúng sinh

hoan hỷ tất cả.

(44) Cho nên Như Lai

đã nói tản văn,

chỉnh cú độc lập,

việc cũ, đời trước,

việc hiếm, nguyên do,

hoặc nói ví dụ,

chỉnh cú thích ứng,

cùng với thảo luận.

(45) Những kẻ ám độn

chỉ thích pháp nhỏ,

vướng mắc sinh tử;

nơi vô số Phật

họ đã không đi

theo đường tuyệt diệu.

Họ bị đau khổ

dày vò tác loạn.

Như Lai vì họ

mà nói niết bàn.

(46) Như Lai thiết lập

phương tiện như vậy,

chủ ý làm cho

họ được nhập vào

tuệ giác Phật đà,

nhưng chưa hề nói

tất cả các người

đều sẽ thành Phật.

(47) Sở dĩ Như Lai

chưa nói như vậy

là vì chưa đến

thì gian đáng nói.

Nhưng nay là lúc

Như Lai quyết định

nói về giáo pháp

cỗ xe vĩ đại.

(48) Giáo pháp ở trong

chín thể loại trên,

là do Như Lai

tùy thuận chúng sinh

mà tuyên thuyết ra,

nhưng mà bản ý

là dẫn họ vào

cỗ xe vĩ đại.

Vì lý do ấy,

ngày nay Như Lai

nói về bản kinh

Diệu Pháp Liên Hoa.

(49) Có những con Phật

tâm trí trong sáng

tánh tình ôn hòa

các căn lanh lợi,

đã từng đi theo

con đường tuyệt diệu

ở nơi vô lượng

chư Phật Như Lai;

chính vì những người

con Phật như vậy

mà nay Như Lai

nói kinh Pháp Hoa,

bản kinh thuộc về

cỗ xe vĩ đại.

(50) Qua đó Như Lai

sẽ thọ ký cho

những con Phật ấy

trong thì vị lai

được thành Phật đà _

Được thành vì họ

đã đem tâm chí

cực kỳ sâu xa

tưởng niệm Phật đà

nghiêm giữ giới pháp.

(51) Những con Phật ấy

nghe được thành Phật

thì nỗi mừng lớn

tràn khắp cơ thể.

Như Lai biết rõ

tâm chí cùng với

đạo hạnh của họ,

nên mới nói cho

bản kinh thuộc về

cỗ xe vĩ đại.

(52) Và là thanh văn

hay là bồ tát,

nghe kinh như vậy

của Như Lai nói,

thì dẫu chỉ được

một bài chỉnh cú,

cũng thành Phật cả,

không nghi gì được.

(53) Khắp cả cõi Phật

trong cả mười phương,

chỉ có diệu pháp

cỗ xe duy nhất.

Cỗ xe thứ hai

đã không thực có,

cũng không thực có

cỗ xe thứ ba,

trừ ra Như Lai

phương tiện tuyên thuyết

là chỉ thiện dụng

những danh từ giả

mà dẫn dắt cho

các loại chúng sinh.

(54) Chính vì công bố

tuệ giác Phật đà,

cho nên Như Lai

xuất hiện thế gian.

Chỉ một việc này

là việc đích thực,

còn hai việc khác

không đích thực đâu.

Như Lai tuyệt đối

không muốn sử dụng

cỗ xe thấp nhỏ

mà chở chúng sinh.

(55) Như Lai tự ngồi

cỗ xe vĩ đại,

cỗ xe được có

những pháp như là

định, tuệ và lực

trang sức huy hoàng,

Như Lai sử dụng

mà chở chúng sinh.

(56) Như Lai tự chứng

tuệ giác vô thượng

là xe vĩ đại

có tính bình đẳng.

Nếu đem hóa độ

bằng xe thấp nhỏ,

thì dẫu hóa độ

một người mà thôi,

Như Lai cũng rơi

vào sự tham lẫn:

ấy là một việc

không chấp nhận được.

(57) Mọi người tín ngưỡng

qui y Như Lai.

Như Lai không hề

lừa dối ai cả,

không cả tâm ý

tham lam ganh ghét,

triệt hết sự xấu

ở trong các pháp.

Cho nên khắp trong

mười phương quốc độ,

chỉ có Như Lai

không e sợ gì.

(58) Với cái thân thể

tướng hảo trang nghiêm,

với cái tuệ giác

soi sáng tất cả,

và được vô lượng

chúng sinh tôn trọng,

Như Lai công bố

ấn tín thật tướng.

(59- Này Xá lợi Phất

60) tôn giả nên biết

Như Lai vốn lập

chí nguyện cao rộng

là muốn làm cho

hết thảy chúng sinh

đều như Như Lai

không khác gì cả.

Đúng như chí nguyện

Như Lai đã lập,

ngày nay Như Lai

thực hiện đầy đủ,

cho nên Như Lai

giáo hóa tất cả,

làm cho vào được

tuệ giác Phật đà.

(61) Nhưng nếu Như Lai

gặp ai cũng đem

tuệ giác Phật đà

mà giáo hóa cho,

thì kẻ vô trí

sẽ bị thác loạn,

mù mờ, lầm lẫn,

không thể tiếp nhận.

(62) Như Lai nhận thức

những kẻ như vậy

chưa từng sửa sang

gốc rễ pháp lành,

dính chắc vào nơi

năm thứ dục lạc,

khổ não vì những

mù quáng, đam mê.

(63) Chính vì nhân tố

năm thứ dục lạc

mà họ sa vào

ba đường độc dữ.

Luân hồi khắp cả

sáu nẻo sống chết,

lãnh chịu đủ hết

khổ sở độc địa.

Hình hài hèn kém

có bởi bào thai,

đời đời liên tiếp

cứ thêm lên mãi.

Họ là những kẻ

mỏng đức thiếu phước,

và bị đủ thứ

khổ não bức bách.

(64) Nên họ lạc vào

rừng rậm tà kiến,

chấp có thế này

chấp không thế khác.

Căn cứ những thứ

tà kiến như vậy,

họ lần đủ cả

sáu hai tà kiến,

đắm sâu vào trong

chủ thuyết hư vọng,

chấp nhận cứng chắc

không thể xả bỏ.

(65) Họ đầy ngã mạn,

tự cao, dua nịnh,

quanh co, xảo trá.

Vạn ức thời kỳ

họ không nghe được

danh từ Phật đà,

chánh pháp Phật đà

càng không nghe thấy.

Những người như vậy

thật khó hóa độ.

(66) Này Xá lợi Phất,

vì những người ấy

cho nên Như Lai

lập chước phương tiện:

nói cho họ biết

con đường diệt khổ,

chỉ cho họ rõ

về sự niết bàn.

Nhưng mà Như Lai

dẫu nói niết bàn,

sự niết bàn đó

chưa thật niết bàn.

(67) Vì vậy Như Lai

khai thị nguyên lý:

các pháp xưa nay

thường tự vắng lặng.

Con Phật đi trọn

đường đi của mình

thì trong tương lai

được thành Phật đà,

như thế mới là

niết bàn đích thực.

(68) Như vậy đủ thấy

do phương tiện lực

mà Như Lai có,

Như Lai khai thị

đủ hết các pháp

của ba cỗ xe;

kỳ thật tất cả

chư Phật Như Lai

đều chỉ nói đến

cỗ xe duy nhất.

(69) Ngày nay đại hội

hãy bỏ nghi hoặc.

Lời chư Phật nói

không khác sự thật:

chỉ có cỗ xe

Phật đà duy nhất,

không hai cỗ xe

thứ hai thứ ba.

(70) Vô số thời kỳ

thuộc thì quá khứ,

vô lượng chư Phật

đã nhập niết bàn;

những loại số mục

trăm ngàn vạn ức

không thể đem ra

mà tính cho được.

(71) Chư Phật như vậy

đã dùng đủ thứ

yếu tố, ví dụ

của phương tiện lực,

diễn đạt thật tướng

tất cả các pháp.

(72) Nghĩa là các ngài

cũng nói giáo pháp

cỗ xe duy nhất,

giáo hóa chúng sinh

làm cho vào được

tuệ giác Phật đà.

(73) Chư Phật quá khứ,

những chúa thánh triết,

biết rõ thị hiếu

từ trong thâm tâm

của cả thế gian,

trong đó bao gồm

chư thiên, nhân loại

và bao loài khác,

cho nên sử dụng

phương tiện khác nhau

để giúp phát lộ

chân lý bậc nhất.

(74- Ấy là ai gặp

75) chư Phật quá khứ,

được nghe thuyết pháp

và rồi bố thí,

giữ giới, nhẫn nhục,

cùng với tinh tiến,

thiền định, trí tuệ,

làm đủ các pháp

của cả hai loại

phước đức tuệ giác,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(76) Chư Phật quá khứ

nhập Niết bàn rồi,

ai có tâm lý

tốt đẹp mềm dịu,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(77-78) Chư Phật quá khứ

nhập Niết bàn rồi,

những ai hiến cúng

xá lợi các ngài,

bằng cách xây dựng

vạn ức chùa tháp,

lại đem bạc, vàng,

cùng với pha lê,

xa cừ, mã não,

mai khôi, lưu ly,

trang hoàng quang đãng

trần thiết tráng lệ,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(79-80) Ai dựng chùa tháp

bằng đá cẩm thạch,

bằng những thứ gỗ

đàn hương, trầm hương,

cùng với gỗ mật

và gỗ quý khác;

ai dựng chùa tháp

bằng gạch, đất sét;

hay nơi hoang dã

đắp nổi gò đất

tạo thành chùa tháp

chư Phật quá khứ;

(81) thậm chí trẻ con

vui đùa đắp tháp

mà tưởng tượng rằng

xây dựng tháp Phật,

tất cả người này

đã thành Phật tuệ.

(82) Ai vì chư Phật

trong thì quá khứ

mà tạo hình tượng

chạm trỗ tướng tốt,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(83) Hoặc tạo tượng Phật

bằng bảy chất quý,

bằng các loại đồng

vàng đỏ và trắng,

(84) bằng chì, thiết, sắt,

gỗ với đất sét;

hoặc dùng các thứ

keo, sơn, vải bố,

bồi đắp tô chuốt

mà làm tượng Phật;

tất cả người này

đã thành Phật tuệ.

(85) Hoặc dùng hội họa

vẽ ra tượng Phật

đủ cả các tướng

trăm phước trang nghiêm,

tự mình vẽ ra

hay nói người vẽ,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(86) Đến nỗi trẻ con

dùng cỏ, cây, bút,

ngón tay, móng tay,

vẽ chơi tượng Phật,

(87) thì những trẻ ấy

công đức dồn chứa,

từ bi hoàn hảo,

đã thành Phật tuệ,

và chỉ giáo hóa

chư vị Bồ tát,

cứu độ vô lượng

các loại chúng sinh.

(88) Nếu ai đối với

chùa tháp, hình tượng,

tượng ngọc, tượng vẽ

chư Phật quá khứ,

mà đem bông hoa

các loại hương liệu

tràng phan bảo cái

cung kính hiến cúng;

(89-92) nếu ai tấu nhạc,

đánh trống, thổi còi,

thổi ốc, ống tiêu,

ống sáo, đàn cầm,

đàn hầu, tỳ bà,

chiên nhỏ, bạt đồng,

đem hết âm thanh

nghe hay như vậy

hiến lên chư Phật

trong thì quá khứ;

hoặc là hoan hỷ

ca hát, ngâm vịnh,

tán dương đức tính

chư Phật quá khứ;

và làm như vậy

dầu một tiếng nhỏ;

tất cả người này

đã thành Phật tuệ.

(93) Những ai trong lòng

tư tưởng xao lãng,

chỉ được mỗi một

bông hoa mà thôi,

và chỉ hiến cúng

tượng vẽ mà thôi,

cũng vẫn dần dần

gặp vô số Phật.

(94) Ai biết lễ bái,

hay chỉ chắp tay,

đến nỗi đưa lên

chỉ một cánh tay,

hoặc chỉ hơi khẽ

cúi đầu mình xuống,

hiến cúng tượng Phật

bằng những cách ấy

cũng đã dần dần

gặp vô lượng Phật,

tự thành tựu được

tuệ giác vô thượng,

hóa độ rộng rãi

vô số các chúng,

và rồi nhập vào

Niết bàn hoàn toàn

tựa như củi hết

thì lửa cũng tắt.

(95) Những kẻ trong lòng

tư tưởng xao lãng,

bước vào chùa tháp

chư Phật quá khứ,

chỉ nói một tiếng

con tôn kính Phật,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(96) Ở nơi chư Phật

quá khứ như vậy,

mà lúc các ngài

đang còn ở đời

hay lúc các ngài

nhập Niết bàn rồi,

những ai nghe danh

của pháp như vầy,

thì những người ấy

đã thành Phật tuệ.

(97) Chư Phật Như Lai

trong thì vị lai

số lượng vô số,

các ngài cũng dùng

mọi cách phương tiện

tuyên thuyết về pháp.

(98) Các ngài cũng dùng

vô số phương tiện

cứu thoát chúng sinh,

dẫn vào tuệ giác

không còn sai sót

của chư Phật đà.

(99) Những người được nghe

pháp các ngài thuyết,

thì không một ai

không thành Phật đà.

Bởi vì các ngài

cũng lập thệ nguyện

nguyện đem trí Phật

mà mình hoàn thành

dìu dắt hết thảy

các loại chúng sinh

cũng được hoàn thành

trí Phật như vậy.

(100) Chư Phật vị lai

dẫu cũng sẽ nói

về các pháp môn

nhiều đến vạn ức,

kỳ thật chỉ vì

cỗ xe duy nhất.

(101) Chư Phật: các đấng

phước tuệ hoàn hảo,

thấy biết các pháp

thường không cố định,

giống Phật cũng phát

từ các yếu tố;

thấy biết như vậy

nên chư Phật đà

tuyên thuyết giáo pháp

cỗ xe duy nhất.

(102) Chính vì vốn là

bản thể an trú,

bản thể nguyên vị,

cho nên thật tướng

của chính thế gian

cũng vẫn thường trú;

tại Bồ đề tràng

các đức Đạo sư

biết rõ như vậy,

nên dùng phương tiện

tuyên thuyết giáo pháp

cỗ xe duy nhất.

(103) Chư Phật hiện tại

ở khắp mười phương,

toàn là những bậc

trời người hiến cúng,

số lượng nhiều như

cát của sông Hằng.

Chư Phật như vậy

xuất hiện thế gian,

vì muốn làm cho

chúng sinh yên vui

nên cũng tuyên thuyết

về diệu pháp này.

(104) Chư Phật như vậy

thấu triệt nguyên lý

vắng lặng bậc nhất,

và rồi áp dụng

năng lực phương tiện,

phô bày đủ hết

các loại chánh pháp;

tuy làm như vậy

mà thật chỉ vì

cỗ xe Phật đà.

(105-106) Tính nết, quan niệm,

việc làm đời trước,

thị hiếu, khuynh hướng,

nổ lực, năng lực,

các căn lanh chậm,

chư Phật biết rõ

tất cả điều này

của các chúng sinh.

Thế rồi các ngài

áp dụng đủ thứ

yếu tố, ví dụ,

cùng với lời chữ,

tùy sự nên nói

phương tiện mà nói.

(107) Ngày nay Như Lai

cũng làm như vậy.

Để làm yên vui

cho các chúng sinh,

Như Lai thiện dụng

các cách huấn dụ,

tuyên thuyết biểu thị

tuệ giác Phật đà.

(108) Với trí tuệ lực,

Như Lai nhận thức

bản tính, thị hiếu

của các chúng sinh,

phương tiện thuyết pháp

làm hoan hỷ cả.

(109) Này Xá Lợi Phất,

tôn giả nên biết,

Như Lai sử dụng

mắt Phật mà nhìn

thì thấy chúng sinh

trong cả sáu đường

đều quá nghèo nàn

phước đức tuệ giác,

lạc vào đường hiểm

của chốn sống chết,

cái khổ liên tục

không hề dứt mất.

(110) Họ dính sâu xa

vào năm dục lạc,

như bò đuôi dài

tự cưng đuôi nó.

Tham lam đam mê

tự che phủ lấy,

làm họ đui mù

không thấy gì cả:

không biết tìm Phật

bậc cực hùng mạnh,

không biết cầu pháp

yếu tố dứt khổ.

(111) Họ đi sâu vào

chủ thuyết sai lầm,

sử dụng đau khổ

mong hết đau khổ.

Chính vì bao kẻ

như thế này đây,

Như Lai động lòng

thương xót lớn lao.

(112-113) Trong khi mới ngồi

nơi Bồ Đề tràng,

vừa thành tựu được

tuệ giác vô thượng,

Như Lai nhìn vào

Bồ đề đại thọ,

lại còn kinh hành

quanh đại thọ ấy,

ba tuần liên tiếp

suy nghĩ như vầy:

Tuệ giác Như Lai

đã thành tựu được

thì rất tinh túy

cao tột bậc nhất;

còn như các căn

của bao chúng sinh

thì quá chậm chạp,

lại bị cái ngu

vì ham dục lạc

làm mù tâm trí,

những kẻ như vậy

làm sao hóa độ?

(114-116) Khi ấy các vị

Phạn Vương, Đế Thích,

bốn đại Thiên Vương

hộ vệ thế gian,

Đại Tự Tại Thiên,

cùng các thiên chúng

tùy thuộc của họ

nhiều đến ngàn vạn,

cung kính chắp tay

đảnh lễ thỉnh cầu

Như Lai chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp.

Như Lai tức thì

suy nghĩ như vầy:

Nếu chỉ tán dương

cỗ xe Phật đà,

những kẻ chìm ngập

ở trong đau khổ

không thể tin được

về pháp như vậy.

Rồi vì phá hoại

không tin vào pháp,

nên rơi vào lại

trong ba đường dữ.

Như vậy thà là

Như Lai không nói,

mà nên mau chóng

nhập vào Niết bàn.

(117) Nhưng rồi Như Lai

tức thì nhớ đến

chư Phật Như Lai

trong thì quá khứ,

nhớ đến phương tiện

các ngài thi hành,

và nghĩ như vầy:

Tuệ giác vô thượng

mà nay Như Lai

đã thực hiện được,

Như Lai cũng phải

áp dụng phương tiện

mà tuyên thuyết ra

đủ ba cỗ xe.

(118) Ngay khi Như Lai

suy nghĩ như vậy,

chư Phật mười phương

đều hiện trước mắt,

dùng tiếng Phạn thiên

khuyến khích Như Lai,

nói rằng tốt lắm

Thích Ca Thế Tôn!

(119) Ngài là vị thầy

dẫn đạo bậc nhất!

Ngài đã hoàn thành

cái pháp tối thượng,

thì nên thể theo

hết thảy chư Phật

mà cùng dùng đến

nghệ thuật phương tiện.

(120) Chư Phật chúng tôi

cũng hoàn thành được

cái pháp bậc nhất

rất tinh túy ấy,

và vì chúng sinh

các loại khác nhau

nên phải phân ra

nói ba cỗ xe.

Vì kẻ trí nhỏ

chỉ thích pháp nhỏ,

không thể tự tín

mình sẽ làm Phật.

(121) Do vậy chúng tôi

áp dụng phương tiện,

phân nói các loại

tuệ giác ba xe,

và tuy nói cả

tuệ giác ba xe,

kỳ thật chỉ dạy

các vị Bồ tát.

(122) Này Xá Lợi Phất,

tôn giả nên biết,

Như Lai nghe được

tiếng nói tuyệt diệu

trong thanh thâm thúy

của chư Như Lai –

những bậc sư tử

của các thánh triết,

tức thì hoan hỷ

và thốt lên rằng:

Tôi xin tôn kính

chư vị Phật đà!

(123) Như Lai lại nghĩ:

Như Lai xuất hiện

nhằm vào thời kỳ

dữ dội vẩn đục,

thì như lời lẽ

của chư Phật nói,

Như Lai cũng phải

thể theo mà làm.

(124) Như Lai nghĩ rồi

liền đến Lộc Uyển.

Thật tướng các pháp

vốn rất vắng lặng,

không thể diễn tả

bằng những lời chữ,

nhưng mà Như Lai

áp dụng phương tiện

nói pháp ấy ra

cho năm Tỷ kheo.

(125) Như vậy gọi là

quay bánh xe pháp,

thế gian liền có

danh hiệu Niết bàn,

lại còn có cả

danh hiệu La Hán,

có pháp có Tăng

danh hiệu khác biệt.

(126) Từ đó đến nay

Như Lai ca tụng

Niết bàn hết hẳn

cái khổ sống chết.

Như Lai thường xuyên

đã nói như vậy.

(127) Nhưng Xá Lợi Phất,

tôn giả nên biết,

Như Lai lại thấy

có những con Phật

quyết chí cầu được

tuệ giác Phật đà.

Số ấy nhiều đến

vô lượng vạn ức.

(128) Ai cũng cung kính

đến chỗ Như Lai,

vì các đời trước

họ đã từng nghe

pháp mà chư Phật

phương tiện tuyên thuyết.

(129) Như Lai lúc ấy

suy nghĩ như vầy:

Sở dĩ Như Lai

xuất hiện thế gian

là để tuyên thuyết

tuệ giác Phật đà,

thì nay chính là

thì gian tuyên thuyết.

(130) Này Xá Lợi Phất,

tôn giả nên biết,

những kẻ trí nhỏ,

các căn chậm chạp,

chấp trước hình thức,

kiêu căng ngạo mạn,

thì không thể nào

tin được pháp này.

Nhưng mà pháp này

Bồ tát sẽ nghe.

(131) Thế nên ngày nay

Như Lai cảm thấy

hoan hỷ hết sức,

chứ không e ngại.

Ngay giữa đại chúng

chư vị Bồ tát,

Như Lai thẳng thắn

loại bỏ phương tiện,

chỉ còn nói đến

tuệ giác vô thượng.

(132) Chư vị Bồ tát

nghe được pháp này

thì lưới ngờ vực

thoát bỏ được cả,

mà ngàn hai trăm

chư vị La hán

ai nấy cũng sẽ

được làm Phật đà.

(133-134) Cho nên y như

thể thức thuyết pháp

của chư Phật đà

trong ba thì gian,

ngày nay Như Lai

cũng làm như vậy:

Tuyên thuyết về pháp

không có khác nhau.

(135) Chư Phật xuất thế

là sự khó có,

vì lẽ lâu xa

mới gặp một lần.

Mà dẫu chư Phật

đã xuất thế rồi,

nói về pháp này

là sự khó có.

Vô số thời kỳ

mới nghe pháp này,

nên sự nghe ấy

là sự khó có.

Và rồi những ai

nghe nổi pháp này,

thì người như vậy

là người khó có.

(136) Như hoa Ưu đàm

ai cũng ưa thích,

đến như chư thiên

cũng thấy hiếm có,

vì lẽ thỉnh thoảng

mới trổ một lần.

(137) Những người nghe nổi

pháp như thế này,

nghe rồi hoan hỷ

ca tụng tán dương,

thì dẫu đến nỗi

chỉ pháp một lời,

cũng đã hiến cúng

tam thế chư Phật.

Nên người như vậy

hết sức khó có,

khó có hơn cả

hoa thiêng Ưu đàm.

(138) Tất cả các chúng

các người đừng nghi!

Như Lai là bậc

vua của các pháp,

phổ cáo các người

biết rằng Như Lai

chỉ đem giáo pháp

cỗ xe duy nhất

mà giáo hóa cho

chư vị Bồ tát.

Như Lai không có

đệ tử Thanh văn.

(139) Này Xá Lợi Phất,

tất cả các người,

bất luận Thanh văn

hay là Bồ tát,

đều phải biết rằng

pháp tinh túy này

chính là bí yếu

của chư Phật đà.

(140) Thời kỳ dữ dội

đầy năm vẩn đục,

con người chỉ thích

đắm say dục lạc,

không bao giờ muốn

cầu tuệ giác Phật.

(141) Nên những kẻ ác

trong tương lai ấy

dẫu được nghe đến

cỗ xe duy nhất

của Như Lai nói,

cũng ngu và lầm,

không thể tin tưởng,

không chịu tiếp nhận

phá hoại pháp ấy

và sa đường dữ.

(142) Chỉ có những ai

hổ thẹn, trong sạch,

quyết chí tìm đến

tuệ giác Phật đà,

thì cần phải vì

những người như vậy

tán dương rộng rãi

cỗ xe duy nhất.

(143) Này Xá Lợi Phất,

chư vị phải biết,

nguyên tắc chư Phật

là như thế đó:

Vận dụng phương tiện

tùy nghi thuyết pháp.

Ai không tu học

không thể hiểu thấu.

(144) Đến như chư vị

khi đã biết được

sự thể tùy nghi

phương tiện thuyết pháp

của chư Phật đà,

bậc thầy thế gian,

thì đừng còn nữa

những sự nghi hoặc.

Tất cả chư vị

hãy vui mừng lên,

khi tự biết chắc

mình sẽ làm Phật.

***

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Phật Thuyết Kinh So Sánh Công Đức về Thần Chú Diệt Trừ Tội Chướng của 12 Danh Hiệu Chư Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Vua Ưu Điền Dùng Chánh Pháp Trị Nước - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Nữ Như Phúc dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng