Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch

Bản Việt dịch của Thích Minh Định

***

QUYỂN MỘT
Phẩm Tựa thứ Nhất
Phẩm Phương Tiện thứ Hai
QUYỂN HAI
Phẩm Thí Dụ thứ Ba
Phẩm Tin Hiểu thứ Tư
QUYỂN BA
Phẩm Dược Thảo Dụ thứ Năm
Phẩm Thọ Ký thứ Sáu
Phẩm Hóa Thành Dụ thứ Bảy
QUYỂN BỐN
Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử thứ Tám
Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học thứ Chín
Phẩm Pháp Sư thứ Mười
Phẩm Thấy Bảo Tháp thứ Mười Một
Phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ Mười Hai
Phẩm Khuyên Trì thứ Mười Ba
QUYỂN NĂM
Phẩm An Lạc Hạnh thứ Mười Bốn
Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên thứ Mười Lăm
Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai thứ Mười Sáu
Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ Mười Bảy
QUYỂN SÁU
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ Mười Tám
Phẩm Công Đức Pháp Sư thứ Mười Chín
Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh thứ Hai Mươi
Phẩm Thần Lực Của Như Lai thứ Hai Mươi Mốt
Phẩm Chúc Lũy thứ Hai Mươi Hai
Phẩm Bổn Sự Bồ Tát Dược Vương thứ Hai Mươi Ba
QUYỂN BẢY
Phẩm Bồ Tát Diệu Âm thứ Hai Mươi Bốn
Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm thứ Hai Mươi Lăm
Phẩm Đà La Ni thứ Hai Mươi Sáu
Phẩm Bổn Sự Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm thứ Hai Mươi Bảy
Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền thứ Hai Mươi Tám

QUYỂN 1

Phẩm Tựa thứ Nhất

Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kỳ Xà Quật, cùng với đại chúng Tỳ Kheo, một vạn hai nghìn người tụ tập. Đều là A La Hán, các lậu đã hết, chẳng còn phiền não. Sớm được lợi mình, hết những sự ràng buộc trong các cõi, tâm được tự tại. Đó là những vị đại A La Hán, hàng tri thức trong chúng. Lại có hai nghìn người hữu học và vô học. Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cùng với quyến thuộc sáu ngàn người tụ hội. Mẹ của La Hầu La là Tỳ Kheo Ni Gia Du Đà La, cũng cùng với quyến thuộc tụ hội. Bậc đại Bồ Tát gồm tám vạn người, đều không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đắc được Đà la ni nhạo thuyết biện tài, chuyển bánh xe pháp bất thối chuyển, đã từng cúng dường vô lượng trăm ngàn các Đức Phật. Ở chỗ các Đức Phật gieo trồng các gốc công đức. Thường được chư Phật ngợi khen, dùng từ để tu thân, khéo vào huệ của Phật, thông đạt đại trí huệ, đến nơi bờ kia. Danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ được vô số trăm ngàn chúng sinh. Tên của các Ngài là: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bất Hưu Tức, Bồ Tát Bảo Chưởng, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Bảo Nguyệt, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Mãn Nguyệt, Bồ Tát Đại Lực, Bồ Tát Vô Lượng Lực, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Bạt Đà Bà La. Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Đạo Sư .v.v… các vị đại Bồ Tát như vậy, gồm tám vạn người tụ hội.

Lúc đó, có Thích Đề Hoàn Nhân và quyến thuộc hai vạn Thiên tử đều tụ hội. Lại có Thiên tử Minh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang. Bốn vị đại Thiên Vương và quyến thuộc một vạn Thiên tử đều tụ hội. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc ba vạn Thiên tử đều tụ hội. Chủ thế giới Ta Bà: Phạm Thiên Vương, Thi Khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm và quyến thuộc một vạn hai ngàn Thiên tử đều tụ hội. Có tám vị Long Vương. Đó là: Long Vương Nan Đà. Long Vương Bạt Nan Đà. Long Vương Sa Già La. Long Vương Hòa Tu Cát. Long Vương Đức Xoa Ca. Long Vương A Na Bà Đạt Đa. Long Vương Ma Na Tư. Long Vương Ưu Bát La. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Khẩn Na La Vương. Đó là: Pháp Khẩn Na La Vương, Diệu Pháp Khẩn Na La Vương, Đại Pháp Khẩn Na La Vương, Trì Pháp Khẩn Na La Vương. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Càn Thát Bà Vương. Đó là: Nhạc Càn Thát Bà Vương, Nhạc Âm Càn Thát Bà Vương, Mỹ Càn Thát Bà Vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà Vương. Mỗi vị có bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị A Tu La Vương. Đó là: Bà Trĩ A Tu La Vương, Khư La Khiên Đà A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La Vương, La Hầu A Tu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Có bốn vị Ca Lâu La Vương. Đó là: Đại Oai Đức Ca Lâu La Vương, Đại Thân Ca Lâu La Vương, Đại Mãn Ca Lâu La Vương, Như Ý Ca Lâu La Vương. Mỗi vị với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Vua A Xà Thế con của bà Vi Đề Hi, và bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đều tụ hội. Hết thảy đều lễ dưới chân Đức Phật, rồi lui về ngồi một bên.

Bấy giờ, tất cả bốn chúng đều vây quanh Đức Thế Tôn, cung kính cúng dường tôn trọng tán thán ca ngợi. Vì các Bồ Tát nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Đức Phật nói Kinh này rồi, bèn ngồi kiết già, nhập tam muội vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.

Lúc đó, trời mưa hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, rải ở trên Đức Phật và các đại chúng. Khắp hết thảy thế giới của chư Phật, đều có sáu thứ chấn động.

Bấy giờ, trong pháp hội các chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, chuyển luân thánh vương, các đại chúng, được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Đức Phật.

Bấy giờ, Đức Phật phóng ra luồng hào quang trắng ở giữa chân mày, chiếu soi hết thảy một vạn tám nghìn thế giới ở phương đông. Dưới thì chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên thì chiếu đến cõi trời Sắc Cứu Kính. Ở thế giới này, đều thấy hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo của các cõi kia. Lại thấy chư Phật đang ở các cõi đó. Và nghe chư Phật giảng kinh thuyết pháp, cũng thấy các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, các vị tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ Tát, đủ thứ nhân duyên, đủ thứ tin hiểu, đủ thứ tướng mạo, hành Bồ Tát đạo. Lại thấy chư Phật vào Niết Bàn, sau khi chư Phật vào Niết Nàn, đều đem xá lợi của Phật, đựng thờ trong tháp bằng bảy báu.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc khởi ý nghĩ như vầy : Nay Đức Thế Tôn hiện tướng thần thông biến hóa, vì nhân duyên gì, mà hiện điềm lành nầy? Nay Đức Phật Thế Tôn đang nhập tam muội, là việc ít có không thể nghĩ bàn. Bây giờ nên hỏi ai, ai là người đáp được? Lại nghĩ thế nầy : Ngài Văn Thù Sư Lợi là con của đấng Pháp Vương, đã từng gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ, chắc đã thấy tướng ít có nầy, nay tôi nên hỏi Ngài. Lúc đó, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và các vị trời, rồng, quỷ thần .v.v… đều khởi nghĩ như thế nầy: Tướng quang minh thần thông của Đức Phật, nay nên hỏi ai?

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn giải quyết tâm nghi của mình, lại quán sát tâm của bốn chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và các chúng hội trời, rồng, quỷ thần .v.v… mà hỏi Bồ Tát Văn Thù, vì nhân duyên gì mà có điềm lành nầy? Tướng thần thông phóng đại quang minh, chiếu phương đông một vạn tám nghìn cõi, đều thấy cõi nước của chư Phật đó trang nghiêm. Do đó, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn dùng kệ hỏi rằng:

Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Đấng Đạo Sư cớ chi?

Phóng quang trắng giữa mày

Quang minh chiếu hết thảy.

Trời mưa hoa mạn đà

Và hoa mạn thù sa

Gió thơm hương chiên đàn

Khiến vừa lòng đại chúng.

Do nhân duyên như vậy

Cõi nước đều nghiêm tịnh

Mà ở thế giới nầy

Có sáu thứ chấn động.

Lúc nầy bốn bộ chúng

Thảy đều rất vui mừng

Thân tâm đều an lạc

Đắc được chưa từng có.

Quang minh giữa chân mày

Chiếu thẳng về phương đông

Một vạn tám nghìn cõi

Thảy đều như sắc vàng.

Dưới chiếu ngục A tỳ

Trên chiếu trời Hữu Đỉnh

Trong tất cả thế giới

Các chúng sinh sáu đường.

Sinh tử chỗ họ đến

Nghiệp duyên thiện và ác

Thọ báo tốt và xấu

Thảy đều thấy rõ hết.

Lại thấy các đức Phật

Đấng Thánh chúa sư tử

Đang diễn nói kinh điển

Tối vi diệu bậc nhất.

Âm thanh rất thanh tịnh

Thốt ra lời êm diệu

Giáo hóa các Bồ Tát

Vô số ngàn ức vạn.

Tiếng phạm âm thâm diệu

Khiến người ưa thích nghe

Đức Phật ở mỗi cõi

Đều diễn nói chánh pháp.

Dùng đủ thứ nhân duyên

Và vô lượng thí dụ

Chiếu rõ các Phật pháp

Để khai ngộ chúng sinh.

Nếu người gặp sự khổ

Chán sinh già bệnh chết

Vì họ nói Niết bàn

Dứt hết thảy các khổ.

Nếu người có phước báo

Từng cúng dường chư Phật

Chí cầu pháp thù thắng

Vì họ nói Duyên Giác.

Nếu có những Phật tử

Tu đủ thứ hạnh môn

Để cầu huệ vô thượng

Vì họ nói tịnh đạo.

Nầy Bồ Tát Văn Thù!

Tôi ở tại nơi đây

Thấy nghe như vậy đó

Và ngàn ức thứ việc.

Như thế nhiều vô số

Nay sẽ lược nói ra

Tôi thấy cõi nước kia

Có Hằng sa Bồ Tát.

Tu đủ thứ nhân duyên

Để cầu chứng Phật đạo

Hoặc có vị bố thí:

Vàng bạc và san hô.

Chân châu ngọc ma ni

Xa cừ và mã não

Kim cương đồ quý báu

Tôi tớ và xe cộ.

Trang sức và xe kiệu

Đều hoan hỉ bố thí

Hồi hướng quả vị Phật

Nguyện đắc được thừa ấy

Bậc nhất trong ba cõi

Chư Phật thường khen ngợi.

Hoặc có những Bồ Tát

Dùng xe báu bốn ngựa

Lan can và lọng hoa

Trang sức đem bố thí.

Lại thấy các Bồ Tát

Đem thân thịt tay chân

Và vợ con bố thí

Để cầu vô thượng đạo.

Lại thấy có Bồ Tát

Dùng đầu mắt thân thể

Vui thích đem bố thí

Để cầu Phật trí huệ.

Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Tôi thấy các ông vua

Đều đi đến chốn Phật

Hỏi pháp vô thượng đạo.

Bèn vui vẻ bỏ nước

Và cung điện thần thiếp

Cạo bỏ râu và tóc

Mà mặc y pháp phục.

Hoặc thấy có Bồ Tát

Xuất gia làm Tỳ Kheo

Một mình ở chỗ vắng

Thích đọc tụng kinh điển.

Lại thấy có Bồ Tát

Rất tinh tấn dũng mãnh

Vào ở trong rừng sâu

Suy gẫm cầu Phật đạo.

Lại thấy người lìa dục

Thường ở chỗ thanh nhàn

Chuyên tu tập thiền định

Đắc được năm thần thông.

Lại thấy có Bồ Tát

Chắp tay trụ thiền định

Dùng ngàn vạn bài kệ

Khen ngợi các Pháp Vương.

Lại thấy có Bồ Tát

Trí sâu chí kiên cố

Tham vấn các đức Phật

Nghe rồi đều thọ trì.

Lại thấy có Phật tử

Định huệ đều đầy đủ

Dùng vô lượng thí dụ

Vì chúng diễn nói pháp.

Vui thích nói các pháp

Giáo hóa các Bồ Tát

Phá trừ chúng binh ma

Mà đánh vang trống pháp.

Lại thấy có Bồ Tát

Yên lặng ngồi bất động

Trời rồng đều cung kính

Chẳng vì thế vui mừng.

Lại thấy có Bồ Tát

Tại rừng phóng quang minh

Cứu khổ dưới địa ngục

Khiến họ vào Phật đạo.

Lại thấy có Phật tử

Chưa từng có ngủ nghỉ

Kinh hành ở trong rừng

Siêng cầu chứng Phật đạo.

Lại thấy bậc giới đức

Oai nghi chẳng thiếu khuyết

Thanh tịnh như châu báu

Để cầu chứng Phật đạo.

Lại thấy có Phật tử

Trụ vào sức nhẫn nhục

Bị kẻ tăng thượng mạn

Mắng chưởi và đánh đập.

Thảy đều nhẫn thọ được

Để cầu chứng Phật đạo!

Lại thấy có Bồ Tát

Lìa bỏ sự giỡn cười.

Và quyến thuộc ngu si

Gần gũi bậc trí huệ

Nhất tâm trừ tạp loạn

Nhiếp niệm ở núi rừng.

Trải ức ngàn vạn năm

Để cầu chứng Phật đạo!

Hoặc thấy có Bồ Tát

Đồ ăn uống thượng hạng.

Và trăm thứ thuốc thang

Đem cúng Phật và Tăng

Y tốt quần áo đẹp

Trị giá ngàn vạn tiền.

Hoặc là y vô giá

Đem cúng Phật và Tăng.

Dùng ngàn vạn ức thứ

Nhà báu bằng chiên đàn

Các giường nệm tốt đẹp

Dâng cúng Phật và Tăng.

Vườn rừng rất thanh tịnh

Hoa quả đều sum sê

Có suối chảy ao tắm

Cúng dường Phật và Tăng.

Như thế đều bố thí

Đủ thứ đồ tốt đẹp

Vui vẻ chẳng nhàm chán

Để cầu vô thượng đạo.

Lại thấy có Bồ Tát

Đang nói pháp tịch diệt

Đủ thứ sự giáo hóa

Độ vô số chúng sinh.

Hoặc thấy có Bồ Tát

Quán sát các pháp tánh

Đều chẳng có hai tướng

Giống như là hư không.

Lại thấy có Phật tử

Tâm chẳng có chấp trước

Lấy đó làm diệu huệ

Cầu chứng vô thượng đạo.

Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Lại thấy có Bồ Tát

Khi Phật diệt độ rồi

Cúng dường Phật xá lợi.

Lại thấy có Phật tử

Tạo dựng các chùa tháp

Nhiều vô số Hằng sa

Nghiêm sức khắp cõi nước.

Bảo tháp rất cao đẹp

Đến năm ngàn do tuần

Bề ngang rộng đồng nhau

Dài hai ngàn do tuần.

Tại mỗi mỗi chùa tháp

Đều có ngàn tràng phan

Màn châu xen thòng xuống

Linh báu đều hòa reo.

Hết thảy trời rồng thần

Người và chẳng phải người

Hương hoa và âm nhạc

Thường mang đến cúng dường.

Ngài Văn Thù Sư Lợi!

Các vị Phật tử kia

Vì cúng dường xá lợi

Trang nghiêm đẹp chùa tháp.

Khắp cõi nước tự nhiên

Đẹp đẽ tốt lạ thường

Như cây thiên thụ vương

Hoa nở khắp hết thảy.

Phật phóng luồng hào quang

Tôi và cả chúng hội

Thấy khắp cõi nước đó

Đủ thứ sự thù diệu.

Sức thần thông chư Phật

Trí huệ rất hi hữu

Phóng một luồng tịnh quang

Chiếu khắp vô lượng cõi.

Chúng ta thấy như vậy

Thật là chưa từng có

Mong Phật tử Văn Thù

Giải quyết nghi của chúng.

Bốn chúng đều trông mong

Nhìn Ngài và nhìn tôi

Thế Tôn vì cớ gì?

Phóng luồng quang minh nầy!

Phật tử hãy giải đáp

Dứt nghi cho chúng mừng

Có những lợi ích gì?

Về việc quang minh đó!

Phật ngồi tại đạo tràng

Đắc được pháp thâm diệu

Vì muốn nói pháp đó

Hay là sẽ thọ ký!

Hiện bày các cõi Phật

Các báu đều nghiêm tịnh

Và thấy các Đức Phật

Đây chẳng phải duyên nhỏ.

Ngài Văn Thù nên biết!

Bốn chúng trời, rồng, thần

Thảy đều nhìn trông Ngài

Vì sẽ nói những gì?

Bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với đại Bồ Tát Di Lặc và các Đại sĩ: Các thiện nam tử! Theo sự nghĩ của tôi, nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nói pháp nghĩa lớn.

Các thiện nam tử! Tôi ở chỗ chư Phật trong quá khứ, đã từng thấy điềm lành nầy, sau khi Đức Phật phóng quang minh rồi, sẽ nói pháp lớn. Do đó, sẽ biết chắc hôm nay Đức Phật, hiện quang minh cũng lại như thế, muốn khiến cho chúng sinh đều được nghe biết pháp, mà tất cả thế gian rất khó tin, cho nên thị hiện tướng điềm lành.

Các thiện nam tử! Vào thuở quá khứ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Diễn nói chánh pháp, ban đầu, giữa, sau cùng, đều lành. Nghĩa lý rất thâm sâu, lời lẽ khéo léo vi diệu, thuần nhất chẳng hỗn tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh tịnh. Vì người cầu Thanh Văn, thì nói pháp bốn diệu đế, độ sinh, già, bệnh, chết, đắc được cứu kính Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật, thì nói pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ Tát, thì nói sáu Ba la mật, khiến cho đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành Nhất thiết chủng trí.

Lại có vị Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại có vị Phật nữa, cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như thế gồm có hai vạn vị Phật, đều đồng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, và đồng một họ là Phả La Đọa. Ngài Di Lặc nên biết ! Đức Phật đầu tiên, Đức Phật sau cùng, đều đồng danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, pháp nói ra trước giữa sau đều lành. Vị Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vị vương tử. Vị thứ nhất tên là Hữu Ý, vị thứ hai tên là Thiện Ý, vị thứ ba tên là Vô Lượng Ý, vị thứ tư tên là Bảo Ý, vị thứ năm tên là Tăng Ý, vị thứ sáu tên là Trừ Nghi Ý, vị thứ bảy tên là Tưởng Ý, vị thứ tám tên là Pháp Ý. Tám vị vương tử nầy, đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều thống lãnh bốn thiên hạ. Khi nghe vua cha xuất gia đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thảy đều xả bỏ ngôi vua cũng theo đi xuất gia, phát tâm đại thừa, thường tu phạm hạnh, đều làm pháp sư, đều đã trồng gốc căn lành nơi ngàn vạn vị Phật.

Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, nói Kinh đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói Kinh nầy rồi, liền ngồi kiết già, ở trong đại chúng nhập vào tam muội vô lượng nghĩa xứ, thân tâm đều bất động.

Lúc đó, trời mưa hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, rải khắp ở trên đức Phật và các đại chúng. Khắp các thế giới của chư Phật, đều có sáu thứ chấn động.

Lúc đó, ở trong chúng hội, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thác bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, và các ông vua nhỏ, Chuyển luân thánh vương .v.v… các đại chúng đều được chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.

Bấy giờ, Đức Như Lai phóng tướng luồng hào quang trắng, giữa chặn mày chiếu khắp phương đông, một vạn tám ngàn cõi Phật, như những gì nay thấy là các cõi nước của chư Phật.

Ngài Di Lặc nên biết! Lúc đó, trong chúng hội có hai mươi ức vị Bồ Tát thích muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó, thấy luồng quang minh chiếu khắp các cõi Phật, được chưa từng có, đều muốn biết quang minh đó, do nhân duyên gì? Thì có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm vị đệ tử.

Lúc đó, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ tam muội dậy, vì Bồ Tát Diệu Quang mà nói kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, không rời khỏi chỗ ngồi, những người ở trong hội nghe pháp, cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm đều chẳng động, nghe đức Phật nói pháp như bữa ăn trong chốc lát. Lúc đó, trong đại chúng chẳng có một người nào, hoặc là thân, hoặc là tâm sinh lười mỏi.

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trải qua hai mươi tiểu kiếp nói kinh xong rồi, bèn ở trong đại chúng: Phạm, ma, Sa môn, Bà la môn, và trời, người, A tu la, mà tuyên bố rằng: Vào nửa đêm nay, Như Lai sẽ vào Vô dư Niết Bàn.

Lúc đó, có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng, được Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký cho Ngài, nói với các Tỳ Kheo rằng: Bồ Tát Đức Tạng kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Đức Phật thọ ký xong, vào lúc nửa đêm, bèn vào Vô dư Niết Bàn. Đức Phật diệt độ rồi, Bồ Tát Diệu Quang trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua hai mươi tiểu kiếp, mới vì mọi người mà diễn nói. Tám người con của Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều là đệ tử của Ngài Diệu Quang. Ngài Diệu Quang đều giáo hóa, khiến cho các vị đó kiên cố nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị vương tử đó, cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức đức Phật rồi, đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng hiệu là Nhiên Đăng.

Trong tám trăm vị đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham trước danh lợi, tuy cũng đọc tụng kinh điển, mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, cho nên gọi là Cầu Danh. Do người nầy cũng có gieo trồng các căn lành, nên được gặp vô lượng trăm ngàn ức các Đức Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán.

Ngài Di Lặc nên biết! Lúc đó, Bồ Tát Diệu Quang đâu phải là người nào khác, chính là ta đây, còn Bồ Tát Cầu Danh chính là Ngài đấy. Nay thấy tướng điềm lành nầy, cùng với xưa kia không khác. Cho nên xét nghĩ, hôm nay Đức Như Lai sẽ nói kinh đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.

Lúc đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Tôi nhớ đời quá khứ

Vô lượng vô số kiếp

Có Phật nhân trung tôn

Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.

Thế Tôn diễn nói pháp

Độ vô lượng chúng sinh

Vô số ức Bồ Tát

Khiến vào trí của Phật.

Trước khi Phật xuất gia

Cũng theo tu phạm hạnh.

Phật nói Kinh đại thừa

Tên là Vô Lượng Nghĩa

Ở trong các đại chúng

Mà rộng vì phân biệt.

Phật nói Kinh nầy rồi

Bèn ở trên pháp tòa

Ngồi kiết già nhập định

Tên vô lượng nghĩa xứ.

Và thấy các trời, người

Chúng rồng, thần, Dạ xoa

Càn thát, Khẩn na la

Đều cúng dường Đức Phật.

Lại thấy các Như Lai

Tự nhiên thành Phật đạo

Sắc thân như núi vàng

Đoan nghiêm rất đẹp đẽ.

Như trong lưu ly sạch

Hiện ra tựa vàng thật

Thế Tôn trong đại chúng

Diễn nói pháp thâm sâu.

Mỗi mỗi các cõi Phật

Vô số chúng Thanh Văn

Vì Phật quang chiếu đến

Nên thấy đại chúng kia.

Hoặc thấy các Tỳ Kheo

Ở trong nơi rừng núi

Tinh tấn giữ tịnh giới

Như giữ gìn minh châu.

Trời mưa hoa mạn đà

Trống trời tự nhiên kêu

Các trời, rồng, quỷ, thần

Cúng dường Nhân trung tôn.

Tất cả các cõi Phật

Tức thời đều chấn động

Phật phóng quang giữa mày

Hiện nhiều việc hiếm có.

Quang nầy chiếu phương đông

Một vạn tám nghìn cõi

Hiện sinh tử nghiệp báo

Của tất cả chúng sinh.

Lại thấy các cõi Phật

Dùng các báu trang nghiêm

Màu lưu ly pha lê

Đều do Phật quang chiếu.

Lại thấy các Bồ Tát

Bố thí và nhẫn nhục

Số lượng như Hằng sa

Đều do Phật quang chiếu.

Lại thấy các Bồ Tát

Vào sâu các thiền định

Thân tâm lặng chẳng động

Để cầu vô thượng đạo.

Lại thấy các Bồ Tát

Biết pháp tướng tịch diệt

Đều ở cõi nước kia

Nói pháp cầu Phật đạo.

Lúc đó bốn bộ chúng

Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng

Hiện sức đại thần thông

Tâm họ đều vui mừng.

Thảy đều tự hỏi nhau:

Việc nầy nhân duyên gì?

Thế Tôn của trời người

Vừa mới ra khỏi định

Khen Bồ Tát Diệu Quang

Ông là mắt thế gian

Nơi tin của tất cả

Phụng trì được pháp tạng.

Như pháp của ta nói

Chỉ ông chứng biết được

Đức Thế Tôn khen ngợi

Khiến Diệu Quang vui mừng.

Bèn nói Kinh Pháp Hoa

Trọn sáu mươi tiểu kiếp

Chẳng rời khỏi toà ngồi

Pháp nói ra thâm diệu.

Ngài pháp sư Diệu Quang

Thảy đều thọ trì được.

Phật nói Kinh Pháp Hoa

Khiến chúng vui mừng rồi.

Tức cũng trong ngày đó

Nói với chúng trời người

Nghĩa thật tướng các pháp

Đã vì các ông nói.

Ta nay trong đêm nay

Sẽ vào cõi Niết bàn

Các ông hãy tinh tấn

Nên xa lìa phóng dật.

Chư Phật rất khó gặp

Ức kiếp gặp một lần

Hết thảy con của Phật

Nghe Phật vào Niết bàn.

Ai nấy đều buồn khổ

Sao Phật diệt sớm thế?

Đấng Pháp Vương Thánh chúa

An ủi vô lượng chúng.

Nếu lúc ta diệt độ

Các ông chớ lo sợ

Vị Bồ Tát Đức Tạng

Nơi vô lậu thật tướng.

Tâm đã được thông đạt

Kế đây sẽ thành Phật

Hiệu là Phật Tịnh Thân

Cũng độ vô lượng chúng.

Đêm nay Phật diệt độ

Như củi hết lửa tắt

Phân chia các xá lợi

Mà xây vô lượng tháp.

Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni

Số đông như Hằng sa

Lại càng thêm tinh tấn

Để cầu vô thượng đạo.

Vị pháp sư Diệu Quang

Phụng trì tạng Phật pháp

Trong tám mươi tiểu kiếp

Rộng nói Kinh Pháp Hoa.

Tám vị vương tử đó

Được Diệu Quang giáo hoá

Kiên cố đạo vô thượng

Thấy được vô số Phật.

Cúng dường chư Phật rồi

Cũng theo tu đại đạo

Liên tiếp đều thành Phật

Thứ tự mà thọ ký.

Thiên Trung Thiên cuối cùng

Hiệu là Phật Nhiên Đăng

Là đạo sư trời người

Độ thoát vô lượng chúng.

Vị pháp sư Diệu Quang

Có một vị đệ tử

Tâm thường hay giải đãi

Tham trước về danh lợi.

Cầu danh lợi không chán

Thường đến nhà giàu sang

Bỏ bê đọc tụng kinh

Quên mất chẳng thông thuộc.

Vì bởi nhân duyên đó

Nên gọi là Cầu Danh

Cũng tu các nghiệp thiện

Được thấy vô số Phật.

Cúng dường các Đức Phật

Theo tu hành đại đạo

Đủ sáu Ba la mật

Nay gặp Phật Thích Ca.

Sau nầy sẽ thành Phật

Hiệu là Phật Di Lặc

Rộng độ các chúng sinh

Số đông nhiều vô lượng.

Phật kia diệt độ rồi

Người giải đãi là Ngài

Còn pháp sư Diệu Quang

Nay chính là thân ta.

Tôi thấy Phật Đăng Minh

Điềm lành xưa như vậy

Nên biết Phật hôm nay

Muốn nói Kinh Pháp Hoa.

Tướng nay như điềm xưa

Là phương tiện chư Phật

Nay Phật phóng quang minh

Giúp bày nghĩa thật tướng.

Các người nay nên biết

Chắp tay một lòng chờ

Phật sẽ rưới mưa pháp

Đầy đủ người cầu đạo.

Những người cầu ba thừa

Nếu có chỗ nghi hối

Phật sẽ dứt trừ cho

Khiến hết chẳng còn thừa.

***

Phẩm Phương Tiện thứ Hai

Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam muội an tường mà dậy, nói với Ngài Xá Lợi Phất: Trí huệ của chư Phật thâm sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật không thể biết được. Vì sao? Vì Phật đã từng gần gũi trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, thực hành hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng đồn khắp, thành tựu pháp thâm sâu chưa từng có, tùy nghi mà nói, ý nghĩa khó hiểu.

Xá Lợi Phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ để rộng nói, dùng vô số phương tiện để dìu dắt giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa các sự chấp trước. Tại sao? Vì phương tiện tri kiến Ba la mật của Như Lai đều đã đầy đủ.

Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại, lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát, tam muội, vào sâu chẳng có bờ mé, thành tựu tất cả các pháp chưa từng có.

Xá Lợi Phất! Như Lai dùng đủ thứ sự khác biệt, khéo léo nói các pháp, lời lẽ êm diệu, khiến cho vừa lòng đại chúng.

Xá Lợi Phất! Nói tóm lại, những pháp chính yếu vô lượng vô biên chưa từng có, Phật đều đã thành tựu.

Thôi, Xá Lợi Phất! Đừng nói nữa. Vì sao? Vì pháp của Phật thành tựu ít có, khó hiểu bậc nhất. Chỉ có Phật với Phật, mới thấu triệt được thật tướng của các pháp. Đó là : Tướng của các pháp như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, gốc ngọn cứu kính như vậy .v.v…

Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng:

Đấng Thế Hùng khó lường

Chư thiên và nhân loại

Tất cả loài chúng sinh

Chẳng ai hiểu biết Phật.

Phật lực vô sở úy

Giải thoát các tam muội

Các pháp khác của Phật

Chẳng ai đo lường được.

Vốn từ vô số Phật

Đầy đủ hạnh các đạo

Pháp thâm sâu nhiệm mầu

Khó thấy khó biết được.

Trong vô lượng ức kiếp

Hành các đạo đó rồi

Đạo tràng được chứng quả

Ta đều đã thấy biết.

Quả báo lớn như vậy

Đủ thứ tánh tướng nghĩa

Ta và mười phương Phật

Mới biết rõ việc đó.

Pháp đó chẳng thể bày

Lời lẽ tướng tịch diệt

Những loài chúng sinh khác

Chẳng ai hiểu biết được.

Trừ các chúng Bồ Tát

Bậc sức tin kiên cố

Chúng đệ tử chư Phật

Từng cúng dường chư Phật.

Tất cả bậc sạch lậu

Trụ ở thân cuối cùng

Những hạng người như vậy

Sức họ chẳng kham được.

Nếu như đầy thế gian

Đều như Xá Lợi Phất

Suy nghĩ và độ lượng

Chẳng dò được Phật trí.

Giả sử đầy mười phương

Đều như Xá Lợi Phất

Và các đệ tử khác

Cũng đầy mười phương cõi.

Cùng nghĩ và độ lượng

Cũng chẳng hiểu biết được

Bích Chi Phật lợi trí

Vô lậu thân cuối cùng.

Cũng đầy khắp mười phương

Số đông như rừng tre

Thảy đều chung một lòng

Trong vô lượng ức kiếp.

Muốn lường Phật thật trí

Chẳng biết được ít phần

Bồ Tát mới phát tâm

Cúng dường vô số Phật.

Thấu rõ các nghĩa thú

Lại hay khéo nói pháp

Như lúa mè tre lau

Đầy khắp mười phương cõi.

Nhất tâm dùng diệu trí

Trải Hằng sa số kiếp

Cùng chung nhau suy lường

Chẳng biết được Phật trí.

Các Bồ Tát bất thối

Số đông như Hằng sa

Đều nhất tâm suy cầu

Cũng chẳng thể biết được.

Lại nữa, Xá Lợi Phất!

Vô lậu chẳng nghĩ bàn

Pháp thâm sâu nhiệm mầu

Ta nay đã được đủ

Chỉ ta biết tướng đó

Mười phương Phật cũng thế.

Xá Lợi Phất nên biết!

Lời chư Phật không khác

Pháp của Phật nói ra

Nên sinh sức tin lớn

Pháp Thế Tôn lâu sau

Cần phải nói chân thật.

Nầy các chúng Thanh Văn!

Và người cầu Duyên Giác

Ta khiến cho thoát khổ

Sớm đắc được Niết bàn.

Phật dùng sức phương tiện

Mở bày ba thừa giáo

Chúng sinh nơi nơi chấp

Dẫn dắt họ ra khỏi.

Bấy giờ, ở trong đại chúng có các vị Thanh Văn A La Hán đã sạch các lậu, Ngài A Nhã Kiều Trần Như .v.v… một ngàn hai trăm người, và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, phát tâm cầu Thanh Văn và Bích Chi Phật, ai nấy đều nghĩ rằng: Hôm nay Đức Thế Tôn vì cớ gì, mà ân cần khen ngợi pháp phương tiện mà nói như vầy: Pháp của Phật đắc được thâm sâu khó hiểu, lời lẽ nói ra ý thú khó biết, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, không thể hiểu biết được. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp nầy, đến nơi Niết bàn, mà nay chẳng biết nghĩa đó như thế nào?

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất biết tâm nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, mới bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì, mà ân cần khen ngợi pháp phương tiện bậc nhất của chư Phật, thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu? Con từ xưa đến nay, chưa từng nghe Đức Phật nói như thế. Nay bốn chúng thảy đều có tâm nghi, ngưỡng mong đức Thế Tôn diễn nói việc đó. Vì sao Đức Thế Tôn ân cần ngợi khen, pháp thâm sâu nhiệm mầu khó hiểu?

Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng:

Đấng Huệ Nhật Đại Thánh

Lâu mới nói pháp nầy

Tự nói được như thế

Lực vô úy tam muội.

Thiền định giải thoát thảy

Pháp không thể nghĩ bàn

Pháp chứng nơi đạo tràng

Chẳng ai có thể hỏi.

Tâm con khó dò được

Cũng chẳng ai hỏi được

Chẳng hỏi mà tự nói

Khen ngợi đạo mình hành.

Trí huệ sâu vi diệu

Chỗ đắc của chư Phật

Các La Hán vô lậu

Và người cầu Niết bàn.

Nay đều sa lưới nghi

Vì sao Phật nói thế?

Những người cầu Duyên Giác

Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni.

Các trời rồng quỷ thần

Và Càn thát bà thảy

Nhìn nhau ôm lòng nghi

Chiêm ngưỡng đấng Lưỡng Túc.

Việc đó như thế nào?

Xin Phật hãy giải nói.

Trong hàng chúng Thanh Văn

Phật nói con hạng nhất.

Nay con nương trí mình

Nghi hoặc chẳng hiểu được

Đâu là pháp cứu kính

Đâu là đạo Phật tu?

Con từ miệng Phật sinh!

Chắp tay chiêm ngưỡng chờ

Xin nói pháp vi diệu

Liền vì nói như thật.

Các trời rồng thần thảy

Số đông như Hằng sa

Các Bồ Tát cầu Phật

Số nhiều đến tám vạn.

Và vạn ức cõi nước

Chuyển luân thánh vương đến

Chắp tay lòng cung kính

Muốn nghe đạo đầy đủ.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Thôi đi! Thôi đi! Đừng nói nữa. Nếu nói việc đó, thì tất cả trời, người thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.

Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho! Tại sao? Vì vô số trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ chúng sinh, đã từng gặp các đức Phật, các căn đều lanh lợi, trí huệ sáng suốt, nghe đức Phật nói chắc sẽ cung kính tin nhận.

Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng:

Đấng Pháp Vương vô thượng

Xin nói chớ do dự

Vô lượng chúng trong hội

Có người sẽ kính tin.

Đức Phật lại bảo Xá Lợi Phất: Thôi đi! Nếu nói việc đó, thì tất cả thế gian trời, người, A tu la, đều sẽ kinh sợ nghi hoặc, Tỳ Kheo tăng thượng mạn sẽ sa vào hầm lớn.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thôi thôi đừng nên nói

Pháp ta diệu khó nghĩ

Những kẻ tăng thượng mạn

Nghe tất chẳng kính tin.

Khi đó, Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Cúi xin nói cho, cúi xin nói cho, nay trong hội nầy, những người như con, có hàng trăm ngàn vạn ức, các vị đó đời đời kiếp kiếp, đã từng tiếp thọ sự giáo hóa của Phật. Những người nầy tất sẽ cung kính tin nhận, lâu dài sẽ an ổn, sẽ đắc được nhiều lợi ích.

Lúc đó, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Đấng Vô Thượng Lưỡng Túc

Xin nói pháp bậc nhất

Con là trưởng tử Phật

Cúi xin phân biệt nói.

Vô lượng chúng hội nầy

Sẽ kính tin pháp nầy

Phật đời đời đã từng

Giáo hóa chúng như thế.

Đều một lòng chấp tay

Muốn nghe lời Phật nói

Chúng con ngàn hai trăm

Và người cầu Phật kia.

Xin vì đại chúng nầy

Cúi xin phân biệt nói

Chúng con nghe pháp nầy

Chắc sinh vui mừng lớn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: Ông đã ân cần ba phen thỉnh cầu, lẽ nào không nói, ông hãy lóng nghe và khéo suy xét. Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.

Đức Phật vừa nói lời nầy xong, thì trong hội có các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cả thảy năm ngàn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi đi. Tại sao? Vì những người nầy tội căn sâu nặng, và những người tăng thượng mạn, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng, có lỗi như thế, cho nên chẳng ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng chẳng ngăn cản họ.

Lúc đó, Đức Phật nói với Ngài Xá Lợi Phất: Nay chúng của ta đây chẳng còn cành lá, chỉ thuần có chân thật.

Xá Lợi Phất! Những người tăng thượng mạn như thế, đi về cũng tốt. Nay ông hãy khéo lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Ngài Xá Lợi Phất nói: Thưa vâng! Đức Thế Tôn, con thích muốn được nghe.

Đức Phật bảo: Xá Lợi Phất! Diệu pháp như thế, khi đúng thời, thì chư Phật Như Lai mới nói. Như hoa ưu đàm bát, đúng thời mới hiện.

Xá Lợi Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói, chẳng có hư vọng.

Xá Lợi Phất! Chư Phật tùy nghi nói pháp ý thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, để diễn nói các pháp, pháp đó chẳng phải suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới biết được. Vì sao? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.

Xá Lợi Phất! Tại sao lại nói chư Phật Thế Tôn, chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời? Vì chư Phật Thế Tôn muốn khiến cho chúng sinh, khai mở tri kiến của Phật, để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời, muốn mở bày cho chúng sinh tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời, muốn khiến cho chúng sinh ngộ tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời, muốn cho chúng sinh vào được tri kiến của Phật, mà hiện ra nơi đời.

Xá Lợi Phất! Đó là chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời.

Đức Phật bảo: Xá Lợi Phất! Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, làm tất cả những gì, thường vì một việc, đó là mở bày cho chúng sinh ngộ được tri kiến của Phật.

Xá Lợi Phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa, mà vì chúng sinh thuyết pháp, chẳng có hai hoặc ba thừa nào khác.

Xá Lợi Phất! Hết thảy mười phương chư Phật cũng lại như thế.

Xá Lợi Phất! Chư Phật quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp, pháp đó đều vì một Phật thừa, các chúng sinh đó theo chư Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

Xá Lợi Phất! Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện ra đời, cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa, các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

Xá Lợi Phất! Hiện tại chư Phật Thế Tôn, trong mười phương vô lượng trăm ngàn vạn ức các cõi Phật, làm lợi ích an lạc chúng sinh, chư Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ thứ nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà vì chúng sinh diễn nói các pháp. Pháp đó đều vì một Phật thừa. Các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp, cứu kính đều đắc được Nhất thiết chủng trí.

Xá Lợi Phất! Chư Phật đó chỉ giáo hóa Bồ Tát, vì muốn chỉ bày cho chúng sinh tri kiến của Phật, muốn cho chúng sinh ngộ được tri kiến của Phật, muốn cho chúng sinh vào được tri kiến của Phật.

Xá Lợi Phất! Ta nay cũng lại như thế, biết các chúng sinh có đủ thứ dục niệm, chấp trước nơi thâm tâm, tuỳ theo bản tánh của họ, ta dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ sức phương tiện, để vì họ nói pháp.

Xá Lợi Phất! Như thế đều vì đắc được một Phật thừa Nhất thiết chủng trí.

Xá Lợi Phất! Ở trong mười phương thế giới còn chẳng có hai thừa, hà huống có ba.

Xá Lợi Phất! Chư Phật xuất hiện ra đời ác năm trược: Kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Như thế Xá Lợi Phất! Vào thời kiếp trược loạn, thì chúng sinh cấu nặng, xan tham, đố kị, thành tựu các căn chẳng lành. Chư Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói ba.

Xá Lợi Phất! Nếu đệ tử của ta, tự cho mình là bậc A La Hán, Bích Chi Phật, mà chẳng nghe chẳng biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người đó chẳng phải đệ tử của Phật, chẳng phải A La Hán, chẳng phải Bích Chi Phật.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni đó, tự cho mình đã chứng A la hán, là thân cuối cùng, cứu kính Niết bàn, chẳng còn có chí cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết, những người đó đều là những kẻ tăng thượng mạn. Tại sao? Nếu có Tỳ kheo thật chứng được A la hán, nếu không tin pháp nầy, thì chẳng có lý vậy, trừ khi Phật diệt độ rồi, hiện tiền chẳng có Phật. Tại sao? Vì sau khi Phật diệt độ rồi, người thọ trì đọc tụng, hiểu nghĩa những kinh như vầy, thật là khó có được. Nếu gặp Đức Phật khác, ở trong pháp nầy thì sẽ hiểu rõ.

Xá Lợi Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu, thọ trì lời của Phật nói. Lời của chư Phật Như Lai chẳng có hư vọng, chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:

Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni

Ôm lòng tăng thượng mạn

Cư sĩ nam ngã mạn

Cư sĩ nữ chẳng tin.

Hàng bốn chúng như thế

Số đông năm ngàn người.

Chẳng thấy rõ lỗi mình

Nơi giới có thiếu lủng.

Tiếc giữ lầm lỗi mình

Người trí nhỏ đã ra

Bọn tấm cám trong chúng

Đi vì oai Đức Phật.

Những người đó phước mỏng

Chẳng kham thọ pháp nầy

Chúng nay không cành lá

Chỉ toàn là chân thật.

Xá Lợi Phất khéo nghe!

Pháp của chư Phật được

Vô lượng sức phương tiện

Mà vì chúng sinh nói.

Tâm chúng sinh nghĩ gì

Làm đủ thứ các việc

Bao nhiêu các tính dục

Nghiệp thiện ác đời trước.

Phật đều biết vậy rồi

Dùng các duyên thí dụ

Lời lẽ sức phương tiện

Khiến tất cả vui mừng.

Hoặc nói những khế kinh

Cô khởi và bổn sự

Bổn sinh, vị tằng hữu

Cũng nói các nhân duyên.

Thí dụ và trùng tụng

Và kinh luận nghị thảy

Độn căn thích pháp nhỏ

Tham trước trong sinh tử.

Vô lượng chỗ chư Phật

Chẳng hành sâu diệu đạo

Bị khổ làm não loạn

Vì họ nói Niết Bàn.

Ta bày phương tiện đó

Khiến vào được Phật huệ

Chưa từng nói các ông

Sẽ đắc được Phật đạo.

Sở dĩ chưa từng nói

Vì thời nói chưa đến

Nay chính là phải thời

Quyết định nói đại thừa.

Chín bộ pháp ta đây

Thuận theo chúng sinh nói

Vào đại thừa làm gốc

Vì vậy nói kinh nầy.

Có Phật tử tâm tịnh

Êm diệu cũng lợi căn

Vô lượng chỗ chư Phật

Mà hành sâu diệu đạo.

Vì các Phật tử đó

Nói kinh đại thừa nầy

Ta thọ ký người đó

Tương lai sẽ thành Phật.

Vì giữ gìn tịnh giới

Người nầy nghe thành Phật

Mừng rỡ khắp toàn thân

Phật biết tâm người đó.

Cho nên nói đại thừa

Nếu Thanh Văn Bồ Tát

Nghe pháp của ta nói.

Cho đến một bài kệ

Đều thành Phật chẳng nghi.

Trong mười phương cõi Phật

Chỉ có một thừa pháp.

Chẳng hai cũng chẳng ba

Trừ Phật phương tiện nói

Chỉ dùng tên giả danh

Dẫn dắt các chúng sinh.

Nói trí huệ của Phật

Chư Phật hiện ra đời

Chỉ thật một việc nầy

Nếu hai chẳng phải chân.

Quyết chẳng dùng tiểu thừa

Tế độ các chúng sinh

Phật tự trụ đại thừa

Như pháp của mình được.

Định huệ lực trang nghiêm

Dùng để độ chúng sinh

Tự chứng đạo vô thượng

Pháp đại thừa bình đẳng.

Nếu giáo hóa tiểu thừa

Cho đến chỉ một người

Thì ta đọa xan tham

Việc nầy không thể có.

Nếu người tin quy Phật

Như Lai chẳng dối gạt.

Cũng không tham ghen ghét

Dứt ác trong các pháp

Nên Phật trong mười phương

Chẳng có gì sợ hãi.

Ta dùng tướng nghiêm thân

Quang minh chiếu thế gian

Vô lượng chúng tôn kính

Vì nói ấn thật tướng.

Xá Lợi Phất nên biết!

Ta vốn lập thệ nguyện:

Muốn khiến tất cả chúng

Đồng như ta không khác.

Nguyện xưa kia của ta

Nay đã đầy đủ rồi

Độ tất cả chúng sinh

Đều khiến vào Phật đạo.

Nếu ta gặp chúng sinh

Dùng Phật đạo dạy hết

Kẻ vô trí lầm lẫn

Mê hoặc chẳng nghe lời.

Ta biết chúng sinh đó

Chưa từng tu gốc lành

Chấp cứng nơi năm dục

Vì si ái sinh phiền.

Do nhân duyên ác dục

Đọa vào ba đường ác

Luân hồi trong sáu nẻo

Chịu đủ các khổ độc.

Thọ thai hình hài nhỏ

Đời đời thường lớn dần

Người đức mỏng phước ít

Bị các khổ bức bách.

Vào rừng rậm tà kiến

Chấp có, hoặc chấp không

Nương tựa các kiến này

Đầy đủ sáu mươi hai.

Chấp sâu pháp hư vọng

Giữ chặt chẳng bỏ được

Ngã mạn tự khoe cao

Dua nịnh tâm chẳng thật.

Trong ngàn vạn ức kiếp

Chẳng nghe danh hiệu Phật

Cũng chẳng nghe chánh pháp

Người như thế khó độ.

Cho nên Xá Lợi Phất!

Ta vì bày phương tiện

Nói hết các khổ đạo

Mở bày đạo Niết bàn.

Tuy ta nói Niết bàn

Đó cũng chẳng thật diệt

Các pháp từ bổn lai

Tướng thường tự tịch diệt.

Phật tử hành đạo rồi

Đời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày pháp ba thừa.

Nay các đại chúng đây

Đều nên trừ nghi hoặc

Lời chư Phật không khác

Một chẳng có hai thừa.

Quá khứ vô số kiếp

Vô lượng Phật diệt độ

Trăm ngàn vạn ức Phật

Số đông không thể lường.

Các Thế Tôn như thế

Đủ thứ duyên thí dụ

Vô số sức phương tiện

Diễn nói tướng các pháp.

Các Thế Tôn đó thảy

Đều nói pháp một thừa

Độ vô lượng chúng sinh

Khiến vào được Phật đạo.

Các đấng Đại Thánh Chúa

Biết tất cả thế gian

Trời người loại quần sinh

Trong thâm tâm ưa muốn.

Bèn dùng phương tiện khác

Giúp bày nghĩa đệ nhất

Nếu có loại chúng sinh

Gặp chư Phật quá khứ.

Nếu nghe pháp bố thí

Hoặc trì giới nhẫn nhục

Tinh tấn thiền trí thảy

Tu đủ thứ phước huệ.

Tất cả những người đó

Đều đã thành Phật đạo.

Sau chư Phật diệt độ

Nếu người tâm tốt lành.

Những chúng sinh như thế

Đều đã thành Phật đạo

Chư Phật diệt độ rồi

Người cúng dường xá lợi.

Tạo vạn ức bảo tháp

Vàng bạc và pha lê

Xa cừ cùng mã não

Châu mai khôi lưu ly.

Thanh tịnh rộng nghiêm sức

Trang trí nơi các tháp

Hoặc dùng đá làm chùa

Chiên đàn và trầm thủy.

Gỗ mật và gỗ khác

Gạch ngói bùn đất thảy

Nếu ở nơi đồng hoang

Chứa đất thành chùa Phật.

Cho đến trẻ con chơi

Vun cát làm tháp Phật

Tất cả những người đó

Đều đã thành Phật đạo.

Nếu như người vì Phật

Kiến tạo các hình tượng

Điêu khắc thành các tướng

Đều đã thành Phật đạo.

Hoặc làm bằng bảy báu

Vàng thau đồng trắng đỏ

Nhôm chì và chất kẽm

Sắt gỗ cùng với bùn.

Hoặc dùng keo sơn vải

Nghiêm sức làm tượng Phật

Hết thảy những người đó

Đều đã thành Phật đạo.

Vẽ họa làm tượng Phật

Trăm tướng phước trang nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Đều đã thành Phật đạo.

Cho đến trẻ con chơi

Dùng cỏ cây và bút

Hoặc là dùng móng tay

Mà vẽ họa tượng Phật.

Hết thảy những người đó

Từ từ tích công đức

Đầy đủ tâm đại bi

Đều đã thành Phật đạo.

Giáo hóa các Bồ Tát

Độ thoát vô lượng chúng.

Nếu người nơi chùa tháp

Tượng báu và tượng vẽ.

Dùng hương hoa, phan, lọng

Cúng kính mà cúng dường

Hoặc khiến người tấu nhạc

Đánh trống thổi sừng ốc.

Tiêu, sáo, cầm, đờn sắt

Tì bà chụp chã đồng

Các tiếng hay như thế

Đem hết để cúng dường.

Hoặc dùng tâm vui mừng

Ca tụng công đức Phật.

Dù chỉ một vài lời

Họ đều đã thành Phật

Hoặc người tâm tán loạn

Cho đến dùng cành hoa.

Cúng dường trước tượng vẽ

Lần thấy vô số Phật

Hoặc có người lễ lạy

Hoặc là chỉ chắp tay.

Cho đến giơ một tay

Hoặc là hơi cúi đầu

Dùng để cúng dường tượng

Lần thấy vô lượng Phật.

Tự thành vô thượng đạo

Rộng độ vô số chúng

Vào Vô dư Niết bàn

Như củi hết lửa tắt.

Hoặc người tâm tán loạn

Vào đến trong chùa tháp

Miệng niệm Nam Mô Phật

Họ đều đã thành Phật.

Nơi chư Phật quá khứ

Tại thế hoặc diệt độ

Người nghe được pháp nầy

Đều đã thành Phật đạo.

Các Thế Tôn vị lai

Số đông không thể lường

Các vị Như Lai đó

Cũng phương tiện nói pháp.

Tất cả các Như Lai

Dùng vô lượng phương tiện

Độ thoát các chúng sinh

Vào trí Phật vô lậu.

Nếu có người nghe pháp

Không ai chẳng thành Phật.

Chư Phật vốn thệ nguyện

Ta tu hành Phật đạo

Muốn hết thảy chúng sinh

Cũng đều được đạo nầy.

Chư Phật đời vị lai

Tuy nói trăm ngàn ức

Vô số các pháp môn

Thật tế vì một thừa.

Chư Phật Lưỡng Túc Tôn

Biết pháp thường không tánh

Giống Phật từ duyên sinh

Vì thế nói một thừa.

Pháp đó trụ pháp vị

Tướng thế gian thường trụ

Biết rồi nơi đạo tràng

Đạo sư phương tiện nói.

Chỗ trời người cúng dường

Hiện tại mười phương Phật

Số đông như Hằng sa

Xuất hiện nơi thế gian.

Vì yên ổn chúng sinh

Cũng nói pháp như thế

Biết tịch diệt bậc nhất

Vì dùng sức phương tiện.

Tuy bày nhiều thừa pháp

Thật tế vì Phật thừa

Biết các hạnh chúng sinh

Nghĩ tưởng trong thâm tâm.

Nghiệp nhiễm trong quá khứ

Tánh dục sức tinh tấn

Và các căn lợi độn

Dùng đủ thứ nhân duyên.

Thí dụ và lời lẽ

Tùy theo phương tiện nói.

Nay ta cũng như thế

Vì yên ổn chúng sinh.

Dùng đủ thứ pháp môn

Mở bày nơi Phật đạo

Ta dùng sức trí huệ

Biết tánh chúng sinh muốn.

Phương tiện nói các pháp

Đều khiến được vui mừng

Xá Lợi Phất nên biết!

Ta dùng mắt Phật xem.

Thấy sáu đường chúng sinh

Bần cùng chẳng phước huệ

Vào đường hiểm sinh tử

Khổ liên tục chẳng dứt.

Chấp sâu nơi năm dục

Như trâu mao mến đuôi

Bởi tham ái tự che

Đuôi mù chẳng thấy được.

Chẳng cầu thế của Phật

Và pháp diệt trừ khổ

Vào sâu các tà kiến

Lấy khổ muốn bỏ khổ.

Phật vì chúng sinh nầy

Mà sinh tâm đại bi.

Xưa ta ngồi đạo tràng

Xem cây cũng kinh hành.

Trong hai mươi mốt ngày

Suy nghĩ việc như vầy:

Trí huệ mà ta được

Rất nhiệm mầu bậc nhất.

Các chúng sinh độn căn

Tham vui si làm mù

Những loại người như thế

Làm sao mà độ được!

Lúc đó, có Phạm Vương

Và các trời Đế Thích

Bốn Thiên Vương hộ đời

Cùng trời Đại Tự Tại.

Và các chúng trời khác

Quyến thuộc trăm ngàn vạn

Cung kính chắp tay lễ

Thỉnh ta chuyển pháp luân.

Ta liền tự suy nghĩ:

Nếu chỉ khen Phật thừa

Chúng sinh đắm nơi khổ

Không thể tin pháp nầy.

Vì phá pháp chẳng tin

Đọa trong ba đường ác

Ta thà không nói pháp

Mau vào cõi Niết bàn.

Liền nhớ Phật quá khứ

Thực hành sức phương tiện

Nay ta đắc được đạo

Cũng nên nói ba thừa.

Suy nghĩ như thế thì

Mười phương Phật đều hiện

Tiếng phạm an ủi ta:

Lành thay Đức Thích Ca!

Đấng Đạo sư bậc nhất

Được pháp vô thượng nầy

Thuận theo tất cả Phật

Mà dùng sức phương tiện.

Chúng ta cũng đều được

Pháp tối diệu bậc nhất

Vì các loại chúng sinh

Phân biệt nói ba thừa.

Trí kém ưa pháp nhỏ

Chẳng tự tin thành Phật

Cho nên dùng phương tiện

Phân biệt nói các quả.

Tuy là nói các quả

Chỉ vì dạy Bồ Tát.

Xá Lợi Phất nên biết!

Ta nghe tiếng của Phật.

Rất thanh tịnh nhiệm mầu

Xưng Nam Mô chư Phật!

Ta lại nghĩ như vầy:

Ta ra đời ác trược.

Như chư Phật đã nói

Ta cũng thuận làm theo

Suy nghĩ việc đó rồi

Bèn đến vườn Lộc Uyển.

Các pháp tướng tịch diệt

Không thể dùng lời nói

Bèn dùng sức phương tiện

Vì năm Tỳ Kheo nói.

Gọi là chuyển pháp luân

Bèn có tiếng Niết Bàn

Cùng với A la hán

Tên pháp, Tăng khác biệt.

Từ kiếp xưa đến nay

Khen ngợi pháp Niết Bàn

Dứt hẳn khổ sinh tử

Ta thường nói như thế.

Xá Lợi Phất nên biết!

Ta thấy các Phật tử

Người chí cầu Phật đạo

Vô lượng ngàn vạn ức.

Đều dùng tâm cung kính

Đồng đến chỗ chư Phật

Từng theo nghe chư Phật

Dùng phương tiện nói pháp.

Ta liền nghĩ thế nầy:

Sở dĩ Phật ra đời

Đều vì nói Phật huệ

Nay đúng là phải thời.

Xá Lợi Phất nên biết!

Người độn căn trí nhỏ

Kẻ chấp tướng kiêu mạn

Chẳng thể tin pháp nầy.

Nay ta vui chẳng sợ

Ở trong chúng Bồ Tát

Ta bỏ ngay phương tiện

Chỉ nói đạo vô thượng.

Bồ Tát nghe pháp nầy

Lưới nghi đều đã trừ

Ngàn hai trăm La Hán

Thảy đều sẽ thành Phật.

Như chư Phật ba đời

Nghi thức nói các pháp

Ta nay cũng như thế

Nói pháp không phân biệt.

Chư Phật hiện ra đời

Lâu xa khó gặp được

Gặp lúc Phật ra đời

Nói pháp nầy khó hơn.

Vô lượng vô số kiếp

Nghe pháp nầy cũng khó

Người nghe được pháp nầy

Người đó càng khó hơn.

Ví như hoa ưu đàm

Tất cả đều ưa thích

Ít có trong trời người

Đúng thời mới xuất hiện.

Nghe pháp vui mừng khen

Cho đến nói một lời

Tức là đã cúng dường

Tất cả Phật ba đời.

Người đó rất ít có

Hơn cả hoa ưu đàm.

Các ông chớ có nghi

Ta là vua các pháp.

Nói khắp các đại chúng

Chỉ dùng đạo một thừa

Giáo hóa các Bồ Tát

Không Thanh Văn đệ tử.

Xá Lợi Phất các ông!

Thanh Văn và Bồ Tát

Nên biết diệu pháp nầy

Bí yếu của chư Phật.

Bởi đời ác năm trược

Chỉ ưa chấp các dục

Những chúng sinh như thế

Quyết chẳng cầu Phật đạo.

Người ác đời vị lai

Nghe Phật nói một thừa

Mê hoặc chẳng tin nhận

Phá pháp đọa đường ác.

Người hổ thẹn thanh tịnh

Quyết chí cầu Phật đạo

Ta sẽ vì người đó

Rộng khen đạo một thừa.

Xá Lợi Phất nên biết!

Pháp chư Phật như thế

Dùng vạn ức phương tiện

Tùy nghi mà nói pháp.

Người nào chẳng tu học

Không thể hiểu pháp nầy

Các ông tức đã biết

Chư Phật thầy trong đời.

Tùy nghi dùng phương tiện

Không nên sinh nghi hoặc

Sinh tâm vui mừng lớn

Biết mình sẽ thành Phật.

***

QUYỂN 2

Phẩm Thí Dụ thứ Ba

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng: Hôm nay nghe Đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy: Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai.

Đức Thế Tôn! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy: Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao Đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ? Đó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải Đức Thế Tôn vậy.

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Con nghe tiếng pháp nầy

Đắc được chưa từng có

Tâm sinh vui mừng lớn

Lưới nghi đều đã trừ.

Xưa nay nhờ Phật dạy

Chẳng mất nơi đại thừa

Tiếng Phật rất ít có

Hay trừ khổ chúng sinh.

Con đã được sạch lậu

Nghe cũng trừ khổ não

Con ở nơi hang núi

Hoặc dưới cây trong rừng.

Hoặc ngồi hoặc kinh hành

Thường suy gẫm như vầy:

Than ôi! Tự trách mình

Sao lại khi dối mình.

Chúng ta cũng Phật tử

Đồng vào pháp vô lậu

Đời vị lai chẳng được

Diễn nói đạo vô thượng.

Sắc vàng ba mươi hai

Mười lực các giải thoát

Đồng trong một pháp tánh

Mà chẳng được việc nầy.

Tám mươi tướng tốt đẹp

Mười tám pháp bất cộng

Những công đức như thế

Mà con đều đã mất.

Lúc con kinh hành riêng

Thấy Phật trong đại chúng

Danh đồn khắp mười phương

Rộng lợi ích chúng sinh.

Nghĩ mình mất lợi nầy

Vì con tự khi dối

Con thường nơi ngày đêm

Đều suy nghĩ việc nầy.

Muốn hỏi Đức Thế Tôn!

Là mất hay chẳng mất?

Con thường thấy Thế Tôn

Khen ngợi các Bồ Tát.

Vì thế nên ngày đêm

Con nghĩ về việc nầy

Nay nghe tiếng Phật nói

Tùy nghi mà nói pháp.

Vô lậu khó nghĩ bàn

Khiến chúng đến đạo tràng

Con vốn chấp tà kiến

Làm thầy các Phạm chí.

Thế Tôn biết tâm con

Trừ tà nói Niết Bàn

Khiến con dứt tà kiến

Chứng đắc được pháp không.

Bấy giờ tâm tự bảo:

Đến được nơi diệt độ

Nay mới thật biết rõ

Chẳng phải thật diệt độ.

Nếu sẽ được thành Phật

Đủ ba mươi hai tướng

Chúng trời người Dạ Xoa

Rồng Thần đều cung kính.

Lúc đó, mới bảo rằng:

Vĩnh viễn vào Vô Dư

Phật ở trong đại chúng

Nói con sẽ thành Phật.

Nghe tiếng pháp như thế

Nghi hoặc đều đã trừ

Vừa nghe Phật nói ra

Trong tâm rất sợ nghi.

Phải chăng ma giả Phật

Nhiễu loạn tâm con chăng

Phật dùng đủ thứ duyên

Thí dụ khéo nói pháp.

Tâm Phật an như biển

Con nghe lưới nghi dứt

Phật nói đời quá khứ

Vô lượng Phật diệt độ.

An trụ trong phương tiện

Cũng đều nói pháp nầy

Phật hiện tại vị lai

Số đông không thể lường.

Cũng dùng các phương tiện

Diễn nói pháp như thế

Như Thế Tôn hôm nay

Từ sinh đến xuất gia.

Đắc đạo chuyển pháp luân

Cũng dùng phương tiện nói

Thế Tôn nói thật đạo

Ba Tuần làm chẳng được.

Thế nên con biết chắc

Chẳng phải ma giả Phật

Vì con sa lưới nghi

Bảo là ma vương nói.

Nghe tiếng Phật êm dịu

Xâu xa rất vi diệu

Diễn xướng pháp thanh tịnh

Tâm con rất vui mừng.

Nghi hoặc đã dứt hẳn

An trụ trong thật trí

Con chắc sẽ thành Phật

Được trời người cung kính.

Chuyển pháp luân vô thượng

Giáo hóa các Bồ Tát.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Nay ta ở trong đại chúng trời người Sa môn, Bà la môn mà nói, xưa kia ta đã từng ở chỗ hai vạn ức vị Phật, vì đạo vô thượng, nên thường giáo hóa ông. Ông cũng theo ta tu học lâu dài, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông, khiến cho sinh vào trong pháp của ta.

Xá Lợi Phất! Xưa ta dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay ông đã quên, mà bèn tự bảo đã được diệt độ. Nay ta muốn khiến cho ông nhớ lại nguyện xưa đã hành đạo, vì các Thanh Văn nói kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm.

Xá Lợi Phất! Ông ở đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên số kiếp không thể nghĩ bàn, cúng dường hàng ngàn vạn ức vị Phật, phụng trì chánh pháp, đầy đủ đạo của Bồ Tát tu hành, sẽ được thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Ly Cấu, cõi đó bằng phẳng thanh tịnh trang nghiêm, an ổn, giàu có, sung sướng, trời người đông đảo. Dùng lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng dùng giăng bên đường, cạnh lề đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa quả. Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sinh.

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó ra đời tuy chẳng phải đời ác, nhưng vì nguyện xưa cho nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Vì sao tên là Đại Bảo Trang Nghiêm? Vì trong cõi nước đó dùng Bồ Tát làm đại bảo. Các Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Toán số ví dụ cũng không thể tính được, ngoài trí lực của Phật ra, không ai biết được. Nếu muốn đi thì có hoa báu đỡ chân. Các vị Bồ Tát đó, chẳng phải mới phát tâm, các Ngài đều đã trồng gốc công đức lâu xa, tu phạm hạnh thanh tịnh, nơi vô lượng trăm ngàn vạn ức chỗ các Đức Phật. Thường được chư Phật khen ngợi, thường tu trí huệ của Phật, đủ đại thần thông, khéo biết tất cả các pháp môn, chân thật không hư dối, chí niệm kiên cố, các Bồ Tát như thế đầy khắp nước đó. Xá Lợi Phất! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ làm vương tử chưa thành Phật, thì nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai, trải qua mười hai tiểu kiếp, thì thọ ký cho Bồ Tát Kiên Mãn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bảo các Tỳ Kheo rằng: Bồ Tát Kiên Mãn kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cõi nước của Đức Phật đó cũng lại như thế.

Xá Lợi Phất! Phật Hoa Quang đó diệt độ rồi, chánh pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Xá Lợi Phất tương lai

Thành Phật đấng đại trí

Hiệu là Phật Hoa Quang

Sẽ độ vô lượng chúng.

Cúng dường vô số Phật

Đầy đủ hạnh Bồ Tát

Mười lực các công đức

Chứng được vô thượng đạo.

Qua vô lượng kiếp sau

Kiếp tên Đại Bảo Nghiêm

Thế giới tên Ly Cấu

Thanh tịnh chẳng dơ bẩn.

Dùng lưu ly làm đất

Dây vàng giăng bên đường

Hàng cây xen bảy báu

Thường có hoa quả thật.

Các Bồ Tát nước đó

Chí niệm thường kiên cố

Thần thông Ba la mật

Thảy đều đã đầy đủ.

Nơi vô số chư Phật

Khéo học Bồ Tát đạo

Các Đại Sĩ như thế

Do Phật Hoa Quang độ.

Khi Phật làm vương tử

Bỏ nước xả vinh hoa

Ở nơi thân cuối cùng

Xuất gia thành Phật đạo.

Phật Hoa Quang trụ thế

Thọ mười hai tiểu kiếp

Chúng nhân dân nước đó

Thọ mạng tám tiểu kiếp.

Sau khi Phật diệt độ

Chánh pháp trụ ở đời

Ba mươi hai tiểu kiếp

Rộng độ các chúng sinh.

Chánh pháp diệt hết rồi

Tượng pháp ba mươi hai

Xá lợi rộng truyền khắp

Trời người đều cúng dường.

Sự việc Phật Hoa Quang

Đại khái là như thế

Đấng Lưỡng Túc Tôn kia

Tối thắng chẳng ai bằng.

Phật đó tức thân ông

Nên phải tự vui mừng.

Bấy giờ, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, đại chúng, thấy Đức Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Phật Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tâm rất vui mừng hớn hở vô cùng, ai nấy đều cởi y trên thân, để cúng dường Đức Phật. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm Thiên Vương, và vô số Thiên tử, cũng đem y trời đẹp, hoa trời mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, cúng dường đức Phật, y trời tung lên bèn trụ ở trong hư không mà tự xoay vòng. Âm nhạc của chư thiên trăm ngàn vạn thứ, cùng một lúc đều tấu lên ở trong hư không, mưa xuống các hoa trời mà nói như vầy: Xưa kia, đức Phật ban đầu chuyển pháp luân ở thành Ba La Nại, cho đến hôm nay mới chuyển pháp luân lớn nhất vô thượng.

Lúc đó, các Thiên tử muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng:

Xưa tại Ba La Nại

Chuyển pháp luân bốn đế

Phân biệt nói các pháp

Sinh diệt của năm uẩn.

Nay lại chuyển pháp luân

Vô thượng diệu bậc nhất

Pháp đó rất thâm áo

Ít có người tin được.

Chúng con từ xưa nay

Thường nghe Thế Tôn nói

Chưa từng nghe diệu pháp

Thâm diệu như thế nầy.

Thế Tôn nói pháp nầy

Chúng con đều tùy hỉ

Đại trí Xá Lợi Phất

Nay được Phật thọ ký.

Chúng con cũng như thế

Tất sẽ được thành Phật

Trong tất cả thế gian

Tôn quý vô thượng nhất.

Phật đạo không nghĩ bàn

Phương tiện tùy nghi nói

Những phước đức con có

Đời nầy hoặc quá khứ.

Và công đức gặp Phật

Hồi hướng đến Phật đạo.

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Nay con chẳng còn nghi hoặc, ở trước Đức Phật được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Một ngàn hai trăm vị tâm được tự tại nầy, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường giáo hóa rằng: Pháp của ta hay khỏi sinh già bệnh chết, được cứu kính Niết Bàn. Các vị hữu học vô học nầy, ai nấy cũng đã lìa ngã kiến, thường kiến, và đoạn kiến, cho rằng được Niết Bàn, mà nay ở trước Đức Thế Tôn, nghe những điều chưa nghe, đều sa vào nghi hoặc. Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin vì bốn chúng mà nói nhân duyên đó, khiến cho họ lìa nghi hoặc.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Xá Lợi Phất! Trước kia ta đâu chẳng nói, chư Phật Thế Tôn dùng đủ thứ nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện nói pháp, đều vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác ư? Nói những điều đó, đều vì giáo hóa các Bồ Tát. Nhưng Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để làm rõ nghĩa nầy, những người có trí do thí dụ mà được hiểu.

Xá Lợi Phất! Như quốc ấp tụ lạc, có vị đại trưởng giả, tuổi đã già nua, của cải giàu có vô lượng, có nhiều ruộng vườn nhà cửa và các tôi tớ. Nhà đó rộng lớn, chỉ có một cửa, có rất nhiều người, một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm người, đều ở trong đó. Lầu gác hư mục, tường vách sụp đổ, cột kèo xiêu vẹo, nóc mái nghiêng ngã. Chung quanh cùng một lúc, lửa bỗng nổi lên, thiêu đốt nhà cửa. Các người con của ông trưởng giả, hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi người, đều ở trong nhà đó. Ông trưởng giả thấy lửa lớn từ bốn phía nổi lên, bèn rất sợ hãi, mà nghĩ như vầy: Tuy ta ở nơi cửa nhà cháy ra ngoài được an ổn, mà các người con của ta đang ở trong nhà lửa, đùa giỡn chẳng hay biết gì, chẳng kinh sợ lửa sẽ đốt thân, rất đau khổ lắm mà chúng chẳng lo lắng, chẳng có ý cầu ra ngoài.

Xá Lợi Phất! Ông trưởng giả đó bèn nghĩ như vầy: Thân và tay của ta, có sức sẽ dùng vạt áo, hoặc bàn ghế từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà đó chỉ có một cửa, mà lại hẹp nhỏ, các người con còn thơ ấu chưa có hiểu biết, ham mê chơi đùa, sẽ bị đọa lạc, hoặc bị lửa thiêu đốt. Ta sẽ vì chúng nói việc đáng sợ. Nhà nầy đã cháy, phải đi ra mau, đừng để bị lửa thiêu hại. Nghĩ như thế rồi, bèn y theo sự suy nghĩ đó, mà bảo các con: Các con hãy mau ra! Người cha tuy thương xót, khéo nói lời dẫn dụ, mà các người con ham vui chơi đùa, chẳng chịu tin nhận, chẳng sợ hãi, chẳng có tâm muốn ra, cũng chẳng biết gì là lửa, gì là nhà, thế nào là mất, cứ chạy đông chạy tây, đùa giỡn nhìn cha mà thôi.

Bấy giờ, ông trưởng giả bèn nghĩ: Nhà nầy lửa đã cháy lớn, nếu ta và các con không ra, thì sẽ bị lửa thiêu. Nay ta phải bày phương tiện, khiến cho các con khỏi bị lửa hại. Cha biết các con, trước kia tâm đều thích đủ thứ đồ chơi quý giá kỳ lạ, ai nấy đều ưa thích, mà bảo rằng: Ở đây có những đồ chơi, ít có khó được, nếu các con không mau ra lấy, chắc sau nầy sẽ buồn ăn năn. Nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, các thứ nay đều ở ngoài cửa, có thể dùng đi dạo chơi. Các con đang ở trong nhà lửa, hãy mau ra đây, tùy ý muốn của các con, cha đều cho các con.

Khi đó, các người con nghe cha nói đồ chơi quý giá, vừa hợp ý mình, nên tâm ai nấy đều dũng mãnh, xô đẩy lẫn nhau, cùng đua đuổi chạy tranh nhau ra khỏi nhà lửa.

Khi đó, ông trưởng giả thấy các con ra ngoài được an ổn, đều ở nơi ngã tư đường, ngồi ở nơi đất trống, chẳng còn gì chướng ngại, tâm ông rất thơ thới vui mừng hớn hở.

Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: Lúc nãy, cha có hứa cho chúng con các đồ chơi quý giá, nào là xe dê, xe hươu, xe trâu, xin cha hãy ban cho.

Xá Lợi Phất! Lúc đó, ông trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn. Xe đó cao rộng, trang trí các thứ báu đẹp, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che phía trên, cũng dùng các trân báu tốt đẹp để nghiêm sức. Dây báu kết thắt các dải hoa rũ xuống. Nệm chiếu mềm mại trải chồng chất, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, màu da rất sạch, thân hình rất đẹp, có sức lực rất mạnh, bước đi ngay thẳng, mau lẹ như gió, lại có nhiều tôi tớ để hầu hạ. Tại sao? Vì ông trưởng giả đó, của cải giàu có vô lượng, đủ thứ kho tàng thảy đều tràn đầy. Mà nghĩ rằng: Của cải của ta nhiều vô số, không nên dùng xe nhỏ xấu xí, mà cho các con. Nay những đứa trẻ nầy, đều là con của ta, ta thương chúng nó chẳng có thiên lệch. Ta có xe lớn bằng bảy báu như thế, số nhiều vô lượng, nên dùng tâm bình đẳng mà cho chúng nó, không nên có sự phân biệt. Vì sao? Vì ta dùng của cải nầy, cho khắp tất cả mọi người trong nước, hãy còn không hết, huống gì các người con. Lúc đó, các người con ai nấy đều ngồi xe lớn, được chưa từng có, chẳng phải chỗ trước kia mong đợi.

Xá Lợi Phất! Ý của ông thế nào? Ông trưởng giả đó, đồng cho các người con xe trâu báu lớn, có hư vọng chăng?

Xá Lợi Phất nói: Không vậy! Đức Thế Tôn! Ông trưởng giả đó, chỉ khiến cho các con khỏi nạn lửa, an toàn tính mạng, chẳng phải là hư vọng. Tại sao? Vì nếu được an toàn tính mạng, thì đã được đồ chơi tốt đẹp, huống chi dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Đức Thế Tôn! Cho dù ông trưởng giả đó, không cho một thứ xe nhỏ nhất nào, cũng chẳng hư vọng. Tại sao? Vì ông trưởng giả đó, trước hết nghĩ rằng: Ta dùng phương tiện, khiến cho các con được ra khỏi, do nhân duyên đó, mà chẳng hư vọng vậy. Hà huống ông trưởng giả biết mình của giàu vô lượng, muốn lợi ích cho các con, mà đồng cho xe lớn.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Lành thay, lành thay! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế, là cha lành của tất cả thế gian, ở nơi sợ hãi suy não lo buồn, vô minh đen tối che đậy, vĩnh viễn hết sạch chẳng còn sót, thảy đều thành tựu vô lượng tri kiến, lực vô sở úy, có sức đại thần thông, và sức trí huệ, đầy đủ phương tiện trí huệ Ba la mật, đại từ bi, thường chẳng lười mỏi, luôn luôn cầu việc thiện, lợi ích tất cả chúng sinh, mà sinh vào nhà lửa tam giới hư mục nầy. Vì độ chúng sinh ra khỏi nạn lửa sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm ba độc mà giáo hóa, khiến cho chúng sinh được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Thấy các chúng sinh vì sinh già bệnh chết, lo buồn khổ não thiêu đốt, cũng vì năm dục tài lợi, mà chịu đủ thứ khổ, lại vì tham trước truy cầu, hiện phải chịu đựng các sự khổ, sau đó thì chịu khổ ở trong địa ngục ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh về cõi trời, hoặc ở nhân gian, thì bần cùng khốn khổ, khổ về thương yêu phải xa lìa, khổ về oán ghét mà gặp nhau, đủ thứ các sự khổ như thế. Chúng sinh đắm chìm ở trong đó, vui mừng dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng sợ hãi cũng chẳng nhàm chán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa tam giới nầy, chạy đông chạy tây, dầu gặp khổ lớn mà chẳng lo lắng.

Xá Lợi Phất! Đức Phật thấy vậy rồi, bèn nghĩ rằng: Ta là cha lành của chúng sinh, nên cứu họ khỏi khổ nạn, ban cho họ vô lượng vô biên trí huệ an vui của Phật, để họ dạo chơi.

Xá Lợi Phất! Như Lai lại nghĩ rằng: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông, và sức trí huệ, bỏ đi phương tiện, vì chúng sinh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, thì chúng sinh không thể do đó mà được độ. Tại sao? Vì các chúng sinh đó, chưa khỏi sinh già bệnh chết lo buồn khổ não, mà bị thiêu đốt ở trong nhà lửa tam giới, làm sao hiểu được trí huệ của Phật.

Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, tuy thân và tay có sức mạnh, mà chẳng dùng đến, chỉ ân cần dùng phương tiện, cố gắng cứu các con ra khỏi nhà lửa, sau đó đều cho xe trân báu lớn. Như Lai cũng lại như thế, tuy có trí lực vô sở úy, mà chẳng dùng đến. Chỉ dùng trí huệ phương tiện, nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sinh, vì chúng sinh mà nói ba thừa: Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa, mà nói rằng: Các ông không nên ưa thích ở trong nhà lửa tam giới, chớ tham sắc thanh hương vị xúc thô hèn. Nếu tham trước thì sinh luyến ái sẽ bị thiêu đốt, các ông hãy mau ra khỏi tam giới, sẽ chứng được ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật và Phật thừa. Nay ta bảo nhiệm việc nầy, tuyệt đối chẳng hư vọng. Các ông hãy siêng tu tinh tấn, Như Lai dùng phương tiện đó, để dẫn dụ chúng sinh ra khỏi nhà lửa.

Lại bảo: Các ông nên biết! Pháp ba thừa nầy, đều được các bậc Thánh khen ngợi, tự tại chẳng ràng buộc, chẳng còn nương tựa tìm cầu, ngồi ba thừa đó, dùng vô lậu căn lực giác đạo, thiền định giải thoát tam muội .v.v… mà tự vui sướng, bèn được vô lượng an ổn khoái lạc.

Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sinh bên trong có trí tánh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, muốn mau ra khỏi tam giới, tự cầu chứng Niết Bàn, đó gọi là Thanh Văn thừa. Như các người con đó, vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng sinh theo Phật Thế Tôn, nghe pháp tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn cầu tự nhiên trí, thích sống một mình ở chỗ vắng vẻ, biết rõ nhân duyên của các pháp, đó gọi là Bích Chi Phật thừa, như các người con kia, vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sinh, theo Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận thọ trì, ân cần tinh tấn, cầu Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tri kiến lực, vô sở úy của Như Lai, thương xót vì sự an vui của vô lượng chúng sinh, làm lợi ích cho trời người, độ thoát tất cả chúng sinh, đó gọi là đại thừa. Bồ Tát cầu thừa nầy, nên gọi là Ma ha tát, như các người con kia, vì cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, thấy các người con ra khỏi nhà lửa được an ổn, đến nơi chẳng sợ hãi, tự nghĩ của cải giàu có vô lượng, đều đem xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng như thế, là cha của tất cả chúng sinh. Nếu thấy vô lượng ức ngàn chúng sinh, do cửa Phật giáo mà ra khỏi đường hiểm khổ sợ hãi của tam giới, thì Phật khiến cho họ được sự an vui của Niết Bàn.

Bấy giờ, Đức Như Lai bèn nghĩ: Ta có vô lượng vô biên trí huệ lực vô sở úy .v.v… các kho tàng Phật pháp. Các chúng sinh đó đều là con của ta, đều bình đẳng ban cho đại thừa, chẳng khiến có người được diệt độ riêng, mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ. Những chúng sinh đó thoát khỏi tam giới, Phật đều ban cho sự vui sướng thiền định giải thoát của chư Phật. Đều là một tướng một thứ, mà các bậc Thánh khen ngợi, hay sinh vui tịnh diệu bậc nhất.

Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia, ban đầu dùng ba xe, để dẫn dụ các người con, sau đó chỉ cho một thứ xe lớn, có các báu vật trang nghiêm, an ổn bật nhất, nhưng ông trưởng giả đó chẳng có lỗi hư dối.

Như Lai cũng như thế, chẳng có nói dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sinh, sau đó chỉ dùng đại thừa mà độ thoát. Vì sao? Vì Như Lai có vô lượng trí huệ lực vô sở úy, các kho tàng Phật pháp, hay ban cho tất cả chúng sinh pháp đại thừa, nhưng thọ dụng chẳng hết được.

Xá Lợi Phất! Do nhân duyên đó, nên biết chư Phật vì sức phương tiện, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói ba thừa.

Đức Phật muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Ví như ông trưởng giả

Có một ngôi nhà lớn

Nhà đó đã lâu đời

Mà lại cũ hư nát.

Phòng nhà cao nguy hiểm

Trụ cột lại gãy mục

Nóc nhà đều nghiêng ngã

Nền móng đã hư nát.

Tường vách đều sụp đổ

Bùn đất rơi rớt xuống

Tranh lợp rơi tả tơi

Kèo đòn tay trật khớp.

Bốn phía đều cong vạy

Đầy dẫy những dơ uế

Có đến năm trăm người

Thảy đều ở trong đó.

Chim si, hưu, điêu, thứu

Quạ, chim thước, cưu, cáp

Ngô công và du diên

Loài thủ cung, bá túc.

Dứu ly cùng hề thử

Các loài độc trùng dữ

Đuổi nhau chạy ngang dọc

Đại tiểu tiện hôi thối.

Chảy đầy đồ bất tịnh

Các độc trùng bọ hung

Bu đậu ở trên đó

Cáo sói và dã can.

Liếm nhai dày đạp lên

Cắn xé những thây chết

Xương thịt bừa bãi ra

Do đó các bầy chó.

Tranh nhau đến giành ăn

Ốm đói rất sợ sệt

Khắp nơi tìm món ăn

Giành giựt cấu xé nhau.

Gầm gừ gào sủa rên

Nhà đó rất đáng sợ

Những cảnh trạng như thế

Khắp nơi thảy đều có.

Quỷ lị mị, vọng lượng

Dạ xoa các ác quỷ

Ăn nuốt cả thịt người

Các loài trùng dữ độc.

Những cầm thú hung ác

Ấp cho bú sản sinh

Đều tự giấu gìn giữ.

Quỷ Dạ xoa đua đến

Tranh giành lấy món ăn

Ăn xong no nê rồi

Tâm ác nổi hăng lên.

Tiếng chúng đánh cãi nhau

Thật rất là hãi hùng

Loài quỷ Cưu bàn trà

Ngồi xổm trên đống đất.

Hoặc có lúc hỏng đất

Một thước hoặc hai thước

Dạo đi qua đi lại

Buông lung chơi đùa giỡn.

Cầm nắm hai chân chó

Đánh cho la thất thanh

Lấy chân đạp trên cổ

Khủng bố chó để vui.

Lại có các loài quỷ

Thân chúng dài to lớn

Trần truồng rất xấu đen

Thường ở luôn trong đó.

Phát ra tiếng hung ác

Kêu la tìm thức ăn

Lại có các loài quỷ

Cổ chúng nhỏ như kim.

Lại có các loài quỷ

Đầu chúng như đầu trâu

Hoặc là ăn thịt người

Hoặc lại ăn thịt chó.

Đầu tóc rối tung lên

Tàn ác rất hung hiểm

Bị đói khát bức bách

Kêu la chạy đuổi theo.

Dạ xoa cùng quỷ đói

Các chim muôn ác độc

Đói quá chạy bốn bề

Rình xem các cửa sổ.

Các nạn như vậy đó !

Vô lượng việc ghê sợ

Vì nhà hư mục đó

Thuộc về nơi một người.

Người đó vừa ra khỏi

Thời gian chưa bao lâu

Về sau ngôi nhà đó

Lửa bổng nhiên nổi lên.

Bốn phía cùng một lúc

Lửa ngọn cháy hừng hực

Mái nóc và cột kèo

Tiếng nổ vang lách tách.

Đổ gãy rơi rớt xuống

Tường vách đều sụp đổ.

Các loài quỷ thần thảy

Đều lớn tiếng kêu to.

Các loài chim điêu thứu

Cùng quỷ Cưu bàn trà

Hoảng sợ chạy tán loạn

Vẫn chẳng chạy ra được.

Thú dữ và trùng độc

Ẩn núp trong hang lỗ

Loài quỷ Tỳ xá xà

Cũng đều ở trong đó.

Vì phước mỏng đức ít

Nên bị lửa bức bách

Lại tàn hại lẫn nhau

Uống máu và ăn thịt.

Những loài thú dã can

Thảy đều đã chết trước

Các loài thú dữ lớn

Giành nhau đến ăn nuốt.

Mùi tanh loan khắp nơi

Đầy dẫy cả bốn bề

Loài ngô công do diên

Cùng với loài rắn độc.

Đều bị lửa thiêu đốt

Tranh nhau ra khỏi hang

Loài quỷ Cưu bàn trà

Bèn bắt lấy mà ăn.

Lại có các ngạ quỷ

Trên đầu bị lửa thiêu

Đói khát nhiệt não hành

Hoảng hốt chạy tán loạn.

Nhà đó là như thế

Thật là rất hãi hùng

Độc hại và nạn lửa

Nhiều nạn chẳng phải một.

Lúc đó ông chủ nhà

Đang đứng ở ngoài cửa

Nghe có người nói rằng:

Các người con của ông.

Trước kia vì dạo chơi

Đến vào trong nhà nầy

Thơ bé chẳng biết gì

Ham chơi vui đùa giỡn.

Ông trưởng giả nghe rồi

Hoảng sợ vào nhà lửa.

Dùng phương tiện cứu tế

Khiến con khỏi thiêu hại.

Mà dụ bảo các con

Nói các thứ hoạn nạn

Các quỷ và độc trùng

Nạn lửa cháy lan tràn.

Các sự khổ thứ lớp

Liên tục mãi không dứt

Loài rắn độc ngoan phúc

Và các quỷ Dạ xoa.

Cùng quỷ Cưu bàn trà

Loài dã can chồn chó

Chim điêu, thứu, xi, hưu

Và loài bá túc thảy.

Đều đói khát khổ sở

Thật rất là đáng sợ

Đây là chỗ khổ nạn

Lại còn có lửa lớn

Các người con chẳng biết

Tuy nghe cha dạy bảo.

Vì còn ham vui chơi

Đùa giỡn mãi không thôi.

Khi đó ông trưởng giả

Bèn nghĩ như thế nầy:

Các con ta như thế

Làm ta thêm sầu não

Nay trong nhà lửa nầy

Chẳng có điều gì vui.

Mà tất cả các con

Vẫn đam mê chơi đùa

Chẳng nghe lời ta dạy

Sắp bị lửa thiêu hại.

Ông trưởng giả lại nghĩ

Bày ra các phương tiện.

Mà bảo các con thảy

Ta có đủ các thứ.

Đồ chơi rất quý giá

Xe báu rất tốt đẹp

Nào xe dê xe hươu

Và xe trâu to lớn.

Nay để ở ngoài cửa

Các con mau ra đây

Ta chính vì các con

Tạo ra những xe nầy.

Tùy ý các con thích

Có thể đi dạo chơi

Các người con nghe nói

Các loại xe như thế.

Bèn lập tức dành nhau

Đua chạy ra khỏi nhà

Đến nơi chỗ đất không

Lìa khỏi các khổ nạn.

Ông trưởng giả thấy con

Được ra khỏi nhà lửa

Ở nơi ngã tư đường

Ngồi trên tòa sư tử.

Mà tự mừng nói rằng:

Nay ta rất vui mừng

Những người con nầy đây

Đẻ nuôi dưỡng rất khó.

Chúng nhỏ dại chẳng biết

Mà đi vào nhà hiểm

Nhiều các thứ độc trùng

Quỷ lị mị đáng sợ.

Lửa lớn cháy mãnh liệt

Bốn phía đều nổi dậy

Mà các người con nầy

Tham trước chơi đùa giỡn.

Ta đã cứu chúng nó

Khiến cho được thoát khỏi

Vì thế các người ơi!

Ta nay rất vui mừng.

Khi đó các người con

Biết cha đã an tòa

Đều đến bên chỗ cha

Mà thưa với cha nói :

Xin ban cho chúng con

Ba thứ xe báu tốt

Như trước cha đã hứa

Các con mau ra đây.

Sẽ cho ba xe báu

Tùy ý muốn các con

Nay chính là phải thời

Xin cha hãy ba cho.

Ông trưởng giả giàu có

Có rất nhiều kho tàng

Nào vàng bạc lưu ly

Xa cừ và mã não.

Dùng các thứ báu vật

Tạo các cỗ xe lớn

Tu sửa nghiêm sức đẹp

Chung quanh có lan can.

Bốn phía đều treo linh

Dây vàng thắt với nhau.

Mành lưới bằng chân châu

Giăng bày ở phía trên

Hoa vàng các chuỗi ngọc

Khắp nơi thòng rũ xuống.

Xen tạp lụa nhiều màu

Giăng khắp chung quanh xe

Dùng bông tơ mềm mại

Để làm nệm nằm ngồi.

Vải mịn tốt thượng hạng

Giá trị đến nghìn muôn

Tốt đẹp trắng sạch sẽ

Dùng trải ở trên nệm.

Có trâu trắng to lớn

Mập khỏe nhiều sức mạnh

Thân hình rất đẹp đẽ

Dùng để kéo xe báu.

Rất nhiều kẻ tôi tớ

Đi theo hầu bảo vệ

Đem xe báu đẹp đó

Đồng ban cho các con.

Các người con lúc đó

Rất vui mừng hớn hở

Ngồi lên xe báu đó

Vui chơi rất khoái lạc

Rất tự tại vô ngại.

Phật bảo Xá Lợi Phất!

Ta cũng lại như thế

Chí tôn trong bậc Thánh

Là cha của thế gian.

Tất cả các chúng sinh

Đều là con của ta

Say đắm vui thế gian

Chẳng có tâm trí huệ.

Ba cõi chẳng yên ổn

Giống như là nhà lửa

Đầy dẫy sự thống khổ

Thật là đáng sợ hãi.

Thường có khổ sinh già

Bệnh chết và sầu lo

Các thứ lửa như thế

Cháy hừng hực chẳng tắt.

Như Lai đã lìa khỏi

Ngôi nhà lửa ba cõi

Ở chỗ yên vắng vẻ

Nơi núi rừng hoang dã.

Hiện nay ba cõi nầy

Đều là của ta cả

Chúng sinh ở trong đó

Thảy đều là con ta.

Mà nay chơi chỗ nầy

Rất nhiều các hoạn nạn

Chỉ có một mình ta

Có thể cứu hộ được.

Tuy Phật đã dạy bảo

Mà cũng chẳng tin nhận

Vì nơi các dục nhiễm

Tâm tham trước sâu dày.

Do đó dùng phương tiện

Vì chúng nói ba thừa

Khiến cho các chúng sinh

Biết ba cõi là khổ.

Bèn khai thị diễn nói

Đạo ra khỏi thế gian

Các người con đó thảy

Nếu tâm mà quyết định.

Thì đầy đủ ba minh

Và sáu thứ thần thông

Hoặc chứng được Duyên Giác

Và Bồ Tát bất thối.

Này ông Xá Lợi Phất!

Ta vì các chúng sinh

Mà dùng ví dụ nầy

Nói một thừa Phật đạo.

Nếu các ông có thể

Tin nhận lời nói đây

Thì tất cả đều sẽ

Được thành tựu Phật đạo.

Thừa nầy tối vi diệu

Rất thanh tịnh bậc nhất

Ở trong các thế gian

Chẳng có pháp nào hơn.

Chỗ chư Phật hoan hỉ

Tất cả các chúng sinh

Nên tán thán khen ngợi

Cúng dường và lễ bái.

Vô lượng trăm ngàn muôn

Các lực và giải thoát

Thiền định cùng trí huệ

Các pháp khác của Phật.

Chứng được thừa như thế.

Khiến cho các người con

Ngày đêm cùng số kiếp

Thường được đi dạo chơi.

Với các vị Bồ Tát

Cùng với chúng Thanh Văn

Ngồi nơi thừa báu nầy

Mà thẳng đến đạo tràng.

Nhân duyên như vậy đó.

Tìm cầu khắp mười phương

Chẳng có thừa nào khác

Trừ Phật dùng phương tiện.

Phật bảo Xá Lợi Phất!

Hết thảy lũ các ông

Đều là con của ta

Còn ta tức là cha.

Các ông trong nhiều kiếp

Bị các khổ thiêu đốt

Ta đều đã cứu vớt

Khiến ra khỏi ba cõi.

Tuy trước kia ta nói

Các ông được diệt độ

Chỉ dứt hết sinh tử

Mà thật chẳng diệt độ.

Nay việc cần phải làm

Chỉ có trí huệ Phật

Nếu có Bồ Tát nào

Ở trong chúng hội nầy.

Mà một lòng lắng nghe

Thật pháp của chư Phật

Các Đức Phật Thế Tôn

Tuy dùng các phương tiện.

Giáo hóa các chúng sinh

Đó đều là Bồ Tát.

Nếu có người trí nhỏ

Chấp sâu nơi ái dục

Thì vì những người đó

Nói đạo lý khổ đế.

Chúng sinh tâm vui mừng

Đắc được chưa từng có

Chân thật chẳng sai khác

Nếu có chúng sinh nào.

Chẳng biết gốc các khổ

Chấp sâu vào nhân khổ

Chẳng tạm rời bỏ được

Bèn vì chúng sinh đó.

Dùng phương tiện dạy bảo

Nguyên nhân mọi sự khổ

Tham dục là gốc rễ

Nếu diệt được tham dục.

Chẳng còn chỗ nương tựa

Dứt sạch hết các khổ

Gọi là đế thứ ba

Vì chứng được diệt đế.

Mà tu hành đạo đế

Lìa các khổ ràng buộc

Gọi là được giải thoát

Người đó nơi pháp gì.

Mà đắc được giải thoát

Chỉ xa lìa hư vọng

Gọi đó là giải thoát

Kì thật chưa đắc được.

Tất cả các giải thoát

Phật nói rằng người đó

Chưa thật được diệt độ

Vì người đó chưa được.

Đạo quả vô thượng vậy

Ý của ta không muốn

Khiến cho được diệt độ

Ta là đấng Pháp Vương.

Tự tại nơi các pháp

An ổn các chúng sinh

Cho nên hiện ra đời.

Này ông Xá Lợi Phất!

Pháp ấn của ta đây

Vì muốn làm lợi ích

Cho thế gian nên nói.

Nơi chỗ ông đi qua

Chớ có vọng tuyên truyền.

Nếu có ai nghe được

Tùy hỉ kính thọ trì

Nên biết rằng người đó.

Là bậc bất thối chuyển

Nếu có người tin nhận

Kinh pháp vô thượng nầy

Thì người đó đã từng.

Gặp chư Phật quá khứ

Cung kính và cúng dường

Cũng nghe được pháp nầy

Nếu người nào có thể.

Tin nhận lời ông nói

Tức như là thấy ta

Và cũng như thấy ông

Cùng các Tỳ Kheo Tăng.

Và các bậc Bồ Tát

Phật vì người trí sâu

Nói Kinh Pháp Hoa nầy

Người thức cạn nghe được.

Mê hoặc chẳng hiểu đặng

Tất cả hàng Thanh Văn

Cùng với Bích Chi Phật

Ở trong kinh pháp nầy.

Sức họ chẳng hiểu đặng

Như ông Xá Lợi Phất

Còn ở nơi kinh nầy

Dùng lòng tin vào được.

Huống là Thanh Văn khác

Bao nhiêu Thanh Văn khác

Do tin lời Phật nói

Mà tùy thuận kinh nầy.

Chẳng phải trí của mình.

Lại nữa Xá Lợi Phất!

Kẻ kiêu mạn giải đãi

Chấp trước vào bản ngã

Chớ nên nói kinh nầy.

Kẻ phàm phu thức cạn

Chấp sâu nơi năm dục

Nghe chẳng thể hiểu đặng

Cũng chớ vì họ nói.

Nếu người chẳng tin nhận

Mà hủy báng kinh nầy

Tức là dứt tất cả

Hạt giống Phật thế gian.

Hoặc có người nhăn nhó

Mà ôm lòng nghi hoặc

Ông nên lóng nghe nói

Tội báo của người nầy.

Nếu Phật còn tại thế

Hoặc sau khi diệt độ

Nếu có người phỉ báng

Kinh điển như thế nầy.

Thấy có người đọc tụng

Biên chép và thọ trì

Bèn khinh khi ghét ghen

Mà ôm lòng kết hận.

Tội báo của người nầy

Nay ông nên lóng nghe

Khi người đó mạng chung

Đọa vào ngục A-tỳ.

Đầy đủ chẵn một kiếp

Hết kiếp rồi lại sinh

Cứ chuyển sinh như thế

Cho đến vô số kiếp.

Từ trong địa ngục ra

Sẽ đọa làm súc sinh

Hoặc làm chó, dã can

Thân hình chúng gầy ốm.

Đen thui lại ghẻ lát

Bị người thường chọc ghẹo

Lại còn phải bị người

Nhờm gớm và khinh khi.

Thường bị khổ đói khát

Xương thịt đều khô héo

Lúc sống chịu khốn khổ

Chết bị ném ngói đá.

Vì dứt mất giống Phật

Nên chịu tội báo đó

Hoặc sinh làm lạc đà

Hoặc sinh vào loài lừa.

Thân thường mang chở nặng

Còn thêm bị đánh đập

Chỉ nhớ nước và cỏ

Ngoài ra chẳng biết gì.

Vì phỉ báng kinh điển

Mà mắc tội như thế.

Có khi làm dã can

Đi vào trong xóm làng.

Thân thể bị ghẻ lát

Lại thiếu mất một mắt

Bị những đứa trẻ con

Đánh đập và liệng ném.

Chịu các sự thống khổ

Hoặc có khi phải chết

Sau khi bỏ thân nầy

Bèn thọ làm thân rắn.

Thân hình dài to lớn

Đến năm trăm do tuần

Ngây điếc chẳng có chân

Lăn lóc đi bằng bụng.

Bị các loài trùng nhỏ

Rúc rỉa ăn máu thịt

Ngày đêm chịu khổ sở

Chẳng có khi nào ngừng.

Bởi phỉ báng kinh nầy

Mắc tội như vậy đó.

Nếu được sinh làm người

Các căn đều ám độn.

Lùn xấu lại lệch què

Đui điếc thêm lưng gù

Có nói ra lời gì

Chẳng có ai tin nhận.

Hơi miệng thường hôi thối

Bị quỷ mị dựa nhập

Bần cùng rất hạ tiện

Thường bị người sai khiến.

Nhiều bệnh thân ốm gầy

Chẳng có chỗ nương nhờ.

Dù nương tựa gần người

Mà người chẳng để ý

Nếu học được điều gì

Thì bèn quên mất hết.

Nếu học làm nghề thuốc

Theo đúng pháp trị bệnh

Mà bệnh người nặng thêm

Hoặc có khi mất mạng.

Nếu mình có bệnh gì

Chẳng ai cứu chữa khỏi

Dù có uống thuốc hay

Mà bệnh lại thêm nặng.

Hoặc có người phản nghịch

Cướp giật trộm lấy của

Các tội lỗi như thế

Hoặc tự mang vạ lây.

Những người tội như thế

Vĩnh viễn chẳng thấy Phật

Là vua trong hàng Thánh

Thường nói pháp giáo hóa.

Những người tội như vậy

Thường sinh chỗ hoạn nạn

Tâm cuồng loạn tai điếc

Vĩnh viễn chẳng nghe pháp.

Ở trong vô số kiếp

Nhiều như cát sông Hằng

Sinh ra luôn câm điếc

Các căn chẳng đầy đủ.

Thường ở nơi địa ngục

Như dạo xem công viên

Ở trong các đường ác

Như nhà cửa của mình.

Lạc đà lừa heo chó

Thường đến những chỗ đó

Vì khinh chê kinh nầy

Mắc tội nặng như thế.

Nếu được sinh làm người

Thường đui điếc câm ngọng

Bần cùng các tướng suy

Dùng để tự trang nghiêm.

Bệnh phù thủng khô khát

Ghẻ lát và ung thư

Các chứng bệnh như thế

Dùng làm y phục mặc.

Thân thể thường hôi thối

Dơ bẩn chẳng sạch sẽ

Chấp sâu nơi tướng ta

Tăng thêm tánh nóng giận.

Và dâm dục hẫy hừng

Chẳng chừa loài cầm thú

Vì khinh chê kinh nầy

Mà mắc tội như thế.

Phật bảo Xá Lợi Phất!

Người phỉ báng kinh nầy

Nếu nói tội lỗi họ

Cùng kiếp chẳng hết được.

Do bởi nhân duyên dó

Ta thường bảo các ông

Đối với người vô trí

Đừng nên nói kinh nầy.

Nếu có người lợi căn

Có trí huệ sáng suốt

Học rộng trí nhớ tốt

Tâm mong cầu Phật đạo.

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói

Nếu người đã từng thấy

Trăm nghìn ức vị Phật.

Trồng các gốc căn lành

Thâm tâm rất bền vững

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói.

Nếu có người tinh tấn

Thường tu tâm từ bi

Chẳng hề tiếc thân mạng

Mới nên vì họ nói.

Nếu có người cung kính

Chẳng sinh lòng khác biệt

Lìa xa các phàm ngu

Ở riêng trong núi đầm.

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói

Lại nữa, Xá Lợi Phất!

Nếu thấy có người nào.

Rời bỏ ác tri thức

Gần gũi những bạn hiền

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói.

Nếu thấy có Phật tử

Giữ gìn giới trong sạch

Như hạt châu sáng sạch

Ham cầu kinh đại thừa.

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói

Nếu người chẳng nóng giận

Chất trực và diệu hòa.

Thường thương xót hết thảy

Cung kính các Đức Phật

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói.

Lại có các Phật tử

Ở trong các đại chúng

Thuần dùng tâm thanh tịnh

Đủ thứ các nhân duyên.

Ví dụ và lời lẽ

Nói pháp không chướng ngại

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói.

Nếu có vị Tỳ Kheo

Vì cầu Nhất thiết trí

Cầu pháp khắp bốn phương

Chắp tay đảnh lễ thọ.

Chỉ vui thích thọ trì

Các kinh điển đại thừa

Cho đến chẳng thọ trì

Một bài kệ kinh khác.

Những hạng người như thế

Mới nên vì họ nói

Như có người chí tâm

Cầu xá lợi của Phật.

Cầu kinh cũng như thế

Được rồi đảnh lễ thọ

Người đó lại chẳng có

Chí cầu các kinh khác.

Cũng chưa từng nghĩ nhớ

Kinh điển của ngoại đạo

Những hạng người như thế

Nên vì họ mà nói.

Phật bảo Xá Lợi Phất !

Ta nói các sự tướng

Của người cầu Phật đạo

Cùng kiếp chẳng hết được.

Hết thảy những người đó

Tức có thể tin hiểu

Ông nên vì họ nói

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

***

Phẩm Tin Hiểu thứ Tư

Bấy giờ, Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Mục Kiền Liên, nghe Phật nói pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, sinh tâm hi hữu vui mừng hớn hở, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, hở bày vai phải, gối phải đụng đất, một lòng chắp tay, cúi mình cung kính, chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng: Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng chúng, tuổi đã già nua, tự cho mình đã được Niết Bàn, chẳng kham nhiệm gì nữa, chẳng còn cầu mong quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Thế Tôn trước kia nói pháp đã lâu, con ngồi tại tòa thân thể cảm thấy mệt mỏi, chỉ nhớ pháp không, vô tướng, vô tác. Nơi pháp Bồ Tát du hí thần thông, thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sinh, thì tâm chúng con chẳng vui thích. Tại sao? Vì Đức Thế Tôn khiến cho chúng con ra khỏi ba cõi, chứng được Niết Bàn. Hơn nữa, nay chúng con tuổi đã già nua, chẳng sinh tâm niệm ưa thích nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà Đức Phật giáo hóa Bồ Tát. Hôm nay chúng con ở trước Đức Phật, nghe thọ ký cho hàng Thanh Văn, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tâm chúng con rất vui mừng được chưa từng có, không ngờ hôm nay hốt nhiên được nghe pháp chưa từng có, rất tự mừng may được lợi lành lớn, vô lượng châu báu, chẳng cầu mà tự được.

Đức Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin nói ví dụ để làm rõ nghĩa đó. Ví như, có người tuổi còn nhỏ, bỏ cha trốn đi sang nước khác, ở lâu hoặc mười, hai mươi, cho đến năm mươi năm. Người đó tuổi tác đã lớn, lại thêm bần cùng khốn khổ, lang thang khắp bốn phương, để tìm cầu cơm ăn áo mặc, lần lần du hành tình cờ trở về bổn quốc. Người cha từ trước đến nay, tìm con chẳng được, bèn dừng lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông đó rất giàu có, của cải báu vật vô lượng, nào là: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu .v.v… các kho tàng của cải thảy đều tràn đầy. Có nhiều tôi tớ, thần tá sử dân, voi ngựa xe cộ, bò dê, nhiều vô số, cho vay thâu vào, lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

Bấy giờ, gã cùng tử đi dạo đến các tụ lạc, trải qua các xóm làng, lần hồi đến thành của người cha ở. Người cha nhớ con, cách biệt con đã hơn năm mươi năm, mà chưa từng nói với ai về việc nầy, chỉ tự suy nghĩ, lòng rất hối tiếc, tự nghĩ mình đã già nua. Có nhiều của cải, vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, mà chẳng có con cái. Một khi chết mất, thì của cải sẽ mất đi, chẳng có người giao phó, cho nên rất ân cần luôn nhớ đến con. Lại nghĩ rằng, nếu ta gặp lại con để giao phó của cải, thì sung sướng biết mấy, chẳng còn sầu lo.

Đức Thế Tôn! Lúc bấy giờ, gã cùng tử làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhà người cha, bèn đứng bên cửa, xa trông thấy người cha ngồi trên giường sư tử, ghế báu đỡ chân. Các vị Bà la môn, Sát đế lợi, cư sĩ thảy, đều cung kính vây quanh. Dùng chuỗi trân châu giá trị ngàn vạn để trang nghiêm thân, các sử dân tôi tớ, tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che phía trên, các hoa phan thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ hoa quý, các báu vật la liệt, phát ra thâu vào, lấy, cho, có đủ thứ việc, nghiêm sức như thế, uy đức rất tôn kính quý trọng. Gã cùng tử thấy cha có thế lực rất lớn, bèn sinh tâm kinh sợ, hối hận về việc đến chỗ nầy, bèn nghĩ thầm rằng: Ông nầy chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật, chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo, có chỗ cho ta ra sức chăm làm, để kiếm được đồ mặc vật ăn. Nếu ở đây lâu, họ sẽ cưỡng ép sai ta làm, nghĩ như thế rồi, bèn mau bỏ chạy đi.

Lúc đó, ông trưởng giả giàu có ngồi trên tòa sư tử, nhìn thấy biết là con mình, trong tâm rất vui mừng, bèn nghĩ: Của cải kho tàng của ta, nay đã có người giao phó. Ta thường nhớ đến đứa con nầy mà chẳng thấy, nay nó bỗng nhiên đến đây, rất vừa ý của ta, ta tuy tuổi già, do vì tham tiếc. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại. Lúc đó, kẻ sứ giả chạy mau đến bắt lại, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: Tôi không phạm lỗi gì, sao lại bắt tôi? Người sứ giả càng nhanh qua bắt, cưỡng dắt đem về. Lúc đó, gã cùng tử tự nghĩ, mình chẳng có tội gì mà bị bắt, chắc chắn phải chết, lại càng sợ hãi, ngất xỉu ngã xuống đất. Người cha ở xa trông thấy vậy, bèn nói với sứ giả: Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó. Tại sao? Vì người cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm cho con khiếp sợ. Biết rõ là con, bèn dùng phương tiện, chẳng nói với người khác đó là con mình.

Người sứ giả nói: Nay ta thả ngươi muốn đi đâu tùy ý. Gã cùng tử vui mừng được chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo, để tìm cầu sự ăn mặc.

Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ con mình, bèn bày phương tiện, bí mật sai hai người hình sắc tìu tụy, chẳng có uy đức, bảo họ đi tìm và nói với gã cùng tử, ở đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Nếu gã cùng tử chịu, thì dẫn về cho gã làm. Nếu nó có hỏi sai làm gì, thì nói là thuê hốt phân, chúng ta hai người cũng làm chung với ngươi. Khi đó, hai kẻ sứ giả tìm được gã cùng tử rồi, bèn thuật lại đủ mọi việc như trên.

Bấy giờ, gã cùng tử trước hết hỏi lấy giá cả, liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót mà trách. Lại một ngày khác, ông ở trong cửa sổ, xa trông thấy con, thân thể ốm gầy tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy chẳng sạch. Ông bèn cởi chuỗi ngọc áo tốt mịn màng và đồ trang sức, lại mặc đồ thô rách trỉn dơ, bụi bặm lấm thân, tay phải cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ. Bảo những người làm: Các ngươi phải siêng làm, chớ nên lười nghỉ! Vì dùng phương tiện nên được đến gần người con. Lúc sau lại bảo: Này gã nam tử! Ngươi thường làm ở đây, chớ đi nơi khác nữa, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Những đồ cần dùng như: Bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi nan, cũng có kẻ tớ già để sai khiến, nếu cần ta cấp cho. Ngươi nên an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo. Vì sao? Ta tuổi tác đã già lớn, mà ngươi thì trẻ mạnh. Ngươi thường trong lúc làm việc, chẳng có lòng khi dối, lười biếng, nóng giận, than oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó, như các người làm công khác. Từ nay về sau, ngươi như con đẻ của ta.

Tức thời, ông trưởng giả bèn đặt tên cho gã cùng tử gọi là con.

Bấy giờ, gã cùng tử tuy mừng gặp được việc như thế, song vẫn còn tự cho mình là khách làm công hèn. Vì vậy nên trong suốt hai mươi năm thường sai hốt phân. Sau đó, tâm của gã cùng tử tin dần ra vào chẳng ngại sợ, nhưng chỗ gã ở vẫn nguyên chỗ cũ.

Đức Thế Tôn! Khi đó, ông trưởng giả bị bệnh, biết mình chẳng bao lâu nữa sẽ chết, bảo gã cùng tử nói : Nay ta có nhiều vàng bạc châu báu, kho tàng tràn đầy, trong đó bao nhiêu chỗ đáng lấy cho, ngươi phải biết, tâm ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta. Tại sao? Vì nay ta với ngươi chẳng khác biệt, nên gắng dụng tâm đừng để mất đi.

Khi ấy, gã cùng tử liền thọ nhận lời dạy bảo, biết các của cải vàng bạc châu báu, và các kho tàng, mà chẳng có ý muốn lấy chừng bữa ăn, song chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm hạ liệt vẫn chưa bỏ được. Lại trải qua ít lâu sau, cha biết con ý chí tạm thông thái, thành tựu chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến, và hội cả thân tộc, quốc vương đại thần, Sát đế lợi, cư sĩ, khi đã hội đến đông đủ, ông bèn tuyên bố rằng: Các vị nên biết, người nầy là con ta, do ta sinh ra trong thành nọ, bỏ ta trốn đi lang thang, khốn khổ hơn năm mươi năm. Nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành nầy, ôm lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha của nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là con của ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.

Đức Thế Tôn! Khi ấy gã cùng tử nghe cha nói như thế, bèn rất vui mừng, được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: Ta vốn chẳng có lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu nầy tự nhiên mà đến.

Đức Thế Tôn! Ông trưởng giả giàu có, tức là Đức Như Lai, chúng con giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con.

Đức Thế Tôn! Chúng con vì ba sự khổ, nên ở trong sinh tử chịu các sự nhiệt não mê hoặc vô tri, ưa thích các pháp nhỏ. Ngày nay, Đức Thế Tôn khiến cho chúng con suy nghĩ, dọn trừ phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong sự siêng gắng tinh tấn, được đến Niết Bàn giá một ngày, đã được đây rồi, tâm rất hoan hỉ, tự cho đã đủ, bèn tự bảo rằng: Ở trong Phật pháp, do siêng năng tinh tấn nên được rộng nhiều, song Đức Thế Tôn trước biết chúng con tâm hèn tệ, ưa thích pháp nhỏ, liền khiến cho chúng con buông bỏ, Phật chẳng phân biệt nói chúng con sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như Lai. Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết Bàn một ngày, cho đã được nhiều rồi, đối với pháp đại thừa nầy chẳng có chí cầu. Chúng con lại vì trí huệ của Như Lai, vì các Bồ Tát mở bày diễn nói, mà tự mình chẳng có chí muốn nơi pháp đó. Tại sao? Vì Đức Phật biết chúng con tâm ưa thích pháp nhỏ, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con để nói, mà chúng con chẳng biết thật là con của Phật. Nay chúng con mới biết, Đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật, chẳng có lận tiếc. Tại sao? Vì thuở xưa thật là con của Phật, nhưng lại ưa thích pháp nhỏ. Nếu chúng con có tâm thích pháp lớn, thì Phật sẽ vì chúng con nói pháp đại thừa. Ở trong Kinh nầy chỉ nói một thừa, mà xưa kia ở trước các Bồ Tát, Phật chê trách hàng Thanh Văn ưa thích pháp nhỏ, song Đức Phật thật dùng đại thừa giáo hóa, cho nên chúng con nói: Vốn chẳng có tâm mong cầu, mà nay châu báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ con của Phật đáng được, đều đã được vậy.

Bấy giờ, Ngài Ma Ha Ca Diếp muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Chúng con hôm nay

Nghe tiếng Phật dạy

Vui mừng hớn hở

Được chưa từng có.

Phật nói Thanh Văn

Sẽ được thành Phật

Kho báu vô thượng

Chẳng cầu tự được.

Ví như đồng tử

Thơ bé chẳng hiểu

Bỏ cha trốn đi

Xa đến xóm khác.

Lang thang các nước

Hơn năm mươi năm

Người cha buồn nhớ

Tìm khắp bốn phương.

Tìm kiếm mỏi mệt

Ở lại một thành

Tạo lập nhà cửa

Năm dục tự vui.

Nhà đó giàu lớn

Nhiều các vàng bạc

Xa cừ mã não

Chân châu lưu ly.

Voi ngựa trâu dê

Kiệu cán xe cộ

Ruộng vườn tôi tớ

Nhân dân rất đông.

Lợi tức xuất nhập

Khắp đến nước khác

Khách thương buôn bán

Không đâu chẳng có.

Ngàn vạn ức chúng

Vây quanh cung kính

Được bậc vua chúa

Thương yêu nhớ tưởng.

Quần thần hào tộc

Cũng đều tôn trọng

Vì bởi duyên ấy

Nhiều người lui tới.

Giàu sang như thế

Có thế lực lớn.

Mà tuổi già nua

Lại buồn nhớ con.

Sớm tối nghĩ ngợi

Giờ chết sắp đến

Con dại bỏ ta

Hơn năm mươi năm.

Kho tàng của cải

Phải làm sao đây?

Khi ấy cùng tử

Tìm cầu cơm áo.

Xóm nầy xóm khác

Nước nầy nước nọ

Hoặc có chỗ được

Hoặc có chỗ không.

Đói khát ốm gầy

Thân sinh ghẻ lát

Lần lược trải qua

Đến thành cha ở.

Lần lược làm thuê

Bèn đến nhà cha

Lúc đó trưởng giả

Đang ở trong nhà.

Giăng màn báu lớn

Ngồi tòa sư tử

Quyến thuộc vây quanh

Nhiều người hầu hạ.

Có người tính toán

Vàng bạc châu báu

Tài sản xuất nhập

Ghi vào sổ sách.

Cùng tử thấy cha

Giàu sang quý trọng

Bảo rằng là vua

Hoặc bằng ông vua.

Kinh hãi tự trách

Sao lại đến đây?

Lại tự nghĩ rằng:

Nếu ta ở lâu.

Sẽ bị ép buộc

Cưỡng sai ta làm

Suy nghĩ vậy rồi

Bèn bỏ chạy đi.

Hỏi thăm xóm nghèo

Muốn đến làm thuê.

Lúc đó trưởng giả

Tại tòa sư tử.

Xa thấy con mình

Yên lặng nhớ biết

Bèn sai sứ giả

Đuổi theo bắt lại.

Cùng tử sợ la

Xỉu ngã xuống đất

Người nầy bắt tôi

Chắt sẽ phải chết.

Cũng vì cơm áo

Khiến tôi đến đây

Trưởng giả biết con

Ngu si hèn hạ.

Chẳng tin lời ta

Chẳng tin là cha.

Bèn dùng phương tiện

Sai khiến người khác.

Mắt chột lùn xấu

Chẳng có uy đức

Các ngươi bảo nó

Rằng thuê làm mướn.

Hốt các phân dơ

Trả giá gấp bội

Cùng tử nghe rồi

Vui mừng theo về.

Hốt dọn phân dơ

Làm sạch phòng nhà.

Trưởng giả trong cửa

Thường thấy con mình.

Nghĩ con ngu dại

Thích làm việc hèn

Do đó trưởng giả

Mặc đồ cũ rách.

Cầm đồ hốt phân

Đi đến chỗ con

Phương tiện gần gũi

Khuyên nhủ siêng làm.

Trả giá gấp bội

Cho dầu thoa chân

Ăn uống đầy đủ

Nệm chiếu dày ấm.

Khuyên răng như vầy:

Ngươi gắng siêng làm

Lại dùng lời dụ

Ngươi như con ta.

Trưởng giả có trí

Lần cho ra vào

Suốt hai mươi năm

Trông coi việc nhà.

Chỉ chỗ vàng bạc

Trân châu lưu ly

Các đồ xuất nhập

Đều khiến cho biết.

Vẫn ở ngoài cửa

Trong một am tranh

Tự nghĩ phận nghèo

Ta chẳng có gì.

Cha biết tâm con

Lần đã rộng lớn

Muốn giao của cải

Bèn nhóm thân tộc.

Quốc vương đại thần

Sát lợi cư sĩ

Trong đại chúng nầy:

Nói là con ta.

Bỏ ta ra đi

Suốt năm mươi năm

Từ khi gặp con

Đã hai mươi năm.

Xưa nơi thành nọ

Mất đứa con nầy

Tìm kiếm khắp nơi

Mới đến nơi đây.

Của cải ta có

Nhà cửa nhân dân

Đều giao cho nó

Để nó sử dụng.

Con nhớ xưa nghèo

Ý chí kém hèn

Nay ở chỗ cha

Được nhiều của báu.

Cùng với nhà cửa

Tất cả của cải

Rất đỗi vui mừng

Được chưa từng có.

Phật cũng như thế

Biết con thích nhỏ

Chưa từng nói ra

Các ngươi thành Phật.

Chỉ nói chúng con

Được pháp vô lậu

Thành tựu tiểu thừa

Thanh Văn đệ tử.

Phật bảo chúng con

Nói đạo tối thượng

Ai tu pháp nầy

Sẽ được thành Phật.

Con nghe Phật dạy

Vì đại Bồ Tát

Dùng các nhân duyên

Đủ thứ ví dụ.

Bao nhiêu lời lẽ

Nói đạo vô thượng

Hết thảy Phật tử

Theo ta nghe pháp.

Ngày đem suy gẫm

Tinh tấn tu tập

Khi đó chư Phật

Thọ ký cho họ.

Ông ở đời sau

Sẽ được thành Phật

Các pháp bí tàng

Của tất cả Phật.

Chỉ vì Bồ Tát

Diễn nói việc thật

Mà chẳng vì con

Nói đạo chân yếu.

Như cùng tử kia

Được gần người cha

Tuy biết mọi thứ

Tâm chẳng mong cầu.

Chúng con tuy nói

Bảo tàng Phật pháp

Tự chẳng chí nguyện

Cũng lại như thế.

Chúng con nội diệt

Tự cho là đủ

Chỉ rõ việc nầy

Chẳng biết việc khác.

Nếu chúng con nghe

Tịnh cõi nước Phật

Giáo hóa chúng sinh

Đều chẳng vui thích.

Đó là vì sao?

Vì tất cả pháp

Thảy đều không tịch

Không sinh không diệt.

Không lớn không nhỏ

Vô lậu vô vi

Suy gẫm như thế

Chẳng sinh vui thích.

Chúng con từ lâu

Nơi trí huệ Phật

Không tham không chấp

Chẳng có chí nguyện.

Nơi pháp của mình

Cho là cứu kính

Chúng con từ lâu

Tu tập pháp không.

Thoát được hoạn nạn

Khổ não ba cõi

Ở thân cuối cùng

Hữu dư Niết Bàn.

Pháp Phật giáo hóa

Đắc đạo chẳng sai

Tức đã báo đáp

Ân đức của Phật.

Chúng con tuy là

Các hàng Phật tử

Nói pháp Bồ Tát

Để cầu Phật đạo.

Mà nơi pháp đó

Tâm chẳng ưa thích

Đạo sư thấy bỏ

Vì thấy tâm con.

Ban đầu chẳng siêng

Nói có lợi thật

Như trưởng giả giàu

Biết con chí hèn.

Dùng sức phương tiện

Hòa phục tâm con

Sau đó mới giao

Tất cả của cải.

Phật cũng như thế

Hiện việc ít có

Biết thích tiểu thừa

Dùng sức phương tiện.

Điều phục tâm con

Mới dạy trí lớn.

Chúng con hôm nay

Được chưa từng có.

Chẳng phải trước mong

Mà nay tự được

Như gã cùng tử

Được vô lượng báu.

Thế Tôn con nay

Đắc đạo chứng quả

Nơi pháp vô lậu

Được mắt thanh tịnh.

Chúng con từ lâu

Giữ giới trong sạch

Mới ngày hôm nay

Được quả báo đó.

Pháp của Pháp Vương

Lâu tu phạm hạnh

Nay được vô lậu

Đại quả vô thượng.

Chúng con hôm nay

Thật là Thanh Văn

Dùng tiếng Phật đạo

Khiến thảy đều nghe.

Chúng con hôm nay

Thật là La Hán

Nơi các thế gian

Trời người ma Phạm.

Khắp trong chúng đó

Đáng thọ cúng dường.

Ân lớn Thế Tôn

Là việc ít có.

Thương xót giáo hóa

Lợi ích chúng sinh

Vô lượng ức kiếp

Ai báo đáp được.

Tay chân cung cấp

Cuối đầu đảnh lễ

Cúng dường tất cả

Đều chẳng báo được.

Nếu dùng đầu đội

Hai vai mang vác

Trải Hằng sa kiếp

Hết lòng cung kính.

Lại dùng vật ngon

Vô lượng y báu

Và các tọa cụ

Đủ thứ thuốc thang.

Ngưu đầu chiên đàn

Và các châu báu

Tạo lập chùa tháp

Y báu trải đất.

Những việc như thế

Đem cúng dường Phật

Trải Hằng sa kiếp

Cũng chẳng báo được.

Chư Phật ít có

Vô lượng vô biên

Không thể nghĩ bàn

Sức đại thần thông.

Vô lậu vô vi

Vua của các pháp

Hay vì hạ liệt

Nhẫn nơi việc đó.

Hiện tướng phàm phu

Tùy họ mà nói

Phật nơi các pháp

Được tự tại nhất.

Biết các chúng sinh

Đủ thứ ưa muốn

Và những chí lực

Tùy sự kham thọ.

Dùng vô lượng dụ

Vì họ nói pháp

Tùy các chúng sinh

Căn lành đời trước.

Biết đã thành thục

Hoặc chưa thành thục

Đủ thứ suy lường

Phân biệt biết rõ.

Nơi đạo một thừa

Tùy nghi nói ra.

***

QUYỂN 3

Phẩm Dược Thảo Dụ thứ Năm

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Ngài Ma Ha Ca Diếp, và các vị đại đệ tử: Lành thay, lành thay! Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai, đúng như lời các ông vừa nói. Như Lai còn có vô lượng vô biên A tăng kỳ công đức, dù các ông trải qua vô lượng ức kiếp, nói cũng không hết được.

Ca Diếp nên biết! Như Lai là vua của các pháp, nếu có nói ra lời gì đều không hư vọng, trong tất cả các pháp, Phật đều dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói, pháp của Phật nói ra, thảy đều đến nơi nhất thiết trí. Như Lai quán sát, biết được chỗ quy về của tất cả các pháp, cũng biết được tâm lý trong thâm tâm của tất cả chúng sinh, thông đạt vô ngại, và thấu rõ rốt ráo hết các pháp, mở bày nhất thiết trí huệ cho chúng sinh.

Ca Diếp! Ví như núi sông khe suối đất đai, trong ba ngàn đại thiên thế giới, sinh ra cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu thứ loại tên gọi màu sắc đều khác nhau. Mây dày phủ khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đồng thời đều mưa xuống như nhau, thấm nhuần hết thảy cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc. Cây nhỏ rễ nhỏ, nhánh nhỏ lá nhỏ; cây vừa rễ vừa, nhánh vừa lá vừa; cây lớn rễ lớn, nhánh lớn lá lớn. Các cây lớn nhỏ, tùy theo sự lớn, vừa, nhỏ, mà hấp thụ khác nhau. Một đám mây mưa xuống, mà tùy theo giống loại cây cỏ, mà được sinh trưởng, đơm hoa kết trái, tuy là một mảnh đất sinh ra, một trận mưa thấm nhuần, mà các cây cỏ mỗi thứ, đều có sự khác nhau.

Ca Diếp nên biết! Như Lai cũng lại như thế, xuất hiện ra đời như vầng mây lớn, dùng âm thanh lớn, vang khắp thế giới trời người A tu la. Như vầng mây lớn kia, che khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ở trong đại chúng mà xướng lời nầy: Ta là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Người chưa được độ, thì khiến cho được độ, người chưa hiểu, thì khiến cho được hiểu, người chưa an, thì khiến cho được an, người chưa được Niết bàn, thì khiến cho được Niết bàn. Đời nầy đời sau, Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhất thiết trí, bậc thấy tất cả, bậc biết đạo, bậc khai mở đạo, bậc thuyết đạo. Các ông: Trời, người, A tu la, đều nên đến đây để nghe pháp.

Bấy giờ, có vô số ngàn vạn ức loại chúng sinh, đều đến chỗ Đức Phật để nghe pháp. Lúc đó, Đức Như Lai quán sát các căn lợi độn, tinh tấn, hay giải đãi, của các chúng sinh đó. Tùy theo sự kham nhận của họ, mà vì họ nói pháp, đủ thứ vô lượng đều khiến cho họ vui mừng mau được lợi lành. Các chúng sinh đó, nghe pháp đó rồi, hiện đời được yên ổn, đời sau sinh vào chỗ tốt lành, được thọ hưởng niềm vui trong đạo, cũng được nghe pháp. Nghe pháp rồi, lìa được các chướng ngại, ở trong các pháp, tùy theo sức của mình kham được, dần dần được vào đạo. Như vầng mây lớn đó, mưa xuống khắp tất cả cây cối lùm rừng, và các cỏ thuốc, tùy theo giống loài mà thấm nhuần đầy đủ, đều được lớn lên. Như Lai nói pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh diệt, rốt ráo đến nơi Nhất thiết chủng trí. Nếu có chúng sinh nào, nghe được pháp của Như Lai nói, hoặc thọ trì đọc tụng, theo lời nói mà tu hành, thì sẽ được công đức, tự mình chẳng hay biết. Tại sao? Vì chỉ có Như Lai mới biết được, chủng tử sắc tướng thể tánh của chúng sinh đó, nghĩ việc gì, niệm việc gì, tu việc gì, nghĩ thế nào, nhớ thế nào, tu thế nào? Dùng pháp gì để nghĩ, dùng pháp gì để nhớ, dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì được pháp gì? Chúng sinh trụ đủ thứ các bậc, chỉ có Như Lai thấy được như thật, thấu rõ chẳng có chướng ngại.

Như các cây cối lùm rừng cỏ thuốc kia, chẳng tự biết tánh thượng trung hạ. Như Lai biết pháp một tướng, một vị, đó là tướng giải thoát, tướng lìa khổ, tướng sinh diệt, tướng rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt, cuối cùng trở về không. Phật biết vậy rồi, bèn quán tâm mong muốn của chúng sinh, mà dìu dắt họ, cho nên chẳng vì họ vội nói Nhất thiết chủng trí.

Ca Diếp! Các ông rất là hi hữu, biết Như Lai tùy nghi nói pháp, hay tin nhận thọ trì. Tại sao? Vì chư Phật Thế Tôn tùy nghi nói pháp, khó hiểu khó biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Pháp Vương phá các cõi

Xuất hiện ra nơi đời

Tùy sở thích chúng sinh

Nói đủ thứ diệu pháp.

Đức Như Lai tôn trọng

Trí huệ rất sâu xa

Lâu chẳng nói pháp nầy

Không vội vàng nói ra.

Người trí nếu nghe được

Bèn sinh tâm tin hiểu

Kẻ vô trí nghi hoặc

Vĩnh viễn mất giống Phật.

Do đó, nầy Ca Diếp!

Tùy sức họ nói pháp

Dùng đủ thứ nhân duyên

Khiến họ được chánh kiến.

Ca Diếp ông nên biết!

Ví như vầng mây lớn

Nổi lên trong thế gian

Che phủ khắp tất cả.

Mây trí huệ đượm nhuần

Ánh chớp sáng chói lòa

Tiếng sấm vang động xa

Khiến chúng sinh vui đẹp.

Nhật quang bị che lấp

Trên mặt đất mát mẻ

Mây giăng phủ mù mịt

Như có thể nắm lấy.

Trận mưa lớn nhuận khắp

Đều xối xuống bốn phương

Nước chảy tuôn vô lượng

Thấm ngầm vào lòng đất.

Nơi núi sông hang hiểm

Chỗ thâm u sinh ra

Các cây cối cỏ thuốc

Đủ thứ cây lớn nhỏ.

Trăm giống lúa mộng mạ

Các thứ mía và nho

Nhờ nước mưa đượm nhuần

Thảy đều tốt tươi cả.

Đất khô khắp thấm nhuần

Thuốc cây đều sum sê

Vầng mây kia mưa xuống

Nước mưa thuần một vị.

Các cây cối lùm rừng

Tùy theo sự đượm nhuần

Tất cả các cây cối

Bậc thượng trung và hạ.

Tùy theo tánh lớn nhỏ

Thảy đều được lớn lên

Thân gốc rễ cành lá

Hoa quả đơm đủ màu.

Một trận mưa rưới xuống

Thảy đều được tươi thấm

Theo thể tướng của nó

Tánh phân ra lớn nhỏ.

Nước đượm nhuần vẫn một

Đức Phật cũng như thế

Xuất hiện ra nơi đời

Ví như vầng mây lớn.

Che trùm khắp hết thảy

Đã xuất hiện ra đời

Vì tất cả chúng sinh

Phân biệt và diễn nói.

Thật tướng của các pháp

Đấng đại Thánh Thế Tôn

Nơi chư thiên loài người

Trong tất cả chúng hội.

Mà tuyên nói lời nầy:

Ta là bậc Như Lai

Là đấng Lưỡng Túc Tôn

Xuất hiện ra nơi đời.

Dường như vầng mây lớn

Thấm nhuần khắp tất cả

Những chúng sinh khô khan

Đều khiến cho lìa khổ.

Được yên ổn vui sướng

Hưởng sự vui thế gian

Và sự vui Niết Bàn

Hết thảy chúng trời người.

Một lòng khéo lóng nghe

Đều nên đến chỗ nầy

Hầu hạ đấng vô thượng

Ta là bậc Thế Tôn.

Chẳng có ai bằng được

Vì an ổn chúng sinh

Nên xuất hiện ra đời

Vì các đại chúng nói.

Pháp cam lồ trong sạch

Pháp đó thuần một vị

Vị giải thoát Niết bàn

Dùng một tiếng diệu âm.

Diễn xướng nghĩa nhiệm mầu

Thường vì pháp đại thừa

Mà kết làm nhân duyên

Ta xem tất cả chúng.

Hết thảy đều bình đẳng

Chẳng phân biệt đó đây

Cùng với tâm thương ghét

Ta chẳng có tham trước.

Cũng chẳng có hạn ngại

Luôn luôn vì tất cả

Bình đẳng mà nói pháp

Dù chỉ vì một người.

Trong chúng đông cũng thế

Thường diễn nói các pháp

Từng không việc gì khác

Ngồi đứng hoặc đến đi.

Thảy đều chẳng mỏi nhàm

Đầy đủ cho thế gian

Như mưa thấm nhuần khắp

Kẻ sang hèn trên dưới.

Người trì giới, phạm giới

Oai nghi đều đầy đủ

Và chẳng được đầy đủ

Kẻ chánh kiến, tà kiến.

Lợi căn hoặc độn căn

Thảy đều mưa pháp vũ

Mà chẳng biết mệt mỏi

Hết thảy các chúng sinh.

Ai nghe pháp của ta

Tùy sức mà lãnh thọ

Trụ ở nơi các địa

Hoặc ở trong trời người.

Làm chuyển luân thánh vương

Và các vua Thích Phạm

Đó là cỏ thuốc nhỏ

Biết được pháp vô lậu.

Sẽ chứng được Niết bàn

Khởi sáu phép thần thông

Và đắc được ba minh

Ở riêng nơi núi rừng.

Thường tu hành thiền định

Chứng được quả Duyên Giác

Là cỏ thuốc bậc trung

Cầu pháp nơi Thế Tôn.

Ta sẽ được thành Phật

Tinh tấn tu thiền định

Là cỏ thuốc bậc thượng

Lại có các Phật tử.

Chuyên tâm cầu Phật đạo

Thường tu hạnh từ bi

Biết mình sẽ thành Phật

Quyết định chẳng còn nghi.

An trụ sức thần thông

Chuyển pháp luân bất thối

Độ hóa vô lượng ức

Trăm ngàn loài chúng sinh.

Hạng Bồ Tát như thế

Đó gọi là cây lớn

Phật bình đẳng nói pháp

Như nước mưa một vị.

Tùy căn tánh chúng sinh

Tiếp thọ đều khác nhau

Như các cỏ cây kia

Được đượm nhuần khác nhau.

Phật dùng ví dụ nầy

Phương tiện mà khai thị

Đủ thứ những lời lẽ

Để diễn nói một pháp.

Nơi trí huệ của Phật

Như giọt nước trong biển

Ta rưới mưa pháp vũ

Đầy khắp trong thế gian.

Nói pháp thuần một vị

Tùy sức mà tu hành

Như lùm rừng cây kia

Cỏ thuốc các cây cối.

Tùy theo thân lớn nhỏ

Dần dần lớn sum sê

Pháp của các Đức Phật

Thường chỉ thuần một vị.

Khiến cho các thế gian

Thảy đều được đầy đủ

Thứ tự mà tu hành

Đều đắc được đạo quả.

Hàng Thanh Văn Duyên Giác

Thường ở nơi núi rừng

Trụ thân cuối cùng nầy

Nghe pháp được chứng quả.

Đó gọi là cỏ thuốc

Thảy đều được lớn lên

Nếu các bậc Bồ Tát

Trí huệ rất kiên cố.

Thấu suốt được ba cõi

Cầu chứng tối thượng thừa

Đó gọi là cây nhỏ

Mà được tăng trưởng lên.

Lại có vị trụ thiền

Đắc được sức thần thông

Nghe các pháp không tướng

Trong tâm rất vui mừng.

Phóng vô số quang minh

Độ tất cả chúng sinh

Đó gọi là cây lớn

Mà được tăng trưởng lên.

Như thế nầy Ca Diếp!

Pháp của Phật nói ra

Ví như vầng mây lớn

Dùng nước mưa một vị.

Đượm nhuần nơi hoa người

Thảy đều được thành Phật

Ca Diếp ông nên biết!

Dùng các thứ nhân duyên.

Và đủ thứ ví dụ

Để mở bày Phật đạo

Là phương tiện của ta

Các Đức Phật cũng thế.

Nay ta vì các ông

Nói pháp chân thật nhất

Các chúng hàng Thanh Văn

Đều chưa thật diệt độ.

Sở hành của các ông

Đều là Bồ Tát đạo

Nếu từ từ tu học

Tất sẽ được thành Phật.

***

Phẩm Thọ Ký thứ Sáu

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo các đại chúng, xướng lời như vầy: Đệ tử Ma Ha Ca Diếp của ta đây, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức các Đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, rộng tuyên nói vô lượng đại pháp của các Đức Phật. Ở nơi thân cuối cùng được thành Phật, hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại Trang Nghiêm. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp lưu lại ở đời cũng hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước trang nghiêm tốt đẹp, chẳng có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc, và đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng phẳng, chẳng có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây dùng để giăng bên đường, rải các hoa báu khắp nơi đều trong sạch. Bồ Tát ở nước đó, có vô lượng ngàn ức, các chúng hàng Thanh Văn cũng vô số, chẳng có việc ma, tuy có ma và dân ma, nhưng họ đều hộ trì Phật pháp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Bảo các Tỳ Kheo!

Ta dùng mắt Phật

Thấy Ca Diếp nầy

Ở đời vị lai.

Trải vô số kiếp

Sẽ được thành Phật

Ở đời mai sau

Cúng dường phụng thờ.

Ba trăm vạn ức

Chư Phật Thế Tôn

Vì trí huệ Phật

Tịnh tu phạm hạnh.

Cúng dường tối thượng

Lưỡng Túc Tôn rồi

Tu tập tất cả

Trí huệ vô thượng.

Nơi thân cuối cùng

Sẽ được thành Phật.

Cõi đó thanh tịnh

Đất bằng lưu ly.

Nhiều các cây báu

Thẳng hàng bên đường

Dây vàng giăng đường

Người thấy vui mừng.

Thường tỏa hương thơm

Rải các hoa quý

Đủ loại kỳ diệu

Dùng để trang nghiêm.

Mặt đất bằng phẳng

Chẳng có hầm hố

Các chúng Bồ Tát

Không thể tính kể.

Tâm đều nhu hòa

Có đại thần thông

Phụng trì kinh điển

Của các Đức Phật.

Các chúng Thanh Văn

Thân cuối vô lậu

Làm Pháp vương tử

Cũng không thể đếm.

Dù dùng thiên nhãn

Cũng chẳng biết được.

Phật đó sống lâu

Hai mươi tiểu kiếp.

Chánh pháp ở đời

Hai mươi tiểu kiếp

Tượng pháp cũng trụ

Hai mươi tiểu kiếp.

Thế Tôn Quang Minh

Việc Ngài như thế.

Lúc đó, Ngài Đại Mục Kiền Liên, Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Ma Ha Ca Chiên Diên, thảy đều run sợ, một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng tôn nhan của Đức Phật, mắt chẳng tạm rời, bèn cùng nhau đồng thanh nói kệ rằng:

Thế Tôn rất hùng mãnh

Pháp Vương của dòng Thích

Vì thương xót chúng con

Mà ban giọng tiếng Phật.

Nếu biết thâm tâm con

Được Phật thọ ký cho

Như dùng cam lồ rưới

Trừ nóng được mát mẻ.

Như từ nước đói đến

Bỗng gặp cỗ tiệc vua

Còn ôm lòng nghi sợ

Chưa dám tự ăn liền.

Nếu được lệnh vua bảo

Sau đó mới dám ăn.

Chúng con cũng như thế

Thường nghĩ lỗi tiểu thừa.

Chẳng biết làm thế nào

Được Phật huệ vô thượng

Tuy nghe tiếng của Phật

Nói chúng con thành Phật.

Tâm còn hoài nghi sợ

Như chưa dám ăn liền

Nếu được Phật thọ ký

Lúc đó mới an vui.

Thế Tôn rất hùng mãnh

Thường muốn an thế gian

Xin thọ ký chúng con

Như đói cần bảo ăn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các đại đệ tử, bèn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ông Tu Bồ Đề nầy, ở đời vị lai, sẽ phụng thờ ba trăm vạn ức Na do tha vị Phật, cúng dường cung kính tôn trọng, khen ngợi, thường tu phạm hạnh, đầy đủ đạo bồ đề. Nơi thân cuối cùng, sẽ được thành Phật, hiệu là Danh Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên là Hữu Bảo, cõi nước tên là Bảo Sinh, cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, chẳng có hầm hố cát sỏi gai góc, đồ tiện lợi do bẩn. Hoa báu rải đất khắp nơi đều sạch sẽ. Nhân dân cõi đó, đều ở đài báu lầu các trân quý. Hàng đệ tử Thanh Văn đông vô lượng vô biên, dùng toán số ví dụ cũng không thể biết được. Các chúng Bồ Tát đông vô số ngàn vạn ức Na do tha. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật đó, thường ở trong hư không vì đại chúng nói pháp, độ thoát vô lượng Bồ Tát và chúng hàng Thanh Văn.

Khi đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Đại chúng Tỳ Kheo!

Nay bảo các ông

Đều nên một lòng

Lóng nghe ta nói.

Đại đệ tử ta

Ông Tu Bồ Đề

Sẽ được thành Phật

Hiệu là Danh Tướng.

Sẽ cúng vô số

Vạn ức Đức Phật

Tu hành theo Phật

Dần đủ đại đạo.

Thân cuối cùng được

Ba mươi hai tướng

Tốt đẹp trang nghiêm

Dường như núi báu.

Cõi nước Phật đó

Nghiêm sạch bậc nhất

Chúng sinh thấy được

Thảy đều ưa thích.

Phật ở nơi đó

Độ vô lượng chúng

Trong pháp hội đó

Đông các Bồ Tát.

Thảy đều lợi căn

Chuyển bánh xe pháp

Nước đó thường dùng

Bồ Tát trang nghiêm.

Các chúng Thanh Văn

Không thể tính kể

Đều được ba minh

Đủ sáu thần thông.

Trụ tám giải thoát

Có oai đức lớn

Phật đó thuyết pháp

Hiển hiện vô lượng.

Thần thông biến hóa

Không thể nghĩ bàn

Trời người nhân dân

Đông như Hằng sa.

Đều cùng chắp tay

Nghe Phật nói pháp

Phật đó sống lâu

Hai mươi tiểu kiếp.

Chánh pháp ở đời

Hai mươi tiểu kiếp

Tượng pháp cũng trụ

Hai mươi tiểu kiếp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các chúng Tỳ Kheo: Nay ta nói với các ông, ông Ca Chiên Diên nầy, ở đời vị lai, dùng các đồ cúng dường, để cúng dường phụng thờ tám ngàn ức Đức Phật, cung kính tôn trọng. Chư Phật diệt độ rồi, xây dựng các tháp miếu cao một nghìn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần. Dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, bảy báu tạo thành. Dùng các thứ chuỗi hoa, hương đốt, hương thoa, hương bột, lọng thêu, tràng phan, để cúng đường tháp miếu. Cúng dường như vậy xong rồi, lại cúng dường hai vạn ức Đức Phật, cũng lại như thế. Cúng dường các Đức Phật đó rồi, đầy đủ đạo Bồ Tát, sẽ được thành Phật, hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa quý rải trên mặt đất, khắp nơi sạch sẽ, ai thấy cũng hoan hỉ. Chẳng có bốn đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Trời người rất đông, các chúng hàng Thanh Văn và Bồ Tát, đông vô lượng vạn ức trang nghiêm cõi nước đó. Phật sống lâu hai mươi tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại hai mươi tiểu kiếp.

Khi đó, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Các chúng Tỳ Kheo!

Đều một lòng nghe

Pháp của ta nói

Chân thật không khác.

Ca Chiên Diên nầy

Sẽ dùng đủ thứ

Đồ cúng tốt đẹp

Cúng dường chư Phật.

Chư Phật diệt rồi

Dựng tháp bảy báu

Cũng dùng hoa hương

Cúng dường xá lợi.

Nơi thân cuối cùng

Được trí huệ Phật

Thành Đẳng chánh giác.

Cõi nước sạch sẽ

Độ thoát vô lượng

Vạn ức chúng sinh

Đều từ mười phương.

Đến để cúng dường

Quang minh Phật đó

Không ai sánh bằng

Phật đó hiệu là.

Diêm Phù Kim Quang

Bồ Tát Thanh Văn

Dứt hết hữu lậu

Vô lượng vô số

Trang nghiêm nước đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: Nay ta nói với các ông, Đại Mục Kiền Liên nầy, sẽ dùng đủ thứ đồ cúng dường, để cúng dường tám ngàn các Đức Phật, cung kính tôn trọng. Các Đức Phật đó diệt độ rồi, đều xây dựng tháp miếu, cao một ngàn do tuần, bề ngang rộng năm trăm do tuần, dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, xích châu, bảy báu tạo thành.

Dùng các thứ chuỗi hoa, hương thoa, hương bột, hương đốt, lọng báu, tràng phan, để cúng dường. Việc làm đó xong rồi, lại cúng dường hai trăm vạn ức các Đức Phật, cũng lại như thế. Sẽ được thành Phật, hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp tên là Hỉ Mãn. Nước tên là Ý Lạc. Cõi đó bằng phẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, rải các thứ hoa trân châu, khắp nơi đều sạch sẽ, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Rất đông trời người, các chúng Bồ Tát và Thanh Văn số đông vô lượng. Phật sống lâu hai mươi bốn tiểu kiếp, chánh pháp lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng lưu lại đời bốn mươi tiểu kiếp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng:

Đệ tử ta đây

Đại Mục Kiền Liên

Bỏ thân nầy rồi

Được thấy tám ngàn.

Hai trăm vạn ức

Chư Phật Thế Tôn

Vì thành Phật đạo

Cung kính cúng dường.

Ở chỗ chư Phật

Thường tu phạm hạnh

Trong vô lượng kiếp

Phụng trì Phật pháp.

Chư Phật diệt rồi

Dựng tháp bảy báu

Cao rộng tốt đẹp

Dùng các hương hoa.

Kỹ nhạc cúng dường

Tháp chùa chư Phật.

Dần dần đầy đủ

Đạo Bồ Tát rồi

Ở nước Ý Lạc

Sẽ được thành Phật

Hiệu Đa Ma La

Bạt Chiên Đàn Hương

Phật đó sống lâu

Hai mươi bốn kiếp.

Thường vì trời người

Diễn nói Phật đạo

Thanh Văn vô lượng

Như cát sông Hằng.

Có oai đức lớn

Ba minh sáu thông

Bồ Tát vô số

Chí bền tinh tấn.

Đều chẳng thối chuyển

Nơi trí huệ Phật.

Phật diệt độ rồi

Chánh pháp trụ thế.

Bốn mươi tiểu kiếp

Tượng pháp cũng thế

Các đệ tử ta

Oai đức đầy đủ.

Số đông năm trăm

Đều được thọ ký

Ở đời vị lai

Đều được thành Phật.

Ta và các ông

Đời trước có duyên

Nay ta sẽ nói

Các ông khéo nghe.

***

Phẩm Hóa Thành Dụ thứ Bảy

Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Bấy giờ, có Đức Phật hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Hảo Thành, kiếp đó tên là Đại Tướng.

Các Tỳ Kheo! Đức Phật đó diệt độ đến nay rất là lâu xa. Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người đem mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm xuống một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại chấm xuống một chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý của các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy toán, có thể biết được bờ mé của số đó chăng?

Không vậy, Đức Thế Tôn.

Các Tỳ Kheo! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc không chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi Đức Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó như ngày hôm nay.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa nầy, bèn nói bài kệ rằng:

Ta nhớ đời quá khứ

Vô lượng vô biên kiếp

Có Phật Lưỡng Túc Tôn

Hiệu Đại Thông Trí Thắng.

Như người dùng sức mài

Ba ngàn cõi đại thiên

Hết tất cả đất đai

Thảy đều làm thành mực.

Qua khỏi ngàn cõi nước

Mới chấm xuống chút mực

Lần lược chấm như thế

Hết sạch số mực đó.

Các cõi nước như thế

Chấm mực hoặc không chấm

Lại nghiền ra làm bụi

Một bụi là một kiếp.

Kiếp số lâu xa kia

Lại nhiều hơn số bụi

Phật đó diệt đến nay

Vô lượng kiếp như thế.

Trí vô ngại của Phật

Biết Phật đó diệt độ

Và Thanh Văn Bồ Tát

Như thấy nay diệt độ.

Các Tỳ Kheo nên biết

Trí Phật tịnh vi diệu

Vô lậu chẳng vì ngại

Thông đạt vô lượng kiếp.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Đức Phật Đại Thông Trí Thắng, sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi Đức Phật đó ngồi đạo tràng phá ma quân rồi, sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật pháp chẳng hiện ra ở trước, Đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho đền mười tiểu kiếp, thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng hiện ra.

Bấy giờ, chư thiên cõi trời Đao Lợi, trước đã vì Đức Phật đó, làm tòa sư tử ở dưới cội bồ đề cao một do tuần. Đức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến thổi đi các hoa héo, rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Đức Phật. Cho đến sau khi Đức Phật diệt độ, vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời. Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường Đức Phật, mà thường đánh trống trời, còn các vị trời khác thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi Đức Phật diệt độ cũng lại như thế.

Các Tỳ Kheo! Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật pháp mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Đức Phật đó chưa xuất gia, thì có mười sáu người con. Người con thứ nhất tên là Trí Tích. Các người con đều có đồ chơi tốt đẹp, quý báu lạ thường, nghe cha đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bỏ đồ chơi báu lạ, đi đến chốn Phật. Các bà mẹ khóc rơi lệ đi theo tiễn đưa. Ông nội của các vị đó là Chuyển luân thánh vương, với một trăm vị đại thần, và trăm ngàn vạn ức nhân dân khác, đều cùng nhau vây quanh theo đến đạo tràng. Đều muốn gần gũi Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Đến rồi, thảy đều cuối đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu Phật xong rồi, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, nói bài kệ rằng:

Thế Tôn oai đức lớn

Vì cứu độ chúng sinh

Trong vô lượng ức kiếp

Nay mới được thành Phật.

Các nguyện đã đầy đủ

Hay thay lành vô thượng

Thế Tôn rất ít có

Một phen ngồi mười kiếp.

Thân thể và tay chân

Vắng lặng yên chẳng động

Tâm Phật thường lặng lẽ

Chưa từng có tán loạn.

Rốt ráo hằng tịch diệt

An trụ pháp vô lậu

Ngày nay thấy Thế Tôn

An ổn thành Phật đạo.

Chúng con được lợi lành

Rất hớn hở vui mừng

Chúng sinh thường khổ não

Đui mù không đạo sư.

Chẳng biết đạo dứt khổ

Không biết cầu giải thoát

Ngày đêm thêm nẻo ác

Tổn giảm chúng chư thiên.

Từ tối vào nơi tối

Trọn chẳng nghe tên Phật

Nay Phật được vô thượng

Đạo an ổn vô lậu.

Chúng con và trời người

Vì được lợi lành lớn

Cho nên đều cuối đầu

Quy mạng đấng Vô Thượng.

Bấy giờ, mười sáu vị vương tử nói kệ khen Đức Phật rồi, bèn thỉnh cầu Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, đều thưa rằng: Đức Thế Tôn thuyết pháp được nhiều sự an ổn, thương xót lợi ích các trời người, lại nói bài kệ rằng:

Thế Tôn chẳng ai bằng

Trăm phước tự trang nghiêm

Được trí huệ vô thượng

Xin vì thế gian nói.

Độ thoát cho chúng con

Và các loài chúng sinh

Vì phân biệt hiển bày

Khiến được trí huệ Phật.

Nếu chúng con thành Phật

Chúng sinh cũng như thế

Thế Tôn biết chúng sinh

Nghĩ gì trong thâm tâm.

Cũng biết họ nguyện gì

Lại biết sức trí huệ

Ưa muốn và tu phước

Nghiệp tạo ra đời trước.

Thế Tôn biết cả rồi

Nên chuyển pháp vô thượng.

Phật bảo các Tỳ Kheo: Khi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm vạn ức thế giới của chư Phật, có sáu thứ chấn động. Trong các cõi nước đó, chỗ tối tăm ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến, mà nay đều sáng rực rỡ. Chúng sinh ở trong đó đều thấy nhau, đều nói rằng: Trong đây tại sao bỗng sinh ra chúng sinh? Và cung điện của chư Thiên, cho đến cung điện của Phạm thiên, trong các cõi đó, đều có sáu thứ chấn động. Quang minh chiếu khắp đầy các thế giới, sáng hơn ánh sáng của chư Thiên.

Bấy giờ, ở phương đông năm trăm vạn ức cõi nước, các cung điện của cõi trời Phạm Thiên, có ánh sáng chiếu sáng gấp bội hơn ánh sáng thường. Các vị Phạm Thiên Vương đều nghĩ: Hôm nay, ánh sáng chiếu đến cung điện, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà hiện tướng nầy? Lúc đó, các Phạm Thiên Vương đều đi đến với nhau cùng bàn về việc nầy.

Khi đó, trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì các chúng Phạm Thiên mà nói bài kệ rằng:

Các cung điện chúng ta

Ánh sáng xưa chưa có

Đây là nhân duyên gì?

Thảy đều cùng nhau tìm.

Là trời đại đức sinh

Hay Phật hiện ra đời?

Mà ánh sáng lớn nầy

Chiếu khắp trong mười phương.

Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức các cõi nước, cùng với cung điện, ai nấy đều dùng túi y đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến hướng tây để tìm tướng ánh sáng đó. Thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, tại đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư Thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân, phi nhân .v.v… đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển bánh xe pháp.

Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ Đức Phật, nhiễu trăm ngàn vòng, liền lấy hoa trời rải trên Đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường hoa xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên Đức Phật đó, mà bạch rằng: Xin Đức Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Đức Phật hãy nhận để ở.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng tiếng nói bài kệ rằng:

Thế tôn rất ít có

Khó có thể gặp được

Đủ vô lượng công đức

Hay cứu hộ tất cả.

Đại sư của trời người

Thương xót nơi thế gian

Các chúng sinh mười phương

Khắp đều được lợi ích.

Chúng con đều đến từ

Năm trăm vạn ức cõi

Xả bỏ vui thiền định

Vì cúng dường đức Phật.

Chúng con phước đời trước

Cung điện rất tốt đẹp

Nay dâng lên Thế Tôn

Cúi xin thương nhận ở.

Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều nói: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp độ thoát chúng sinh, mở đường Niết Bàn.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng:

Thế hùng Lưỡng Túc Tôn

Cúi xin diễn nói pháp

Dùng sức đại từ bi

Độ chúng sinh khổ não.

Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.

Lại nữa, các Tỳ Kheo! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau đi đến bàn về việc nầy.

Lúc đó, trong chúng đó có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Đại Bi, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng:

Việc nầy nhân duyên gì?

Mà hiện tướng như thế

Các cung điện chúng ta

Ánh sáng chưa từng có.

Là trời đại đức sinh

Hay Phật hiện ra đời?

Chưa từng có tướng nầy

Nên cùng một lòng tìm.

Qua ngàn vạn ức cõi

Theo luồng sáng tìm đến

Phần nhiều Phật ra đời

Độ thoát chúng sinh khổ.

Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang theo cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi đến phương tây bắc để tìm tướng đó, thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v… thảy đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân.

Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương cuối đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch rằng: Cúi xin Đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Đức Phật hãy nhận.

Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng:

Thánh chúa Thiên Trung Vương

Tiếng ca lăng tần già

Thương xót các chúng sinh

Chúng con nay kính lễ.

Thế Tôn rất ít có

Lâu xa hiện một lần

Một trăm tám mươi kiếp

Trải qua chẳng có Phật.

Đầy dẫy ba đường ác

Chúng chư thiên giảm bớt

Nay Phật hiện ra đời

Mắt sáng của chúng sinh.

Chỗ thế gian nương tựa

Cứu hộ thảy mọi loài

Cha lành của chúng sinh

Thương xót làm lợi ích.

Chúng con nhờ phước xưa

Nay được gặp Thế Tôn.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát chúng sinh.

Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh mà nói kệ rằng:

Đại Thánh chuyển pháp luân

Hiển bày các pháp tướng

Độ chúng sinh khổ não

Khiến được vui mừng lớn.

Chúng sinh nghe pháp nầy

Đắc đạo hoặc sinh thiên

Các đường ác giảm dần

Người khéo nhẫn thêm nhiều.

Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời.

Lại nữa, các Tỳ Kheo! Ở phương nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có tướng điềm lành nầy, ai nấy đều vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau tụ lại luận bàn việc nầy. Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy?

Lúc đó, trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:

Các cung điện chúng ta

Ánh sáng chiếu sáng rực

Đây là nhân duyên gì?

Tướng nầy phải tìm cầu.

Trải qua trăm ngàn kiếp

Chưa từng thấy tướng nầy

Là trời đại đức sinh

Hay là Phật ra đời.

Bấy giờ, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, đều mang theo cung điện của họ, và dùng túi y đựng đầy hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, tìm tướng ánh sáng đó, thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v… thảy đều vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Đức Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch Phật rằng: Cúi xin Phật thương xót, lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin Phật hãy nhận ở.

Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói kệ rằng:

Thế Tôn rất khó gặp

Bậc phá các phiền não

Qua trăm ba mươi kiếp

Nay mới gặp một lần.

Các chúng sinh đói khác

Đều thấm nhuần mưa pháp

Xưa chưa từng gặp Phật

Bậc vô lượng trí huệ.

Như hoa ưu đàm bát

Hôm nay mới gặp được

Các cung điện chúng con

Nhờ ánh sáng nghiêm sức.

Thế Tôn đại từ mẫn

Cúi xin hãy nhận ở.

Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả thế gian, chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được an ổn mà được giải thoát.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói kệ rằng:

Cúi xin Thiên Nhân Tôn

Chuyển pháp luân vô thượng

Đánh vang trống pháp lớn

Thổi lên ốc pháp lớn.

Rưới khắp mưa pháp lớn

Độ vô lượng chúng sinh

Chúng con đều thỉnh cầu

Nói tiếng pháp sâu xa.

Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương dưới cũng lại như thế.

Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều tự thấy ánh sánh chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó?

Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì các chúng Đại Phạm Thiên mà nói kệ rằng:

Nay bởi nhân duyên gì?

Các cung điện chúng ta

Ánh sáng chiếu sáng rực

Trang nghiêm chưa từng có.

Diệu tướng lạ như thế

Xưa nay chưa nghe thấy

Là trời đại đức sinh

Hay Phật hiện ra đời?

Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Đại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều mang theo cung điện của mình và dùng túi y đựng đầy các hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới để tìm tướng đó. Thấy Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử nơi Đạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh Đức Phật, và thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh Đức Phật chuyển bánh xe pháp.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật trăm ngàn vòng, bèn dùng hoa trời rải lên trên Đức Phật. Hoa rải nhiều như núi Tu Di, cũng dùng để cúng dường cây bồ đề của Phật, cúng dường hoa rồi, ai nấy đều đem cung điện dâng lên cúng dường Đức Phật đó, mà bạch rằng: Cúi xin Đức Phật thương xót lợi ích chúng con, cung điện dâng cúng đây xin Đức Phật hãy nhận ở.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước Đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng:

Lành thay gặp được Phật

Đấng Thánh Tôn cứu đời

Thường ở ngục tam giới

Độ thoát các chúng sinh.

Thiên Nhân Tôn trí khắp

Thương xót loài quần mê

Khai mở cửa cam lồ

Rộng độ hết tất cả.

Thuở xưa vô lượng kiếp

Trải qua chẳng có Phật

Khi Phật chưa ra đời

Mười phương thường đen tối.

Ba đường ác thêm nhiều

A tu la cũng thịnh

Chúng chư thiên bớt đi

Chết nhiều đọa đường ác.

Chẳng theo Phật nghe pháp

Thường làm những việc ác.

Sắc lực và trí huệ

Thảy đều giảm bớt dần

Vì tội nghiệp nhân duyên

Mất vui cùng tưởng vui.

Trụ trong pháp tà kiến

Chẳng biết nghi tắc lành

Chẳng nhờ Phật hóa độ

Thường đọa trong đường ác.

Phật là mắt thế gian

Lâu xa mới xuất hiện

Thương xót các chúng sinh

Nên mới hiện ra đời.

Vượt khỏi thành chánh giác

Chúng con rất sung sướng

Và các chúng sinh khác

Vui mừng chưa từng có.

Các cung điện chúng con

Nhờ ánh sáng trang nghiêm

Nay đem dâng Thế Tôn

Xin hãy thương nhận ở.

Nguyện đem công đức nầy

Hồi hướng khắp tất cả

Chúng con và chúng sinh

Đều trọn thành Phật đạo.

Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên nói kệ khen Đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, được nhiều sự an ổn, được nhiều sự độ thoát.

Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ rằng:

Thế Tôn chuyển pháp luân

Đánh trống pháp cam lồ

Độ chúng sinh khổ não

Mở bày đường Niết Bàn.

Cúi xin nhận con thỉnh

Dùng âm thanh vi diệu

Thương xót mà diễn nói

Pháp tu vô lượng kiếp.

Bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm Thiên Vương trong mười phương, và mười sáu vị vương tử, lập tức ba lần chuyển bánh xe pháp mười hai hành. Dù Sa môn, Bà la môn, hoặc chư Thiên, ma vương, Phạm vương, và các thế gian khác, không thể chuyển được.

Đây là khổ, là khổ tập, là khổ diệt, là đạo diệt khổ, và pháp độ thoát mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tữ ưu bi khổ não diệt.

Khi Đức Phật ở trong đại chúng trời người nói pháp đó, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha người, vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát, đều được thiền định thâm sâu vi diệu, ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát.

Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì có ngàn vạn ức Hằng hà sa Na do tha chúng sinh, cũng vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát. Từ đó về sau, các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên không thể tính đếm.

Bấy giờ, mười sáu vị vương tử, đều là đồng tử xuất gia làm Sa di, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh, cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đều bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Vô lượng ngàn vạn ức các đại đức Thanh Văn đó, đều đã thành tựu, Đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe rồi đều cùng tu học.

Đức Thế Tôn! Chúng con chí nguyện đắc được tri kiến của Như Lai, trong thâm tâm nghĩ gì, Đức Phật tự chứng biết.

Lúc đó, tám vạn ức người trong chúng của vua chuyển luân thánh vương dẫn đến, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng xin xuất gia, vua bèn chấp nhận.

Bấy giờ, Đức Phật đó nhận lời thỉnh cầu của các vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp sau, mới ở trong bốn chúng nói kinh đại thừa nầy, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Nói kinh nầy rồi, mười sáu vị Sa di đều vì quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà cùng nhau thọ trì đọc tụng thông thuộc.

Lúc nói kinh đó, thì mười sáu vị Bồ Tát Sa di đều tin nhận thọ trì, trong chúng hàng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra, ngàn vạn ức loại chúng sinh đều sinh tâm nghi hoặc.

Đức Phật nói kinh đó, suốt tám ngàn kiếp chưa từng thôi nghỉ, nói kinh đó rồi, bèn vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp.

Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa di, biết Đức Phật nhập thất vắng lặng ở trong thiền định, ai nấy đều lên pháp tòa, cũng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì bốn chúng rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ được lợi ích và vui mừng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Phật Đại Thông Trí Thắng trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, rồi từ tam muội dậy, đi đến pháp tòa, ngồi ngay thẳng bảo khắp đại chúng rằng: Mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, các căn lanh lợi, trí huệ sáng suốt, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức các Đức Phật. Ở chỗ chư Phật thường tu phạm hạnh, thọ trí huệ của Phật, mở bày cho chúng sinh, cũng khiến cho họ được như thế.

Các ông đều phải gần gũi cúng dường các các vị ấy. Tại sao? Vì nếu hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, và các Bồ Tát đó, tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát nầy nói, thọ trì chẳng sinh tâm hủy báng, thì người đó sẽ được trí huệ Vô thượng chánh đẳng chánh giác của Như Lai.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Mười sáu vị Bồ Tát nầy, thường ưa thích diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Mỗi vị Bồ Tát, giáo hóa sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh. Đời đời sinh ra đều gặp các vị Bồ Tát nầy, theo các Ngài nghe pháp, thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó, được gặp bốn vạn ức các Đức Phật Thế Tôn, đến nay vẫn chưa hết.

Các Tỳ Kheo! Nay ta nói với các ông: Mười sáu vị Sa di đệ tử của Đức Phật đó, nay đều được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đang nói pháp ở trong cõi nước mười phương. Có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng Bồ Tát, và Thanh Văn làm quyến thuộc.

Hai vị làm Phật ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc, ở cõi nước Hoan Hỉ. Vị thứ hai hiệu là Tu Di Đỉnh. Hai vị Phật ở phương đông nam, một vị hiệu là Sư Tử Âm, vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng. Hai vị Phật ở phương nam, vị thứ nhất hiệu là Hư Không Trụ, vị thứ hai hiệu là Thường Diệt. Hai vị Phật ở phương tây nam, vị thứ nhất hiệu là Đế Tướng, vị thứ hai hiệu là Phạm Tướng. Hai vị Phật ở phương tây, vị thứ nhất hiệu là A Di Đà, vị thứ hai hiệu là Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não. Hai vị Phật ở phương tây bắc, vị thứ nhất hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai hiệu là Tu Di Tướng. Hai vị Phật ở phương bắc, vị thứ nhất hiệu là Vân Tự Tại, vị thứ hai hiệu là Vân Tự Tại Vương. Vị Phật ở phương đông bắc hiệu là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy, vị Phật thứ mười sáu chính là ta Thích Ca Mâu Ni Phật, ở cõi Ta Bà thành quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Các Tỳ Kheo! Lúc chúng ta làm Sa di, thì mỗi người giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa chúng sinh, theo ta nghe pháp, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những chúng sinh đó, nay có người trụ ở bậc Thanh Văn. Ta thường giáo hóa đạo Vô thượng chánh giác, những người đó nhờ pháp nầy, mà dần dần vào Phật đạo. Tại sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Vô lượng Hằng hà sa chúng sinh giáo hóa thuở đó, tức là hàng Tỳ Kheo các ông. Sau khi ta diệt độ rồi, ở đời vị lai hàng đệ tử Thanh Văn cũng vậy. Ta diệt độ rồi, lại có đệ tử chẳng nghe kinh nầy, chẳng biết chẳng hay sự tu hành của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được, tưởng là diệt độ sẽ vào Niết bàn.

Ta thành Phật ở nước khác, bèn có tên khác, người đó tuy tưởng là diệt độ vào Niết Bàn, mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật được nghe kinh nầy, chỉ dùng Phật thừa mà được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ khi các Đức Như Lai phương tiện thuyết pháp.

Các Tỳ Kheo! Nếu Đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, đại chúng lại thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt pháp không, vào sâu thiền định, bèn tụ tập các chúng Bồ Tát và Thanh Văn để nói kinh nầy, thế gian chẳng có hai thừa mà được diệt độ, chỉ một Phật thừa được diệt độ thôi.

Các Tỳ Kheo nên biết! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh của chúng sanh, biết chí của họ thích pháp nhỏ, chấp sâu năm dục, vì những người đó nói Niết Bàn, nếu họ nghe thì liền tin nhận thọ trì.

Ví như đường dữ hiểm nạn, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu có đông người muốn đi qua đường hiểm nầy, đến chỗ châu báu. Có một vị Đạo sư trí huệ sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của con đường, dắt mọi người muốn vượt qua hiểm nạn nầy. Mọi người được dắt đi giữa đường lười mỏi, bèn bạch với Đạo sư rằng: Chúng con rất mệt nhọc, lại thêm sợ sệt không thể đi thêm được nữa, đường ở trước còn dài, nay chúng con muốn lui về. Vị Đạo sư nhiều phương tiện bèn nghĩ thế nầy: Những người nầy rất đáng thương, sao lại bỏ châu báu mà muốn lui về. Nghĩ như thế rồi, dùng sức phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành, bảo mọi người rằng: Các ngươi đừng sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể ở trong đó, làm gì tùy ý. Nếu vào thành đó rất được an ổn, nếu có thể đi thẳng đến chỗ châu báu cũng được.

Lúc đó, chúng mỏi mệt tâm rất vui mừng, khen chưa từng có. Nay chúng ta khỏi đường hiểm đó, rất được an ổn. Do đó, mọi người đều vào hóa thành, sinh lòng tưởng rằng đã được độ rất an ổn. Bấy giờ, vị Đạo sư biết những người đó đã nghỉ ngơi xong, chẳng còn mệt nhọc, bèn diệt hóa thành, bảo với mọi người rằng: Các ngươi hãy đi tới chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn đó do ta hóa làm ra, để dùng nghỉ thôi.

Các Tỳ Kheo! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông làm đại Đạo sư, biết các đường hiểm sinh tử phiền não dài xa, nên bỏ, nên vượt qua. Nếu chúng sinh chỉ nghe một Phật thừa, thì chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi, bèn nghĩ như vầy: Phật đạo dài xa, chịu khổ siêng cần lâu mới có thể thành tựu. Phật biết tâm của họ khiếp nhược hạ liệt, bèn dùng sức phương tiện nghỉ ngơi ở giữa đường, nên nói hai Niết Bàn.

Nếu chúng sinh trụ ở hai bậc, thì bấy giờ Đức Như Lai bèn nói: Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông gần với trí huệ của Phật. Nên quán sát suy lường Niết Bàn đã được đó, chẳng chân thật vậy, chỉ là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo sư kia, vì dừng lại nghỉ mà hóa làm thành lớn. Biết đã nghỉ rồi, bèn bảo họ rằng: Chỗ châu báu gần đây, thành nầy chẳng thật, do ta hóa làm ra thôi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Phật Đại Thông Trí Thắng

Mười kiếp ngồi Đạo tràng

Phật pháp chẳng hiện tiền

Không được thành Phật đạo.

Các trời thần long vương

Chúng A tu la thảy

Thường mưa các hoa trời

Để cúng dường Phật đó.

Chư Thiên đánh trống trời

Và tấu các âm nhạc

Gió thơm thổi hoa héo

Lại mưa hoa tươi tốt.

Trải qua mười tiểu kiếp

Mới được thành Phật đạo

Chư thiên và người đời

Tâm đều mừng hớn hở.

Mười sáu người con Phật

Đều cùng với quyến thuộc

Ngàn vạn ức vây quanh

Đều đi đến chốn Phật.

Đầu mặt lễ chân Phật

Mà thỉnh chuyển pháp luân

Thánh sư tử mưa pháp

Lợi con và tất cả.

Thế Tôn rất khó gặp

Lâu xa hiện một lần

Vì giác ngộ quần sinh

Chấn động hết tất cả.

Các thế giới phương đông

Năm trăm vạn ức cõi

Ánh sáng chiếu Phạm cung

Từ xưa chưa từng có.

Phạm chúng thấy tướng nầy

Tìm đến chỗ đức Phật

Rải hoa để cúng dường

Và dâng cung điện lên.

Thỉnh Phật chuyển pháp luân

Dùng kệ khen ngợi Phật

Phật biết chưa đến thời

Nhận lời ngồi yên lặng.

Ba phương và bốn hướng

Trên dưới cũng như thế

Rải hoa dâng cung điện

Thỉnh Phật chuyển pháp luân.

Thế Tôn rất khó gặp

Xin vì lòng từ bi

Rộng mở cửa cam lồ

Chuyển pháp luân vô thượng.

Thế Tôn tuệ vô thượng

Nhận những người kia thỉnh

Vì nói các thứ pháp

Bốn đế mười hai duyên.

Vô minh đến lão tử

Đều từ sinh duyên có

Những hoạ hoạn như thế

Các ông phải nên biết.

Lúc diễn nói pháp đó

Sáu trăm vạn ức chúng

Được hết sạch các khổ

Đều thành A la hán.

Nói pháp lần thứ hai

Ngàn vạn Hằng sa chúng

Chẳng thọ nơi các pháp

Cũng đắc A la hán.

Từ đó sau đắc đạo

Số đông không thể lường

Vạn ức kiếp tính đếm

Không biết được ngằn mé.

Lúc đó mười sáu vị

Xuất gia làm Sa di

Đều cùng thỉnh Phật đó

Diễn nói pháp đại thừa.

Chúng con và quyến thuộc

Đều sẽ thành Phật đạo

Nguyện được như Thế Tôn

Mắt huệ tịnh bậc nhất.

Phật biết tâm đồng tử

Tu hành trong đời trước

Dùng vô lượng nhân duyên

Đủ thứ các ví dụ.

Nói sáu Ba la mật

Và các việc thần thông

Phân biệt pháp chân thật

Đạo Bồ Tát tu hành.

Nói Kinh Pháp Hoa nầy

Kệ như cát sông Hằng.

Phật đó nói kinh rồi

Vào tịnh thất nhập định.

Nhất tâm ngồi một chỗ

Tám vạn bốn ngàn kiếp

Các vị Sa Di đó

Biết Phật chưa xuất định.

Vì vô lượng ức chúng

Nói Phật huệ vô thượng

Ai nấy lên pháp tòa

Nói kinh đại thừa nầy.

Lúc Đức Phật tĩnh lặng

Giúp tuyên dương giáo hóa.

Mỗi mỗi vị Sa Di

Độ được các chúng sinh.

Khoảng sáu trăm vạn ức

Hằng hà sa chúng sinh

Phật đó diệt độ rồi

Những người nghe pháp đó.

Ở tại các cõi Phật

Thường sinh chung với thầy.

Mười sáu Sa Di đó

Đầy đủ hạnh Phật đạo.

Nay hiện trong mười phương

Thảy đều thành chánh giác

Người nghe pháp thuở đó

Đều ở chỗ chư Phật.

Có người trụ Thanh Văn

Dần dần vào Phật đạo.

Ta là thứ mười sáu

Cũng từng vì ông nói.

Cho nên dùng phương tiện

Dẫn ông đến Phật huệ

Do gốc nhân duyên đó

Nay nói Kinh Pháp Hoa.

Khiến ông vào Phật đạo

Cẩn thận chớ kinh sợ.

Ví như đường hiểm dữ

Xa vắng nhiều thú độc.

Lại không có cỏ nước

Chỗ mọi người sợ hãi

Vô số ngàn vạn chúng

Muốn qua đường hiểm này.

Đường đó rất xa xôi

Dài năm trăm do tuần

Thời có một Đạo sư

Thông minh có trí tuệ.

Sáng suốt tâm quyết định

Cứu nguy các hoạn nạn.

Mọi người đều mỏi mệt

Bèn bạch Đạo sư rằng:

Chúng con nay mệt mỏi

Nơi đây muốn trở về

Đạo sư nghĩ thế nầy :

Bọn nầy rất đáng thương.

Sao lại muốn lui về

Để mất châu báu lớn.

Bèn nghĩ tìm phương tiện

Nên bày sức thần thông.

Hóa làm thành quách lớn

Trang nghiêm các phòng nhà

Chung quanh có vườn rừng

Suối chảy và ao tắm.

Cửa lớn lầu gác cao

Nam nữ đều đầy dẫy

Hóa làm thành đó rồi

An ủi họ chớ sợ.

Các ông vào thành nầy

Đều được tùy sở thích.

Mọi người đều vào thành

Tâm đều rất vui mừng.

Đều sinh tưởng an ổn

Tự cho đã được độ

Đạo sư biết nghỉ rồi

Nhóm chúng mà bảo rằng:

Các ngươi nên đi nữa

Đây là hóa thành thôi

Thấy các ngươi mỏi mệt

Giữa đường muốn lui về.

Nên dùng sức phương tiện

Ta hóa làm thành nầy

Các ngươi gắng tinh tấn

Nên cùng đến bảo sở.

Ta cũng lại như thế

Đạo sư của tất cả.

Thấy những người cầu đạo

Giữa đường mà lười bỏ.

Không thể vượt sinh tử

Phiền não các đường hiểm

Nên ta dùng phương tiện

Vì nghỉ nói Niết Bàn.

Bảo các ông khổ diệt

Việc làm đều đã xong

Tức biết đến Niết Bàn

Đều được A la hán.

Nên mới nhóm đại chúng

Vì nói pháp chân thật.

Chư Phật dùng phương tiện

Phân biệt nói ba thừa.

Chỉ có một Phật thừa

Chỗ nghỉ nên nói hai

Nay vì ngươi nói thật

Chỗ ngươi được chẳng diệt.

Vì Phật nhất thiết trí

Hãy phát đại tinh tấn.

Ngươi chứng nhất thiết trí

Mười lực các Phật pháp.

Đủ ba mươi hai tướng

Mới là chân thật diệt

Chư Phật là Đạo sư

Vì nghỉ nói Niết Bàn.

Đã biết nghỉ ngơi rồi

Dẫn vào nơi Phật huệ.

***

QUYỂN 4

Phẩm Thọ Ký Cho Năm Trăm Vị Đệ Tử thứ Tám

Bấy giờ, Ngài Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, từ Đức Phật nghe trí huệ phương tiện tùy nghi thuyết pháp, và nghe thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho các vị đệ tử lớn, lại nghe việc nhân duyên đời trước, và nghe chư Phật có sức thần thông đại tự tại, được chưa từng có, tâm thanh tịnh hớn hở, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân Đức Phật, rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật, mắt chẳng tạm rời mà nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn rất kỳ đặc, làm những việc ít có, tùy thuận bao nhiêu chủng tánh thế gian, dùng phương tiện tri kiến mà vì họ thuyết pháp, cứu vớt chúng sinh ra khỏi những chỗ tham trước. Chúng con ở nơi công đức của Phật, không lời lẽ nào mà nói cho hết được, chỉ có Đức Phật Thế Tôn mới biết được nguyện xưa trong thâm tâm của chúng con.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Các ông có thấy ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử đây chăng, ta thường khen ông ta là người thuyết pháp giỏi bậc nhất, cũng thường khen ngợi ông ta tu đủ thứ công đức, tinh tấn siêng năng hộ trì, trợ giúp tuyên dương pháp của ta, hay ở trong bốn chúng khai thị giáo hóa, khiến cho mọi người được lợi ích vui mừng, giải thích đầy đủ chánh pháp của Phật, khiến cho bậc đồng phạm hạnh được lợi ích rất lớn. Ngoài Đức Như Lai ra, chẳng có ai biện luận bằng ông Phú Lâu Na. Các ông chớ cho rằng, ông Phú Lâu Na chỉ hộ trì tuyên dương pháp của ta thôi, mà trong quá khứ, nơi chín mươi ức chư Phật, cũng hộ trì tuyên dương chánh pháp của chư Phật, trong hàng người nói pháp, ông Phú Lâu Na cũng là bậc nhất, và nơi pháp không của các Đức Phật nói, thấu rõ thông đạt, đắc được bốn trí vô ngại, thường hay suy xét kỹ lưỡng thanh tịnh thuyết pháp chẳng có nghi hoặc, đầy đủ sức thần thông của Bồ Tát, tùy theo thọ mạng, thường tu phạm hạnh. Người ở đời thuở các Đức Phật kia, đều cho rằng ông thật là Thanh Văn, nhưng ông Phú Lâu Na dùng phương tiện đó, lợi ích vô lượng trăm nghìn chúng sinh, và hóa độ số người nhiều vô lượng A tăng kỳ, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì tịnh cõi Phật, mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sinh.

Các Tỳ Kheo! Ông Phú Lâu Na ở nơi bảy Đức Phật, cũng là người thuyết pháp bậc nhất. Nay trong hàng đệ tử của ta, cũng là người thuyết pháp bậc nhất. Nơi các Đức Phật vị lai trong Hiền kiếp, cũng là người thuyết pháp bậc nhất, đều hộ trì tuyên dương Phật pháp. Đời vị lai, ông Phú Lâu Na cũng hộ trì tuyên dương pháp của vô lượng vô biên các Đức Phật, giáo hóa lợi ích vô lượng chúng sinh, khiến cho họ trụ nơi quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì tịnh cõi Phật, nên thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sinh. Dần dần đầy đủ đạo Bồ Tát, trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, sẽ ở cõi này đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó, dùng ba ngàn đại thiên thế giới, nhiều như số các sông Hằng làm một cõi Phật. Đất bằng bảy báu, mặt đất bằng phẳng như bàn tay, chẳng có núi gò khe suối rạch ngòi. Đài quán bằng bảy báu đầy dẫy trong đó. Cung điện của chư Thiên ở gần nơi hư không, trời người giao tiếp nhau và thấy được nhau. Chẳng có các đường ác, cũng chẳng có các người nữ. Tất cả chúng sinh đều hóa sinh ra, chẳng có dâm dục, được đại thần thông, thân phóng quang minh, bay đi tự tại, chí niệm vững chắc, tinh tấn trí huệ, thảy đều màu vàng thật, ba mươi hai tướng tự trang nghiêm. Chúng sinh trong cõi nước đó, thường dùng hai thứ ăn uống, một là dùng niềm vui của pháp, thứ hai là dùng niềm vui của thiền định. Có vô lượng A tăng kỳ ngàn vạn ức Na do tha các chúng Bồ Tát, được đại thần thông, bốn trí vô ngại, khéo giáo hóa chúng sinh. Chúng hàng Thanh Văn dù tính toán cũng không biết được số lượng, đều được đầy đủ sáu thần thông ba minh và tám giải thoát. Cõi nước Đức Phật đó, có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên là Bảo Minh, cõi nước đó tên là Thiện Tịnh, tuổi thọ của Đức Phật đó, vô lượng A tăng kỳ kiếp, pháp lưu lại ở đời rất lâu. Sau khi Đức Phật diệt độ, tạo dựng tháp bằng bảy báu, đầy khắp cõi nước đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Các Tỳ Kheo lóng nghe

Đạo của Phật tử hành

Vì khéo học phương tiện

Không thể nghĩ bàn được.

Biết chúng ưa pháp nhỏ

Mà sợ nơi trí lớn

Cho nên các Bồ Tát

Làm Thanh Văn Duyên Giác.

Dùng vô số phương tiện

Độ các loài chúng sinh

Tự nói là Thanh Văn

Cách Phật đạo rất xa.

Độ thoát vô lượng chúng

Thảy đều được thành tựu

Tuy tiểu thừa giải đãi

Dần sẽ khiến thành Phật.

Trong ẩn hạnh Bồ Tát

Ngoài hiện là Thanh Văn

Ít muốn nhàm sinh tử

Thật tự tịnh cõi Phật.

Thị hiện có ba độc

Lại hiện tướng tà kiến

Đệ tử ta như thế

Phương tiện độ chúng sinh.

Nếu ta nói đầy đủ

Các thứ việc hóa hiện

Chúng sinh nghe như thế

Tâm bèn sinh nghi hoặc.

Nay Phú Lâu Na đây

Nơi ngàn ức Phật xưa

Siêng tu Bồ Tát đạo

Tuyên dương pháp chư Phật.

Vì cầu huệ vô thượng

Nên nơi chỗ chư Phật

Hiện ở trong đệ tử

Đa văn có trí huệ.

Thuyết pháp vô sở úy

Hay khiến chúng hoan hỉ

Chưa từng có mệt nhọc

Để trợ giúp Phật sự.

Đã được đại thần thông

Đủ bốn trí vô ngại

Biết các căn lợi độn

Thường nói pháp thanh tịnh.

Diễn xướng nghĩa như thế

Độ ngàn ức chúng sinh

Khiến trụ pháp đại thừa

Mà tự tịnh cõi Phật.

Vị lai cũng cúng dường

Vô lượng vô số Phật

Trợ giúp tuyên chánh pháp

Cũng tự tịnh cõi Phật.

Thường dùng các phương tiện

Thuyết pháp vô sở úy

Độ chúng không tính được

Thành tựu Nhất thiết trí.

Cúng dường các Như Lai

Hộ trì tạng pháp bảo

Sau đó được thành Phật

Hiệu là Phật Pháp Minh.

Nước đó tên Thiện Tịnh

Đất đai bằng bảy báu

Kiếp tên là Bảo Minh

Chúng Bồ Tát rất nhiều.

Có đến vô lượng ức

Đều có đại thần thông

Sức oai đức đầy đủ

Đầy dẫy trong nước đó.

Thanh Văn cũng vô số

Ba minh tám giải thoát

Được bốn trí vô ngại

Dùng họ để làm Tăng.

Các chúng sinh nước đó

Đều đã đoạn dâm dục

Chỉ biến hóa sinh ra

Thân đủ tướng trang nghiêm.

Ăn pháp hỉ thiền duyệt

Càng chẳng có nghĩ ăn

Chẳng có những người nữ

Cũng chẳng có đường ác.

Tỳ Kheo Phú Lâu Na

Công đức đều viên mãn

Sẽ được tịnh độ đó

Chúng hiền Thánh rất đông.

Vô lượng việc như thế

Nay ta chỉ lược nói.

Bấy giờ, một nghìn hai trăm vị A la hán tâm tự tại nghĩ như vầy: Chúng ta vui mừng được chưa từng có. Nếu được Đức Thế Tôn đều thọ ký, như các vị đệ tử lớn, thì sung sướng lắm. Đức Phật biết tâm suy nghĩ của các vị đó, bèn nói với ngài Ma Ha Ca Diếp rằng: Một nghìn hai trăm vị A la hán này, nay ta sẽ lần lượt thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ở trong chúng đây, đệ tử lớn của ta, Tỳ Kheo Kiều Trần Như sẽ cúng dường sáu vạn hai nghìn ức Đức Phật, sau đó sẽ được thành Phật, hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Năm trăm vị A la hán đó, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ca Lưu Đà Di, Ưu Đà Di, A Nậu Lâu Đà, Ly Bà Đa, Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, Châu Đà, Sa Già Đà .v.v… đều sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng một danh hiệu là Phổ Minh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Tỳ Kheo Kiều Trần Như

Sẽ gặp vô lượng Phật

Qua A tăng kỳ kiếp

Mới thành Đẳng chánh giác.

Thường phóng đại quang minh

Đầy đủ các thần thông

Danh đồn khắp mười phương

Tất cả đều cung kính.

Thường nói đạo vô thượng

Nên hiệu là Phổ Minh

Cõi nước đó thanh tịnh

Bồ Tát đều dũng mãnh.

Đều lên lầu các đẹp

Đến các nước mười phương

Dùng đồ cúng vô thượng

Cúng dường các Đức Phật.

Cúng dường như thế rồi

Trong tâm rất hoan hỉ

Chốc lát về bổn quốc

Có thần thông như thế.

Phật thọ sáu vạn kiếp

Chánh pháp trụ hơn thọ

Tượng pháp lại hơn chánh

Pháp diệt trời người lo.

Năm trăm Tỳ Kheo này

Lần lượt sẽ thành Phật

Đồng hiệu là Phổ Minh

Lần lượt thọ ký nhau.

Sau khi ta diệt độ

Vị đó sẽ thành Phật

Thế gian Phật đó độ

Cũng như ta ngày nay.

Cõi nước đó nghiêm tịnh

Và các sức thần thông

Chúng Bồ Tát Thanh Văn

Chánh pháp và tượng pháp.

Kiếp thọ mạng bao nhiêu

Đều đã nói ở trên

Ca Diếp ông đã biết

Năm trăm vị tự tại.

Ngoài các chúng Thanh Văn

Cũng sẽ lại như thế

Ai chẳng có ở đây

Ông nên vì họ nói.

Bấy giờ, năm trăm vị A La Hán ở trước Đức Phật được thọ ký rồi, vui mừng hớn hở, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân đức Phật, hối lỗi tư trách rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con thường nghĩ như vầy: Tự cho rằng đã được diệt độ rốt ráo, nay mới biết là người chẳng có trí huệ. Tại sao? Vì chúng con đáng được trí huệ của đức Như Lai, mà tự cho rằng trí nhỏ là đủ.

Đức Thế Tôn! Ví như có người nọ, đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó bạn thân bận việc quan phải đi, bèn lấy hạt châu vô giá, buộc vào trong áo của gã say rồi bỏ đi. Gã đó tỉnh dậy cũng chẳng biết, đi lang thang đến nước khác, vì ăn mặc nên gắng sức mà tìm cầu rất là khốn khổ, được chút ít bèn cho là đủ.

Thời gian sau, người bạn thân lại thấy gã kia bèn nói rằng: Lạ thay anh này! Sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Trước kia, ta muốn khiến cho anh được an lạc, tha hồ thọ hưởng năm dục. Vào ngày tháng năm đó, ta lấy hạt châu vô giá buộc vào trong áo của anh, mà đến bây giờ anh vẫn không biết, để phải cực khổ lo buồn tìm cầu tự sống, rất là ngu si vậy. Nay ông có thể dùng hạt châu báu đó, đổi lấy những đồ cần dùng, thì sẽ được như ý, chẳng còn thiếu thốn. Phật cũng như thế, khi làm Bồ Tát thì giáo hóa chúng con, khiến cho phát tâm Nhất thiết trí, mà chúng con bỏ quên không hay không biết. Tức được quả A la hán, mà tự cho là đã diệt độ. Khổ nhọc sinh sống được ít cho là đủ. Nguyện Nhất thiết trí vẫn còn chẳng mất.

Hôm nay Đức Thế Tôn giác ngộ chúng con, bèn bảo rằng: Này các Tỳ Kheo! Chỗ các ông được chẳng phải rốt ráo diệt độ. Từ lâu, ta đã khiến cho các ông trồng căn lành của Phật, dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết Bàn, mà các ông cho rằng thật được diệt độ.

Đức Thế Tôn! Nay chúng con mới biết thật là Bồ Tát, được thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhờ nhân duyên đó, nên chúng con rất vui mừng được chưa từng có.

Bấy giờ, Ngài A Nhã Kiều Trần Như muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Chúng con nghe thọ ký

Tiếng an ổn vô thượng

Vui mừng chưa từng có

Lễ vô lượng trí Phật.

Nay ở trước Thế Tôn

Tự sám hối lỗi lầm

Nơi vô lượng Phật bảo

Được chút phần Niết Bàn.

Như kẻ ngu vô trí

Bèn tự cho là đủ.

Ví như gã bần cùng

Đi đến nhà bạn thân

Nhà đó rất giàu có

Bày đủ cỗ tiệc ngon.

Lấy châu báu vô giá

Buộc chặt vào trong áo

Yên lặng mà bỏ đi

Gã nằm chẳng hay biết.

Sau gã đó thức dậy

Lang thang đến nước khác

Cầu ăn mặc tự sống

Sinh sống rất khốn khổ.

Được ít cho là đủ

Càng không muốn đồ tốt

Chẳng biết ở trong áo

Có châu báu vô giá.

Bạn thân cho hạt châu

Sau gặp lại gã nghèo

Khổ thiết trách gã rồi

Chỉ cho chỗ buộc châu.

Gã nghèo thấy châu rồi

Trong tâm rất vui mừng

Giàu có các của cải

Tha hồ hưởng năm dục.

Chúng con cũng như thế

Thế Tôn từ thuở xưa

Thường giáo hóa chúng con

Khiến trồng nguyện vô thượng.

Vì chúng con vô trí

Chẳng biết cũng chẳng hay

Được ít phần Niết Bàn

Cho đủ chẳng cầu nữa.

Nay Phật giác ngộ con

Nói chẳng thật diệt độ

Được Phật trí vô thượng

Đó mới là thật diệt.

Nay con nghe từ Phật

Thọ ký việc trang nghiêm

Và lần lược thọ ký

Khắp thân tâm vui mừng.

***

Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học Và Vô Học thứ Chín

Bấy giờ, Ngài A nan, La Hầu La nghĩ như vầy: Chúng ta ai nấy đều tự nghĩ rằng: Nếu được Đức Phật thọ ký cho, thì chẳng sung sướng lắm sao! Bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước Đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, đều bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con ở nơi đây cũng đáng có phần, chỉ có Đức Như Lai là chỗ nương tựa của chúng con, và chúng con là chỗ thấy biết của hàng trời, người, A tu la. A Nan thường làm thị giả, hộ trì tạng pháp, La Hầu La là con của Đức Phật. Nếu được thấy Đức Phật thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì nguyện cầu của chúng con đã đầy đủ, nguyện vọng của đại chúng cũng viên mãn.

Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh Văn hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, hở áo vai bên phải, đến trước Đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, cũng như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La, rồi đứng qua một bên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo A Nan rằng: Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sẽ cúng dường sáu mươi hai ức các Đức Phật, hộ trì tạng pháp, sau đó sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức các vị Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, khiến cho thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nước đó tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly, kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật đó sống lâu vô lượng nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu có người ở trong nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tính toán cũng chẳng biết được. Chánh pháp lưu lại ở đời gấp bội số thọ mạng. Tượng pháp lưu lại ở đời, lại gấp bội chánh pháp.

A Nan! Đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng nghìn vạn ức các Đức Phật Như Lai, nhiều như số cát sông Hằng, trong mười phương đều khen ngợi, tán thán công đức.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nay ta trong Tăng nói

A Nan người trì pháp

Sẽ cúng dường chư Phật

Sau sẽ thành chánh giác.

Hiệu là Phật Sơn Hải

Tuệ Tự Tại Thông Vương

Cõi nước đó thanh tịnh

Tên Thường Lập Thắng Phan.

Giáo hóa các Bồ Tát

Nhiều như cát sông Hằng

Phật có oai đức lớn

Danh đồn khắp mười phương.

Sống lâu vô số kiếp

Thương xót độ chúng sinh

Chánh pháp bội tuổi thọ

Tượng pháp bội chánh pháp.

Vô số các chúng sinh

Nhiều như cát sông Hằng

Ở trong Phật pháp đó

Trồng nhân duyên Phật đạo.

Bấy giờ, tám nghìn người mới phát tâm Bồ Tát ở trong chúng hội, đều nghĩ như vầy: Chúng ta còn chưa nghe các vị đại Bồ Tát được thọ ký như thế. Có nhân duyên gì, mà các hàng Thanh Văn được thọ ký như thế?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát đó, bèn nói rằng: Các thiện nam tử! Ta và A Nan ở chỗ Đức Phật Không Vương, cùng nhau phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A Nan thường thích đa văn, ta thường siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã sớm thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác, còn A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì tạng pháp của các Đức Phật ở đời vị lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ Tát. Do bổn nguyện xưa như thế, nên hôm nay được thọ ký. A Nan ở trước Đức Phật được nghe Đức Phật thọ ký, và cõi nước trang nghiêm, nguyện cầu đã đầy đủ, trong tâm rất vui mừng được chưa từng có, lập tức, nghĩ nhớ lại tạng pháp của vô lượng nghìn vạn ức các Đức Phật trong quá khứ, thông đạt vô ngại, như hôm nay đã nghe, cũng nhớ biết nguyện xưa.

Bấy giờ, Ngài A Nan nói ra bài kệ rằng:

Thế Tôn rất hi hữu

Khiến con nhớ quá khứ

Vô lượng các Phật pháp

Như pháp nay đã nghe.

Nay con chẳng còn nghi

An trụ nơi Phật đạo

Phương tiện làm thị giả

Hộ trì các Phật pháp.

Bấy giờ, Đức Phật bảo La Hầu La: Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Sẽ cúng dường các Đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của mười thế giới. Thường làm trưởng tử của các Đức Phật, giống như hôm nay vậy. Cõi nước của Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa đó, rất trang nghiêm. Số kiếp tuổi thọ, giáo hóa đệ tử, chánh pháp tượng pháp, cũng giống như Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác, cũng làm trưởng tử cho Đức Phật đó, sau đó sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Khi ta làm thái tử

La Hầu làm trưởng tử

Nay ta thành Phật đạo

Thọ pháp làm pháp tử.

Ở trong đời vị lai

Thấy vô lượng Đức Phật

Làm trưởng tử chư Phật

Một lòng cầu Phật đạo.

Mật hạnh của La Hầu

Chỉ ta mới biết được

Nay làm trưởng tử ta

Thị hiện các chúng sinh.

Vô lượng ức nghìn vạn

Công đức không thể lường

An trụ nơi Phật pháp

Vì cầu đạo vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy bậc hữu học và vô học hai nghìn người, tâm ý nhu hòa, thanh tịnh vắng lặng, một lòng nhìn Đức Phật.

Đức Phật bảo Ngài A Nan: Ông có thấy bậc hữu học và vô học hai nghìn người đây chăng?

Dạ con đã thấy.

Này A Nan! Những người đó, sẽ cúng dường các Đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng, hộ trì tạng pháp, sau đó đồng thời sẽ được thành Phật, trong cõi nước mười phương, đều đồng một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Tuổi thọ một kiếp, cõi nước trang nghiêm, hàng Thanh Văn Bồ Tát, chánh pháp tượng pháp, thảy đều đồng nhau.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Hai nghìn Thanh Văn này

Nay ở trước mặt ta

Thảy đều được thọ ký

Vị lai sẽ thành Phật.

Cúng dường các Đức Phật

Như đã nói ở trên

Hộ trì các tạng pháp

Sau sẽ thành chánh giác.

Trong cõi nước mười phương

Đều đồng một danh hiệu

Đều cùng ngồi đạo tràng

Chứng đắc quả vô thượng.

Đồng hiệu là Bảo Tướng

Cõi nước và đệ tử

Chánh pháp với tượng pháp

Đều đồng chẳng khác biệt.

Đều dùng các thần thông

Độ chúng sinh mười phương

Danh đồn khắp hết thảy

Dần dần vào Niết Bàn.

Bấy giờ, bậc hữu học và vô học hai nghìn người nghe Đức Phật thọ ký, đều vui mừng hớn hở, bèn nói kệ rằng:

Thế Tôn đèn huệ sáng

Chúng con nghe thọ ký

Tâm vui mừng tràn đầy

Như được rưới cam lồ.

***

Phẩm Pháp Sư thứ Mười

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Bồ Tát Dược Vương, mà bảo tám vạn Đại sĩ rằng: Dược Vương! Ông thấy đó, trong đại chúng vô lượng chư Thiên, Long vương, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, và chẳng phải người, và hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, kẻ cầu Thanh Văn, kẻ cầu Bích Chi Phật, kẻ cầu Phật đạo, các loài như thế, đều ở trước Phật, nghe một câu, một bài kệ Kinh Pháp Hoa, cho đến một niệm tùy hỉ, ta đều thọ ký cho họ, sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Phật bảo Dược Vương: Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nào, dù chỉ nghe được một câu, một bài kệ của Kinh Pháp Hoa, mà sinh một niệm tùy hỉ, thì ta cũng thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác cho người đó. Nếu lại có người: Thọ trì, đọc tụng, giải thích, diễn nói, biên chép, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, mà ở nơi kinh này, cung kính xem như Phật. Cúng dường các thứ hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, cho đến chắp tay cung kính.

Dược Vương nên biết! Những người đó, tức đã từng cúng dường mười vạn ức các Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật thành tựu nguyện lớn, vì thương xót chúng sinh, nên sinh vào thế gian này.

Dược Vương! Nếu có người hỏi: Những chúng sinh nào ở đời vị lai sẽ được thành Phật? Thì nên chỉ những người đó ở đời vị lai, tất sẽ được thành Phật. Tại sao? Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì đọc tụng giải thích nói Kinh Pháp Hoa, dù chỉ một câu, hoặc dùng các thứ: Hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, âm nhạc, để cúng dường kinh quyển, chắp tay cung kính, thì người đó, là chỗ đáng chiêm ngưỡng tôn thờ của tất cả thế gian, nên đem đồ cúng dường Như Lai, mà cúng dường cho người đó. Nên biết người đó là đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thương xót chúng sinh mà nguyện sinh vào thế gian này, để rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hà huống là người hay thọ trì, và dùng các thứ cúng dường.

Dược vương! Nên biết người đó, tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta diệt độ, vì thương xót chúng sinh, mà sinh vào đời ác, để rộng nói kinh này. Sau khi ta diệt độ, nếu người thiện nam, người thiện nữ, hay riêng vì một người nói Kinh Pháp Hoa, cho dù một câu, nên biết người đó, là sứ giả của Như Lai, được Như Lai sai khiến, làm việc của Như Lai, hà huống ở trong đại chúng rộng vì người nói.

Dược Vương! Nếu có kẻ ác dùng tâm bất thiện, ở trong một kiếp hiện thân ở trước Phật, thường hủy báng mắng chưởi Phật, tội của người đó còn nhẹ. Nếu có người, dùng lời ác hủy báng mắng chưởi người tại gia, hoặc xuất gia, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì tội đó nặng hơn.

Dược Vương! Nếu có người hay trì tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên biết người đó, dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang nghiêm cho mình, tức được mang vác trên vai của Như Lai, người đó đến đâu, đều nên hướng người đó làm lễ. Một lòng chắp tay, cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi, dùng hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, cỗ tiệc, tấu các âm nhạc, đem đồ tối thượng trong thế gian, để cúng dường người đó. Nên dùng hoa báu cõi trời rải lên thân người đó, vì người đó là báu tụ trên trời, nên cúng dường như thế. Tại sao? Vì người đó ưa thích thuyết pháp, khiến cho người nghe trong chốc lát, liền được rốt ráo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu muốn trụ Phật đạo

Thành tựu trí tự nhiên

Luôn siêng năng cúng dường

Người thọ trì Pháp Hoa.

Có người muốn mau được

Nhất thiết chủng trí huệ

Nên thọ trì kinh này

Và cúng dường người trì.

Nếu có người thọ trì

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Đó là sứ của Phật

Thương xót các chúng sinh.

Những người hay thọ trì

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Xả bỏ cõi thanh tịnh

Thương chúng sinh vào đời.

Nên biết người như thế

Chỗ muốn sinh tự tại

Ở trong đời ác này

Rộng nói pháp vô thượng.

Nên dùng hương hoa trời

Và y báu cõi trời

Diệu báu tụ trên trời

Cúng dường người thuyết pháp.

Đời ác sau ta diệt

Người hay trì kinh này

Nên chắp tay kính lễ

Như cúng dường Thế Tôn.

Bày tiệc ngon thượng hạng

Và các thứ y phục

Cúng dường Phật tử đó

Mong được chốc lát nghe.

Nếu người ở đời sau

Hay thọ trì kinh này

Ta phái họ trong đời

Làm việc của Như Lai.

Nếu ở trong một kiếp

Thường ôm lòng bất thiện

Nổi giận mà mắng Phật

Mắc vô lượng tội nặng.

Nếu có người trì tụng

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Chốc lát dùng lời mắng

Tội này lại hơn kia.

Có người cầu Phật đạo

Mà ở trong một kiếp

Chắp tay ở trước ta

Dùng vô số kệ khen.

Do vì khen ngợi Phật

Được vô lượng công đức

Khen tốt người trì kinh

Phước này lại hơn kia.

Trong tám vạn ức kiếp

Dùng sắc thanh diệu nhất

Cùng với hương vị xúc

Cúng dường người trì kinh.

Cúng dường như thế rồi

Nếu chốc lát được nghe

Thì nên tự vui mừng

Nay ta được lợi lớn.

Dược Vương! Nay bảo ông

Các kinh của ta nói

Mà ở trong các kinh

Pháp Hoa là bậc nhất.

Bấy giờ, Đức Phật lại bảo đại Bồ Tát Dược Vương rằng: Kinh điển của ta nói vô lượng ngàn vạn ức, đã nói nay nói và sẽ nói, mà ở trong các kinh đó, thì Kinh Pháp Hoa khó tin khó hiểu nhất.

Dược Vương! Kinh này là tạng bí yếu của chư Phật, không thể phân chia vọng trao cho người, là kinh được các đức Phật giữ gìn bảo hộ. Từ xưa đến nay chưa từng bày nói, mà kinh này lúc Như Lai còn hiện tại, đã có nhiều kẻ oán ghét, huống chi sau khi Như Lai diệt độ.

Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ, ai hay biên chép thọ trì đọc tụng cúng dường, vì người khác nói bộ kinh này, thì được Đức Như Lai lấy y trùm cho, lại được các Đức Phật ở phương khác hộ niệm cho, người đó có sức tin lớn và sức chí nguyện, các sức căn lành. Nên biết người đó, cùng với Đức Như Lai ở chung, được Đức Như Lai lấy tay rờ đầu người đó.

Dược Vương! Bất cứ nơi chốn nào, hoặc có người nói, đọc tụng, biên chép, hoặc có quyển kinh này ở đó, thì nên xây dựng tháp bảy báu cho thật cao rộng trang nghiêm, không cần an trí xá lợi nữa. Tại sao? Vì trong đó đã có toàn thân của Như Lai. Tháp đó nên dùng tất cả các hoa, hương, anh lạc, lọng lụa, tràng phan, âm nhạc, ca xướng, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi. Nếu có ai thấy được tháp này, mà lễ bái cúng dường, thì nên biết những người đó, đều gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Dược Vương! Có nhiều người tại gia, hoặc xuất gia, thực hành Bồ Tát đạo, nếu không thể thấy nghe được người đọc tụng biên chép thọ trì cúng dường Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, chưa khéo hành Bồ Tát đạo. Nếu có người nghe kinh điển này, thì mới khéo thực hành Bồ Tát đạo. Nếu có chúng sinh cầu Phật đạo, nếu thấy hoặc nghe được Kinh Pháp Hoa này, người đó nghe rồi, tin hiểu thọ trì, nên biết người đó, gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Dược Vương! Ví như có người khát nước, ở nơi vùng cao nguyên đào khoét tìm nước, thấy đất còn khô, biết nước còn xa, cố gắng đào không ngừng, bèn thấy đất ướt, dần dần đến bùn, tâm người đó biết chắc sắp tới nước. Bồ Tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu, chưa thể tu tập Kinh Pháp Hoa này, thì cách quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác còn xa. Nếu được nghe hiểu suy nghĩ tu tập, thì biết được gần quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tại sao? Vì tất cả Bồ Tát chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều thuộc nơi kinh này. Kinh này khai mở môn phương tiện, mở bày tướng chân thật. Tạng Kinh Pháp Hoa này sâu xa vững chắc, chẳng ai đến được. Nay Phật vì giáo hóa thành tựu Bồ Tát mà mở bày.

Dược Vương ! Nếu có Bồ Tát nghe Kinh Pháp Hoa này, mà kinh hãi hoài nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này, mà kinh hãi hoài nghi sợ sệt, thì nên biết người đó là kẻ tăng thượng mạn.

Dược Vương! Nếu có người thiện nam, người nữ nào, sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng nói Kinh Pháp Hoa này, thì người thiện nam, thiện nữ đó, phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng rộng nói kinh này. Nhà Như Lai là có tâm đại từ bi đối với tất cả chúng sinh. Y Như Lai là tâm nhu hòa nhẫn nhục. Tòa Như Lai là tất cả các pháp không. An trụ ở trong đó, rồi sau đó dùng tâm không giải đãi, mà vì các Bồ Tát và bốn chúng, rộng nói Kinh Pháp Hoa này.

Dược Vương! Ta ở nơi nước khác, sai người biến hóa đến để nghe pháp, và cũng sai Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đến nghe người đó nói pháp. Những người biến hóa đó, nghe pháp tin nhận, tùy thuận chẳng nghịch. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, thì ta rộng sai trời, rồng, quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, đến để nghe nói pháp. Tuy ta ở nước khác, nhưng luôn luôn khiến cho người nói pháp, được thấy thân ta. Nếu ở nơi kinh này, quên mất câu kinh văn, thì ta sẽ vì người đó nói, khiến cho được đầy đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Muốn lìa sự giải đãi

Hãy nên nghe kinh này

Kinh rất khó được nghe

Tin nhận được cũng khó.

Như người khát tìm nước

Đào khoét nơi cao nguyên

Do thấy đất còn khô

Biết rằng nước còn xa

Dần thấy đất bùn ướt

Biết chắc chắn gần nước.

Dược Vương ông nên biết!

Tất cả những người đó

Không nghe Kinh Pháp Hoa

Cách trí Phật rất xa.

Nếu nghe sâu kinh này

Chắc rõ pháp Thanh Văn

Là vua trong các kinh

Nghe rồi suy gẫm kỹ.

Nên biết những người đó

Gần kề trí huệ Phật.

Nếu người nói kinh này

Nên vào nhà Như Lai

Mặc y của Như Lai

Ngồi tòa của Như Lai.

Trong chúng chẳng sợ sệt

Rộng vì phân biệt nói

Đại từ bi làm nhà

Y nhu hòa nhẫn nhục.

Các pháp không làm tòa

Nơi đó vì nói pháp

Nếu khi nói kinh này

Có người ác khẩu mắng.

Như đao gậy gói đá

Vì nhớ Phật nên nhẫn.

Ta ngàn vạn ức cõi

Hiện thân tịnh kiên cố

Nơi vô lượng ức kiếp

Vì chúng sinh nói pháp.

Nếu sau ta diệt độ

Người nói được kinh này

Ta sai hóa bốn chúng

Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni.

Và cư sĩ nam nữ

Cúng dường pháp sư đó

Dẫn đạo các chúng sinh

Tập hợp khiến nghe pháp.

Nếu có kẻ ác hại

Dùng đao gậy ngói đá

Thì ta sai hóa nhân

Để bảo hộ người đó.

Nếu người đó nói pháp

Một mình nơi chỗ vắng

Vắng vẻ chẳng người nghe

Đọc tụng kinh điển này.

Bấy giờ ta sẽ hiện

Thân thanh tịnh quang minh

Nếu quên mất chương câu

Vì nói khiến thông lợi.

Nếu người đủ đức hạnh

Hoặc vì bốn chúng nói

Nơi vắng đọc tụng kinh

Đều được thấy thân ta.

Nếu người nơi chỗ vắng

Ta sai trời long vương

Dạ xoa quỷ thần thảy

Để làm chúng nghe pháp.

Người đó thích nói pháp

Phân biệt chẳng quái ngại

Vì chư Phật hộ niệm

Hay khiến đại chúng vui.

Nếu gần gũi pháp sư

Mau được Bồ Tát đạo

Tùy thuận thầy đó học

Được thấy Hằng sa Phật.

***

Phẩm Thấy Bảo Tháp thứ Mười Một

Bấy giờ, ở trước Đức Phật, có tháp bảy báu cao năm trăm do tuần, bề ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất vọt lên, trụ ở trong hư không, đủ thứ các báu vật nghiêm sức rất trang nghiêm. Có năm ngàn lan can, ngàn vạn phòng ốc, vô số tràng phan, dùng để nghiêm sức, chuỗi báu rũ xuống, hàng vạn ức linh báu treo trên tháp, bốn mặt đều tỏa ra hương thơm đa ma la bạt chiên đàn, xông khắp thế giới. Các phan lọng đều dùng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi, bảy báu, hợp lại tạo thành, cao đến cung trời Tứ Thiên Vương. Trời Đao Lợi mưa xuống hoa trời mạn đà la, để cúng dường bảo tháp. Ngoài ra, các trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người, chẳng phải người, cả thảy ngàn vạn ức chúng, đều đem tất cả hoa, hương, anh lạc, phan lọng, âm nhạc, cúng dường bảo tháp, cung kính tôn trọng khen ngợi.

Bấy giờ, trong bảo tháp vang ra âm thanh lớn khen rằng: Lành thay, lành thay! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hay dùng đại trí huệ bình đẳng, để giáo hóa pháp của Bồ Tát, được Phật hộ niệm Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, mà vì đại chúng nói. Như thế, như thế! Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, như lời của Ngài nói, đều là chân thật.

Bấy giờ, bốn chúng đều thấy bảo tháp lớn trụ ở trong hư không, lại nghe trong tháp vang ra âm thanh, thảy đều được pháp hỉ, lạ chưa từng có, từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, rồi đứng về một bên.

Bấy giờ, có đại Bồ Tát tên là Đại Nhạo Thuyết, biết được chỗ nghi ngờ ở trong tâm của tất cả thế gian trời người A tu la, bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì, mà có bảo tháp này từ dưới đất vọt lên, và ở trong đó lại phát ra âm thanh?

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: Trong bảo tháp này có toàn thân của Như Lai, thuở quá khứ về phương đông, qua vô lượng ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước tên là Bảo Tịnh. Trong cõi nước đó, có đức Phật hiệu là Đa Bảo. Đức Phật đó, khi hành Bồ Tát đạo, có phát thệ nguyện lớn rằng: Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, trong cõi nước mười phương, nơi nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì tháp miếu của ta vì nghe kinh này, mà vọt lên hiện ra ở trước, để làm chứng minh, khen ngợi nói: Lành thay!

Đức Phật đó thành đạo rồi, khi diệt độ, ở trong đại chúng trời người, bảo các Tỳ Kheo rằng: Sau khi ta diệt độ, ai muốn cúng dường toàn thân của ta, thì nên xây một ngôi tháp lớn. Phật sẽ dùng thần thông nguyện lực, khắp nơi trong mười phương thế giới, nếu chỗ nào có nói Kinh Pháp Hoa, thì bảo tháp đó đều vọt lên ở trước. Toàn thân ở trong bảo tháp khen ngợi nói: Lành thay, lành thay!

Đại Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đức Đa Bảo Như Lai, vì nghe nói Kinh Pháp Hoa, nên từ dưới đất vọt lên, khen ngợi nói: Lành thay, lành thay!

Bấy giờ, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nhờ thần lực của Như Lai, nên bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con xin muốn được thấy thân của Đức Phật đó.

Đức Phật bảo đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: Đức Phật Đa Bảo đó, có nguyện sâu nặng rằng: Nếu bảo tháp của ta, vì nghe Kinh Pháp Hoa, mà hiện ra ở trước các Đức Phật. Nếu có bốn chúng muốn thấy thân của ta, thì Đức Phật đó, phân thân các Đức Phật thuyết pháp trong mười phương thế giới, phải tụ hết lại một chỗ, sau đó thân của ta mới xuất hiện vậy.

Đại Nhạo Thuyết! Phân thân các Đức Phật của ta, đang thuyết pháp trong mười phương thế giới, nay sẽ tụ lại hết.

Đại Nhạo Thuyết bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con cũng muốn thấy phân thân các Đức Phật của Đức Thế Tôn, để lễ lạy cúng dường.

Bấy giờ, Đức Phật phóng luồng hào quang trắng chiếu phương đông, năm trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa cõi nước chư Phật, các cõi nước đó, đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu, dùng để trang nghiêm. Có vô số ngàn vạn ức Bồ Tát đầy khắp trong cõi nước đó, màng báu lưới báu giăng che khắp ở phía trên. Các Đức Phật cõi nước đó, dùng âm thanh lớn vi diệu để nói các pháp, và thấy vô lượng ngàn vạn ức Bồ Tát, đầy khắp các cõi nước, vì chúng sinh mà nói pháp.

Phương nam tây bắc tứ duy thượng hạ, chỗ nào tướng hào quang trắng chiếu đến, cũng lại như thế.

Bấy giờ, mười phương chư Phật đều nói với chúng Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Hôm nay ta đến thế giới Ta Bà, chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và cúng dường bảo tháp của Đức Đa Bảo Như Lai.

Bấy giờ, thế giới Ta Bà lập tức biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, dây bằng vàng giăng bày tám ngã đường, chẳng có các tụ lạc thôn xóm, thành ấp biển cả sông ngòi núi rừng ao đầm. Đốt hương báu lớn, dùng hoa mạn đà la rải khắp trên mặt đất, lại dùng lưới báu và màn lụa giăng che, phía trên treo các linh báu, chỉ vang ra ở trong chúng hội, dời các trời người để ở cõi khác.

Bấy giờ, các Đức Phật, mỗi vị đều đem theo một vị đại Bồ Tát, dùng làm thị giả, đến thế giới Ta Bà, đều đến dưới cây báu. Mỗi cây báu cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới các cây báu, đều có toà sư tử cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu để nghiêm sức.

Bấy giờ, các Đức Phật đều ngồi kiết già trên tòa sư tử đó, triển chuyển như thế đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, mà phân thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong một phương, vẫn còn chưa hết.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca vì muốn dung chứa hết thảy phân thân các hóa Phật, nên tám phương kia, mỗi phương đều biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngã quỷ súc sinh và A tu la, lại dời các trời người để ở cõi khác. Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả, thứ lớp trang nghiêm, dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, đủ các thứ báu dùng làm nghiêm sức. Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Đại mục chân lân đà, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa .v.v… thảy đều làm một cõi nước Phật, đất báu bằng phẳng, các báu xen nhau làm màn giăng che khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn. Các hoa báu cõi trời rải khắp trên mặt đất. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các Đức Phật phân thân có chỗ ngồi, nên tám phương kia, mỗi phương lại biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều khiến cho thanh tịnh, chẳng có địa ngục ngạ quỷ súc sinh và A tu la. Lại dời các trời người để ở cõi khác. Những cõi nước biến hóa ra, cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm. Cây cao năm trăm do tuần, cành lá hoa quả thứ lớp trang nghiêm. Dưới cây đều có tòa báu sư tử, cao năm do tuần, cũng dùng các thứ báu nghiêm sức tốt đẹp. Cũng không có biển cả sông ngòi, và núi Mục chân lân đà, núi Đại mục chân lân đà, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Tu di, các núi chúa thảy, thông làm một cõi Phật. Đất báu bằng phẳng, các thứ báu xen nhau làm thành màn, giăng che phủ khắp ở phía trên, lại treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các thứ hoa báu cõi trời rải đầy khắp mặt đất.

Bấy giờ, các Đức Phật phân thân của Phật Thích Ca Mâu Ni ở phương đông, trong trăm vạn ức Na do tha cõi nước, mỗi vị đang thuyết pháp ở cõi đó, đều tụ tập lại. Như thế lần lượt các Đức Phật trong mười phương, cũng đều tụ tập lại ngồi ở tại tám phương.

Bấy giờ, tại mỗi phương đều có bốn trăm vạn ức Na do tha cõi nước, các Đức Phật Như Lai đều đầy khắp trong đó.

Bấy giờ, các Đức Phật đều ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, rồi sai thị giả đến thưa hỏi Đức Phật Thích Ca, và đều đưa cho một bó hoa báu, mà dặn dò rằng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ của Phật Thích Ca Mâu Ni, theo như lời của ta nói rằng: Đức Thế Tôn ít bệnh, ít khổ não, sức khỏe an vui chăng? Các chúng Bồ Tát Thanh Văn đều an ổn chăng? Dùng hoa báu này rải lên cúng dường Đức Phật, rồi bạch rằng: Đức Phật đó cũng muốn mở bảo tháp này, các Đức Phật sai sứ đến cũng lại như thế.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thấy tất cả chư Phật phân thân, đều đã tụ lại, đều ngồi trên tòa sư tử, đều nghe các Đức Phật cùng muốn mở bảo tháp. Bèn từ tòa đứng dậy, trụ ở trong hư không, tất cả bốn chúng đều đứng dậy, chắp tay một lòng nhìn Phật.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng tay phải, mở cửa tháp bảy báu vang ra âm thanh lớn, như tháo chốt mở cửa thành lớn.

Bấy giờ, tất cả đại chúng trong pháp hội, đều thấy Đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong bảo tháp, toàn thân không tán hoại, như nhập thiền định. Lại nghe Đức Đa Bảo Như Lai nói: Lành thay, lành thay! Phật Thích Ca Mâu Ni, xin hãy mau nói Kinh Pháp Hoa, ta vì nghe kinh này mà đến đây.

Bấy giờ, bốn chúng thấy Phật đã diệt độ trong quá khứ, vô lượng ngàn vạn ức kiếp nói lời như thế, khen chưa từng có. Đại chúng đều đem hoa báu cõi trời, tụ lại rải lên trên Đức Phật Đa Bảo, và Phật Thích Ca Mâu Ni.

Bấy giờ, Đức Phật Đa Bảo ở trong bảo tháp, chia nửa tòa ngồi cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mà nói rằng: Phật Thích Ca Mâu Ni, hãy lên ngồi trên tòa này. Tức thời, Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong bảo tháp đó, ngồi kiết già trên nửa tòa đó.

Bấy giờ, đại chúng thấy hai Đức Như Lai ngồi kiết già trên tòa sư tử trong tháp bảy báu, ai nấy đều nghĩ: Đức Phật ngồi quá cao xa, xin nguyện Đức Như Lai dùng sức thần thông, khiến cho tất cả chúng con đều đến trong hư không.

Tức thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng sức thần thông, tiếp các đại chúng đều đến trong hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp bốn chúng: Ai có thể ở cõi Ta Bà này, mà rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì nay chính là phải thời. Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn, Phật muốn đem Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, phó chúc cho mọi người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Thánh chúa Thế Tôn

Tuy diệt độ lâu

Ở trong bảo tháp

Còn vì pháp đến.

Các ngươi thế nào

Chẳng siêng vì pháp!

Phật đó diệt độ

Vô lượng số kiếp

Khắp nơi nghe pháp

Vì khó được gặp.

Nguyện xưa Phật đó

Sau khi ta diệt

Đến khắp mọi nơi

Thường vì nghe pháp.

Ta lại phân thân

Vô lượng chư Phật

Như cát sông Hằng

Đến muốn nghe pháp.

Và thấy Đa Bảo

Như Lai diệt độ

Đều bỏ cõi nước

Và chúng đệ tử.

Trời người rồng thần

Các sự cúng dường

Khiến pháp trụ lâu

Nên đến nơi này.

Vì chư Phật ngồi

Mà dùng thần thông

Dời vô lượng chúng

Khiến nước thanh tịnh.

Mỗi mỗi vị Phật

Đến dưới cây báu

Như đất thanh tịnh

Hoa sen trang nghiêm.

Phật ngồi ở trên

Tòa báu sư tử

Dưới các cây báu

Quang minh nghiêm sức.

Như trong đêm tối

Đốt đuốc lửa lớn.

Thân tỏa hương thơm

Khắp mười phương cõi.

Chúng sinh ngửi được

Thảy đều vui mừng

Ví như gió lớn

Thổi nhánh cây nhỏ.

Do phương tiện đó

Khiến pháp trụ lâu.

Bảo các đại chúng:

Ta diệt độ rồi.

Ai hay thọ trì

Đọc nói kinh này

Nay ở trước Phật

Tự phát thệ nguyện.

Phật Đa Bảo đó

Tuy diệt độ lâu.

Nhờ thệ nguyện lớn

Mà sư tử hống

Đa Bảo Như Lai

Cùng với thân ta.

Tụ tập hóa Phật

Sẽ biết ý đó.

Các Phật tử thảy

Ai hay hộ pháp.

Nên phát nguyện lớn

Khiến pháp trụ lâu

Có người hộ trì

Kinh Pháp Hoa này.

Tức là cúng dường

Ta và Đa Bảo.

Phật Đa Bảo đó

Trụ trong bảo tháp.

Thường du mười phương

Để vì kinh này

Cũng lại cúng dường

Các hóa Phật đến.

Trang nghiêm quang sức

Tất cả thế giới

Nếu nói kinh này

Tức là thấy ta.

Đa Bảo Như Lai

Và các hóa Phật.

Các thiện nam tử!

Hãy suy nghĩ kỹ.

Đây là việc khó

Nên phát nguyện lớn

Các kinh điển khác

Số như Hằng sa.

Tuy nói rất nhiều

Chưa phải là khó.

Nếu cầm Tu Di

Ném qua phương khác.

Vô số cõi Phật

Cũng chưa phải khó

Nếu dùng chân tay

Động cõi đại thiên.

Ném xa cõi khác

Cũng chưa phải khó.

Nếu đứng trên trời

Vì chúng diễn nói.

Vô lượng kinh khác

Cũng chưa phải khó

Nếu Phật diệt độ

Ở trong đời khác.

Hay nói kinh này

Đó mới là khó.

Nếu như có người

Tay cầm hư không.

Dùng để du hành

Cũng chưa phải khó

Sau ta diệt độ

Nếu tự biên trì.

Hoặc khiến người biên

Đó mới là khó.

Nếu dùng đại địa

Để lên bàn chân.

Thăng lên Phạm Thiên

Cũng chưa phải khó

Sau Phật diệt độ

Ở trong đời ác.

Tạm đọc kinh này

Đó mới là khó.

Nếu như kiếp thiêu

Gánh vác cỏ khô.

Vào trong không cháy

Cũng chưa phải khó

Sau ta diệt độ

Nếu trì kinh này.

Vì một người nói

Thì mới là khó.

Nếu trì tám vạn

Bốn ngàn tạng pháp.

Mười hai bộ kinh

Vì người diễn nói

Khiến các người nghe

Được sáu thần thông.

Tuy được như thế

Cũng chưa phải khó

Sau ta diệt độ

Nghe thọ kinh này.

Hỏi nghĩa trong kinh

Đó mới là khó.

Nếu người nói pháp

Khiến ngàn vạn ức.

Vô lượng vô số

Hằng sa chúng sinh

Được A la hán

Đủ sáu thần thông.

Tuy có lợi ích

Cũng chưa phải khó

Sau ta diệt độ

Nếu hay phụng trì.

Kinh Pháp Hoa này

Đó mới là khó.

Ta vì Phật đạo

Trong vô lượng cõi

Từ xưa đến nay

Rộng nói các kinh.

Mà ở trong đó

Kinh này bậc nhất

Nếu người hay trì

Tức là thân Phật.

Các thiện nam tử!

Sau ta diệt độ

Ai hay thọ trì

Đọc tụng kinh này.

Nay ở trước Phật

Tự nói lời thề.

Kinh này khó trì

Nếu ai tạm trì.

Ta rất hoan hỉ

Chư Phật cũng thế

Những người như thế

Được Phật khen ngợi.

Đó là dũng mãnh

Đó là tinh tấn

Đó gọi trì giới

Người hành đầu đà.

Thì mau đắc được

Phật đạo vô thượng.

Hay ở đời sau

Đọc trì kinh này.

Đó thật Phật tử

Ở thuần đất lành

Sau Phật diệt độ

Hay giải nghĩa kinh.

Các trời người đó

Là mắt thế gian

Ở đời sợ hãi

Nói trong chốc lát.

Tất cả trời người

Đều nên cúng dường.

***

Phẩm Đề Bà Đạt Đa thứ Mười Hai

Bấy giờ, Phật bảo các vị Bồ Tát và trời người bốn chúng: Ta ở trong vô lượng kiếp quá khứ, cầu Kinh Pháp Hoa chẳng khi nào lười mỏi. Ở trong nhiều kiếp thường làm vua, phát nguyện cầu vô thượng bồ đề, tâm chẳng thối chuyển, vì muốn đầy đủ sáu Ba la mật, tâm chẳng xan tham, nên siêng thực hành bố thí: Voi ngựa bảy báu, đất nước vợ con, nô tì tôi tớ, đầu mắt tủy não, thân thịt tay chân, chẳng tiếc thân mạng.

Thuở đó, nhân dân sống lâu vô lượng. Vì cầu pháp mà xả bỏ ngôi vua, giao phó lại cho thái tử, đánh trống tuyên cáo, cầu pháp khắp bốn phương rằng: Ai có thể vì ta nói pháp đại thừa, thì ta sẽ suốt đời hầu hạ cung phụng người đó.

Bấy giờ, có vị tiên nhân đến bạch với vua rằng: Ta có pháp đại thừa tên là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu không làm trái ý của ta, thì ta sẽ vì nhà ngươi mà nói. Vua nghe vị tiên nói rất vui mừng hớn hở, bèn đi theo vị tiên nhân, cung phụng hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu cơm, cho đến dùng thân mà làm giường tòa, thân tâm chẳng biết mệt mỏi, phụng sự như thế trải qua một ngàn năm, vì cầu pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ, khiến cho vị tiên nhân chẳng thiếu thốn gì cả.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Ta nhớ kiếp quá khứ

Vì cầu pháp đại thừa

Tuy làm vua trong đời

Chẳng tham vui năm dục.

Đánh trống khắp bốn phương

Ai có pháp đại thừa

Nếu vì ta giải nói

Ta sẽ làm tôi tớ.

Bèn có tiên A Tư

Đến bạch với vua rằng:

Ta có pháp vi diệu

Hiếm có ở trong đời.

Nếu mà tu hành được

Ta sẽ vì ngươi nói.

Khi vua nghe tiên nói

Trong tâm rất vui mừng.

Lập tức theo tiên nhân

Cung cấp thứ cần dùng

Nhặt củi và hái quả

Theo lời cung kính dâng.

Vì muốn cầu diệu pháp

Thân tâm chẳng mệt mỏi

Khắp vì các chúng sinh

Siêng cầu pháp đại thừa.

Cũng chẳng vì thân mình

Và cầu vui năm dục

Nên làm đại quốc vương

Siêng cầu được pháp này.

Cuối cùng được thành Phật

Nên nay vì ông nói.

Phật bảo các Tỳ Kheo: Ông vua thuở đó chính là thân ta, còn vị tiên đó, nay là Đề Bà Đạt Đa vậy. Do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa, mà khiến cho ta đầy đủ sáu Ba la mật, từ bi hỉ xả, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, được thân màu vàng tía, mười lực, bốn vô sở úy, bốn pháp nhiếp, mười tám pháp bất cộng, thần thông, thành đẳng chánh giác, rộng độ chúng sinh, đều do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa vậy.

Đức Phật lại bảo bốn chúng: Đề Bà Đạt Đa qua vô lượng kiếp sau này, sẽ được thành Phật, hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thiên Đạo. Phật Thiên Vương đó sống lâu ở đời hai mươi trung kiếp. Rộng vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Chúng sinh nhiều như số cát sông Hằng, đều đắc được quả A la hán. Vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên Giác, nhiều chúng sinh như số cát sông Hằng, phát tâm vô thượng đạo, được vô sinh nhẫn, cho đến bất thối chuyển. Sau khi Phật Thiên Vương đó vào Niết Bàn, chánh pháp lưu lại ở đời hai mươi trung kiếp. Toàn thân xá lợi được tạo dựng tháp bằng bảy báu, cao sáu mươi do tuần, bề ngang rộng bốn mươi do tuần. Chư thiên nhân dân đều dùng các thứ: Hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, âm nhạc, ca xướng, lễ bái cúng dường tháp báu. Vô lượng chúng sinh được quả A la hán, vô lượng chúng sinh ngộ Bích Chi Phật, có nhiều chúng sinh không thể nghĩ bàn phát bồ đề tâm, đến quả vị bất thối chuyển.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào, nghe Kinh Pháp Hoa Phẩm Đề Bà Đạt Đa, mà tâm tin kính thanh tịnh, chẳng sinh tâm nghi hoặc, thì chẳng đọa vào địa ngục ngạ quỷ súc sinh, được sinh ở trước mười phương chư Phật, chỗ được sinh về thường nghe Kinh này. Nếu sinh trong loài người, trên trời, thì được hưởng sự vui thù thắng vi diệu. Nếu sinh ở trước chư Phật, thì được hoa sen hóa sinh.

Lúc đó, phương dưới Đức Đa Bảo Thế Tôn, có vị Bồ Tát đi theo tên là Trí Tích, bạch Đức Phật Đa Bảo để trở về bổn quốc, thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Trí Tích rằng: Thiện nam tử! Hãy đợi chốc lát, sẽ có Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi, có thể gặp nhau luận bàn về diệu pháp, rồi hãy trở về bổn quốc.

Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ngồi trên hoa sen báu ngàn cánh, lớn như bánh xe, những Bồ Tát cùng đến, cũng ngồi trên hoa sen báu. Từ biển long cung Ta Kiệt La, tự nhiên vọt ra trụ ở trong hư không, đi thẳng đến núi Linh Thứu. Từ hoa sen bước xuống, đến ở trước Phật, đầu mặt kính lễ dưới chân hai vị Thế Tôn, làm lễ xong rồi, đến chỗ Bồ Tát Trí Tích cùng nhau thăm hỏi, bèn ngồi qua một bên. Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Ngài đến long cung giáo hóa chúng sinh, số được bao nhiêu? Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Số nhiều vô lượng, không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm đo lường được, hãy đợi chốc lát tự nhiên sẽ biết. Nói chưa dứt lời, thì có vô số Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu, từ dưới biển vọt lên, đến núi Linh Thứu, trụ ở trong hư không. Các vị Bồ Tát đó, đều do Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ Tát, đều cùng đàm luận nói sáu Ba la mật. Họ vốn là hàng Thanh Văn, ở trong hư không nói hạnh Thanh Văn, nay đều tu hành nghĩa không của đại thừa. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Trí Tích rằng: Việc giáo hóa ở trong biển là như thế.

Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích dùng kệ để khen ngợi rằng:

Đại trí đức dũng mãnh

Hóa độ vô lượng chúng

Nay trong đại hội này

Ta đều đã thấy hết.

Diễn nói nghĩa thật tướng

Mở bày pháp một thừa

Rộng độ các chúng sinh

Khiến mau thành bồ đề.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói: Tôi ở trong biển chỉ thường nói Kinh Pháp Hoa.

Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Kinh này thâm sâu vi diệu, là báu trong các kinh, ít có ở trong đời. Nếu có chúng sinh siêng năng tinh tấn tu hành kinh này, thì mau được thành Phật chăng?

Bồ Tát Văn Thù đáp: Có con gái của Long Vương Ta Kiệt La, mới tám tuổi mà trí huệ lanh lợi, khéo biết các căn hành nghiệp của chúng sinh, được Đà la ni, hay thọ trì pháp bí tàng thâm sâu của các Đức Phật nói, vào sâu thiền định, thấu hiểu thông đạt các pháp, trong khoảng sát na phát tâm bồ đề, được chẳng thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sinh như con đỏ, công đức đầy đủ, trong tâm nhớ pháp, miệng diễn nói pháp vi diệu rộng lớn, từ bi đối với tất cả chúng sinh, ý chí nhu hòa, đến được bồ đề.

Bồ Tát Trí Tích nói: Tôi thấy Đức Thích Ca Như Lai trong vô lượng kiếp, làm những việc khó làm, tích lũy công đức, cầu đạo bồ đề chưa từng nghỉ ngơi. Tôi quán ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến chẳng có nơi nào nhỏ như hạt cải, mà chẳng phải là nơi Bồ Tát vì chúng sinh xả bỏ thân mạng, rồi sau đó mới thành tựu đạo bồ đề, tôi không tin cô Long Nữ này, trong chốc lát mà được thành chánh giác.

Nói chưa xong thì Long Nữ đột nhiên hiện ra ở trước, đầu mặt lễ kính Đức Phật, rồi đứng qua một bên, bèn dùng kệ khen ngợi rằng:

Thông đạt tướng tội phước

Chiếu khắp mười phương cõi

Pháp thân tịnh vi diệu

Đủ ba mươi hai tướng.

Và tám mươi vẻ đẹp

Dùng trang nghiêm pháp thân

Chỗ trời người kính ngưỡng

Rồng thần đều cung kính.

Hết thảy loài chúng sinh

Chẳng ai không sùng bái

Lại nghe thành bồ đề

Chỉ Phật chứng biết được.

Con nói pháp đại thừa

Độ thoát chúng sinh khổ.

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nói với Long Nữ rằng: Cô nói chẳng bao lâu cô đắc được vô thượng đạo, đó là việc khó tin. Tại sao? Vì thân người nữ dơ bẩn, chẳng phải pháp khí, sao lại có thể đắc được Vô thượng bồ đề? Phật đạo lâu xa, phải trải qua vô lượng kiếp tinh tấn siêng tu khổ hạnh, tu đủ các Ba la mật, sau đó mới thành. Hơn nữa, thân người nữ có năm điều chướng ngại: Thứ nhất chẳng được làm Phạm Thiên Vương, thứ hai chẳng được làm Đế Thích, thứ ba chẳng được làm ma vương, thứ tư chẳng được làm Chuyển luân thánh vương, thứ năm không thể thành Phật. Sao thân nữ lại mau được thành Phật?

Bấy giờ, Long Nữ có một hạt bảo châu, giá trị ba ngàn đại thiên thế giới, cầm dâng lên Đức Phật, Đức Phật bèn thọ nhận. Long Nữ bảo Bồ Tát Trí Tích và tôn giả Xá Lợi Phất rằng: Tôi cúng hạt bảo châu, Đức Thế Tôn thọ nhận, việc đó có mau chăng ?

Đáp rằng: Rất mau.

Long nữ nói: Dùng thần lực của các Ngài để quán sát tôi thành Phật, còn mau hơn việc đó.

Lúc đó, trong chúng hội đều thấy Long nữ đột nhiên biến thành thân nam, đầy đủ hạnh Bồ Tát, bèn đi qua phương nam thế giới Vô Cấu, ngồi trên hoa sen báu thành Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, khắp vì hết thảy chúng sinh trong mười phương, mà diễn nói diệu pháp.

Bấy giờ, ở thế giới Ta Bà, hàng Bồ Tát Thanh Văn, Thiên Long bát bộ, người, chẳng phải người, đều thấy Long Nữ thành Phật, khắp vì chúng hội trời người ở cõi đó nói pháp, tâm đều hoan hỉ, đều kính lễ Long Nữ. Vô lượng chúng sinh nghe pháp hiểu rõ tỏ ngộ, được không thối chuyển, vô lượng chúng sinh được thọ ký thành Phật. Thế giới Vô Cấu có sáu thứ chấn động. Thế giới Ta Bà có ba ngàn chúng sinh được bất thối chuyển, ba ngàn chúng sinh phát tâm bồ đề, mà được thọ ký. Bồ Tát Trí Tích và Xá Lợi Phất, tất cả chúng hội đều yên lặng tin nhận.

***

Phẩm Khuyên Trì thứ Mười Ba

Bấy giờ, đại Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết, cùng hai vạn vị Bồ Tát quyến thuộc, cùng nhau đồng đến trước Đức Phật phát thệ nguyện rằng: Xin nguyện Đức Thế Tôn, đừng lấy làm lo lắng, sau khi Đức Phật diệt độ, chúng con sẽ phụng trì đọc tụng diễn nói kinh này. Chúng sinh đời ác sau này, căn lành dần dần bớt đi, tăng nhiều thượng mạn, tham lợi cúng dường, tăng trưởng căn chẳng lành, xa lìa giải thoát. Tuy khó có thể giáo hóa, nhưng chúng con sẽ khởi sức nhẫn nhục lớn, đọc tụng kinh này, biên chép giải nói, đủ thứ cúng dường, chẳng tiếc thân mạng.

Bấy giờ, năm trăm vị A la hán ở trong chúng, được thọ ký bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện, ở cõi nước khác rộng nói kinh này.

Lại có bậc hữu học và vô học hai ngàn người được thọ ký, từ tòa ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật phát thệ nguyện nói: Đức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi nước khác, rộng nói kinh này. Tại sao? Vì nhiều người ở thế giới Ta Bà tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng, tâm sân hận ô trược siểm khúc chẳng thật.

Bấy giờ, dì của Đức Phật là Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, với các Tỳ Kheo Ni hữu học và vô học sáu ngàn người, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời.

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Kiều Đàm Di rằng: Sao lại buồn rầu mà nhìn Như Lai? Có phải trong tâm ngươi cho rằng, ta không nói đến tên ngươi, thọ ký quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác chăng?

Kiều Đàm Di! Trước ta đã nói tổng quát, tất cả hàng Thanh Văn đều đã thọ ký. Nay ngươi muốn biết thọ ký chăng? Đời vị lai, ngươi sẽ làm đại pháp sư, ở trong sáu vạn tám ngàn các Phật pháp, và sáu ngàn vị Tỳ Kheo ni hữu học vô học, cũng đều làm pháp sư. Như thế, ngươi dần dần đầy đủ Bồ Tát đạo, sẽ được thành Phật, hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Kiều Đàm Di! Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến đó, và sáu ngàn vị Bồ Tát, lần lượt thọ ký Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bấy giờ, mẹ của La Hầu La Tỳ Kheo ni Gia Du Đà La, nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn thọ ký, mà riêng chẳng nói đến tên tôi.

Phật bảo Gia Du Đà La rằng: Ngươi ở đời vị lai, trong trăm ngàn vạn ức các Phật pháp tu hạnh Bồ Tát, làm đại pháp sư, dần dần đủ Phật đạo, sẽ được thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật đó sống lâu vô lượng A tăng kỳ kiếp.

Bấy giờ, Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề và Tỳ Kheo Ni Gia Du Đà La, cùng với quyến thuộc đều rất hoan hỉ, được chưa từng có, bèn ở trước Đức Phật nói bài kệ rằng:

Đấng Đạo sư Thế Tôn

An ổn các trời người

Chúng con nghe thọ ký

Tâm an đã đầy đủ.

Các Tỳ Kheo ni nói kệ xong, bèn bạch Đức Phật nói: Đức Thế tôn! Chúng con cũng ở nơi cõi nước phương khác, rộng nói kinh này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhìn tám mươi vạn ức Na do tha các vị đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát đó, đều là chuyển bất thối pháp luân, đắc được các Đà la ni, bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật, một lòng chắp tay mà nghĩ như vầy: Nếu Đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì diễn nói kinh này, thì chúng con sẽ y theo lời Phật dạy, mà rộng tuyên nói pháp này. Lại nghĩ như vầy: Nay Đức Phật yên lặng, chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?

Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đó, cung kính thuận theo ý của Đức Phật, và muốn đầy đủ nguyện của mình đã phát ra, bèn ở trước Đức Phật làm sư tử hống, mà phát thệ nguyện rằng: Đức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, để khiến cho chúng sinh, thọ trì đọc tụng biên chép ấn tống giải nói kinh này, theo như pháp mà tu hành, nghĩ nhớ chân chánh, đó đều là oai lực của Đức Phật. Xin nguyện Đức Thế Tôn ở nơi phương khác, trông thấy mà bảo hộ.

Tức thời, các vị Bồ Tát cùng nhau phát ra tiếng, mà nói kệ rằng:

Xin nguyện Phật đừng lo

Sau khi Phật diệt độ

Trong đời ác sợ hãi

Chúng con sẽ rộng nói.

Có những kẻ vô trí

Miệng ác chưởi mắng thảy

Dùng đao gậy đánh đập

Chúng con đều nhẫn nhịn.

Tỳ Kheo trong đời ác

Tà trí tâm siểm khúc

Chưa chứng nói đã chứng

Tâm ngã mạn đầy dẫy.

Hoặc có vị Tỳ kheo

Mặc nạp y chỗ vắng

Tự cho hành chân đạo

Khinh khi người nhân gian.

Vì tham trước lợi dưỡng

Nói pháp với cư sĩ

Để người đời cung kính

Như lục thông La Hán.

Người đó ôm lòng ác

Thường nhớ việc thế tục

Giả danh A lan nhã

Chuyên nói lỗi của người.

Mà nói như thế này

Các vị Tỳ Kheo đó

Vì tham cầu lợi dưỡng

Nói luận nghị ngoại đạo.

Tự làm kinh điển này

Dối gạt người thế gian

Vì cầu danh cầu lợi

Phân biệt nói kinh này.

Thường ở trong đại chúng

Muốn hủy báng chúng ta

Hướng quốc vương đại thần

Bà la môn cư sĩ.

Và chúng Tỳ Kheo khác

Phỉ báng nói ta ác

Người đó kẻ tà kiến

Nói luận nghị ngoại đạo.

Vì chúng con kính Phật

Phải nhẫn các việc ác

Họ nói lời khinh khi

Các ông đều là Phật.

Lời khinh mạn như thế

Chúng con đều nhẫn nhịn

Trong đời ác kiếp trược

Có nhiều việc kinh hãi.

Ác quỷ nhập thân họ

Mắng chưởi hủy nhục con

Chúng con kính tin Phật

Phải mặc giáp nhẫn nhục.

Do vì nói kinh này

Nhẫn các việc khó đó

Con chẳng tiếc thân mạng

Chỉ tiếc đạo vô thượng.

Chúng con đời vị lại

Hộ trì Phật phó chúc

Thế Tôn sẽ tự biết

Tỳ Kheo đời ác trược.

Chẳng biết Phật phương tiện

Tùy nghi mà nói pháp

Miệng ác còn nhăn nhó

Thường thấy đuổi họ ra.

Xa lìa nơi chùa tháp

Những việc ác như thế

Vì nhớ lời Phật dạy

Nên đều phải nhẫn nhịn.

Các xóm làng thành ấp

Nếu có người cầu pháp

Con đều đến chỗ họ

Nói pháp của Phật nói.

Con là sứ của Phật

Trong chúng đều chẳng sợ

Con sẽ khéo nói pháp

Xin Phật hãy yên lòng.

Con ở trước Thế Tôn

Và chư Phật mười phương

Phát thệ nguyện như thế

Phật tự biết tâm con.

***

QUYỂN 5

Phẩm An Lạc Hạnh thứ Mười Bốn

Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát đó rất khó có được, vì kính thuận lời Phật dạy, mà phát thệ nguyện lớn, ở trong đời ác hộ trì đọc tụng diễn nói Kinh Pháp Hoa này.

Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát làm thế nào để diễn nói được kinh này? Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Nếu đại Bồ Tát ở trong đời ác trược, muốn nói kinh này, thì phải an trụ vào bốn pháp. Một là an trụ vào nơi thực hành, và nơi gần gũi của Bồ Tát, thì có thể vì chúng sinh diễn nói kinh này.

Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát thực hành? Nếu đại Bồ Tát trụ ở sức nhẫn nhục, nhu hòa, khéo thuận chẳng thô bạo, tâm cũng chẳng kinh sợ. Hơn nữa, nơi các pháp vô sở hành, mà quán các pháp như thật tướng, cũng chẳng hành, chẳng phân biệt. Đó gọi là nơi Bồ Tát thực hành. Thế nào gọi là nơi đại Bồ Tát gần gũi? Đại Bồ Tát chẳng gần gũi nhà vua, thái tử, đại thần, quan lớn. Chẳng gần gũi với các ngoại đạo, phạm chí, ni kiền tử, và viết sách vở thế tục, đọc ngâm nga sách ngoại đạo, cùng lộ già gia đà, nghịch lộ già gia đà, cũng chẳng gần gũi những kẻ hung ác, giễu cợt, đánh đập lẫn nhau, và na la thảy, các thứ kịch biến hiện. Lại chẳng gần gũi hạng chiên đà la, và kẻ nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới, các luật nghi ác. Những người như thế, hoặc khi họ đến, thì vì họ nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

Lại nữa, đừng gần gũi với những Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, cầu quả vị Thanh Văn, cũng chẳng thăm hỏi. Nếu ở trong phòng, hoặc đi kinh hành, hoặc ở trong giảng đường, thì không nên ở chung với họ. Nếu họ đến, thì tùy nghi nói pháp, đừng mong cầu gì cả.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đối với người nữ, chẳng sinh ý niệm dâm dục, mà vì họ nói pháp, cũng đừng thích thấy. Nếu vào nhà người, thì chẳng nên nói chuyện cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa, cũng đừng gần gũi với năm hạng người bất nam để kết thân giao. Không nên một mình vào nhà người. Nếu có nhân duyên phải một mình vào, thì phải một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp, thì không được hở răng cười, chẳng để ngực hở hang, cho đến vì pháp còn chẳng gần gũi, hà huống là việc khác.

Không nên thích nuôi đệ tử nhỏ tuổi, Sa di nhỏ bé, cũng không nên cùng thầy. Thường nên ngồi thiền, ở nơi chỗ vắng nên tu nhiếp tâm mình lại. Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là chỗ gần gũi ban đầu.

Lại nữa, đại Bồ Tát quán tất cả các pháp không như thật tướng, không điên đảo, không lay động, không thối lùi, không chuyển, như hư không, chẳng có tự tánh. Tất cả ngôn ngữ đạo đoạn, không sanh, không xuất ly, không khởi, không tên, không tướng, thảy đều không, không lượng, không bờ, không ngại, không chướng, chỉ nhờ nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sinh ra, cho nên nói: Thường thích quán pháp tướng như thế, đó gọi là chỗ gần gũi thứ hai của đại Bồ Tát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu có Bồ Tát

Ở đời ác sau

Tâm chẳng sợ hãi

Muốn nói kinh này.

Nên vào hành xứ

Và thân cận xứ.

Thường lìa quốc vương

Và các vương tử.

Đại thần quan lớn

Kẻ ác chế giễu

Và chiên đà la

Ngoại đạo phạm chí.

Cũng chẳng gần gũi

Kẻ tăng thượng mạn

Tham trước tiểu thừa

Người học tam tạng.

Tỳ Kheo phá giới

Xưng là La Hán

Và Tỳ Kheo ni

Kẻ thích giỡn cười.

Chấp sâu năm dục

Cầu được diệt độ

Các cư sĩ nữ

Đều chớ gần gũi.

Nếu những người đó

Dùng tâm cầu đạo

Đến chỗ Bồ Tát

Vì nghe Phật đạo.

Bồ Tát bèn dùng

Tâm không sợ hãi

Chẳng mong cầu gì

Vì họ nói pháp.

Gái góa gái trinh

Và người bất nam

Đều chớ gần gũi

Để kết thân giao.

Cũng đừng gần gũi

Đồ tể hàng thịt

Thợ săn chài lưới

Vì lợi giết hại

Bán thịt tự sống

Hoặc buôn gái đẹp

Những người như thế

Chớ nên gần gũi.

Hung ác đánh nhau

Đủ thứ đùa giỡn

Các dâm nữ thảy

Đều chớ gần gũi.

Đừng ở chỗ vắng

Vì nữ nói pháp

Nếu khi nói pháp

Không được giỡn cười.

Vào xóm khất thực

Dắt một Tỳ Kheo

Nếu không Tỳ Kheo

Một lòng niệm Phật.

Đó tức gọi là:

Hành xứ, cận xứ

Dùng hai nơi này

An vui nói pháp.

Lại nữa chẳng tu

Pháp thượng trung hạ

Hữu vi vô vi

Pháp thật chẳng thật.

Cũng chẳng phân biệt

Người nam người nữ

Chẳng đắc các pháp

Chẳng biết chẳng thấy.

Tức đó gọi là:

Chỗ Bồ Tát tu

Tất cả các pháp

Hết thảy đều không.

Chẳng có thường trụ

Cũng chẳng khởi diệt

Đó gọi bậc trí

Chỗ nên gần gũi.

Điên đảo phân biệt

Các pháp có không

Là thật chẳng thật

Là sinh chẳng sinh.

Ở nơi chỗ vắng

Tu nhiếp tâm mình

An trụ chẳng động

Như núi Tu Di.

Quán tất cả pháp

Hết thảy đều không

Giống như hư không

Nên chẳng kiên cố.

Không sinh không xuất

Không động không lùi

Thường trụ một tướng

Đó gọi cận xứ.

Nếu có Tỳ Kheo

Sau ta diệt độ

Vào hành xứ này

Khi nói kinh này.

Chẳng có sợ hãi

Bồ Tát có khi

Vào nơi yên tĩnh

Nhớ nghĩ chân chánh.

Theo nghĩa quán pháp

Từ thiền định dậy

Vì các quốc vương

Vương tử thần dân.

Bà la môn thảy

Khai thị diễn nói

Kinh Pháp Hoa này

Trong tâm an ổn.

Chẳng có sợ hãi

Văn Thù Sư Lợi!

Đó gọi Bồ Tát

An trụ sơ pháp.

Hay ở đời sau

Nói Kinh Pháp Hoa.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, muốn nói kinh này, thì nên trụ vào an lạc hạnh. Nếu miệng diễn nói, hoặc đọc tụng kinh này, thì đừng nên nói lỗi của người, và lỗi của kinh điển, cũng đừng khinh mạn các pháp sư khác, đừng nói tốt xấu thị phi của kẻ khác, đối với hàng Thanh Văn cũng đừng gọi tên của họ, nói lỗi lầm của họ, cũng đừng gọi tên khen ngợi tốt, cũng đừng sinh tâm oán hận, vì khéo tu tâm an lạc như thế. Các người đến nghe pháp chẳng nghịch ý của họ. Nếu họ có vấn nạn, thì đừng dùng pháp tiểu thừa mà đáp, chỉ dùng pháp đại thừa để giải thích, khiến cho họ đắc được Nhất thiết chủng trí.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Bồ Tát thường thích

An ổn nói pháp

Ở chỗ thanh tịnh

Mà thí giường tòa.

Dùng dầu thoa thân

Tắm rửa bụi bặm

Mặc y mới sạch

Trong ngoài đều sạch.

Ngồi yên pháp tòa

Tùy hỏi mà nói

Nếu có Tỳ Kheo

Và Tỳ Kheo ni.

Các cư sĩ nam

Và cư sĩ nữ

Quốc vương vương tử

Quần thần sĩ dân.

Dùng nghĩa vi diệu

Vui vẻ mà nói

Nếu có vấn nạn

Theo nghĩa mà đáp.

Nhân duyên ví dụ

Phân biệt diễn nói

Nhờ phương tiện đó

Khiến họ phát tâm.

Dần dần tăng ích

Vào trong Phật đạo

Trừ tâm lười biếng

Và tưởng giải đãi.

Lìa các ưu não

Từ tâm nói pháp.

Ngày đêm thường nói

Đạo lý vô thượng.

Dùng các nhân duyên

Vô lượng ví dụ

Khai thị chúng sinh

Khiến cho hoan hỉ.

Y phục ngọa cụ

Ẩm thực thuốc thang

Hết thảy các thứ

Chẳng mong cầu gì.

Chỉ một lòng nhớ

Nhân duyên nói pháp

Nguyện thành Phật đạo

Khiến họ cũng thế.

Đó là lợi lớn

An vui cúng dường.

Sau ta diệt độ

Nếu có Tỳ Kheo.

Thường hay diễn nói

Kinh Pháp Hoa này

Tâm chẳng sân hận

Các não chướng ngại.

Cũng chẳng sầu lo

Và người chưởi mắng

Lại chẳng sợ hãi

Thêm đao gậy thảy.

Cũng chẳng đuổi ra

Vì nhờ nhẫn nhục

Bậc trí như thế

Khéo tu tâm mình.

Thường trụ an lạc

Như ta nói trên

Công đức người đó

Ngàn vạn ức kiếp.

Toán số ví dụ

Nói chẳng hết được.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát, ở đời mạc pháp sau này, khi pháp muốn diệt, thì người thọ trì đọc tụng kinh này, đừng ôm lòng đố kị xiểm nịnh, cũng đừng khinh khi mắng chưởi người học Phật đạo, đừng nói thị phi. Nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, người cầu Thanh Văn, người cầu Bích Chi Phật, người cầu Bồ Tát đạo, đừng làm cho họ sinh phiền não, khiến cho họ nghi ngờ, nói với họ rằng: Các ngươi cách đạo rất xa, không khi nào đắc được Nhất thiết chủng trí. Tại sao? Vì các ngươi là những người phóng dật, tu đạo thì giải đãi, lại cũng không nên hí luận các pháp, có sự tranh luận. Nên khởi tâm đại bi đối với tất cả chúng sinh, với các Đức Như Lai khởi nghĩ như Đại sư, với các vị đại Bồ Tát trong mười phương, luôn thành tâm cung kính lễ lạy. Đối với tất cả chúng sinh, nên bình đẳng mà nói pháp, bởi do thuận pháp, không nên nói nhiều, không nên nói ít, cho đến người ái mến pháp thâm sâu, cũng không vì họ mà nói nhiều.

Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đó, ở đời mạt pháp sau này, lúc pháp sắp diệt, người thành tựu an lạc hạnh thứ ba, khi nói kinh này, thì không ai có thể não loạn, được người đồng học tốt, cùng nhau đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng đến nghe nhận, nghe rồi hay trì, trì rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi thì sẽ biên chép, hoặc khiến cho người biên chép cúng dường kinh quyển, cung kính tôn trọng khen ngợi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu muốn nói kinh này

Nên bỏ đố sân mạn

Tâm xiểm nịnh tà ngụy

Thường tu hạnh chất trực.

Chẳng khinh khi kẻ khác

Cũng chẳng hí luận pháp

Chẳng khiến họ nghi ngờ

Rằng ông không thành Phật.

Bồ Tát đó nói pháp

Thường nhu hòa nhẫn nhục

Từ bi với tất cả

Chẳng sinh tâm giải đãi.

Mười phương đại Bồ Tát

Thương chúng nên hành đạo

Nên sinh tâm cung kính

Đó là thầy của ta.

Với chư Phật Thế Tôn

Nghĩ là cha vô thượng

Phá được tâm kiêu mạn

Nói pháp chẳng chướng ngại.

Pháp thứ ba như thế

Bậc trí nên một lòng

Thủ hộ an lạc hạnh

Vô lượng chúng cung kính.

Lại nữa, Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát vào đời sau này, khi pháp sắp diệt, có người nào trì Kinh Pháp Hoa này, đối với người tại gia, hoặc xuất gia, đều nên sinh tâm đại bi, đối với những người chẳng phải Bồ Tát, cũng nên sinh tâm đại bi, nên nghĩ như vầy: Người như thế tổn thất rất lớn, đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp, mà chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Người đó tuy chẳng hỏi chẳng tin chẳng hiểu kinh này, khi ta được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, bất cứ ở đâu, ta cũng dùng thần thông và trí huệ dẫn dắt họ, khiến cho họ được trụ ở trong pháp này.

Văn Thù Sư Lợi! Đại Bồ Tát đó, sau khi Như Lai diệt độ, có ai thành tựu pháp thứ tư này, khi nói pháp này, thì chẳng có lỗi lầm, thường được Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ thảy, cung kính cúng đường, tôn trọng khen ngợi. Chư thiên vì nghe pháp, nên cũng thường theo hầu vị Bồ Tát đó. Nếu ở trong xóm làng, thành ấp, rừng vắng, có người đến muốn vấn nạn, thì chư Thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ, khiến cho người nghe đều được hoan hỉ. Tại sao? Vì kinh này nhờ thần lực của tất cả chư Phật, quá khứ hiện tại vị lai ủng hộ vậy.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, ở trong vô lượng cõi nước, cho đến tên kinh còn không thể nghe được, hà huống là được thấy thọ trì đọc tụng.

Văn Thù Sư Lợi! Ví như chuyển luân thánh vương có sức mạnh, muốn dùng uy thế để hàng phục các nước, song các ông vua nhỏ chẳng thuận theo mệnh lệnh. Vua chuyển luân bèn đem các thứ binh đi chinh phục. Vua thấy binh chúng ai chiến đấu có công thì rất hoan hỉ, tùy theo công lao mà ban thưởng, hoặc ban cho ruộng đất, nhà cửa, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho quần áo, đồ nghiêm thân, hoặc ban cho các thứ châu báu, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, nô tì nhân dân. Chỉ có hạt minh châu trong búi tóc là không cho thôi. Tại sao? Vì chỉ có trên đỉnh của vua mới có hạt minh châu này. Nếu lấy đem cho, thì các quyến thuộc của vua rất kinh ngạc.

Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng lại như thế, nhờ sức thiền định trí huệ, mà được cõi nước pháp, là vua trong ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu thuận phục. Các hiền Thánh của Như Lai cùng chiến đấu với ma, ai có công thì tâm cũng hoan hỉ. Phật cũng hoan hỉ vì bốn chúng mà nói các kinh, khiến cho họ được vui mừng, ban cho thiền định giải thoát, căn lực vô lậu các pháp tài, còn ban cho thành Niết Bàn, nói được diệt độ, dẫn đạo tâm ý, khiến cho chúng sinh đều hoan hỉ, mà chẳng vì họ nói Kinh Pháp Hoa này.

Văn Thù Sư Lợi! Như vua chuyển luân thấy các binh chúng, ai có công lớn thì tâm rất hoan hỉ, bèn đem hạt châu khó tin này, từ lâu để trong búi tóc chẳng tùy tiện cho người, mà nay đem cho. Như lai cũng lại như thế, là đại Pháp vương ở trong ba cõi, đem pháp giáo hóa tất cả chúng sinh, thấy quân hiền Thánh với ma năm ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau. Có công lao lớn diệt trừ ba độc, ra khỏi ba cõi, phá tan lưới ma. Bấy giờ, Như Lai cũng rất hoan hỉ, Kinh Pháp Hoa này, hay khiến cho chúng sinh đến nhất thiết trí. Tất cả thế gian nhiều oán khó tin kinh này, trước kia chưa từng nói, mà nay nói ra.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là lời nói bậc nhất của các Đức Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là thâm sâu nhất, chưa từng ban cho. Như vua chuyển luân sức mạnh kia, từ lâu giữ hạt minh châu, nay mới đem ra cho.

Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này, là tạng bí mật của chư Phật Như Lai. Ở trong các kinh, thì kinh này là trên hơn hết, giữ gìn từ lâu chưa hề tuyên nói, cho đến hôm nay, mới nói ra cho các ông nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Thường thật hành nhẫn nhục

Thương xót hết tất cả

Mới nên nói kinh này

Kinh này được Phật khen.

Ai trì tụng kinh này

Đối với tại, xuất gia

Và chẳng phải Bồ Tát

Nên sinh lòng từ bi.

Những người nào chẳng nghe

Cũng chẳng tin kinh này

Tức tổn thất rất lớn

Khi ta được Phật đạo.

Sẽ dùng các phương tiện

Vì họ nói pháp này

Khiến họ trụ pháp này.

Ví như vua chuyển luân

Có sức lực mạnh mẽ

Thấy lính đánh có công

Ban thưởng các báu vật.

Voi ngựa các xe cộ

Và đồ dùng nghiêm thân

Cùng đất đai nhà cửa

Xóm làng và thành ấp.

Hoặc ban cho y phục

Đủ thứ đồ quý báu

Nô tì và của cải

Đều hoan hỉ ban cho.

Như có tướng tài giỏi

Làm được các việc khó

Vua lấy hạt minh châu

Trong búi tóc đem tặng.

Như Lai cũng như thế

Là vua của các pháp

Có sức nhẫn nhục lớn

Và bảo tạng trí huệ.

Dùng sức đại từ bi

Theo pháp giáo hóa đời

Thấy tất cả mọi người

Chịu các sự khổ não.

Muốn cầu được giải thoát

Chiến đấu với lũ ma

Vì những chúng sinh đó

Nói ra đủ thứ pháp.

Dùng sức đại phương tiện

Diễn nói các kinh này

Khi đã biết chúng sinh

Đắc được các lực rồi.

Cuối cùng mới vì nói

Kinh Diệu Pháp Hoa này

Như vua mở búi tóc

Ban tặng hạt minh châu.

Kinh này rất tôn quí

Trên hết trong các kinh

Ta thường luôn giữ gìn

Chẳng tùy tiện nói ra.

Nay đúng là phải thời

Vì các ông mà nói.

Sau khi ta diệt độ

Ai mong cầu Phật đạo.

Muốn được sự an ổn

Nên diễn nói kinh này

Và phải nên gần gũi

Bốn pháp như đã nói.

Ai đọc tụng kinh này

Thường chẳng có ưu não

Nhan sắc rất tươi thắm

Chẳng sinh nhà bần cùng.

Chẳng làm kẻ nô tì

Chúng sinh đều ưa thấy

Như kính mộ hiền Thánh

Chư thiên các đồng tử.

Cũng nghe sự sai khiến

Đao gậy chẳng hại được

Độc cũng không thể hại

Nếu người ác mắng chưởi.

Thì miệng chẳng mở đặng

Du hành chẳng sợ sệt

Như loài sư tử chúa

Trí huệ quang chiếu sáng

Như mặt trời chiếu khắp.

Nếu như ở trong mộng

Chỉ thấy những việc tốt

Thấy các Đức Như Lai

Ngồi trên tòa sư tử.

Các đại chúng Tỳ Kheo

Vây quanh diễn nói pháp

Lại thấy các rồng thần

Và A tu la thảy.

Nhiều như cát sông Hằng

Đều cung kính chắp tay

Tự thấy chính thân mình

Vì chúng sinh nói pháp.

Lại thấy các đức Phật

Thân tướng sắc vàng tía

Phóng vô lượng quang minh

Chiếu khắp hết tất cả.

Dùng phạm âm thanh tịnh

Diễn nói thảy các pháp

Phật lại vì bốn chúng

Nói diệu pháp vô lượng.

Thảy đều thấy thân mình

Chắp tay khen ngợi Phật

Nghe pháp đều hoan hỉ

Mà dùng để cúng dường.

Đắc được Đà la ni

Chứng được trí bất thối

Phật biết tâm người ấy

Vào sâu nơi Phật đạo.

Tức là được thọ ký

Thành Chánh đẳng chánh giác

Các ông thiện nam tử!

Sẽ ở đời vị lai.

Được vô lượng trí huệ

Được thành tựu Phật đạo

Cõi nước rất nghiêm tịnh

Rộng lớn chẳng sánh được.

Cũng có đủ bốn chúng

Đều chắp tay nghe pháp

Lại thấy chính thân mình

Ở trong nơi núi rừng.

Tu tập các pháp lành

Chứng được các thật tướng

Vào sâu nơi thiền định

Thấy chư Phật mười phương.

Chư Phật thân sắc vàng

Tướng trăm phước trang nghiêm

Nghe pháp vì người nói

Thường có mộng tốt đó.

Lại mộng làm Pháp vương

Bỏ cung điện quyến thuộc

Và năm dục thượng diệu

Đi thẳng đến Đạo tràng.

Ở dưới cội bồ đề

Ngồi trên tòa sư tử

Cầu đạo quá bảy ngày

Đắc được trí chư Phật.

Thành đạo vô thượng rồi

Bèn chuyển bánh xe pháp

Vì bốn chúng nói pháp

Qua ngàn vạn ức kiếp.

Nói diệu pháp vô lậu

Độ vô lượng chúng sinh

Sau sẽ vào Niết Bàn

Như củi hết lửa tắt.

Nếu đời ác sau này

Nói pháp bậc nhất này

Người đó được lợi lớn

Như công đức ở trên.

***

Phẩm Từ Dưới Đất Vọt Lên thứ Mười Lăm

Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát đến từ các cõi nước phương khác, số nhiều hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đều đứng dậy chắp tay làm lễ, mà bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Xin Ngài lóng nghe, sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ ở tại thế giới Ta Bà này, siêng năng tinh tấn, hộ trì đọc tụng biên chép cúng dường kinh điển này, sẽ ở cõi này mà vì chúng sinh rộng nói kinh này.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các chúng đại Bồ Tát: Thôi đi! Thiện nam tử! Không cần các ông hộ trì kinh này, tại sao? Vì thế giới Ta Bà của ta đây, đã có các đại Bồ Tát nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Mỗi vị Bồ Tát đều có quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng. Hết thảy những người đó, sau khi ta diệt độ, sẽ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này. Khi Đức Phật nói như thế, thì ba ngàn đại thiên thế giới Ta Bà mặt đất rúng nứt, và trong sự rúng nứt đó, có vô lượng ngàn vạn ức đại Bồ Tát đồng thời vọt lên, các vị Bồ Tát đó, thân đều màu vàng, đủ ba mươi hai tướng, có vô lượng quang minh. Các vị Bồ Tát đó, đều trụ ở trong hư không ở dưới cõi Ta Bà. Các vị Bồ Tát đó, nghe tiếng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói diệu pháp, bèn từ phương dưới mà đến, mỗi vị Bồ Tát đều là đạo sư của đại chúng, ai nấy đều mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát sáu vạn sông Hằng, có vị mang theo quyến thuộc nhiều như số cát năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn, một vạn, sông Hằng. Hoặc có vị chỉ mang theo quyến thuộc, nhiều như số cát một sông Hằng, nửa sông Hằng, một phần tư, cho đến một phần ngàn vạn ức Na do tha. Lại có vị mang theo, ngàn vạn ức Na do tha quyến thuộc, hoặc là ức vạn quyến thuộc, hoặc ngàn vạn, trăm vạn, cho đến một vạn, hoặc một ngàn, một trăm, cho đến mười, hoặc có vị chỉ mang theo năm, bốn, ba, hai, một, vị đệ tử. Lại có vị Bồ Tát sống một mình, ưa thích hạnh xa lìa thế gian, hết thảy như thế vô lượng vô biên, không thể nào tính đếm ví dụ biết được số lượng. Các vị Bồ Tát đó, từ dưới đất vọt lên rồi, đều đến chỗ tháp bảy báu trong hư không của Đức Đa Bảo Như Lai, và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đến rồi, ai nấy đều hướng về hai Đức Thế Tôn cuối đầu đảnh lễ dưới chân Phật, và đến dưới các cây báu chỗ của chư Phật, ngồi trên tòa sư tử cũng đều làm lễ, nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay cung kính, dùng đủ thứ pháp khen ngợi của các Bồ Tát để khen ngợi, rồi lui về một bên chiêm ngưỡng hai Đức Thế Tôn. Các vị đại Bồ Tát từ khi mới vọt lên, dùng đủ thứ pháp của các Bồ Tát để khen ngợi Phật, thời gian như thế trải qua năm mươi tiểu kiếp.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi yên lặng, bốn chúng cũng đều yên lặng. Thời gian năm mươi tiểu kiếp rất dài, nhưng nhờ thần lực của Phật, mà khiến cho đại chúng cảm thấy như chỉ nửa ngày.

Bấy giờ, bốn chúng cũng nhờ thần lực của Đức Phật, cho nên thấy các vị Bồ Tát, của vô lượng trăm ngàn vạn ức cõi nước đầy khắp hư không. Trong chúng Bồ Tát đó, có bốn vị đạo sư, một tên là Thượng Hạnh, hai tên là Vô Biên Hạnh, ba tên là Tịnh Hạnh, bốn tên là An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là thượng thủ, là thầy xướng đạo ở trong chúng. Ở trước đại chúng, ai nấy đều chắp tay nhìn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà thăm hỏi rằng: Đức Thế Tôn ít bệnh, ít phiền não, an lạc hạnh chăng? Những người đáng độ có dễ giáo hóa chăng? Không khiến cho Đức Thế Tôn mệt nhọc chăng?

Bấy giờ, bốn vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

Thế Tôn an lạc

Ít bệnh ít não

Giáo hóa chúng sinh

Được chẳng mệt nhọc.

Và các chúng sinh

Thọ hóa dễ chăng

Chẳng khiến Thế Tôn

Sinh mỏi nhọc chăng?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trong chúng đại Bồ Tát nói như vầy: Như thế, như thế! Các thiện nam tử, Như Lai an lạc, ít bệnh, ít phiền não, hết thảy các chúng sinh dễ hóa độ, chẳng có mệt nhọc. Tại sao? Vì các chúng sinh đó, đời đời kiếp kiếp đến nay, luôn luôn thọ sự giáo hóa của ta, ở trong quá khứ, họ cũng cung kính tôn trọng các Đức Phật, gieo trồng các căn lành.

Những chúng sinh đó, từ khi thấy thân ta, nghe lời của ta nói, thì đều tin nhận vào trí huệ của Như Lai. Những người trước kia tu tập tiểu thừa, nay ta cũng khiến cho họ được nghe kinh này, mà vào trí huệ của Phật.

Bấy giờ, các vị đại Bồ Tát bèn nói bài kệ rằng:

Lành thay lành thay!

Đại hùng Thế Tôn

Hết thảy chúng sinh

Dễ dàng hóa độ.

Nghe được chư Phật

Trí huệ sâu xa

Nghe rồi tin hành

Chúng con tùy hỉ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ Tát thượng thủ rằng: Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, các ông ở trước Như Lai phát tâm tùy hỉ.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc và tám ngàn chúng Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng, đều nghĩ như vầy: Chúng ta từ xưa đến nay, chẳng thấy chẳng nghe các chúng đại Bồ Tát như thế, từ dưới đất vọt lên, ở trước Đức Thế Tôn chắp tay cúng dường, thăm hỏi Đức Như Lai.

Khi ấy, đại Bồ Tát Di Lặc biết tâm niệm của các vị Bồ Tát, nhiều như số cát tám ngàn sông Hằng, cũng muốn tự mình hiểu rõ điều nghi này, bèn chắp tay hướng về Đức Phật dùng kệ hỏi rằng:

Vô lượng ngàn vạn ức

Các đại chúng Bồ Tát

Xưa kia chưa từng thấy

Nguyện Đức Thế Tôn nói.

Họ từ nơi nào đến

Do bởi nhân duyên gì?

Thân lớn đại thần thông

Trí huệ không nghĩ bàn.

Chí niệm rất kiên cố

Có sức nhẫn nhục lớn

Chỗ chúng sinh ưa thấy

Từ xứ nào mà đến?

Mỗi mỗi vị Bồ Tát

Đem theo các quyến thuộc

Số đông nhiều vô lượng

Như số cát sông Hằng.

Hoặc có đại Bồ Tát

Đem sáu vạn Hằng sa

Các đại chúng như thế

Một lòng cầu Phật đạo.

Các đại sư đó thảy

Sáu vạn Hằng hà sa

Đều đến cúng dường Phật

Và hộ trì kinh này.

Đem năm vạn Hằng sa

Hoặc số lượng trội hơn

Bốn vạn và ba vạn

Hai vạn đến một vạn.

Một ngàn một trăm thảy

Cho đến một Hằng sa

Nửa và ba bốn phần

Hoặc một phần ức vạn.

Ngàn vạn Na do tha

Vạn ức các đệ tử

Cho đến số nửa ức

Số lượng lại hơn trên.

Trăm vạn đến một vạn

Một ngàn và một trăm

Năm mươi và một mươi

Cho đến ba hai một.

Đơn độc chẳng quyến thuộc

Ưa thích tu một mình

Đều đến chỗ đức Phật

Số đó lại hơn trên.

Các đại chúng như thế

Nếu ai muốn tính đếm

Trải qua Hằng sa kiếp

Không thể biết hết được.

Các đại uy đức đó

Chúng Bồ Tát tinh tấn

Ai vì họ nói pháp

Giáo hóa mà thành tựu?

Từ ai sơ phát tâm

Xưng dương Phật pháp nào

Thọ trì hành kinh gì

Tu tập Phật đạo nào?

Các Bồ Tát như thế

Thần thông đại trí lực

Bốn phương đất rúng nứt

Đều từ đất vọt lên.

Thế Tôn con xưa nay

Chưa từng thấy việc này

Xin nói chỗ họ đến

Tên cõi nước họ ở.

Con thường du các nước

Chưa từng thấy chúng này

Con ở trong chúng này

Chẳng quen biết một người.

Đột nhiên từ đất lên

Xin nói rõ nhân duyên.

Nay trong đại hội này

Vô lượng trăm ngàn ức.

Các Bồ Tát này thảy

Đều muốn biết việc này

Nhân duyên và gốc ngọn

Các chúng Bồ Tát đó.

Vô lượng, Đức Thế Tôn!

Xin nguyện giải chúng nghi.

Bấy giờ, các phân thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đến từ vô lượng ngàn vạn ức cõi nước phương khác, ở dưới các cây báu trong tám phương, đều ngồi kiết già trên tòa sư tử. Thị giả của các Đức Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát đó, trong ba ngàn đại thiên thế giới bốn phương, từ dưới đất vọt lên trụ ở trong hư không. Các vị thị giả đều bạch với Phật của mình rằng: Đức Thế Tôn! Vô lượng vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát đó, từ đâu đến đây?

Bấy giờ, các Đức Phật đều bảo thị giả rằng: Các thiện nam tử! Hãy đợi giây lát, có đại Bồ Tát tên là Di Lặc, được Đức Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ thành Phật, đã hỏi việc đó. Đức Phật sẽ trả lời, các ông sẽ nhờ đó mà được nghe.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca bảo Bồ Tát Di Lặc: Lành thay! Lành thay! A Dật Đa mới có thể hỏi Phật việc lớn như thế. Các ông nên cùng một lòng mặc áo giáp tinh tấn, phát tâm kiên cố, nay Như Lai muốn hiển phát diễn nói mở bày trí tuệ của chư Phật, sức thần thông tự tại của chư Phật, sức sư tử phấn tấn của chư Phật, sức oai mãnh đại thế của chư Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Hãy một lòng tinh tấn

Ta muốn nói việc đó

Chớ đừng có nghi hối

Trí Phật không nghĩ bàn.

Nay ông sinh đức tin

Trụ ở trong nhẫn nhục

Pháp chỗ xưa chưa nghe

Nay đều sẽ được nghe.

Nay ta an ủi ông

Chớ đừng hoài nghi sợ

Lời Phật nói chẳng sai

Trí huệ không thể lường.

Đắc được pháp bậc nhất

Thâm sâu không phân biệt

Như vậy nay sẽ nói

Các ông một lòng nghe.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Bồ Tát Di Lặc: Hôm nay ta ở trong chúng này nói với các ông: A Dật Đa! Các chúng đại Bồ Tát đó, vô lượng vô số A tăng kỳ từ dưới đất vọt lên. Thuở xưa các ông chưa từng thấy, ta ở tại thế giới Ta Bà này, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác rồi, bèn giáo hóa chỉ đạo cho các Bồ Tát đó, điều phục tâm của họ, khiến cho họ phát đạo tâm. Những vị Bồ Tát đó, đều ở dưới thế giới Ta Bà này, trụ ở trong hư không. Nơi các kinh điển họ đều đọc tụng thông thuộc, suy gẫm phân biệt, nghĩ nhớ chân chánh.

A Dật Đa! Hết thảy các vị thiện nam tử đó, chẳng ưa thích ở trong chúng nói nhiều, thường thích ở chỗ yên tĩnh, siêng hành tinh tấn, chưa từng nghỉ ngơi, cũng chẳng ở tại nhân gian, cũng chẳng ở trên trời, thường thích trí huệ thâm sâu, chẳng có chướng ngại, cũng thường ưa thích pháp của chư Phật, một lòng tinh tấn cầu trí huệ vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

A Dật Đa nên biết!

Các đại Bồ Tát đó

Từ số kiếp đến nay

Tu tập trí của Phật.

Đều do ta giáo hóa

Khiến phát đại đạo tâm

Họ đều là con ta

Nương trụ thế giới đó.

Thường tu hạnh đầu đà

Ý thích nơi chỗ vắng

Bỏ đại chúng ồn náo

Chẳng ưa thích nói nhiều.

Các con như vậy thảy

Tu học đạo pháp ta

Ngày đêm thường tinh tấn

Chỉ vì cầu Phật đạo.

Trụ ở trong hư không

Phương dưới cõi Ta Bà

Sức chí niệm kiên cố

Thường siêng cầu trí huệ.

Nói đủ thứ diệu pháp

Tâm họ chẳng sợ sệt.

Ta ở thành Già Gia

Ngồi dưới cội bồ đề

Đắc được tối chánh giác

Chuyển pháp luân vô thượng.

Giáo hóa các Bồ Tát

Khiến họ sơ phát tâm

Nay đều trụ bất thối

Đều sẽ được thành Phật.

Nay ta nói lời thật

Các ông một lòng tin

Ta từ lâu đến nay

Giáo hóa đại chúng đó.

Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc và vô số các vị Bồ Tát khác, đều sinh tâm nghi hoặc, lạ chưa từng có, bèn nghĩ như vầy: Sao Đức Thế Tôn ở trong thời gian ngắn, mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên A tăng kỳ các đại Bồ Tát như thế, khiến cho họ trụ Vô thượng chánh đẳng chánh giác? Bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Khi Như Lai làm thái tử, ra khỏi cung dòng họ Thích, cách thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Đạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm.

Đức Thế Tôn! Sao trong thời gian ngắn mà làm đại Phật sự, dùng thế lực của Phật, dùng công đức của Phật, để giáo hóa vô lượng đại Bồ Tát như thế, sẽ thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác?

Đức Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát đó, nếu như có người ở trong ngàn vạn ức kiếp, tính đếm cũng chẳng hết được, chẳng biết được bờ mé. Những vị Bồ Tát đó, từ lâu xa đến nay, ở trong vô lượng vô biên chỗ chư Phật, gieo trồng các căn lành, thành tựu đạo bồ đề, thường tu phạm hạnh.

Đức Thế Tôn! Việc như thế, người thế gian khó tin. Ví như: Có người sắc đẹp tóc đen, mới hai mươi lăm tuổi, mà chỉ người trăm tuổi nói đó là con ta, người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi đó, nói là cha ta, sinh đẻ nuôi dưỡng chúng ta, việc đó khó tin.

Đức Phật cũng như thế, từ khi đắc đạo đến nay, chưa được bao lâu, mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, vì Phật đạo mà siêng tu hành tinh tấn, khéo nhập, xuất, trụ, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức tam muội, được đại thần thông, từ lâu tu phạm hạnh, khéo tu tập các pháp lành theo thứ tự, khéo về vấn đáp, là báu trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.

Hôm nay, Đức Thế Tôn mới nói, khi đắc được Phật đạo, thì đầu tiên khiến cho các Bồ Tát đó, phát tâm giáo hóa chỉ bày, khiến cho họ hướng về Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu, mà có thể làm được việc công đức lớn. Tuy chúng con tin Đức Phật tùy nghi nói pháp, những lời Phật nói ra chưa từng hư vọng. Những gì Phật biết thảy đều thông đạt, nhưng những vị mới phát tâm Bồ Tát, sau khi Phật diệt độ, nếu họ nghe lời này, thì họ chẳng tin nhận, mà khởi tâm hủy báng pháp tạo tội nghiệp. Tuy vậy, xin Đức Thế Tôn hãy giải thích nói, để trừ nghi hoặc của chúng con, và các thiện nam tử ở đời vị lai, nghe việc này rồi, cũng không còn nghi hoặc nữa.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Xưa Phật từ dòng thích

Xuất gia gần Già Gia

Ngồi dưới cội bồ đề

Đến nay chẳng bao lâu.

Các Phật tử đó thảy

Số đông không thể lường

Lâu đã hành Phật đạo

Trụ nơi sức thần thông.

Khéo học Bồ Tát đạo

Chẳng nhiễm pháp thế gian

Như hoa sen trong nước

Từ dưới đất mọc lên.

Đều khởi tâm cung kính

Trụ ở trước Thế Tôn

Việc đó khó nghĩ bàn

Làm sao khiến người tin?

Phật đắc đạo gần đây

Mà thành tựu rất nhiều

Xin vì trừ chúng nghi

Như thật phân biệt nói.

Ví như người thiếu niên

Tuổi mới hai mươi lăm

Chỉ người già là con

Tóc bạc và mặt nhăn.

Nói họ là ta sinh

Con cũng nói người đó

Chính là cha của ta

Cha trẻ mà con già

Khiến đời không thể tin.

Thế Tôn cũng như thế

Đắc đạo chẳng bao lâu

Các Bồ Tát đó thảy

Chí bền chẳng suy nhược.

Vô lượng kiếp đến nay

Luôn hành Bồ Tát đạo

Khéo về nạn vấn đáp

Tâm họ chẳng sợ hãi.

Tâm nhẫn nhục quyết định

Đoan chánh có uy đức

Được mười phương Phật khen

Khéo hay phân biệt nói.

Chẳng thích ở trong chúng

Thường thích nhập thiền định

Do vì cầu Phật đạo

Trụ hư không phương dưới.

Chúng con từ Phật nghe

Việc này nên hết nghi

Xin Phật vì vị lai

Diễn nói khiến họ hiểu.

Nếu ở nơi kinh này

Có người nghi không tin

Tức sẽ đọa đường ác

Nay xin Phật giải nói.

Vô lượng Bồ Tát đó

Sao trong thời gian ngắn

Giáo hóa khiến phát tâm

Trụ vào bậc bất thối?

***

Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai thứ Mười Sáu

Bấy giờ, Đức Phật bảo các Bồ Tát, và tất cả đại chúng: Các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Lại bảo đại chúng: Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.

Bấy giờ, trong đại chúng Bồ Tát, Bồ Tát Di Lặc làm thượng thủ chắp tay bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói, bạch ba lần như thế rồi nói: Xin hãy nói đi, chúng con sẽ tin nhận lời của Đức Phật nói.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các Bồ Tát ba lần thỉnh không ngừng, bèn bảo rằng: Các ông hãy lắng nghe, sức thần thông bí mật của Như Lai, tất cả thế gian trời người và A tu la, đều cho rằng hôm nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lìa bỏ hoàng cung đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi nơi Đạo tràng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Thiện nam tử! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như: Năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi, đi qua phương đông năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi đó.

Các thiện nam tử! Ý của các ông thế nào? Các thế giới đó, có thể suy nghĩ tính đếm biết được số bao nhiêu chăng?

Bồ Tát Di Lặc và hết thảy Bồ Tát, đều bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính đếm mà biết được. Tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, dùng trí huệ vô lậu, cũng không thể suy nghĩ biết được số lượng. Chúng con trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này cũng chẳng biết được.

Đức Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng Bồ Tát: Các thiện nam tử! Nay ta phân minh nói cho các ông nghe, các thế giới đó, hoặc để hạt bụi, hoặc không để, đều nghiền ra thành bụi hết. Một hạt bụi là một kiếp. Từ ta thành Phật đến nay, còn nhiều hơn số đó trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước khác, giáo hóa lợi ích chúng sinh.

Các thiện nam tử! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Đăng, và còn nói Đức Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.

Các thiện nam tử! Nếu có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng Phật nhãn quán sát, niềm tin và các căn lợi độn của họ, để độ họ. Nơi nơi tự nói danh tự khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, cũng hiện nói sẽ vào Niết Bàn, lại dùng đủ thứ phương tiện nói pháp vi diệu, khiến cho chúng sinh phát tâm hoan hỷ.

Các thiện nam tử! Như Lai thấy các chúng sinh ưa thích pháp tiểu thừa, đức mỏng, trần cấu nặng, thì vì người đó nói: Ta thiếu niên xuất gia, đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nhưng thật ra, ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, nhưng dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, mà nói như thế.

Các thiện nam tử! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, hoặc nói việc của mình, hoặc nói việc của Phật khác. Những lời nói ra, đều chân thật không hư. Tại sao? Vì Như Lai thấy biết tướng ba cõi như thật, chẳng có sinh tử, hoặc thối, hoặc xuất, cũng chẳng tại thế, hoặc diệt độ, chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác. Chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, những sự việc đó, chỉ có Như Lai mới thấy rõ chẳng có sai lầm. Vì chúng sinh có đủ thứ tánh, đủ thứ dục, đủ thứ hạnh, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho họ sinh các căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, ví dụ, lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp, làm các Phật sự, chưa từng tạm phế bỏ. Như thế, từ khi ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, thọ mạng vô lượng A tăng kỳ kiếp, thường trụ bất diệt.

Các thiện nam tử! Thuở xưa ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn chưa hết, lại tăng thêm. Nay chẳng phải thật diệt độ, mà nói là sẽ diệt độ. Như Lai dùng phương tiện đó, để giáo hóa chúng sinh. Tại sao? Vì nếu Phật sống lâu ở đời, thì người đức mỏng chẳng trồng căn lành, bần cùng hạ tiện tham trước năm dục, vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng. Nếu thấy Như Lai thường ở đời chẳng nhập diệt, thì họ sẽ sinh tâm kiêu mạn phóng túng, mà ôm lòng nhàm chán giải đãi, chẳng sinh tâm khó được gặp Phật, chẳng sinh tâm cung kính. Do đó, Như Lai dùng phương tiện nói: Tỳ Kheo nên biết, chư Phật ra đời rất khó được gặp. Tại sao? Vì những người đức mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp Phật, hoặc không gặp Phật. Nhờ việc đó mà ta nói rằng: Các Tỳ Kheo! Như Lai khó có thể được gặp, những chúng sinh đó nghe lời như thế, thì sẽ sinh tâm khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng đối với Phật, bèn trồng căn lành. Do đó, tuy Như Lai chẳng thật diệt, mà nói là diệt độ.

Lại nữa! Thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng sinh, đều thật chẳng hư. Ví như vị lương y trí huệ thông đạt, biết luyện chế thuốc, khéo chữa lành các chứng bệnh. Có rất nhiều người con, hoặc mười, hai mươi, cho đến một trăm người. Vì có duyên sự nên đi xa đến nước khác. Các người con sau này uống nhầm thuốc độc, thuốc phát buồn bực điên loạn, lăn lóc trên đất.

Bấy giờ, người cha trở về nhà, các người con uống thuốc độc, hoặc có người mất bản tâm, hoặc có người không mất, ở xa trông thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy thăm hỏi cha được bình an trở về. Chúng con ngu si, uống lầm thuốc độc, xin cha hãy cứu chữa, khiến cho chúng con khỏi bệnh sống lâu.

Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp cho các người con uống, mà nói rằng: Đây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị bệnh nữa.

Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương đều tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người cha về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc, mà chẳng chịu uống.

Tại sao? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon, mà cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng: Những đứa con này thật đáng thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu chữa, thuốc hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện, khiến cho chúng uống thuốc này. Bèn nói như vầy: Các con nên biết, nay ta già nua, thời kỳ chết đã đến, thuốc hay tốt này, nay để ở tại đây, các con có thể lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh không lành. Dạy như thế rồi, lại đến nước khác, sai sứ về nói là cha của nhà ngươi đã chết.

Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy: Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ chúng ta. Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có chỗ nương tựa, thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc này sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi. Người cha nghe tin con đều đã khỏi bệnh, bèn trở về, khiến cho các người con gặp lại.

Các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Có người nào cho rằng, vị lương y đó phạm tội vọng ngữ chăng? Không vậy, Đức Thế Tôn!

Đức Phật nói: Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức phương tiện, nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói ta có lỗi nói dối.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Ta thành Phật đến nay

Trải qua các kiếp số

Vô lượng trăm ngàn vạn

ức kiếp A tăng kỳ.

Thường nói pháp giáo hóa

Vô số ức chúng sinh

Khiến vào trong Phật đạo.

Vô lượng kiếp đến nay

Vì độ hóa chúng sinh

Phương tiện hiện Niết Bàn

Mà thật chẳng diệt độ.

Thường ở đây nói pháp

Ta thường trụ nơi đây

Dùng các sức thần thông

Khiến chúng sinh điên đảo

Tuy gần mà chẳng thấy.

Chúng thấy ta diệt độ

Rộng cúng dường xá lợi

Đều ôm lòng luyến mộ

Mà sinh tâm khát ngưỡng.

Chúng sinh bèn tin phục

Ý chất trực mềm dịu

Một lòng muốn gặp Phật

Chẳng tự tiếc thân mạng.

Khi ta và chúng Tăng

Cùng ở tại Linh Thứu

Có lúc nói chúng sinh

Thường tại đây chẳng diệt.

Vì dùng sức phương tiện

Hiện có diệt chẳng diệt.

Nước khác có chúng sinh

Ai cung kính tin ưa

Ta lại ở trong họ

Vì nói pháp vô thượng.

Các ông chẳng nghe đây

Cho rằng ta diệt độ

Ta thấy các chúng sinh

Trôi lăn nơi khổ não.

Nên chẳng vì hiện thân

Khiến họ sinh khát ngưỡng

Do tâm họ luyến mộ

Mới hiện thân nói pháp.

Sức thần thông như thế

Trong A tăng kỳ kiếp

Thường ở núi Linh Thứu

Và ở các nơi khác.

Chúng sinh thấy kiếp tận

Khi lửa lớn thiêu đốt

Ta cõi này an ổn

Trời người thường đầy dẫy.

Vườn rừng những lầu các

Đủ thứ báu trang nghiêm

Cây báu nhiều hoa quả

Nơi chúng sinh dạo chơi.

Chư Thiên đánh trống trời

Thường tấu các âm nhạc

Mưa hoa mạn đà la

Rải Phật và đại chúng.

Cõi tịnh ta chẳng hoại

Mà chúng thấy thiêu sạch

Lo sợ các khổ não

Như thế đều đầy dẫy.

Chúng sinh có tội đó

Bởi nhân duyên nghiệp ác

Qua A tăng kỳ kiếp

Chẳng nghe tên Tam Bảo.

Những người tu công đức

Tâm nhu hòa chất trực

Thảy đều thấy thân ta

Ở tại đây nói pháp.

Có khi vì chúng đó

Nói Phật thọ vô lượng

Người lâu mới thấy Phật

Thì nói Phật khó gặp.

Trí lực ta như thế

Huệ quang chiếu vô lượng

Thọ mạng vô số kiếp

Do tu lâu mà được.

Các ông người có trí

Chớ nên sinh hoài nghi

Hãy đoạn khiến dứt sạch

Lời Phật thật không hư.

Như lương y phương tiện

Vì trị bệnh cho con

Thật còn mà nói chết

Không thể nói hư vọng.

Ta là cha cõi đời

Cứu những người khổ nạn

Vì phàm phu điên đảo

Thật còn mà nói diệt.

Do bởi thường thấy ta

Mà sinh tâm kiêu ngạo

Phóng dật chấp năm dục

Đọa trong ba đường ác.

Ta biết rõ chúng sinh

Hành đạo chẳng hành đạo

Tùy chúng sinh độ được

Mà nói đủ thứ pháp.

Tự ý thường nghĩ rằng:

Làm sao khiến chúng sinh

Được vào vô thượng đạo

Sớm thành tựu thân Phật.

***

Phẩm Phân Biệt Công Đức thứ Mười Bảy

Bấy giờ, đại chúng trong đại hội nghe Phật nói số kiếp tuổi thọ lâu dài như thế, thì vô lượng vô biên A tăng kỳ chúng sinh, đều được lợi ích.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Đa! Khi ta nói Như Lai thọ mạng lâu dài như thế, thì có sáu trăm tám mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh được vô sinh pháp nhẫn.

Lại có gấp bội ngàn lần đại Bồ Tát, đắc được môn văn trì Đà la ni. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được nhạo thuyết biện tài vô ngại. Lại có số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một thế giới, đắc được trăm ngàn vạn ức vô lượng toàn Đà la ni. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, chuyển được pháp luân bất thối. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của trung thiên thế giới, chuyển được pháp luân thanh tịnh. Lại có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của tiểu thiên thế giới, còn tám đời nữa sẽ đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của bốn tứ thiên hạ, còn bốn đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ba tứ thiên hạ, còn ba đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của hai tứ thiên hạ, còn hai đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của một tứ thiên hạ, còn một đời nữa sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có chúng sinh nhiều như hạt bụi của tám thế giới, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Khi Đức Phật nói các vị đại Bồ Tát đó được đại pháp lợi, thì ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, dùng để rải lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, và rải lên tháp bảy báu tòa sư tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ đã lâu, cũng rải lên tất cả các đại Bồ Tát, và bốn bộ chúng.

Lại mưa xuống hương bột chiên đàn, và hương trầm thủy. Ở trong hư không trống trời tự kêu, âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn thứ y trời, thòng rũ xuống các chuỗi ngọc, chuỗi trân châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý, khắp cả chín phương. Các lò hương báu đốt lên hương vô giá, tự nhiên tỏa khắp để cúng dường pháp hội.

Ở phía trên, mỗi vị Phật có các Bồ Tát cầm phan lọng, thứ tự thăng đến trời Phạm Thiên. Các vị Bồ Tát đó, dùng âm thanh vi diệu ca xướng vô lượng bài kệ, để khen ngợi các Đức Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc từ tòa ngồi đứng dậy, hở vai bên phải, chắp tay cung kính hướng về Đức Phật, mà nói bài kệ rằng:

Phật nói pháp hi hữu

Thuở xưa chưa từng nghe

Thế Tôn có thần lực

Tuổi thọ không thể lường.

Vô số các Phật tử

Nghe Thế Tôn phân biệt

Nói người được pháp lợi

Vui mừng khắp toàn thân.

Hoặc trụ bậc bất thối

Hoặc được Đà la ni

Hoặc nhạo thuyết vô ngại

Vạn ức toàn tổng trì.

Hoặc có đại thiên giới

Số hạt bụi Bồ Tát

Ai nấy đều chuyển được

Bánh xe pháp bất thối.

Lại có trung thiên giới

Số hạt bụi Bồ Tát

Ai nấy đều chuyển được

Bánh xe pháp thanh tịnh.

Lại có tiểu thiên giới

Số hạt bụi Bồ Tát

Chỉ còn tám đời nữa

Sẽ chứng được Phật đạo.

Lại có bốn ba hai

Tứ thiên hạ như vậy

Các hạt bụi Bồ Tát

Theo số đời thành Phật.

Hoặc một tứ thiên hạ

Số hạt bụi Bồ Tát

Chỉ còn một đời nữa

Sẽ thành Nhất thiết trí.

Như thế thảy chúng sinh

Nghe Phật thọ lâu dài

Được vô lượng vô lậu

Các quả báo thanh tịnh.

Lại có tám thế giới

Số hạt bụi chúng sinh

Nghe Phật nói thọ mạng

Đều phát tâm vô thượng.

Thế Tôn nói vô lượng

Pháp không thể nghĩ bàn

Nhiều chúng được lợi ích

Như hư không vô biên.

Mưa hoa trời mạn đà

Ma ha mạn đà la

Thích Phạm như Hằng sa

Đến từ vô số cõi.

Mưa chiên đàn trầm thủy

Tấp nập rơi rớt xuống

Như chim bay không xuống

Cúng rải lên chư Phật.

Trống trời trong hư không

Tự nhiên vang diệu âm

Y trời ngàn vạn thứ

Chuyển động rơi rớt xuống.

Các lò hương báu đẹp

Xông đốt hương vô giá

Tự nhiên tỏa khắp nơi

Cúng dường các Thế Tôn.

Chúng đại Bồ Tát đó

Cầm phan lọng bảy báu

Cao đẹp vạn ức thứ

Thứ tự đến Phạm Thiên.

Trước mỗi các Đức Phật

Tràng báu treo thắng phan

Cũng dùng ngàn vạn kệ

Ca ngợi các Như Lai.

Đủ thứ việc như thế

Thuở xưa chưa từng có

Nghe Phật thọ vô lượng

Tất cả đều vui mừng.

Danh Phật đồn mười phương

Rộng lợi ích chúng sinh

Hết thảy đủ căn lành

Trợ phát tâm Vô thượng.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Da! Những chúng sinh nào nghe thọ mạng của Phật lâu dài như thế, cho đến sinh một niệm tin hiểu, thì được công đức chẳng có hạn lượng.

Nếu có người thiện nam, thiện nữ, vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ở trong tám mươi vạn ức Na do tha kiếp, thực hành năm Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền định Ba la mật, trừ Bát Nhã Ba la mật ra, đem công đức này, so sánh với công đức ở trên, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn ức, cho đến tính toán ví dụ, cũng không thể biết được.

Nếu người thiện nam, người thiện nữ, có công đức như thế, mà chẳng đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì chẳng có lý đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu người cầu Phật huệ

Trong tám mươi vạn ức

Na do tha kiếp số

Tu năm Ba la mật.

Ở trong các kiếp đó

Bố thí cúng dường Phật

Và Duyên Giác đệ tử

Cùng các chúng Bồ Tát.

Đồ ăn uống hảo hạng

Y tốt và đồ nằm

Chiên đàn làm tịnh xá

Dùng vườn rừng trang nghiêm.

Bố thí như thế thảy

Đủ thứ đều tốt đẹp

Hết các kiếp số đó

Hồi hướng về Phật đạo.

Nếu giữ gìn giới cấm

Thanh tịnh chẳng thiếu sót

Cầu chứng vô thượng đạo

Được chư Phật khen ngợi.

Nếu tu hạnh nhẫn nhục

Trụ nơi chỗ điều nhu

Nếu kẻ ác nhiễu loạn

Mà tâm chẳng lay động.

Có những người đắc pháp

Bị kẻ tăng thượng mạn

Khinh khi làm khổ não

Như thế cũng nhẫn được.

Nếu lại siêng tinh tấn

Chí niệm thường kiên cố

Trong vô lượng ức kiếp

Một lòng chẳng giải đãi.

Lại trong vô số kiếp

Trụ ở chỗ vắng lặng

Hoặc ngồi hoặc kinh hành

Trừ ngủ thường nhiếp tâm.

Vì bởi nhân duyên đó

Hay sinh các thiền định

Tám mươi ức vạn kiếp

An trụ tâm chẳng loạn.

Đem phước nhất tâm đó

Nguyện cầu vô thượng đạo

Con được Nhất thiết trí

Hết các bờ thiền định.

Người đó trong trăm ngàn

Vạn ức vô số kiếp

Tu các công đức đó

Như ở trên vừa nói.

Có thiện nam tín nữ

Nghe ta nói thọ mạng

Cho đến một niệm tin

Phước đây lại hơn kia.

Nếu có người chẳng có

Tất cả các nghi hoặc

Sinh tâm tin chốc lát

Phước đây đồng phước kia.

Hết thảy các Bồ Tát

Vô lượng kiếp hành đạo

Nghe ta nói thọ mạng

Thì tâm sẽ tin nhận

Những người như thế thảy

Tin thọ kinh điển này

Nguyện con đời vị lai

Sống lâu độ chúng sinh.

Như Thế Tôn hôm nay

Vua trong dòng họ Thích

Đạo tràng sư tử hống

Thuyết pháp vô sở úy.

Chúng con đời vị lai

Được tất cả tôn kính

Khi ngồi nơi đạo tràng

Cũng nói thọ như thế.

Nếu có người thâm tâm

Thanh tịnh lại chất trực

Đa văn hay tổng trì

Tùy nghĩa giải lời Phật.

Hết thảy người như thế

Nơi kinh này chẳng nghi.

Lại nữa, A Dật Đa! nếu có người nghe được thọ mạng của Phật lâu dài, mà hiểu rõ nghĩa lý của lời nói, thì người đó được công đức chẳng có hạn lượng, hay sinh ra trí huệ vô thượng của Như Lai, hà huống là rộng nghe kinh này. Hoặc dạy người đến nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc dạy người thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc dạy người biên chép, hoặc dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan, lọng lụa, dầu thơm, đèn, để cúng dường kinh quyển. Công đức của người đó vô lượng vô biên, hay sinh ra Nhất thiết chủng trí.

A Dật Đa! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, nghe ta nói thọ mạng dài lâu, mà thâm tâm tin hiểu, tức là thấy Phật thường ở tại núi Kỳ Xà Quật, cùng với các chúng đại Bồ Tát, Thanh Văn, vây quanh nói pháp. Lại thấy thế giới Ta Bà này, đất bằng lưu ly, mặt đất bằng phẳng, vàng diêm phù đàn dùng làm tám đường, cây báu thẳng hàng, các đền đài lầu các, đều dùng bảy báu tạo thành, các chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người hay quán như thế, thì nên biết người đó tin sâu hiểu kinh này.

Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này, mà chẳng hủy báng, phát tâm tùy hỷ, thì nên biết người đó, đã tin hiểu sâu kinh này, hà huống là người đọc tụng thọ trì, tức là người đó đầu đội Đức Như Lai.

A Dật Đa! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chẳng cần vì ta mà tạo dựng chùa tháp, và làm phòng ốc cho chư Tăng, dùng tứ sự cúng dường chúng Tăng. Sở dĩ vì sao? Vì người thiện nam, người thiện nữ đó, thọ trì đọc tụng kinh điển này, là đã xây dựng tháp, tạo lập phòng ốc cho chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Tức là đem Phật xá lợi tạo dựng tháp bảy báu, cao rộng nhỏ dần đến cõi trời Phạm Thiên. Lại treo các phan lọng, và các linh báu, hoa hương, anh lạc, hương bột, hương thoa, hương đốt, các thứ âm nhạc, ống tiêu, ống địch, đàn không hầu, đủ thứ kịch múa, dùng âm thanh vi diệu ca ngâm khen ngợi, tức là ở trong vô lượng ngàn vạn ức kiếp, đã từng cúng dường như thế.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, có người nghe được kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự mình biên chép, hoặc bảo người biên chép, tức là tạo dụng phòng ốc cho chúng Tăng. Dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các điện đường ba mươi hai sở, cao khoảng tám cây đa la, cao rộng trang nghiêm tốt đẹp, có trăm ngàn vị Tỳ Kheo trụ ở trong đó. Lại có vườn rừng ao tắm, lại có chỗ đi kinh hành, hang động ngồi thiền, y phục thức ăn uống, giường nệm thuốc thang, tất cả dụng cụ âm nhạc đầy dẫy trong đó. Nhà Tăng lầu các như thế, hàng trăm ngàn vạn ức nhiều vô số. Dùng những thứ đó, hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ Kheo Tăng. Vì lẽ đó mà ta nói, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, cúng dường kinh quyển, không cần tạo lập chùa tháp, và tạo phòng ốc chư Tăng, cúng dường chúng Tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này, và thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, được công đức tối thắng vô lượng vô biên. Ví như hư không, đông tây nam bắc, bốn hướng trên dưới, vô lượng vô biên, công đức của người đó, cũng lại như thế, vô lượng vô biên, sớm đắc được Nhất thiết chủng trí.

Nếu có người đọc tụng thọ trì kinh này, vì người khác nói, hoặc tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, lại hay tạo dựng tháp và tạo lập phòng ốc chư Tăng, cúng dường khen ngợi chúng Tăng Thanh Văn, cũng dùng trăm ngàn vạn ức bài pháp khen ngợi, để khen ngợi công đức của Bồ Tát. Lại vì người khác, đủ thứ nhân duyên, tùy nghĩa mà giải nói Kinh Pháp Hoa này. Lại hay giữ giới thanh tịnh, và nhu hòa ở chung với nhau, nhẫn nhục chẳng sân hận, ý chí kiên cố, thường thích ngồi thiền, được các thiền định thâm sâu, dũng mãnh tinh tấn, nhiếp các pháp lành, lợi căn trí huệ, khéo đáp các vấn nạn.

A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân, hay thọ trì đọc tụng kinh này, lại có các công đức lành như thế, thì nên biết người đó, đã hướng về đạo tràng, gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi dưới bồ đề đạo tràng.

A Dật Đa! Người thiện nam, người thiện nữ đó, chỗ của họ ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, đều nên xây tháp, tất cả trời người, đều nên cúng dường như tháp của Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu sau ta diệt độ

Hay phụng trì kinh này

Người đó phước vô lượng

Như đã nói ở trên.

Tức là được đầy đủ

Tất cả sự cúng dường

Vì xá lợi xây tháp

Bảy báu rất trang nghiêm.

Nền tháp rất cao rộng

Nhỏ dần đến Phạm Thiên

Linh báu ngàn vạn ức

Gió động vang diệu âm.

Lại trong vô lượng kiếp

Cúng dường nơi tháp đó

Hoa hương các chuỗi ngọc

Y trời các âm nhạc.

Hương đốt dầu thơm đèn

Thường chiếu sáng quanh tháp

Vào đời ác mạt pháp

Người hay trì kinh này.

Tức như trên đã nói

Đầy đủ sự cúng dường.

Nếu hay trì kinh này

Tức như Phật tại thế

Dùng ngưu đầu chiên đàn

Làm nhà Tăng cúng dường.

Gồm ba mươi hai sở

Cao tám cây đa la

Thức ăn ngon y đẹp

Giường nằm đều đầy đủ.

Trăm ngàn chúng ở đó

Vườn rừng các ao tắm

Kinh hành động ngồi thiền

Các thứ đều trang nghiêm.

Nếu người tâm tin hiểu

Thọ trì đọc tụng biên

Và cúng dường kinh quyển

Rải hoa thơm hương bột.

Hoa tu mạn chiêm bặc

A đề mục đa già

Đốt đèn dầu cháy mãi

Người cúng dường như thế.

Được công đức vô lượng

Như hư không vô bờ

Phước đó cũng như thế.

Huống lại trì kinh này

Và bố thí trì giới

Nhẫn nhục thích thiền định

Chẳng sân chẳng chưởi mắng.

Cung kính nơi chùa tháp

Khiêm nhường các Tỳ Kheo

Xa lìa tâm kiêu ngạo

Thường suy gẫm trí huệ.

Có vấn nạn chẳng sân

Tùy thuận làm giải thoát

Nếu làm được hạnh đó

Công đức không thể lường.

Nếu thấy pháp sư đó

Thành tựu đức như thế

Nên dùng hoa trời rải

Y trời che thân họ.

Cúi đầu cung kính lễ

Tâm sinh nghĩ như Phật

Lại nên nghĩ như vầy:

Chẳng lâu đến đạo tràng.

Được vô lậu vô vi

Rộng lợi các trời người

Chỗ của người đó ở

Hoặc kinh hành ngồi thiền.

Cho đến nói bài kệ

Đều nên xây dựng tháp

Trang nghiêm khiến tốt đẹp

Dùng các thứ cúng dường.

Phật tử trụ nơi đó

Tức là Phật thọ dụng

Thường ở tại trong đó

Kinh hành và ngồi nằm.

***

QUYỂN 6

Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ Mười Tám

Bấy giờ, đại Bồ Tát Di Lặc bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, nghe Kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ, thì đắc được bao nhiêu phước đức? Bèn nói bài kệ rằng:

Sau khi Phật diệt độ

Có người nghe kinh này

Mà sinh tâm tùy hỷ

Được bao nhiêu công đức?

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Di Lặc: A Dật Đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, và những người có trí khác, hoặc già, hoặc trẻ, nghe kinh này mà tùy hỷ. Từ pháp hội ra đi đến nơi khác. Hoặc tại nhà của chư Tăng ở, hoặc tại chỗ vắng vẻ, hoặc tại thành ấp đường xá, xóm làng ruộng nương, đem sự nghe của mình mà vì cha mẹ, người thân, bạn bè, tri thức, tùy sức mà diễn nói, khiến cho họ nghe rồi mà tùy hỷ, lại đi diễn nói với người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ, lại đi diễn nói với người khác nữa, cứ như thế cho đến người thứ năm mươi.

A Dật Đa! Người thiện nam, người thiện nữ, thứ năm mươi đó, tùy hỷ công đức, nay ta nói ra ông nên lắng nghe. Nếu bốn loài sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài sinh bằng ẩm ướt, loài biến hóa sinh ra, hoặc loài có hình, loài không có hình, loài có nghĩ tưởng, loài không có nghĩ tưởng, loài chẳng có nghĩ tưởng chẳng phải không có nghĩ tưởng, loài không chân, hai chân, loài bốn chân, nhiều chân, như vậy hết thảy loài chúng sinh. Có người cầu phước, tùy theo sự ưa muốn của họ, mà cung cấp cho đầy đủ. Mỗi mỗi chúng sinh đều cấp cho đầy cõi Diêm Phù Đề: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ mã não, san hô, hổ phách, các thứ châu báu, và voi ngựa, xe cộ, cung điện lầu các làm bằng bảy báu .v.v… Đại thí chủ đó, bố thí như vậy mãn tám mươi năm rồi, bèn nghĩ như vầy: Ta đã bố thí cho chúng sinh những đồ vui thích, tùy ý sự ưa muốn của họ, nhưng những chúng sinh này đều đã già nua, tuổi đã quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn, sự chết chẳng còn bao lâu. Ta nên dùng Phật pháp để giáo hóa họ. Bèn triệu tập những chúng sinh đó, truyền bá Phật pháp giáo hóa, khiến cho họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nhất thời đều đắc được đạo Tu Đà Hoàn, đạo Tư Đà Hàm, đạo A Na Hàm, đạo A La Hán, sạch các hữu lậu, nơi thiền định thâm sâu đều đắc được tự tại, đủ tám giải thoát. Ý của ông thế nào? Vị đại thí chủ đó, đắc được công đức có nhiều chăng?

Bồ Tát Di Lặc bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Công đức của người đó rất nhiều, vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó, chỉ bố thí tất cả đồ vui thích, thì công đức đã vô lượng, hà huống khiến cho họ đắc được quả A La Hán.

Đức Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Nay ta phân tích rõ cho ông nghe, người đó đem tất cả đồ vui thích, bố thí cho sáu đường chúng sinh, trong bốn trăm vạn ức A tăng kỳ thế giới. Lại khiến cho họ đắc quả A La Hán, công đức của người đó, chẳng bằng người thứ năm mươi, nghe một bài kệ Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ công đức, trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cũng chẳng bằng một phần, cho đến tính đếm thí dụ, cũng không thể biết được.

A Dật Đa! Như người thứ năm mươi đó, lần lượt được nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, công đức còn vô lượng vô biên A tăng kỳ, hà huống là người đầu tiên ở trong pháp hội, nghe Kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ. Phước người này, còn hơn phước người thứ năm mươi, vô lượng vô biên A tăng kỳ, không thể sánh được.

Lại nữa, A Dật Đa! Nếu có người vì kinh này, mà đi đến phòng Tăng, hoặc ngồi, hoặc đứng, nghe trong giây lát, thì nhờ công đức đó, mà tái sinh đời sau, được voi ngựa, xe cộ, châu báu, kiệu cáng, đồ thượng hạng và cung điện.

Nếu lại có người ngồi ở nơi giảng pháp, có người đến mà khuyên bảo, khiến cho họ ngồi nghe pháp, hoặc phân chia chỗ cho họ ngồi, thì công đức của người đó khi chuyển thân khác, sẽ được chỗ ngồi của trời Đế Thích, hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của vua chuyển luân thánh vương.

A Dật Đa! Nếu lại có người nói với người khác rằng: Có kinh tên là Pháp Hoa, chúng ta có thể cùng nhau đến nghe, người đó nghe lời bèn đến nghe trong chốc lát. Công đức của người đó chuyển thân sau, được sinh cùng một chỗ với Bồ Tát Đà La Ni, có lợi căn trí huệ. Trong trăm nghìn vạn đời chẳng bao giờ bị câm, hơi miệng chẳng hôi thối, lưỡi thường chẳng có bệnh tật, miệng cũng chẳng có bệnh tật, răng chẳng dơ, chẳng đen, chẳng vàng, chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng cong. Môi chẳng thòng xuống, cũng chẳng co rút lại, chẳng thô rít, chẳng ung nhọt, cũng chẳng khuyết xấu, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen xạm, chẳng có các sự đáng chê. Mũi chẳng dẹp, cũng chẳng cong. Sắc mặt chẳng đen, cũng chẳng dài hẹp, cũng chẳng cong trũng, chẳng có những tướng khiến cho người thấy chẳng vui. Môi lưỡi răng thảy đều tốt đẹp trang nghiêm, mũi thì cao thẳng. Mặt mày tròn đầy, mi cao mà dài, trán rộng bằng phẳng, nhân tướng đây đủ. Đời đời sinh ra đều gặp Phật, nghe pháp tin nhận lời của Phật dạy.

A Dật Đa! Ông xem đó, khuyên một người khiến cho họ đến nghe pháp, mà được công đức như thế, hà huống là một lòng nghe giảng, đọc tụng, rồi ở trong đại chúng vì mọi người phân biệt giải nói pháp tu hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu người trong pháp hội

Được nghe kinh điển này

Cho đến một bài kệ

Tùy hỷ với người nói.

Như vậy lần lượt dạy

Đến người thứ năm mươi

Người cuối cùng được phước

Nay sẽ phân biệt nói.

Như có đại thí chủ

Bố thí vô lượng chúng

Tròn đủ tám mươi năm

Tùy ý muốn của họ.

Thấy họ tướng già nua

Tóc bạc và mặt nhăn

Răng rụng hình khô gầy

Nghĩ họ chết sắp đến.

Nay ta nên dạy họ

Khiến cho được đạo quả

Bèn dùng phương tiện nói

Pháp Niết Bàn chân thật.

Đời đều chẳng lâu bền

Như bọt nước ngọn lửa

Các ông phải nên biết

Sớm sinh tâm nhàm lìa.

Mọi người nghe pháp đó

Đều đắc A La Hán

Đầy đủ sáu thần thông

Ba minh tám giải thoát.

Người năm mươi cuối cùng

Nghe bài kệ tùy hỷ

Người này phước hơn kia

Không thể ví dụ được.

Lần lượt nghe như vậy

Phước đức còn vô lượng

Hà huống trong pháp hội

Người đầu nghe tùy hỷ.

Nếu khuyên được một người

Dẫn họ nghe Pháp Hoa

Nói kinh này thâm diệu

Ngàn vạn ức khó gặp.

Bèn nghe lời đến nghe

Cho dù nghe chốc lát

Phước báu của người đó

Nay sẽ phân biệt nói.

Đời đời miệng chẳng bệnh

Răng chẳng thưa vàng đen

Môi chẳng dày co thiếu

Chẳng có tướng đáng chê.

Lưỡi chẳng khô đen ngắn

Mũi vừa cao lại thẳng

Trán rộng và bằng phẳng

Mặt mày rất đoan nghiêm.

Khiến người hoan hỷ thấy

Hơi miệng chẳng hôi thối

Thơm như hoa ưu bát

Thường từ miệng toả ra.

Nếu đi đến nhà Tăng

Muốn nghe Kinh Pháp Hoa

Hoan hỷ nghe chốc lát

Nay sẽ nói phước đó.

Sau sinh trong trời người

Được voi ngựa xe báu

Châu báu và kiệu cáng

Và ngồi cung điện trời.

Nếu ở nơi giảng pháp

Khuyên người ngồi nghe kinh

Nhờ phước đó nên được

Tòa Thích Phạm chuyển luân.

Hà huống một lòng nghe

Giải nói nghĩa lý kinh

Như lời nói tu hành

Phước đó chẳng hạn lượng.

***

Phẩm Công Đức Pháp Sư thứ Mười Chín

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì người đó sẽ được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ công đức đó, trang nghiêm sáu căn đều khiến cho thanh tịnh.

Người thiện nam, người thiện nữ đó, mắt thịt cha mẹ sinh ra thấy ba ngàn đại thiên thế giới, trong ngoài hết thảy núi rừng, sông biển, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, cũng thấy tất cả chúng sinh trong đó, và nghiệp nhân duyên quả báo, nơi sinh đều thấy đều biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu ở trong đại chúng

Chẳng có tâm sợ sệt

Nói Kinh Pháp Hoa này

Ông lắng nghe công đức.

Người đó được tám trăm

Công đức mắt thù thắng

Nhờ vậy mà trang nghiêm

Con mắt rất thanh tịnh.

Mắt cha mẹ sinh ra

Thấy được ba ngàn cõi

Trong ngoài núi Di Lâu

Tu Di và Thiết Vi.

Và các núi rừng khác

Nước biển cả sông ngòi.

Dưới đến ngục A Tỳ

Trên đến trời Hữu Đỉnh

Các chúng sinh trong đó

Hết thảy đều thấy rõ.

Tuy chưa được thiên nhãn

Sức nhục nhãn như thế.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, nhờ tai thanh tịnh, nên nghe được tất cả các thứ tiếng, trong ba ngàn đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, trong đó hết thảy các thứ lời nói âm thanh, đều nghe rõ hết. Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng bò, tiếng xe, tiếng khóc lóc, tiếng vui buồn, tiếng pháp loa, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng hoan hỷ, tiếng không hoan hỷ, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ Xoa, tiếng Càn Thát Bà, tiếng A tu la, tiếng Ca Lâu La, tiếng Khẩn Na La, tiếng Ma Hầu La Già, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ, tiếng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ Kheo ni, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Tai cha mẹ sinh ra

Thanh tịnh chẳng ô nhiễm

Dùng tai thường này nghe

Tiếng ba ngàn thế giới.

Tiếng voi ngựa xe trâu

Tiếng chuông linh loa trống

Tiếng cầm sắt không hầu

Tiếng ống tiêu ống địch.

Tiếng ca hay thanh tịnh

Nghe mà chẳng chấp trước

Tiếng vô số loại người

Nghe thảy đều hiểu rõ.

Lại nghe tiếng chư Thiên

Âm thanh ca vi diệu

Và nghe tiếng nam nữ

Tiếng đồng tử đồng nữ.

Trong núi sông hang hiểm

Tiếng ca lăng tần già

Cộng mệnh các thứ chim

Đều nghe rõ các tiếng.

Các thống khổ địa ngục

Đủ thứ tiếng rên la

Quỷ đói khát bức bách

Tiếng tìm cầu ăn uống.

Các A tu la thảy

Ở ven cạnh bờ biển

Khi chúng cùng nhau nói

Vang ra âm thanh lớn.

Người giải nói kinh này

An trụ vào nơi nghe

Nghe xa các tiếng đó

Mà chẳng hư căn tai.

Trong mười phương thế giới

Tiếng cầm thú kêu la

Người hay nói pháp đó

Hoàn toàn nghe được hết.

Trên các trời Phạm Thiên

Quang Âm và Biến Tịnh

Cho đến trời Hữu Đỉnh

Lời nói và âm thanh.

Pháp sư ở tại đây

Thảy đều nghe được hết.

Chư Phật đấng Đại Thánh

Giáo hóa các chúng sinh

Ở trong các đại hội

Diễn nói pháp vi diệu.

Người trì Kinh Pháp Hoa

Hoàn toàn đều nghe được.

Ba ngàn đại thiên giới

Trong ngoài các thứ tiếng

Dưới đến ngục A Tỳ

Trên đến trời Hữu Đỉnh

Đều nghe được tiếng đó

Mà chẳng hư căn tai.

Vì căn tai thông lợi

Đều phân biệt biết được

Người trì Pháp Hoa này

Tuy chưa được thiên nhĩ

Dùng tai cha mẹ sinh

Công đức đã như thế.

Tất cả chúng Tỳ Kheo

Và chúng Tỳ Kheo ni

Hoặc đọc tụng kinh điển

Hoặc vì người khác nói.

Pháp sư ở tại đây

Hoàn toàn đều nghe được.

Lại có các Bồ Tát

Đọc tụng kinh pháp này

Hoặc vì người khác nói

Tuyển tập giải nghĩa kinh.

Các âm thanh như thế

Hoàn toàn đều nghe được.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc tụng giải nói, hoặc biên chép, thì thành tựu tám trăm công đức nơi mũi. Dùng căn mũi thanh tịnh đó, ngửi được các thứ mùi hương trong ngoài, trên dưới trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Hương thơm của hoa tu mạn na, hương thơm hoa xà đề, hương thơm hoa mặc lợi, hương thơm hoa thiềm bặc, hương thơm hoa ba la la, hương thơm hoa sen đỏ, hương thơm hoa sen xanh, hương thơm hoa sen trắng, hương thơm cây có hoa, hương thơm cây có quả, hương chiên đàn, hương trầm thủy, hương đa ma la bạt, hương đa già la, và hàng ngàn vạn thứ hương hòa hợp, hoặc hương bột, hoặc hương viên tròn, hoặc hương xoa. Người trì kinh này, trụ ở nơi này, đều phân biệt được.

Lại phân biệt biết được mùi hương của chúng sinh, mùi hương của voi, mùi hương của ngựa, mùi hương của bò dê, mùi hương con trai, mùi hương con gái, mùi hương đồng tử, mùi hương đồng nữ và mùi hương cỏ cây lùm rừng, hết thảy các mùi hương, hoặc gần hoặc xa, đều ngửi được, phân biệt chẳng sai lầm.

Người trì kinh này, tuy ở nơi đây, mà cũng ngửi được mùi hương của chư Thiên ở trên trời, mùi hương cây ba lợi chất đa la, câu tì đà la, và mùi hương hoa mạn đà la, mùi hương hoa ma ha mạn đà la, mùi hương hoa mạn thù sa, mùi hương hoa ma ha mạn thù sa, các thứ hương bột chiên đàn, trầm thủy, các thứ hương của các loại hoa. Các mùi hương trời hòa hợp tỏa ra như thế, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi biết được.

Lại ngửi được mùi hương thân của chư Thiên, mùi hương khi Thích Đề Hoàn Nhân ở trong Thắng Điện, đùa giỡn vui chơi hưởng thụ năm dục, hoặc mùi hương khi ở trong Diệu Pháp Đường, vì chư Thiên trời Đao Lợi thuyết pháp, hoặc mùi hương khi ở trong vườn dạo chơi, và mùi hương người nam, người nữ, của các vị trời khác, thảy đều ngửi biết được.

Như thế, lần lượt đến trời Đại Phạm. Trên đến trời Hữu Đỉnh, mùi hương nơi thân của chư Thiên cũng đều ngửi được, mùi hương đốt của chư thiên, và mùi hương của Thanh Văn, mùi hương của Bích Chi Phật, mùi hương của Bồ Tát, mùi hương thân của chư Phật, cũng đều ngửi được, và biết ở đâu. Tuy ngửi được những mùi hương đó, mà căn mũi chẳng hư, chẳng sai lầm. Nếu muốn phân biệt giải nói cho người khác, thì nhớ nghĩ chẳng quên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Người đó mũi thanh tịnh

Ở trong thế giới này

Hoặc vật thơm hay hôi

Các thứ đều ngửi được.

Tu mạn na xa đề

Đa ma la chiên đàn

Trầm thủy và hương quế

Các thứ hương hoa quả.

Và hương các chúng sinh

Hương người nam người nữ

Người thuyết pháp ở xa

Ngửi hương biết chỗ nào.

Đại thế chuyển luân vương

Tiểu chuyển luân và con

Quần thần các cung nhân

Ngửi hương biết chỗ nào.

Thân mang các châu báu

Và tạng báu trong đất

Chuyển luân vương nữ báu

Ngửi hương biết ở đâu.

Mọi người thân trang sức

Quần áo và chuỗi ngọc

Và các thứ hương xoa

Ngửi hương đều biết rõ.

Chư thiên đi hoặc ngồi

Đùa giỡn và thần biến

Người trì kinh pháp này

Ngửi hương đều biết được.

Các cây hoa quả thật

Và dầu tô hương vị

Người trì kinh ở đây

Biết rõ ở chỗ nào.

Nơi núi sâu nguy hiểm

Cây chiên đàn nở hoa

Chúng sinh ở trong đó

Ngửi hương đều biết được.

Núi Thiết Vi biển cả

Các chúng sinh trong đất

Người trì kinh ngửi hương

Đều biết ở chỗ nào.

Nam nữ A tu la

Và quyến thuộc của họ

Khi đấu tranh vui đùa

Ngửi hương đều biết được.

Nơi khoáng dã nguy hiểm

Sư tử voi hổ lang

Bò hoang trâu nước thảy

Ngửi mùi biết chỗ ở.

Nếu có người mang thai

Chưa biết trai hay gái

Vô căn và phi nhân

Ngửi hương đều biết được.

Bởi nhờ sức ngửi hương

Biết được sự mang thai

Thành tựu chẳng thành tựu

An lạc sinh quý tử.

Bởi nhờ sức ngửi hương

Biết nam nữ nghĩ gì

Tâm nhiễm dục sân si

Cũng biết người tu thiện.

Trong đất có kho tàng

Vàng bạc các châu báu

Đồ đồng dùng đựng chứa

Ngửi hương đều biết được.

Đủ thứ các chuỗi ngọc

Không biết được giá cả

Ngửi hương biết tốt xấu

Xuất xứ và ở đâu.

Các thứ hoa trên trời

Mạn đà mạn thù sa

Cây ba lợi chất đa

Ngửi hương đều biết được.

Các cung điện trên trời

Thượng trung hạ khác nhau

Các hoa báu trang nghiêm

Ngửi hương đều biết được.

Vườn rừng Thắng Điện trời

Các quán Diệu Pháp Đường

Vui đùa ở trong đó

Ngửi hương đều biết được.

Chư thiên hoặc nghe pháp

Hoặc khi thọ năm dục

Lai vãng đi ngồi nằm

Ngửi hương đều biết được.

Y phục thiên nữ mặc

Hương hoa quý trang nghiêm

Khi đi dạo du hí

Ngửi hương đều biết được.

Như vậy lần lượt lên

Cho đến trời Phạm Thế

Người nhập thiền xuất thiền

Ngửi hương đều biết được.

Trời Quang Âm Biến Tịnh

Cho đến trời Hữu Đỉnh

Sơ sinh và đến chết

Ngửi hương đều biết được.

Các chúng Tỳ Kheo thảy

Với pháp thường tinh tấn

Hoặc ngồi hoặc kinh hành

Và đọc tụng kinh điển.

Hoặc dưới cây trong rừng

Chuyên tinh tấn ngồi thiền

Người trì kinh ngửi hương

Đều biết họ ở đâu.

Bồ Tát chí vững chắc

Ngồi thiền hoặc đọc tụng

Hoặc vì người nói pháp

Ngửi hương đều biết được.

Thế Tôn trong mười phương

Được tất cả cung kính

Thương chúng mà nói pháp

Ngửi hương đều biết được.

Chúng sinh ở trước Phật

Nghe kinh đều hoan hỷ

Như pháp mà tu hành

Ngửi hương đều biết được.

Tuy chưa được vô lậu

Pháp sinh tỹ Bồ Tát

Mà người trì kinh này

Trước được tướng mũi này.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi. Hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở, và các đồ đắng cay, khi đến căn lưỡi, thì đều biến thành vị thượng diệu như là cam lồ, chẳng có gì mà không ngon. Hoặc dùng căn lưỡi ở trong đại chúng diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, khiến cho tâm của người nghe, đều hoan hỷ sung sướng. Lại có các Thiên tử, Thiên nữ, các vị trời Đế Thích, Phạm Thiên .v.v… nghe được âm thanh diễn nói pháp vi diệu như thế, lời nói có thứ lớp thì đều đến nghe. Và các rồng, rồng nữ, Dạ Xoa, Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà, Càn Thát Bà nữ, A tu la, A tu la nữ, Ca Lâu Na, Ca Lâu Na nữ, Khẩn Na La, Khẩn Na La nữ, Ma Hầu La Già, Ma Hầu La Già nữ, vì nghe pháp mà đến gần gũi cung kính cúng dường. Và Tỳ Kheo Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, quốc vương, thái tử, quần thần quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con, quyến thuộc nội ngoại, đều ngồi cung điện đến để nghe pháp. Bởi Bồ Tát đó khéo nói pháp, cho nên các Bà la môn, cư sĩ nhân dân trong nước, suốt đời theo hầu hạ cúng dường.

Lại nữa, các vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật, thường ưa thấy vị pháp sư đó. Vị đó ở đâu, thì chư Phật đều hướng về vị đó nói pháp, vị đó đều thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra pháp âm thâm sâu vi diệu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Căn lưỡi người đó tịnh

Trọn chẳng thọ vị dở

Người đó ăn những gì

Đều biến thành cam lồ.

Dùng tiếng diệu thâm tịnh

Trong đại chúng nói pháp

Dùng nhân duyên ví dụ

Dẫn dắt tâm chúng sinh.

Người nghe đều hoan hỷ

Sắm các thứ cúng dường.

Các trời rồng Dạ Xoa

Và A tu la thảy

Đều dùng tâm cung kính

Cùng đến để nghe pháp.

Người đó diễn nói pháp

Hoặc muốn dùng diệu âm

Vang khắp ba ngàn cõi

Tùy ý bèn đến được.

Vua luân vương lớn nhỏ

Và ngàn con quyến thuộc

Chắp tay tâm cung kính

Thường đến nghe thọ pháp.

Các trời rồng Dạ Xoa

La sát Tỳ xá xà

Cũng dùng tâm hoan hỷ

Thường thích đến cúng dường.

Trời Phạm Thiên ma vương

Tự Tại Đại Tự Tại

Hết thảy các Thiên chúng

Thường đến chỗ người đó.

Chư Phật và đệ tử

Nghe người đó nói pháp

Thường nhớ mà bảo hộ

Hoặc có khi hiện thân.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được tám trăm công đức nơi thân, được thân thanh tịnh như lưu ly, chúng sinh đều thích thấy. Vì thân người đó thanh tịnh, cho nên chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, khi sinh, khi chết, trên trời, dưới địa ngục, tốt xấu, sinh về chỗ lành, sinh về chỗ dữ, thảy đều hiện ra trong thân người đó. Và núi Thiết Vi, núi đại Thiết Vi, núi Di Lâu, núi đại Di Lâu, hết thảy các núi, và chúng sinh ở trong đó, đều hiện ra trong đó. Dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, hết thảy cảnh giới và tất cả chúng sinh, đều hiện ra ở trong đó. Hoặc hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, đều hiện ra hình bóng ở trong thân người đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Nếu người trì Pháp Hoa

Được thân rất thanh tịnh

Tịnh như là lưu ly

Chúng sinh đều ưa thấy.

Lại tịnh như gương sáng

Đều thấy các hình bóng

Bồ Tát nơi thân tịnh

Đều thấy toàn thế giới.

Chỉ riêng mình thấy rõ

Người khác chẳng thấy được.

Trong ba ngàn thế giới

Tất cả hữu vô tình

Trời người A tu la

Địa ngục quỷ súc sinh.

Các hình bóng như thế

Đều hiện ra trong thân.

Cung điện của chư Thiên

Cho đến trời Hữu Đỉnh

Núi Thiết và Di Lâu

Các biển cả sông ngòi

Đều hiện ra trong thân.

Chư Phật và Thanh Văn

Phật tử Bồ Tát thảy

Hoặc riêng hoặc trong chúng

Nói pháp đều hiện ra.

Tuy chưa được vô lậu

Và pháp tánh diệu thân

Dùng thân thanh tịnh thường

Tất cả hiện trong đó.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, mà thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ ý căn thanh tịnh đó, cho đến nghe một bài kệ, một câu, mà thông đạt được nghĩa lý vô lượng vô biên. Hiểu nghĩa lý đó rồi, mà có thể diễn nói một câu kinh, một bài kệ, thậm chí giảng đến một tháng, bốn tháng, cho đến một năm. Các pháp nói ra, tùy theo nghĩa lý đều hợp với thật tướng, chứ chẳng trái ngược với thật tướng, hoặc nói kinh sách thế gian, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp làm ăn, thảy đều hợp với chánh pháp. Sáu đường chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, tâm nghĩ gì, tâm khởi làm những gì, và tâm hí luận, thảy đều biết rõ. Tuy chưa được trí huệ vô lậu, mà căn ý của người đó thanh tịnh như thế. Người đó có suy nghĩ tính toán nói năng đều là Phật pháp, chẳng có gì mà chẳng chân thật, cũng là đạo lý ở trong kinh trước kia Phật đã nói.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Người đó ý thanh tịnh

Sáng suốt chẳng vẩn đục

Nhờ căn diệu ý đó

Biết pháp thượng trung hạ.

Cho đến nghe bài kệ

Thông đạt vô lượng nghĩa

Thứ lớp như pháp nói

Tháng bốn tháng một năm.

Trong ngoài thế giới đó

Tất cả các chúng sinh

Hoặc trời rồng và người

Chúng dạ xoa quỷ thần.

Tất cả trong sáu đường

Khởi suy nghĩ những gì

Nhờ trì Kinh Pháp Hoa

Đồng thời đều biết rõ.

Vô số Phật mười phương

Trăm phước tướng trang nghiêm

Vì chúng sinh nói pháp

Khiến họ nghe thọ trì.

Suy gẫm vô lượng nghĩa

Thuyết pháp cũng vô lượng

Trọn chẳng quên hoặc sai

Do nhờ trì Pháp Hoa.

Đều biết tướng các pháp

Theo nghĩa nói thứ lớp

Rõ danh từ lời lẽ

Theo sự biết diễn nói.

Người đó nói những gì

Đều là pháp Phật nói

Bởi nhờ nói pháp đó

Nên trước chúng chẳng sợ.

Người trì Kinh Pháp Hoa

Được căn ý thanh tịnh

Tuy chưa được vô lậu

Trước có tướng như thế.

Người đó trì kinh này

An trụ nơi hi hữu

Được tất cả chúng sinh

Hoan hỷ và thương kính.

Hay dùng ngàn vạn thứ

Lời lẽ rất khéo léo

Để phân biệt diễn nói

Bởi trì Kinh Pháp Hoa.

***

Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh thứ Hai Mươi

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại Bồ Tát Đắc Đại Thế: Ông nay nên biết, nếu Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, thọ trì Kinh Pháp Hoa, nếu có người ác khẩu mắng chưởi phỉ báng, thì sẽ mắc tội báo lớn, như trước đã nói. Người trì Kinh Pháp Hoa được công đức cũng như ở trước đã nói, mắt tai mũi lưỡi đều thanh tịnh.

Đắc Đại Thế! Vào thuở xa xưa, đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại Thành.

Đức Phật Uy Âm Vương ở trong cõi nước đó, vì các hàng trời, người, A tu la mà nói pháp. Vì người cầu Thanh Văn nói pháp tứ diệu đế, độ thoát sinh già bệnh chết, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Vì người cầu Bích Chi Phật nói pháp mười hai nhân duyên. Vì các Bồ Tát cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác nói pháp sáu Ba la mật, đạt đến trí huệ cứu kính của Phật.

Đắc Đại Thế! Đức Phật Uy Âm Vương đó, thọ bốn mươi vạn ức Na do tha Hằng hà sa số kiếp. Chánh pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của cõi Diêm Phù Đề, tượng pháp lưu lại ở đời, kiếp số như hạt bụi của bốn thiên hạ. Đức Phật đó, lợi ích chúng sinh rồi, sau đó mới diệt độ.

Sau khi chánh pháp và tượng pháp diệt rồi, ở cõi nước đó, lại có Phật ra đời cũng hiệu là Uy Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như thế lần lượt có hai vạn ức đức Phật, cũng đều cùng một hiệu. Sau khi Đức Phật Uy Âm Vương đầu tiên diệt độ rồi, chánh pháp cũng diệt rồi, thì trong thời tượng pháp, hàng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có một Bồ Tát Tỳ Kheo tên là Thường Bất Khinh.

Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì mà tên là Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ Kheo đó, bất cứ gặp ai, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Ta rất kính các vị, chẳng dám khinh khi. Tại sao? Vì các vị đều hành Bồ Tát đạo, đều sẽ thành Phật. Mà vị Tỳ Kheo đó, chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ lễ lạy, cho đến ở xa thấy bốn chúng, cũng đều cố đến gần lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật.

Ở trong bốn chúng, có người sinh tâm sân hận chẳng thanh tịnh, ác khẩu mắng chưởi nói: Vị Tỳ Kheo vô trí này, từ đâu đến, mà tự nói là tôi chẳng khinh các vị, mà thọ ký cho chúng ta sẽ được thành Phật, chúng ta chẳng nhận lời thọ ký hư vọng như thế. Trải qua nhiều năm như thế, thường bị mắng chưởi mà chẳng sinh tâm sân hận. Thường nói như vầy: Các vị sẽ thành Phật. Khi nói lời đó, thì mọi người hoặc dùng gậy ngói đá đánh ném. Ngài bèn chạy trốn thật xa, mà vẫn lớn tiếng nói: Tôi chẳng dám khinh các vị, các vị đều sẽ thành Phật. Bởi thường nói lời như thế, cho nên hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn gọi Ngài là Thường Bất Khinh. Khi vị Tỳ Kheo đó sắp lâm chung, thì ở trong hư không, nghe đủ hai mươi ngàn vạn ức bài kệ Kinh Pháp Hoa, của Đức Phật Uy Âm Vương nói trước kia. Ngài nghe rồi thọ trì, bèn được căn mắt thanh tịnh, căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều thanh tịnh như đã nói ở trên. Được sáu căn thanh tịnh rồi, thì càng tăng tuổi thọ đến hai trăm vạn ức Na do tha tuổi, rộng vì người nói Kinh Pháp Hoa này.

Bấy giờ, hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tăng thượng mạn khinh khi vị đó, đặt tên là Thường Bất Khinh, thấy vị đó đắc được sức đại thần thông, sức nhạo thuyết biện tài, tâm lương thiện. Nghe vị đó nói pháp, đều tin thọ đi theo. Vị Bồ Tát đó, lại giáo hóa hàng ngàn vạn ức chúng, khiến cho họ trụ nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung, được gặp hai ngàn ức vị Phật, đều hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Ở trong pháp đó, thường nói Kinh Pháp Hoa này. Bởi nhân duyên đó, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương. Ở trong pháp của các Đức Phật đó, đều thọ trì đọc tụng, vì bốn chúng nói kinh điển này, cho nên được mắt thường thanh tịnh, tai mũi lưỡi thân ý các căn đều thanh tịnh. Ở trong bốn chúng nói pháp tâm chẳng sợ hãi.

Đắc Đại Thế! Đại Bồ Tát Thường Bất Khinh đó, cúng dường hết thảy các vị Phật như thế, cung kính tôn trọng khen ngợi, trồng các căn lành. Về sau, lại gặp ngàn vạn ức Đức Phật, cũng ở trong pháp của các vị Phật đó, diễn nói kinh này, công đức thành tựu sẽ được thành Phật.

Đắc Đại Thế! Ý ông thế nào? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở đó là người nào vậy? Chính là thân ta. Nếu trong đời quá khứ, ta chẳng thọ trì đọc tụng kinh này, chẳng vì người khác diễn nói, thì không thể sớm được Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì trước kia, ta ở chỗ các Đức Phật thọ trì đọc tụng kinh này, vì người diễn nói, nên sớm được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đắc Đại Thế! Lúc đó, bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, dùng tâm sân hận khinh tiện ta, cho nên trải qua hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng. Ngàn kiếp ở trong địa ngục A Tỳ thọ đại khổ não, hết tội đó rồi, lại gặp Bồ Tát Thường Bất Khinh, giáo hóa cho họ đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đắc Đại Thế! Ý ông thế nào? Bốn chúng thường khinh khi Bồ Tát Thường Bất Khinh, đâu phải là ai khác, nay ở trong hội này, đó là Bạt Đà Bà La cả thảy năm trăm vị Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt cả thảy năm trăm vị Tỳ Kheo, Ni Tư Phật cả thảy năm trăm vị cư sĩ nam, đều chẳng thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Đắc Đại Thế! Nên biết Kinh Pháp Hoa này, lợi ích rất lớn cho các đại Bồ Tát, khiến cho đạt đến quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bởi thế, các đại Bồ Tát sau khi Như Lai diệt độ, thường hay thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Quá khứ có Phật

Hiệu Uy Âm Vương

Thần trí vô lượng

Dẫn dắt tất cả.

Trời người rồng thần

Cùng đến cúng dường

Phật đó diệt rồi

Lúc pháp sắp diệt.

Có một Bồ Tát

Tên Thường Bất Khinh

Khi đó bốn chúng

Chấp trước nơi pháp.

Bồ Tát Bất Khinh

Đi đến chỗ họ

Bèn nói lời rằng:

Tôi chẳng khinh Ngài.

Các Ngài hành đạo

Đều sẽ thành Phật

Mọi người nghe rồi

Khinh khi mắng chưởi.

Bồ Tát Bất Khinh

Chịu đựng nhẫn nhục

Tội nghiệp hết rồi

Khi sắp lâm chung.

Nghe được kinh này

Sáu căn thanh tịnh

Nhờ sức thần thông

Tăng thêm tuổi thọ.

Lại vì mọi người

Rộng nói kinh này

Những người chấp pháp

Đều nhờ Bồ Tát.

Giáo hóa thành tựu

Khiến trụ Phật đạo

Bất Khinh mạng chung

Gặp vô số Phật.

Nhờ nói kinh này

Được vô lượng phước

Dần đủ công đức

Sớm thành Phật đạo.

Bất Khinh thuở đó

Tức là thân ta.

Bốn bộ chúng đó

Những người chấp pháp

Nghe Bất Khinh nói

Ông sẽ thành Phật.

Bởi nhân duyên đó

Gặp vô số Phật

Bồ Tát hội này

Chúng năm trăm người.

Và bốn bộ chúng

Thiện nam tín nữ

Nay ở trước ta

Nghe kinh pháp này.

Ta ở đời trước

Khuyên những người đó

Nghe thọ kinh này

Là pháp bậc nhất.

Khai thị dạy người

Khiến trụ Niết Bàn

Đời đời thọ trì

Kinh điển như thế.

Ức ức vạn kiếp

Không thể nghĩ bàn

Nên mới được nghe

Kinh Pháp Hoa này.

Ức ức vạn kiếp

Không thể nghĩ bàn

Chư Phật Thế Tôn

Diễn nói kinh này.

Bởi thế hành giả

Sau Phật diệt độ

Nghe được kinh này

Chớ sinh nghi hoặc.

Hãy nên một lòng

Rộng nói kinh này

Đời đời gặp Phật

Sớm thành Phật đạo.

***

Phẩm Thần Lực Của Như Lai thứ Hai Mươi Mốt

Bấy giờ, số đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi của ngàn thế giới, từ dưới đất vọt lên, đều ở trước Đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan của Phật, mà bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con đợi sau khi Phật diệt rồi, chỗ Đức Thế Tôn phân thân ở các cõi nước diệt độ rồi, chúng con sẽ rộng nói kinh này.

Tại sao? Vì chúng con cũng muốn tự mình được chân tịnh đại pháp, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, cúng dường kinh này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trước tất cả đại chúng Văn Thù Sư Lợi, vô lượng trăm ngàn vạn ức đại Bồ Tát xưa kia trụ ở thế giới Ta Bà, và các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trời rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, hiện sức đại thần thông, bày tướng lưỡi rộng dài lên đến cõi trời Đại Phạm.

Tất cả lỗ chân lông, đều phóng ra vô lượng vô số màu sắc quang minh, chiếu soi khắp mười phương thế giới. Chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cây báu, cũng lại như thế, bày tướng lưỡi rộng dài, phóng ra vô lượng quang minh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật ở dưới cây báu, đều hiện thần lực trọn trăm ngàn năm, sau đó mới nhiếp tướng lưỡi lại, đồng thời phát ra tiếng cười nói nhỏ nhẹ, và tiếng gảy móng tay. Hai âm thanh đó, vang đến khắp thế giới của chư Phật trong mười phương, mặt đất đều sáu thứ chấn động.

Chúng sinh ở trong đó: Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, nhờ thần lực của Phật, nên đều thấy thế giới Ta Bà này. Ở dưới vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức các cây báu, đều có chư Phật ngồi trên tòa sư tử, và thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với Đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử ở trong bảo tháp.

Lại thấy vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức vị đại Bồ Tát, và hàng bốn chúng cung kính vây quanh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ thấy như vậy rồi, thảy đều đại hoan hỷ được chưa từng có.

Lúc đó, chư Thiên ở trong hư không lớn tiếng xướng lên rằng: Qua đây vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ thế giới, có cõi nước Ta Bà, trong đó có vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Hôm nay vì các đại Bồ Tát nói kinh đại thừa, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, pháp giáo hóa Bồ Tát, được Phật hộ niệm. Các vị nên thâm tâm tùy hỷ, cũng nên lễ lạy cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Các chúng sinh đó, nghe tiếng nói ở trong hư không rồi, đều chắp tay hướng về thế giới Ta Bà mà nói rằng: Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, phan lọng, và các thứ đồ nghiêm thân, châu báu vật quý giá, đều từ xa rải xuống thế giới Ta Bà.

Các thứ vật rải xuống đến từ mười phương, giống như mây tụ lại, biến thành màn báu, che khắp phía trên các Đức Phật. Lúc đó, mười phương thế giới thông đạt vô ngại như một cõi Phật.

Bấy giờ, Đức Phật bảo đại chúng thượng hạnh Bồ Tát: Thần lực của chư Phật như thế, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Nếu ta dùng thần lực đó, trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, để chúc luỹ nói công đức của kinh này, thì không thể nói hết được. Tóm lại, hết thảy tất cả pháp của Như Lai, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả việc thâm sâu của Như Lai, đều diễn nói hiển bày ở trong kinh này. Bởi thế, sau khi Như Lai diệt rồi, các ông nên một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, theo như pháp mà tu hành. Dù ở trong cõi nước nào, nếu có người thọ trì đọc tụng, giải nói biên chép, theo như trong kinh nói mà tu hành. Hoặc nơi nào có kinh này, hoặc ở trong vườn, hoặc ở trong rừng, hoặc ở dưới cây, hoặc ở phòng Tăng, hoặc ở nhà cư sĩ, hoặc ở trong Phật điện, hoặc ở hang núi khoáng dã, đều nên xây tháp cúng dường. Tại sao? Nên biết nơi đó tức là đạo tràng, chư Phật từ nơi đó mà đắc được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chư Phật từ nơi đó mà chuyển bánh xe pháp, chư Phật từ nơi đó mà vào Niết Bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Chư Phật bậc cứu đời

Trụ nơi đại thần thông

Vì khiến chúng sinh vui

Hiện vô lượng thần lực.

Tướng lưỡi đến Phạm Thiên

Thân phóng vô lượng quang

Vì người cầu Phật đạo

Hiện việc ít có này.

Tiếng chư Phật cười nói

Và tiếng gảy móng tay

Đều vang khắp mười phương

Đất sáu thứ chấn động.

Sau Phật diệt độ rồi

Vì hay trì kinh này

Chư Phật đều hoan hỷ

Hiện vô lượng thần lực.

Bởi chúc luỹ kinh này

Khen ngợi người thọ trì

Ở trong vô lượng kiếp

Không thể nói hết được.

Công đức của người đó

Vô biên không cùng tận

Như mười phương hư không

Chẳng biết được bờ mé.

Người hay trì kinh này

Tức là đã thấy ta

Cũng thấy Phật Đa Bảo

Và các Phật phân thân.

Lại thấy ta hôm nay

Giáo hóa các Bồ Tát.

Người hay trì kinh này

Khiến ta và phân thân

Phật Đa Bảo diệt độ

Hết thảy đều hoan hỷ.

Mười phương Phật hiện tại

Và quá khứ vị lai

Cũng thấy cũng cúng dường

Cũng khiến được hoan hỷ.

Chư Phật ngồi đạo tràng

Đắc được pháp bí yếu

Người hay trì kinh này

Chẳng lâu cũng sẽ được.

Người hay trì kinh này

Nơi nghĩa của các pháp

Danh từ và lời lẽ

Nhạo thuyết không tận cùng.

Như gió trong hư không

Tất cả chẳng chướng ngại.

Sau Như Lai diệt rồi

Hiểu kinh của Phật nói

Nhân duyên và thứ lớp

Theo nghĩa nói như thật.

Như ánh sáng nhật nguyệt

Phá trừ sự tối tăm

Người đó tại thế gian

Diệt được tối chúng sinh.

Dạy vô lượng Bồ Tát

Rốt ráo trụ một thừa

Cho nên người có trí

Nghe rồi được công đức.

Sau ta diệt độ rồi

Nên thọ trì kinh này

Người đó trụ Phật đạo

Chắc chắn không còn nghi.

***

Phẩm Chúc Lũy thứ Hai Mươi Hai

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức đại thần thông, dùng tay phải rờ đầu vô lượng đại Bồ Tát mà nói rằng: Ta ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác khó được này. Nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên một lòng truyền bá pháp này, khiến cho chúng sinh được nhiều pháp ích. Rờ đầu các vị đại Bồ Tát như thế ba lần, bèn nói rằng: Ta ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác khó được này. Hôm nay phó chúc cho các ông, các ông nên thọ trì, đọc tụng, rộng nói pháp này, khiến cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Tại sao? Vì Như Lai có đại từ bi, chẳng có san tham, cũng chẳng có sợ hãi, có thể ban cho chúng sinh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sinh. Các ông cũng nên theo học pháp của Như Lai, chớ sinh tâm san tham.

Ở đời vị lai sau này, nếu có người thiện nam, người thiện nữ, tin trí huệ của Như Lai, thì nên vì họ diễn nói Kinh Pháp Hoa này, khiến cho họ được nghe biết, vì muốn khiến cho họ đắc được trí huệ của Phật. Nếu có chúng sinh chẳng tin nhận thọ trì kinh này, thì nên đem pháp thâm sâu khác của Như Lai, mà khai thị giáo hóa họ, khiến cho họ được lợi ích sinh tâm hoan hỷ. Nếu các ông làm được như thế, tức là đã báo được ân đức của chư Phật.

Lúc đó, các vị đại Bồ Tát nghe Đức Phật nói như thế rồi, thảy đều đại hoan hỷ, khắp toàn thân đều thêm cung kính, khom mình cúi đầu chắp tay hướng về Đức Phật đồng nói rằng: Như lời Đức Thế Tôn dạy, chúng con sẽ phụng hành, xin Đức Thế Tôn đừng có lo lắng.

Các vị đại Bồ Tát bạch như thế ba lần, đều cùng nhau nói: Như lời Đức Thế Tôn dạy, chúng con đều sẽ phụng hành, xin Đức Thế Tôn đừng có lo lắng.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khiến cho các Đức Phật phân thân đến từ mười phương, đều trở về nước của các Ngài mà nói rằng: Các Đức Phật hãy trở về chỗ của mình, tháp của Đức Phật Đa Bảo cũng trở về chỗ cũ. Khi nói lời đó, thì vô lượng phân thân chư Phật trong mười phương, ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu, và Đức Phật Đa Bảo, cùng với vô biên A tăng kỳ đại chúng Bồ Tát thượng hạnh, Ngài Xá Lợi Phất, hàng Thanh Văn bốn chúng, và tất cả thế gian, trời, người, A tu la, nghe lời Đức Phật nói, thảy đều đại hoan hỷ.

***

Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương thứ Hai Mươi Ba

Bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta Bà như thế nào? Đức Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đó, có bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha sự khổ hạnh khó làm? Lành thay, Đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy nói ra một ít. Chư Thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Lại có các Bồ Tát từ cõi nước khác đến, và chúng Thanh Văn ở đây nghe được đều rất hoan hỷ.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: Thuở xưa, trải qua vô lượng số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, có vị Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó, có tám mươi ức vị đại Bồ Tát, bảy mươi hai Hằng hà sa chúng đại Thanh Văn. Đức Phật đó, thọ mạng bốn vạn hai nghìn kiếp, Bồ Tát thọ mạng cũng đồng nhau.

Cõi nước đó, chẳng có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng chẳng có các hoạn nạn. Mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng như bàn tay, cây báu trang nghiêm, màn báu che phía trên. Lại có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, bình báu lư hương, khắp trong cõi nước đó. Bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Từ cây đến đài cách một đường tên. Dưới các cây báu đó, đều có các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn ngồi. Ở trên các đài báu, mỗi đài đều có trăm ức chư Thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, khen ngợi Phật để cúng dường.

Bấy giờ, Đức Phật đó vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, và các chúng Bồ Tát, các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, thích tu khổ hạnh, bèn ở trong pháp của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu Phật đạo. Trọn một vạn hai ngàn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Được tam muội đó rồi, thì tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy: Ta được tam muội hiện tất cả sắc thân, đều là do nghe Kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và Kinh Pháp Hoa. Lập tức, nhập vào tam muội đó, ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, bột hương kiên hắc chiên đàn, đầy khắp ở trong hư không, như mây giăng bủa, lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Hương đó lục thù giá trị như một thế giới Ta Bà, dùng để cúng dường Đức Phật. Cúng dường như thế rồi, từ tam muội dậy, bèn tự nghĩ rằng: Tuy ta dùng thần lực cúng dường Đức Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường, bèn thoa các thứ hương thơm chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, trầm thủy giao hương. Lại uống thiềm bặc, các thứ dầu thơm của hoa. Trọn một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng dầu thơm thoa thân, ở trước Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, dùng y báu trời mà quấn vào thân mình, lại tưới các thứ dầu thơm, dùng sức thần thông nguyện lực mà tự đốt thân, ánh sáng chiếu soi khắp tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.

Chư Phật ở trong các cõi nước đó, đồng thời khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Đó mới là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, phan lọng bằng lụa cõi trời, và hương hải thử ngạn chiên đàn, cúng dường các thứ đồ vật như thế, không thể bằng được, nếu đem đất nước vợ con bố thí, cũng chẳng bằng được.

Thiện nam tử! Đó là bố thí bậc nhất ở trong các sự bố thí, là trên hơn hết, vì dùng pháp cúng dường các Đức Như Lai. Nói lời đó rồi, thảy đều yên lặng. Thân Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, đốt cháy trải qua một ngàn hai trăm năm mới cháy hết.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến theo như pháp cúng dường rồi. Sau khi mạng chung, lại sinh vào trong nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, sinh ra trong nhà vua Tịnh Đức, ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh, bèn vì vua cha mà nói kệ rằng:

Nay đại vương nên biết!

Con tu hành chốn kia

Lập tức được tam muội

Hiện tất cả sắc thân.

Siêng hành đại tinh tấn

Bỏ sự thương tiếc thân

Cúng dường Đức Thế Tôn

Để cầu vô thượng trí.

Nói bài kệ đó rồi, bèn bạch vua cha rằng: Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, hiện nay vẫn còn, trước hết con cúng dường Đức Phật rồi, đắc được Đà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, lại nghe Kinh Pháp Hoa này, gồm có tám trăm ngàn vạn ức Na do tha, chân ca la, tần bà la, a môn bà, bài kệ.

Đại vương! Nay con sẽ trở lại cúng dường Đức Phật đó. Nói rồi bèn ngồi trên đài bảy báu, thăng lên hư không cao bảy cây đa la, đến chỗ Đức Phật rồi, cúi đầu đảnh lễ, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi Đức Phật:

Dung nhan rất xinh đẹp

Quang minh chiếu mười phương

Trước con từng cúng dường

Nay trở lại gặp Phật.

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ đó rồi, bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Đức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?

Bấy giờ, Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: Thiện nam tử! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên xếp đặt giường tòa, ta trong đêm nay sẽ vào Niết Bàn.

Lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng: Thiện nam tử! Ta đem Phật pháp phó chúc cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem ba ngàn đại thiên thế giới bảy báu, các cây báu, đài báu, và cung cấp chư Thiên hầu hạ, thảy đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ, hết thảy xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên truyền bá, rộng thiết lập cúng dường, nên xây hàng ngàn ngôi tháp. Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như thế rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Đức Phật diệt độ, thì rất buồn rầu, thảm não luyến mộ Đức Phật, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn cúng dường thân Phật, để hỏa thiêu thân của Ngài. Sau khi lửa tắt, thu lấy xá lợi, phân chia ra tám vạn bốn ngàn bình báu, xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, cao ba thế giới, biểu sát trang nghiêm, thòng rũ các phan lọng, và treo các linh báu.

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng: Tuy ta cúng dường như thế, tâm vẫn cảm thấy chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá lợi, bèn nói với các Bồ Tát đại đệ tử, và trời rồng dạ xoa, hết thảy tất cả đại chúng, các ông nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta cúng dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức. Nói lời đó rồi, bèn ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, trải qua bảy vạn hai ngàn năm dùng để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng A tăng kỳ người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều khiến cho trụ vào tam muội hiện tất cả sắc thân.

Bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A tu la thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó chẳng có cánh tay, thì rất buồn rầu bi ai, bèn nói rằng: Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến này, là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt đi cánh tay, thân chẳng còn đầy đủ.

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện rằng: Tôi xả bỏ cánh tay, tất sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thật không hư, thì khiến cho cánh tay của tôi hoàn lại như cũ, thệ nguyện vừa xong, thì cánh tay tự nhiên hoàn lại. Bởi do Bồ Tát đó phước đức trí huệ sâu dày, nên được như thế.

Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới đều sáu thứ chấn động, trời mưa xuống hoa báu, tất cả trời người được chưa từng có.

Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: Ý của ông thế nào? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải là ai xa lạ, nay là Bồ Tát Dược Vương này vậy, vị đó xả thân bố thí như thế, vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha số lần.

Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân, cúng dường tháp Phật, còn hơn là người dùng đất nước vợ con, và ba ngàn đại thiên thế giới, núi rừng sông ngòi, các châu báu, mà cúng dường. Hoặc lại có người, dùng bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng dường Phật và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, công đức của người đó đắc được, chẳng bằng thọ trì Kinh Pháp Hoa này, cho đến một bài kệ bốn câu, thì phước này thắng hơn phước kia.

Tú Vương Hoa! Ví như nước trong sông ngòi, kinh rạch, thì biển là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Như Lai nói, là sâu rộng lớn nhất. Lại như: Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh là trên hết. Lại như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh pháp, thì kinh này chiếu sáng nhất. Lại như mặt trời chiếu phá mọi sự tối tăm, Kinh này cũng lại như thế, hay phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện. Lại như trong các ông vua, thì vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh là tôn quý hơn hết.

Lại như trời Đế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba. Kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh. Lại như vua Đại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Kinh này cũng lại như thế, là cha của tất cả các bậc hiền Thánh học vô học, và những người phát tâm Bồ Tát. Lại như, trong tất cả những người phàm phu, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Phật nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh Văn nói, thì kinh này là bậc nhất. Có người hay thọ trì kinh này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sinh cũng là bậc nhất. Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, là bậc nhất ở trong tất cả kinh pháp. Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh.

Tú Vương Hoa! Kinh này hay cứu hộ tất cả chúng sinh, kinh này hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa các khổ não, kinh này làm lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được mãn nguyện. Như hồ nước mát mẻ, hay khiến cho tất cả những người khát khao được hết khát, như người lạnh được lửa, như người trần truồng được quần áo, như người buôn bán gặp chủ, như con gặp mẹ, như người qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp được thuốc, như tối gặp được đèn, như người nghèo gặp của báu, như dân gặp được vua, như khách buôn gặp được biển, như đuốc sáng trừ tối tăm. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, hay khiến cho chúng sinh lìa tất cả sự khổ, tất cả bệnh khổ, giải thoát tất cả sự trói buộc sinh tử. Nếu người nào được nghe Kinh Pháp Hoa này, hoặc tự biên chép, hoặc khiến cho người biên chép, thì công đức đắc được, dùng trí huệ của Phật suy lường, cũng chẳng biết được bờ mé là bao nhiêu. Nếu biên chép quyển kinh này, mà dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan lọng, y phục, các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu ba ma lợi, để cúng dường, thì công đức đắc được cũng vô lượng.

Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, thì cũng đắc được vô lượng vô biên công đức. Nếu có người nữ, nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ trì, khi hết thân nữ này, về sau chẳng thọ lại nữa. Nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được kinh này, theo như trong kinh nói mà tu hành, thì sau khi mạng chung, sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, cõi của Đức Phật A Di Đà, được chúng đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở. Sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng bị tham dục làm phiền não, cũng chẳng bị sân hận ngu si làm phiền não, cũng chẳng bị sự kiêu mạn, đố kỵ, các cấu bẩn làm phiền não, được thần thông của Bồ Tát, và vô sinh pháp nhẫn. Đắc được nhẫn đó rồi, thì căn mắt thanh tịnh, nhờ căn mắt thanh tịnh, nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các Đức Phật Như Lai.

Lúc đó, các Đức Phật cùng nhau khen ngợi nói: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì đọc tụng suy gẫm kinh này, vì người khác nói, phước đức đắc được vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu đặng, nước không thể ngập chết đặng, công đức của ông ngàn Đức Phật cùng nói, cũng không hết được. Ông nay đã phá được các ma tặc, dẹp tan quân sinh tử, các oán địch khác cũng đều tiêu diệt.

Thiện nam tử! Trăm ngàn các Đức Phật dùng sức thần thông cùng bảo hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai bằng ông, ngoài Như Lai ra, các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, trí huệ thiền định, cũng chẳng có ai bằng ông.

Tú Vương Hoa! Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.

Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ khen ngợi, thì người đó, hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức đắc được như trên đã nói.

Bởi thế, Tú Vương Hoa! Ta đem Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm năm sau, hãy rộng truyền bá khắp cõi Diêm Phù Đề, đừng khiến cho đoạn tuyệt, đừng để ác ma, dân ma, chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, hết thảy được phương tiện đó.

Tú Vương Hoa! Ông nên dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Tại sao? Vì kinh này là thuốc hay cho những người bệnh ở cõi Diêm Phù Đề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này, thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.

Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, thì nên dùng hoa sen xanh, và đựng đầy hương bột cúng dường rải lên trên người đó. Rải lên rồi, bèn nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ lấy cỏ ngồi ở Đạo tràng, phá các quân ma, thổi pháp loa, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khỏi biển sanh già bệnh chết. Bởi thế, người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì kinh điển này, thì nên sinh tâm cung kính như thế. Khi Đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát, đắc được Đà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Đức Đa Bảo Như Lai ở trong bảo tháp khen Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: Lành thay! Lành thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, mới có thể hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni việc như thế, lợi ích vô lượng tất cả chúng sinh.

***

QUYỂN 7

Phẩm Bồ Tát Diệu Âm thứ Hai Mươi Bốn

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng quang minh từ nhục kế tướng đại nhân, và phóng tướng hào quang trắng ở giữa chặn mày, chiếu khắp phương đông một trăm tám vạn ức na do tha Hằng hà sa các thế giới của Phật. Qua số thế giới đó, có một thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm, nước đó có vị Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Có vô lượng vô biên đại chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, Đức Phật vì họ mà nói pháp. Luồng hào quang trắng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu sáng khắp cõi nước đó.

Bấy giờ, ở trong cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm, có một vị Bồ Tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các gốc công đức, cúng dường gần gũi vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, cho nên thành tựu trí huệ thâm sâu. Được diệu tràng tướng tam muội, pháp hoa tam muội, tịnh đức tam muội, tú vương hí tam muội, vô duyên tam muội, trí ấn tam muội, giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn tam muội, tập nhất thiết công đức tam muội, thanh tịnh tam muội, thần thông du hí tam muội, trí cự tam muội, trang nghiêm vương tam muội, tịnh quang minh tam muội, tịnh tạng tam muội, bất công tam muội, nhật toàn tam muội. Được hết thảy trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa các đại tam muội như thế.

Quang minh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chiếu đến thân Bồ Tát Tú Vương Hoa, lập tức Ngài bèn bạch với Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí rằng: Đức Thế Tôn! Con phải qua thế giới Ta Bà, để lễ lạy gần gũi cúng dường đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Tú Vương Hoa, Bồ Tát Thượng Hạnh Ý, Bồ Tát Trang Nghiêm Vương, Bồ Tát Dược Thượng.

Bấy giờ, Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bảo Bồ Tát Diệu Âm rằng: Ông chớ khinh cõi nước đó, mà sinh ra tư tưởng thấp kém.

Thiện nam tử! Thế giới Ta Bà đó, cao thấp chẳng bằng phẳng, đất đá các núi, sự dơ bẩn xấu ác đầy dẫy. Thân Phật nhỏ bé, các chúng Bồ Tát thân hình cũng nhỏ, mà thân ông cao đến bốn vạn hai ngàn do tuần, thân ta cao sáu trăm tám mươi vạn do tuần. Thân ông đoan chánh bậc nhất, có trăm ngàn vạn phước tướng, quang minh tốt đẹp đặc biệt, cho nên ông đi qua đó, đừng khinh khi cõi nước đó, hoặc Phật Bồ Tát, và cõi nước mà sinh tư tưởng hạ liệt.

Bấy giờ, Bồ Tát Diệu Âm chẳng lìa khỏi tòa ngồi, thân chẳng lay động, bèn nhập tam muội, nhờ sức tam muội mà đến núi Kỳ Xà Quật, cách pháp tòa chẳng bao xa, hóa ra tám vạn bốn ngàn hoa sen báu, dùng vàng diêm phù đàn làm thân, bạc làm lá, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.

Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, thấy hoa sen đó, bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Đó là nhân duyên gì, mà hiện ra cảnh giới tốt đẹp như thế? Có hàng ngàn vạn hoa sen, dùng vàng diêm phù đàn làm thân, dùng bạc làm lá, dùng kim cang làm nhụy, dùng chân thúc ca bảo làm đài.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Đại Bồ Tát Diệu Âm đó, từ cõi nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, mà đến thế giới Ta Bà này, cúng dường gần gũi lễ lạy ta, và cũng muốn cúng dường nghe Kinh Pháp Hoa.

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát đó trồng căn lành gì, tu công đức gì, mà được sức đại thần thông như thế? Tu hành tam muội gì? Xin hãy vì chúng con nói tên của tam muội đó. Chúng con cũng muốn siêng năng tu hành, tu tam muội đó, mới có thể thấy Bồ Tát đó sắc tướng lớn nhỏ, uy nghi tấn chỉ. Xin Đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khi Bồ Tát đó đến thì khiến cho con được thấy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù: Đức Như Lai Đa Bảo diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà khiến cho vị Bồ Tát đó hiện thân tướng.

Bấy giờ, Đức Phật Đa Bảo liền bảo vị Bồ Tát đó: Thiện nam tử! Hãy đến đây, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi muốn thấy thân của ông.

Bấy giờ, Bồ Tát Diệu Âm ở cõi nước kia, ẩn thân cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát cùng nhau đến, các cõi nước đi qua đều có sáu thứ chấn động, thảy đều mưa xuống hoa sen bảy báu, và trăm ngàn thứ nhạc trời, chẳng cổ động mà tự vang lên.

Mắt của vị Bồ Tát đó, rộng lớn như lá hoa sen xanh, ví như trăm ngàn vạn mặt trăng hợp lại, diện mạo đoan chánh xinh đẹp, thân màu vàng thật, có vô lượng trăm ngàn công đức trang nghiêm, uy đức dũng mãnh, quang minh chiếu sáng, các tướng đầy đủ, thân kiên cố như na la diên. Ngồi trên đài bảy báu thăng lên hư không, cách mặt đất bảy cây đa la, các chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, mà đi đến núi Kỳ Xà Quật thế giới Ta Bà. Đi đến rồi, bước xuống đài bảy báu, đem chuỗi ngọc giá trị trăm ngàn lạng vàng, cầm đến chỗ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đầu mặt lễ dưới chân Phật, dâng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, hỏi thăm Đức Thế Tôn, ít bệnh, ít phiền não, mạnh giỏi, tứ đại điều hòa chăng, việc đời nhẫn được chăng, chúng sinh dễ độ chăng, chúng sinh chẳng nhiều tham dục, sân hận, ngu si, đố kỵ, kiêu mạn chăng, chẳng có kẻ bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa môn, tâm tà kiến bất thiện, chẳng nhiếp năm tình chăng?

Đức Thế Tôn! Chúng sinh có hàng phục được các ma oán chăng, Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu, ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại thăm hỏi Đức Đa Bảo Như Lai, an ổn ít phiền não, kham nhẫn trụ lâu chăng.

Đức Thế Tôn! Nay con muốn thấy thân của Đức Phật Đa Bảo, xin Đức Thế Tôn chỉ cho con, để cho con được thấy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Phật Đa Bảo rằng: Bồ Tát Diệu Âm đây muốn được thấy thân của Ngài.

Bấy giờ, Đức Phật Đa Bảo nói với Bồ Tát Diệu Âm rằng: Lành thay! Lành thay! Ông vì cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nghe Kinh Pháp Hoa, và gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi mà đến nơi này.

Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Đức bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Âm đó trồng căn lành gì, tu công đức gì mà được thần lực như thế?

Đức Phật bảo Bồ Tát Hoa Đức rằng: Trong quá khứ có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cõi nước đó tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên là Hỷ Kiến. Bồ Tát Diệu Âm ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười vạn thứ âm nhạc cúng dường Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, và dâng lên cúng dường tám vạn bốn ngàn cái bát bằng bảy báu. Nhờ nhân duyên quả báo đó, nên nay được sinh vào cõi nước của Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thông như thế.

Hoa Đức! Ý của ông thế nào? Thuở đó, Bồ Tát Diệu Âm ở chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, cúng dường âm nhạc và dâng cúng bát báu, đâu phải là người nào khác, nay chính là đại Bồ Tát Diệu Âm này vậy.

Hoa Đức! Bồ Tát Diệu Âm đó, đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các Đức Phật, từ lâu đã trồng công đức, lại gặp Hằng hà sa trăm ngàn vạn ức na do tha các Đức Phật.

Hoa Đức! Ông chỉ thấy thân của Bồ Tát Diệu Âm ở đây, nhưng Bồ Tát đó, hiện đủ thứ thân ở khắp mọi nơi, để vì các chúng sinh diễn nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân trời Tự Tại, hoặc hiện thân trời Đại Tự Tại, hoặc hiện thân thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa Môn Thiên Vương, hoặc hiện thân chuyển luân thánh vương, hoặc hiện thân các ông vua nhỏ, hoặc hiện thân trưởng giả, hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân tể quan, hoặc hiện thân Bà la môn, hoặc hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hoặc hiện thân phụ nữ tể quan, hoặc hiện thân phụ nữ Bà la môn, hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ. Hoặc hiện thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, để diễn nói kinh này. Hoặc trong các địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và nơi các thứ nạn đều cứu giúp, cho đến nơi hậu cung của vua cũng biến làm thân nữ, để diễn nói kinh này.

Hoa Đức! Bồ Tát Diệu Âm đó, hay cứu giúp các chúng sinh ở thế giới Ta Bà. Bồ Tát Diệu Âm đó, biến hóa thị hiện đủ thứ thân hình như thế, ở tại thế giới Ta Bà này, để vì các chúng sinh diễn nói kinh này, nhưng thần thông trí huệ biến hóa của Ngài chẳng có tổn hoại giảm bớt. Bồ Tát đó, dùng bao nhiêu trí huệ chiếu soi thế giới Ta Bà, khiến cho tất cả chúng sinh ai nấy đều biết Phật pháp, ở trong mười phương Hằng hà sa số thế giới cũng lại như thế. Nếu người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì Ngài liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Bích Chi Phật để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bồ Tát độ được, thì Ngài liền hiện thân Bồ Tát để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Phật độ được, thì Ngài liền hiện thân Phật để vì họ nói pháp. Tùy nhân duyên đáng được độ, thì Ngài vì họ hiện đủ thứ các thân hình như thế, cho đến đáng dùng sự diệt độ mà độ được họ, thì Ngài cũng thị hiện sự diệt độ.

Hoa Đức! Đại Bồ Tát Diệu Âm thành tựu sức đại thần thông trí huệ, việc đó là như thế.

Bấy giờ, Bồ Tát Hoa Đức bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Âm đó trồng sâu căn lành. Đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát đó trụ vào tam muội gì, mà có sự biến hiện độ thoát chúng sinh như thế?

Đức Phật bảo Bồ Tát Hoa Đức: Thiện nam tử! Tam muội đó tên là Hiện Tất Cả Sắc Thân. Bồ Tát Diệu Âm trụ vào tam muội đó, mà hay làm lợi ích vô lượng chúng sinh như thế.

Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm này, thì tám vạn bốn ngàn người cùng đi đến với Bồ Tát Diệu Âm, thảy đều đắc được tam muội Hiện Tất Cả Sắc Thân. Vô lượng chúng Bồ Tát ở thế giới Ta Bà này, cũng đắc được tam muội và Đà la ni đó.

Bấy giờ, đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và tháp của Đức Phật Đa Bảo rồi, bèn trở về nước của Ngài, đi ngang qua các cõi nước đều có sáu thứ chấn động, lại mưa xuống các hoa sen báu, và vang lên trăm ngàn vạn ức đủ thứ âm nhạc. Sau khi về đến nước của Ngài rồi, cùng với tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát vây quanh, đi đến chỗ Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Con đã đến thế giới Ta Bà lợi ích chúng sinh, gặp được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và thấy tháp của Đức Phật Đa Bảo, lễ lạy cúng dường. Lại gặp Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử, và thấy Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Đắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ Tát Dũng Thí .v.v… cũng khiến cho tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát này, đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Khi nói Phẩm Bồ Tát Diệu Âm lai vãng này, thì có bốn vạn hai ngàn vị Thiên tử, đắc được vô sinh pháp nhẫn, Bồ Tát Hoa Đức đắc được pháp hoa tam muội.

***

Phẩm Phổ Môn Bồ Tát Quán Thế Âm thứ Hai Mươi Lăm

Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý bèn từ tòa ngồi đứng dậy, hở y bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì, mà được tên là Quán Thế Âm?

Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh chịu các khổ não, mà nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, một lòng niệm danh hiệu của Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm lập tức quán xem tiếng kêu kia, khiến cho họ đều được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, do nhờ sức oai thần của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, mà xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì liền được vào chỗ cạn. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sinh, vì đi tìm cầu: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ châu báu, vào trong biển lớn. Giả sử, có gió bão, thổi thuyền của họ trôi dạt vào nước quỷ La sát. Trong đó, dù chỉ có một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì hết thảy những người kia, đều được thoát khỏi nạn quỷ La sát, bởi nhân duyên đó, mà có tên là Quán Thế Âm. Nếu lại có người, bị người khác cầm đao làm hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì đao gậy của kẻ kia cầm, bèn gãy ra từng đoạn, mà được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy quỷ Dạ xoa và La sát, muốn đến não hại người, mà nghe họ xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì các ác quỷ đó, còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn họ, huống chi lại làm hại. Nếu như lại có người, hoặc có tội, hoặc không có tội, bị gông cùm xiềng xích, trói buộc thân họ, mà xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì gông cùm xiềng xích đều gãy tan, bèn được giải thoát. Nếu trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy dẫy những kẻ oán tặc. Có một người chủ buôn, đem theo các người buôn bán. Mang theo rất nhiều châu báu quý giá, đi qua con đường hiểm. Trong đó có một người xướng lên rằng: Các thiện nam tử! Chớ có sợ hãi, các ông nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vì vị Bồ Tát đó, hay đem sự vô úy thí cho chúng sinh. Nếu các ông xưng niệm danh hiệu của Ngài, thì ở nơi oán tặc nầy sẽ được giải thoát. Các người buôn nghe rồi, đều xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, nhờ xưng niệm danh hiệu của Ngài, mà được giải thoát.

Vô Tận Ý! Sức oai thần của đại Bồ Tát Quán Thế Âm, rộng lớn như thế. Nếu có chúng sinh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi lòng dâm dục. Nếu người nhiều sân hận, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi sân hận. Nếu người nhiều ngu si, thường niệm cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ lìa khỏi ngu si.

Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những sức đại oai thần như thế, làm nhiều sự lợi ích, cho nên chúng sinh thường hay niệm. Nếu có người nữ, muốn cầu con trai, mà lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, thì sẽ sinh được con trai phúc đức trí huệ. Nếu muốn cầu con gái, thì sẽ sinh được con gái đoan chánh xinh đẹp, thuở xưa đã từng trồng gốc công đức, được mọi người kính mến.

Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần như thế. Nếu có chúng sinh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phước chẳng tổn giảm, cho nên chúng sinh đều hay thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì sáu mươi hai ức Hằng hà sa danh hiệu các Bồ Tát, lại suốt đời cúng dường thức ăn uống, quần áo, đồ nằm, thuốc thang. Ý ông như thế nào? Người thiện nam, thiện nữ đó, công đức có nhiều chăng?

Vô Tận Ý đáp: Rất nhiều, Đức Thế Tôn!

Đức Phật nói: Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, ở trong trăm ngàn vạn ức kiếp không thể hết được.

Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, được lợi ích phước đức vô lượng vô biên như thế.

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm vân du thế giới Ta Bà này như thế nào? Vì chúng sinh thuyết pháp như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có những chúng sinh trong cõi nước, đáng dùng thân Phật độ được, thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, thì liền hiện thân Bích Chi Phật, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, thì liền hiện thân Thanh Văn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Phạm Vương độ được, thì liền hiện thân Phạm Vương, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Đế Thích độ được, thì liền hiện thân Đế Thích, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Tự Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời Đại Tự Tại độ được, thì liền hiện thân trời Đại Tự Tại, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân thiên đại tướng quân độ được, họ thì liền hiện thân thiên đại tướng quân, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn độ được, thì liền hiện thân Tỳ Sa Môn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân tiểu vương độ được, thì liền hiện thân tiểu vương, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trưởng giả độ được, thì liền hiện thân trưởng giả, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân cư sĩ độ được, thì liền hiện thân cư sĩ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân tể quan độ được, thì liền hiện thân tể quan, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bà la môn độ được, thì liền hiện thân Bà la môn, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ độ được, thì liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân phụ nữ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà la môn độ được, thì liền hiện thân phụ nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ độ được, thì liền hiện thân đồng nam, đồng nữ, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, độ được, thì liền hiện ra các thân đó, để vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thần Chấp Kim Cang độ được, thì liền hiện thân Thần Chấp Kim Cang, để vì họ nói pháp.

Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm đó, thành tựu công đức như thế, dùng đủ thứ thân hình đi khắp trong các cõi nước, để độ thoát tất cả chúng sinh. Bởi thế, các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Đại Bồ Tát Quán Thế Âm đó, ở trong nạn khẩn cấp sợ hãi, Ngài hay ban cho sự không sợ hãi. Vì thế mà thế giới Ta Bà đều gọi Ngài là bậc bố thí không sợ hãi.

Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn cởi chuỗi ngọc các châu báu nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng dâng lên nói rằng: Xin nhân giả hãy nhận xâu chuỗi ngọc châu báu pháp thí này. Lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng chịu thọ nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại bạch với Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: Nhân giả hãy thương xót chúng tôi, mà thọ nhận chuỗi ngọc này.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó. Tức thời, Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót hàng bốn chúng và các trời, rồng, người và chẳng phải người, mà thọ nhận sâu chuỗi đó, chia làm hai phần. Một phần dâng lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng cúng tháp của Phật Đa Bảo.

Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại như thế, đi khắp thế giới Ta Bà.

Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi rằng:

Thế Tôn đủ tướng tốt

Nay con xin hỏi Ngài

Vị kia do duyên gì

Tên là Quán Thế Âm?

Đấng đầy đủ tướng tốt

Đáp kệ Vô Tận Ý:

Ông nghe hạnh Quan Âm

Khéo ứng khắp mọi nơi.

Nguyện lớn sâu như biển

Kiếp số không nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn đức Phật

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

Ta vì ông lược nói

Nghe tên và thấy thân

Tâm niệm chẳng luống qua

Hay diệt khổ các cõi.

Nếu người khởi tâm hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Nhờ sức niệm Quán Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển cả

Rồng cá các nạn quỷ

Nhờ sức niệm Quan Âm

Sóng lớn chẳng ngập chết.

Hoặc trên đỉnh Tu Di

Bị người xô rớt xuống

Nhờ sức niệm Quan Âm

Như mặt trời trên không.

Hoặc bị người ác đuổi

Ngã xuống núi kim cang

Nhờ sức niệm Quan Âm

Chẳng tổn hại mảy lông.

Hoặc gặp oán tặc vây

Đều cầm đao làm hại

Nhờ sức niệm Quan Âm

Thảy đều khởi tâm từ.

Hoặc gặp nạn khổ vua

Muốn hành hình sắp chết

Nhờ sức niệm Quan Âm

Đao bèn gãy từng đoạn.

Hoặc gông cùm tù ở

Tay chân bị xiềng xích

Nhờ sức niệm Quan Âm

Tự nhiên được giải thoát.

Nguyền rủa các thuốc độc

Muốn làm hại thân người

Nhờ sức niệm Quan Âm

Trở lại hại người đó.

Hoặc gặp La sát dữ

Rồng độc các loài quỷ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Thời chúng chẳng dám hại.

Nếu thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Chúng vội chạy bỏ đi.

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Nhờ sức niệm Quán Âm

Nghe tiếng bỏ chạy đi.

Mây sấm sét điện chớp

Tuôn mưa đá mưa rào

Nhờ sức niệm Quán Âm

Liền được trời quang tạnh.

Chúng sinh bị khốn cùng

Vô lượng khổ bức bách

Nhờ diệu trí Quán Âm

Hay cứu khổ thế gian.

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

Đủ thứ các đường ác

Địa ngục quỷ súc sinh

Khổ sinh già bệnh chết

Dần dần đều dứt hết.

Quán chân quán thanh tịnh

Quán trí huệ rộng lớn

Quán bi và quán từ

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Quang thanh tịnh không dơ

Huệ nhật phá các tối

Hay phục nạn gió lửa

Chiếu sáng khắp thế gian.

Bi thế giới lôi chấn

Ý từ diệu mây lớn

Rưới mưa pháp cam lồ

Dập tắt lửa phiền não.

Kiện tụng nơi quan tòa

Trong trận chiến sợ hãi

Nhờ sức niệm Quan Âm

Các oán địch lui tan.

Tiếng diệu Quán Thế Âm

Tiếng Phạm tiếng hải triều

Hơn hẳn tiếng thế gian

Cho nên thường phải niệm.

Niệm niệm chớ sinh nghi

Quán Thế Âm tịnh Thánh

Khi khổ não nạn chết

Hay làm nơi nương tựa.

Đủ tất cả công đức

Mắt từ trông chúng sinh

Biển phước tụ vô lượng

Cho nên phải đảnh lễ.

Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa bèn từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật bạch rằng: Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nghe được Phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nghiệp tự tại phổ môn thị hiện sức thần thông, thì nên biết người đó công đức chẳng ít. Khi Đức Phật nói Phẩm Phổ Môn này, thì có tám vạn bốn ngàn chúng sinh ở trong chúng, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

***

Phẩm Đà La Ni thứ Hai Mươi Sáu

Đức Phật bảo: Dược Vương! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, cúng dường tám vạn ức na do tha Hằng hà sa các Đức Phật, ý của ông thế nào? Phước báu đó đắc được có nhiều chăng?

Rất nhiều, Đức Thế Tôn.

Đức Phật nói: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, hay ở nơi kinh này, cho đến thọ trì bài kệ bốn câu, đọc tụng hiểu nghĩa, theo như lời trong kinh nói mà tu hành, thì công đức rất nhiều.

Bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Con nay vì người thuyết pháp, mà nói Chú Đà la ni, để bảo hộ họ, bèn nói Chú rằng:

An nhĩ mạn nhĩ, ma nỉ ma ma nỉ, chỉ lệ giá lê đệ, xa mị, sa lý đa vĩ, chiên đế, mục đế, mục đa lý, sa lý, a vĩ sa lý, tang lý, sa lý, soa duệ, a xoa dụê, a kỳ nị, chiên đế, sa lý, đa la ni, a lô già, bà sa bả, già tỳ xoa nị, nỉ tỳ thế, a tiện đa la, nỉ lý thế a, đàn đa ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ cát lợi biểu đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nỉ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đa la, mạn đa la xoa dạ đa, bưu lâu đa, bưu lâu đa, kiều xá lược, ác xoa la, ác xoa dã, a bà lô, a ma nhược na đa dạ.

Đức Thế Tôn! Thần chú Đà la ni này, là của sáu mươi hai ức Hằng hà sa các Đức Phật nói. Nếu có kẻ nào xâm hủy vị pháp sư đó, tức là xâm huỷ các Đức Phật vậy.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương nói: Lành thay, lành thay! Dược Vương! Ông vì có tâm thương xót ủng hộ vị pháp sư đó, mà nói Đà la ni này, rất có lợi ích đối với các chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ Tát Dũng Thí bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Con cũng vì ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, mà nói Đà la ni. Nếu vị pháp sư đó được Đà la ni này, thì Dạ Xoa, hoặc La sát, hoặc Phú đơn na, hoặc Cát giá, hoặc Cưu bàn trà, hoặc ngạ quỷ .v.v… muốn tìm cầu lỗi lầm của người đó, thì không thể được tiện lợi, bèn ở trước Phật mà nói chú rằng:

Ế lệ, ma nha ế lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí, ni vĩ trí ni, chỉ trí ni, niết lệ tê ni, niết lê tê bà để.

Đức Thế Tôn! Thần Chú Đà la ni này của Hằng hà sa các Đức Phật nói, cũng đều tùy hỉ. Nếu có ai xâm hủy vị pháp sư đó, tức là xâm hủy chư Phật đó vậy.

Bấy giờ, Tỳ Sa Môn Thiên Vương hộ đời bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Con cũng vì thương xót chúng sinh, ủng hộ vị pháp sư đó, mà nói Đà la ni này, bèn nói chú rằng:

A lê, na lê, na lê, a na lô, na lý, câu na lý.

Đức Thế Tôn! Con dùng Thần chú này ủng hộ vị pháp sư, con cũng sẽ tự ủng hộ người trì kinh này, khiến cho nội trong một trăm do tuần, chẳng có các sự rủi ro hoạn nạn.

Bấy giờ, Trì Quốc Thiên Vương ở trong hội này, cùng với ngàn vạn ức na do tha chúng Dạ Xoa, cung kính vây quanh đi đến trước Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng: Đức Thế Tôn! Con cũng dùng Thần chú Đà la ni ủng hộ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, bèn nói chú rằng:

A già nỉ, già nỉ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đặng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa ni, át để.

Đức Thế Tôn! Thần chú Đà la ni này của bốn mươi hai ức các Đức Phật nói. Nếu có kẻ nào xâm hại hủy phạm vị pháp sư đó, tức là xâm hại hủy phạm các Đức Phật đó vậy.

Bấy giờ, có các nữ La sát, một tên là Lam bà, hai tên là Tỳ lam bà, ba tên là Khúc sỉ, bốn tên là Hoa sỉ, năm tên là Hắc sỉ, sáu tên là Đa phát, bảy tên là Vô yểm túc, tám tên là Trì anh lạc, chín tên là Cao đế, mười tên là Đoạt nhất thiết chúng sinh khí. Mười nữ La sát đó, cùng với quỷ tử mẫu và con cái, quyến thuộc của chúng, đồng đến chỗ Đức Phật đồng thanh hướng về Đức Phật bạch rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, khiến cho họ được tiêu trừ rủi ro hoạn nạn. Nếu có kẻ nào rình tìm lỗi lầm của pháp sư, thì khiến cho chẳng được tiện lợi. Bèn ở trước Đức Phật mà nói chú rằng:

Y đề lý, y đề mẫn, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu ê, lâu ê, lâu ê, lâu ê, đa ê, đa ê, đa ê, đâu ê, nâu ê.

Thà ngồi lên đầu chúng con, chớ đừng não hại vị pháp sư. Nếu Dạ Xoa, hay La sát, hoặc ngạ quỷ, Phú đơn na, Cát giá, Tỳ đà la, Kiền đà, Ô ma lặc già, A bạt ma la, Dạ xoa cát giá, Nhân cát giá, hoặc nhiệt não, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, hoặc đến bảy ngày, hoặc thường nhiệt não, hoặc hình nam, hình nữ, hoặc hình đồng nam, hoặc hình đồng nữ, cho đến ở trong mộng, cũng không cho những loài quỷ đó làm não hại vị pháp sư.

Bèn ở trước Đức Phật nói bài kệ rằng:

Nếu chẳng thuận chú con

Não loạn người nói pháp

Đầu vỡ làm bảy mảnh

Như nhánh cây a lê.

Như tội giết cha mẹ

Cũng như vạ ép dầu

Cân đấu lường gạt người

Tội Điều Đạt phá Tăng.

Xâm phạm pháp sư đó

Bị tai ương như thế.

Các nữ La sát nói kệ đó rồi, bèn bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ủng hộ người thọ trì đọc tụng tu hành kinh này, khiến cho họ được an ổn, xa lìa các sự hoạn nạn, tiêu trừ các thuốc độc.

Đức Phật bảo các nữ La sát rằng: Lành thay, lành thay! Các ngươi chỉ ủng hộ người thọ trì danh hiệu Kinh Pháp Hoa, mà phước báu đã không thể lường được, hà huống là ủng hộ đầy đủ người thọ trì Kinh Pháp Hoa, và cúng dường quyển kinh. Hoặc dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương đốt, hương xoa, phan lọng, âm nhạc, đốt các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, đèn dầu hoa tô ma na, đèn dầu hoa thiềm bặc, đèn dầu hoa bà sư ca, đèn dầu hoa ưu bát la hoa, hết thảy trăm ngàn thứ cúng dường như thế.

Cao Đế! Các ngươi và quyến thuộc nên ủng hộ vị pháp sư như thế! Khi Đức Phật nói Phẩm Đà La Ni này, thì có sáu vạn tám ngàn người đắc được vô sinh pháp nhẫn.

***

Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm thứ Hai Mươi Bảy

Bấy giờ, Đức Phật bảo các đại chúng rằng: Về đời xa xưa, trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức, có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn. Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ Tát đạo, đó là đàn Ba la mật, thi la Ba la mật, sàn đề Ba la mật, tỳ ly gia Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đều thấu suốt thông đạt.

Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam muội tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội trường trang nghiêm, tam muội đại oai đức tạng, nơi các tam muội này, cũng đều thông đạt.

Bấy giờ, Đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm, và thương xót chúng sinh mà nói Kinh Pháp Hoa này.

Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay lại bạch rằng: Xin mẹ hãy đi đến chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái. Tại sao? Vì Đức Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người nói Kinh Pháp Hoa, chúng ta nên đến đó để nghe. Người mẹ bảo các người con rằng: Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo Bà la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng: Chúng con là con của đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này. Người mẹ bảo các người con rằng: Các con nên thương nghĩ đến cha của các con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được, thì chắc tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến chốn Đức Phật.

Bấy giờ, hai người con vì thương nghĩ đến người cha, mà vọt thân lên hư không cao khoảng bảy cây đa la, hiện các thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất trong hư không, hốt nhiên ở dưới đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất. Hiện các thứ thần thông biến hóa như thế, khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh tin hiểu.

Lúc đó, người cha thấy thần lực của các người con như thế, bèn sinh tâm đại hoan hỉ, được chưa từng có, bèn chắp tay lại hướng về các người con nói rằng: Thầy của các con là ai? Các con là đệ tử của ai?

Hai người con bạch rằng: Thưa đại vương! Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hiện đang ở dưới cội bồ đề bảy báu, ngồi trên pháp tòa, ở trong tất cả thế gian chúng trời người, diễn nói Kinh Pháp Hoa, là thầy của chúng con, chúng con là đệ tử.

Người cha nói với con rằng: Nay cha cũng muốn đi đến gặp thầy của các con, chúng ta cùng đi với nhau. Hai người con bèn từ hư không xuống, đến chỗ người mẹ chắp tay thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ! Phụ vương nay đã tin hiểu, đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con ở nơi Đức Phật đó xuất gia tu đạo.

Bấy giờ, hai người con muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:

Xin mẹ cho chúng con

Xuất gia làm Sa môn

Chư Phật rất khó gặp

Chúng con theo Phật tu.

Như hoa ưu đàm bát

Gặp Phật càng khó hơn

Khỏi các nạn cũng khó

Xin cho con xuất gia.

Người mẹ nói rằng: Cho các con xuất gia, tại sao? Vì Phật khó được gặp.

Hai người con bèn thưa với cha mẹ rằng: Lành thay cha mẹ! Xin cha mẹ đi đến chỗ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi cúng dường. Tại sao? Vì Phật rất khó gặp được. Như hoa ưu đàm bát la, như rùa một mắt gặp lỗ khúc cây nổi, mà chúng con phước báu đời trước sâu dày, nên sinh ra được gặp Phật pháp, do đó được cha mẹ cho chúng con xuất gia tu đạo. Tại sao? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ cũng khó gặp.

Lúc đó, tám vạn bốn ngàn người đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa này. Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt tam muội pháp hoa, Bồ Tát Tịnh Tạng thì ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, đã thông đạt tam muội lìa các đường ác. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi các đường ác. Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, biết được tạng bí mật của chư Phật. Hai người con khéo dùng sức phương tiện như thế để giáo hóa người cha, khiến cho sinh tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp. Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhân với tùy tùng thể nữ, và hai người con của vua cùng với bốn vạn hai nghìn người, đều tụ lại cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ dưới chân Phật và nhiễu Đức Phật ba vòng rồi đứng qua một bên.

Bấy giờ, Đức Phật đó vì vua Diệu Trang Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hóa, khiến cho vua được lợi ích hoan hỉ, vua rất vui mừng.

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân cởi chuỗi ngọc châu báu nơi cổ, giá trị trăm nghìn lạng vàng rải lên trên Đức Phật, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn trụ. Trong đài có giường báu lớn, giăng bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời. Trên đó có Đức Phật ngồi kiết già phóng đại quang minh.

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy: Thân Phật rất ít có, đoan chánh trang nghiêm đặc thù, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.

Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo bốn chúng rằng: Các ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay đứng ở trước ta chăng! Ông vua này ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, siêng năng tu tập, giúp Phật hoằng dương Phật pháp, sẽ được thành Phật hiệu là Sa La Thụ Vương, cõi nước tên là Đại Quang, kiếp tên là Đại Cao Vương. Đức Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng chúng Bồ Tát, và vô lượng hàng Thanh Văn, cõi nước đó bằng phẳng, công đức như thế. Vua Diệu Trang Nghiêm lập tức đem cõi nước giao cho người em, cùng với phu nhân, hai người con, và các quyến thuộc xuất gia tu đạo ở trong Phật pháp.

Vua xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn ngàn năm, thường siêng năng tinh tấn, tu hành Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua số đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây da la mà bạch với Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Hai người con của con đây, đã làm việc Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho con an trụ vào trong Phật pháp, được thấy Đức Thế Tôn. Hai người con đây là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành trong quá khứ, lợi ích cho con mà đến sinh vào nhà con.

Bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm rằng: Như thế, như thế! Như lời ông nói. Nếu người thiện nam, người thiện nữ, gieo trồng căn lành, thì đời đời gặp thiện tri thức. Thiện tri thức đó hay làm Phật sự, khai thị giáo hóa, khiến cho được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho được vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Đại vương nên biết! Bậc thiện tri thức là đại nhân duyên, hay giáo hóa khiến cho họ được gặp Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ bề.

Đại vương! Ông có thấy hai người con này chăng, hai người con này đã từng cúng dường, sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng hà sa chư Phật, gần gũi cung kính, ở chỗ chư Phật thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh tà kiến, mà khiến cho họ trụ vào chánh kiến.

Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, mà bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Như Lai rất ít có, do nhờ công đức trí huệ, nên nhục kế ở trên đỉnh phóng ra quang minh chiếu sáng, mắt của Ngài dài và rộng. Có màu sắc xanh biếc, tướng hào quang giữa chặn mày trắng như ngọc kha, răng trắng vừa đều vừa khít, thường có quang minh, môi màu đỏ tươi như quả tần bà.

Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức của Phật như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Chưa từng có vậy, pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh, khiến cho được an ổn, vui sướng. Bắt đầu từ nay, con chẳng tùy thuận tâm hành của mình nữa, chẳng sinh tâm tà kiến kiêu mạn sân hận điều ác. Nói như thế rồi bèn lễ Phật lui ra.

Đức Phật bảo đại chúng: Ý của các ông thế nào? Vua Diệu Trang Nghiêm, đâu phải là ai khác, nay là Bồ Tát Hoa Đức, còn phu nhân Tịnh Đức nay là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, đang ở trước Phật, vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc, nên sinh vào ở trong nước đó. Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nay là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng, thành tựu các công đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành không thể nghĩ bàn. Nếu có ai biết được danh hiệu của hai vị Bồ Tát này, thì tất cả thế gian chư thiên nhân dân cũng nên lễ bái.

Khi Đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của vua Diệu Trang Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh.

***

Phẩm Khuyến Phát Của Bồ Tát Phổ Hiền thứ Hai Mươi Tám

Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền dùng sức thần thông tự tại, uy đức đồn khắp, cùng với các đại Bồ Tát vô lượng vô biên không thể tính đếm, từ phương đông đến, các cõi nước đi qua thảy đều chấn động. Mưa xuống các hoa sen báu, vang lên vô lượng trăm ngàn vạn ức các thứ âm nhạc. Cùng với vô số các hàng trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, và chẳng phải người, hết thảy đều vây quanh, ai nấy đều hiện sức thần thông oai đức, đến núi Kỳ Xà Quật ở thế giới Ta Bà.

Đến rồi, đại chúng đều đảnh lễ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đi nhiễu bên phải bảy vòng, bèn bạch Phật rằng: Đức Thế Tôn! Con ở cõi nước của Đức Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe thế giới Ta Bà này nói Kinh Pháp Hoa, nên con và vô lượng trăm ngàn vạn ức các chúng Bồ Tát cùng nhau đến nghe. Xin Đức Thế Tôn hãy vì đại chúng mà nói. Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ, làm sao có thể được Kinh Pháp Hoa này?

Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền: Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thành tựu bốn pháp này, thì sau khi Như Lai diệt độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa này. Một là được chư Phật hộ niệm, hai là đã gieo trồng các gốc công đức, ba là vào chánh định tụ, bốn là phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh. Người thiện nam, người thiện nữ, thành tựu bốn pháp như thế, thì sau khi Như Lai diệt độ, sẽ được Kinh Pháp Hoa.

Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền bạch Đức Phật rằng: Đức Thế Tôn! Vào đời ác trược năm trăm năm sau, nếu có người thọ trì kinh điển này, thì con sẽ bảo hộ người đó, trừ diệt mọi tai nạn, khiến cho họ được an ổn, làm cho thiên ma ngoại đạo chẳng được tiện lợi xâm phạm người đó. Nếu ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc có người bị ma mê hoặc, hoặc Dạ Xoa, hoặc La Sát, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xà, Cát Giá, Phú Đơn Na, Vĩ Đà La, hết thảy muốn não hại người, thì chẳng được tiện lợi.

Người đó, nếu đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, thì lúc đó con sẽ cỡi voi chúa trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ Tát, cùng đi đến chỗ người đó mà tự hiện thân, cúng dường bảo hộ an ủi tâm của người đó, và cũng vì cúng dường Kinh Pháp Hoa. Nếu người đó ngồi suy nghĩ về kinh này, thì lúc đó con cũng sẽ cỡi voi chúa trắng, hiện thân ở trước người đó. Nếu người đó ở nơi Kinh Pháp Hoa có quên mất một câu, một bài kệ, thì con sẽ chỉ dạy họ, hoặc cùng đọc tụng với họ, khiến cho họ thông đạt.

Đức Thế Tôn! Nếu đời sau này, vào đời ác trược năm trăm năm sau, có hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ nào thọ trì, đọc tụng, biên chép, muốn tu tập Kinh Pháp Hoa này, trong hai mươi mốt ngày, một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà, cùng với vô lượng chúng Bồ Tát, mà tự vây quanh, dùng tất cả thân mà chúng sinh thích thấy, để hiện ra ở trước người đó, mà vì họ nói pháp, khai thị giáo hóa, khiến cho họ được lợi ích, hoan hỉ. Con cũng cho chú Đà la ni, vì được chú Đà la ni, nên chẳng có ai có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ mê hoặc nhiễu loạn, con cũng thường bảo hộ người đó.

Xin Đức Thế Tôn nghe con nói chú Đà la ni này, bèn ở trước Đức Phật mà nói chú rằng:

A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba thiên nỉ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết già đà ni, a tăng kì, tăng già bà già địa, đế lệ a nọa tăng già suất lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đõa lâu đà kiều xá lược a nậu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.

Đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nghe được Đà la ni này, thì nên biết đó là nhờ sức thần thông của Phổ Hiền. Nếu Kinh Pháp Hoa truyền bá ở cõi Diêm Phù Đề, có người thọ trì, thì nên nghĩ rằng, đều là nhờ sức oai thần của Phổ Hiền. Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giảng giải nghĩa lý của kinh này, và y theo lời nói trong kinh mà tu hành, thì nên biết người đó, thực hành hạnh của Phổ Hiền, ở chỗ vô lượng vô biên các Đức Phật trồng sâu căn lành, được các Đức Như Lai lấy tay rờ đầu. Nếu chỉ biết biên chép, thì người đó sau khi mạng chung, sẽ được sinh về cõi trời Đao Lợi. Lúc đó, có bốn vạn tám ngàn thiên nữ, tấu lên các thứ âm nhạc đến nghinh tiếp. Người đó bèn đội mũ bảy báu, ở trong các thể nữ vui cười khoái lạc. Hà huống là thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, giải nghĩa lý kinh điển, theo như lời nói trong kinh mà tu hành. Nếu có người thọ trì đọc tụng giải nghĩa lý trong kinh, thì sau khi người đó chết đi, sẽ được ngàn vị Phật dũi tay rờ đầu, khiến cho họ chẳng sợ hãi, chẳng đọa vào ba đường ác, bèn được vãng sinh về cõi trời Đâu Suất, chỗ của Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc có ba mươi hai tướng, có các chúng đại Bồ Tát cùng vây quanh, lại có trăm ngàn vạn ức thiên nữ và quyến thuộc, cùng sinh ở trong đó, có các công đức lợi ích như thế.

Do đó, người có trí nên một lòng biên chép Kinh Pháp Hoa, hoặc khiến người biên chép, thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, theo như lời nói trong kinh mà tu hành.

Đức Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông để bảo hộ kinh này. Sau khi Như Lai diệt độ, sẽ rộng truyền bá kinh này ở trong cõi Diêm Phù Đề, khiến cho chẳng đoạn tuyệt.

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khen rằng: Lành thay, lành thay! Phổ Hiền, ông hộ trì giúp kinh này, khiến cho hết thảy chúng sinh được lợi ích an lạc. Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, lòng từ bi sâu rộng, từ lâu xa đến nay phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, hay phát nguyện thần thông đó, bảo hộ kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông, bảo hộ người thọ trì danh hiệu của Bồ Tát Phổ Hiền.

Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì đọc tụng, nghĩ nhớ chân chánh, tu tập biên chép Kinh Pháp Hoa này, thì nên biết người đó, tức thấy được Phật Thích Ca Mâu Ni, như từ miệng của Đức Phật được nghe kinh điển này. Nên biết người đó, cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni. Nên biết người đó, được Phật khen lành thay. Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy tay rờ đầu.

Nên biết người đó, được Phật Thích Ca Mâu Ni lấy y trùm cho. Người như thế, chẳng còn tham trước sự vui của thế gian, chẳng thích xem nghe kinh sách của ngoại đạo nữa, cũng chẳng ưa gần gũi những người đó, và những kẻ ác như đồ tể, kẻ giết loài súc vật heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc người buôn bán nữ sắc.

Người đó tâm ý chất trực, có sự nghĩ nhớ chân chánh, có phước đức, người đó chẳng bị ba độc làm não hại, cũng chẳng bị đố kị, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn, làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, hay tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.

Phổ Hiền! Nếu sau khi Như Lai vào Niết Bàn, năm trăm năm sau, nếu có người thấy người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa, thì nên nghĩ rằng: Người đó chẳng bao lâu sẽ ngồi ở Đạo tràng, phá các quân ma, được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chuyển bánh xe pháp, đánh trống pháp, thổi loa pháp, mưa pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử, ở trong đại chúng trời người.

Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, có người thọ trì đọc tụng kinh này, thì người đó chẳng còn tham trước y phục, đồ nằm, thức ăn uống, các vật chất. Có nguyện cầu những gì, thảy đều thành tựu, cũng ở trong hiện đời đắc được phước báu.

Nếu có người khinh khi phỉ báng nói: Ông là người cuồng, làm những việc vô ích, chẳng có đắc được gì cả. Tội báo như thế đời đời sẽ không có mắt. Nếu có người cúng dường khen ngợi, thì hiện đời sẽ đắc được quả báo lành. Nếu lại có người, thấy người thọ trì kinh này, sinh tâm gây tội lỗi, hoặc thật, hoặc không thật, thì người đó hiện đời mắc bệnh bạch lại. Nếu khinh khi cười người thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì đời đời răng sẽ thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong queo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ nhọt máu mủ hôi hám, bụng phình hơi ngắn, các chứng bệnh ác nặng.

Do đó, Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh này, thì nên đứng dậy ra xa nghinh tiếp, như cung kính Phật.

Khi Đức Phật nói Phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát này, thì có vô lượng vô biên Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, đắc được ngàn vạn ức toàn Đà la ni, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của ba ngàn đại thiên thế giới, đầy đủ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền.

Khi Đức Phật nói kinh này, thì Bồ Tát Phổ Hiền và hết thảy các Bồ Tát, Ngài Xá Lợi Phất và các hàng Thanh Văn, cùng trời, rồng, người và chẳng phải người, tất cả đại hội, thảy đều đại hoan hỉ, thọ trì lời của Đức Phật nói, làm lễ rồi lui ra.

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hoa Chánh Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Bồ Tát – Thích Minh Lễ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Thiền Tâm dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Những Điều Trái Nghịch Của Ma - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng