Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch
Bản Việt dịch của Nguyên Thuận
***
QUYỂN 1
PHẨM 1: PHẦN TỰ
Tôi nghe như vầy:
Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Linh Thứu gần thành Vương Xá, cùng với 12.000 vị đại Tỳ-kheo. Tất cả đều là A-la-hán, các lậu đã tận và không còn phiền não. Họ được điều lợi ích cho bản thân, dứt trừ mọi sự ràng buộc, và tâm đắc tự tại. Tên các ngài là:
– Tôn giả Liễu Bổn Tế,
– Tôn giả Đại Ca-diếp,
– Tôn giả Mộc Qua Lâm Ẩm Quang,
– Tôn giả Thành Ẩm Quang,
– Tôn giả Hà Ẩm Quang,
– Tôn giả Xá-lợi Tử,
– Tôn giả Đại Mục-kiền-liên,
– Tôn giả Đại Văn Sức,
– Tôn giả Ly Chướng,
– Tôn giả Phòng Tú,
– Tôn giả Ngưu Vương,
– Tôn giả Thất Tú,
– Tôn giả Dư Tập,
– Tôn giả Thiện Dung,
– Tôn giả Đại Tất,
– Tôn giả Hỷ Lạc,
– Tôn giả Diễm Hỷ,
– Tôn giả Mãn Nguyện Tử,
– Tôn giả Thiện Hiện,
– Tôn giả A-nan,
– Tôn giả La-hầu-la,
– và các vị đại A-la-hán khác như thế mà ai cũng quen biết.
Lại có 2.000 người Hữu Học cùng bậc Vô Học.
Có Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo và hàng quyến thuộc là 6.000 người.
Có mẹ của Tôn giả La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la và hàng quyến thuộc.
Có 80.000 chư đại Bồ-tát, đều là những vị bất thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hết thảy đều đắc tổng trì cùng nhạo thuyết biện tài và có thể lăn chuyển bất thối chuyển Pháp luân. Các ngài đã cúng dường vô lượng trăm ngàn chư Phật và ở nơi của các Đức Phật kia gieo trồng căn lành. Các ngài thường được chư Phật ngợi khen, tu hành với lòng từ bi, khéo nhập trí tuệ của Phật, thông đạt đại trí tuệ, và đã đến bờ kia. Danh xưng của họ vang khắp vô lượng thế giới và có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các ngài là:
– Diệu Cát Tường Bồ-tát,
– Quán Thế Âm Bồ-tát,
– Đại Thế Chí Bồ-tát,
– Thường Tinh Tấn Bồ-tát,
– Bất Hưu Tức Bồ-tát,
– Bảo Chưởng Bồ-tát,
– Dược Vương Bồ-tát,
– Dũng Thí Bồ-tát,
– Bảo Nguyệt Bồ-tát,
– Nguyệt Quang Bồ-tát,
– Mãn Nguyệt Bồ-tát,
– Đại Lực Bồ-tát,
– Vô Lượng Lực Bồ-tát,
– Việt Tam Giới Bồ-tát,
– Hiền Hộ Bồ-tát,
– Từ Thị Bồ-tát,
– Bảo Tích Bồ-tát,
– Đạo Sư Bồ-tát,
– và chư đại Bồ-tát khác như thế; tổng cộng là 80.000 vị.
Lúc bấy giờ còn có Thiên chủ Đế Thích và hàng quyến thuộc là 20.000 vị thiên tử.
Lại có Nguyệt Thiên Tử, Phổ Hương Thiên Tử, Bảo Quang Thiên Tử, Tứ Đại Thiên Vương, và hàng quyến thuộc là 10.000 vị thiên tử.
Có Tự Tại Thiên Tử, Đại Tự Tại Thiên Tử, và hàng quyến thuộc là 30.000 vị thiên tử.
Có vị chủ lãnh của Thế giới Kham Nhẫn là Phạm Thiên Vương, cũng như Trì Kế Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm, và các vị khác như thế, cùng với hàng quyến thuộc là 12.000 vị thiên tử.
Có tám vị long vương, gồm có: Hỷ Lạc Long Vương, Hiền Hỷ Long Vương, Hải Long Vương, Cửu Đầu Long Vương, Đa Thiệt Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Từ Tâm Long Vương, Thanh Liên Long Vương, và các vị khác như thế. Mỗi vua rồng có vài trăm ngàn quyến thuộc.
Có bốn vị nghi thần vương, gồm có: Pháp Nghi Thần Vương, Diệu Pháp Nghi Thần Vương, Đại Pháp Nghi Thần Vương, và Trì Pháp Nghi Thần Vương. Mỗi nghi thần vương có vài trăm ngàn quyến thuộc.
Có bốn vị tầm hương thần vương, gồm có: Nhạc Tầm Hương Thần Vương, Nhạc Âm Tầm Hương Thần Vương, Mỹ Tầm Hương Thần Vương, và Mỹ Âm Tầm Hương Thần Vương. Mỗi tầm hương thần vương có vài trăm ngàn quyến thuộc.
Có bốn vị phi thiên vương, gồm có: Bị Phược Phi Thiên Vương, Quảng Kiên Bác Phi Thiên Vương, Tịnh Tâm Phi Thiên Vương, và Chấp Nhật Phi Thiên Vương. Mỗi phi thiên vương có vài trăm ngàn quyến thuộc.
Có bốn vị kim sí điểu vương, gồm có: Đại Uy Đức Kim Sí Điểu Vương, Đại Thân Kim Sí Điểu Vương, Đại Mãn Kim Sí Điểu Vương, và Như Ý Kim Sí Điểu Vương. Mỗi kim sí điểu vương có vài trăm ngàn quyến thuộc.
Có vua Vị Sanh Oán, con của Hoàng hậu Thắng Diệu Thân, và vài trăm ngàn quyến thuộc.
Mỗi vị đều đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, rồi lui sang ngồi một bên.
Lúc bấy giờ, hàng tứ chúng vây quanh, cúng dường cung kính và xưng dương tán thán Thế Tôn. Tiếp đến, Đức Phật thuyết Kinh Đại Thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, là Pháp để giáo hóa Bồ-tát và được Phật hộ niệm.
Khi Phật thuyết Kinh đó xong, Ngài ngồi kiết già và nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ Chánh Định, thân tâm bất động.
Ngay lúc ấy, trời mưa hoa thích ý, hoa thích ý lớn, hoa nhu nhuyễn, và hoa nhu nhuyễn lớn rải lên Đức Phật cùng các đại chúng. Khi đó, khắp thế giới của chư Phật đều chấn động sáu cách.
Lúc bấy giờ trong Pháp hội có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân, cùng các tiểu vương và Chuyển Luân Thánh Vương. Khi toàn thể đại chúng thấy được việc chưa từng có, họ vui mừng chắp tay và nhất tâm nhìn chăm chú Đức Phật.
Lúc bấy giờ Đức Phật phóng một luồng ánh sáng từ tướng bạch hào ở giữa đôi chân mày, chiếu soi 18.000 thế giới ở phương đông; không một nơi nào mà chẳng rọi tới, dưới đến tận Địa ngục Vô Gián, trên lên thấu trời Hữu Đảnh. Từ ở thế giới này có thể thấy hết chúng sanh trong lục đạo ở các cõi nước kia.
Lại thấy chư Phật hiện tại ở các quốc độ kia, cùng nghe được Kinh Pháp của chư Phật nơi đó thuyết giảng, và cũng thấy các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ở cõi nước kia tu hành đắc Đạo.
Lại thấy chư đại Bồ-tát trong sự tu hành của Bồ-tát Đạo với đủ mọi nhân duyên, muôn thứ tín giải, và vô số tướng mạo.
Lại thấy chư Phật nhập Đại Niết-bàn.
Lại thấy sau khi chư Phật nhập Đại Niết-bàn, chúng đệ tử lấy xá-lợi của Phật mà dựng xây tháp bảy báu.
Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát khởi niệm như vầy:
“Nay Thế Tôn hiện tướng thần thông biến hóa. Vì nhân duyên gì mà có điềm lành đó? Bây giờ Đức Phật Thế Tôn đã nhập chánh định, nhưng lại hiện ra điều hy hữu này, thật là chẳng thể nghĩ bàn. Ta sẽ phải hỏi ai đây? Và ai có thể giải đáp?”
Lại nghĩ như vầy:
“Diệu Cát Tường Pháp Vương Tử đã từng thân cận và cúng dường vô lượng quá khứ chư Phật. Ngài tất nhiên phải thấy tướng hy hữu đó. Bây giờ ta hãy nên hỏi ngài.”
Khi ấy các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cùng chư thiên long quỷ thần thảy đều khởi niệm như vầy:
“Giờ đây mình sẽ hỏi ai về hào quang và tướng thần thông này của Phật?”
Lúc bấy giờ Từ Thị Bồ-tát muốn giải đáp điều nghi vấn của mình, lại quán sát hàng tứ chúng–Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di–cùng tâm niệm của chư thiên long quỷ thần trong chúng hội, nên hỏi ngài Diệu Cát Tường rằng:
“Nhân duyên gì mà có tướng thần thông điềm lành này, phóng đại quang minh chiếu đến 18.000 quốc độ ở phương đông, khiến đều thấy những sự trang nghiêm ở cõi nước của chư Phật kia?”
Tiếp đó Từ Thị Bồ-tát muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên dùng kệ hỏi rằng:
“Ngài Diệu Cát Tường
Đạo sư nhân duyên gì?
Bạch hào giữa chân mày
Phổ chiếu đại quang minh
Mưa xuống hoa thích ý
Hoa nhu nhuyễn cõi trời
Làn gió hương chiên đàn
Vui thích lòng đại chúng
Do bởi nhân duyên gì
Đại địa đều nghiêm tịnh
Lại ở thế giới này
Chấn động rung sáu cách
Khi đó hàng tứ chúng
Ai nấy đều hoan hỷ
Thân ý lòng vui sướng
Được điều chưa từng có
Ánh sáng giữa chân mày
Chiếu thấu đến phương đông
Mười tám ngàn cõi nước
Đều biến như sắc vàng
Từ dưới Ngục Vô Gián
Trên đến trời Hữu Đảnh
Trong các thế giới kia
Chúng sanh khắp lục đạo
Sanh tử nơi cõi giới
Thiện ác với nghiệp duyên
Thọ báo tốt hay xấu
Thảy đều hiện thấy rõ
Lại thấy chư Như Lai
Đức Thánh Chủ Sư Tử
Diễn nói Kinh Pháp Phật
Vi diệu siêu đệ nhất
Âm thanh Phật thanh tịnh
Vang ra tiếng hòa nhã
Giáo hóa chư Bồ-tát
Vô số ức vạn muôn
Phạm âm vi diệu sâu
Khiến người hoan hỷ nghe
Ở nơi mỗi thế giới
Thuyết giảng Chánh Pháp mầu
Với đủ mọi nhân duyên
Dùng vô lượng thí dụ
Hiển bày rõ Phật Pháp
Khai đạo ngộ chúng sanh
Nếu người gặp khổ ách
Nhàm chán già bệnh chết
Chư Phật nói Niết-bàn
Tận diệt mọi khổ nạn
Nếu người có phước báo
Bởi từng cúng dường Phật
Chí cầu Pháp tối thắng
Chư Phật nói Duyên Giác
Nếu có Phật tử nào
Tu tập muôn hạnh lành
Chí cầu vô thượng tuệ
Chư Phật nói tịnh Đạo
Ngài Diệu Cát Tường
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe việc như vậy
Cùng với ngàn ức sự
Rất nhiều việc như thế
Nay tôi sẽ lược nói
Tôi thấy các quốc độ
Hằng sa chư Bồ-tát
Với đủ mọi nhân duyên
Chí cầu vô thượng Đạo
Hoặc có vị hành thí
Vàng bạc với san hô
Trân châu như ý châu
Xa cừ cùng mã não
Kim cang các trân báu
Nô tỳ với xe cộ
Kiệu báu đồ trang sức
Hoan hỷ bố thí người
Phật Đạo xin hồi hướng
Phật Thừa nguyện sẽ đắc
Đệ nhất trong Tam Giới
Chư Phật đều tán dương
Hoặc thấy có Bồ-tát
Bố thí xe quý báu
Lan can mái hiên cửa
Lọng hoa cùng bốn ngựa
Lại thấy có Bồ-tát
Lấy da thịt tay chân
Cùng vợ con bố thí
Chí cầu vô thượng Đạo
Lại thấy có Bồ-tát
Đem đầu mắt thân thể
Vui vẻ bố thí người
Chí cầu Phật trí tuệ
Ngài Diệu Cát Tường
Tôi thấy các quốc vương
Đi đến chỗ của Phật
Hỏi về vô thượng Đạo
Rồi xả bỏ quốc gia
Cung điện cùng thần thiếp
Cạo bỏ cắt râu tóc
Mà khoác lên Pháp y
Hoặc thấy có Bồ-tát
Xuất gia làm Tỳ-kheo
Một mình nơi yên tĩnh
Vui thích tụng Kinh điển
Lại thấy có Bồ-tát
Luôn dũng mãnh tinh tấn
Lên rừng sâu núi thẳm
Tư duy về Phật Đạo
Lại thấy người ly dục
Thường tại nơi vắng vẻ
Thâm nhập tu thiền định
Chứng đắc năm thần thông
Lại thấy có Bồ-tát
Chắp tay thiền an lạc
Dùng trăm ngàn bài kệ
Tán thán chư Pháp Vương
Lại thấy có Bồ-tát
Trí sâu nguyện kiên cố
Khéo hỏi Phật Như Lai
Nghe xong đều thọ trì
Lại thấy có Phật tử
Cụ túc giới định tuệ
Dùng vô lượng thí dụ
Vì chúng thuyết giảng Pháp
Lòng vui mừng thuyết Pháp
Giáo hóa chư Bồ-tát
Hàng phục chúng ma binh
Đánh trống Pháp vang rền
Lại thấy có Bồ-tát
Tịch nhiên trong yên tĩnh
Trời rồng vây cung kính
Cảnh vui chẳng lay động
Lại thấy có Bồ-tát
Nơi núi rừng phóng quang
Cứu tế địa ngục khổ
Khiến họ nhập Phật Đạo
Lại thấy có Phật tử
Chưa từng mê ngủ say
Kinh hành trong sơn lâm
Tinh cần cầu Phật Đạo
Lại thấy người giữ giới
Uy nghi chẳng khuyết phạm
Thanh tịnh như bảo châu
Là vì cầu Phật Đạo
Lại thấy có Phật tử
An trụ sức nhẫn nhục
Dù kẻ tăng thượng mạn
Đánh đập mắng chửi rủa
Họ đều có thể nhẫn
Là vì cầu Phật Đạo
Lại thấy có Bồ-tát
Lánh xa chuyện phù phiếm
Cùng quyến thuộc ngu si
Chỉ thân cận người trí
Nhất tâm trừ loạn tưởng
Nhiếp niệm trú núi rừng
Muôn ức ngàn vạn năm
Là vì cầu Phật Đạo
Hoặc thấy có Bồ-tát
Lấy thức ăn ngon lạ
Với trăm loại thuốc thang
Cúng dường Phật cùng Tăng
Quần áo xinh đẹp quý
Trị giá cả ngàn vạn
Hoặc lấy vô giá y
Cúng dường Phật cùng Tăng
Ngàn vạn ức muôn loại
Chiên đàn hương nhà báu
Các gối nệm thượng diệu
Cúng dường Phật cùng Tăng
Khu viên lâm thanh tịnh
Trái cây hoa tốt tươi
Suối chảy ao tắm mát
Cúng dường Phật cùng Tăng
Cúng dường vật như thế
Muôn loại vi diệu hảo
Hoan hỷ chẳng mỏi mệt
Chí cầu vô thượng Đạo
Hoặc thấy có Bồ-tát
Thuyết giảng Pháp tịch diệt
Với đủ mọi phương cách
Dạy vô số chúng sanh
Hoặc thấy có Bồ-tát
Quán sát mọi pháp tánh
Thật chẳng có hai tướng
Tịch diệt như hư không
Hoặc thấy có Phật tử
Tâm chẳng hề chấp trước
Dùng trí tuệ thâm diệu
Chí cầu vô thượng Đạo
Ngài Diệu Cát Tường
Lại thấy có Bồ-tát
Sau khi Phật nhập diệt
Cúng dường xá-lợi Phật
Lại thấy có Phật tử
Xây tạo các tháp miếu
Vô số Hằng Hà sa
Trang nghiêm cõi nước đó
Bảo tháp thật vi diệu
Cao năm ngàn do-tuần
Chiều dài và chiều rộng
Là hai ngàn do-tuần
Từng mỗi tháp miếu kia
Có hàng ngàn tràng phan
Màn lưới châu báu giăng
Chuông báu hòa nhã vang
Chư thiên long quỷ thần
Hàng người cùng phi nhân
Dùng âm nhạc hoa hương
Thường lấy đem cúng dường
Ngài Diệu Cát Tường
Các Phật tử như thế
Vì cúng dường xá-lợi
Trang nghiêm tháp miếu kia
Quốc độ kia tự nhiên
Đặc thù đẹp vi diệu
Như thụ vương cõi trời
Đến kỳ bông hoa nở
Phật phóng một hào quang
Tôi với đại chúng đây
Kiến thấy cõi nước đó
Muôn thứ đẹp thù diệu
Chư Phật sức uy thần
Trí tuệ hy hữu thay
Phóng một tịnh quang minh
Chiếu soi vô lượng quốc
Khi chúng tôi trông thấy
Được sự chưa từng có
Ngài Diệu Cát Tường
Xin nguyện trừ chúng nghi
Tứ chúng hân hoan nhìn
Trông ngóng ngài và tôi
Vì sao Đức Thế Tôn
Phóng ánh quang minh kia?
Nhân giả xin hãy nói
Đoạn nghi sanh hoan hỷ
Lợi ích như thế nào
Khi phóng hào quang đó?
Phật ngồi ở Đạo Tràng
Ngài đắc vi diệu Pháp
Có phải muốn thuyết giảng
Hay Ngài sẽ thọ ký?
Thị hiện chư Phật độ
Chúng bảo tịnh trang nghiêm
Cùng thấy các Đức Phật
Nhân duyên này chẳng nhỏ
Diệu Đức ngài nên biết
Tứ chúng cùng long thần
Ngóng trông nơi Nhân giả
Mong nói nhân duyên gì”
Lúc bấy giờ ngài Diệu Cát Tường nói với Từ Thị Đại Bồ-tát và các vị Đại sĩ rằng:
“Chư thiện nam tử! Theo như tôi nghĩ thì nay Đức Phật Thế Tôn muốn nói đại Pháp, mưa đại Pháp vũ, thổi đại Pháp loa, đánh đại Pháp cổ, và diễn đại Pháp nghĩa.
Chư thiện nam tử! Vào thuở chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy qua điềm lành này. Sau khi phóng hào quang xong, chư Phật liền nói đại Pháp. Vì thế phải biết rằng, nay Đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Đức Phật muốn khiến chúng sanh nghe biết được Pháp mà hết thảy thế gian đều khó tin, cho nên Ngài mới hiện điềm lành.
Chư thiện nam tử! Đây cũng giống như vào thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị vô số kiếp. Lúc ấy có Đức Phật, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Thế Tôn kia diễn nói Chánh Pháp ở lúc đầu, lúc giữa, và lúc cuối thảy đều chí thiện. Nghĩa đó sâu xa, Phật ngữ xảo diệu, thuần nhất vô tạp, và đầy đủ các tướng của Phạm hạnh thanh tịnh.
– Vì người cầu Thanh Văn, Ngài liền thuyết Pháp Tứ Đế.
– Vì người cầu Độc Giác, Ngài liền thuyết Pháp Thập Nhị Nhân Duyên.
– Vì chư Bồ-tát, Ngài liền thuyết Lục Độ, để khiến họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí.
Tiếp đó lại có Đức Phật, cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Kế đến lại có Đức Phật, cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. 20.000 Đức Phật như thế đều đồng một danh tự, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại cũng đồng một họ, gọi là Lợi Căn.
Ngài Từ Thị! Nên biết rằng, vị Phật đầu tiên đến vị Phật cuối cùng đều đồng một danh tự, hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh và đầy đủ mười danh hiệu. Nơi Pháp thuyết giảng, lúc đầu, lúc giữa và lúc cuối thảy đều chí thiện.
Lúc Đức Phật sau cùng còn chưa xuất gia, ngài có tám hoàng tử:
– vị hoàng tử thứ nhất tên là Hữu Ý;
– vị hoàng tử thứ nhì tên là Thiện Ý;
– vị hoàng tử thứ ba tên là Vô Lượng Ý;
– vị hoàng tử thứ tư tên là Bảo Ý;
– vị hoàng tử thứ năm tên là Tăng Ý;
– vị hoàng tử thứ sáu tên là Trừ Nghi Ý;
– vị hoàng tử thứ bảy tên là Hưởng Ý;
– và vị hoàng tử thứ tám tên là Pháp Ý.
Tám hoàng tử này có uy đức tự tại và mỗi vị thống lãnh tứ châu thiên hạ. Khi các hoàng tử nghe tin phụ vương xuất gia và đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, họ đều xả bỏ vương vị và cùng theo cha xuất gia. Họ phát tâm Đại Thừa và luôn tu Phạm hạnh. Khi tất cả đã trở thành Pháp sư, họ gieo trồng căn lành ở nơi của trăm ngàn Đức Phật.
Lúc bấy giờ, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết Kinh Đại Thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, là Pháp để giáo hóa Bồ-tát và được Phật hộ niệm.
Khi Đức Phật kia thuyết Kinh đó xong, Ngài liền ở giữa đại chúng, ngồi kiết già và nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ Chánh Định, thân tâm bất động.
Ngay lúc ấy, trời mưa hoa thích ý, hoa thích ý lớn, hoa nhu nhuyễn, và hoa nhu nhuyễn lớn rải lên Đức Phật cùng các đại chúng. Khi đó, khắp thế giới của chư Phật đều chấn động sáu cách.
Lúc bấy giờ trong Pháp hội có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân, cùng các tiểu vương và Chuyển Luân Thánh Vương. Khi toàn thể đại chúng thấy được việc chưa từng có, họ vui mừng chắp tay và nhất tâm nhìn chăm chú Đức Phật.
Lúc bấy giờ Đức Như Lai kia phóng một luồng ánh sáng từ tướng bạch hào ở giữa đôi chân mày, chiếu soi 18.000 Phật độ ở phương đông, không một nơi nào mà chẳng rọi tới. Đây cũng như các Phật độ hiện đang thấy bây giờ.
Ngài Từ Thị! Nên biết rằng, thuở ấy trong Pháp hội có 20 ức Bồ-tát và họ đều rất vui thích nghe Pháp. Khi chư Bồ-tát đó thấy ánh quang minh kia chiếu khắp Phật độ, họ được điều chưa từng có và muốn biết nhân duyên gì mà Phật phóng hào quang này.
Khi ấy có một vị Bồ-tát tên là Diệu Quang; ngài có 800 đệ tử. Lúc đó Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ chánh định dậy, Ngài vì Diệu Quang Bồ-tát mà thuyết Kinh Đại Thừa, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, là Pháp để giáo hóa Bồ-tát và được Phật hộ niệm.
Trải qua 60 tiểu kiếp, Ngài chẳng rời khỏi Pháp tòa. Thính chúng trong Pháp hội kia cũng ngồi yên một chỗ đến 60 tiểu kiếp, thân tâm bất động. Họ nghe Phật thuyết Pháp suốt 60 tiểu kiếp mà thời gian tưởng chừng như một bữa ăn. Thuở đó trong đại chúng, không một người nào mà thân hoặc tâm sanh mệt mỏi.
Khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã trải qua 60 tiểu kiếp nói Kinh đó xong, Ngài ở giữa đại chúng, bao gồm Phạm Thiên, ma, Sa-môn, Bà-la-môn, cùng trời, người và phi thiên mà tuyên nói lời thế này:
“Giữa đêm nay Như Lai sẽ nhập Vô Dư Niết-bàn.”
Thuở ấy có một vị Bồ-tát được Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thọ ký, tên là Đức Tạng. Đức Phật kia bảo chư Tỳ-kheo:
“Đức Tạng Bồ-tát này đây sẽ kế đến làm Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.”
Khi Đức Phật kia thọ ký xong, vào lúc nửa đêm, Ngài nhập Vô Dư Niết-bàn. Sau khi Đức Phật kia diệt độ, Diệu Quang Bồ-tát thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và diễn nói cho người khác suốt trọn 80 tiểu kiếp. Tám con trai của Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn Diệu Quang Bồ-tát làm thầy. Diệu Quang Bồ-tát giáo hóa và khiến họ kiên cố nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi tám vị hoàng tử này đã cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật xong, họ đều thành Phật Đạo. Vị thành Phật cuối cùng tên là Nhiên Đăng.
Trong số 800 đệ tử của Diệu Quang Bồ-tát, có một người tên là Cầu Danh, rất tham trước lợi dưỡng. Tuy cũng đọc tụng Kinh điển nhưng chẳng thấu hiểu và phần lớn quên mất, cho nên mới gọi là Cầu Danh. Do bởi nhân duyên gieo trồng thiện căn nên vị này cũng gặp vô lượng trăm ngàn ức chư Phật, cung kính cúng dường và tôn trọng tán thán.
Ngài Từ Thị! Nên biết rằng, Diệu Quang Bồ-tát lúc ấy, chẳng ai xa lạ, chính là tiền thân của tôi đây. Còn Cầu Danh Bồ-tát chính là tiền thân của ngài đấy.
Điềm lành trông thấy hôm nay và lúc xưa đều giống nhau không khác. Cho nên tôi nghĩ rằng, hôm nay Như lai sẽ thuyết Kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, là Pháp để giáo hóa Bồ-tát và được Phật hộ niệm.”
Lúc bấy giờ ngài Diệu Cát Tường ở giữa đại chúng muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Tôi nhớ thuở quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhân Trung Tôn
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh
Thế Tôn diễn nói Pháp
Độ vô lượng chúng sanh
Vô số ức Bồ-tát
Khiến nhập Phật trí tuệ
Lúc Phật chưa xuất gia
Ngài có tám hoàng tử
Thấy Đại Thánh xuất gia
Cũng theo tu Phạm hạnh
Thời Phật thuyết Đại Thừa
Tên Kinh Vô Lượng Nghĩa
Ngài ở giữa đại chúng
Rộng vì họ phân biệt
Khi Phật thuyết Kinh xong
Liền ở trên Pháp tòa
Kiết già nhập chánh định
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ
Trời mưa hoa thích ý
Trống trời tự nhiên vang
Chư thiên long quỷ thần
Cúng dường Nhân Trung Tôn
Hết thảy chư Phật độ
Tức thời chấn động lớn
Phật phóng quang giữa mày
Hiện các việc hy hữu
Hào quang chiếu phương đông
Mười tám ngàn Phật độ
Hiển tất cả chúng sanh
Nơi nghiệp báo sanh tử
Thấy có chư Phật độ
Dùng chúng bảo trang nghiêm
Lưu ly pha lê sắc
Đều do Phật quang chiếu
Cùng thấy hàng trời người
Long thần quỷ dạ-xoa
Nghi thần tầm hương thần
Mỗi mỗi cúng dường Phật
Lại thấy chư Như Lai
Tự nhiên thành Phật Đạo
Thân sắc như núi vàng
Đoan nghiêm thật vi diệu
Như trong tịnh lưu ly
Hiện hình tượng vàng ròng
Thế Tôn giữa đại chúng
Diễn nói Pháp nghĩa thâm
Mỗi chư Phật độ có
Vô số bậc Thanh Văn
Do Phật quang chiếu soi
Đều thấy đại chúng kia
Hoặc có chư Tỳ-kheo
Cư trú trong núi rừng
Tinh tấn trì tịnh giới
Như bảo hộ minh châu
Lại thấy chư Bồ-tát
Tu hành Pháp Lục Độ
Số ấy như Hằng sa
Đều do Phật quang chiếu
Lại thấy chư Bồ-tát
Nhập sâu trong thiền định
Thân tâm tịch bất động
Chí cầu vô thượng Đạo
Lại thấy chư Bồ-tát
Biết Pháp tịch diệt tướng
Ở mỗi nơi cõi nước
Thuyết Pháp cầu Phật Đạo
Lúc đó hàng tứ chúng
Thấy Nhật Nguyệt Đăng Phật
Hiện sức đại thần thông
Tâm họ đều hoan hỷ
Ai nấy đều hỏi nhau
“Nhân duyên này là sao?”
Thế Tôn Thiên Nhân Sư
Liền từ chánh định dậy
Khen Diệu Quang Bồ-tát
“Ông là mắt thế gian
Tất cả đều quy tín
Khéo phụng trì Pháp tạng
Pháp do Ta thuyết giảng
Duy ông mới chứng biết”
Thế Tôn ngợi khen xong
Khiến Diệu Quang hoan hỷ
Rồi Phật thuyết Pháp Hoa
Trọn sáu mươi tiểu kiếp
Ngài chẳng rời Pháp tòa
Giảng vô thượng diệu Pháp
Pháp sư Diệu Quang ấy
Tất đều khéo thọ trì
Phật giảng Pháp Hoa xong
Khiến đại chúng hoan hỷ
Liền ở trong ngày đó
Bảo đại chúng trời người
“Nghĩa thật tướng các pháp
Đã dạy cho các ông
Ở vào giữa đêm nay
Ta sẽ nhập Niết-bàn
Các ông phải nhất tâm
Tinh tấn chớ phóng dật
Dù một lần gặp Phật
Ức kiếp cũng khó được”
Các đệ tử Thế Tôn
Nghe Phật nhập Niết-bàn
Ai nấy đều buồn bã
“Sao Phật vội nhập diệt?”
Thánh Chủ bậc Pháp Vương
An ủi vô lượng chúng
“Sau khi Ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Đức Tạng Bồ-tát này
Vô lậu chân thật tướng
Tâm đã được thông đạt
Kế đến sẽ làm Phật
Danh hiệu là Tịnh Thân
Cũng độ vô số chúng”
Đêm đó Phật diệt độ
Như củi lửa thiêu xong
Phân chia các xá-lợi
Dựng xây vô lượng tháp
Tỳ-kheo Tỳ-kheo-ni
Số ấy như Hằng sa
Tinh tấn tăng gấp bội
Chí cầu vô thượng Đạo
Pháp sư Diệu Quang này
Phụng trì Phật Pháp tạng
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng giảng Kinh Pháp Hoa
Còn tám hoàng tử đó
Được Diệu Quang giáo hóa
Kiên cố vô thượng Đạo
Họ thấy vô số Phật
Cúng dường chư Phật xong
Tùy thuận hành Đại Đạo
Tiếp đến sẽ thành Phật
Triển chuyển thọ ký nhau
Tối hậu Thiên Trung Thiên
Hiệu là Nhiên Đăng Phật
Đạo sư của chư tiên
Độ thoát vô lượng chúng
Pháp sư Diệu Quang này
Ngài có một đệ tử
Tâm thường hay lười biếng
Tham trước nơi danh lợi
Cầu danh lợi không chán
Hay đến nhà quyền quý
Xao lãng việc tụng niệm
Quên mất chẳng rõ thông
Do vì nguyên nhân ấy
Tên gọi là Cầu Danh
Bởi cũng làm việc lành
Nên gặp vô số Phật
Cúng dường các Đức Phật
Tùy thuận hành Đại Đạo
Đầy đủ Pháp Lục Độ
Nay thấy Phật Thích-ca
Về sau sẽ thành Phật
Danh hiệu là Từ Thị
Rộng độ các chúng sanh
Số ấy vô hạn lượng
Phật kia diệt độ rồi
Người lười biếng là ông
Còn Pháp sư Diệu Quang
Nay tức là thân tôi
Tôi thấy Đăng Minh Phật
Hào quang xưa như đây
Liền biết Phật hôm nay
Muốn giảng Kinh Pháp Hoa
Điềm tướng nay như xưa
Là chư Phật phương tiện
Nay Phật phóng quang minh
Giúp hiển thật tướng nghĩa
Nay đại chúng nên biết
Chắp tay thành tâm đợi
Phật sẽ mưa Pháp vũ
Mãn nguyện người cầu Đạo
Những ai cầu ba thừa
Nếu như có nghi hối
Phật sẽ đoạn trừ sạch
Khiến một chút chẳng còn”
***
PHẨM 2: PHƯƠNG TIỆN
Lúc bấy giờ Thế Tôn từ chánh định an tường mà dậy, rồi bảo ngài Xá-lợi Tử rằng:
“Trí tuệ của chư Phật là thậm thâm vô lượng. Cánh cửa trí tuệ này khó nhập khó hiểu. Hết thảy hàng Thanh Văn cùng Độc Giác đều không thể biết.
Vì sao thế? Bởi Phật đã từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, tu hành hết thảy vô lượng Đạo Pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng vang khắp chốn, thành tựu các Pháp sâu xa chưa từng có, và tùy nghi nói những nghĩa thú khó lý giải.
Này Xá-lợi Tử! Từ khi thành Phật đến nay, Ta đã dùng mọi nhân duyên cùng mọi thí dụ để rộng diễn bày giáo Pháp. Với vô số phương tiện, Ta chỉ dẫn chúng sanh và khiến họ lìa xa mọi điều chấp trước.
Vì sao thế? Bởi Như Lai đã hoàn toàn viên mãn sức phương tiện, tri kiến, và các Độ Vô Cực.
Này Xá-lợi Tử! Tri kiến của Như Lai là quảng đại, thâm sâu vô lượng. Như Lai có vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát, và chánh định. Như Lai nhập sâu vô biên tế và thành tựu tất cả Pháp chưa từng có.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai có thể phân biệt mọi việc, thiện xảo nói mọi pháp, ngôn từ hòa nhã, và làm vui lòng chúng sanh.
Này Xá-lợi Tử! Nói tóm lại thì vô lượng vô biên vị tằng hữu Pháp, Phật thảy đều thành tựu.
Thôi đi, Xá-lợi Tử! Không cần phải nói thêm gì nữa.
Vì sao thế? Bởi các Pháp đệ nhất, hiếm có, và khó liễu giải mà Phật đã thành tựu, duy Phật với Phật mới có thể tường tận rõ thông thật tướng các pháp. Các pháp như là: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, và cứu cánh bình đẳng từ đầu đến cuối như vậy.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Thế Hùng chẳng thể lường
Chư thiên và thế nhân
Hết thảy chúng sanh loại
Đều chẳng ai biết Phật
Phật lực vô sở úy
Giải thoát các chánh định
Cùng Pháp khác của Phật
Đều chẳng ai lường được
Từng hầu vô số Phật
Hành đầy đủ các đạo
Thậm thâm vi diệu Pháp
Khó thấy khó liễu giải
Ở vô lượng ức kiếp
Hành các đạo đó rồi
Đạo Tràng chứng đắc quả
Ta tất đều thấy biết
Đại quả báo như thế
Muôn thứ tánh tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc ấy
Pháp này chẳng thể thấy
Ngôn từ tướng tịch diệt
Hết mọi loài chúng sanh
Không ai liễu giải được
Duy trừ chư Bồ-tát
Với tín lực kiên cố
Các đệ tử của Phật
Từng cúng dường chư Phật
Hết thảy lậu đã tận
Trụ ở thân tối hậu
Sức các vị như thế
Cũng chẳng thể kham thọ
Giả sử khắp thế gian
Đều như Xá-lợi Tử
Tận kiếp cùng suy nghĩ
Chẳng thể rõ Phật trí
Cho dù khắp mười phương
Đều như Xá-lợi Tử
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương giới
Tận kiếp đồng suy nghĩ
Cũng lại chẳng thể biết
Độc Giác bậc lợi trí
Vô lậu thân tối hậu
Cũng đầy mười phương giới
Số ấy như rừng trúc
Nhất tâm cộng suy lường
Đến vô lượng ức kiếp
Suy nghĩ Phật chân trí
Tí ti cũng chẳng biết
Sơ phát tâm Bồ-tát
Cúng dường vô số Phật
Liễu đạt các nghĩa thú
Lại khéo hay thuyết Pháp
Như lúa gai trúc lau
Sung mãn mười phương giới
Nhất tâm dùng diệu trí
Trong Hằng Hà sa kiếp
Đều cộng hợp suy lường
Cũng chẳng biết Phật trí
Bất thối chư Bồ-tát
Số ấy như Hằng sa
Nhất tâm đồng muốn nghĩ
Cũng chẳng thể liễu tri
Lại nữa Xá-lợi Tử
Vô lậu chẳng nghĩ bàn
Thậm thâm vi diệu Pháp
Ta nay đã viên mãn
Duy Ta biết tướng này
Mười phương Phật cũng vậy
Xá-lợi Tử nên biết
Lời chư Phật không khác
Pháp do chư Phật nói
Ông nên sanh tín lực
Pháp Thế Tôn sau cùng
Chân thật phải nói ra
Ta bảo các Thanh Văn
Người cầu Duyên Giác Thừa
Ta khiến thoát khổ lụy
Và sẽ đến Niết-bàn
Phật dùng sức phương tiện
Hiển bày ba thừa giáo
Chúng sanh chấp mọi điều
Dẫn họ thoát ra khỏi”
Lúc bấy giờ trong đại chúng có chư Thanh Văn, bậc A-la-hán với các lậu đã tận, Tôn giả Liễu Bổn Tế với các vị khác như thế, 1.200 người cả thảy, cùng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, và Ưu-bà-di đã phát tâm muốn trở thành Thanh Văn hay Độc Giác. Mỗi vị đều nghĩ như vầy:
“Vì sao hôm nay Thế Tôn lại ân cần xưng dương và ngợi khen phương tiện mà nói rằng,
“Pháp của Phật chứng đắc rất thâm sâu và khó liễu giải, lời nói ý thú của Phật khó biết. Tất cả hàng Thanh Văn cùng Độc Giác đều chẳng thể thấu rõ.”
Phật đã nói một nghĩa lý của giải thoát, chúng ta cũng đã đắc Pháp này và đã đến Niết-bàn, nhưng giờ đây chúng ta cũng chẳng biết nghĩa thú của Ngài.”
Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử biết trong lòng của bốn chúng có điều nghi và tự biết chính mình cũng chưa hiểu rõ, nên bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Như Lai ân cần xưng dương và ngợi khen chư Phật đệ nhất phương tiện, là Pháp thậm thâm vi diệu khó liễu giải? Từ xưa đến giờ, con chưa từng nghe Phật nói điều như thế. Nay hàng tứ chúng đều có chỗ nghi. Duy nguyện Thế Tôn hãy diễn giải việc ấy. Vì sao Thế Tôn ân cần xưng dương và tán thán Pháp thậm thâm vi diệu khó liễu giải?”
Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Tuệ nhật Đại Thánh Tôn
Sau cuối thuyết Pháp này
Nói điều Ngài chứng đắc
Lực vô úy chánh định
Thiền định và giải thoát
Pháp bất khả tư nghị
Đạo Tràng nơi đắc Pháp
Chẳng ai có thể hỏi
Đến con khó liễu giải
Cũng chẳng biết hỏi ai
Vô vấn mà tự nói
Xưng thán nơi hành Đạo
Trí tuệ vi diệu sâu
Nơi chư Phật chứng đắc
Vô lậu A-la-hán
Cùng người cầu Niết-bàn
Nay đều sa lưới nghi
Vì sao Phật nói thế?
Người cầu Đạo Duyên Giác
Tỳ-kheo Tỳ-kheo-ni
Chư thiên long quỷ thần
Cùng chúng tầm hương thần
Nhìn nhau trông ngơ ngác
Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn
“Việc này là thế nào?
Nguyện Phật hãy giảng giải”
Ở trong hàng Thanh Văn
Phật nói con đệ nhất
Nhưng nay với trí con
Chẳng thể giải điều nghi
Có phải Pháp cứu cánh?
Hay là nơi hành Đạo?
Phật tử miệng Phật sanh
Chắp tay chiêm ngưỡng trông
Nguyện xuất vi diệu âm
Mong Phật nói nghĩa thâm
Chư thiên long quỷ thần
Số ấy như Hằng sa
Bồ-tát cầu Phật Đạo
Tổng số có tám vạn
Vạn ức cõi phương khác
Chuyển Luân Thánh Vương đến
Chắp tay lòng thành khẩn
Muốn nghe Đạo viên mãn”
Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:
“Thôi đi! Thôi đi! Không cần phải nói thêm gì nữa. Nếu Ta nói việc này thì hàng trời người trong tất cả thế gian đều sẽ kinh sợ và sanh lòng hoài nghi.”
Ngài Xá-lợi Tử lại bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Kính mong hãy nói! Kính mong hãy nói!
Vì sao thế? Bởi trong Pháp hội này có vô số trăm ngàn vạn ức vô số chúng sanh đã từng thấy chư Phật, có các căn lanh lợi và trí tuệ sáng suốt. Khi nghe Phật nói, họ liền có thể cung kính và tín thọ.”
Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Pháp Vương Vô Thượng Tôn
Xin nói chớ lưỡng lự
Pháp hội vô lượng chúng
Họ có thể kính tin”
Đức Phật lại cản ngài Xá-lợi Tử:
“Nếu Ta nói việc này thì hàng trời người trong tất cả thế gian đều sẽ kinh sợ và sanh lòng hoài nghi. Còn những Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hầm lửa lớn.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn tuyên lại nghĩa lý trên với bài kệ rằng:
“Thôi thôi đừng nói nữa
Pháp Ta diệu vô cùng
Những hàng tăng thượng mạn
Khi nghe chẳng kính tin”
Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử lại bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Kính mong hãy nói! Kính mong hãy nói! Nay ở trong Pháp hội đây có trăm ngàn vạn ức vị bằng như con. Đời đời họ đã từng được Phật giáo hóa. Hàng người như thế tất sẽ có thể cung kính và tín thọ. Trong đêm dài, họ sẽ được bình an và có nhiều lợi ích.”
Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi Tử muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Vô thượng Lưỡng Túc Tôn
Nguyện thuyết đệ nhất Pháp
Con là Phật trưởng tử
Mong Ngài phân biệt nói
Pháp hội vô lượng chúng
Sẽ kính tin Pháp này
Phật đã từng đời đời
Giáo hóa người như thế
Một lòng đồng chắp tay
Muốn nghe lời Phật dạy
Chúng con một ngàn hai
Cùng người cầu Phật Đạo
Nguyện vì đại chúng đây
Mong Ngài phân biệt nói
Khi họ nghe Pháp này
Tức sanh đại hoan hỷ”
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi Tử:
“Ông đã ân cần thỉnh cầu đến ba lần, làm sao Như Lai chẳng thể không nói. Ông nay lắng nghe và khéo tư duy. Ta sẽ phân biệt và giảng giải cho ông.”
Khi nói lời ấy, trong đại hội có 5.000 Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, và Ưu-bà-di liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật rồi cáo lui.
Vì sao thế? Bởi tội căn của những hạng người đó thâm trọng và còn tăng thượng mạn. Chưa đắc mà nói đã đắc. Chưa chứng mà nói đã chứng. Với các lỗi lầm như thế nên chẳng thể ở lại. Thế Tôn lặng yên và không cản ngăn họ.
Lúc bấy giờ Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:
“Thính chúng của Ta bây giờ đã không còn nhánh và lá, mà chỉ thuần nhất toàn thân cây.
Này Xá-lợi Tử! Thật rất tốt khi hạng người tăng thượng mạn như thế rời khỏi. Ông nay hãy lắng nghe. Ta sẽ thuyết giảng cho ông.”
Ngài Xá-lợi Tử thưa:
“Dạ vâng, thưa Thế Tôn! Con vui thích muốn nghe.”
Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:
“Diệu Pháp của chư Phật Như Lai chỉ nói trong một dịp đặc biệt, như hoa linh thụy rất lâu mới nở một lần.
Này Xá-lợi Tử! Các ông nên tín thọ lời của Ta nói. Đó là vì lời của Phật quyết không hư vọng.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật tùy duyên thuyết Pháp, nghĩa thú khó giải.
Vì sao thế? Bởi Ta dùng vô số phương tiện cùng mọi nhân duyên và ngôn từ thí dụ để diễn nói các Pháp. Pháp này chẳng thể suy lường hay phân biệt mà có thể lý giải được. Duy chỉ có chư Phật mới có thể biết.
Vì sao thế? Bởi chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian duy chỉ vì một đại sự nhân duyên.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian duy chỉ vì một đại sự nhân duyên nghĩa là sao?
– Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian là vì muốn khiến chúng sanh Khai Phật Tri Kiến để được thanh tịnh.
– Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian là vì muốn khiến chúng sanh Thị Phật Tri Kiến.
– Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian là vì muốn khiến chúng sanh Ngộ Phật Tri Kiến.
– Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở thế gian là vì muốn khiến chúng sanh Nhập Phật Tri Kiến.
Này Xá-lợi Tử! Đây là những việc của một đại sự nhân duyên mà chư Phật xuất hiện ở thế gian.”
Phật bảo ngài Xá-lợi Tử:
“Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát. Các hạnh làm của chư Phật luôn chỉ vì một việc: đó là khai ngộ chúng sanh đến tri kiến của Phật.
Này Xá-lợi Tử! Như Lai chỉ dùng một Phật Thừa để thuyết Pháp cho chúng sanh. Không có thừa nào khác, không hai cũng không ba.
Này Xá-lợi Tử! Pháp của tất cả mười phương chư Phật cũng lại như vậy.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật vào thuở quá khứ đã dùng vô lượng vô số phương tiện cùng đủ mọi nhân duyên và ngôn từ thí dụ mà diễn nói các Pháp cho chúng sanh. Các Pháp này đều là vì một Phật Thừa. Khi các chúng sanh này nghe Pháp từ chư Phật thì cứu cánh đều sẽ đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật xuất thế vào đời vị lai cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện cùng đủ mọi nhân duyên và ngôn từ thí dụ mà diễn nói các Pháp cho chúng sanh. Các Pháp này đều là vì một Phật Thừa. Khi các chúng sanh này nghe Pháp từ chư Phật thì cứu cánh đều sẽ đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
Này Xá-lợi Tử! Hiện tại trong mười phương vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật độ, chư Phật Thế Tôn đang làm nhiều việc lợi ích an vui cho chúng sanh. Các Đức Phật đó cũng đang dùng vô lượng vô số phương tiện cùng đủ mọi nhân duyên và ngôn từ thí dụ mà diễn nói các Pháp cho chúng sanh. Các Pháp này đều là vì một Phật Thừa. Khi các chúng sanh này nghe Pháp từ chư Phật thì cứu cánh đều sẽ đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát là vì chư Phật muốn chỉ bày chúng sanh thấy tri kiến của Phật, muốn giác ngộ chúng sanh đến tri kiến của Phật, và muốn dẫn nhập chúng sanh vào tri kiến của Phật.
Này Xá-lợi Tử! Ta nay cũng lại như vậy. Ta biết các chúng sanh có đủ mọi ham muốn với tùy theo bản tánh mà cõi lòng bám vào, nên Như Lai dùng đủ mọi nhân duyên cùng ngôn từ thí dụ và sức phương tiện mà thuyết Pháp cho họ.
Này Xá-lợi Tử! Ta làm như thế để họ đều đắc Nhất Thiết Chủng Trí của một Phật Thừa.
Này Xá-lợi Tử! Trong mười phương thế giới còn chẳng có hai thừa, huống nữa là ba.
Này Xá-lợi Tử! Chư Phật xuất hiện trong đời ác năm trược, bao gồm: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, và mạng trược.
Vì thế, Xá-lợi Tử! Do bởi ở kiếp trược hỗn loạn, chúng sanh tạo trọng nghiệp bất tịnh, tham lam đố kỵ, và thành tựu các căn chẳng lành. Cho nên chư Phật dùng sức phương tiện, ở trong một Phật Thừa mà phân biệt nói có ba.
Này Xá-lợi Tử! Nếu có đệ tử của Ta tự gọi mình là A-la-hán hay Độc Giác mà chẳng nghe chẳng biết về việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, thì người ấy không phải là đệ tử của Phật, cũng chẳng phải A-la-hán hay Độc Giác.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nào tự cho mình đã đắc Đạo A-la-hán, trụ ở thân tối hậu và sẽ đạt tới cứu cánh Niết-bàn, nhưng lại chẳng chí cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì phải biết họ đều là hạng người tăng thượng mạn.
Vì sao thế? Bởi nếu có Tỳ-kheo thật sự đắc Đạo A-la-hán mà chẳng tin Pháp này thì quyết không thể có việc ấy–duy trừ sau khi Phật diệt độ và ở hiện đời không có Phật.
Vì sao thế? Bởi sau khi Phật diệt độ, những ai thọ trì đọc tụng và giảng giải nghĩa thú của các Kinh như vậy, thời người này rất khó gặp. Nếu họ gặp chư Phật khác thì sẽ ở trong Pháp này liền được thông triệt.
Này Xá-lợi Tử! Các ông nên nhất tâm tín giải và thọ trì lời Phật dạy. Lời nói của chư Phật Như Lai quyết không hư dối. Không có thừa nào khác, duy chỉ có một Phật Thừa.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa lý ở trên nên nói kệ rằng:
“Tỳ-kheo Tỳ-kheo-ni
Ôm lòng tăng thượng mạn
Ưu-bà-tắc ngã mạn
Ưu-bà-di bất tín
Hàng tứ chúng như thế
Số ấy có năm ngàn
Chẳng thấy lỗi của mình
Giới luật bị khuyết lậu
Tiếc giữ điều lỗi lầm
Hàng trí nhỏ vỏ trấu
Đã rời khỏi đại chúng
Do uy đức của Phật
Những người thiếu phước đức
Chẳng kham thọ Pháp này
Chúng hội không nhánh lá
Duy chỉ có thân cây
Xá-lợi Tử lắng nghe
Chư Phật Pháp sở đắc
Vô lượng sức phương tiện
Vì chúng sanh thuyết giảng
Tâm niệm của chúng sanh
Đủ mọi nơi ngõ ngách
Căn tánh điều mong muốn
Nghiệp lành dữ đời trước
Phật thảy đều biết rõ
Dùng thí dụ nhân duyên
Ngôn từ sức phương tiện
Khiến tất cả mừng vui
Hoặc thuyết giảng Khế Kinh
Cô Khởi cùng Bổn Sự
Bổn Sanh Vị Tằng Hữu
Cũng nói về Nhân Duyên
Tỷ Dụ hay Trùng Tụng
Hoặc nói đến Luận Nghị
Độn căn thích Pháp nhỏ
Tham chấp nơi sanh tử
Ở vô lượng chư Phật
Chẳng hành thâm diệu Đạo
Bị chúng khổ não loạn
Vì họ nói Niết-bàn
Ta thiết lập phương tiện
Khiến họ nhập Phật tuệ
Chưa hề nói các ông
Sẽ đắc thành Phật Đạo
Sở dĩ chưa từng nói
Vì chưa tới thời điểm
Nay chính là lúc này
Quyết định dạy Đại Thừa
Chín bộ Pháp của Ta
Tùy thuận chúng sanh nói
Là để vào Đại Thừa
Nên Ta giảng Kinh này
Phật tử nào tâm tịnh
Tùy thuận cùng lợi căn
Ở vô lượng chư Phật
Đã hành Đạo thâm diệu
Vì hàng Phật tử đó
Thuyết Kinh Đại Thừa này
Ta thọ ký người ấy
Vị lai thành Phật Đạo
Với tâm thành niệm Phật
Tu hành trì tịnh giới
Khi nghe sẽ thành Phật
Họ vui mừng khôn xiết
Phật rõ biết tâm hạnh
Vì họ dạy Đại Thừa
Thanh Văn hay Bồ-tát
Nghe Ta thuyết Pháp này
Dẫu chỉ một bài kệ
Đều thành Phật vô nghi
Phật độ trong mười phương
Duy có Nhất Thừa Pháp
Chẳng hai cũng chẳng ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ là giả danh tự
Để dẫn dắt chúng sanh
Dạy họ Phật trí tuệ
Chư Phật xuất thế gian
Thật chỉ có một việc
Hai việc khác chẳng thật
Cuối không dùng Tiểu Thừa
Để cứu độ chúng sanh
Chính Phật trụ Đại Thừa
Tùy thuận Pháp sở đắc
Định tuệ lực trang nghiêm
Dùng đó độ chúng sanh
Tự chứng vô thượng Đạo
Pháp Đại Thừa bình đẳng
Nếu dùng Tiểu Thừa dạy
Cho đến chỉ một người
Ta tức đọa keo kiệt
Quyết chẳng có việc này
Nếu ai quy tín Phật
Như Lai chẳng lừa dối
Cũng không đố kỵ tham
Đoạn trừ mọi pháp ác
Nên Phật ở mười phương
Tự tại vô sở úy
Ta dùng tướng nghiêm thân
Quang minh chiếu thế gian
Vô lượng chúng tôn kính
Ta nói Thật Tướng Ấn
Xá-lợi Tử nên biết
Ta xưa lập thệ nguyện
Muốn khiến tất cả chúng
Như Ta chẳng dị biệt
Sở nguyện Ta lúc xưa
Giờ đây đã mãn túc
Hóa độ hết thảy chúng
Khiến đều nhập Phật Đạo
Nếu Ta gặp chúng sanh
Hết lòng dạy Phật Đạo
Kẻ vô trí cuồng loạn
Mê muội chẳng tín thọ
Ta biết chúng sanh này
Chưa từng tu căn lành
Cố bám nơi ngũ dục
Si ái sanh khổ não
Bởi nhân duyên tham dục
Sa đọa ba đường ác
Luân hồi trong sáu nẻo
Thọ đủ thứ khổ độc
Đầu thai hình bé nhỏ
Đời đời luôn tăng trưởng
Kẻ đức bạc phước mỏng
Bị chúng khổ bức bách
Vào rừng rậm tà kiến
Chấp thường chấp đoạn diệt
Bám nương các kiến này
Tổng số sáu mươi hai
Chấp sâu pháp hư vọng
Kiên trì thọ chẳng xả
Ngã mạn tự khoe khoang
Nịnh hót lòng dối trá
Trong ngàn vạn ức kiếp
Không nghe danh hiệu Phật
Cũng không nghe Chánh Pháp
Người như thế khó độ
Cho nên Xá-lợi Tử
Vì họ lập phương tiện
Ta dạy cách diệt khổ
Hiển bày chỉ Niết-bàn
Tuy Ta nói Niết-bàn
Nhưng chẳng phải thật diệt
Các pháp vốn xưa nay
Tướng chúng thường tịch diệt
Phật tử nào tu hành
Vị lai sẽ thành Phật
Ta có sức phương tiện
Khai thị Pháp ba thừa
Tất cả chư Thế Tôn
Đều nói Đạo Nhất Thừa
Nay các đại chúng đây
Đều nên trừ nghi hoặc
Lời Phật chẳng sai khác
Duy một thừa không hai
Quá khứ vô số kiếp
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm ngàn vạn ức Phật
Số ấy bất khả lượng
Chư Thế Tôn như thế
Thí dụ mọi nhân duyên
Vô số sức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng
Chư Phật Thế Tôn đó
Đều thuyết Pháp Nhất Thừa
Hóa vô lượng chúng sanh
Khiến họ vào Phật Đạo
Lại nữa chư Đại Thánh
Biết tất cả thế gian
Trời người quần sanh loại
Đáy lòng nơi ham muốn
Nên dùng phương tiện khác
Giúp hiển Đệ Nhất Nghĩa
Nếu có chúng sanh nào
Gặp chư Phật quá khứ
Nghe Pháp rồi Bố Thí
Hoặc Trì Giới Nhẫn Nhục
Tinh Tấn Thiền Định Trí
Tu hành mọi phước tuệ
Những hành giả như thế
Đều đã thành Phật Đạo
Chư Phật diệt độ hậu
Nếu tâm ai tùy thuận
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật Đạo
Chư Phật diệt độ rồi
Ai cúng dường xá-lợi
Khởi xây vạn ức tháp
Vàng bạc cùng pha lê
Xa cừ với mã não
Mai côi lưu ly châu
Thanh tịnh quảng nghiêm sức
Trang hoàng các tháp đó
Hoặc dựng xây miếu đá
Chiên đàn hay trầm thủy
Gỗ thơm hay gỗ khác
Gạch ngói hay đất sét
Nếu ở nơi hoang vắng
Đắp đất thành miếu Phật
Dẫu con nít nô đùa
Dồn cát làm tháp Phật
Thì những người như thế
Đều đã thành Phật Đạo
Nếu ai vì kính Phật
Kiến lập các hình tượng
Điêu khắc Phật tướng hảo
Đều đã thành Phật Đạo
Hoặc lấy thành bảy báu
Đồng thau màu đỏ trắng
Bạch lạp hay chì thiếc
Sắt gỗ hay đất sét
Hoặc lấy vải keo sơn
Trang trí làm tượng Phật
Thì những người như thế
Đều đã thành Phật Đạo
Tô vẽ làm tượng Phật
Trăm phước tướng trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Đều đã thành Phật Đạo
Dẫu con nít đùa vui
Với cỏ cây hay bút
Hoặc dùng đầu móng tay
Mà vẽ làm tượng Phật
Thì những người như thế
Dần dần tích công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật Đạo
Chỉ giáo hóa Bồ-tát
Phật độ vô lượng chúng
Nếu ai ở tháp miếu
Bảo tượng cùng tượng vẽ
Dùng phan lọng hoa hương
Tâm cung kính cúng dường
Hoặc bảo người trỗi nhạc
Đánh trống thổi kèn ốc
Tiêu cầm sáo đàn tre
Tỳ bà hay chiêng đồng
Các diệu âm như thế
Tấu vang để cúng dường
Hoặc với lòng hoan hỷ
Ca xướng tán Phật đức
Dẫu chỉ một tiếng nhỏ
Đều đã thành Phật Đạo
Nếu lòng ai tán loạn
Dẫu chỉ một đóa hoa
Cúng dường nơi tượng vẽ
Sẽ thấy vô số Phật
Hoặc có người lễ bái
Hoặc lại chỉ chắp tay
Dẫu chỉ nhấc tay lên
Hoặc cúi đầu chút ít
Để mà cúng dường tượng
Sẽ thấy vô lượng Phật
Tự thành vô thượng Đạo
Rộng độ vô số chúng
Nhập Vô Dư Niết-bàn
Như củi lửa thiêu xong
Nếu lòng ai tán loạn
Vào ở trong tháp miếu
Một tiếng “Nam mô Phật”
Đều đã thành Phật Đạo
Ở chư Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt hậu
Nếu ai nghe Pháp này
Đều đã thành Phật Đạo
Vị lai chư Thế Tôn
Số ấy vô hạn lượng
Chư Như Lai như thế
Cũng phương tiện thuyết Pháp
Hết thảy chư Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Nhập Phật trí vô lậu
Nếu có ai nghe Pháp
Không ai chẳng thành Phật
Chư Phật bổn thệ nguyện
“Phật Đạo nơi sở hành
Muốn khiến khắp chúng sanh
Cũng đồng đắc Đạo này”
Chư Phật đời vị lai
Tuy nói trăm ngàn ức
Vô số các Pháp môn
Kỳ thật vì Nhất Thừa
Chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Biết pháp thường vô tánh
Phật chủng tùy duyên khởi
Thế nên nói Nhất Thừa
Pháp này trụ Pháp vị
Thế gian tướng thường trụ
Tại Đạo Tràng đã biết
Đạo sư phương tiện dạy
Thọ cúng dường trời người
Hiện tại mười phương Phật
Số ấy như Hằng sa
Xuất hiện ở thế gian
Vì an định chúng sanh
Cũng thuyết Pháp như vậy
Biết đệ nhất tịch diệt
Phật dùng sức phương tiện
Tuy hiển bày mọi đạo
Kỳ thật vì Nhất Thừa
Biết hạnh làm chúng sanh
Đáy lòng nơi ý niệm
Nghiệp tích tập thuở xưa
Dục tánh tinh tấn lực
Cùng các căn lợi độn
Phật dùng mọi nhân duyên
Thí dụ và ngôn từ
Tùy cơ phương tiện nói
Ta nay cũng như vậy
Vì an định chúng sanh
Dùng đủ mọi Pháp môn
Tuyên dương hiển Phật Đạo
Ta dùng sức trí tuệ
Biết chúng sanh tánh dục
Phương tiện nói các Pháp
Khiến đều được hoan hỷ
Xá-lợi Tử nên biết
Ta dùng Phật nhãn quán
Thấy lục đạo chúng sanh
Bần cùng vô phước tuệ
Vào sanh tử hiểm đạo
Khổ liên tục chẳng ngớt
Chấp sâu nơi ngũ dục
Như mao ngưu mến đuôi
Tự đắm chìm tham ái
Mù tối không thấy gì
Chẳng cầu Phật đại trí
Cùng Pháp đoạn khổ não
Rơi sâu vào tà kiến
Muốn trừ khổ với khổ
Vì chúng sanh như thế
Ta khởi tâm đại bi
Lúc mới ngồi Đạo Tràng
Quán cây hoặc kinh hành
Trong hai mươi mốt ngày
Tư duy việc như vầy
“Trí tuệ Ta chứng đắc
Vi diệu tối đệ nhất
Chúng sanh các căn độn
Ham hưởng thụ si mê
Chúng hữu tình như thế
Làm sao mà hóa độ?”
Khi ấy các Phạm Vương
Cùng Đế Thích chư thiên
Hộ Thế Tứ Thiên Vương
Với Đại Tự Tại Thiên
Và hàng thiên chúng khác
Trăm ngàn vạn quyến thuộc
Cung kính chắp tay lễ
Thỉnh Ta chuyển Pháp luân
Ta liền tự tư duy
“Nếu chỉ khen Phật Thừa
Chúng sanh trầm luân khổ
Không thể tin Pháp này
Do hủy báng chẳng tin
Sa đọa ba đường ác
Ta tốt hơn chẳng nói
Mau mau nhập Niết-bàn”
Rồi nhớ Phật quá khứ
Sở hành sức phương tiện
Ta nay đã đắc Đạo
Cũng nên nói ba thừa
Khi tư duy như thế
Mười phương Phật đều hiện
Phạm âm khích lệ Ta
“Lành thay Phật Thích-ca
Bậc Đạo sư đệ nhất”
Đắc vô thượng Pháp này
Tùy thuận tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện
Chư Phật cũng đều đắc
Tối diệu đệ nhất Pháp
Vì các loài chúng sanh
Phân biệt nói ba thừa
Trí kém thích Pháp nhỏ
Không tin sẽ thành Phật
Nên Phật dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả
Mặc dù nói ba thừa
Chỉ vì giáo Bồ-tát
Xá-lợi Tử nên biết
Ta nghe Thánh Sư Tử
Thanh tịnh vi diệu âm
Vui niệm “Nam mô Phật”
Lại suy nghĩ như vầy
“Ta ở đời ác trược
Như lời chư Phật dạy
Ta cũng nên tùy thuận”
Tư duy việc đó rồi
Liền đến thành Lộc Dã
Tướng các pháp tịch diệt
Chẳng thể dùng ngôn từ
Ta dùng sức phương tiện
Giảng cho năm Tỳ-kheo
Đây là Chuyển Pháp Luân
Liền có tiếng Niết-bàn
Cũng như A-la-hán
Pháp Tăng các tên khác
Từ kiếp xưa đến nay
Tán thán Pháp Niết-bàn
Sanh tử khổ vĩnh trừ
Ta thường nói như vậy
Xá-lợi Tử nên biết
Ta thấy các Phật tử
Quyết chí cầu Phật Đạo
Vô lượng ngàn vạn ức
Với hết lòng cung kính
Đều đến chỗ của Phật
Nghe từ nơi chư Phật
Phương tiện thuyết giảng Pháp
Ta liền nghĩ như vầy
“Như Lai hiện ở đời
Là vì nói Phật tuệ
Nay chính là lúc này”
Xá-lợi Tử nên biết
Người độn căn trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Chẳng thể tin Pháp này
Ta nay vô úy vui
Ở trong chư Bồ-tát
Quyết định bỏ phương tiện
Chỉ dạy vô thượng Đạo
Bồ-tát nghe Pháp này
Lưới nghi đều trừ sạch
Ngàn hai A-la-hán
Cũng tất sẽ thành Phật
Như chư Phật ba đời
Phương thức để thuyết Pháp
Ta nay cũng như vậy
Giảng Pháp vô phân biệt
Chư Phật xuất thế gian
Thăm thẳm rất khó gặp
Dù xuất hiện ở đời
Chẳng dễ thuyết Pháp này
Vô lượng vô số kiếp
Cũng khó nghe Pháp ấy
Những ai nghe Pháp này
Người như vậy khó tìm
Ví như hoa linh thụy
Tất cả đều ưa thích
Hiếm nhất trong trời người
Rất lâu nở một lần
Nghe Pháp vui mừng khen
Cho đến chỉ một lời
Tức là đã cúng dường
Hết thảy Phật ba đời
Người này thật hiếm có
Hơn cả hoa linh thụy
Các ông chớ hoài nghi
Ta làm bậc Pháp Vương
Rộng bảo các đại chúng
“Chỉ dùng Nhất Thừa Đạo
Giáo hóa chư Bồ-tát
Không đệ tử Thanh Văn”
Xá-lợi Tử các ông
Thanh Văn cùng Bồ-tát
Nên biết diệu Pháp này
Là bí yếu chư Phật
Trong đời ác năm trược
Chỉ thích bám ngũ dục
Hàng chúng sanh như thế
Quyết chẳng cầu Phật Đạo
Kẻ ác đời vị lai
Nghe Phật giảng Nhất Thừa
Mê muội chẳng tín thọ
Hủy Pháp đọa ác đạo
Người hổ thẹn thanh tịnh
Quyết chí cầu Phật Đạo
Sẽ vì người như thế
Ta rộng khen Nhất Thừa
Xá-lợi Tử nên biết
Pháp chư Phật như vậy
Với vạn ức phương tiện
Tùy nghi mà thuyết Pháp
Những ai không học tập
Chẳng thể thấu hiểu rõ
Các ông đều đã biết
Chư Phật Thầy Thế Gian
Tùy nghi phương tiện sự
Không còn mọi nghi hoặc
Tâm sanh đại hoan hỷ
Tự biết sẽ thành Phật”
***