Kinh Bách Dụ
Tăng Già Tư Na soạn Tiêu Tề Cầu Na Tỳ Địa dịch
Bản Việt dịch của Nguyên Thuận
***
TÔI NGHE NHƯ VẦY:
Một thuở nọ, Đức Phật ở tại Vườn trúc Thước Phong gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại Tỳ-kheo, chư đại Bồ-tát, và thiên long bát bộ; tổng cộng là 36.000 vị.
Khi ấy trong chúng hội có 500 Phạm Chí từ các trường học khác nhau, họ từ chỗ ngồi đứng dậy và hỏi Đức Phật rằng:
“Chúng tôi nghe là Phật Đạo rất thâm sâu và không gì có thể ngang bằng. Thế nên chúng tôi đến hỏi. Mong Ngài hãy thuyết giảng cho!”
Đức Phật bảo:
“Lành thay!”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Vũ trụ tồn tại hay không tồn tại?”
Đức Phật bảo:
“Nó vừa tồn tại mà cũng không tồn tại.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Nếu nó tồn tại, sao Ngài nói nó không? Nếu nó không tồn tại, sao Ngài nói nó có?”
Đức Phật bảo:
“Người sống nói là có, nhưng kẻ chết nói là không. Do đó, Ta có thể nói nó tồn tại và không tồn tại.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Con người nhờ vào gì để sống?”
Đức Phật bảo:
“Con người nhờ vào ngũ cốc để sống.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Ngũ cốc từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Ngũ cốc sanh ra từ bốn đại: đất, nước, gió, lửa.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Bốn đại từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Bốn đại sanh ra từ không.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Không từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Không sanh ra từ không chỗ có.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Không chỗ có từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Không chỗ có sanh ra từ tự nhiên.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Tự nhiên từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Tự nhiên sanh ra từ tịch diệt.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Tịch diệt từ đâu sanh ra?”
Đức Phật bảo:
“Sao nay ông lại hỏi việc sâu xa như vậy? Tịch diệt là Pháp bất sanh bất tử.”
Phạm Chí hỏi rằng:
“Đức Phật đã đắc tịch diệt chưa?”
Đức Phật bảo:
“Ta vẫn chưa đạt đến tịch diệt.”
“Nếu Ngài vẫn chưa đạt đến tịch diệt, thế thì làm sao Ngài biết được tịch diệt là thường lạc?”
Đức Phật hỏi rằng:
“Bây giờ Ta hỏi ông, chúng sanh ở thế gian là khổ hay vui?”
Phạm Chí đáp rằng:
“Chúng sanh rất khổ.”
Đức Phật hỏi rằng:
“Làm sao ông biết họ khổ?”
Phạm Chí đáp rằng:
“Khi chúng sanh chết, tôi thấy họ chịu thống khổ khôn xiết. Do đó, tôi biết chết là khổ.”
Đức Phật bảo:
“Tuy bây giờ ông chưa chết, nhưng ông cũng biết chết là khổ. Tương tự như vậy, vì Ta thấy mười phương chư Phật đều bất sanh bất tử, cho nên Ta biết tịch diệt là thường lạc.”
Ngay lúc ấy, 500 vị Phạm Chí được tâm khai ý giải và xin thọ trì Năm Giới. Sau đó họ đều đắc Quả Nhập Lưu.
Khi họ đã trở về chỗ ngồi, Đức Phật bảo:
“Các ông hãy lắng nghe! Bây giờ Ta sẽ rộng nói các thí dụ cho các ông.”
***
1. KẺ NGU ĂN MUỐI
Thuở xưa có một kẻ ngu đến thăm nhà của một người bạn. Khi chủ nhà đã dọn những món ăn để tiếp đãi, anh ta phàn nàn là quá lạt lẽo nên chủ nhà thêm một chút muối. Kẻ ngu ăn tiếp thì cảm thấy thức ăn ngon hơn.
Thế là hắn tự nghĩ thầm:
“Sở dĩ được ngon như thế là nhờ có muối. Mới nếm một tí thôi mà ngon thế này, huống nữa là nếu ăn càng nhiều hơn.”
Nghĩ vậy, kẻ ngu vô trí liền chỉ ăn toàn muối. Khi ăn xong, hắn chuốc cái họa bị phỏng miệng.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo, khi nghe rằng bỏ ăn bỏ uống thời sẽ có thể đắc Đạo, nên liền tuyệt thực đến 7 ngày hoặc 15 ngày. Họ chỉ tự làm mình đói khát khốn khổ mà không có lợi gì đối với việc tu Đạo. Hàng ngoại đạo đó thì cũng như kẻ ngu kia, do bởi ham vị mặn mà chỉ ăn toàn muối. Kết quả là bị phỏng miệng vậy.
2. KẺ NGU ĐỂ DÀNH SỮA BÒ
Thuở xưa có một kẻ ngu sắp bày tiệc để tiếp đãi mấy người khách của mình. Anh ta muốn tích trữ sữa bò để chiêu đãi họ.
Anh ta nghĩ:
“Bây giờ nếu mình vắt sữa mỗi ngày thì sữa tất sẽ rất nhiều, nhưng mà mình lại không có đủ chỗ để chứa, nên nó sẽ bị chua thôi. Chi bằng cứ để yên ở trong bụng con bò, chờ khi nào khách đến thì mình hãy đi vắt.”
Nghĩ như thế xong, hắn liền tách bò mẹ và chú bê con ra, rồi cột chúng ở mỗi nơi riêng biệt. Một tháng sau trôi qua cho đến ngày mở tiệc, sau khi đã nghênh tiếp và mời khách ngồi, anh ta mới đi dắt con bò đến để vắt sữa. Thế nhưng sữa bò đã khô cạn và chẳng có giọt nào. Khi đó mấy người khách, có kẻ nổi sân, còn có kẻ thì cười nhạo anh ta.
Đây cũng giống những người ngu muốn làm bố thí hết một lần, và nói rằng họ đợi đến khi nào đã trở thành giàu sang, rồi sau đó mới đi bố thí. Nhưng thường là trước khi họ dành dụm đủ tiền thì đã bị tham quan chiếm đoạt, hoặc gặp nạn nước lửa, hoặc bị đạo tặc cướp đi, hoặc bất chợt lìa đời trước khi kịp làm bố thí. Họ cũng ví như kẻ ngu để dành sữa bò vậy.
3. BỊ TRÁI LÊ CHỌI TRÚNG ĐẦU
Thuở xưa có một kẻ ngu với cái đầu hói. Khi ấy có một người lấy mấy trái lê chọi vào đầu anh ta và làm đầu hắn tổn thương. Tuy nhiên, anh ta vẫn yên lặng chịu đựng mà không biết lánh đi.
Những người xung quanh thấy thế nên mới bảo rằng:
“Sao anh không biết lánh đi để khỏi bị ném trúng đầu?”
Kẻ ngu trả lời:
“Cái người đó bày đặt ra oai biểu diễn sức mạnh của mình. Hắn ngu ngốc hết cỡ. Gã thấy trên đầu tôi không có tóc nên mới tưởng là cục đá, rồi lấy mấy trái lê chọi vào đầu của tôi mà thôi.”
Những người xung quanh bảo rằng:
“Anh mới là kẻ ngu si, vậy mà còn gọi hắn là ngu si! Nếu anh không ngốc nghếch thì sao để cho người ta ném, khiến cho đến cái đầu phải tổn thương mà chẳng biết chạy trốn?”
Đây cũng như có những Tỳ-kheo không thể giữ tín tâm kiên cố và tu hành giới định tuệ, mà chỉ giữ vẻ uy nghi để thu hút lợi dưỡng. Hạng Tỳ-kheo này thì cũng như thế. Họ cũng như kẻ ngu kia bị người khác ném tổn thương đến cái đầu mà không biết lánh đi, rồi lại bảo ngược là người ta ngu dốt vậy.
4. NGƯỜI VỢ GIẢ CHẾT
Thuở xưa có một kẻ ngu hết mực thương yêu người vợ xinh đẹp của mình, nhưng mà người vợ thì lại không chung thủy. Đương lúc đó, cô đang thông gian với một người khác. Bởi lòng tà dâm hẫy hừng, cô muốn bỏ chồng theo tình lang.
Thế là cô vợ đã âm thầm căn dặn với một bà lão rằng:
“Sau khi tôi rời khỏi, bà hãy đem xác chết của một phụ nữ khác bỏ vào trong phòng, rồi nói với chồng tôi, rằng tôi đã chết.”
Sau đó đợi đến lúc người chồng đi vắng, bà lão đem một xác chết bỏ vào trong nhà. Khi người chồng trở về, bà nói rằng vợ hắn đã chết. Thế là người chồng vội đi xem và tin đó là vợ của mình. Hắn ta khóc lóc buồn bã, rồi gom nhiều củi và dầu để chuẩn bị hỏa thiêu. Khi thiêu xong, hắn bỏ tro cốt vào trong túi đựng và ngày đêm mang theo bên mình.
Một thời gian sau, cô vợ sanh lòng chán nản bên người tình, nên liền quay về nhà.
Cô nói với người chồng rằng:
“Em là vợ của anh nè!”
Người chồng trả lời:
“Vợ tôi đã chết từ lâu. Cô là ai mà dám nói láo là vợ tôi hả?”
Mặc dầu cô vợ đã ráng giải thích nhiều lần nhưng hắn vẫn không chịu tin.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo, một khi họ đã học tà thuyết thì tâm sanh mê muội và chấp trước, rồi cho đó là chân thật và vĩnh viễn không chịu sửa đổi. Dẫu sau đó có nghe được chánh giáo đi nữa thì họ vẫn không tin cùng thọ trì.
5. THẤY NƯỚC LIỀN KHÁT
Thuở xưa có một kẻ ngu si vô trí. Anh ta hết sức khát nước và mong có nước để uống. Khi thấy ảo ảnh giữa trời nắng gắt, hắn nhầm tưởng cho là nước nên liền chạy tới, rồi lần lần theo tới được dòng sông Ấn. Khi đến bờ sông, anh ta chỉ nhìn chằm chằm mà không chịu uống.
Thấy vậy nên những người xung quanh mới nói rằng:
“Thấy anh khát dữ lắm nên mới chạy tới đây. Giờ anh đã tìm thấy nước rồi, sao không uống?”
Kẻ ngu trả lời:
“Nếu như có thể uống hết thì tôi sẽ uống. Nhưng nước ở đây nhiều quá, tôi sẽ không bao giờ uống hết đâu. Cho nên, tôi sẽ không uống một giọt nào.”
Khi những người xung quanh nghe anh ta nói thế, họ đều bật cười lớn.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo cứ cố giữ cái luận thuyết của mình. Họ tự nghĩ rằng sẽ không thể nào thọ trì tất cả giới luật của Phật, cho nên họ không chịu giữ giới nào cả. Bởi vậy mà ở tương lai, họ chẳng được một phần nào của Đạo và phải lưu chuyển trong sanh tử. Họ cũng giống như kẻ ngu kia bị người khác cười, bởi vì tuy thấy nước nhưng không chịu uống vậy.
6. TUY CON ĐÃ CHẾT NHƯNG VẪN MUỐN GIỮ TRONG NHÀ
Thuở xưa có một kẻ ngu nuôi bảy đứa con. Bất chợt có một đứa qua đời. Khi thấy con mình đã chết, kẻ ngu này vẫn giữ nó trong nhà, còn mình thì dọn ra ngoài ở.
Những người xung quanh thấy thế nên mới nói rằng:
“Sanh tử là hai con đường riêng biệt. Ông hãy mau mai táng nó đàng hoàng tại một nơi xa xôi. Tại sao ông lại muốn giữ cái xác chết, rồi còn mình thì dọn ra ngoài chứ?”
Lúc bấy giờ, khi kẻ ngu nghe lời ấy xong thì liền tự nghĩ thầm:
“Nếu như mình không thể giữ cái xác chết ở lại mà phải nên mai táng, vậy mình cần giết thêm một đứa nữa thì sẽ cân bằng khi đặt chúng ở hai đầu gánh, như thế mình mới có thể quảy đi chôn được.”
Và thế là, hắn liền giết thêm một đứa con nữa và gánh chúng vào rừng hoang để chôn cất. Khi những người xung quanh thấy vậy, họ hết sức kinh ngạc và không nén được cười.
Đây cũng như khi những Tỳ-kheo lén lút vi phạm một giới và cảm thấy sợ sám hối. Thế rồi họ âm thầm che giấu và tự nói mình là thanh tịnh.
Song nếu chẳng may gặp người trí phát hiện và bảo rằng:
“Người xuất gia phải giữ gìn giới luật như hộ trì viên minh châu và đừng để sai phạm. Nay thầy vi phạm giới đã thọ, mà cớ sao không muốn sám hối?”
Kẻ phạm giới trả lời:
“Đường nào tôi cũng cần sám hối, tôi chờ vi phạm thêm vài giới nữa, rồi sau đó mới sám hối hết một lượt.”
Thế là họ tùy tiện phá giới và làm thêm nhiều việc ác, rồi sau đó xin sám hối. Những Tỳ-kheo này thì cũng như kẻ ngu kia, khi thấy một đứa con chết thì lại giết thêm một đứa khác vậy.
7. MẠO NHẬN NGƯỜI KHÁC LÀ ANH MÌNH
Thuở xưa có một người với tướng mạo đoan chánh và lại còn thông minh. Anh ta cũng có rất nhiều tiền tài; mọi người không ai là chẳng tấm tắc khen ngợi. Lúc ấy có một kẻ ngu thấy người kia như vậy nên liền mạo nhận là anh của mình.
Vì sao thế? Bởi người kia có tiền. Cho nên khi nào cần tiền thì kẻ ngu nhận là anh của mình. Đến lúc thấy người kia mắc nợ, kẻ ngu liền chối đó không phải là anh của mình.
Thấy vậy nên những người xung quanh mới nói rằng:
“Anh là một người ngu. Tại sao lúc anh cần tiền thì nhận là anh của mình, còn khi thấy người kia mắc nợ thì chối đó không phải là anh của mình.”
Kẻ ngu đáp rằng:
“Tôi vì muốn được tiền tài của người kia nên mới nhận là anh của mình. Thật ra đó không phải là anh tôi. Khi thấy người kia mắc nợ, dĩ nhiên tôi phải phủ nhận chứ!”
Khi mọi người nghe xong, không ai là chẳng bật cười.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo khi nghe lời dạy thiện xảo của Phật thì khởi lòng tham, rồi trộm về sử dụng như của mình. Sau đó, họ dùng những lời thiện xảo này để dạy đồ chúng tu hành. Tuy nhiên, đồ chúng của họ chẳng chịu làm theo.
Thấy vậy, họ nghĩ rằng:
“Mình vì lợi dưỡng nên mới lấy những lời dạy của Phật để chỉ dạy cho đồ chúng. Tuy nhiên, họ đều chẳng vâng làm. Cho nên mình cần gì phải tu hành theo.”
Họ cũng như kẻ ngu mạo nhận người khác là anh của mình để chiếm lời, nhưng khi thấy người kia mắc nợ thì chối đó không phải là anh của mình.
8. KẺ SƠN DÃ TRỘM QUỐC KHỐ
Vào đời quá khứ có một kẻ sơn dã ăn cắp đồ vật trong quốc khố của nhà vua rồi chạy rất xa để trốn. Lúc bấy giờ nhà vua sai người truy bắt tên trộm ở khắp nơi. Cuối cùng hắn bị bắt và dẫn tới trước nhà vua.
Nhà vua liền cáo buộc rằng:
“Ngươi từ đâu mà có được những y phục này?”
Kẻ sơn dã tâu rằng:
“Dạ, những y phục này là của ông nội tiện dân để lại.”
Nhà vua ra lệnh cho tên trộm mặc vào để chứng minh, nhưng bởi không phải là quần áo của mình nên kẻ sơn dã không biết phải mặc như thế nào. Hắn xỏ hai tay vào chỗ của hai chân, còn phần lưng thì lại phủ lên đầu. Khi thấy tên trộm như thế, nhà vua triệu tập các quần thần để cùng luận nghị về việc này.
Sau đó, nhà vua phán rằng:
“Nếu những y phục này là của ông nội ngươi để lại thì ngươi tất sẽ biết mặc làm sao. Tại sao ngươi mặc chúng một cách lộn xộn như vậy? Bởi ngươi không biết cách mặc, chắc chắn rằng đó không phải là y phục của ngươi, mà là y phục đã ăn cắp về.”
Ở trong thí dụ này, nhà vua được ví như Phật. Y phục quý báu thì ví như Pháp. Còn kẻ sơn dã ngu si thì cũng như có hàng ngoại đạo nghe trộm Phật Pháp, rồi dùng như là của mình. Bởi họ đã không nghe trọn vẹn theo thứ tự nên chẳng thể thấu hiểu Phật Pháp. Họ điên đảo mê muội và không biết pháp tướng. Đây cũng như kẻ sơn dã kia, tuy trộm được y phục quý báu của vua nhưng không biết thứ tự để mặc vào. Kết quả là hắn mặc chúng với một cách loạn xạ.
9. CA NGỢI ĐỨC HẠNH CỦA CHA MÌNH
Thuở xưa có một người ca ngợi đức hạnh của cha mình ở giữa đám đông.
Anh ta nói rằng:
“Cha của tôi rất nhân từ. Ông ấy không hề giết hại hay trộm cắp. Cha của tôi luôn nói lời thành thật và còn thực hành bố thí nữa.”
Khi ấy có một kẻ ngu nghe qua những lời nói này, hắn ta liền nói rằng:
“Đức hạnh của cha tôi còn hơn cha anh nữa kìa!”
Nghe vậy nên mọi người xung quanh mới hỏi rằng:
“Cha anh có đức hạnh gì? Xin hãy kể ra xem!”
Kẻ ngu trả lời:
“Cha tôi từ hồi còn trẻ đã đoạn tuyệt dâm dục và không hề bị nhiễm ô.”
Mọi người xung quanh mới nói rằng:
“Nếu cha anh từ lúc trẻ đã đoạn tuyệt dâm dục, vậy anh làm sao sanh ra?”
Khi ấy mọi người đều cười châm biếm kẻ ngu kia.
Đây cũng như mấy hạng người vô trí ở thế gian. Họ muốn ca ngợi đức độ của người khác nhưng chẳng biết hư thật. Kết quả ngược lại là phải làm trò cười cho thiên hạ. Họ cũng giống kẻ ngu kia, mặc dù có ý tốt ca ngợi cha mình nhưng rốt cuộc đã nói lỡ lời.
10. TÒA NHÀ BA TẦNG
Vào đời xưa có một người giàu ngu si ngoan cố. Một ngày nọ, hắn đến nhà của một người giàu khác. Hắn thấy ngôi nhà ấy có ba tầng, cao thoáng, rộng rãi, và trang nghiêm tráng lệ.
Khi ấy trong lòng hắn khao khát và liền nghĩ thầm:
“Tiền tài của ta không thua kém gì hắn. Sao ta không mau xây một tòa nhà như vậy?”
Thế là hắn liền kêu người thợ mộc đến và bảo rằng:
“Ngươi có thể xây cho ta một tòa nhà giống như thế không?”
Người thợ mộc đáp rằng:
“Tất nhiên là được. Tòa nhà đó là do tôi đã xây mà.”
Hắn liền bảo rằng:
“Vậy giờ ngươi hãy xây một tòa nhà như thế cho ta.”
Khi ấy người thợ mộc liền san bằng khu đất, rồi sau đó đặt móng xây nền. Khi kẻ ngu thấy người thợ mộc đặt móng xây nền, thì trong lòng bối rối và chẳng thể biết ông ta đang làm gì.
Thế là hắn mới hỏi rằng:
“Ngươi đang làm cái gì vậy?”
Người thợ mộc đáp rằng:
“Dạ, tôi đang xây tòa nhà ba tầng.”
Kẻ ngu lại nói rằng:
“Ta không muốn hai tầng dưới. Ngươi hãy xây cho ta tầng thứ ba trước đi.”
Người thợ mộc đáp rằng:
“Đây là chuyện không thể nào. Nếu tôi không xây tầng thứ nhất thì làm sao tôi có thể xây tầng thứ hai? Nếu tôi không xây tầng thứ hai thì làm sao tôi có thể xây tầng thứ ba chứ?”
Kẻ ngu cố chấp nói tiếp:
“Ta bây giờ không cần hai tầng dưới làm gì. Ngươi hãy xây cho ta tầng thứ ba mà thôi.”
Khi nghe xong lời nói trên, mọi người liền bật cười ha hả và đều nói rằng:
“Ai đời không xây tầng dưới, thì làm sao có được tầng trên!”
Đây cũng như có những hạng đệ tử trong bốn chúng của Phật, họ không thể tinh tấn tu hành hay tôn kính Tam Bảo.
Họ lười biếng, nhưng lại muốn cầu Đạo Quả mà nói rằng:
“Tôi giờ chẳng cần ba quả vị ở dưới làm gì. Tôi chỉ cầu đắc Đạo Ứng Chân mà thôi.”
Họ cũng giống hệt như kẻ ngu kia không khác và trở thành trò cười của mọi người.
11. PHẠM CHÍ GIẾT CON
Thuở xưa có một Phạm Chí tự nghĩ rằng sự hiểu biết của mình rất bao la, và cho là thuật chiêm tinh cùng mọi kỹ năng khác, không một thứ nào mà ông chẳng thông đạt. Với cái tánh tự phụ như thế, ông đi đến nước khác để muốn biểu diễn bản lãnh của mình. Bấy giờ ông bồng con mà khóc.
Lúc đó có người hỏi Phạm Chí rằng:
“Sao ông lại khóc?”
Phạm Chí trả lời:
“Đứa trẻ này nội trong bảy ngày sẽ chết. Tôi khóc lóc và xót thương là vì nó phải chết quá sớm.”
Khi ấy mọi người mới nói rằng:
“Số mệnh con người thật khó biết. Có lẽ ông đã tính sai. Biết đâu chừng bảy ngày sau, nó có thể sẽ không chết. Ông hà tất phải khóc trước làm gì?”
Phạm Chí nói rằng:
“Mặt trời và mặt trăng có thể mờ tối, các vì sao có thể rơi xuống, nhưng sự tính toán của tôi quyết không bao giờ nhầm lẫn.”
Vì danh lợi và cũng để chứng minh lời nói của mình, đến ngày thứ bảy, ông đích tay giết chết con mình.
Khi mọi người nghe tin con ông đã chết sau bảy ngày, họ đều ca ngợi ông là bậc có trí tuệ chân chánh và lời nói của ông chẳng hề sai lệch. Họ càng khởi lòng tin tưởng hơn và đều đến cung kính.
Đây cũng như có những hạng đệ tử trong bốn chúng của Phật, vì lợi dưỡng mà tự mạo xưng là mình đã đắc Đạo. Họ mê hoặc và giết hại người lương thiện, nhưng bề ngoài thì giả vờ hiền từ và có đức độ. Thế nên khiến cho ở tương lai, họ sẽ chịu thống khổ vô cùng. Họ cũng như Phạm Chí kia, vì muốn mê hoặc người đời nên đã giết con để chứng nghiệm cho lời nói của mình.
12. NẤU ĐƯỜNG MẬT
Thuở xưa có một kẻ ngu đang nấu đường mật. Đúng lúc có một người giàu đến nhà thăm.
Khi ấy kẻ ngu này liền nghĩ như vầy:
“Ta bây giờ nên lấy đường mật để tiếp đãi ông phú gia đó.”
Nghĩ vậy, hắn liền đổ một ít nước vào trong chảo, rồi đặt lên bếp lửa đang cháy. Sau đó, hắn lấy cây quạt để quạt và hy vọng rằng sẽ làm cho chảo đường mật nguội đi.
Thấy vậy nên những người xung quanh mới nói rằng:
“Nếu không tắt lửa ở dưới, dẫu có tiếp tục quạt đi nữa thì làm sao đường mật nguội cho được?”
Khi ấy mọi người đều cười chế giễu.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo không chịu diệt trừ lửa hừng hực của phiền não. Họ tu một chút khổ hạnh, như là nằm trên chông gai, hoặc phơi thân xác dưới trời nắng gắt với xung quanh đốt lửa, rồi hy vọng là sẽ được mát mẻ và dẫn tới con đường tịch tĩnh. Đây quyết không thể được. Việc làm điên rồ như vậy sẽ bị người trí chê cười. Chẳng những phải chịu thống khổ ở hiện tại mà họ sẽ còn chuốc lấy tai ương cho những kiếp về sau.
13. BÀN VỀ TÁNH NÓNG NẢY CỦA NGƯỜI KHÁC
Xưa kia có một nhóm người ngồi tụm lại bàn tán ở trong nhà. Họ khen nhân cách của một người lạ nọ rất tốt. Tuy nhiên, anh ta chỉ có hai khuyết điểm. Thứ nhất là anh ta dễ nổi nóng. Thứ nhì là anh ta cư xử quá lỗ mãng.
Chẳng may đúng lúc ấy, người này tình cờ đi ngang qua nhà. Khi nghe vậy, kẻ ngu si hung dữ lập tức nổi sân và liền vào trong nhà túm lấy người đang phê phán mình và dùng tay đánh cho một trận.
Thấy thế nên mọi người mới hỏi rằng:
“Tại sao anh lại đánh người ta?”
Kẻ ngu đáp rằng:
“Tôi chưa bao giờ nổi nóng hay lỗ mãng cả. Thế mà kẻ này lại dám bảo tôi là hay dễ nổi nóng và cư xử quá lỗ mãng. Cho nên tôi mới đánh hắn.”
Nghe vậy nên những người xung quanh mới bảo rằng:
“Hành vi của anh bây giờ không phải đã chứng minh là anh rất nóng giận và thô bạo lắm sao? Cớ sao anh còn che giấu?”
Khi kẻ kia nghe người khác nói điều sai quấy của mình thì liền khởi lòng oán trách. Đó chỉ càng làm mọi người cười nhạo là một kẻ ngu ngốc mà thôi.
Đây cũng như mấy kẻ nghiện rượu, say sưa lúy túy và chuyên làm điều xằng bậy. Khi người khác quở trách thì khởi sanh oán hận. Ngược lại, họ còn đưa ra mọi lý do để dẫn chứng và tự biện bạch cho việc làm của mình. Họ cũng như kẻ ngu kia, khi nghe ai vạch lỗi của mình thì muốn nhào tới đánh.
14. GIẾT NGƯỜI HƯỚNG DẪN ĐỂ TẾ TRỜI
Thuở xưa có nhóm thương nhân muốn vào biển cả để tìm châu báu. Mà hễ vào biển cả thì cần người hướng dẫn. Thế là sau đó, họ cùng nhau đi tìm, và rồi cũng kiếm ra được một người hướng dẫn. Khi đã có người hướng dẫn, họ đồng xuất phát lên đường. Trong chuyến đi, họ đến một nơi hẻo lánh, nhưng muốn qua chỗ này thì bắt buộc phải cúng tế một người thời sau đó mới qua được.
Khi ấy, nhóm thương nhân bàn bạc với nhau:
“Chúng ta đều là bạn đồng nghiệp với bao năm quen biết thân tình. Làm sao mà có thể giết bất cứ ai trong chúng ta chứ? Chỉ riêng người hướng dẫn là không phải. Chúng ta nên dùng hắn để tế trời.”
Và thế là, họ đem người hướng dẫn ra cúng tế. Sau khi đã tế trời xong xuôi, họ lạc mất đường đi. Do chẳng biết đang ở nơi nào, họ phải chịu khốn ách tột cùng và cuối cùng đều bị chết sạch.
Nếu ai muốn vào biển Pháp để lấy trân bảo, họ cần phải tu các Pháp lành và xem đó như là người hướng dẫn. Nếu phá hủy các Pháp lành, họ vĩnh viễn sẽ không bao giờ ra khỏi chốn sanh tử thênh thang. Họ sẽ phải chịu thống khổ lâu dài trong ba đường ác. Phần đông người thế gian cũng như nhóm thương nhân kia. Tuy họ muốn vào biển cả nhưng lại giết chết người hướng dẫn. Kết quả là bị lạc mất phương hướng, rồi cuối cùng phải chịu khốn ách mà chết vậy.
15. NGỰ Y CHO THUỐC ĐỂ KHIẾN CÔNG CHÚA VỤT LỚN
Thuở xưa có một ông vua vừa sanh được một nàng công chúa.
Nhà vua truyền gọi ngự y vào mà bảo:
“Khanh có thể cho trẫm một toa thuốc để khiến công chúa vụt lớn không?”
Ngự y đáp rằng:
“Thần có thể cho một toa thuốc đặc biệt để khiến công chúa lập tức lớn ngay. Chỉ là hiện giờ thần không có phương thuốc này bên mình. Thần cần phải đi rất xa để kiếm về. Tuy nhiên, trong suốt thời gian thần đi kiếm thuốc, đại vương nhất định đừng tới thăm công chúa. Khi nào thần đã cho uống thuốc xong, sau đó thần sẽ dẫn đến gặp đại vương.”
Rồi thì ngự y liền đi rất xa để tìm thuốc về. Trải qua 12 năm thì mới tìm được và mang về. Sau đó, ngự y cho công chúa uống thuốc, rồi dẫn đến gặp quốc vương.
Khi thấy công chúa khôn lớn, nhà vua vui mừng vô cùng và liền tự nghĩ thầm:
“Thật đúng là một vị lương y! Ông ta đã có thể cho một toa thuốc để khiến công chúa của trẫm vụt lớn như vậy.”
Thế là nhà vua liền sai người ban cho thầy thuốc nhiều trân bảo.
Lúc ấy mọi người đều cười nhà vua không có trí tuệ, rằng không biết tính đếm năm tháng đã trải qua kể từ khi công chúa chào đời. Khi thấy con mình khôn lớn, thì cho là do ảnh hưởng của thuốc.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế.
Họ tìm đến Thiện Tri Thức mà thưa rằng:
“Con muốn cầu Đạo. Mong ngài hãy chỉ dạy để khiến con lập tức đắc Quả.”
Do Thiện Tri Thức dùng phương tiện mà chỉ dạy tọa thiền và quán Mười Hai Nhân Duyên, nên họ dần dần tích lũy công đức và đắc Đạo Ứng Chân.
Khi đó, họ vui mừng hớn hở bội phần mà bảo rằng:
“Mau thật đấy! Sư phụ có thể mau khiến chúng ta chứng Pháp tối diệu như vậy.”
16. TƯỚI NƯỚC MÍA
Thuở xưa có hai người cùng trồng mía và họ đánh cược với nhau rằng:
“Ai trồng mía tốt sẽ có thưởng, còn ai trồng mía xấu sẽ bị phạt nặng.”
Khi ấy có một người trong bọn họ thầm nghĩ:
“Nước mía thì ngọt vô cùng. Nếu mình ép nước mía ra, rồi lấy tưới trở lại vào cây mía, chắc chắn nước mía sẽ rất ngon ngọt và mình nhất định sẽ thắng hắn ta.”
Thế là kẻ ngu liền ép nước mía ra, rồi lấy tưới trở lại vào cây mía và hy vọng rằng mía trồng ra được sẽ ngọt hơn. Nhưng trái lại đã làm hư hạt giống của những cây mía trồng và toàn bộ mùa thu hoạch đều mất sạch.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Tuy muốn cầu phước lành, nhưng họ lại ỷ vào sự giàu có cùng cậy nương thế lực, mà hà hiếp kẻ dưới và cướp đoạt tài vật người khác. Họ làm như thế mà mong được quả phước lành, thì không biết rằng trong tương lai sẽ chuốc tai ương ngược lại. Đây cũng như kẻ ngu ép nước mía ra, rồi lấy tưới trở lại vào cây mía–kết quả là đều mất sạch vậy.
17. NỬA XU TIỀN NỢ
Xưa kia có một thương nhân cho người ta mượn nửa xu tiền. Nhưng chờ hoài mà không thấy trả, nên anh ta quyết định đi đòi. Trên đường đi, anh ta gặp con sông lớn và phải trả hai xu tiền để qua sông. Khi đã đến nhà người thiếu nợ thì mới hay họ không có ở nhà. Thế là kẻ ngu đành phải quay về, rồi ngồi đò qua sông, và lại phải mất thêm hai xu tiền nữa.
Rốt cuộc chỉ vì nửa xu tiền mà còn mất thêm bốn xu tiền. Đó là chưa kể trên đường phải chịu bao mệt nhọc. Tiền cho mượn quá ít mà tiền mất đi lại quá nhiều. Kết quả là bị mọi người chê cười.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Chỉ vì chút ít danh lợi mà hủy đi đại hạnh của mình. Họ chỉ lo bản thân mà không màng lễ nghĩa. Hiện đời họ bị mang tiếng xấu, còn đời sau họ sẽ chịu quả báo khổ đau.
18. LÊN LẦU MÀI DAO
Thuở xưa có một người bần cùng khốn khổ phải làm việc cho vua. Ngày tháng trôi qua, thân thể trở nên gầy gò. Nhà vua thấy thế nên rất xót thương và ban cho một con lừa đã chết. Khi nhận được, kẻ nghèo liền lóc da lừa. Nhưng vì dao bị cùn nên phải đi tìm đá để mài. Cuối cùng, hắn tìm được một cục đá mài ở trên lầu. Khi đã mài dao cho bén xong, kẻ nghèo lại đi xuống để lóc da lừa. Cứ như vậy, hắn chạy lên chạy xuống để mài dao. Càng về sau thì càng mệt mỏi và hắn không thể lên lầu nữa. Cuối cùng kẻ ngu vác nguyên con lừa lên lầu và mài dao ở trên đó. Kẻ ngu như vậy thật đáng bị mọi người chê cười.
Việc làm của kẻ ngu này thì cũng như hạng người, một mặt phá giới, mặt khác lấy nhiều tiền bạc dùng để tu phước, và hy vọng sẽ được sanh lên trời. Họ như kẻ ngu vác nguyên con lừa lên lầu và mài dao ở trên đó. Mặc dầu đã bỏ biết bao công sức, nhưng phần thu hoạch lại quá ít ỏi.
19. NGỒI THUYỀN MẤT BÁT
Thuở xưa có một người làm rớt một cái bát bằng bạc xuống nước đương lúc ngồi thuyền qua biển.
Anh ta liền nghĩ thầm:
“Mình bây giờ hãy đánh dấu trên nước và cứ gửi ở đó. Sau khi trở về, mình sẽ mò lấy cái bát.”
Trải qua hai tháng, anh ta đã đến nước Sư Tử và tiếp tục hành trình đến các nước khác. Khi thấy một dòng sông nọ, anh ta liền vào trong nước để tìm lại cái bát đã mất.
Thấy vậy nên mọi người mới hỏi rằng:
“Anh đang làm gì vậy?”
Anh ta đáp rằng:
“Lúc trước tôi đã làm mất cái bát. Bây giờ tôi muốn tìm lại nó.”
Mọi người hỏi rằng:
“Anh đã làm mất nó ở chỗ nào?”
Anh ta đáp rằng:
“Lần trước lúc qua biển, tôi đã làm mất nó.”
Mọi người lại hỏi rằng:
“Anh đã làm mất lúc nào?”
Đáp rằng:
“Khoảng hai tháng trước.”
Mọi người hỏi rằng:
“Nếu đã mất hai tháng trước, tại sao anh lại tìm ở đây?”
Đáp rằng:
“Khi mất cái bát, tôi đã vẽ ký hiệu trên nước và gửi ở đó. Cái ký hiệu được vẽ trên nước ở chỗ xưa và nước ở đây chẳng có khác biệt gì. Cho nên bây giờ tôi mới đi kiếm lại.”
Mọi người lại hỏi rằng:
“Mặc dù nước thì không khác, nhưng chỗ làm mất thì ở tận nơi kia. Bây giờ anh tìm ở chỗ này thì làm sao kiếm được?”
Khi ấy mọi người không ai mà chẳng bật cười lớn.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo không tu hành đúng cách. Họ chịu khốn khổ để cầu giải thoát với cách tu hành sai lầm. Họ cũng như kẻ ngu kia–mất cái bát một nơi mà lại tìm một ngả vậy.
20. NHÀ VUA BỊ NÓI LÀ BẠO NGƯỢC
Thuở xưa có một người nói xấu lỗi lầm của nhà vua.
Người ấy nói rằng:
“Nhà vua rất bạo ngược và trị quốc một cách vô lý.”
Khi những lời này lọt đến tai, nhà vua hết sức phẫn nộ. Chẳng điều tra rõ là do ai đã nói, nhà vua vội tin theo lời nịnh bợ của mấy kẻ xung quanh và bắt giữ một vị hiền thần, rồi ra lệnh lóc 100 lạng thịt trên lưng của vị thần này.
Sau đó có người chứng minh là vị thần này không hề nói lời ấy. Nhà vua cảm thấy hối hận và sai người đem 1.000 lạng thịt để bù đắp. Nhưng nửa đêm, vị thần này rên rỉ và kêu la khổ xiết.
Khi nhà vua nghe tiếng kêu la thì hỏi vị thần này:
“Sao khanh khổ xiết dữ vậy? Trẫm chỉ lấy 100 lạng thịt của khanh, song trẫm đã cho khanh gấp mười lần rồi mà. Khanh còn không vừa ý sao? Tại sao còn rên la nữa?”
Khi ấy, những người ở cạnh tâu rằng:
“Tâu đại vương! Nếu đại vương đã chém đầu con ngài, cho dù đại vương có trả lại 1.000 cái đầu đi nữa, thì con của đại vương cũng không sao thoát khỏi cái chết. Tuy được trả lại gấp mười lần thịt đã mất, nhưng ông ta cũng không sao tránh khỏi đau đớn.”
Đây cũng như mấy kẻ ngu chẳng sợ quả báo ở đời sau. Họ chỉ biết tham khát khoái lạc ở hiện tại mà gây tạo biết bao khổ ách cho chúng sanh. Thời gian sau thì phân phát nhiều tài vật cho mọi người. Họ mong sẽ diệt đi tội đã làm và tích phước báo cho mai sau. Họ cũng giống như ông vua kia, ra lệnh lóc thịt trên lưng của vị hiền thần, rồi sau đó lấy thịt khác để bù vào, và hy vọng rằng ông ta sẽ chẳng còn đau đớn nữa. Thật không có việc ấy!
21. NGƯỜI PHỤ NỮ MUỐN CẦU THÊM CON
Vào thời xưa có một người phụ nữ, tuy đã có một đứa con rồi nhưng lại muốn cầu thêm nữa.
Người ấy đi hỏi những phụ nữ khác rằng:
“Ai biết cách nào để khiến tôi có thêm con không?”
Khi ấy có một bà già bảo người phụ nữ này rằng:
“Tôi có thể chỉ cách giúp cô có thêm con, nhưng cô phải làm lễ tế trời.”
Người phụ nữ này hỏi bà lão:
“Tôi phải lấy gì để tế trời?”
Bà cụ bảo rằng:
“Phải giết con của cô, rồi lấy máu của nó để tế trời thì sẽ được nhiều con.”
Khi đó người phụ nữ này chẳng hề do dự mà liền nghe theo lời của bà lão và toan muốn giết con mình.
Trong số người xung quanh lúc ấy, có một người trí cười nhạo cô ta và mắng chửi rằng:
“Thật là ngu si dốt nát! Trong khi chưa rõ là mình có thể sanh được con hay không nữa, thế mà đã muốn giết chết đứa con hiện có.”
Đây cũng như mấy kẻ ngu. Bởi cho rằng muốn hưởng vui sướng đời sau, thì họ phải nhảy vào hầm lửa để chịu muôn sự đau đớn và nghĩ là như vậy sẽ được sanh lên trời.
22. VÀO BIỂN LẤY HƯƠNG TRẦM THỦY
Thuở xưa có một đứa con của ông trưởng giả vào biển lấy hương trầm thủy. Sau bao năm tìm kiếm, anh ta mới được một xe hương trầm thủy chở về nhà. Sau đó, anh ta đem ra chợ bán. Nhân vì nó quá quý hiếm nên chẳng ai mua nổi. Trải qua mấy ngày mà vẫn không bán được cây nào, trong lòng mệt mỏi và khổ sở vô cùng.
Khi chợt thấy quầy hàng của người bán than đang bán rất đắt, anh ta liền nghĩ thầm:
“Thay vì chẳng bán được cây nào, chi bằng sao mình không đốt ra thành than thì may ra sẽ bán chạy hơn!”
Vậy là anh ta đốt gỗ hương trầm thủy thành than và mang tới chợ bán. Thế nhưng tiền kiếm được còn chưa tới giá tiền của nửa xe than.
Đây cũng như mấy kẻ ngu ở thế gian. Họ tu hành tinh tấn với vô lượng phương tiện để mong cầu Phật Đạo.
Thế mà đến khi gặp khó khăn, họ liền sanh lòng thoái chuyển, rồi nghĩ như vầy:
“Tu hành như vậy quá khó, chi bằng sao mình không phát tâm cầu Quả Thanh Văn, thì sẽ mau đoạn sanh tử và thành bậc Ứng Chân!”
23. KẺ TRỘM ĂN CẮP TẤM VẢI GẤM ĐỂ BỌC QUẦN ÁO RÁCH
Thuở xưa có một tên trộm lẻn vào nhà của một người giàu và ăn cắp được một tấm vải gấm. Sau đó, hắn dùng nó để bọc mấy bộ quần áo rách nát và những đồ lặt vặt. Khi việc này truyền đến tai người trí, không ai là chẳng bật cười.
Đây cũng như mấy kẻ ngu ở thế gian. Tuy họ có lòng tin đối với Phật Pháp và tu hành Pháp lành cùng làm các công đức, nhưng vì tham lợi mà hủy đi giới thanh tịnh và mất các công đức. Kết quả là bị người thế gian chê cười.
24. TRỒNG HẠT MÈ RANG KHÔ
Thuở xưa có một kẻ ngu ăn hạt mè sống và cảm thấy không ngon. Sau đó, hắn đem chúng rang khô và khi ăn vào thì cảm thấy rất ngon.
Kẻ ngu liền nghĩ thầm:
“À, hay là mình rang khô rồi đem trồng. Khi thu hoạch, hạt mè chắc sẽ ngon lắm!”
Thế là hắn mang chúng rang khô rồi đem trồng. Đương nhiên là vĩnh viễn sẽ chẳng có một cây nào mọc lên.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Đối với những khổ hạnh khó làm mà người tu Bồ-tát Đạo phải tu hành trong nhiều kiếp, họ cho là chẳng vui.
Họ nghĩ thế này:
“Chi bằng mình hãy mau đoạn dứt sanh tử và thành bậc Ứng Chân thì sẽ dễ dàng hơn.”
Nhưng về sau khi họ muốn cầu Phật Đạo, thì chẳng thể nào đạt được. Đó cũng như một khi các hạt mè đã rang khô, nó sẽ không còn nảy mầm nữa. Đây cũng như mấy kẻ ngu ở trên đời vậy.
25. NƯỚC VÀ LỬA
Thuở xưa có một người cần lửa và nước lạnh để dùng trong nhà. Cho nên anh ta đã xây một bếp lửa. Khi xây xong, anh ta rót nước vào trong ấm và đặt ở trên đó. Một hồi lâu sau, anh ta muốn lấy lửa để dùng nhưng lửa đã tắt. Anh ta lại muốn lấy nước lạnh để dùng nhưng nước còn quá nóng. Thế là cả lửa lẫn nước lạnh đều chẳng có.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ vào trong Phật Pháp và xuất gia cầu Đạo. Khi đã xuất gia rồi, thế mà họ còn nghĩ đến vợ con quyến thuộc, lo chuyện thế tục, và ham vui sướng của năm dục. Do bởi lẽ này, họ mất đi lửa công đức và nước trì giới. Những ai với lòng dục vọng thì cũng lại như vậy.
26. BẮT CHƯỚC NHÀ VUA NHÁY MẮT
Thuở xưa có một người vì muốn được lòng vua, nên đã đi hỏi những người xung quanh.
Có người mách rằng:
“Nếu muốn được lòng vua, thì ông hãy bắt chước cử chỉ của ngài.”
Sau đó người này đến chỗ của quốc vương. Khi thấy nhà vua nháy mắt, anh ta cũng liền bắt chước nhà vua nháy mắt.
Thấy thế, vua hỏi rằng:
“Mắt của khanh bị bệnh hay bị gió thổi làm cay mắt à? Cớ sao cứ nháy vậy?”
Người ấy tâu với nhà vua rằng:
“Tâu đại vương. Mắt của thần không có bệnh gì và cũng chẳng phải bị gió thổi làm cay mắt. Thần vì muốn được lòng của đại vương, nên khi ngài nháy mắt, thần cũng bắt chước làm theo.”
Khi nghe xong, nhà vua hết sức phẫn nộ. Ngài lập tức sai người trừng phạt rất nặng, rồi trục xuất ra khỏi nước.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ muốn thân cận Đức Phật, bậc Pháp Vương, để cầu Pháp lành và làm cho căn lành tăng trưởng. Khi đã được thân cận, họ chẳng hiểu Đức Như Lai Pháp Vương với đủ mọi phương tiện, có lúc Ngài độ chúng sanh mà hiện ra những khiếm khuyết. Hoặc thỉnh thoảng họ nghe đoạn Pháp nào đó chưa hoàn toàn cứu cánh, thế là liền hủy báng hoặc bắt chước theo chỗ không phải đó. Do bởi lẽ này, họ vĩnh viễn đánh mất điều thiện ở trong Phật Pháp và phải đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia bắt chước nhà vua vậy.
27. CHỮA VẾT THƯƠNG BỊ ROI QUẤT
Thuở xưa có một người bị vua dùng roi quất. Sau khi bị roi quất xong, người đó lấy phân ngựa trét lên vết thương để cho mau lành.
Lúc ấy có một kẻ ngu trông thấy, hắn mừng rỡ trong lòng và liền nghĩ thầm:
“Mình đã biết được cách chữa lành vết thương rồi.”
Thế là hắn vội về nhà và bảo con của y rằng:
“Con hãy cầm roi quất vào lưng của cha. Cha đã có một cách hay để chữa trị vết thương. Bây giờ cha muốn thử xem sao.”
Sau khi đã bị con lấy roi quất vào lưng, y lấy phân ngựa trét lên vết thương, rồi cho đó là một phương pháp tuyệt vời.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ nghe có người nói rằng, tu quán thân bất tịnh thì sẽ liền trừ căn bệnh của năm uẩn nơi thân.
Thế là họ nghĩ rằng:
“Ta sẽ dùng nữ sắc và năm dục để tu quán thân bất tịnh.”
Song họ chẳng thấy bất tịnh đâu cả, mà ngược lại bị sắc đẹp cám dỗ. Họ lưu chuyển trong sanh tử và đọa địa ngục. Đây cũng như mấy kẻ ngu ở trên đời vậy.
28. THAY MŨI CHO VỢ
Thuở xưa có một người có cô vợ xinh xắn, chỉ tội là cái mũi quá xấu. Lúc đang ở bên ngoài, y thấy một người phụ nữ nọ với diện mạo đoan chánh, đặc biệt là cái mũi rất đẹp.
Hắn liền nghĩ thầm:
“Bây giờ mình hãy cắt mũi của người đó, rồi đắp lên mặt của vợ mình, chắc sẽ tuyệt lắm nhỉ!”
Thế là kẻ ngu này liền cắt mũi của người phụ nữ đó, rồi hối hả cầm về nhà và réo vợ:
“Em hãy mau ra đây! Anh sẽ cho em một cái mũi rất xinh.”
Khi người vợ ra gặp, y liền cắt mũi của vợ mình, rồi lấy cái mũi của người khác và đắp lên mặt vợ. Chẳng những nó không vừa mà còn làm cho người vợ mất đi cái mũi, khiến phải chịu đau đớn khôn xiết.
Những kẻ ngu ở thế gian thì cũng như thế.
Khi nghe những vị Sa-môn trưởng lão và Phạm Chí có đức hạnh vang lừng, người đời cung kính, và còn được nhiều lợi dưỡng, họ liền nghĩ như vầy:
“Giữa mình với họ có khác biệt gì đâu!”
Thế là họ tự mạo xưng rằng mình có đức hạnh. Chẳng những không được lợi gì, trái lại còn bị mang tiếng xấu. Họ cũng như kẻ ngu kia đi cắt mũi người khác. Kết cuộc y chỉ làm tổn thương cho vợ mình. Đây cũng như mấy kẻ ngu ở trên đời vậy.
29. KẺ NGHÈO ĐỐT ÁO VẢI THÔ
Thuở xưa có một người bần cùng khốn khổ làm công cho người khác. Khi dành dụm đủ tiền để may được một bộ quần áo vải thô, hắn ta lấy mặc vào.
Lúc ấy có một người lạ trông thấy nên mới bảo y rằng:
“Anh phải là con của một gia tộc tôn quý giàu sang. Cớ sao anh mặc bộ quần áo vải thô này? Bây giờ tôi sẽ dạy một phương pháp để khiến anh có được một bộ y phục tuyệt đẹp. Anh hãy nghe theo lời của tôi. Tôi tuyệt đối không lừa anh đâu.”
Khi ấy, kẻ nghèo rất vui và tin theo lời nói đó. Tiếp đến người lạ này liền nhúm một đống lửa ở trước kẻ nghèo.
Rồi hắn nói với kẻ nghèo rằng:
“Bây giờ anh hãy cởi bộ quần áo vải thô này ra và ném vào trong lửa. Sau đó anh sẽ được một bộ y phục sang trọng.”
Thế là kẻ nghèo liền cởi bộ quần áo của mình đang mặc và ném vào trong lửa. Sau khi lửa tàn, kẻ nghèo cố tìm bới bộ y phục lộng lẫy, thế nhưng chẳng thấy đâu cả.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Do từ thuở quá khứ đã tu các Pháp lành nên nay mới được thân người. Khi đã được thân người, họ phải nên bảo hộ, tu tạo phước đức, và làm việc lành.
Tuy nhiên, họ chẳng may bị ngoại đạo, kẻ tà ác, và yêu nữ lừa gạt mà bảo rằng:
“Anh hãy tin theo lời của tôi. Hãy tu các loại khổ hạnh ép xác, như là quăng mình xuống đá, hoặc lao đầu vào lửa. Sau khi xả bỏ thân này, anh sẽ sanh lên cõi Phạm Thiên để thọ hưởng vui sướng và sống lâu vô cùng.”
Thế là họ vội tin theo và liền xả bỏ thân mạng. Sau khi chết, họ phải đọa địa ngục để chịu đau khổ. Không những đã mất thân người, mà còn chẳng được gì. Họ cũng như kẻ nghèo kia vậy.
30. NGƯỜI CHĂN DÊ
Thuở xưa có một người nuôi dê rất giỏi. Đàn dê càng ngày càng nhiều, tăng đến cả ngàn, rồi đến cả vạn con. Tuy nhiên, hắn ta cực kỳ keo kiệt và chẳng dám xài một xu.
Khi ấy có một kẻ chuyên lừa đảo đã dùng cách khôn khéo đến làm bạn và bảo y rằng:
“Sự thân mật giữa anh và tôi bây giờ, như cùng một thân thể và chẳng có gì xa lạ nữa. Tôi biết ở gia đình kia có một cô con gái rất tốt. Tôi sẽ giúp anh lấy về làm vợ.”
Khi nghe xong, người chăn dê rất vui mừng và mang nhiều dê cùng những tài vật cho tên lừa bịp kia.
Một thời gian sau, kẻ lừa bịp lại nói rằng:
“Vợ của anh hôm nay đã sanh một đứa con.”
Tuy chưa thấy vợ lần nào, nhưng khi người chăn dê nghe nói vợ mình đã sanh con, thì trong lòng vui mừng khôn xiết. Thế là hắn lại mang thêm tài vật cho kẻ đó.
Rồi một ngày nọ, tên lừa bịp lại nói rằng:
“Con anh mới chào đời không lâu, hôm nay nó đã chết!”
Khi vừa nghe lời nói của kẻ kia, người chăn dê liền òa khóc và sụt sùi thương tiếc.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ học hành cho cố rồi chỉ sử dụng vào mục đích danh lợi. Họ giữ bí mật về điều hiểu biết và chẳng chịu truyền dạy hay diễn nói cho người khác. Kết cuộc, họ bị cái thân hữu lậu này lừa phỉnh vào sự đam mê dục lạc của thế gian. Đó cũng như người chăn dê bị lừa gạt bởi sự ảo tưởng mà tin là đã có vợ con. Và như thế họ mất đi Pháp lành, rồi đến tài vật và ngay cả tánh mạng của chính họ. Khi tới lúc đó, họ mới ngậm ngùi khóc than và đau buồn khổ sở. Họ cũng như kẻ chăn dê kia vậy.
31. MƯỚN NGƯỜI THỢ GỐM
Thuở xưa có một vị thầy thuộc dòng dõi Phạm Chí muốn tổ chức một lễ hội linh đình.
Ông bảo các đệ tử rằng:
“Thầy cần các đồ sành để sử dụng trong ngày lễ hội. Các trò hãy đến chợ để tìm và mướn cho ta một người thợ gốm về đây.”
Khi ấy chúng đồ đệ đi đến nhà của ông thợ gốm. Giữa lúc đó, có một người buộc trên lưng lừa các đồ vật bằng sành để mang đến chợ bán, nhưng chỉ thoáng chốc thì bị con lừa làm vỡ nát hết. Trên đường quay về nhà, anh ta khóc lóc sướt mướt.
Thấy vậy nên họ mới hỏi rằng:
“Tại sao anh lại buồn bã và bi ai như thế?”
Người kia trả lời:
“Sau bao năm vất vả, tôi mới làm được một số đồ vật bằng sành để mang tới chợ bán. Vậy mà con lừa chết bầm này chỉ trong nháy mắt đã phá hủy sạch sành sanh. Bởi thế nên tôi rất buồn bã.”
Khi vừa nghe xong, họ rất vui mừng mà nói với nhau rằng:
“Con lừa này quả là một con vật quý. Đồ sành làm lâu như vậy mà trong thoáng chốc nó đã có thể phá hủy hết. Chúng ta nên mua con lừa này.”
Dĩ nhiên là người thợ gốm rất vui mừng và lập tức bán cho họ.
Khi họ cưỡi con lừa về nhà, vị thầy hỏi rằng:
“Các trò kiếm không được người thợ gốm à? Rồi con lừa này, tại sao lại dắt nó đến đây làm gì?”
Chúng đệ tử đáp rằng:
“Con lừa này còn giỏi hơn người thợ gốm kia. Ông ta phải tốn thời gian rất lâu mới làm được một số đồ sành. Thế nhưng chỉ trong tích tắc mà nó đã có thể phá hủy toàn bộ.”
Khi ấy vị thầy quở rằng:
“Các trò thật ngu si và chẳng có trí tuệ. Mặc dù hiện giờ con lừa này có thể đập vỡ hết trong chốc lát, nhưng dẫu cho nó có trải qua cả trăm năm đi nữa, thì vẫn không làm được một cái nào.”
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Dẫu có trải qua trăm ngàn năm để nhận cúng dường từ người khác, nhưng họ đều chẳng biết báo đáp. Trái lại, họ còn luôn gây tổn hại và không bao giờ làm việc hữu ích. Đây cũng như mấy kẻ vong ân vậy.
32. THƯƠNG GIA ĂN TRỘM VÀNG
Thuở xưa có hai người thương gia cùng làm ăn buôn bán với nhau. Một người bán vàng ròng, còn người kia bán bông gòn.
Lúc bấy giờ có một khách hàng đến mua vàng ròng và yêu cầu nung vàng để thử. Nhân cơ hội không ai chú ý, người thương gia bán bông gòn liền lén trộm vàng đang nung và quấn giấu trong mấy lớp bông gòn. Nhưng do bởi vàng đang nóng bỏng nên phát lửa và đốt sạch bông gòn. Thế là việc ăn cắp bại lộ; cả vàng lẫn bông gòn thảy đều mất.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo lấy trộm Phật Pháp và đưa vào trong giáo lý của họ, rồi giả mạo cho là giáo lý của họ chứ không phải là Phật Pháp. Do bởi lẽ này, họ tự thiêu diệt các sách điển ngoại đạo và làm chúng chẳng còn lưu hành ở thế gian. Đây cũng như khi kẻ ăn cắp vàng bị phát hiện vậy.
33. CHẶT CÂY LẤY TRÁI
Thuở xưa có một quốc vương. Ngài có một cây ăn trái tươi tốt. Nó to lớn, cao rộng, và sẽ sanh ra những trái thơm ngon. Khi ấy có người đến chỗ của nhà vua.
Nhà vua khoe rằng:
“Ở trên cây này sắp có những trái rất ngon. Khanh có muốn ăn không?”
Người ấy liền tâu với nhà vua rằng:
Tâu đại vương! “Cây này cao to quá. Tuy thần muốn ăn nhưng làm sao mà hái được!”
Thế là nhà vua liền sai người chặt cây để lấy trái. Chẳng những tìm không ra trái nào mà còn tự chuốc khổ. Sau đó nhà vua muốn trồng cây lại, thế nhưng cây đã khô héo, rồi chết đi và không thể nào sanh trái nữa.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Như Lai Pháp Vương có cây trì giới sanh ra trái thù thắng. Nó có thể ban an vui và mãn nguyện điều ước mong. Nếu muốn ăn trái này, thời người đó phải nên trì giới và tu các công đức. Có những người tuy đã không hiểu biết phương tiện, ngược lại còn hủy phạm giới cấm. Họ ví như cây đã bị chặt kia–dẫu có muốn cây sống trở lại thì cũng chẳng thể nào được. Đây cũng như mấy kẻ phá giới vậy.
34. DÂNG NƯỚC THƠM NGỌT
Thuở xưa có một thôn xóm cách kinh thành năm yojana. Ở trong thôn này có một nguồn nước rất thơm ngọt. Bởi vậy mà nhà vua đã ra lệnh, rằng hằng ngày người trong thôn phải dâng nước thơm ngọt vào cung. Lâu dần người trong thôn sanh lòng mệt mỏi và họ đều muốn dời đến thôn xa khác.
Khi ấy vị thôn chủ bảo mọi người rằng:
“Xin mọi người đừng đi! Tôi sẽ thay mặt mọi người tâu lên đại vương và đổi khoảng cách giữa đây và hoàng cung, từ năm yojana xuống còn ba yojana. Như vậy sẽ khiến mọi người cảm thấy gần hơn và khi đi khi về sẽ không còn vất vả nữa.”
Sau đó, vị thôn chủ vội vã đi tâu, và nhà vua hạ lệnh đổi thành ba yojana. Khi nghe xong, ai nấy đều vui mừng khôn xiết.
Tuy nhiên, có người kiến nghị rằng:
“Khoảng cách mới bây giờ và năm yojana lúc xưa có khác biệt gì đâu!”
Dẫu có nghe lời nói đó, nhưng dân làng vẫn một mực khăng khăng tin theo lời của nhà vua.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ tu hành Chánh Pháp để ra khỏi năm đường và hướng đến thành tịch diệt. Thế nhưng thời gian trôi qua, họ sanh lòng chán mỏi và muốn bỏ cuộc. Và thế là, họ dừng chân ở sanh tử mà chẳng còn muốn tiến bước. Tuy nhiên, Như Lai Pháp Vương có đại phương tiện. Ngài ở trong Pháp Nhất Thừa mà phân biệt nói ba. Khi những người ưa thích Pháp nhỏ nghe rồi, thì liền hoan hỷ và cảm thấy dễ dàng thực hành. Họ tu thiện tích đức và mong ra khỏi sanh tử. Nhưng về sau, họ nghe có người bảo là không có ba thừa mà chỉ một Đạo duy nhất. Do bởi đã bám chặt vào sự tin tưởng của lời Phật thuở trước nên họ vĩnh viễn không thể xả. Đây cũng như các dân làng kia vậy.
35. TẤM GƯƠNG TRONG RƯƠNG BÁU
Thuở xưa có một kẻ bần cùng khốn khổ và phải luôn mắc nợ người khác. Bởi không có cách nào để trả nên gã bỏ trốn. Lúc chạy đến một nơi hẻo lánh, y phát hiện có một cái rương đựng đầy châu báu. Ở trong ấy có một tấm gương sáng án ở trên và che đậy các trân bảo. Khi kẻ nghèo tìm thấy thì trong lòng vui mừng khôn xiết. Bỗng hắn nhìn vào tấm gương thì phát hiện trong gương có người.
Gã sợ hãi kinh hoàng và chắp tay nói rằng:
“Tôi tưởng cái rương này không thuộc sở hữu của ai. Tôi không biết có anh ở trong đó, xin anh đừng giận nhé!”
Những kẻ phàm phu thì cũng như thế. Do bị vô lượng phiền não làm cho khổ sở, họ bị ma vương truy đuổi và bị chủ nợ sanh tử siết trói. Vì muốn trốn khỏi sanh tử, họ vào trong Phật Pháp để tu hành Pháp lành và làm các công đức. Đây cũng như lúc kẻ nghèo gặp cái rương báu. Thế nhưng lại bị cái tấm gương thân kiến làm mê muội, họ thấy sai lầm mà cho là có ngã. Thế là họ liền nắm giữ cái chấp trước này và bảo đó là chân thật. Kết quả là họ sa đọa và đánh mất mọi công đức. Thiền định, các Phẩm Trợ Đạo, vô lậu, các Pháp lành, và Đạo Quả của ba thừa thảy đều mất sạch. Đây cũng như kẻ ngu bỏ rương báu mà chạy trốn vậy.
36. MÓC MẮT CỦA VỊ TIÊN NHÂN ĐÃ ĐẮC NĂM LOẠI THẦN THÔNG
Thuở xưa có một người vào rừng học Đạo và sau một thời gian đã trở thành một vị tiên nhân đắc năm loại thần thông. Thiên nhãn của ngài có thể thấy rõ tất cả kho tàng và mọi vật báu chôn dưới đất.
Khi nghe như thế, nhà vua rất vui mừng và liền bảo chúng quần thần:
“Làm sao trẫm có thể giữ người này ở mãi trong nước chúng ta mà không để ngài rời đến nơi khác? Được như thế, kho tàng của trẫm sẽ tràn đầy trân bảo.”
Khi ấy có một kẻ thần ngu dốt đi đến chỗ của vị tiên nhân và móc đôi mắt của ngài.
Sau đó hắn cầm đôi mắt về và tâu vua rằng:
“Tâu đại vương! Thần đã móc cặp mắt của vị tiên nhân. Kể từ bây giờ, ông ấy sẽ không thể đi đâu nữa và sẽ luôn ở tại nước này.”
Nhà vua quở trách rằng:
“Sở dĩ trẫm mong muốn vị tiên nhân đó ở lại đây, là vì ngài có thể thấy tất cả kho tàng trong đất. Bây giờ ngươi đã hủy đi đôi mắt của ông ta, vậy thì còn dùng gì được nữa?”
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Khi thấy người khác tu khổ hạnh ở núi rừng hoang dã, ở gò mả, hoặc ở dưới cây, để tu hành bốn sự đình chỉ của tâm và quán thân bất tịnh, thế là họ kiếm cách buộc những vị tu hành này phải đến nhà để làm muôn sự cúng dường. Nhưng đâu biết rằng, họ đã phá hủy Pháp lành của người ta, khiến Đạo Quả không thành và hủy mất Đạo nhãn của các vị ấy. Chẳng những họ đã đánh mất phước lợi của người khác mà chính mình cũng chẳng thu hoạch được gì. Đây cũng như kẻ thần ngu dốt kia đã vô cớ hủy đi mắt của vị tiên nhân vậy.
37. GIẾT CẢ ĐÀN BÒ
Thuở xưa có một người nuôi 250 con bò. Anh ta thường lùa chúng đến đồng cỏ, rồi tùy theo thời gian thích hợp mà cho chúng ăn cỏ uống nước. Một ngày nọ, có con cọp vồ ăn mất một con bò.
Khi ấy, người chủ đàn bò liền nghĩ thầm:
“Bây giờ đã mất một con, đàn bò đã không còn nguyên vẹn. Vậy ta còn nuôi chúng nữa để làm gì?”
Ngay sau đó, hắn lùa đàn bò lên vách núi cao, rồi đẩy chúng xuống vực sâu và giết sạch toàn bộ.
Kẻ phàm phu ngu si thì cũng như thế. Tuy đã thọ trì giới Cụ Túc của Như Lai, nhưng nếu họ phạm một giới, thì chẳng sanh lòng hổ thẹn hay sám hối để được thanh tịnh.
Ngược lại, họ tự nghĩ như vầy:
“Mình đã phạm một giới rồi, đường nào cũng không còn trọn đủ. Vậy mình còn giữ các giới khác nữa để làm gì?”
Và thế là, tất cả giới đều phạm và chẳng giữ một giới nào. Đây cũng như kẻ ngu kia đã giết sạch đàn bò và không chừa một con nào vậy.
38. UỐNG NƯỚC CHẢY TỪ ỐNG TRÚC
Thuở xưa có một người khát nước trên đường đi. Hắn thấy có dòng nước trong vắt chảy ra từ ống trúc nên liền tới uống.
Khi đã uống thỏa thích, gã giơ tay chỉ vào ống trúc mà nói rằng:
“Ta đã uống no rồi. Nước ơi đừng chảy ra nữa!”
Mặc dầu đã nói như vậy nhưng nước vẫn cứ chảy.
Hắn liền nổi sân mà quát rằng:
“Ta đã uống no rồi và cũng bảo ngươi đừng chảy. Tại sao còn chảy nữa hả?”
Có người thấy vậy nên mới bảo rằng:
“Ay da, anh thật là ngốc và chẳng có lý trí tí nào. Sao anh không tự bỏ đi, chứ bảo nó đừng chảy nữa làm gì?”
Thế rồi người ấy kéo hắn đi nơi khác.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Do đắm chìm trong sanh tử tham ái, nên họ đã uống nước mặn của năm dục. Ví như khi kẻ ngu kia đã uống no rồi, họ chán nản và mệt mỏi đối với năm dục.
Họ nói lời thế này:
“Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp! Các ngươi chớ có đến đây và cũng đừng để cho ta thấy nữa!”
Tuy nhiên năm dục này cứ vẫn tương tục chẳng dứt.
Thế rồi, họ cứ thấy chúng nữa, nên càng giận dữ hơn:
“Ta đã nói các ngươi hãy mau diệt mất và đừng sanh nữa. Tại sao cứ đến hoài làm gì để cho ta thấy chứ?”
Khi ấy có người trí bảo rằng:
“Nếu muốn lìa khỏi năm dục, thì anh phải thu nhiếp sáu căn và khép kín tâm của mình. Một khi vọng tưởng không sanh thì sẽ được giải thoát. Anh cần gì phải bảo chúng biến mất và đừng sanh nữa?”
Đây cũng chẳng khác gì như kẻ ngu kia uống nước vậy.
39. THẤY NGƯỜI KHÁC TRÁT NHÀ
Thuở xưa có một người đi đến nhà người khác. Hắn thấy vách tường của ngôi nhà đó được trát bằng phẳng, gọn gàng, và trông rất đẹp.
Thế nên y liền hỏi chủ nhà:
“Anh đã trộn gì để trát tường mà nhìn đẹp dữ vậy?”
Chủ nhà trả lời:
“Tôi lấy vỏ trấu ngâm trong nước cho mềm, rồi đem trộn với bùn, và sau đó trát lên tường nên mới được như thế.”
Kẻ ngu liền nghĩ thầm:
“Nếu mình dùng toàn hạt lúa mà không phải vỏ trấu, thì chắc bức tường sẽ trắng trẻo, trơn mượt, và sạch đẹp lắm thay!”
Thế là kẻ ngu dùng hạt lúa trộn với bùn để trát nhà và mong bức tường sẽ bằng phẳng. Nhưng ngờ đâu thì ngược lại, vách tường bị lồi lõm và rạn nứt. Chẳng những đã lãng phí biết bao hạt lúa mà còn không mang đến lợi ích gì. Chẳng bằng như huệ thí thời sẽ có thể được công đức hơn.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Họ nghe các bậc thánh nhân thuyết Pháp, rằng nếu tu hành các Pháp lành, sau khi xả thân này, thời sẽ sanh lên trời và được giải thoát. Thế là họ liền tự sát và hy vọng sẽ sanh lên trời và được giải thoát bằng cách này. Không những đã làm mất tánh mạng của chính mình mà kết quả chẳng được gì. Đây cũng như kẻ ngu kia vậy.
40. CHỮA TRỊ ĐẦU HÓI
Thuở xưa có một người trên đầu chẳng có sợi tóc nào. Mùa đông đầu lạnh buốt, mùa hè nóng bức và còn bị muỗi chích; ngày đêm hắn phải chịu rất nhiều khổ não.
Một ngày nọ, kẻ đầu hói kia đi đến chỗ của một thầy thuốc chuyên trị bệnh rất giỏi.
Hắn nói với thầy thuốc rằng:
“Đại y sĩ! Xin hãy chữa giùm cái đầu hói của tôi.”
Khi ấy vị thầy thuốc liền lấy cái mũ xuống để chỉ cho thấy, rằng ông ta cũng bị đầu hói.
Ông ta nói rằng:
“Tôi cũng bị nó làm khổ sở đây nè. Nếu có thể chữa thì từ lâu tôi đã chữa cho mình trước rồi.”
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Do bị sanh già bệnh chết bức bách, họ muốn cầu nơi trường sanh bất tử. Họ nghe rằng Sa-môn và Phạm Chí là những bậc lương y của thế gian, khéo có thể chữa mọi chứng bệnh hoạn.
Thế là họ liền tìm đến và thưa rằng:
“Cầu xin ngài hãy diệt trừ căn bệnh sanh tử của vô thường này cho con, thời sẽ khiến con luôn mãi an lạc và trường tồn bất biến.”
Lúc đó các Phạm Chí liền nói rằng:
“Tôi cũng đang khổ bức bởi sanh già bệnh chết của vô thường này. Bấy lâu, tôi mãi tìm nơi trường sanh, nhưng tôi vẫn chưa tìm thấy. Nếu tôi có thể khiến anh chứng đắc, tôi đã tự chứng đắc cho mình trước và cũng giúp anh chứng đắc rồi.”
Nhiều người ở thế gian cũng như kẻ đầu hói kia, đã tự mình chịu khổ nhọc mà chẳng thể chữa khỏi vậy.
41. QUỶ HÚT TINH KHÍ
Thuở xưa có hai con quỷ hút tinh khí đồng sở hữu chung một cái rương, một cây gậy, và một đôi guốc. Chúng luôn gây lộn với nhau về những vật này và ai cũng muốn chiếm làm của riêng. Suốt ngày hai con quỷ cứ tranh cãi không ngừng mà chẳng thể giải quyết.
Khi ấy có một người đi ngang thấy thế nên mới hỏi rằng:
“Có gì đặc biệt với cái rương, cây gậy, và đôi guốc này mà các ngươi cãi cọ quyết liệt vậy?”
Hai con quỷ trả lời:
“Cái rương này của chúng tôi có thể hiện ra tất cả vật dụng cần thiết, như là y phục, ẩm thực, và giường nệm. Cây gậy này có thể hàng phục oán địch và chẳng ai dám chống cự. Ai mang đôi guốc này thời sẽ có thể phi hành không ngăn ngại.”
Nghe xong, người đó lập tức bảo hai con quỷ rằng:
“Hãy đứng ra xa một tí. Tôi sẽ phân chia công bằng cho các ngươi.”
Hai con quỷ nghe theo và liền xích ra xa. Lúc đó người kia liền ôm rương, nắm gậy, và mang guốc mà bay đi. Hai con quỷ sững sờ và chẳng được cái gì.
Người kia bảo chúng rằng:
“Những thứ mà các ngươi giành giật, ta lấy đi rồi. Bây giờ các ngươi không cần phải tranh nữa.”
Quỷ hút tinh khí dụ cho chúng ma và ngoại đạo. Cái rương dụ như sự bố thí mọi vật dụng cần thiết cho hàng trời người trong năm đường. Thiền định được sánh như cây gậy, có thể hàng phục oán ma và giặc phiền não. Trì giới được ví như đôi guốc, có thể đưa hữu tình sanh vào cõi trời hay nhân gian.
Sự tranh giành cái rương giữa chúng ma và ngoại đạo thì dụ cho những ai cưỡng cầu quả báo trong việc làm hữu lậu–cuối cùng rồi cũng chẳng được gì. Nếu ai có thể tu hành việc lành, bố thí, trì giới, và thiền định, thời họ sẽ xa lìa khổ ách và đắc Đạo Quả.
42. THƯƠNG GIA VÀ CON LẠC ĐÀ CHẾT
Thuở xưa có một thương gia đang trên chuyến buôn bán. Giữa đường, chẳng may con lạc đà bỗng dưng bị chết. Ở trên lưng con lạc đà này mang rất nhiều trân bảo, các tấm thảm mềm mại, và những đồ lặt vặt. Khi con lạc đà đã chết, người thương chủ lóc da của nó, rồi tiếp tục lên đường.
Sau đó, ông giao mấy miếng da đó cho hai kẻ làm mà bảo rằng:
“Hãy trông chừng mấy miếng da lạc đà này cho tốt. Chớ để bị ướt, bằng không nó sẽ bị thối rữa.”
Về sau khi trời đổ mưa, hai kẻ ngu ngốc lấy một tấm thảm quý mà bọc mấy miếng da kia. Kết quả đã làm cho tấm thảm hoàn toàn hư hoại. Giá trị giữa da lạc đà và tấm thảm quý thì chênh lệch một trời một vực. Song do bởi ngu si nên họ mới lấy tấm thảm quý mà đem bọc.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Không sát sanh ví như tấm thảm quý. Da của lạc đà thì dụ cho tiền tài. Trời mưa làm ẩm ướt, mục nát, thì dụ cho sự buông lung đã phá hoại việc lành.
Giới không sát sanh chính là nhân duyên vi diệu tối thượng để dẫn đến chứng đắc Pháp thân của Phật. Tiếc thay, người đời chẳng ai chịu tu. Trái lại, họ dùng tiền tài để xây tháp dựng miếu, hoặc cúng dường chư Tăng. Họ bỏ gốc lấy ngọn mà chẳng cầu bổn nguyên. Và thế là, họ trôi dạt trong năm đường mà chẳng thể tự ra khỏi. Vì vậy, người tu hành phải nên trì giới không sát sanh với lòng thanh tịnh.
43. MÀI TẢNG ĐÁ
Thuở xưa có một người đã bỏ rất nhiều công sức đi mài một tảng đá. Năm tháng trôi qua, hắn làm được một con bò nhỏ để chơi. Tiếc thay, y đã bỏ biết bao công sức mà kết quả đạt được lại quá bé nhỏ.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Mài tảng đá dụ cho sự cần cù chịu gian khổ để trau dồi học vấn. Làm được một con bò nhỏ để chơi dụ cho sự thị phi qua lại vì danh vọng. Là một vị học giả thì phải miệt mài nghiên cứu để được học thức uyên bác. Hơn nữa, họ nên dùng những lý thuyết đã học vào thực hành và cầu một kết quả thù thắng. Họ không nên cầu tiếng tăm mà kiêu căng ngã mạn, bởi đó chỉ tăng thêm hoạn nạn.
44. THÈM ĂN NỬA CÁI BÁNH
Thuở xưa có một người đương lúc đói bụng, hắn thèm ăn hết bảy cái bánh nướng. Nhưng khi ăn tới phân nửa của cái bánh thứ bảy thì đã quá no.
Cảm thấy hối tiếc, người ấy lấy tay tát vào mặt của mình mà tự trách rằng:
“Bây giờ chỉ với nửa cái bánh này mà đã làm mình no nê. Tiếc là mình đã lãng phí sáu cái bánh trước. Nếu biết nửa cái bánh này có thể làm cho mình no vậy thì mình đã sớm ăn nó trước rồi.”
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Từ hồi nào đến giờ, họ luôn chẳng có an lạc. Nhưng do bởi ngu si điên đảo, họ lầm tưởng mà cho là vui sướng. Đây cũng như kẻ ngu kia đã nghĩ rằng, hắn no là do nửa miếng bánh.
Thế nhân vô tri. Họ cho rằng phú quý là vui sướng. Lúc chưa có, kẻ mong giàu sang phải chịu biết bao khổ nhọc. Khi đã có rồi, họ cũng sầu khổ vì phải lo canh giữ. Rồi sau khi mất chúng, họ càng khổ hơn vì tiếc nuối khôn nguôi. Suốt trong ba thời, họ đều chẳng có an lạc. Đây cũng như có người cho rằng quần áo và thức ăn là vui sướng. Vì vậy, họ ở trong nhọc nhằn mà lầm tưởng là vui sướng.
Cho nên chư Phật đã dạy:
“Khắp ba cõi không an và đều là khổ ách.”
Phàm phu do điên đảo mê muội nên mới lầm tưởng mà cho là an vui.
45. KẺ ĐẦY TỚ GIỮ CỬA
Thuở xưa có một người sắp phải đi xa.
Ông dặn dò kẻ nô bộc rằng:
“Hãy trông chừng cửa ngõ kỹ càng, cũng như trông chừng con lừa và sợi dây.”
Sau khi chủ nhà đi vắng, đúng lúc ấy ở nhà hàng xóm có âm nhạc ca xướng. Kẻ đầy tớ háo hức muốn đi nghe và gã chẳng thể nào kiềm lòng cho được. Thế là hắn buộc sợi dây vào cánh cửa, rồi bỏ lên lưng con lừa, và đèo chúng đến chỗ nhộn nhịp để nghe âm nhạc. Lúc nô bộc đi rồi, tài vật trong nhà bị giặc lấy hết trơn hết trọi.
Khi chủ nhà trở về, ông hỏi hắn rằng:
“Tài bảo của ta đâu hết rồi?”
Kẻ đầy tớ liền đáp rằng:
“Dạ thưa, trước đó lão gia chỉ dặn là phải canh chừng cửa ngỏ, con lừa, và sợi dây. Mấy việc khác con hoàn toàn không biết.”
Chủ nhà lại nói rằng:
“Ta căn dặn ngươi trông chừng cửa nẻo, cốt ý là để canh giữ tài vật. Giờ thì tài vật đã mất, ngươi còn trông giữ cánh cửa để làm gì!”
Kẻ ngu ở chốn sanh tử, họ làm nô bộc cho ái dục thì cũng như thế. Như Lai dạy họ phải luôn canh giữ cửa của các căn và chớ dính mắc vào sáu trần. Hãy trông chừng con lừa vô minh và sợi dây ái dục. Thế nhưng có những Tỳ-kheo không vâng lời Phật dạy mà tham cầu lợi dưỡng. Họ giả vờ ngồi tĩnh tọa để tỏ ra vẻ thanh tịnh, nhưng thực tế thì tâm ý rong đuổi theo năm dục. Và thế là, họ bị sắc thanh hương vị xúc pháp não loạn, bị vô minh che mờ tâm trí, và bị sợi dây ái dục siết trói. Thế nên, chánh niệm giác ý và tài bảo của các Phẩm Trợ Đạo thảy đều tiêu mất.
46. ĂN TRỘM MAO NGƯU
Thuở xưa có một nhóm người ở làng nọ cùng bắt trộm một con trâu để ăn thịt.
Người mất trâu lần theo vết mà tìm đến ngôi làng đó, rồi gọi hỏi người trong ấy rằng:
“Các người sống ở tại làng này à?”
Nhóm người trộm trâu trả lời:
“Ở đây thật chẳng có làng nào cả.”
Lại hỏi rằng:
“Ở trong làng này có một cái hồ. Các người đã cùng nhau bắt ăn thịt một con trâu ở cạnh bờ hồ đó phải không?
Đáp rằng:
“Làm gì có hồ nào ở đây chứ.”
Lại hỏi rằng:
“Ở bờ hồ có một cái cây phải không?”
Đáp rằng:
“Ở đây chẳng có cây nào hết.”
Lại hỏi rằng:
“Lúc ăn trộm trâu, các người đang ở bên hướng đông của ngôi làng này phải không?”
Đáp rằng:
“Nơi này không có hướng đông.”
Lại hỏi rằng:
“Khi các người ăn trộm trâu, lúc đó là giữa trưa đúng không?”
Đáp rằng:
“Ở đây chẳng có giữa trưa.”
Lại hỏi rằng:
“Cho dù có thể là không có làng và không có cây đi nữa, nhưng làm sao ở dưới thiên hạ này mà lại không có phương hướng và thời gian? Đây rõ ràng là các người đang nói dối. Tôi quyết không tin đâu. Vậy rốt cuộc là các người có trộm con trâu của tôi để ăn thịt hay không?”
Đáp rằng:
“Vâng, thật sự chúng tôi đã ăn thịt con trâu của anh.”
Những kẻ phá giới thì cũng như thế. Họ giấu giếm tội lỗi và chẳng chịu thừa nhận, nên khi chết họ phải vào địa ngục. Nhưng với thiên nhãn quán soi của chư thiên thiện thần, họ chẳng thể nào che giấu được. Đây cũng như nhóm người kia đã ăn thịt trâu, cuối cùng họ chẳng thể nào chối cãi vậy.
47. KẺ NGHÈO GIẢ TIẾNG KÊU CỦA CHIM UYÊN ƯƠNG
Thuở xưa ở một nước ngoài nọ, dân chúng đang ăn mừng một ngày lễ lớn của họ. Tất cả phụ nữ đều lấy hoa sen xanh cài lên tóc.
Khi ấy có một cô vợ nói với anh chồng nghèo nàn của mình rằng:
“Nếu anh có thể tìm được hoa sen xanh về đây cho em, thì em vẫn là vợ của anh, bằng không em sẽ bỏ anh đó.”
Trước đây, anh chồng này rất khéo có thể giả tiếng kêu của chim uyên ương. Thế là hắn lén vào trong ao của nhà vua và giả tiếng kêu của chim uyên ương để ăn cắp hoa sen xanh.
Chợt nghe có tiếng động, lính gác hô lớn mà hỏi rằng:
“Ai ở trong ao?”
Kẻ nghèo này lỡ miệng trả lời:
“Tôi là chim uyên ương.”
Lính gác liền tóm bắt và dẫn đến chỗ của vua. Trên đường đi, kẻ nghèo lại giả tiếng kêu của chim uyên ương.
Lính gác mới nói rằng:
“Hồi nãy sao không kêu, giờ kêu có ích gì?”
Những kẻ ngu ở thế gian thì cũng như thế. Suốt đời họ tàn hại người khác và làm những nghiệp ác. Họ chẳng chịu điều chỉnh tâm hạnh để làm việc lành.
Cho đến khi sắp mạng chung mới nói rằng:
“Bây giờ tôi muốn tu thiện.”
Thế nhưng ngục tốt vẫn lôi họ đến trước Diêm Vương. Cho dù bây giờ họ muốn tu thiện thì cũng quá trễ rồi. Đây cũng như kẻ ngu kia đã bị giải đến gặp quốc vương mà vẫn giả tiếng kêu của chim uyên ương vậy.
48. DÃ CAN BỊ NHÁNH CÂY GÃY RỚT TRÚNG
Thuở xưa có một con dã can nằm nghỉ ở dưới gốc cây. Khi làn gió thổi qua, cành cây rớt trúng trên lưng của nó. Con dã can liền nhắm mắt và chẳng muốn nhìn cây nữa. Sau đó, nó bỏ đi đến chỗ đất trống và cho đến trời sập tối nó cũng chẳng thèm trở lại.
Khi ấy từ nơi xa xa, con dã can thấy gió thổi cành lá của cây to kia dao động lên xuống.
Thế là nó liền bảo rằng:
“A, chắc là cây đang gọi mình trở về đó!”
Những đệ tử ngu si thì cũng như thế. Sau khi đã xuất gia, họ được gần gũi với bậc sư trưởng. Nhưng chỉ với sự quở trách nho nhỏ, họ lập tức bỏ đi. Thời gian sau, họ gặp phải kẻ xấu ác và bị chúng não loạn không ngừng. Tới lúc đó, họ mới nghĩ quay về. Đi đi về về như vậy thật là ngu muội.
49. CON NÍT TRANH LUẬN VỀ CHÙM LÔNG
Thuở xưa có hai đứa bé lặn xuống sông vui chơi. Ở dưới đáy sông, chúng lấy được một chùm lông.
Một đứa trẻ nói rằng:
“Đây là râu của ông tiên.”
Đứa trẻ khác bảo:
“Đây là lông của con gấu.”
Lúc bấy giờ ở ven sông có một tiên nhân. Do cứ tranh cãi không ngừng, thế nên hai đứa trẻ này đến chỗ của vị tiên nhân kia để giải trừ nghi ngờ. Khi ấy, vị tiên nhân kia liền lấy ít gạo và hạt mè bỏ vào trong miệng nhai, rồi nhổ vào trong tay.
Ông bảo bọn trẻ rằng:
“Đồ ở trong tay ta giống hệt như là phân của con công đó.”
Bởi vậy ai cũng biết rằng, vị tiên nhân này đã không trả lời câu hỏi được đặt ra.
Những kẻ ngu ở thế gian thì cũng như thế. Khi bàn luận giáo Pháp, họ hí luận các pháp và không trả lời đúng chân lý. Đây cũng như vị tiên nhân kia đã không trả lời câu hỏi được đặt ra và phải bị mọi người cười chê. Nói khoác lác hư ngụy thì cũng vậy.
50. THẦY THUỐC CHỮA TRỊ GÙ LƯNG
Thuở xưa có một người thình lình bị gù lưng và đến xin thầy thuốc chữa trị. Trước tiên, thầy thuốc thoa dầu vào chỗ lưng gù, rồi lấy hai miếng gỗ kẹp lại chỗ đó và dùng sức ép thật mạnh. Ngờ đâu, việc ấy đã khiến cặp mắt của bệnh nhân lồi ra ngoài.
Những kẻ ngu ở thế gian thì cũng như thế. Vì muốn giàu sang, họ dùng đủ mọi thủ đoạn phi pháp để làm ăn buôn bán. Tuy việc đó có thể sẽ thành công, nhưng tài lợi kiếm được chẳng đủ bù đắp cho việc đã tổn hại. Trong tương lai, họ sẽ đọa địa ngục. Đây cũng dụ như cặp mắt của kẻ gù lưng bị lồi ra ngoài vậy.
51. NĂM NGƯỜI MUA CHUNG MỘT NỮ TỲ ĐỂ CÙNG SAI LÀM VIỆC
Thuở xưa có năm người mua chung một nữ tỳ.
Có một người trong bọn họ bảo tớ gái đó rằng:
“Hãy đem quần áo của ta đi giặt.”
Một người khác cũng lại bảo đi giặt quần áo.
Tớ gái nói với người đó rằng:
“Tôi sẽ giặt cho ai đem quần áo đến trước.”
Kẻ đến sau nổi giận và quát rằng:
“Ta cùng với mấy người trước đồng mua ngươi về. Sao ngươi chỉ phục vụ riêng cho một người?”
Thế là liền quất mười roi. Sau đó, bốn người còn lại cũng thế. Ai nấy đều đánh tớ gái mười roi.
Năm uẩn thì cũng vậy. Chúng là nhân duyên của phiền não và hợp lại để làm thành thân này. Thế nhưng năm uẩn này luôn quất đòn chúng sanh với vô lượng khổ não của sanh già bệnh chết.
52. NHẠC CÔNG KHẢY ĐÀN
Thuở xưa có một nhạc công khảy đàn ở trước quốc vương và trước đó nhà vua cũng hứa là sẽ thưởng 1.000 đồng tiền. Khi tấu xong, kẻ ấy hỏi về số tiền thưởng, nhưng nhà vua không chịu đưa.
Nhà vua bảo rằng:
“Ngươi tấu nhạc chỉ làm trẫm tạm vui một lát. Cho nên, dù trẫm cho tiền thì cũng chỉ làm ngươi tạm vui một lát mà thôi.”
Quả báo của thế gian thì cũng như thế. Ở nhân gian hoặc trên trời, dẫu có thọ hưởng một chút vui sướng nhưng nó cũng chẳng có thật. Sự vô thường và hoại diệt thì chẳng thể nào bền lâu. Đây cũng như người tấu nhạc làm cho nhà vua tạm thoáng vui vậy.
53. ĐÔI CHÂN ĐAU NHỨC CỦA SƯ PHỤ GIAO PHÓ CHO HAI ĐỒ ĐỆ
Thuở xưa có một vị thầy có hai đệ tử. Do đôi chân nhức nhối nên vị thầy sai hai đệ tử phải tùy thời xoa bóp và giao mỗi đứa một chân. Tuy nhiên hai đứa học trò này luôn ganh ghét đối phương. Một ngày nọ, nhân cơ hội đứa kia đi giải lao, đứa này liền lấy đá đập vào chân mà đứa kia đang xoa bóp. Lúc đứa đầu tiên quay lại, thấy vậy nên nổi giận và lại cầm đá đập vào chân của đứa thứ hai đang xoa bóp.
Có những người học Phật Pháp thì cũng như thế. Học giả Đại Thừa thì bài xích Nhị Thừa. Còn học giả Nhị Thừa thì lại bài xích Đại Thừa. Cho nên, họ khiến Đại Thánh Pháp điển của hai trường học phải suy vong.
54. ĐẦU RẮN VÀ ĐUÔI RẮN TRANH NHAU Ở PHÍA TRƯỚC
Thuở xưa có một con rắn.
Có một hôm, cái đuôi bảo đầu rắn:
“Mình phải ở phía trước.”
Đầu rắn bảo đuôi rằng:
“Tớ luôn ở phía trước. Sao bỗng dưng lôi thôi vậy hả?”
Nói rồi, đầu rắn vẫn thản nhiên đi về phía trước. Khi ấy đuôi rắn quấn chặt vào gốc cây và làm đầu rắn chẳng tài nào đi được. Và tới khi đuôi rắn giành đi trước, nó liền rơi xuống hầm lửa và bị thiêu chín mà chết.
Đây cũng tương tự như các trường hợp giữa thầy và trò.
Đệ tử nói rằng:
“Sư phụ đã già cả mà vẫn phải luôn cực nhọc chỉ dẫn. Đệ tử thì còn trẻ, thế nên hãy để cho con thống lãnh.”
Nhưng do lớp trẻ như vậy không trì giới luật mà lại còn phạm nhiều lỗi lầm, kết quả là họ cùng kéo nhau vào địa ngục.
55. MONG ĐƯỢC CẠO RÂU CHO VUA
Thuở xưa có một quốc vương có một vị thần thân tín. Ở trong quân trận, vị thần này đã xả mạng cứu giá nên khiến nhà vua được an toàn. Khi ấy nhà vua vô cùng hoan hỷ và muốn ban thưởng.
Nhà vua liền hỏi rằng:
“Khanh muốn cầu điều gì? Tất cả trẫm đều sẽ cho.”
Vị thần liền tâu rằng:
“Tâu đại vương! Khi đến lúc đại vương cần cạo râu, kính mong đại vương cho phép thần cạo.”
Nhà vua nói rằng:
“Nếu đây là ước nguyện của khanh, trẫm sẽ cho khanh mãn nguyện.”
Kẻ ngu như thế thật đáng bị người thế gian chê cười. Hắn đã có thể hỏi xin nửa giang sơn để thống trị, hoặc làm đại thần hay tể tướng–tất cả đều có thể được. Thế nhưng, gã chỉ mong được làm một việc thấp hèn.
Mấy kẻ ngu thì cũng vậy. Chư Phật đã ở trong vô lượng kiếp tu hành những khổ hạnh khó làm và sau đó mới thành Phật. Nếu ai gặp được Phật hoặc nghe được Pháp di giáo và cùng lúc có được thân người, thì cũng ví như con rùa mù mà gặp được một khúc gỗ có lỗ thủng đang trôi. Hai việc này rất khó tao ngộ, nhưng nay đã gặp được. Thế nhưng tâm ý của họ kém cỏi, phụng trì một ít giới mà cho là đủ và chẳng cầu tịch diệt. Trong lòng cũng không tiến cầu diệu Pháp thù thắng. Họ tự mình hành tà sự mà cho là đã đủ.
56. ĐÒI CÁI KHÔNG
Thuở xưa có hai người đang đi chung trên đường và chợt thấy có một kẻ đang hì hục đẩy cỗ xe chở hạt mè ra khỏi ổ gà, nhưng vẫn không sao ra được.
Khi ấy, gã kéo xe gọi hai người kia rằng:
“Xin hãy phụ tôi đẩy cỗ xe này ra khỏi ổ gà đi các anh!”
Hai người kia hỏi rằng:
“Vậy anh sẽ cho cái gì?”
Gã kéo xe trả lời:
“Tôi sẽ cho các anh cái không!”
Lúc đó hai người này liền phụ đẩy cỗ xe đến chỗ đất bằng phẳng.
Sau đó họ nói với gã kéo xe rằng:
“Hãy cho chúng tôi cái gì đi nào.”
Gã kéo xe đáp rằng:
“Chỉ có cái không thôi.”
Có một người lại nói rằng:
“Vậy hãy cho chúng tôi cái không đi.”
Ở trong hai người họ, có một người vừa cười mà nói rằng:
“Hắn đâu có thể cho được, sao phải buồn chứ?”
Người kia trả lời:
“Hắn nói là sẽ cho chúng ta cái không. Chắc phải có cái không chứ.”
Người đời nói cái không. Đó là do hai chữ ghép lại. Nó chỉ là giả danh. Nếu kẻ phàm phu thế tục chấp cái không thì sẽ sanh vào Vô Sở Hữu Xứ.
Người trí nói cái không. Đó chính là không, vô tướng, và vô nguyện.
57. ĐẠP MIỆNG ÔNG TRƯỞNG GIẢ
Thuở xưa có một đại phú trưởng giả. Những kẻ đi theo vì muốn lấy lòng nên đều hết mực cung kính. Hễ khi ông trưởng giả khạc nhổ, mấy kẻ ở cạnh liền dùng chân chà lên. Trong số đó cũng có một kẻ ngu đi theo, nhưng chẳng tài nào chà kịp.
Thế là hắn nghĩ như vầy:
“Lúc mới vừa nhổ xuống đất thì đã bị mấy kẻ kia chà rồi. Lần sau khi ngài muốn khạc nhổ, mình phải tranh thủ chà trước mới được.”
Rồi đến lúc ông trưởng giả sắp khạc nhổ, kẻ ngu này liền đưa chân đạp miệng ông trưởng giả, khiến làm dập môi và gãy mấy cái răng.
Ông trưởng giả quát kẻ ngu rằng:
“Sao mày đạp vào miệng của ta hả?”
Kẻ ngu trả lời:
“Dạ thưa, khi ông vừa mới nhổ nước miếng xuống đất thì mấy kẻ nịnh cạnh bên liền chà đi mất. Tuy con muốn chà nhưng luôn luôn chẳng kịp. Cho nên con nghĩ, nếu khi ông sắp khạc nhổ mà con đưa chân đạp trước thì sẽ làm ông hài lòng biết cỡ nào.”
Phàm làm việc gì thì phải biết thời điểm. Thời điểm chưa đến mà miễn cưỡng ra công sức, ngược lại sẽ chuốc lấy khổ não. Bởi vậy, người sống trên đời phải biết khi nào đúng lúc và khi nào không đúng lúc.
58. HAI ANH EM CHIA GIA TÀI
Thuở xưa ở nước Lực Sĩ có một gia tộc thuộc dòng dõi quý tộc. Người cha lâm bệnh trầm trọng và biết nhất định sẽ chết.
Ông căn dặn hai đứa con:
“Sau khi cha chết, hai con hãy khéo phân chia tài sản cho công bằng.”
Sau khi người cha qua đời, hai người con vâng lời dạy và chia làm hai phần. Thế nhưng người anh phàn nàn là đứa em đã phân chia không công bằng.
Lúc bấy giờ có một lão già hồ đồ xúi bậy rằng:
“Ta sẽ dạy cậu làm sao phân chia cho công bằng. Các tài vật hiện giờ, cậu hãy phá làm hai phần. Phải phá làm thế nào? Ví dụ, y phục thì cắt làm đôi. Mâm đựng hoặc chai lọ cũng đập vỡ ra làm đôi. Có bao nhiêu chén bát thì cũng đập vỡ ra làm đôi. Tiền cũng xé ra làm đôi. Tất cả mọi tài vật khác như thế cũng đều phá ra làm đôi như vậy.”
Cách phân chia tài vật như thế thật đáng bị người chê cười.
Đây cũng như có hàng ngoại đạo chỉ nghiêng tu về Phân Biệt Đáp Luận Môn để trả lời cho mọi câu hỏi.
Thế nhưng Luận Môn có bốn loại:
[1] Quyết Định Đáp Luận Môn, tức trả lời tuyệt đối. Ví dụ: “Tất cả mọi người đều phải chết.”
[2] Phân Biệt Đáp Luận Môn, tức trả lời riêng rẽ. Ví dụ, nếu có ai hỏi rằng: “Người chết sẽ thọ sanh hay không?” Câu hỏi này nên trả lời riêng rẽ như vầy: “Ai đã tận trừ ái dục thì sẽ không còn sanh; ai có ái dục thì ắt phải thọ sanh.”
[3] Phản Vấn Đáp Luận Môn, tức đảo ngược câu hỏi và câu trả lời. Ví dụ, nếu có ai hỏi rằng: “Loài người có phải là tối thắng không?” Câu hỏi này có thể hỏi ngược như sau: “Anh hỏi đối với ba đường ác hay là chư thiên? Nếu hỏi đối với ba đường ác, thì loài người đích thật là tối thắng; nhưng nếu hỏi đối với chư thiên, thì loài người quả thật chẳng bằng.”
[4] Trí Đáp Luận Môn, tức không trả lời câu hỏi. Ví dụ, nếu có ai hỏi một trong 14 loại câu hỏi khó, như là: “Thế giới có giới hạn hay không giới hạn, hoặc chúng sanh có thỉ có chung hay vô thỉ vô chung?”
Hàng ngoại đạo ngu si nhưng tự cho có trí tuệ. Họ phá chia bốn loại Luận Môn ra mà chỉ dùng độc nhất Phân Biệt Đáp Luận Môn. Đây cũng như kẻ ngu bày cách phân chia tài sản, bằng cách phá chúng ra làm đôi vậy.
59. XEM CÁCH LÀM LỌ GỐM
Thuở xưa có hai người đi ngang qua chỗ của người thợ gốm và thấy chân họ đạp xoay bánh, còn tay thì nặn uốn lọ gốm. Hai người đó nhìn hoài mà không chán. Hồi lâu sau, một người phải rời khỏi để đi dự đại hội. Người ấy không những được dùng các món ngon tuyệt hảo mà còn được tặng trân bảo. Người kia thì ở lại để xem cách làm lọ gốm.
Hắn thầm nghĩ:
“Mình phải ráng đợi xem cho đến khi làm xong.”
Và dần dần như thế, hắn ngồi xem cho đến khi mặt trời lặn mà cái lọ vẫn chưa làm xong. Y đã bỏ lỡ các món ngon và trân bảo đáng được có.
Đây cũng như mấy kẻ ngu. Họ lo bận bịu việc nhà mà chẳng biết gì về lẽ vô thường.
Hôm nay tính việc này
Ngày mai tạo nghiệp kia
Chư Phật rồng lớn hiện
Tiếng sấm rền thế gian
Mưa Pháp không chướng ngại
Vướng duyên nên chẳng nghe
Chẳng biết chết ập đến
Bỏ lỡ chư Phật hội
Không được Pháp trân bảo
Luôn ở đường ác khổ
Từ bỏ rời Chánh Pháp
Do xem lọ gốm kia
Đến cuối chẳng được gì
Cho nên mất Pháp lợi
Vĩnh viễn không giải thoát
60. THẤY BÓNG VÀNG DƯỚI ĐÁY NƯỚC
Thuở xưa có một chàng ngốc đi đến một cái ao lớn và chợt thấy bóng vàng ròng ở dưới đáy nước.
Hắn liền hô:
“Có vàng!”
Thế là hắn liền nhảy xuống nước và khuấy bùn tìm kiếm. Hắn lục lạo một hồi đến mệt lả người mà chẳng thấy gì, nên đành trở lên bờ và ngồi ở chỗ cũ. Một lát sau, nước trong như cũ và lại hiện sắc vàng. Thế là hắn lại vào trong nước và khuấy bùn tìm một lần nữa, nhưng cũng chẳng thấy gì hết. Đến lúc này, người cha đi tìm con đã tới.
Khi thấy con mình như thế, ông hỏi đứa con rằng:
“Con làm gì mà mệt nhoài ra thế?”
Đứa con thưa với cha rằng:
“Ở dưới đáy nước có vàng ròng đó cha. Nãy giờ con lặn xuống nước và khuấy bùn tìm đến mệt lả người nhưng cũng chẳng thấy gì.”
Khi nhìn xuống đáy nước, người cha thấy cái bóng vàng ròng. Ông biết rằng số vàng này nằm ở trên cây, còn ở dưới đáy nước chỉ là bóng hiện mà thôi.
Người cha bảo:
“Chắc là do con chim nào đó ngậm số vàng này rồi bỏ ở trên cây.”
Đứa con liền nghe theo lời cha và quả nhiên đã tìm được vàng ở trên cây.
Phàm phu người ngu si
Vô trí cũng như vậy
Ở trong vô ngã uẩn
Khởi sanh có ngã tưởng
Như kẻ thấy bóng vàng
Cực nhọc mà kiếm tìm
Chuốc khổ được gì đâu
61. ĐỆ TỬ CỦA PHẠM THIÊN MUỐN TẠO VẠN VẬT
Các Phạm Chí đều nói Đại Phạm Thiên Vương là cha của thế gian và có quyền năng sáng tạo vạn vật. Đấng sáng tạo vạn vật có một đệ tử. Anh ta nói rằng y cũng có khả năng sáng tạo vạn vật. Kẻ đó tự cho mình có trí tuệ. Thật quả là ngu si.
Gã thưa với Phạm Thiên rằng:
“Con muốn tạo ra vạn vật.”
Vua Phạm Thiên bảo rằng:
“Chớ khởi ý nghĩ đó. Con không thể nào làm được.”
Thế nhưng hắn chẳng nghe lời của Phạm Thiên và vẫn muốn tạo vạn vật.
Sau khi thấy những vật mà kẻ đệ tử này đã tạo ra, Phạm Thiên liền bảo rằng:
“Con làm cái đầu thì quá bự mà làm cái cổ thì quá nhỏ. Lại làm bàn tay thì cực lớn mà làm cánh tay thì cực nhỏ. Còn làm cái chân thì tí ti mà gót chân thì to đùng. Tạo vật như thế với quỷ hút tinh khí có khác là bao.”
Cho nên thông qua nghĩa lý này thì phải hiểu rằng, nghiệp của mỗi người là do chính mình tạo chứ không phải là quyền năng của Phạm Thiên.
Chư Phật thuyết Pháp để dạy chúng sanh đừng chấp vào nhị biên: đừng chấp đoạn và cũng đừng chấp thường. Đạo lý này có thể tìm thấy ở Tám Chánh Đạo. Ngược lại, hàng ngoại đạo thấy cái này là đoạn diệt, cái kia là thường hằng, rồi khởi sanh chấp trước, dối gạt người thế gian, và bày làm các hình tượng. Những điều họ nói, thật chẳng đúng với Phật Pháp.
62. BỆNH NHÂN ĂN THỊT CHIM TRĨ
Thuở xưa có một người bị bệnh nguy kịch. Sau khi chẩn đoán, lương y bảo rằng phải luôn ăn thịt của một con chim trĩ thì mới có thể lành. Thế là người bệnh này đến chợ và mua được một con chim trĩ. Sau khi đã ăn hết, từ đó trở đi hắn không ăn thêm nữa.
Một thời gian sau, thầy thuốc đến gặp và hỏi rằng:
“Bệnh của anh đã khỏi chưa?”
Bệnh nhân trả lời:
“Trước đó ngài bảo tôi phải luôn ăn thịt chim trĩ. Cho nên sau khi đã ăn hết nguyên một con chim trĩ, tôi không còn dám ăn nữa.”
Thầy thuốc lại nói rằng:
“Nếu trước đó anh đã có thể ăn hết nguyên một con chim trĩ, tại sao lại không ăn tiếp chứ? Chẳng lẽ anh nghĩ rằng chỉ ăn thịt của một con chim trĩ thôi mà mong được lành bệnh à?”
Hết thảy ngoại đạo thì cũng lại như vậy. Họ nghe chư Phật và Bồ-tát là những bậc lương y vô thượng, và đã dạy rằng: hãy liễu giải cái tâm thức này. Tuy nhiên, hàng ngoại đạo vẫn chấp vào cái thấy thường hằng. Họ cho là quá khứ, hiện tại, cùng vị lai, rằng duy chỉ có tâm thức là không bao giờ đổi dời. Đây cũng như kẻ ngu chỉ ăn một con chim trĩ vậy. Thế nên, những chứng bệnh ngu muội và phiền não của họ chẳng thể nào chữa trị.
Với đại trí tuệ, chư Phật dạy các ngoại đạo phải trừ bỏ cái thấy thường hằng của họ. Đó là bởi tất cả mọi pháp đều có sự sanh diệt trong từng niệm. Nếu vậy thì sao chỉ có riêng tâm thức là không biến đổi? Đây cũng như vị thầy thuốc thế gian kia, ông bảo phải ăn thêm thịt trĩ thì mới được lành bệnh.
Phật cũng giống như vậy. Ngài giáo hóa các chúng sanh để khiến họ được giải thoát, và dạy rằng: các pháp có hư hoại nên chúng chẳng thường hằng, các pháp có tiếp nối nên chúng chẳng đoạn diệt. Một khi ai đã thấu hiểu thì chứng bệnh của cái thấy thường hằng sẽ lập tức diệt trừ.
63. NGHỆ NHÂN MẶC ĐỒ HÓA TRANG QUỶ BẠO ÁC KHIẾN AI NẤY HOẢNG SỢ
Thuở xưa ở nước Hương Lâm có một đoàn hát. Nhân do gặp thời đói kém, họ phải bỏ đến nước khác để kiếm ăn. Trên đường đi, họ phải leo qua núi Pala. Nhưng ở trong núi này được biết là có rất nhiều ác quỷ và quỷ bạo ác ăn thịt người.
Do trời lúc ấy đã tối, các nghệ nhân nhóm lửa lên và cùng nằm ngủ qua đêm giữa núi rừng gió lạnh. Khoảng nửa đêm, ở trong chúng nghệ nhân có một người do quá lạnh, anh ta trùm đại đồ hóa trang giả quỷ bạo ác vào, rồi ngồi ở đống lửa để sưởi ấm. Lúc đó có một người bạn đồng hành thức dậy từ trong giấc ngủ, và bất chợt thấy ở bên đống lửa có một con quỷ bạo ác. Bởi chẳng chịu nhìn cho kỹ, anh ta hốt hoảng bỏ chạy và đã làm kinh động mọi người. Khi chợt trông thấy, ai nấy đều chạy bạt mạng. Khi ấy kẻ mặc y phục giả làm quỷ bạo ác cũng không biết chuyện gì đã xảy ra, nên hắn cũng đuổi chạy theo mọi người.
Khi chúng nghệ nhân nhìn thấy hình dáng kia đuổi theo ở đằng sau và cho là nó muốn gây hại, họ càng kinh sợ gấp bội. Họ băng sông vượt núi và nhảy qua hầm hố, khiến thân thể tổn thương và mệt mỏi kiệt quệ. Mãi cho đến trời sáng, họ mới biết đó không phải là quỷ.
Hết thảy phàm phu thì cũng như thế. Ở giữa chốn phiền não, họ đói khát Pháp lành và muốn đi xa để cầu Pháp thực vô thượng của thường lạc ngã tịnh. Tuy nhiên ở trong năm uẩn, họ bám chấp nơi ngã. Do bởi thấy chúng có ngã, họ trôi theo dòng sanh tử và bị phiền não truy đuổi. Do chẳng được tự tại, họ rớt xuống hầm hố của ba đường ác. Mãi cho đến trời sáng dụ cho đêm tối của sanh tử đã hết. Khi có trí tuệ minh liễu, thì họ mới biết rằng năm uẩn thật chẳng có ngã.
64. MỌI NGƯỜI ĐỒN TRONG NGÔI NHÀ CÓ ÁC QUỶ
Thuở xưa có một ngôi nhà mà dân chúng đồn là ở trong đó thường có ác quỷ. Cho nên mọi người đều sợ hãi và chẳng ai dám ngủ nghỉ gì ở trong ngôi nhà đó. Bấy giờ có một người khoe là mình có can đảm ghê gớm.
Gã nói rằng:
“Tôi muốn ngủ một đêm ở trong ngôi nhà đó.”
Ngay tối ấy, y vào ngôi nhà đó để ngủ. Tình cờ trong ngày ấy cũng có một người khác. Anh ta cho mình còn dũng cảm hơn cả người trước nữa. Sau khi nghe mọi người đồn là ở trong ngôi nhà đó luôn có ác quỷ, hắn cũng muốn vào trong đó. Tối hôm ấy, trong lúc gã đang đẩy cửa trước để vào, thì lúc bấy giờ, kẻ vào trước cho là quỷ nên liền đè cửa lại. Kẻ đến sau không mở cửa được nên càng tin chắc là quỷ. Thế là hai người này cứ giằng co mãi cho đến khi trời sáng, rồi mới thấy đối phương chẳng phải là quỷ.
Hết thảy người đời thì cũng như thế. Do nhân duyên hội đủ nên mới tạm được thân này, nhưng thật ra nó chẳng phải là ông chủ. Hãy phân tích tỉ mỉ, bản ngã này là ai? Tuy nhiên, do các chúng sanh suy tính đúng sai nên mới khởi sanh tranh tụng. Đây cũng như hai kẻ kia vậy–không chút sai khác.
65. 500 VIÊN THUỐC BỔ DƯỠNG
Thuở xưa có một người đàn bà hoang dâm vô độ. Chẳng những lòng dâm dục hẫy hừng mà còn rất căm ghét chồng mình. Mỗi ngày, người đàn bà này đều nghĩ mọi mưu kế để giết chồng, song thảy đều thất bại. Đúng lúc người chồng được sai đến nước láng giềng để làm sứ giả, người đàn bà này âm thầm mưu tính và làm những viên thuốc độc để hòng giết hại chồng.
Bà nói lời phỉnh gạt với chồng rằng:
“Nay anh phải đi xa, em lo anh sẽ bị thiếu thốn. Hôm nay em đã làm xong 500 viên thuốc bổ dưỡng. Anh hãy mang theo để làm tư lương. Nếu trong lúc anh trên đường đến nơi tha phương mà cảm thấy đói bụng, thì anh nhớ lấy ăn nhé.”
Người chồng nghe lời và mang theo. Mặc dù đã đi qua biên giới nhưng người chồng vẫn chưa ăn viên nào. Lúc ấy là vào giữa đêm tối ở trong rừng, anh ta sợ có thú dữ nên đã leo lên cây và nghỉ đêm ở trên đó, nhưng lại bỏ quên bao thuốc bổ dưỡng ở dưới gốc cây. Ngẫu nhiên cũng ở đêm đó, có 500 tên cướp đã trộm 500 con ngựa cùng vật báu từ quốc vương của nước kia, rồi cũng dừng nghỉ ngay ở dưới gốc cây này. Do bọn cướp bỏ chạy gấp rút nên ai nấy đều đói khát và kiệt sức. Khi thấy ở dưới gốc cây có bao thuốc bổ dưỡng, bọn giặc cướp chia mỗi đứa một viên và lấy ăn. Do độc tánh của thuốc cực mạnh nên chẳng mấy chốc, 500 tên giặc đều thiệt mạng.
Lúc trời sáng, khi người leo ngủ trên cây thấy bọn giặc đã chết ở dưới cây, anh ta dùng xảo kế, bằng cách lấy đao chém và lấy tên đâm vào tử thi. Sau đó, anh ta chất tài bảo lên lưng ngựa và dẫn chúng đi về hướng của nước kia.
Trong khi ấy, quốc vương của nước kia dẫn theo rất nhiều binh lính và lần theo manh mối để truy bắt bọn cướp.
Khi gặp người ấy ở giữa đường, nhà vua hỏi rằng:
“Ngươi là ai? Ngươi từ đâu mà có bầy ngựa này?”
Người kia tâu rằng:
“Muôn tâu đại vương! Thần là người ở nước ấy. Trên đường đi, thần gặp bọn giặc cướp này và đã cùng quyết chiến với bọn chúng. Hiện giờ, 500 tên giặc đó đều đã bị thần giết chết ở dưới gốc cây kia. Do bởi vậy, thần mới có được bầy ngựa và số trân bảo này để mang trả về cho quý quốc. Nếu đại vương không tin thì có thể sai người đến tra xét chỗ mà thần đã giết bọn giặc cướp này.”
Nhà vua liền sai người thân tín để đến tra xét và họ đã tìm thấy những việc đúng như lời của người đó kể. Khi ấy, nhà vua rất vui mừng và ngợi khen là việc chưa từng có.
Sau khi trở về nước kia, người ấy được vua ban chức tước trọng hậu, cho nhiều trân bảo, và được phong mấy làng ấp để cai quản.
Tuy nhiên, những cựu thần đều sanh lòng ganh ghét và tâu với vua rằng:
“Tâu đại vương! Đó là người từ phương xa và không thể tin cậy. Tại sao đại vương lại vội sủng mến, thậm chí phong tước trọng thưởng còn cao hơn các vị cựu thần nữa?”
Khi nghe những lời tâu đó, người từ phương xa nói rằng:
“Nếu ai có can đảm dám cùng với tôi so tài, thì xin hãy bước ra chỗ đất bằng phẳng. Tôi muốn được thọ giáo tài nghệ của quý vị.”
Khi ấy những cựu thần đều hoảng hốt và chẳng một ai dám khiêu chiến cả.
Về sau ở một nơi hoang dã của nước đó, có một con sư tử hung dữ giết hại người qua lại và nó đã cắt đứt tuyến đường đến hoàng cung.
Bấy giờ những cựu thần kia cùng thảo luận về việc này và họ nói rằng:
“Người từ phương xa kia tự cho là anh dũng và thách không ai có thể địch nổi. Nay nếu hắn có thể giết con sư tử đó để trừ hại cho quốc gia, thì mới công nhận là người kỳ đặc.”
Khi đã bàn tính như vậy rồi, họ trình tâu lên vua. Sau khi nghe tâu xong, nhà vua ban dao gậy cho người từ phương xa và ra lệnh phải thi hành ngay.
Khi nhận được sắc lệnh, ý chí của người từ phương xa càng vững vàng. Thế là anh ta tiến về hướng của con sư tử đang ở. Đương lúc con sư tử thấy anh ta, nó gầm hống dữ dội và phóng nhảy về phía trước. Bấy giờ người từ phương xa kinh hoàng và liền trèo lên cây. Khi ấy con sư tử há mồm và ngước đầu lên cây. Lúc đó, người kia do quá run sợ nên đã làm rớt thanh đao xuống dưới. Trùng hợp thay, thanh đao lọt ngay vào miệng của con sư tử và khiến nó chết tức khắc.
Lúc bấy giờ người từ phương xa vui mừng hớn hở, rồi quay về bẩm báo và đã làm cho nhà vua càng kính trọng bội phần. Kể từ ấy, toàn dân chúng ở trong nước kia đều kính phục và đồng ngợi khen anh ta.
[Trong câu chuyện này:]
– Những viên thuốc bổ dưỡng của người vợ, được dụ như sự bố thí bất tịnh.
– Vua sai làm sứ giả, được dụ như Thiện Tri Thức.
– Đến được nước khác, được dụ như chư thiên.
– Giết bọn giặc, được dụ như đắc Quả Nhập Lưu, bởi đã đoạn năm dục và các phiền não.
– Gặp quốc vương, được dụ như gặp được hiền thánh.
– Chúng quần thần sanh lòng đố kỵ, được dụ như các ngoại đạo khi thấy có người trí có thể đoạn trừ phiền não và năm dục, nên họ liền sanh lòng phỉ báng mà bảo rằng chẳng có việc đó.
– Người từ phương xa thách thức nhưng các cựu thần chẳng ai dám địch lại, được dụ như ngoại đạo chẳng dám kháng cự.
– Giết con sư tử, được dụ như phá chúng ma và đoạn trừ phiền não; khi chế phục ác ma thì liền được tâm không chấp trước và Đạo Quả phong thưởng.
– Thường hay khiếp sợ, được dụ như có thể lấy yếu chế mạnh.
Lúc ban đầu, mặc dù có người với tâm bất tịnh đi làm bố thí, nhưng do sự bố thí đó mà họ gặp Thiện Tri Thức nên được quả báo thù thắng. Bố thí bất tịnh mà còn được như thế, huống nữa là người với tâm lành mà hoan hỷ bố thí. Cho nên ở nơi phước điền, hãy hết lòng làm bố thí.
66. MIỆNG ĐỌC LÀU LÀU CÁCH LÁI THUYỀN NHƯNG THẬT RA CHẲNG BIẾT
Thuở xưa có một con trai của một ông đại trưởng giả. Y cùng với các thương nhân vào biển tìm trân bảo. Chàng thanh niên này rất giỏi đọc làu làu về phương pháp lái thuyền trên biển. Ví dụ, nếu vào trong biển mà gặp nước xoáy, đi ngược dòng, hoặc gặp đá ngầm, thì hãy lái như vầy, hãy làm như vầy, và hãy dừng như vầy.
Hắn nói với mọi người rằng:
“Những phương pháp lái thuyền trên biển, tôi đều biết hết.”
Khi mọi người nghe xong, ai nấy đều rất tin tưởng lời nói của y. Lúc thuyền ra khơi chưa được bao lâu, chẳng may thuyền trưởng lâm bệnh và đột ngột qua đời. Bấy giờ chàng trưởng giả tử liền nhận trách nhiệm lái thuyền.
Khi thuyền gặp dòng nước chảy xiết do nước xoáy tạo ra, hắn cứ lẩm bẩm trong miệng rằng:
“Hãy lái như vầy, phải làm như vầy!”
Thế là thuyền bị nước cuốn quay vòng và chẳng thể tiến về phía trước để đến nơi châu báu. Toàn bộ thương nhân trên thuyền đều bị nước dìm chết.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Họ biết một chút kiến thức về cách ngồi thiền, như là quán tưởng hơi thở và quán thân bất tịnh. Mặc dầu họ đọc văn tự nhưng chẳng hiểu nghĩa lý. Thật ra, họ chẳng biết gì về thiền cả. Thế nhưng, họ tự nói là mình đã thấu hiểu, rồi vọng truyền phương pháp tu thiền, khiến người tu theo đều mê loạn, đánh mất tâm tánh, điên đảo pháp tướng, và suốt cả bao năm mà chẳng đạt được gì. Đây cũng như kẻ ngu kia đã khiến người khác bị chìm đuối nơi biển cả vậy.
67. HAI VỢ CHỒNG ĐÁNH CƯỢC ĐỂ ĂN MIẾNG BÁNH
Thuở xưa có một cặp vợ chồng có được ba miếng bánh. Vợ chồng cùng chia cho mỗi người một miếng.
Đến lượt miếng bánh thứ ba còn dư lại, họ đánh cược với nhau rằng:
“Nếu ai mở miệng trước sẽ không được miếng bánh đó.”
Khi bắt đầu cá cược, chỉ vì một miếng bánh mà họ chẳng dám nói chuyện. Chẳng bao lâu sau đó, có một tên trộm lẻn vào nhà lấy cắp tài vật. Tuy hai vợ chồng đã thấy mọi thứ đều lọt hết vào trong tay của tên trộm, nhưng chẳng ai hé một lời. Khi tên trộm thấy chẳng ai nói gì, hắn liền tấn công cô vợ ở ngay trước mặt người chồng. Người chồng tuy thấy nhưng cũng chẳng lên tiếng.
Bấy giờ cô vợ la lên có trộm, rồi hét người chồng rằng:
“Sao ông ngu vậy? Chỉ vì một miếng bánh mà tuy thấy tên trộm nhưng cũng không la lên!”
Người chồng vỗ tay, cười và nói rằng:
“À ha! Bà thua rồi đó! Miếng bánh thuộc về tôi nhé. Tôi sẽ không cho bà miếng nào đâu!”
Khi mọi người nghe câu chuyện này, chẳng ai mà có thể nhịn được cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Chỉ vì một chút danh lợi mà họ giả vờ lặng câm. Khi bị phiền não hư giả và đủ mọi ác tặc xâm nhiễu, họ đều chẳng sợ mất Pháp lành, hoặc đọa ba đường ác, và cũng không cầu ra khỏi thế gian. Trái lại, họ đam mê vui chơi nơi năm dục; tuy gặp lắm ách khổ, nhưng vẫn không cho đó là hoạn nạn. Đây cũng như kẻ ngu kia vậy–không chút sai khác.
68. VÌ OÁN THÙ MÀ TÀN HẠI NHAU
Thuở xưa có một người buồn bực không vui vì hắn đang oán hận kẻ khác.
Khi ấy có người hỏi rằng:
“Sao nay anh lại buồn bực như vậy?”
Y liền trả lời:
“Có người nhục mạ tôi, nhưng sức của tôi thì chẳng thể trả thù. Tôi không biết làm cách nào để có thể báo thù đây nữa. Đó là lý do tại sao tôi buồn bã.”
Có người bảo rằng:
“Duy chỉ có chú khởi thi quỷ mới có thể hại hắn. Tuy nhiên, nó có một chút bất lợi. Trước khi hại người, anh phải tự hại mình trước.”
Khi nghe lời ấy xong, kẻ ấy mừng rỡ vô cùng mà nói rằng:
“Xin hãy dạy cho tôi đi. Dẫu chính tôi phải bị hại đi nữa, nhưng tôi vẫn mong hắn tổn thương.”
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Chỉ vì sân hận mà muốn cầu chú khởi thi quỷ để não hại kẻ khác. Nhưng còn chưa kịp hại người, thì trước đó đã bị sân hận hại ngược chính họ rồi, khiến phải đọa địa ngục, hoặc sanh làm ngạ quỷ hay bàng sanh. Đây cũng như kẻ ngu kia vậy–không chút sai khác.
69. BẮT CHƯỚC TỔ TIÊN ĂN NHANH
Thuở xưa có một người từ miền bắc của nước Thiên Trúc xuống miền nam sanh sống. Sau một thời gian ở đó khá lâu, anh ta cùng với một nàng con gái kết làm phu thê. Có một hôm, cô vợ dọn cơm nước cho chồng. Người chồng nuốt ăn lia lịa, bất chấp đồ ăn vẫn đang nóng hổi.
Khi ấy cô vợ ngạc nhiên và nói với chồng rằng:
“Ở đây chẳng có ai cướp giật thức ăn cả. Anh cần gì mà phải gấp rút dữ vậy? Sao không ăn từ từ cho ngon?”
Người chồng trả lời với vợ rằng:
“Đó là việc bí mật. Anh không thể nói cho em biết.”
Cô vợ nghe nói thế thì cho là có điều khác lạ, nên cứ năn nỉ hỏi mãi.
Một hồi lâu sau thì anh ta mới chịu giải thích:
“Tổ tiên của anh từ xưa đến nay có tục lệ là phải luôn ăn nhanh. Anh giờ cũng bắt chước, cho nên mới ăn nhanh vậy đó.”
Nhiều kẻ phàm phu ở thế gian thì cũng như thế. Do chẳng thông đạt nghĩa lý chân chánh và chẳng biết lành dữ, họ làm những việc quái gở mà chẳng hề xấu hổ. Họ bảo rằng tục lệ này là do cha ông đã truyền lại. Thế là họ vâng làm theo và cho đến lúc chết mà vẫn không thể rời bỏ. Đây cũng như kẻ ngu kia bắt chước tổ tiên ăn nhanh mà cho đó là một lối ăn tuyệt vời vậy.
70. NẾM TRÁI AMLA
Thuở xưa có một trưởng giả. Ông sai hạ nhân hãy cầm tiền đến trong vườn của người kia và mua về một số trái amla để ăn.
Ông căn dặn rằng:
“Hãy lựa những trái nào ngon ngọt thì mới mua về.”
Thế là hắn cầm tiền đi mua trái cây.
Khi ấy, chủ vườn nói rằng:
“Tất cả trái trên cây này của tôi đều rất ngon ngọt, chẳng có trái nào hư cả. Anh cứ nếm thử một trái thì sẽ đủ biết rồi.”
Kẻ mua trái cây nói rằng:
“Bây giờ tôi sẽ nếm thử từng trái, nếu được thì sau đó tôi mới lấy. Nhưng nếu chỉ nếm một trái thì làm sao biết được toàn bộ đây?”
Thế là hắn cầm mỗi trái và đều nếm qua hết, rồi mang chúng về nhà. Khi ông trưởng giả nhìn thấy những quả trái cây gớm ghiếc như thế, chẳng những đã không ăn trái nào mà còn đem chúng quăng bỏ hết.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Tuy họ nghe rằng, trì giới và bố thí sẽ được giàu sang, an vui, thân luôn bình an, và không gặp các hoạn nạn.
Thế nhưng họ chẳng chịu tin mà nói như vầy:
“Chỉ khi nào chính tôi trải nghiệm qua thì sau đó tôi mới tin rằng bố thí sẽ được phước.”
Ngay trước mắt ở hiện đời, họ thấy có người phú quý, có kẻ bần cùng. Đây đều là do nghiệp của đời trước nên nay mới thọ quả báo như vậy. Thế nhưng đối với Đạo lý nhân quả, họ ngờ vực chẳng tin và bảo là cần phải đích thân trải qua mới được. Rồi thì một mai chết đi, tài vật đều tan mất. Đây cũng như kẻ nếm thử những quả trái cây kia vậy–rốt cuộc, tất cả đều phải liệng bỏ.
71. CHỈ VÌ HAI BÀ VỢ MÀ KHIẾN ĐÔI MẮT BỊ MÙ
Thuở xưa có một người lấy hai cô vợ. Hễ anh ta gần gũi người này thì người kia nổi giận. Do chẳng thể nào giải quyết tình trạng này, khi ngủ, hắn nằm ở giữa hai bà vợ và mặt ngửa lên. Có một đêm trời mưa tầm tã, mái nhà bị dột. Khi ấy, nước với đất nhiễu xuống và rớt vào trong mắt, nhưng anh ta chẳng dám xoay đầu để tránh. Hậu quả là đã khiến cặp mắt phải bị mù.
Nhiều kẻ phàm phu ở thế gian thì cũng như thế. Họ gần gũi bạn xấu, rồi làm những việc phi pháp và kết tạo nghiệp ác. Sau khi chết, họ phải đọa ba đường ác và lưu chuyển mãi ở chốn sanh tử. Và như thế, họ đã đánh mất con mắt trí tuệ. Đây cũng như người chồng ngu si kia, chỉ vì hai bà vợ mà khiến đôi mắt bị mù vậy.
72. THÀ BỊ RẠCH MIỆNG CHỨ VẪN NGẬM GẠO
Thuở xưa có một chàng rể đến nhà của cha mẹ vợ. Khi thấy họ đang giã gạo, anh ta liền đến chỗ ấy, rồi lén bốc gạo và ngậm giấu ở trong miệng. Khi thấy chồng mình ở đó, cô vợ đi đến và muốn trò chuyện. Nhưng bởi trong miệng toàn là gạo nên y chẳng thể đáp. Anh ta lại sợ sẽ làm xấu hổ trước mặt vợ, nên chẳng chịu nhổ ra. Thấy chồng mình chẳng nói lời nào, cô vợ kinh ngạc. Cô vợ lấy tay sờ lên mặt xem sao thì tưởng rằng miệng của chồng bị sưng.
Thế là cô nói với cha cô rằng:
“Cha ơi! Chồng con vừa mới tới thì thình lình bị sưng miệng và chẳng thể nói năng gì được.”
Người cha lập tức cho gọi thầy thuốc đến chữa trị.
Sau khi xem, thầy thuốc bảo:
“Chứng bệnh này quá trầm trọng. Tôi phải dùng dao rạch thì mới có thể trị lành.”
Thế là thầy thuốc dùng dao rạch miệng của người chồng. Bấy giờ gạo rớt ra ngoài và câu chuyện bại lộ.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ làm những việc ác và vi phạm giới thanh tịnh, rồi che giấu tội lỗi của họ mà chẳng chịu phát lộ sám hối. Thế là họ phải đọa địa ngục, hoặc sanh làm ngạ quỷ hay bàng sanh. Đây cũng như kẻ ngu kia, chỉ vì sợ một chút xấu hổ mà chẳng chịu nhổ gạo ra. Mãi đến khi dùng dao rạch miệng thì lỗi lầm của y mới được phơi bày.
73. NÓI DỐI RẰNG NGỰA ĐÃ CHẾT
Thuở xưa có một người cưỡi một con ngựa màu đen xông ra trận đánh giặc. Do sợ hãi nên hắn không thể chiến đấu. Thế là y liền lấy máu dơ bôi lên mặt và giả vờ nằm chết ở giữa mấy xác chết. Trong khi ấy, ngựa của anh ta cưỡi bị kẻ khác đoạt mất. Sau khi quân lính thoái lui, hắn cắt cái đuôi của con ngựa màu trắng thuộc về người khác, rồi đem trở về nhà.
Khi về tới nhà, có người hỏi rằng:
“Con ngựa của anh đã cưỡi giờ ở đâu mà sao không cưỡi?”
Y trả lời:
“Con ngựa của tôi đã chết. Cho nên tôi mới cầm đuôi của nó đem về nè.
Những người xung quanh bảo rằng:
“Con ngựa của anh vốn màu đen, sao cái đuôi lại màu trắng chứ?”
Khi ấy gã im re không trả lời, và đã bị mọi người cười một trận.
Nhiều người ở thế gian thì cũng như thế. Họ tự khoe là mình tốt lắm, nào là thực hành lòng từ và không ăn thịt uống rượu. Thế nhưng họ giết hại chúng sanh và còn làm nhiều việc ác độc, rồi nói dối là mình hiền lành và không hề làm điều ác. Đây cũng như kẻ ngu kia đã nói dối là con ngựa đã chết vậy.
74. KẺ PHÀM PHU XUẤT GIA ĐỂ THAM CẦU LỢI DƯỠNG
Thuở xưa có một vị vua ban hành một sắc lệnh rằng, tất cả Phạm Chí ở trong nước này phải rửa ráy sạch sẽ và nếu ai không rửa ráy sạch sẽ thì sẽ bắt đi làm đủ mọi lao dịch. Khi ấy có một Phạm Chí luôn cầm một cái bình trống rỗng và giả vờ nói rằng mình đã rửa ráy sạch sẽ.
Khi có người đổ nước vào bình, thì ông ta liền đổ ra và còn nói thế này:
“Tôi không muốn rửa ráy sạch sẽ đâu. Có rửa thì nhà vua tự rửa đi. Bởi nếu ai trái ý vua thì sẽ bị bắt đi lao dịch, cho nên tôi mới nói dối là đã rửa ráy sạch sẽ, chứ thật ra không có rửa gì cả.”
Có những kẻ phàm phu xuất gia thì cũng như thế. Họ cạo đầu đắp y nhưng thật ra thì hủy phạm giới cấm, rồi giả vờ hiện ra vẻ trì giới để mong cầu lợi dưỡng. Họ làm ra vẻ giống như Sa-môn, nhưng thực tế đang lừa dối. Họ cũng như kẻ Phạm Chí kia, vì trốn lao dịch của vua nên cầm cái bình trống rỗng; họ chỉ có hình tướng bên ngoài mà thôi.
75. LẠC ĐÀ VÀ CÁI HŨ ĐỀU MẤT
Thuở xưa có một người dùng một cái hũ đựng lúa. Một hôm, có một con lạc đà đút đầu vào trong cái hũ đó để ăn lúa, nhưng nó lại không rút đầu ra được. Người kia đã thử hết mọi cách nhưng vẫn không thể lấy ra nên rất sầu khổ.
Bấy giờ có một ông già đi tới và bảo:
“Cậu chớ buồn nữa. Tôi sẽ dạy cậu lấy cái hũ ra. Cậu cứ làm theo cách của tôi nói thì sẽ lấy ra mau lắm. Cậu hãy chặt đầu con lạc đà thì cái hũ sẽ tự động ra được thôi.”
Người kia liền nghe theo lời nói của ông già và đã dùng dao chém đầu con lạc đà. Chẳng những y đã giết con lạc đà, mà trong quá trình ấy cũng đã làm vỡ cái hũ. Kẻ ngu si như vậy thật đáng bị người thế gian chê cười.
Kẻ phàm phu ngu si thì cũng như thế. Với lòng mong mỏi giác ngộ, họ chí cầu thánh Quả ở trong ba thừa. Đáng lẽ phải nghiêm trì giới cấm và không làm việc ác, tuy nhiên họ lại đắm chìm trong năm dục, rồi phá hủy tịnh giới. Khi đã phạm giới cấm, họ liền xả bỏ ba thừa, phóng túng tâm ý, và không việc ác nào mà chẳng làm. Kết quả là ba thừa lẫn tịnh giới đều xả bỏ. Đây cũng như kẻ ngu kia, cả lạc đà và cái hũ đều mất vậy.
76. ĐIỀN PHU MƠ TƯỞNG CÔNG CHÚA
Thuở xưa có một chàng nông phu lên kinh thành dạo chơi. Ở đó, hắn thấy qua một cô công chúa với diện mạo đoan chánh và nghĩ rằng nàng thật quý hiếm trên cõi đời. Và thế là từ đó, suốt ngày lẫn đêm gã nhung nhớ khôn nguôi. Hắn khắc khoải muốn làm quen với công chúa, nhưng do chẳng thể nào được, nên sắc mặt bỗng trở nên xanh xao và lâm bệnh trầm trọng.
Mọi người thân quen thấy vậy nên mới hỏi rằng:
“Tại sao lại đến nông nỗi này?”
Y trả lời rằng:
“Hôm qua tôi chợt trông thấy công chúa với nhan sắc xinh đẹp. Tôi mơ ước muốn làm quen với công chúa, nhưng do chẳng thể nào được nên tôi mới ngã bệnh. Nếu như chẳng được, chắc tôi sẽ chết mất.”
Các người thân bảo rằng:
“Chúng tôi sẽ tìm cách để cho cậu được gặp. Thôi chớ buồn nữa!”
Vài hôm sau, họ đến thăm và nói rằng:
“Chúng tôi đã tìm ra cách để cậu có thể gặp rồi, nhưng rất tiếc là công chúa không muốn.”
Khi gã nông phu nghe xong, hắn cười hớn hở và kêu lên rằng:
“Nhất định sẽ được mà!”
Đây cũng như mấy kẻ ngu ở thế gian. Họ chẳng phân biệt được mùa nào là xuân, hạ, thu, đông. Và thế là ở mùa đông, họ gieo hạt xuống đất và hy vọng sẽ có trái. Họ đã lãng phí biết bao công sức mà kết quả chẳng thu hoạch được gì. Mầm, thân, cành, và lá thảy đều mất sạch. Những người ngu muội ở thế gian chỉ tu tập một chút phước, nhưng nghĩ rằng đã đủ và cho là đã chứng đắc Phật Đạo. Đây cũng như kẻ nông phu kia mơ tưởng công chúa vậy.
77. VẮT SỮA LỪA
Thuở xưa ở vùng biên giới có một nhóm người chẳng hề biết gì về con lừa. Họ nghe người ta đồn rằng sữa lừa rất ngon. Tuy nhiên, không một ai biết gì về nó cả.
Lúc bấy giờ họ có được một con lừa đực và ai ai cũng muốn tranh nhau để vắt sữa của nó.
Ở trong bọn họ, có kẻ nắm giữ nào là đầu, tai, đuôi, chân, hoặc dương vật của nó. Ai nấy đều muốn có sữa để uống trước. Kẻ cầm giữ dương vật của con lừa thì hô là có thể lấy sữa từ nơi đó, nên hắn liền hì hục mà vắt. Cuối cùng, cả bọn chúng đều mệt rã rời nhưng chẳng ai vắt được gì. Không những họ đã tự chuốc khổ mà còn chẳng được gì. Thật là đáng bị hết thảy người đời cười chê.
Có những ngoại đạo và phàm phu thì cũng như thế. Họ nghe giảng rằng tu Đạo thì không nên khởi sanh tham cầu. Thế nhưng, họ lại nảy sanh vọng tưởng và khởi sanh đủ mọi tà kiến, như là lõa hình, nhịn đói, quăng mình xuống đá, hoặc lao đầu vào lửa. Bởi làm theo những tà kiến này, kết cuộc là phải đọa đường ác. Đây cũng như mấy kẻ ngu kia đã vọng cầu sữa ở nơi con lừa đực vậy.
78. CĂN DẶN CON ĐI SỚM
Thuở xưa có một người cha đã dặn dò con mình vào một buổi tối nọ:
“Ngày mai cha sẽ cùng với con đi đến ngôi làng kia để lấy một số đồ lặt vặt.”
Khi đứa con nghe lời ấy xong, rồi vào lúc hừng sáng, nó một mình đi đến chỗ kia mà chẳng báo cho người cha tiếng nào. Khi đã đến chỗ đó, không những thân thể mệt nhoài mà chẳng được gì. Lại không có đồ ăn nên phải chịu đói khát đến nỗi tưởng chừng như sắp chết. Thế là đứa con ráng lết về nhà gặp cha.
Khi thấy con đến, người cha quở trách thậm tệ:
“Con thiệt là ngu quá cỡ và chẳng có một chút lý trí. Tại sao không đợi cha? Con đến đó rồi quay về và chẳng được gì–chỉ tự chuốc khổ vào thân.”
Đứa con ngu muội ấy thật đáng bị hết thảy người đời chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Giả sử họ được xuất gia, cạo bỏ râu tóc, và mặc ba Pháp y. Thế nhưng, họ chẳng cầu bậc minh sư để tham vấn Đạo Pháp. Kết quả, họ đánh mất thiền định, công đức từ các Phẩm Trợ Đạo, và những diệu Quả của Sa-môn thảy đều mất sạch. Tuy có hình dáng của Sa-môn, nhưng thực tế thì họ chẳng có điều gì sở đắc. Đây cũng như đứa con ngu khờ kia, nó đến đó rồi quay về và chẳng được gì– chỉ tự chuốc khổ vào thân.
79. VÁC GHẾ CHO VUA
Thuở xưa có một quốc vương muốn vào trong vườn Vô Ưu để thưởng ngoạn vui chơi.
Vua ra lệnh cho một quần thần rằng:
“Khanh hãy kéo một cái ghế đến khu vườn đó để trẫm ngồi nghỉ.”
Khi ấy người đó cảm thấy xấu hổ với công việc này nên chẳng chịu kéo.
Thế là hắn tâu với nhà vua rằng:
“Tâu đại vương! Thần thà vác ghế trên lưng chứ thần không thể kéo nó đi.”
Lúc đó nhà vua liền bỏ 36 cái ghế trên trên lưng của kẻ kia và sai phải vác chúng đến trong vườn. Người ngu như vậy thật đáng bị người thế gian chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Nếu thấy một sợi tóc của người nữ ở trên đất, thì nói rằng họ đang trì giới nên chẳng chịu nhặt. Về sau khi bị phiền não làm mê muội, 36 thứ của thân thể, như là lông, tóc, răng, móng, hay phân với nước tiểu dơ dáy, thì họ chẳng cho là xấu xa. Chẳng những thế, họ còn luôn giữ chúng và không hề thấy xấu hổ, rồi mãi cho đến chết mà vẫn không thể xả bỏ. Đây cũng như kẻ ngu kia thà chịu vác ghế trên lưng vậy.
80. CHỮA TRỊ TÁO BÓN
Thuở xưa có một người bị bệnh ở hạ bộ.
Sau khi khám, thầy thuốc bảo rằng:
“Tôi cần áp dụng phương thức trị táo bón thì anh mới có thể lành.”
Nói xong, thầy thuốc lập tức đi kiếm dụng cụ để định bơm chất lỏng vào hậu môn của người bệnh. Trong lúc thầy thuốc đi chưa bao lâu, bệnh nhân lấy chất lỏng trị táo bón để uống, khiến bụng trương phình và hắn tưởng chừng như sắp chết.
Khi quay lại, thầy thuốc kinh ngạc nên liền hỏi rằng:
“Sao đến nông nỗi thế này?”
Người bệnh trả lời với thầy thuốc rằng:
“Hồi nãy tôi lấy loại thuốc đó để uống, cho nên mới bị như vậy.”
Khi nghe anh ta nói, thầy thuốc quở trách thậm tệ:
“Anh là kẻ ngu si quá mức. Sao không hiểu lý lẽ vậy!”
Thầy thuốc liền lấy loại thuốc khác để cho uống, khiến anh ta nôn mửa và sau đó cái bụng mới như xưa.
Kẻ ngu như thế thật đáng bị người đời chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Họ muốn tu học thiền quán với rất nhiều phương pháp, nhưng lại chẳng thông hiểu. Lúc nên quán thân bất tịnh thì họ lại quán tưởng hơi thở. Lúc nên quán tưởng hơi thở thì họ lại quán sáu giới [đất, nước, gió, lửa, hư không, và tâm thức]. Điên đảo trên dưới và không có căn gốc như vậy, nên phải bị khốn khổ, hoặc có thể mất đi thân mạng. Họ tu tập thiền pháp điên đảo, nhưng lại chẳng hỏi bậc minh sư. Đây cũng như kẻ ngu kia đã uống chất lỏng không sạch sẽ vậy.
81. BỊ GẤU CÀO CẤU
Thuở xưa có hai cha con cùng đi ngang qua gần một khu rừng. Trong lúc nghỉ ngơi, đứa con bỏ vào rừng và bị một con gấu cào cấu, khiến thân thể trầy xước khắp nơi. Nó chạy hớt hơ hớt hải ra khỏi rừng để trở về gặp cha. Khi người cha thấy con mình với thân thể đầy thương tích.
Ông sửng sốt và hỏi rằng:
“Sao con bị thương đến nông nỗi này?”
Đứa con lập bập nói với người cha rằng:
“Cha ơi! Có một con quái vật lông lá dài thườn thượt. Nó đã đến cào xé con.”
Nghe xong, người cha cầm cung tên đi vào rừng và thấy một vị tiên nhân với lông tóc dài lòng thòng. Thế là ông liền giương cung muốn bắn.
Khi ấy có người ở xung quanh bảo rằng:
“Tại sao lại muốn bắn ngài? Vị ấy chẳng có hại ai hết. Anh phải nên trừng trị kẻ phạm tội thì mới đúng.”
Đây cũng như mấy kẻ ngu ở thế gian. Khi bị nhục mạ bởi mấy kẻ tuy mặc quần áo của hàng tu sĩ nhưng thật chẳng có tu Đạo, thế là họ đi hại người lương thiện và bậc có đức độ một cách bừa bãi. Thí dụ này cũng giống như người cha kia, khi thấy con mình tổn thương, rồi nổi cuồng mà muốn gây hại ngay cả thần tiên vậy.
82. TRỒNG LÚA
Thuở xưa có một kẻ quê mùa đi đến cánh đồng nọ.
Khi thấy những cây lúa tẻ non mượt và sanh trưởng tươi tốt, nên y mới hỏi người trồng lúa tẻ rằng:
“Anh làm thế nào mà có thể khiến những cây lúa tẻ này tươi tốt dữ vậy?”
Chủ ruộng trả lời:
“Trước tiên, tôi san bằng đất đai, rồi bỏ phân và dẫn nước vào. Cho nên chúng mới được như thế.”
Kẻ kia liền y theo phương pháp đó. Gã cũng san bằng đất đai, bỏ phân và dẫn nước vào. Tuy nhiên, khi sắp gieo những hạt giống xuống đất, y sợ chân mình đạp lên đất bùn và sẽ khiến chúng không thể sanh trưởng.
[Hắn thầm nghĩ:]
“Mình sẽ ngồi trên một cái ghế và sai người khiêng nó đi, còn mình thì ở trên đó gieo những hạt giống xuống. Như vậy mới là cách chu toàn.”
Thế là ở cánh đồng, hắn sai bốn người, mỗi người nhấc một cái chân ghế, còn y thì ở trên đó gieo những hạt giống xuống. Kết quả, những chỗ đất đi qua càng thêm rắn rỏi. Thoạt đầu, gã sợ đôi chân của mình sẽ giẫm lên đất bùn, nhưng rồi chẳng ngại có tám cái chân đạp lên. Đây quả thật đáng bị người chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Sau khi đã gieo trồng giới điền và đợi hạt giống lành sắp sanh trưởng, lẽ ra họ phải nên tham vấn bậc minh sư để thọ trì giáo Pháp, thời như vậy hạt giống Pháp sẽ sanh trưởng. Trái lại, họ vi phạm giới luật và làm nhiều việc ác, nên khiến hạt giống của giới chẳng sanh trưởng. Thí dụ này cũng giống như kẻ ngu kia vậy, gã sợ đôi chân mình sẽ giẫm lên, song chẳng ngại có tám cái chân đạp lên vậy.
83. CON KHỈ
Thuở xưa có một con khỉ bị một người lớn đánh đập. Vì chẳng thể làm gì hơn, nên nó trút nỗi oán hận lên một đứa con nít.
Kẻ phàm phu ngu si thì cũng như thế. Giả như có người nào đó trước đây đã làm cho họ giận dữ, thì họ vẫn ôm lòng hận thù ấy mà chẳng hề thay đổi. Tuy đã là dĩ vãng, nhưng nó vẫn còn nối tiếp. Về sau, họ gán cho ai đó mà cho là người trước đây. Rồi họ khởi sanh phẫn nộ đối với người ấy một cách vô cớ, và cũng khiến độc tánh của sân hận càng mãnh liệt. Đây cũng như con khỉ kia bị một người lớn đánh đập, rồi nó trút nỗi oán hận lên một đứa con nít vậy.
84. KHI THẤY NGUYỆT THỰC THÌ NỔI CUỒNG MÀ ĐÁNH CHÓ
Thuở xưa có một phi thiên vương khi thấy mặt trời và mặt trăng trong sáng thì lấy tay che. Tuy nhiên, mấy kẻ vô trí khi thấy vậy thì đổ thừa cho những con chó vô tội. Thế là họ lôi chúng ra đánh tơi bời.
Có những kẻ phàm phu thì cũng thế. Do bị tham sân si khổ bức thân tâm, vậy là họ nghĩ rằng nằm trên chông gai, hoặc phơi thân xác dưới trời nắng gắt với xung quanh đốt lửa, thì sẽ có thể diệt trừ chúng. Đây cũng như mấy kẻ vô trí kia, khi thấy nguyệt thực thì nổi cuồng mà đánh chó vậy.
85. NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ ĐAU MẮT
Thuở xưa có một người phụ nữ bị chứng đau mắt dữ dội.
Khi ấy có một cô bạn đã hỏi rằng:
“Mắt của chị đang đau lắm phải không?”
Đáp rằng:
“Phải rồi, mắt của mình đang đau lắm.”
Cô bạn kia lại nói rằng:
“Hễ có mắt thì phải bị đau thôi. Tuy chưa bị đau nhưng tớ cũng muốn móc mắt ra, vì sợ sau này chúng sẽ làm mình đau đớn.”
Thấy vậy nên những người xung quanh mới nói rằng:
“Người có mắt thì có lúc đau lúc không. Tuy nhiên, kẻ không còn mắt nữa thì suốt đời sẽ luôn chịu đau đớn.”
Những kẻ phàm phu ngu si thì cũng như thế. Họ nghe rằng phú quý là nguồn gốc của mối họa suy tàn. Thế là họ sợ hãi mà chẳng chịu làm bố thí, vì sợ sau này sẽ được quả báo, bởi có tài vật tràn đầy thì sẽ chịu khổ não càng nặng.
Khi ấy có người nói rằng:
“Người làm bố thí sẽ có lúc vui lúc khổ. Tuy nhiên, kẻ không làm bố thí thì sẽ nghèo khổ tột cùng.”
Đây cũng như người phụ nữ kia, vì chẳng thể chịu nỗi đau tạm thời sắp đến mà liền muốn móc bỏ con mắt, để rồi phải luôn chịu đau đớn.
86. PHƯƠNG CÁCH MÀ NGƯỜI CHA LẤY GIẤU ĐÔI HOA TAI CỦA CON MÌNH
Thuở xưa có hai cha con vì có công việc nên cùng đi chung với nhau. Trên đường đi, họ bất chợt gặp bọn đạo tặc muốn đến đánh cướp. Lúc đó, ở trên tai của đứa con đang đeo đôi hoa tai vàng ròng. Khi thấy bọn cướp đang tiến tới, người cha vì sợ mất đôi hoa tai nên hấp tấp dùng tay giật, nhưng chẳng sao lấy được. Thế là chỉ vì đôi hoa tai, ông liền chém đầu của đứa con để đem giấu. Ít lâu sau đó thì bọn cướp bỏ đi. Khi ấy, ông lấy đầu của đứa con để ráp lên cổ lại. Thế nhưng, nó chẳng thể nào sống lại như xưa.
Kẻ ngu si như vậy thật đáng bị người thế gian chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế.
Chỉ vì danh lợi, họ tạo ra những luận lý tranh cãi, như là:
– Đời sau, có hay chẳng có.
– Thân trung uẩn, có hay chẳng có.
– Cái tâm bao gồm các chức năng khác nhau, có hay chẳng có.
Với đủ mọi vọng tưởng như vậy, họ chẳng thể nào đắc như thật của các pháp.
Khi có người dùng Phật Pháp để vạch ra điều sai về lý luận của họ, thì họ biện luận rằng:
“Trong lý luận của tôi không hề nói như vậy.”
Những kẻ ngu si như thế, chỉ vì một chút danh lợi mà sẵn sàng nói dối. Và thế là, họ mất đi Đạo Quả của Sa-môn. Lúc mạng chung, họ phải đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia, chỉ vì tiếc chút của mà không ngại chém đầu của đứa con vậy.
87. BỌN CƯỚP CHIA CỦA
Thuở xưa có một đám đạo tặc cùng đi ăn cướp và đã lấy được rất nhiều tài vật. Khi xong việc, bọn chúng tùy theo cấp bậc mà phân chia tài vật với nhau. Duy chỉ có một bộ y phục dệt bằng lông cừu sản xuất ở Lộc Dã thì màu sắc phai nhạt, nên nó dùng để chia cho kẻ nào thấp hèn nhất. Khi nhận được, gã thấp hèn sân hận và than trách là đã mất đi những lợi lạc to lớn. Sau đó, hắn đem đến thành thị để bán. Lúc ấy có mấy trưởng giả giàu sang trả giá muốn mua. Cuối cùng kẻ thấp hèn đã bán cho một người trong đó và giá bán được còn gấp bội chúng bạn. Khi ấy, hắn hân hoan vô cùng và vui mừng khôn xiết.
Việc làm bố thí của những người ở thế gian thì cũng vậy. Họ chẳng biết việc đó có quả báo hay không. Do họ đã làm một chút bố thí nên được sanh lên trời và thọ hưởng vô lượng vui sướng. Khi đã sanh lên trời, họ lại hối hận, là sao trước đó đã không làm bố thí rộng lớn. Đây cũng như gã thấp hèn vui mừng vô cùng khi bộ y phục dệt bằng lông cừu đã trở thành rất quý giá về sau vậy. Bố thí thì cũng như thế. Tuy làm ít mà được nhiều. Khi ấy, những người thọ phước rất vui mừng, nhưng đồng thời họ cũng hối hận vì nếu biết vậy thì đã làm nhiều hơn nữa rồi.
88. CON KHỈ NẮM ĐẬU
Thuở xưa có một con khỉ cầm một nắm đậu. Do sơ ý, nó làm rớt một hạt đậu xuống đất. Thế là nó buông cả nắm đậu trong tay để đi tìm một hạt đậu kia. Trong khi nó còn chưa tìm được hạt đậu kia thì tất cả đậu đã bị gà vịt ăn sạch.
Có những kẻ phàm phu xuất gia thì cũng như thế. Mới đầu họ chỉ phạm một giới nhưng lại chẳng chịu sám hối. Do bởi không sám hối, họ càng buông lung hơn nữa, và kết cuộc là tất cả giới đều xả bỏ. Đây cũng như con khỉ kia, chỉ vì mất một hạt đậu mà khiến tất cả đậu đều mất vậy.
89. LƯỢM ĐƯỢC CON CHỒN VÀNG
Thuở xưa có một người đang đi trên đường thì lượm được một con chồn làm bằng vàng. Người ấy mừng rỡ và lấy bỏ vào trong vạt áo, rồi tiếp tục lên đường. Khi đến bờ sông, người ấy muốn lội qua nên phải cởi quần áo đặt xuống đất trước. Lúc đó con chồn vàng bỗng biến thành con rắn độc. Người ấy ngẫm nghĩ là thà bị rắn độc cắn chết, chứ vẫn phải mang theo. Với lòng cảm động sâu sắc, con rắn biến lại thành vàng như xưa.
Khi ấy, có một kẻ ngu bên cạnh thấy con rắn độc kia bỗng biến thành vàng ròng. Thế là hắn cho việc đó cứ luôn xảy ra như vậy. Sau đó, gã lấy một con rắn độc bỏ vào trong vạt áo. Ngay lập tức, kẻ ngu bị con rắn độc cắn chết và phải mất cả tánh mạng.
Mấy kẻ ngu ở thế gian thì cũng thế. Khi thấy người thiện có được phước lợi, rồi chỉ vì lợi dưỡng, họ đến nương cậy trong giáo Pháp nhưng trong lòng chẳng có chút tha thiết cầu Pháp. Sau khi mạng chung, họ sẽ đọa đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia bị rắn độc cắn chết vậy.
90. LƯỢM TÚI TIỀN VÀNG DƯỚI ĐẤT
Thuở xưa có một người nghèo đang đi trên đường thì tình cờ lượm được một túi tiền vàng. Người ấy rất mừng rỡ và lập tức đổ ra đếm. Trong khi còn chưa đếm xong thì chủ nhân của túi vàng chợt đến và đoạt lại hết số tiền đó. Bấy giờ người ấy mới hối hận là sao không vội mang đi. Anh ta cảm thấy buồn bã và đau xót vô cùng.
Có những người gặp gỡ Phật Pháp thì cũng lại như thế. Tuy đã gặp được phước điền của Tam Bảo nhưng họ chẳng siêng năng tu hành phương tiện hay làm việc lành. Thế rồi bỗng nhiên mạng chung và đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia bị chủ nhân của túi vàng đoạt lại số tiền và mang đi.
Cho nên mới có kệ rằng:
Hôm nay tính việc này
Ngày mai làm việc kia
Chấp trước chẳng thấy khổ
Không biết giặc chết đến
Bận rộn lo việc đời
Phàm phu nào hiểu thấu
Như kẻ đếm tiền kia
Việc đó cũng như vậy
91. CON NHÀ NGHÈO MUỐN SO CỦA BẰNG NGƯỜI GIÀU
Thuở xưa có một người nghèo. Tuy nghèo nhưng cũng sở hữu một ít của cải. Sau khi gã gặp qua mấy đại phú hào, thì trong lòng cũng muốn bằng họ. Nhưng do chẳng thể nào bằng được nên hắn gom chút của cải dành dụm bấy lâu và muốn liệng xuống nước.
Khi ấy, những người xung quanh bảo rằng:
“Các đồ vật đó tuy chẳng đáng gì, nhưng chúng có thể giúp anh sống thêm vài ba hôm. Tại sao anh lại muốn quăng bỏ xuống nước?”
Những kẻ ngu ở thế gian thì cũng như thế. Tuy đã xuất gia và cũng được chút ít lợi dưỡng rồi, nhưng lòng họ vẫn có điều mong cầu. Họ luôn chẳng biết đủ và cảm thấy không ngang bằng với sự lợi dưỡng thọ nhận của những vị Đạo cao đức trọng. Khi thấy những vị trưởng lão với đức cao, học rộng, và có nhiều người cúng dường, thì trong lòng cũng muốn bằng họ. Nhưng do chẳng thể nào bằng được, thế là họ ôm lòng sầu khổ và muốn bỏ việc tu Đạo. Đây cũng như kẻ ngu kia muốn giàu bằng người phú quý, nhưng do không thể nên đã vứt bỏ đi tài vật của chính mình vậy.
92. TRẺ NÍT ĐƯỢC VIÊN KẸO THƠM NGON
Thuở xưa có một bà vú nuôi bồng một em bé đi trên đường. Do đi đường quá mỏi mệt nên bà vú nuôi dừng nghỉ và đã ngủ say mê man. Lúc ấy có một người cầm một viên kẹo thơm ngon đến cho đứa bé. Khi đứa bé được viên kẹo, nó ham mùi vị ngon đó mà chẳng hề để ý gì về đồ vật trên thân. Thế là người đó lập tức cởi vòng đeo cổ, xâu chuỗi anh lạc, và quần áo của đứa bé, rồi lấy đi hết.
Có những Tỳ-kheo thì cũng vậy. Họ ưa thích những việc thế tục của mấy chỗ huyên náo. Chỉ vì tham lam chút ít lợi dưỡng mà bị giặc phiền não đoạt mất công đức và giới báu anh lạc của họ. Đây cũng như đứa bé kia, chỉ vì ham một chút mùi vị mà mọi thứ trên thân đều bị kẻ giặc lấy đi hết vậy.
93. BÀ GIÀ BẮT GẤU
Thuở xưa có một bà cụ đang nghỉ ngơi ở dưới gốc cây nọ, thì bất chợt có một con gấu chạy đến tấn công. Bấy giờ bà lão chạy vòng quanh gốc cây để trốn. Trong khi ấy, con gấu thì rượt đuổi theo sau, rồi một tay của nó bấu thân cây, còn tay khác thì muốn chụp lấy bà lão. Đương lúc cấp bách, bà cụ kéo cành cây lại và đè kẹp hai tay con gấu, khiến nó không cử động được.
Đúng lúc có một người xa lạ đến nơi đó, bà lão liền hô lên rằng:
“Anh hãy phụ với tôi bắt giết con gấu này. Khi xong, chúng ta sẽ chia thịt của nó.”
Lúc ấy người kia liền vội tin theo lời nói của bà lão và cùng phụ bắt. Khi hắn đã ôm chặt con gấu, bà cụ liền buông tay mà tháo chạy. Sau đó, người ấy đã bị con gấu làm tổn thương. Kẻ ngu si như vậy thật đáng bị người thế gian chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Họ lập ra các dị luận với văn từ rườm rà. Chẳng những không có điều gì tốt đẹp mà chúng còn chứa đầy lỗi lầm. Cuối cùng, ngay cả họ mà cũng phải bỏ đi luận thuyết của chính mình. Về sau có những hàng hậu bối bắt gặp và muốn tìm hiểu, nhưng chỉ khiến họ càng mơ hồ và ngược lại còn bị chúng làm cho khốn khổ. Đây cũng như kẻ ngu kia giúp người khác bắt phụ con gấu và kết cuộc là tự mình bị hại vậy.
94. NHƯ Ý CHÂU VÀ LỖ THOÁT NƯỚC
Thuở xưa có một gã đàn ông cùng với vợ người thông gian. Trong lúc hai người còn âu yếm chưa xong thì chẳng may người chồng trở về. Người chồng liền phát hiện, nên chực sẵn ở ngoài cổng để khi kẻ gian phu bước ra thì sẽ giết hắn.
Khi ấy, cô vợ nói với tình lang rằng:
“Chồng em đã phát giác. Không có chỗ nào để thoát đâu. Duy chỉ có maṇi thì anh mới có thể ra được.”
* maṇi còn có nghĩa là lỗ thoát nước.
Ý của dâm phụ là muốn tình nhân của nàng từ lỗ thoát nước chui ra khỏi, nhưng kẻ đàn ông đó đã hiểu sai mà cho là như ý châu. Thế là hắn ở đó lục lạo mà vẫn không tìm thấy gì.
Gã liền nghĩ thầm:
“Nếu quả không tìm thấy như ý châu thì mình quyết sẽ không rời khỏi.”
Kết cuộc là chỉ trong chốc lác, hắn đã bị người chồng giết chết.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế.
Tuy đã có người bảo rằng:
“Ở trong chốn sanh tử chỉ có khổ, không, vô thường, và vô ngã. Hãy xa lìa nhị biên–chấp thường chấp đoạn. Hãy trụ nơi Trung Đạo. Nếu được như vậy thì mới có thể được giải thoát.”
Tuy nhiên, kẻ phàm phu đã hiểu sai, rồi cứ truy tìm xem thế giới có giới hạn hay không giới hạn, hoặc chúng sanh có ngã hay vô ngã. Họ chẳng thể thấu hiểu nghĩa lý của Trung Đạo. Thế rồi khi cái chết chợt đến, họ bị vô thường giết hại và phải đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia cứ đi tìm như ý châu và kết quả là bị người khác giết hại vậy.
95. ĐÔI CHIM BỒ CÂU
Thuở xưa có cặp vợ chồng chim bồ câu cùng sống chung ở một cái tổ. Vào một mùa thu nọ, chúng nhặt trái cây chín chất đầy tổ. Một thời gian sau, các trái cây khô teo lại và chỉ còn một nửa ở tổ.
Con trống nổi sân mà nói với con mái rằng:
“Chúng ta chịu biết bao khổ nhọc để cùng tha trái cây về. Sao em nỡ ăn hết một mình? Bây giờ chỉ còn một nửa ở tổ.”
Bồ câu mái trả lời:
“Em đâu có ăn hết một mình. Nó tự giảm bớt đó thôi.”
Bồ câu trống chẳng những không tin mà còn giận dữ nói rằng:
“Nếu không phải em đã ăn hết một mình, thì sao nó giảm bớt được hả?”
Thế là con trống liền dùng mỏ mổ chết con bồ câu mái. Nhưng chưa được mấy hôm thì trời đổ trận mưa lớn. Trái cây được thấm ướt nên phình to lại như cũ.
Khi thấy vậy, chim bồ câu trống mới hối hận trong lòng:
“Em quả thật đã không ăn. Anh đã giết lầm em rồi.”
Nó liền cất tiếng kêu thảm thiết và gọi chim bồ câu mái rằng:
“Em ơi! Em đã về xứ nào?”
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Với cái điên đảo giữ chặt vào lòng, họ đắm chìm trong dục lạc. Chẳng những đã không quán sát vô thường mà còn vi phạm trọng giới. Về sau dẫu có hối hận thì cũng đã quá trễ. Tới lúc đó chỉ có thể ngậm ngùi than van như con chim bồ câu ngu ngốc kia vậy.
96. GIẢ VỜ MẮT BỊ MÙ
Thuở xưa có một người thợ làm việc cho vua. Bởi chẳng thể kham nổi khổ nhọc nữa, nên hắn giả vờ nói rằng mắt bị mù để được thoát miễn khổ dịch. Khi một người thợ khác nghe vậy, hắn liền muốn tự hủy đi mắt của mình để mong trốn khỏi lao dịch.
Lúc ấy có người bảo rằng:
“Sao anh lại muốn tự hủy đi mắt của mình? Anh sẽ chuốc lấy khổ đó.”
Kẻ ngu như vậy đáng bị người thế gian chê cười.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Chỉ vì chút ít danh dự cùng lợi dưỡng, họ thản nhiên nói dối và hủy hoại giới thanh tịnh. Cho nên sau khi chết, họ phải đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia, chỉ vì một chút ích lợi mà tự hủy đi mắt của mình vậy.
97. BỊ ÁC TẶC CƯỚP MẤT ÁO KHOÁC LÔNG
Thuở xưa có hai người cùng đi qua một nơi hoang dã. Giữa đường, người mặc áo khoác lông bị đạo tặc chặn cướp. Người kia may mắn trốn được và núp vào trong bụi cỏ. Trước khi bị cướp lột mất, kẻ mặc áo khoác lông đã giấu một đồng tiền vàng vào trong cổ áo.
Sau đó hắn nói với bọn cướp rằng:
“Cái áo này đáng giá đúng một đồng tiền vàng. Cầu xin các anh hãy cho tôi dùng một đồng tiền vàng để chuộc nó về.”
Giặc cướp nói rằng:
“Đồng tiền vàng đó giờ đang ở đâu hả?”
Thế là y liền mở cổ áo ra và chỉ cho bọn cướp xem, rồi nói rằng:
“Đây là vàng thật đó nha. Nếu không tin lời tôi thì ngay bây giờ, các anh hãy tìm đến ông thợ vàng rất giỏi đang ở trong bụi cỏ kia mà hỏi.”
Và thế là, bọn giặc phát hiện người kia và cũng lấy áo của anh ta luôn. Kẻ ngu như thế đã làm mất đi áo khoác lông, đồng tiền vàng, và tất cả mọi thứ. Chẳng những đã tự làm mất tài vật của mình, mà hắn cũng khiến người kia mất theo luôn.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Họ tu hành các Phẩm Trợ Đạo và làm những công đức. Nhưng chẳng may bị giặc phiền não cướp bóc, thế là họ đánh mất Pháp lành và công đức của mình. Chẳng những đã tự làm mất phước lợi của bản thân, mà họ cũng khiến người khác mất đi Đạo nghiệp. Và rồi sau khi mạng chung, họ phải đọa ba đường ác. Đây cũng như kẻ ngu kia, khiến mình và người bạn đều mất sạch vậy.
98. TRẺ NÍT BẮT ĐƯỢC RÙA LỚN
Thuở xưa có một đứa bé đang vui chơi ở trên đất liền, thì tình cờ bắt được một con rùa rất to. Tuy nó muốn giết con rùa nhưng lại chẳng biết làm sao.
Và thế là nó đi hỏi những người khác rằng:
“Cháu phải làm thế nào mới giết được nó đây?”
Có người bảo rằng:
“Cháu chỉ cần ném xuống nước thì nó sẽ chết ngay thôi.”
Lúc bấy giờ đứa bé do tin theo lời nói ấy, nên nó liền ném xuống nước. Khi rùa đã gặp nước, nó lập tức bơi đi.
Nhiều kẻ phàm phu thì cũng như thế. Tuy họ muốn gìn giữ sáu căn và tu các công đức, nhưng lại chẳng biết làm sao.
Cho nên, họ đi hỏi những người khác rằng:
“Tôi phải làm thế nào mới được giải thoát?”
Khi ấy hàng ngoại đạo tà kiến, Thiên ma Ác Giả, và kẻ xấu ác bảo họ rằng:
“Anh chỉ cần buông thả tâm ý với sáu trần và phóng túng theo năm dục. Nếu làm theo lời tôi, anh chắc chắn sẽ được giải thoát.”
Kẻ ngu như thế, do chẳng tư duy kỹ càng nên liền tin theo lời nói ấy. Cho nên sau khi mạng chung, họ phải đọa ba đường ác. Đây cũng như đứa bé ném con rùa xuống nước vậy.
Luận này do tôi soạn
Xen lẫn tiếng cười vui
Cốt ý hiển chánh giáo
Quán nghĩa hợp hay không
Nó như phương thuốc đắng
Trộn chung với đường mật
Thuốc thang chữa trị bệnh
Luận này cũng như vậy
Tiếu lâm trong Chánh Pháp
Ví như thuốc cuồng kia
Tịch diệt Phật Chánh Pháp
Chiếu sáng khắp thế gian
Giống như uống thuốc xổ
Như bơ lấy bôi thân
Tôi nay dùng nghĩa này
Hiển bày Pháp tịch diệt
Ví như thuốc vô bệnh
Bọc trong lớp lá cây
Lấy thuốc xoa độc rồi
Lá cây phải vứt đi
Tiếu lâm như lá bọc
Thật nghĩa ở trong đó
Người trí giữ chánh nghĩa
Cười đùa nên bỏ đi
Tôn giả Saṅghasena đã soạn xong vòng hoa của những kẻ ngu.