Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh
Đường Huyền Trang dịch
Bản Việt dịch của Nguyên Thuận
***
TÔI NGHE NHƯ VẦY:
Một thuở nọ, Đức Phật chu du các nước để giáo hóa chúng sanh. Ngài đến thành Quảng Nghiêm và dừng nghỉ dưới một gốc cây ở xứ Nhạc Âm. Cùng hội họp với Đức Phật, gồm có 8.000 vị đại Tỳ-kheo và 36.000 chư đại Bồ-tát. Ngoài ra còn có quốc vương, đại thần, Phạm Chí, cư sĩ, thiên long bát bộ, người và phi nhân; vô lượng đại chúng cung kính vây quanh và Ngài thuyết Pháp cho họ.
Lúc bấy giờ Diệu Cát Tường Pháp Vương Tử nương uy thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ hở vai, gối phải quỳ sát đất, hướng về Thế Tôn, cúi mình chắp tay và bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn hãy diễn nói về các danh hiệu của chư Phật, cùng những bổn nguyện rộng lớn và công đức thù thắng; các Pháp như vậy để khiến người nghe nghiệp chướng tiêu trừ, và cũng là vì muốn cho các hữu tình trong thời Tượng Pháp được lợi ích an vui.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn ngợi khen Đồng tử Diệu Cát Tường:
“Lành thay, lành thay, Diệu Cát Tường! Ông vì lòng đại bi mà thỉnh cầu Ta nói về danh hiệu cùng những bổn nguyện công đức của chư Phật, là bởi ông muốn dứt trừ nghiệp chướng ràng buộc của chúng sanh và làm lợi ích an vui cho các hữu tình trong thời Tượng Pháp. Ông nay hãy lắng nghe và khéo tư duy. Ta sẽ thuyết giảng cho ông.”
Ngài Diệu Cát Tường bạch rằng:
“Kính mong Thế Tôn thuyết giảng. Chúng con vui thích muốn nghe.”
Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:
“Từ đây về hướng đông, vượt qua mười Hằng Hà sa cõi Phật, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Trong cõi nước ấy có Đức Phật, hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Này Diệu Cát Tường! Khi Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia tu hành Bồ-tát Đạo vào thuở quá khứ, Ngài đã phát 12 đại nguyện để khiến cho điều cầu mong của các hữu tình đều được như ý.
Đại nguyện thứ nhất:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, thân tự nhiên có ánh sáng rực rỡ, chiếu soi đến vô lượng vô biên vô số thế giới; thân sẽ trang nghiêm với 32 tướng hảo, 80 vẻ đẹp của bậc đại trượng phu, và cũng khiến cho hết thảy hữu tình đều đồng như con không khác.’
Đại nguyện thứ nhì:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, thân sẽ như ngọc lưu ly, trong ngoài lung linh xuyên suốt, thanh tịnh không cấu dơ, ánh quang minh rộng lớn, công đức cao sâu, thân tự tại an trụ, có lưới giăng chói rực trang nghiêm và sáng hơn mặt trời mặt trăng; còn chúng sanh ở chốn tối tăm thì được hào quang tỏa soi, tâm trí liền khai mở và tùy ý vui làm các việc hằng mong.’
Đại nguyện thứ ba:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, con sẽ dùng vô lượng vô biên trí tuệ và phương tiện để khiến cho các hữu tình đều có được các đồ vật, dùng không bao giờ hết và quyết chẳng để chúng sanh bị thiếu thốn.’
Đại nguyện thứ tư:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có chúng sanh nào tu theo tà đạo, thì con đều làm cho họ an trụ trong Phật Đạo; nếu có ai tu hạnh Thanh Văn và Độc Giác Thừa, thời con đều sẽ dùng Pháp Đại Thừa mà an lập cho họ.’
Đại nguyện thứ năm:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có vô lượng vô biên chúng sanh nào ở trong giáo Pháp của con mà tu tịnh hạnh, thời con sẽ khiến cho hết thảy đều giữ được giới thể chẳng bị khiếm khuyết và trọn đủ giới Tam Tụ; giả như bị hủy phạm, thì khi nghe danh hiệu con, liền được thanh tịnh trở lại và sẽ không đọa đường ác.’
Đại nguyện thứ sáu:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có các hữu tình nào thân hình thấp kém, các căn không hoàn chỉnh, xấu xí ngu si, mù điếc câm ngọng, chân tay co quắp, tê liệt gù lưng, ghẻ hủi điên cuồng, hoặc chịu đủ mọi bệnh khổ, khi nghe danh hiệu con, thời tất cả đều được đoan chánh, trí tuệ sáng suốt, các căn hoàn chỉnh, và không mắc những chứng bệnh khổ.’
Đại nguyện thứ bảy:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có các hữu tình nào gặp nhiều bệnh bức bách, không người cứu, không chỗ nương, không thầy thuốc, không thang dược, không thân quyến, không gia đình, hoặc nghèo nàn lắm khổ, khi nghe danh hiệu con chừng thoáng qua tai, thì những chứng bệnh ấy đều được tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến đầy đủ, tiền của dồi dào, và cho đến chứng đắc tuệ giác vô thượng.’
Đại nguyện thứ tám:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có người nữ nào chịu hàng trăm điều xấu nơi thân nữ, khiến họ buồn bực khổ sở, sanh lòng chán ghét vô cùng và nguyện xả bỏ thân nữ, khi nghe danh hiệu con, thời tất cả đều được chuyển nữ thành nam, đầy đủ tướng trượng phu, và cho đến chứng đắc tuệ giác vô thượng.’
Đại nguyện thứ chín:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, con sẽ khiến cho các hữu tình thoát khỏi vòng lưới ma và thoát khỏi tất cả những sự trói buộc của ngoại đạo; nếu như bị đọa lạc nơi ác kiến sâu dày như rừng rậm, thì đều được con tiếp dẫn và nhiếp thọ vào chánh kiến, rồi họ lần lần tu tập Bồ-tát hạnh và mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.’
Đại nguyện thứ mười:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có các hữu tình nào mắc phải luật vua, bị xiềng xích đánh đập, giam cầm trong lao ngục, hoặc sắp hành hình, cùng vô lượng tai nạn và các sự lăng nhục khác, khiến họ đau đớn lo âu, bức bách thảm thiết, thân tâm chịu khổ, nếu nghe danh hiệu con, thì do phước đức và sức uy thần của con nên thảy đều giải thoát tất cả những sầu khổ ấy.’
Đại nguyện thứ mười một:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có các hữu tình nào bị đói khát khổ bức, chỉ vì kiếm miếng ăn mà gây tạo bao nghiệp ác, khi nghe được danh hiệu con và chuyên niệm thọ trì, thời trước tiên con sẽ dùng thức ăn nước uống ngon lạ để thân họ no đủ, rồi sau đó mới dùng Pháp vị mà kiến lập niềm an lạc cứu cánh.’
Đại nguyện thứ mười hai:
‘Nguyện con khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở vào đời vị lai, nếu có các hữu tình nào nghèo túng, không có quần áo, ngày đêm bị ruồi muỗi cùng thời tiết nóng lạnh làm cho khổ não bức bách, nếu nghe danh hiệu con và chuyên niệm thọ trì, thời liền được muôn loại quần áo tuyệt đẹp như mong muốn; lại cũng có đầy đủ tất cả châu báu trang nghiêm, tràng hoa hương xoa, âm nhạc ca múa; các sở thích đều tùy tâm mãn nguyện.’
Này Diệu Cát Tường! Đây là 12 lời nguyện vi diệu tối thượng của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đã phát ra khi tu hành Bồ-tát Đạo.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu Ta dùng một kiếp hay hơn một kiếp để nói về đại nguyện đã phát ra khi tu hành Bồ-tát Đạo của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, cùng công đức trang nghiêm ở cõi Phật đó, thì cũng chẳng thể hết.
Ở cõi Phật ấy thảy đều thanh tịnh; không có người nữ, cũng không có đường ác và những tiếng khổ. Đất làm bằng lưu ly và có những sợi dây vàng được giăng trên đường lộ. Có thành trì cổng đài, cung điện lầu các, mái hiên cửa sổ và lưới giăng. Hết thảy đều do bảy báu tạo thành. Công đức trang nghiêm cũng giống như Thế giới Cực Lạc ở phương tây–không chút sai khác.
Trong cõi nước ấy có hai vị đại Bồ-tát. Vị thứ nhất tên là Nhật Quang Biến Chiếu. Vị thứ nhì tên là Nguyệt Quang Biến Chiếu. Các ngài là những thượng thủ của vô lượng vô số Bồ-tát ở nơi đó. Họ kế đến sẽ làm Phật và có thể thọ trì Chánh Pháp bảo tạng của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia.
Vì thế, Diệu Cát Tường! Các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào với tín tâm thanh tịnh, thì nên phát nguyện sanh về thế giới của Đức Phật kia.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn lại bảo Đồng tử Diệu Cát Tường:
“Này Diệu Cát Tường! Có những chúng sanh không phân biệt thiện ác, chỉ ôm lòng tham lam bỏn xẻn, chẳng biết bố thí và quả báo của việc ấy, ngu si vô trí, thiếu mất tín căn, chỉ ham tích chứa tiền của cho nhiều và bo bo gìn giữ. Khi thấy có người đến xin thì lòng họ chẳng vui; đến lúc buộc phải bố thí mà chẳng có lợi, họ cảm thấy như bị lóc thịt trên thân, sanh lòng nuối tiếc vô cùng.
Lại có vô lượng tham lam keo kiệt hữu tình, họ chỉ lo tích trữ tiền tài, ngay cả mình còn không dám dùng, hà huống là cho cha mẹ vợ con, nô tỳ tôi tớ, hoặc người đến xin. Sau khi những chúng sanh đó mạng chung, họ sẽ sanh vào loài ngạ quỷ hay bàng sanh. Nhưng nếu lúc xưa ở nhân gian đã từng thoáng nghe được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà nay ở tại đường ác với chừng thời gian của một niệm, họ nhớ nghĩ đến danh hiệu của Đức Như Lai kia, thì liền ngay từ chỗ đó sanh trở về cõi người. Họ sẽ nhớ được việc đời trước, sợ nỗi khổ của đường ác và không còn tham đắm dục lạc. Họ vui thích làm các việc bố thí và ngợi khen những ai cũng vậy. Hết thảy mọi thứ đều chẳng tham luyến. Họ dần dần sẽ có thể đem cả đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt, và toàn thân thể để cho người đến xin; hà huống là bố thí các tài vật khác.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Có những chúng sanh tuy tu học trong Pháp của Như Lai nhưng lại phạm giới. Có người tuy không phạm giới nhưng lại phá hoại quy tắc. Có người tuy không phạm giới hay phá hoại quy tắc nhưng lại phá hủy chánh kiến. Có người tuy không phá hủy chánh kiến nhưng lại xao lãng việc đa văn, nên không thể thấu hiểu và liễu giải được ý nghĩa thâm sâu trong Khế Kinh của Phật nói. Có người tuy đa văn nhưng lại tăng thượng mạn. Do vì tăng thượng mạn nên tâm trí che mờ, tự cho mình là đúng còn người khác thì sai, rồi ngờ vực, chê bai Chánh Pháp và kết bạn với bè lũ ma.
Những kẻ ngu si này đã tự mình làm theo tà kiến mà còn khiến cho vô lượng ức người khác cũng sa đọa vào hố sâu nguy hiểm. Các hữu tình ấy sẽ mãi lưu chuyển ở trong địa ngục, ngạ quỷ, và bàng sanh. Tuy nhiên, nếu họ nghe được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, rồi xả bỏ nghiệp ác và tu các Pháp lành, thời sẽ không đọa đường ác. Giả như họ không xả được những nghiệp ác, chẳng tu hành Pháp lành, và phải đọa đường ác, nhưng do ở đời trước đã thoáng nghe được danh hiệu của Ngài. Bằng vào uy lực bổn nguyện của Đức Như Lai kia, nên sau khi mạng chung ở nơi đó, họ sẽ được sanh về lại cõi người. Họ có được chánh kiến, thân tinh tấn, tâm hiền hòa, ý an vui, có thể xuất gia và ở trong Pháp của Như Lai tu học thọ trì, chẳng hề hủy phạm, chánh kiến đa văn, liễu giải nghĩa lý thâm sâu, lìa xa tăng thượng mạn, không phỉ báng Chánh Pháp, và không kết bạn với bè lũ ma. Rồi dần dần họ sẽ tu các hạnh của Bồ-tát và mau được viên mãn.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu các hữu tình nào có tánh keo kiệt, tham lam ganh ghét, khen mình chê người, thì sẽ đọa trong ba đường ác để chịu các sự thống khổ đến vô lượng ngàn năm. Khi đã thọ xong những sự thống khổ ấy, rồi sau đó mạng chung, họ sẽ sanh về chốn nhân gian để làm trâu, ngựa, lừa, hay lạc đà. Chúng luôn bị đánh đập cùng đói khát giày vò và thường đi đường xa mang chở đồ vật nặng. Hoặc được làm người nhưng lại sanh ra ở chỗ hạ tiện, làm kẻ tôi tớ, phải bị người khác sai khiến và chẳng khi nào thong thả.
Nếu lúc xưa trên nhân thế mà họ đã từng nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành đó nên nay nhớ tưởng đến và chí tâm quy y; do thần lực của Phật nên sẽ thoát khỏi những sự thống khổ đó. Họ lại được các căn lanh lợi, trí tuệ đa văn, luôn cầu Pháp thù thắng, thường gặp bạn lành, chặt đứt hẳn vòng lưới ma, phá nát vỏ vô minh, làm khô cạn sông phiền não, và giải thoát hết thảy sanh già bệnh chết cùng ưu sầu khổ não.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu các hữu tình nào ưa điều sai quấy, thích gây chia rẽ, đấu tranh kiện tụng, não loạn cả mình lẫn người, từ thân ngữ ý mà tạo ra đủ mọi nghiệp ác, ngày ngày càng tăng trưởng. Xoay đi xoay lại, họ thường làm những việc không lợi ích và chỉ mưu tính hãm hại lẫn nhau. Họ triệu thỉnh thần linh ở núi rừng, cây cối, mồ mả, cùng giết hại các chúng sanh để lấy máu thịt đó mà cúng tế cho quỷ tiệp tật và quỷ bạo ác. Họ viết tên kẻ thù rồi làm hình tượng, dùng chú thuật ác độc trù ếm, sai bóng đè lúc ngủ say, bỏ bùa ngải độc, hoặc đọc tấu chú khởi thi quỷ, để khiến cho kẻ thù bị chết hay bị tổn thương.
Nếu các hữu tình này nghe được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời các điều tà ác kia đều chẳng thể tổn hại. Tất cả sẽ khởi lòng hiền từ, ai nấy vui vẻ làm việc lợi ích an lạc, không còn có tâm thù hận hay ý nghĩ giết hại. Mọi người đều vui lòng đẹp ý, ai cũng sanh lòng hoan hỷ biết đủ, không xâm lấn người khác, và cùng làm lợi ích lẫn nhau.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Trong bốn chúng đệ tử–Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh Tín Nam, Thanh Tín Nữ–hay các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào với tín tâm thanh tịnh, như có thể tu học và thọ trì Tám Giới Quan Trai trong một năm hay ba tháng. Với những thiện căn đó, họ nguyện sanh về Thế giới Cực Lạc ở phương tây của Đức Phật Vô Lượng Thọ để nghe Chánh Pháp, nhưng thệ nguyện lại chẳng được kiên cố. Tuy nhiên, nếu họ nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì đến lúc lâm chung sẽ có tám vị đại Bồ-tát xuất hiện.
Tên các ngài là: Diệu Cát Tường Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Vô Tận Ý Bồ-tát, Bảo Đàn Hoa Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dược Thượng Bồ-tát, và Từ Thị Bồ-tát.
Tám vị đại Bồ-tát này sẽ hiện ra trên không trung để chỉ dẫn đường. Lập tức tại thế giới kia, họ ở trong những đóa hoa báu với muôn loại màu sắc khác nhau và liền tự nhiên hóa sanh.
Hoặc do nhân duyên ấy nên họ sanh lên trời. Tuy sanh vào cõi trời nhưng thiện căn ở đời trước sẽ không bao giờ mất hết và chẳng bị sanh trở lại vào những đường ác khác. Khi thiên phước thọ hưởng đã tận, họ lại sanh xuống nhân gian để làm luân vương, thống nhiếp bốn châu, uy đức tự tại và an lập vô lượng trăm ngàn hữu tình cùng tu tập Mười Nghiệp Lành. Hoặc sanh vào dòng dõi Phạm Chí, dòng dõi quý tộc, cư sĩ, hay trong gia đình quý phái với của báu tràn kho, tướng mạo đoan chánh, quyến thuộc đầy đủ, có trí tuệ thông minh, và khỏe mạnh uy dũng như đại lực sĩ. Nếu là người nữ nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và chí tâm thọ trì, thời mãi về sau họ chẳng còn thọ thân nữ.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Khi Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đắc tuệ giác vô thượng và do sức bổn nguyện, Ngài quán sát thấy các hữu tình gặp nhiều chứng bệnh khổ, gầy gò héo hon, nóng sốt vàng da, hoặc bị bóng đè lúc ngủ say, trúng bùa ngải độc, hoặc lại chết yểu, hay chết oan. Ngài vì muốn tiêu trừ các bệnh khổ như thế và làm cho những điều cầu mong của chúng sanh đều được mãn nguyện, khi ấy Đức Thế Tôn kia nhập chánh định tên là Diệt Trừ Tất Cả Khổ Não của Chúng Sanh.
Sau khi nhập định, trên đảnh nhục kế phóng ra vầng hào quang lớn, và trong hào quang diễn nói đại tổng trì:
|| nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lụ rô bệ lưu ly, bát lặt bà, hắc ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha, án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế, sa ha. ||
|| namo bhagavate bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rājāya tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya | tadyathā oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā ||
Trong quang minh khi nói chú này xong, đại địa liền chấn động và phóng ra ánh sáng lớn; hết thảy bệnh khổ của chúng sanh đều tiêu trừ và họ được thọ hưởng an vui.
Này Diệu Cát Tường! Nếu ai thấy có kẻ nam người nữ nào mắc bệnh khổ, họ phải nên nhất tâm vì người bệnh kia mà thường xuyên tắm gội, súc miệng sạch sẽ, rồi trì chú này 108 biến vào trong thức ăn hay thuốc thang, hoặc nước không có vi trùng. Sau đó, họ lấy cho người bệnh. Dùng xong, bệnh liền tiêu trừ.
Nếu có ai cầu mong điều gì, họ nên chí tâm trì chú này thời sẽ được như ý. Lại trường thọ sống lâu và không có bệnh tật. Sau khi mạng chung, họ sẽ vãng sanh đến thế giới kia, được không thoái chuyển và cho đến thành Phật.
Vì thế, Diệu Cát Tường! Nếu có kẻ nam người nữ nào với chí tâm ân trọng mà cung kính cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì nên luôn trì chú này và chớ để quên mất.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu có thiện nam tín nữ nào nghe được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, sau khi nghe và muốn tụng trì, thì mỗi sáng sớm hãy tắm gội, súc miệng sạch sẽ, rồi dùng hương hoa, hương đốt, hương thơm, và trỗi các loại âm nhạc để cúng dường trước hình tượng Phật. Họ nên biên chép Kinh điển này, hoặc bảo người khác biên chép, rồi nhất tâm thọ trì. Nếu nghe vị Pháp sư giảng giải nghĩa lý của Kinh, thời họ nên cúng dường đầy đủ tất cả các vật dụng cần thiết và chớ để thiếu hụt. Như vậy, họ sẽ được chư Phật hộ niệm, những điều cầu mong được mãn nguyện, và cho đến thành Phật.”
Lúc bấy giờ Đồng tử Diệu Cát Tường bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Con nguyện vào thời Tượng Pháp sẽ dùng đủ mọi phương tiện, để khiến cho các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào với tín tâm thanh tịnh, nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến trong giấc ngủ cũng sẽ dùng danh hiệu Phật mà giác ngộ người ấy.
Bạch Thế Tôn! Nếu có người thọ trì đọc tụng Kinh này hoặc diễn nói và chỉ bày cho người khác, hay tự biên chép Kinh hoặc bảo người khác biên chép, với lòng cung kính tôn trọng, họ dùng muôn loại hương hoa, hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, xâu chuỗi anh lạc, phan lọng, và âm nhạc để cúng dường. Lại dùng lụa năm màu để làm thành túi đựng, quét dọn một nơi sạch sẽ và an trí Kinh trên bực cao. Khi ấy, Tứ Đại Thiên Vương cùng quyến thuộc và vô lượng trăm ngàn thiên chúng sẽ đến nơi đó để cúng dường và hộ trì.
Bạch Thế Tôn! Nếu nơi nào lưu hành Kinh báu này và có người thọ trì, thì do nghe được danh hiệu cùng bổn nguyện công đức của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, nên phải biết nơi ấy sẽ không có các thứ tai họa, và cũng không có những ác thần hay ác quỷ đoạt mất tinh khí người. Giả như đã bị đoạt mất, thời họ sẽ được hoàn phục như cũ, thân tâm an lạc.”
Phật bảo ngài Diệu Cát Tường:
“Như thị, như thị! Đúng như lời ông nói.
Này Diệu Cát Tường! Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào với tín tâm thanh tịnh và muốn cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì trước tiên nên tạo lập một hình tượng của Đức Phật đó và an trí vào trong một ngôi tháp thanh tịnh. Rồi rải các thứ hoa, thắp các loại hương và dùng đủ mọi tràng phan để trang nghiêm nơi ấy. Suốt bảy ngày bảy đêm, họ thọ trì Tám Giới Quan Trai, dùng thức ăn thanh tịnh, tắm gội thơm khiết, mặc y phục tinh sạch, tâm không nhiễm ô, lòng không giận dữ, thân không giết hại. Lại đối với hết thảy hữu tình mà khởi tâm từ bi hỷ xả, làm lợi ích an vui, trỗi nhạc ca tán, và đi nhiễu bên phải tượng Phật.
Lại nữa, họ nên nhớ tưởng đến công đức bổn nguyện của Đức Như Lai kia, đọc tụng Kinh này, tư duy nghĩa lý, diễn nói và chỉ bày cho người khác, thời tất cả những điều cầu mong đều sẽ toại ý: cầu trường thọ được trường thọ; cầu giàu sang được giàu sang; cầu quan vị được quan vị; cầu con cái được con cái.
Lại nữa, nếu có người bỗng nhiên gặp ác mộng và mơ thấy các điềm kinh sợ; các loài chim lạ bay đến đậu, hoặc tại trú xứ xuất hiện trăm điều quái dị, như người này có thể dùng những phẩm vật quý hiếm để cung kính cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, thì những ác mộng điềm xấu, các điều không cát tường thảy đều ẩn mất và chẳng thể gây hại.
Hoặc bị nạn nước lửa, gươm đao, thuốc độc; hay lạc vào nơi hung hiểm; hoặc gặp voi dữ, sư tử, cọp, sói, gấu hung tợn, rắn độc, bò cạp, rết, muỗi nhặng, cùng các thứ ghê rợn, nếu họ có thể chí tâm nhớ niệm Đức Phật kia và cung kính cúng dường, thời tất cả việc hãi sợ đều được thoát khỏi.
Khi có nước khác xâm lăng, quấy nhiễu, hoặc trộm cướp phản loạn, nếu nhớ niệm và cung kính Đức Như Lai kia, thì cũng đều thoát khỏi.
Lại nữa, Diệu Cát Tường! Nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào với tín tâm thanh tịnh, trọn đời không thờ bái vị trời nào, duy chỉ nhất tâm Quy Y Phật Pháp Tăng và thọ trì giới cấm, như là Năm Giới, Mười Giới, 400 giới của Bồ-tát, 250 giới của Tỳ-kheo, hoặc 500 giới của Tỳ-kheo-ni. Trong lúc giữ giới, lỡ như bị hủy phạm và sợ đọa đường ác, nhưng nếu họ có thể chuyên niệm danh hiệu của Đức Phật kia và cung kính cúng dường, thì nhất định sẽ không thọ sanh vào trong ba đường ác.
Hoặc có người nữ đến thời điểm sắp sanh nở và phải chịu đau đớn khôn xiết, nếu họ có thể chí tâm xưng niệm danh hiệu, đảnh lễ, tán thán, cung kính, và cúng dường Đức Như Lai kia, thời những ách khổ ấy đều tiêu trừ. Em bé sanh ra có các căn hoàn chỉnh, tướng mạo đoan chánh, ai thấy đều hoan hỷ, thông minh lanh lợi, an ổn ít bệnh, và không bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Khánh Hỷ:
“Như Ta tuyên dương công đức của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia, đó là hạnh nguyện thâm sâu của chư Phật, khó mà liễu giải, ông có tin chăng?”
Ngài Khánh Hỷ thưa rằng:
“Thưa Đại Đức Thế Tôn! Con tuyệt đối không sanh lòng nghi đối với Khế Kinh do Như Lai nói.
Vì sao thế? Bởi hết thảy thân ngữ ý nghiệp của Như Lai đều thanh tịnh.
Thưa Thế Tôn! Vầng nhật nguyệt có thể rơi xuống, Vua núi Diệu Cao có thể lung lay, nhưng lời của chư Phật thì không bao giờ sai khác.
Thưa Thế Tôn! Có những chúng sanh không đủ tín căn mà khi nghe nói về các hạnh thâm sâu của chư Phật thì suy nghĩ rằng:
‘Làm sao chỉ niệm một danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà được lợi ích thù thắng như thế?’
Do bởi không tin nên sanh ra phỉ báng. Suốt đêm dài dằng dặc, họ mất đi các điều lợi lạc to lớn, phải đọa đường ác và lưu chuyển vô cùng tận.”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Nếu các hữu tình nào nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, rồi chí tâm thọ trì và không khởi lòng nghi mà còn đọa đường ác, thì quyết không thể có việc ấy.
Này Khánh Hỷ! Đây là hạnh sâu xa của chư Phật, khó mà tín giải. Ông nay có thể tín thọ, phải biết đây đều là do sức uy thần của Như Lai.
Này Khánh Hỷ! Tất cả Thanh Văn, Độc Giác, cùng những Bồ-tát chưa đăng Địa, thì thảy đều chẳng thể tín giải Pháp như thật này–duy trừ Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-tát.
Này Khánh Hỷ! Thân người khó được, lại khó có tín tâm và tôn kính Tam Bảo. Thế nhưng, nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại càng khó hơn.
Này Khánh Hỷ! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia có Bồ-tát hạnh vô lượng, thiện xảo phương tiện vô lượng, và thệ nguyện rộng lớn cũng vô lượng. Nếu Ta dùng một kiếp hay hơn một kiếp để rộng nói về các việc ấy, thì kiếp đó mau hết nhưng hạnh nguyện và thiện xảo phương tiện của Đức Phật kia vẫn không thể cùng tận.”
Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị đại Bồ-tát tên là Cứu Thoát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo lộ vai phải, gối phải quỳ sát đất, cúi mình và chắp tay thưa với Phật rằng:
“Thưa Đại Đức Thế Tôn! Vào thời Tượng Pháp sẽ có những chúng sanh mắc đủ chứng bệnh hoạn khốn khổ, bệnh nặng trường kỳ, thân thể gầy gò, lại không thể ăn uống, môi cổ khô khan, và tướng sắp chết hiện ra trước mặt nên thấy khắp nơi đều đen tối, cha mẹ quyến thuộc và bạn bè thân quen khóc lóc vây quanh. Tuy thân kia vẫn còn nằm đó, nhưng họ thấy sứ giả Diêm Vương dẫn thần thức của mình đến trước Diêm Vương Thiên Tử. Mỗi chúng sanh đều có các vị thần ở bên cạnh suốt đời và ghi lại đầy đủ tất cả việc thiện ác, rồi trình tấu hết cho Diêm Vương Thiên Tử. Lúc ấy, Diêm Vương tra hỏi người đó, tính toán định đoạt, rồi phán xử tùy theo tội phước đã làm.
Khi ấy, nếu thân bằng quyến thuộc có thể vì người bệnh kia mà quy y Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thỉnh chư Tăng để chuyển đọc Kinh này, thắp đèn bảy tầng, và treo tràng phan tục mạng năm màu, thời thần thức của họ có thể sẽ được trở về–như trong giấc mộng, tự mình thấy rõ.
Hoặc nếu thần thức kia về lại sau 7 ngày, hay 21 ngày, hoặc 35 ngày, hay 49 ngày, thì như chợt tỉnh cơn mộng, họ đều sẽ tự nhớ biết nghiệp lành dữ cùng quả báo lãnh thọ. Do tự chứng kiến về nghiệp báo như vậy, dẫu cho nguy hiểm đến cả tánh mạng, họ cũng không bao giờ tạo những nghiệp ác nữa.
Vì vậy, các thiện nam tử và thiện nữ nhân với tín tâm thanh tịnh đều nên thọ trì danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và tùy theo khả năng của mình mà cung kính cúng dường.”
Lúc bấy giờ ngài Khánh Hỷ hỏi Cứu Thoát Bồ-tát:
“Thưa Thánh giả! Phải nên cung kính cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia như thế nào? Còn đèn và tràng phan tục mạng thì phải làm ra sao?”
Cứu Thoát Bồ-tát đáp rằng:
“Đại đức! Nếu có người bệnh nào muốn hết bệnh khổ, thì người đó nên trong bảy ngày bảy đêm hãy thọ trì Tám Giới Quan Trai, và tùy theo khả năng của mình mà dùng thức ăn nước uống cùng những vật dụng cần thiết khác để cúng dường cho chư Tỳ-kheo. Ngày đêm sáu thời, họ lễ bái hành Đạo và cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia. Họ đọc tụng Kinh này 49 lần, thắp 49 ngọn đèn, và làm bảy hình tượng của Đức Như Lai kia. Trước mỗi hình tượng đều để bảy ngọn đèn. Mỗi ngọn đèn lớn như bánh xe và phải thắp sáng liên tục, không được gián đoạn trong 49 ngày. Ngoài ra, họ cần tạo lập tràng phan năm màu với độ dài của 49 gang tay, và phóng sanh các loài động vật, cho đến 49 loài hay nhiều hơn nữa. Như vậy thời sẽ tai qua nạn khỏi, chẳng bị chết oan hay gặp ác quỷ bắt giữ.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu những quán đảnh vương thuộc dòng dõi quý tộc, khi có tai nạn khởi lên như:
– dân chúng mắc nạn bệnh dịch, – nạn nước ngoài xâm lăng, – nạn nội loạn trong nước, – nạn tinh tú biến đổi quái dị, – nạn nhật thực nguyệt thực, – nạn mưa gió trái mùa, – hoặc nạn quá thời không mưa.
Khi ấy, những quán đảnh vương thuộc dòng dõi quý tộc kia phải vì hết thảy hữu tình mà khởi lòng từ bi và ân xá tội nhân. Rồi y theo Pháp cúng dường đã nói ở trên mà cúng dường Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia. Do thiện căn này cùng sức bổn nguyện của Đức Như Lai kia, nên sẽ khiến cho nước đó liền được an ổn, mưa gió thuận hòa, các loại hạt chín rộ, tất cả hữu tình được vui vẻ và không có bệnh tật. Ở trong nước đó sẽ không có bạo lực hay quỷ tiệp tật làm não loạn chúng sanh. Tất cả điềm xấu thảy liền ẩn mất; còn những quán đảnh vương thuộc dòng dõi quý tộc thì được mạnh khỏe, thọ mạng lâu dài, thân tự tại không bệnh, và mọi việc đều thêm nhiều lợi ích.
Khánh Hỷ! Nếu hoàng hậu, vương phi, công chúa, thái tử, hoàng tử, đại thần, phụ tướng, thị nữ trong cung, quần thần bá quan, hay lê dân bá tánh nào mắc bệnh khổ sở cùng những ách nạn khác, thì họ cũng nên tạo lập thần phan năm màu, thắp đèn và để cháy sáng liên tục, phóng sanh các loại chúng sanh, rải nhiều thứ hoa khác nhau, và đốt những nén hương quý. Như thế, bệnh tật sẽ được tiêu trừ và thoát khỏi ách nạn.”
Lúc bấy giờ ngài Khánh Hỷ hỏi Cứu Thoát Bồ-tát:
“Thưa Thánh giả! Làm thế nào để tăng thêm tuổi thọ khi mà thọ mạng đã hết?”
Cứu Thoát Bồ-tát đáp rằng:
“Đại đức! Ngài không nghe Như Lai nói có chín loại chết oan hay sao? Vì thế ngài nên khuyên mọi người hãy thắp đèn cùng tạo lập tràng phan tục mạng và làm các việc phước đức. Do bởi tu phước nên trọn đời họ sẽ không trải qua các bệnh hoạn đau đớn.”
Ngài Khánh Hỷ hỏi rằng:
“Chín loại chết oan là những gì?”
Cứu Thoát Bồ-tát đáp rằng:
“Nếu có các hữu tình nào tuy mắc bệnh nhẹ nhưng chẳng có thuốc uống cùng không thầy khám bệnh, hoặc giả như có thầy nhưng lại cho lầm toa nên phải bị chết một cách oan uổng. Lại có người tin theo tà ma ngoại đạo ở thế gian, nghe mấy thầy yêu nghiệt nói lời họa phước vu vơ rồi đâm ra sợ hãi, lòng chẳng được an ổn, rồi đi bói quẻ xem việc tai họa. Vì để cúng tế quỷ thần nên họ giết mọi loài chúng sanh, cầu xin sơn tinh yêu quái giúp đỡ hoặc ban phước. Mặc dầu mong muốn trường thọ nhưng kết cuộc là chẳng thể nào đạt được. Do bởi ngu si mê muội và tin theo tà kiến điên đảo, nên khiến cho mình bị chết một cách oan uổng. Sau khi chết, họ phải đọa địa ngục mà chẳng có kỳ hạn thoát khỏi. Đây là loại chết oan thứ nhất.
Loại chết oan thứ nhì là bị luật vua tử hình.
Loại chết oan thứ ba là đi săn bắn vui chơi, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ và bị loài phi nhân đoạt mất tinh khí.
Loại chết oan thứ tư là bị lửa thiêu.
Loại chết oan thứ năm là bị nước dìm.
Loại chết oan thứ sáu là bị các loài thú dữ ăn thịt.
Loại chết oan thứ bảy là bị rơi xuống ven núi.
Loại chết oan thứ tám là bị trúng thuốc độc, bùa ngải trù ếm, hay khởi thi quỷ làm hại.
Loại chết oan thứ chín là bị đói khát khốn khổ mà chết.
Đây là chín loại chết oan mà Như Lai đã lược nói. Ngoài ra còn có vô lượng những loại chết oan khác nữa, thật khó mà kể cho xuể.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Diêm Vương là vị chủ lãnh cai quản về sổ bộ trong thế gian.
Nếu có các hữu tình nào bất hiếu với cha mẹ, gây tạo năm tội ngỗ nghịch, phá hủy hay phỉ báng Tam Bảo, vi phạm luật pháp, hoặc dối trá lừa gạt, thì Diêm Vương Thiên Tử khảo xét và trừng phạt tùy theo tội nặng nhẹ.
Vì thế, tôi nay khuyên các chúng sanh hãy thắp đèn, tạo lập tràng phan, phóng sanh tu phước. Như vậy họ sẽ vượt qua mọi khổ ách và không gặp phải những tai nạn.”
Lúc bấy giờ có 12 đại tướng tiệp tật đang ở trong chúng hội. Tên các ngài là: Đại tướng Cực Úy, Đại tướng Kim Cang, Đại tướng Chấp Nghiêm, Đại tướng Chấp Tinh, Đại tướng Chấp Phong, Đại tướng Cư Xứ, Đại tướng Chấp Lực, Đại tướng Chấp Ẩm, Đại tướng Chấp Ngôn, Đại tướng Chấp Tưởng, Đại tướng Chấp Động, và Đại tướng Viên Tác.
12 đại tướng tiệp tật này, mỗi vị có 7.000 quỷ tiệp tật làm quyến thuộc, họ đều đồng thanh bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Chúng con nay nhờ sức uy thần của Phật mà nghe được danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên không còn lo sợ đường ác nữa. Tất cả chúng con đều đồng nhất tâm Quy Y Phật Pháp Tăng cho đến trọn đời; nguyện sẽ bảo hộ hết thảy hữu tình và làm nhiều việc lợi ích để họ được an vui. Nếu ở bất cứ thôn làng, thành thị, quốc gia, hay núi rừng hẻo lánh nào mà có Kinh này lưu truyền, hoặc có người cung kính cúng dường và thọ trì danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì quyến thuộc chúng con sẽ hộ vệ người ấy, khiến cho họ đều thoát khỏi tất cả khổ nạn và những điều cầu mong cũng được toại ý. Hoặc có người cầu mong lành bệnh và thoát trừ ách nạn, họ nên đọc tụng Kinh này, lấy sợi chỉ năm màu và niệm danh hiệu của chúng con rồi thắt thành gút. Khi đã được như sở nguyện thì hãy nên tháo ra.”
Lúc bấy giờ Thế Tôn ngợi khen các vị đại tướng tiệp tật rằng:
“Lành thay, lành thay! Này các đại tướng tiệp tật! Các ông muốn báo đáp ân đức của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì nên thường như vậy mà làm lợi ích an vui cho hết thảy hữu tình.”
Lúc bấy giờ ngài Khánh Hỷ bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Pháp môn này tên là gì, và chúng con phụng trì như thế nào?”
Phật bảo ngài Khánh Hỷ:
“Pháp môn này tên là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, cũng gọi là Thần Chú Kiết Nguyện của 12 Vị Thần Tướng để Làm Lợi Ích Hữu Tình, và cũng gọi là Bạt Trừ Tất Cả Nghiệp Chướng. Hãy nên phụng trì như vậy.”
Lúc Thế Tôn nói lời ấy xong, chư đại Bồ-tát cùng các vị đại Thanh Văn, quốc vương, đại thần, Phạm Chí, cư sĩ, trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, đại mãng xà, người và phi nhân, và tất cả đại chúng khi nghe lời Phật dạy, họ đều sanh tâm đại hoan hỷ và tín thọ phụng hành.