1
2
3
4
5
6
7

CUỐN 2

Phẩm 3: Ví Dụ

Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất hoan hỷ phấn chấn, tức thì đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay, từ đức Thế Tôn, con nghe được tiếng nói của pháp này, trong lòng phấn chấn, được sự chưa từng có. Tại sao, vì ngày trước, cũng từ đức Thế Tôn, con nghe pháp này, thấy chư vị Bồ tát tiếp nhận lời ghi làm Phật mà chúng con không được dự vào việc ấy, nên rất cảm thương cho mình bị loại khỏi sự thấy biết không có giới hạn của đức Thế Tôn. Bạch đức Thế Tôn, con thường ngồi hay đi một mình dưới cây trong rừng, nghĩ rằng chúng con đồng nhập pháp tánh, tại sao đức Thế Tôn cứu độ cho bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ? Nhưng đó là lỗi tại chúng con, không phải tại đức Thế Tôn. Bởi lẽ nếu chúng con biết mong đợi đức Thế Tôn nói cho về nhân tố thành tựu tuệ giác vô thượng, thì chắc chắn đã được cứu độ bằng giáo pháp cỗ xe vĩ đại. Nhưng chúng con không nhận thức được sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn; mới nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, gặp giáo pháp thấp nhỏ là chúng con tin tưởng, tiếp nhận, tư duy và chứng lấy. Do đó, bạch đức Thế Tôn, hồi nào đến giờ, con thường tự trách suốt ngày suốt đêm. Nhưng ngày nay, từ đức Thế Tôn, con được nghe cái pháp chưa từng có mà trước đây con chưa nghe, nên hết sạch hoài nghi, thân tâm thư thái, hoàn toàn ổn định. Ngày nay con mới biết mình thật con Phật, sinh ra từ sự giáo huấn của Phật, sinh ra từ sự hóa cải của Pháp, hưởng được tài sản về Pháp của Phật.

Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(1) Nay nghe tiếng nói

của pháp như vầy,

con cảm nhận được

sự chưa từng có,

trong lòng phát sinh

nỗi mừng to lớn,

vì đã phá hết

mạng lưới hoài nghi.

Xưa nay con nhờ

Thế Tôn giáo hóa,

ngày nay không mất

cỗ xe vĩ đại.

(2) Tiếng nói Thế Tôn

thật là hiếm có,

trừ được lo buồn

cho bao chúng sinh.

Con là một người

đã hết phiền não,

mà nghe tiếng ấy

cũng hết lo buồn.

(3) Ở trong hang núi

hay dưới cây rừng,

con ngồi trầm tư

hoặc đi kinh hành,

lòng thường nghĩ đến

sự thể sau đây.

(4) — Sự thể mà con

rất tự thống trách:

tại sao chính mình

tự lừa gạt mình! —

Rằng cũng toàn là

đệ tử Thế Tôn,

cũng đồng nhập được

pháp tánh thuần khiết,

vậy mà chúng con

trong thì vị lai

không thể tuyên thuyết

về pháp vô thượng!

(5) Băm hai tướng quí

toàn màu hoàng kim,

mười đại năng lực

tám sự giải thoát,

chúng con cùng chung

pháp tánh đồng nhất,

vậy mà không được

những thành quả ấy!

(6) Cho đến tám mươi

vẻ đẹp tinh túy,

cùng với mười tám

những sự đặc biệt,

thành quả như vậy

chúng con mất cả!

(7) Mỗi khi con đi

kinh hành một mình,

hồi tưởng Thế Tôn

ở giữa các chúng,

rõ ràng danh ngài

vang động mười phương,

ích lợi rộng lớn

cho bao chúng sinh.

Hồi tưởng như vậy,

con nghĩ phận mình

mất hết thành quả

cao cả đến thế —

Thì ra chính con

đã dối gạt mình!

(8) Con thường ngày đêm

nghĩ sự thể này,

và muốn đem ra

xin hỏi Thế Tôn

như thế thật sự

con mất, không mất?

(9) Mỗi khi được thấy

Thế Tôn ca tụng

chư vị Bồ tát,

thì cả ngày đêm

con suy ngẫm mãi

về sự kiện ấy.

(10) Nay con được nghe

tiếng nói Thế Tôn,

biết ngài tùy nghi

phương tiện thuyết pháp,

cuối cùng thuyết thẳng

về pháp hoàn hảo

ngoài tầm nghĩ bàn,

làm cho các chúng

đều được đến ngồi

nơi Bồ đề tràng.

(11) Phần con thì vốn

vướng mắc tà kiến,

làm thầy các vị

Phạn chí ngoại đạo,

Thế Tôn biết rõ

tâm tính của con,

nhổ cho tà kiến

chỉ cho Niết bàn.

(12) Con loại trừ hết

tư tưởng tà kiến,

nơi nguyên lý Không

con được chứng lấy,

bây giờ lòng con

tự cho là mình

đã được Niết bàn.

Nhưng mà ngày nay

con mới tự biết

chưa thật Niết bàn.

(13) Phải đến lúc nào

con được làm Phật

có đủ tất cả

băm hai tướng quí,

chư thiên, nhân loại,

tám bộ long thần

ai cũng tôn kính,

bấy giờ mới được

tự xưng đã chứng

Niết bàn hoàn toàn.

(14) Ở giữa đại hội

các chúng như vầy,

đức Thế Tôn nói

con sẽ làm Phật,

con nghe tiếng pháp

ngài nói như vậy

thì sạch hết cả

hoài nghi hối tiếc.

(15) Khi con mới nghe

đức Thế Tôn nói,

trong lòng cả sợ

ngờ vực hết sức:

phải chăng đây là

ma vương làm Phật

để gây rối loạn

tâm trí của con?

(16) Nhưng rồi Thế Tôn

thiện dụng các thứ

yếu tố, ví dụ,

lời chữ tuyệt hảo,

làm cho lòng con

yên như biển cả:

nghe rồi lòng con

sạch hết ngờ vực.

(17) Thế Tôn nói rõ

vô lượng Phật đà

đã nhập Niết bàn

trong thì quá khứ,

với sự xác lập

trong cách phương tiện,

ngài nào cũng nói

về pháp như vầy.

(18) Ngài nói Phật đà

hiện tại vị lai

số lượng nhiều đến

không thể tính kể,

ngài nào cũng dùng

cách thức phương tiện

mà tuyên thuyết đến

pháp như thế này.

(19) Ngài nhắc nay ngài

làm như thế nào

trong sự xuất thế

và sự xuất gia,

trong sự thành tựu

tuệ giác vô thượng,

trong sự chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp,

cho thấy chính ngài

cũng là vận dụng

cách thức phương tiện

mà nói pháp này.

(20) Thế Tôn công bố

con đường đích thực,

việc ấy ma vương

không thể làm được.

Vì vậy mà con

biết chắc chắn rằng

không phải ma vương

làm ra đức Phật,

chỉ vì con sa

vào lưới ngờ vực

nên bảo đó là

ma vương làm ra.

(21) Tiếng nói dịu ngọt

của đức Thế Tôn

cực kỳ thâm thúy,

diễn đạt về pháp

cực kỳ trong suốt.

Nghe tiếng nói ấy

lòng con sinh ra

vui mừng hết sức,

vì nó hết hẳn

ngờ vực hối tiếc,

đứng vững ở trong

trí tuệ chắc thật.

(22) Là con biết chắc

mình sẽ làm Phật,

chư thiên nhân loại

ai cũng tôn kính,

chuyển đẩy bánh xe

chánh pháp vô thượng,

giáo hóa khai thị

chư vị Bồ tát.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, ngày nay, ở giữa đại hội chư thiên, nhân loại, sa môn, bà la môn, đại loại các chúng như thế này, Như Lai nói rõ cho tôn giả biết, xưa kia, nơi hai vạn ức đức Phật, Như Lai vì tuệ giác vô thượng mà luôn luôn giáo hóa cho tôn giả, tôn giả cũng mãi mãi theo học Như Lai. Như Lai đem phương tiện mà dắt dẫn tôn giả, nên đời này tôn giả vẫn được tái sinh trong giáo pháp Như Lai.

Xá Lợi Phất, xưa kia Như Lai dạy cho tôn giả phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác Phật đà, vậy mà ngày nay tôn giả quên hết, tự cho mình đã thực hiện Niết bàn. Ngày nay Như Lai muốn làm cho tôn giả nhớ lại chí nguyện ban đầu, và đường đi của chí nguyện ấy, nên sẽ nói cho chư vị Thanh văn mà tôn giả là người đứng đầu, về bản kinh Đại thừa này, mang tên Pháp Hoa, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn.

Xá Lợi Phất, trong thì vị lai, tôn giả trải qua thời kỳ nhiều đến vô lượng, phụng sự nhiều ức đức Phật, kính giữ chánh pháp của các ngài, đi hết đường đi của Bồ tát rồi, sẽ được thành Phật với danh hiệu Hoa Quang, đủ mười đức hiệu: Bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua Niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của đức Hoa Quang tên là Ly Cấu, bằng phẳng, sạch sẽ, đẹp đẽ, yên vui, sung túc, trời người đông đảo. Đất bằng lưu ly, những đường ngã tám được chạy dây vàng mà phân chia lề đường. Lề đường nào cũng có những hàng cây bằng bảy chất liệu quý báu, hoa trái có luôn.

Đức Hoa Quang cũng đem giáo pháp của ba cỗ xe mà giáo hóa chúng sinh. Xá Lợi Phất, khi đức Hoa Quang xuất thế dẫu không phải thời kỳ dữ dội, nhưng vì chí nguyện ban đầu nên ngài tuyên thuyết đủ hết giáo pháp của ba cỗ xe. Thời kỳ của đức Hoa Quang tên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Tại sao được gọi như vậy? Vì trong quốc độ của đức Hoa Quang lấy chư vị Bồ tát làm châu ngọc lớn nhất. Chư vị Bồ tát ấy vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, toán số ví dụ không thể xác định, phi trí lực của Phật thì không ai biết hết. Chư vị Bồ tát ấy muốn đi thì hoa ngọc nâng chân. Chư vị Bồ tát ấy không phải mới phát tâm, mà toàn là lâu đời gieo trồng gốc rễ công đức, và tu hành phạn hạnh một cách trong sáng ở nơi chư Phật nhiều đến vô số vạn ức, thường được chư Phật tán dương, thường xuyên tu tập tuệ giác chư Phật, có đủ thần thông quảng đại, khéo biết hết thảy cửa ngõ chánh pháp, ngay thẳng chứ không dối trá, trí nhớ rất vững. Bồ tát như vậy đầy cả quốc độ.

Xá lợi Phất, đức Hoa Quang sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trừ thì gian làm vương tử, chưa thành Phật đà. Người trong quốc độ của ngài sống lâu tám thời kỳ bậc nhỏ. Đức Hoa Quang, sau mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trao cho Bồ tát Kiên Mãn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, bằng cách bảo chư vị tỷ kheo, rằng vị bồ tát Kiên Mãn này sẽ kế tiếp làm Phật với danh hiệu Hoa túc an hành, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích Ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Quốc độ của vị này cũng y như đã nói ở trên. Xá lợi Phất, đức Hoa Quang nhập diệt rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại ba mươi hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự tồn tại cũng ba mươi hai thời kỳ bậc nhỏ.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(23) Này Xá lợi Phất,

trong thì vị lai

tôn giả thành đấng

Tuệ giác khắp cả,

danh hiệu của ngài

tên là Hoa Quang,

sẽ cứu độ cho

vô lượng các chúng.

(24) Tôn giả phụng sự

vô số Phật đà,

thực hành đầy đủ

việc làm bồ tát,

thành tựu bao nhiêu

phẩm chất Phật đà,

trong đó gồm có

mười đại năng lực,

thì thực hiện được

tuệ giác vô thượng.

(25) Vô số thời kỳ

qua rồi thì đến

thời kỳ có tên

Đại Bảo Trang Nghiêm,

quốc độ có tên

Ly Cấu thế giới:

thế giới trong suốt

không một vết dơ.

(26) Đất bằng lưu ly,

dây vàng chia đường,

cây bằng bảy báu

màu sắc xen nhau

mà lại thường xuyên

hoa có trái có.

(27) Chư vị Bồ tát

của cõi Ly Cấu

thì có trí nhớ

luôn luôn vững chắc;

thần thông quảng đại,

ba la mật đa,

các pháp như vậy

có đủ tất cả;

khéo học khéo tu

đường đi Bồ tát

ở nơi chư Phật

nhiều đến vô số.

Bồ tát đại sĩ

đến như thế này

được sự giáo hóa

của đức Hoa Quang.

(28) Đức Phật Hoa Quang

khi làm vương tử

bỏ ngôi quốc chúa

bỏ cuộc vinh hoa,

cái thân cuối cùng

được đem xuất gia

và thành tựu được

tuệ giác Phật đà.

(29) Đức Phật Hoa Quang

sống đến mười hai

thời kỳ bậc nhỏ,

người quốc độ ngài

sống cũng đến số

tám thời kỳ ấy.

(30- Đức Phật Hoa Quang

31) nhập niết bàn rồi,

giáo pháp nguyên chất

tồn tại bâm hai

thời kỳ bậc nhỏ,

hóa độ chúng sinh

một cách rộng rãi.

Giáo pháp nguyên chất

kết thúc xong rồi,

giáo pháp tương tự

tồn taị cũng đến

số bâm hai ấy.

Xá lợi của ngài

phân bủa rộng ra,

nhân loại chư thiên

cùng nhau hiến cúng.

(32) Việc đức Hoa Quang

là như thế đó.

Bậc thánh hoàn hảo

phước đức tuệ giác

cực kỳ siêu việt

tuyệt đối như vậy,

chính là hậu thân

của Xá lợi Phất,

do đó tôn giả

hãy vui mừng lên!

Lúc ấy bốn chúng tám bộ và các chúng khác, nghe thấy tôn giả Xá lợi Phất đối trước đức Thế Tôn tiếp nhận lời ghi được thành tuệ giác vô thượng, thì lòng rất hoan hỷ, phấn chấn vô cùng, người nào cũng cởi những tấm vải thượng thặng đang khoác trên mình mà hiến cúng đức Thế Tôn. Đế Thích, Phạn Vương, cùng vô số thiên nhân, cũng đem vải tuyệt diệu của chư thiên, lại đem hoa quí báu của chư thiên, đại loại như hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, tung rãi mà hiến cúng đức Thế Tôn. Vải tuyệt diệu của chư thiên được tung rải thì tự đứng lại mà xoay chuyển trong không gian. Ở trong không gian còn có trăm ngàn vạn thứ nhạc khí của chư thiên đồng thời hòa tấu, còn có mưa xuống các loại hoa khác nữa cũng của chư thiên. Chư thiên hiến cúng như vậy và thưa, bạch đức Thế Tôn, xưa kia ở Lộc uyển, lần đầu tiên đức Thế Tôn đã chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, ngày nay đức Thế Tôn lại chuyển đẩy bánh xe chánh pháp cực đại và tối thượng.

Chư thiên muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(33) Xưa đức Thế Tôn

ở nơi Lộc uyển

chuyển đẩy bánh xe

pháp bốn chân lý,

phân tích trạng thái

sinh ra diệt đi

ở nơi tất cả

năm phần hợp thể.

(34) Nay đức Thế Tôn

lại còn chuyển đẩy

bánh xe chánh pháp

cực đại tối thượng.

Chánh pháp như vậy

cực kỳ sâu xa,

thế gian ít có

người nào tin nổi.

(35) Từ xưa đến nay

chúng con thường nghe

Thế Tôn tuyên thuyết

bao nhiêu chánh pháp,

nhưng chưa bao giờ

được nghe chánh pháp

tối thượng, tinh túy,

sâu xa như vầy.

(36- Thế Tôn tuyên thuyết

37) chánh pháp như vầy,

tất cả chúng con

xin kính tùy hỷ.

Ngài Xá lợi Phất

bậc đại trí tuệ,

ngày nay tiếp nhận

Thế Tôn thọ ký,

chúng con rồi đây

cũng được như vậy:

cũng sẽ chắc chắn

được làm Phật đà,

bậc tối vô thượng

trong cả thế gian.

(38) Tuệ giác Thế Tôn

trên tầm nghĩ bàn,

Thế Tôn tùy nghi

phương tiện tuyên thuyết.

Bao nhiêu phước đức

chúng con có được

ở trong đời này

hay trong đời trước,

cùng với phước đức

phụng sự Thế Tôn,

chúng con xoay cả

về nơi tuệ giác

của đức Thế Tôn,

nguyện được tuệ ấy.

Lúc ấy tôn giả Xá Lợi Phất thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay con không còn hoài nghi hối tiếc gì nữa, khi con đích thân đối trước đức Thế Tôn được tiếp nhận lời ngài thọ ký cho con thành tựu tuệ giác vô thượng. Nhưng một ngàn hai trăm vị tâm trí tự tại giải thoát này, mà xưa kia khi ở trong địa vị tu học tiếp tục, đức Thế Tôn thường dạy rằng chánh pháp Như Lai có năng lực thoát ly sinh già bịnh chết, cứu cánh Niết bàn; những vị ấy, và những vị tu học tiếp tục hay tu học hoàn tất, ai cũng đem cái việc thoát ly chấp bản ngã và chấp có không mà cho rằng mình được Niết bàn. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, các vị nghe đến điều chưa từng nghe, rơi cả vào sự nghi hoặc.

Lành thay đức Thế Tôn, xin ngài giải thích cho cả bốn chúng về nguyên ủy của điều ấy, để cho các vị thoát khỏi mọi sự hoài nghi hối tiếc. Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, Như Lai đã chẳng mới nói trước đây hay sao, rằng chư Phật Như Lai đem các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ mà phương tiện thuyết pháp, pháp ấy toàn là vì tuệ giác vô thượng, bởi lẽ pháp ấy toàn là để giáo hóa Bồ tát. Nhưng, Xá Lợi Phất, bây giờ Như Lai lấy một sự ví dụ để nói rõ thêm về ý nghĩa ấy. Những người có trí thì do sự ví dụ mà được lý giải.

Xá Lợi Phất, ví như tại một khu dân cư của một thủ phủ, có một đại trưởng giả, tuổi già, lắm của, nhiều nhà đất và tôi tớ. Ngôi nhà của ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa. Nhiều người, một trăm hai trăm cho đến năm trăm, cùng ở trong đó. Nhưng ngôi nhà ấy, lầu gác nhà chính mà cũng đã hư cũ, tường vách lở rã, chân cột hư mục, rường nhà và đòn nóc đã xiêu nghiêng cả. Và đột nhiên bốn phía cùng lúc dậy lửa, đốt cháy nhà cửa.

Con của đại trưởng giả có đến mười người, hoặc đến ba mươi người, vẫn ở trong ngôi nhà ấy. Đại trưởng giả thấy lửa dữ bốn phía dậy lên thì hết sức kinh sợ, nghĩ rằng dầu ta có thể do nơi cái cửa của ngôi nhà đang cháy này mà thoát ra một cách an toàn, nhưng các con ta thì ở trong nhà lửa như vầy mà vẫn ham chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ. Hơi lửa đã xáp đến nơi mình, nóng rát như cắt mà lòng vẫn không chán không lo, không có ý gì thoát chạy.

Đại trưởng giả lại nghĩ, thân mình và cánh tay của ta rất mạnh, ta có thể dùng vạt áo hoặc ghế đẳng, gom các con lại ôm mà chạy ra. Nhưng đại trưởng giả lại nghĩ, ngôi nhà như vầy chỉ có một cửa, cửa ấy lại nhỏ hẹp. Các con nhỏ dại, chưa biết gì hết, lại lưu luyến đam mê chỗ chúng đang chơi, nên có thể có đứa rơi xuống mà bị lửa đốt cháy. Vậy ta nên nói cho các con biết sự thể khủng khiếp, rằng ngôi nhà đã cháy, phải thoát cho mau, đừng để lửa đốt cháy mất.

Nghĩ rồi, đại trưởng giả nói hết cho các con nghe những điều mình nghĩ, và dục các con cấp tốc chạy ra. Nhưng, người cha thương xót và khéo bảo, mà những đứa con của ông vẫn ham chơi giỡn, không tin không sợ, không có lòng nào muốn ra, cũng không biết lửa là gì, nhà ra sao, cháy mất là thế nào, chỉ biết chạy qua chạy lại, giỡn cười và nhìn cha mà thôi.

Đại trưởng giả thấy vậy nghĩ rằng, ngôi nhà này đang bị lửa dữ đốt cháy, ta với con ta không thoát gấp thì chắc chắn bị đốt. Ta phải lập chước phương tiện để làm cho các con khỏi bị tai họa. Là cha nên đại trưởng giả biết trước đây tâm lý các con mỗi đứa có một sở thích. Những đồ chơi quý, đẹp và lạ, ý chúng chắc chắn rất ham. Ông bảo, cha có những đồ chơi mà các con rất thích. Những đồ ấy hiếm có, khó được, các con không lấy thì sau tất hối tiếc. Những đồ ấy là các cỗ xe dê, các cỗ xe hươu và các cỗ xe bò, hiện cha để cả ở ngoài cửa, các con có thể ra lấy mà chơi. Hãy chạy ra khỏi ngôi nhà lửa này tức khắc, các con muốn chơi thứ nào cha cũng cho cả. Các con nghe cha nói đến đồ chơi vừa quý vừa đẹp thì trúng ý của chúng, nên đứa nào cũng đâm ra hăng hái, xô nhau, đẩy nhau, đua nhau mà chạy, giành nhau mà thoát khỏi nhà lửa.

Khi đại trưởng giả thấy các con ra được an toàn, ngồi cả nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư, không còn gì phải e ngại nữa, thì lòng ông khoan khoái, vui mừng rộn rã. Bấy giờ các con ông cùng thưa, đồ chơi cha hứa, xe dê xe hươu xe bò ở đâu, xin cha cho liền đi.

Xá Lợi Phất, khi ấy đại trưởng giả cấp cho các con mỗi đứa một cỗ xe lớn như nhau. Cỗ xe ấy cao mà lại rộng, trang hoàng bằng các thứ ngọc. Lan can bao quanh, chuông nhỏ treo bốn phía. Phần trên thì mui trần được căng riềm màn, và hai thứ này cũng được trang trí bằng những thứ ngọc kỳ lạ, màu sắc xen nhau. Những đường dây kết ngọc thì mắc như đan với nhau, kết thắt dải hoa mà treo rủ xuống. Lại phủ bằng lụa trắng có tua với chỉ xâu hạt ngọc, và đặt những đệm gối màu hồng. Cỗ xe được kéo bằng con bò trắng, da dẻ đầy đặn, sạch sẽ, thân hình đã lớn lại đẹp, gân sức rất mạnh, bước đi bằng phẳng ngay ngắn, và đi mau như gió. Cỗ xe còn có nhiều kẻ thị tùng để hầu hạ và chăm sóc. Đại trưởng giả tài sản giàu có vô lượng, mọi thứ kho tàng đều tràn đầy, nên ông nghĩ, với tài sản ấy, ta không nên cho các con những cỗ xe xấu nhỏ. Những đứa bé này toàn là con ta, ta thương đồng đều. Những cỗ xe lớn làm bằng bảy chất liệu quý báu như trên, ta có vô số. Ta nên đồng đều mà cho các con, không nên đối xử sai biệt. Tài sản của ta chu cấp cả nước còn không thiếu, huống chi các con. Bấy giờ các con của đại trưởng giả cùng ngồi những cỗ xe lớn, được sự chưa từng có, ngoài lòng mong ước.

Xá Lợi Phất, tôn giả nghĩ thế nào, đại trưởng lão đồng đều cấp cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không?

Tôn giả Xá lợi Phất thưa, không, bạch đức Thế Tôn. Đại trưởng giả ấy chỉ cốt làm cho các con ông thoát được hỏa hoạn, toàn vẹn tính mạng, nên không phải dối trá. Tính mạng toàn vẹn là kể như đã được đồ chơi đẹp và thích rồi, huống chi đây chỉ là chước phương tiện của ông cứu các con ông thoát khỏi nhà lửa. Bạch đức Thế Tôn, đại trưởng giả ấy đến nỗi không cho một cỗ xe nhỏ nhất, cũng không phải là dối trá, vì ông vốn nghĩ ta lập chước phương tiện để làm cho các con thoát ra. Vì nghĩ như vậy nên ông đâu có dối trá. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng, muốn lợi cho các con nên đồng đều cấp cho những cỗ xe lớn.

Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tốt lắm, đúng như lời tôn giả nói. Xá lợi Phất, Như Lai cũng như đại trưởng giả ấy. Như Lai là từ phụ của cả thế gian. Như Lai không còn một cách hoàn toàn những sự kinh khủng, suy biến, lo buồn, những sự đen tối che phủ của vô minh.

Như Lai thành tựu một cách đầy đủ sự thấy biết không có giới hạn mà nội dung gồm có đại năng lực và sự không sợ, có sức mạnh đại thần thông và sức mạnh đại tuệ giác, có phương tiện toàn hảo và trí tuệ toàn hảo, lòng hiền từ bao la và lòng thương xót bao la thì vĩnh viễn không còn biết chán biết mệt.

Rồi vì thường xuyên tìm kiếm những việc tốt lành mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên Như Lai sinh vào nhà lửa ba cõi vừa lửa, vừa mục để cứu vớt chúng sinh vượt qua lửa dữ của sinh già bịnh chết, của lo buồn đau khổ, của ba độc tố vô minh, dục vọng và hận thù, giáo hóa cho họ đạt được tuệ giác vô thượng.

Như Lai thấy chúng sinh bị nung nấu thiêu đốt bởi sinh già bịnh chết, bởi lo buồn đau khổ. Lại vì năm thứ dục lạc, vì tiền tài danh lợi mà chịu đủ khổ sở. Ham hố đeo đuổi những thứ ấy nên hiện tại đã chịu đau khổ đủ cách, mai sau còn bị sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh. Giả sử sinh lên chư thiên hay sinh trong nhân loại thì bần cùng khốn khổ, khổ vì ân ái mà biệt ly, khổ vì thù ghét mà chạm mặt. Cùng loại như vậy còn có bao nhiêu đau khổ khác nữa, chúng sinh chìm ngập trong đó mà vẫn vui thích, chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ, không hề phát chán, không mong thoát ly. Trong nhà lửa ba cõi, chúng sinh bôn ba qua lại, gặp phải khổ lớn mà không cho là tai họa. Xá lợi Phất, Như Lai thấy như vậy nên nghĩ rằng Như Lai là từ phụ của chúng sinh, Như Lai phải cứu vớt khổ nạn cho họ, cho họ vô lượng vô biên cái vui của tuệ giác Phật đà để họ được vui chơi trong đó.

Nhưng mà, Xá lợi Phất, Như Lai nghĩ tiếp, nếu Như Lai chỉ dùng sức mạnh thần thông và sức mạnh tuệ giác, bỏ cách nói phương tiện, chỉ tán dương thẳng cho chúng sinh nghe về sự thấy biết của Phật đà mà nội dung gồm đủ các phẩm chất đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, thì chúng sinh không thể nhờ vậy mà được giải thoát. Vì sao, vì chúng sinh chưa khỏi sinh già bịnh chết, lo buồn đau khổ; họ đang bị nung đốt trong nhà lửa ba cõi thì còn làm sao lĩnh hội được tuệ giác Phật đà.

Xá lợi Phất, như đại trưởng giả có sức mạnh của thân hình và cánh tay mà không dùng được, chỉ dùng được phương tiện thiết tha khuyên bảo, cứu các con thoát khỏi cái họa nhà lửa, rồi sau đó cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu. Như Lai cũng vậy, dẫu có mười đại năng lực và bốn sự không sợ mà không dùng được, dùng được chỉ có phương tiện của tuệ giác: ở trong nhà lửa ba cõi, vì cứu thoát chúng sinh nên nói cho họ về ba cỗ xe là cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà, khuyến cáo rằng các người đừng ham ở trong nhà lửa ba cõi, đừng ham năm thứ hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị và tiếp xúc, loại thô xấu tồi tệ. Tham thì ái, và như vậy là bị thiêu đốt. Các người hãy cấp tốc thoát khỏi ba cõi thì sẽ được ba cỗ xe: cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà.

Như Lai bảo đảm việc ấy, không dối gạt chút nào. Các người hãy nỗ lực mà tinh tiến. Như Lai thiện dụng phương tiện như vậy mà dẫn dụ chúng sinh tiến lên, lại bảo, các người phải biết ba cỗ xe này toàn là những giáo pháp được các vị thánh trí tán tụng, tự tại chứ không lệ thuộc, không nương tựa cầu hồ. Ngồi ba cỗ xe này thì vui thú với bao phẩm chất thuần khiết đại loại như năm căn bản, năm năng lực, bảy thành phần tuệ giác, tám thành phần đường chánh, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội, thể hiện vô lượng yên vui.

Xá lợi Phất, nếu người nào bản thân có khả năng tuệ giác, theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng ước muốn cấp tốc thoát ra ba cõi nên cầu tự Niết bàn, đó là theo cỗ xe Thanh văn, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe dê mà chạy khỏi nhà lửa. Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác tự nhiên, thích đơn độc, khéo vắng lặng, biết sâu nguyên lý duyên khởi của các pháp, đó là theo cỗ xe Duyên giác, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe hươu mà khỏi nhà lửa.

Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác hoàn toàn là tuệ giác Phật đà, tuệ giác tự nhiên, tuệ giác không thầy, nói tóm là cầu sự thấy biết của Phật đà mà nội dung có đủ các phẩm chất như: mười đại năng lực, bốn sự không sợ, và cầu như vậy là vì thương tưởng, muốn đem lại yên vui cho vô số chúng sinh, ích lợi cho tất cả chư thiên nhân loại, cứu độ cho hết thảy đều được giải thoát, đó là theo cỗ xe vĩ đại, Bồ tát cầu xe vĩ đại ấy nên gọi là người vĩ đại, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe bò mà chạy khỏi nhà lửa.

Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả thấy các con thoát khỏi nhà lửa một cách an toàn, đến chỗ không còn sợ hãi rồi, tự biết tài sản vô lượng nên, một cách đồng đều, chỉ đem những cỗ xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng vậy. Là Từ phụ của chúng sinh, nên Như Lai thấy vô số con số ức ngàn chúng sinh do cái cửa giáo pháp của Như Lai mà thoát khỏi cái khổ, cái chỗ nguy hiểm khủng khiếp là ba cõi, được Niết bàn yên vui rồi, liền nghĩ, Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực, bốn sự không sợ; các loại chúng sinh vừa nói đều là con của Như Lai, Như Lai phải đồng đều đem cỗ xe vĩ đại mà cho họ.

Như Lai không để cho có ai chỉ được Niết bàn riêng biệt; người nào Như Lai cũng đem Niết bàn của Như Lai mà làm cho họ Niết bàn. Các loại chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi như trên, người nào Như Lai cũng cho chính những yếu tố vui thú của Như Lai là: đại loại như bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát…

Yếu tố như vậy toàn một sắc thái và một phẩm chất, ấy là được chư vị thánh trí ca tụng và có năng lực phát sinh cái vui trong suốt, tinh túy và bậc nhất.

Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả ban đầu đem cả ba loại xe mà dẫn dụ các con, nhưng sau đó chỉ cho những cỗ xe cao lớn, những cỗ xe trang hoàng bảo vật và an toàn bậc nhất. Cho như vậy mà đại trưởng giả không có cái lỗi dối trá. Như Lai cũng vậy, không dối trá gì cả trong cái việc ban đầu nói ba cỗ xe để dẫn dụ chúng sinh, nhưng sau đó chỉ đem cỗ xe Vĩ đại mà đưa họ đến Niết bàn hoàn toàn.

Như Lai làm như vậy vì Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, có thể ban cho hết thảy chúng sinh bằng giáo pháp cỗ xe Vĩ đại — Có điều không phải ai cũng có khả năng tiếp nhận được cả.

Xá Lợi Phất, với nguyên ủy đã nói trên đây, chư vị phải hiểu Như Lai do phương tiện lực nên chỉ có một loại xe Phật đà mà nói ra ba loại xe khác nhau.

Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:

(39-42) Như đại trưởng giả

có ngôi nhà lớn.

Ngôi nhà đã cũ

mà lại hư rã.

Ngay cái nhà chính

đã cao lại nguy:

Cột với chân cột

thì đã mục gãy.

Rường và đòn nóc

đều xiêu nghiêng cả.

Nền nhà thềm nhà

sụp lở hư hỏng.

Tường vách đổ nát

vôi hồ đổ rơi.

Mái lợp thủng lỗ

rơi đổ loạn xạ.

Đòn tay xà ngang

trật khớp sẩy ra.

Đây đó khắp nơi

bị chận bị lấp,

quanh co gồ ghề,

tràn trề dơ bẩn.

Đang ở trong đó

có năm trăm người.

Vậy mà trong đó

có những chim dữ:

cú mèo, chim kiêu,

chim cắt, chim thứu,

cùng với quạ, khách,

tu hú, bồ câu…

(43) Lại còn các loại

bò sát thú dữ:

hổ mang, rắn độc,

rắn phúc, bò cạp,

rít với du diên,

cọp vách, sâu chiếu;

chồn dứu, chồn cầy,

chuột nhắt, loại chuột.

(44) Sâu bọ độc dữ

dọc ngang chen nhau.

Phân với nước tiểu

hôi thối cùng cực,

đủ thứ dơ bẩn

chảy ra lan tràn,

bọ hung, sâu giòi

tập trung trên đó.

Cáo, sói, dã can

nhai gặm dẫm đạp,

cắn xé thây chết

xương thịt bừa bãi.

(45-46) Do đó bầy chó

đua nhau vồ chụp.

Chúng đói cuồng cuồng

xục xạo tìm ăn,

tranh giành móc kéo,

gừ cắn rống tru.

Ngôi nhà kinh khủng

đến như thế đó.

(47-48) Khắp mọi nơi chỗ

đều có yêu quái,

ác quỷ dạ xoa

chuyên ăn thịt người.

Bò sát độc địa

chim muông hung hãn

sinh sản ấp nuôi

đều cố cất giữ,

vẫn bị dạ xoa

giành nhau bắt ăn.

(49) Ăn no nê rồi

bản chất hung dữ

lại càng hăng lên,

những tiếng của chúng

đánh nhau giành nhau

thật là rùng rợn.

(50) Lại còn lũ quỷ

tên Cưu bàn trà,

ngồi xoạc đất bằng

ngồi xổm đất cục,

có khi cách đất

một vài thước ngắn

lướt qua rảo lại

nghênh ngang đùa giỡn.

(51) Chúng túm chân chó

vật cho thất thanh,

lấy chân chắn cổ

khủng bố mà chơi.

(52) Lại có những quỷ

thân hình cao lớn

trần truồng đen ốm

thường ở nhà này,

phát tiếng dữ lớn

thét gào tìm ăn.

(53) Lại có những quỷ

cổ nhỏ như kim,

lại có những quỷ

đầu như đầu bò,

giành nhau tìm ăn

thịt người thịt chó,

đầu tóc bù rối

tàn bạo hung dữ,

đói khát thúc bách

vừa gào vừa chạy.

(54) Dạ xoa, quỷ đói,

chim muông độc dữ,

đói khát hành hạ

loạn chạy bốn phía,

rình rập lén dòm

qua các cửa sổ.

(55) Ngôi nhà nguy hiểm

khủng khiếp vô cùng,

mà lại cũ kỹ

mục nát như vậy,

là nơi thuộc về

một đại trưởng giả.

(56) Ông mới đi ra

chưa được bao lâu,

sau đó ngôi nhà

bỗng nhiên dậy lửa,

bốn phía cùng lúc

lửa ngọn bùng lên.

(57) Đòn nóc, rường nhà,

đòn tay, trụ cột,

tách nổ vang động

gãy ngã sa rớt,

cả tường với vách

đổ nhào xuống hết.

Những loại quỷ quái

hét lên kêu gào.

(58) Những thứ chim dữ

loại như cắt, thứu,

những thứ quỷ dữ

loại như Bàn trà,

kinh hãi bàng hoàng

không tự thoát được.

Thú dữ trùng độc

chui núp hang lỗ.

(59) Quỷ Tỳ xá xà

cũng kẹt trong đó,

vì mỏng phước đức

nên bị lửa cháy

chúng càng tàn bạo

sát hại lẫn nhau,

giành nhau ăn thịt

uống máu lẫn nhau.

(60) Loại như dã can

đã chết trước cả,

những thứ dữ lớn

giành nhau ăn nuốt,

những gì còn lại

thì bị đốt cháy,

khói hôi ngùn ngụt

phủ nghẹt bốn mặt.

(61) Rít với du diên,

các loại rắn độc,

bị lửa nung đốt

giành tuôn khỏi huyệt,

thì quỷ Bàn trà

bắt lấy mà ăn.

Còn các quỷ đói

lửa cháy trên đầu,

đói khát nóng rát

kinh hoàng sảng chạy.

(62) Ngôi nhà đang bị

ở trong tình trạng

cực kỳ khủng khiếp,

độc hại, hỏa hoạn,

lắm nạn như vậy,

thì lúc bấy giờ

vị đại trưởng giả

đứng ở ngoài cửa.

(63) Ông nghe người nói

rằng các con ông

vì ham vui chơi

đã vào nhà ấy,

nhỏ dại ngu ngơ

chỉ biết đùa giỡn.

(64) Ông nghe biết thế

trong lòng kinh sợ,

cấp tốc vào lại

trong ngôi nhà lửa,

tìm cách cứu con

cho khỏi chết cháy.

(65) Ông nói cho chúng

biết mọi tai họa:

quỷ dữ, trùng độc,

cùng với lửa lớn,

khổ nạn như vậy

nối nhau không ngừng.

(66) Rắn độc, hổ mang,

cùng với rắn phúc,

lại còn những quỷ

Dạ xoa, Bàn trà,

dã can, chồn cáo,

và các loài chó,

chim cắt, chim thứu,

cú mèo, chim kiêu,

những thứ cùng loại

với giống sâu chiếu,

tất cả đều đang

đói khát nóng rát,

khiến chúng thành ra

cùng cực đáng sợ.

(67) Ngôi nhà dẫy đầy

tai họa như vậy,

huống chi còn bị

lửa dữ đang đốt.

(68) Các con ngu ngơ

dẫu nghe cha nói,

vẫn cứ say sưa

chơi giỡn không ngừng.

(69) Trưởng giả lúc ấy

nghĩ như thế này:

Các con như vậy

làm ta càng lo.

Ngôi nhà bây giờ

có gì vui đâu,

vậy mà các con

vẫn mê chơi giỡn,

không chịu nghe lời

của ta nói cho,

và chúng sắp sửa

bị lửa đốt cháy.

(70) Ông liền nghĩ ngay

một chước phương tiện.

(71) Ông bảo: Các con,

cha có đủ thứ

đồ chơi quý báu,

là những cỗ xe

vừa đẹp vừa tốt

trang trí vàng ngọc:

xe dê, xe hươu

xe bò to lớn.

(72) Những cỗ xe ấy

hiện ở ngoài cửa.

Tất cả các con

hãy chạy ra gấp!

Cha vì các con

mà đã làm ra

những cỗ xe ấy.

Tùy ý các con

ưa thích thứ nào

ra lấy mà chơi.

(73) Các con nghe nói

những xe như vậy,

tức thì đua nhau

chạy mau mà ra,

đến nơi đất trống

hết mọi khổ nạn.

(74) Trưởng giả thấy con

thoát khỏi nhà lửa

đến chỗ ngã tư,

thì ông ngồi trên

chỗ ngồi sư tử,

mà tự mừng rằng

bây giờ lòng ta

đã vui thích rồi!

(75) Những đứa con này

sinh dưỡng rất khó,

nhỏ dại ngu ngơ

mà vào nhà hiểm,

nơi đầy thú vật

quỷ quái đáng sợ.

(76) Lửa lớn ngọn dữ

bốn phía bùng lên,

mà các con ta

vẫn ham chơi giỡn.

Nay đã cứu được

cho chúng thoát nạn,

nên trong giờ này

lòng ta vui thỏa.

(77) Các con biết cha

đã ngồi yên rồi,

cùng nhau bước đến

mà thưa với cha,

xin cho chúng con

ba thứ xe quý.

(78) Như cha đã hứa

các con thoát ra

thì cho ba xe

tùy theo ý muốn,

nay đã đến lúc,

xin cha cấp cho.

(79) Trưởng giả giàu lớn

kho tàng quá nhiều

bạc, vàng, lưu ly,

xa cừ, mã não…

(80) Ông đem của ấy

làm những xe lớn,

trang trí huy hoàng:

lan can bao quanh,

chuông treo bốn phía,

dây vàng đan nhau,

mạng lưới kết ngọc

trương phủ trên xe.

(81) Những dải hoa đẹp

kết hoa vàng thật,

chỗ nào cũng được

treo mắc rủ xuống.

Đủ thứ lụa là

đầy các màu sắc,

trang trí xen vào

khắp cả quanh xe.

(82) Lụa dày bông tơ

đem ra làm nệm.

Và vải bạch điệp

loại thượng hảo hạng,

giá đáng cả ngàn

cả ức tiền bạc,

tươi trắng sạch sẽ,

đem phủ lên trên.

(83) Những con bò trắng

mập mạnh nhiều sức

thân hình lớn đẹp,

kéo những xe ấy.

Cỗ xe còn có

nhiều người thị tùng

để lo công việc

phục dịch hộ vệ.

(84) Trưởng giả đem những

cỗ xe báu ấy

đồng đều mà cấp

cho các con ông.

Bấy giờ con ông

vui mừng rộn rã,

ngồi xe báu này

dạo cả bốn phương,

vui chơi thích thú

tự tại vô ngại.

(85) Này Xá Lợi Phất,

Như Lai cũng vậy:

là bậc cực tôn

trong các bậc thánh,

là từ bi phụ

của cả thế gian.

Hết thảy chúng sinh

toàn con Như Lai,

đắm sâu thú vui

thế giới ba cõi

mà không hề có

tâm thức sáng suốt.

(86) Ba cõi không yên

in như nhà lửa,

khổ não tràn đầy

thật đáng khiếp sợ:

Sinh già bịnh chết

cùng với lo buồn,

những ngọn lửa ấy

thường xuyên bùng lên.

(87) Như Lai đã rời

nhà lửa ba cõi,

vắng bặt ở yên

rừng thanh nội tĩnh.

Nhưng ba cõi này

toàn thuộc Như Lai,

chúng sinh trong đó

con Như Lai cả.

(88) Ba cõi như vậy

tai họa quá nhiều,

và chỉ Như Lai

mới cứu giúp được.

Nhưng dẫu Như Lai

nói cho đủ hết,

mà chúng sinh ấy

vẫn không tin nhận.

Như vậy là vì

chúng sinh tham trước

sâu nặng quá lắm

vào những dục lạc.

(89) Do đó Như Lai

phải dùng phương tiện:

thuyết cho chúng sinh

cả ba cỗ xe,

chỉ cho chúng sinh

biết khổ ba cõi,

và dạy cho họ

phương cách thoát ra.

(90) Các loại chúng sinh

con của Như Lai

có người đạt được

tuệ tâm quyết định,

đủ ba minh trí

với sáu thần thông;

có người đạt đến

tuệ giác Duyên giác;

có người thành bậc

Bồ tát bất thoái.

(91) Này Xá Lợi Phất,

Như Lai đưa ra

ví dụ như vầy

là để nói cho

tất cả các người

về cỗ xe Phật.

Các người tin nhận

lời Như Lai nói,

thì ai cũng sẽ

được thành Phật đà.

(92) Cỗ xe Phật ấy

đẹp sạch bậc nhất,

cả thế gian này

không gì hơn nữa.

Xe ấy Như Lai

đẹp dạ chấp thuận,

hết thảy chúng sinh

đều nên hiến cúng

ca tụng tán dương

một lòng kính lạy.

(93) Xe ấy đủ hết

vô số ức ngàn

các đại năng lực

các sự giải thoát

các thiền các định

cùng với tuệ giác,

bao phẩm chất khác

của chư Phật đà.

(94-95) Được xe như vậy

chúng sinh các con

suốt cả ngày đêm,

suốt hết cho đến

vô số thời kỳ,

thường được dạo chơi;

cùng chư Bồ tát

và chư Thanh văn

ngồi trên cỗ xe

quý báu như vậy

mà đi thẳng đến

nơi Bồ đề tràng.

(96) Vì lý do ấy,

tìm kỹ mười phương

không thấy còn có

cỗ xe nào khác,

trừ ra Như Lai

phương tiện thiết lập.

(97) Này Xá Lợi Phất,

tất cả các người

toàn con Như Lai,

Như Lai là cha.

Đã lắm thời kỳ

các người bị đốt

vì bao đau khổ,

Như Lai giải cứu

làm cho các người

thoát ra ba cõi.

(98) Như Lai trước đây

dầu nói các người

đã được Niết bàn,

nhưng mà thật ra

chỉ hết sống chết

chưa thật Niết bàn.

Cho nên mọi việc

ngày nay phải làm

là chỉ hướng vào

tuệ giác Phật đà.

(99) Vị Bồ tát nào

trong đại hội này

cũng có khả năng

chuyên chú lắng nghe

về pháp thật ấy

của Như Lai dạy,

rằng dẫu Như Lai

áp dụng phương tiện,

nhưng người được dạy

toàn là Bồ tát.

(100) Những ai trí nhỏ

đắm sâu ái dục,

Như Lai vì họ

nói chân lý khổ;

họ mừng vì được

sự chưa từng có,

khi họ biết rõ

khổ ấy thật khổ,

không thể làm cho

khác đi vui lên.

(101) Nếu có người nào

không biết nhân khổ,

vướng sâu nhân ấy

tạm thoát không nổi,

Như Lai vì họ

phương tiện giải thích,

cho họ tỉnh ngộ

ý thức trọn vẹn

nguyên nhân đau khổ

gốc ở ái dục.

(102) Ái dục diệt trừ,

không còn chỗ dựa

thì khổ tận diệt,

như vậy gọi là

chân lý diệt khổ.

Vì chân lý ấy

mà tu chân lý

về đường diệt khổ,

thoát khổ ràng buộc

là được giải thoát.

(103) Nhưng được giải thoát

đối với cái gì?

Thì chỉ là vì

thoát ly hư ảo

mà được gọi là

giải thoát mà thôi,

kỳ thật chưa được

giải thoát hoàn toàn.

(104) Như Lai nói rằng

những người như vậy

chưa thật Niết bàn,

vì những người ấy

thoát mà chưa được

tuệ giác vô thượng.

Ý của Như Lai

là như thế đó:

Không muốn đưa đến

Niết bàn như vậy.

Như Lai là vua

của tất cả pháp,

tự tại tuyên bố

đối với mọi sự;

và muốn đem lại

yên vui hoàn toàn

cho bao chúng sinh,

cho nên Như Lai

đã xuất hiện ra

trong thế gian này.

(105) Này Xá Lợi Phất,

ấn tín về pháp

của Như Lai đây,

Như Lai vì muốn

ích lợi cho đời

nên công bố ra.

Chư vị cần phải

truyền bá khắp nơi,

mặc dầu đến đâu

chư vị cũng vẫn

không được tuyên truyền

một cách bừa bãi.

(106) Ai nghe pháp này

tùy hỷ, kính nhận,

thì biết người ấy

là bậc bất thoái.

(107) Nếu ai tin được

pháp của Pháp Hoa,

thì biết người ấy

từng gặp chư Phật

trong thì quá khứ,

cung kính phụng sự

và cũng từng nghe

về pháp như vầy.

(108) Những ai tin nổi

về pháp như vầy

do tôn giả nói,

thì những người ấy

thấy được Như Lai

thấy được tôn giả

thấy tỷ kheo Tăng

và Bồ tát chúng.

(109) Bản kinh Pháp Hoa

như thế này đây

là nói cho người

trí tuệ sâu xa,

còn người biết cạn

mà nghe kinh này

thì tất bối rối

không thể lý giải.

Trí lực các vị

Thanh văn Duyên giác

mà còn bất cập

đối với kinh này.

(110) Ngay như tôn giả

đối với kinh này

còn nhờ đức tin

mới bước vào được,

huống chư Thanh văn

khác ngoài tôn giả.

Chư Thanh văn ấy

vì tin vào lời

của Như Lai nói

mà theo kinh này,

không phải trí họ

có thể tự theo.

(111) Nên Xá Lợi Phất,

đối với những kẻ

kiêu căng biếng nhác

chấp trước bản ngã

thì đừng nói cho

về bản kinh này.

Những kẻ phàm phu

trí thức nông nổi,

dính cứng vào trong

năm thứ dục lạc,

dẫu nghe kinh này

cũng không hiểu được,

thì cũng đừng nói

cho họ kinh này.

(112) Những ai phỉ báng

không tin kinh này,

làm cho tuyệt mất

giống Phật trong đời,

những ai nhăn mặt

hoài nghi kinh này,

thì bao tội báo

của những kẻ ấy,

tôn giả hãy nghe

Như Lai nói đến.

(113) Như Lai tồn tại

hay nhập diệt rồi,

những ai phỉ báng

kinh Pháp Hoa này,

nghe thấy có người

đọc tụng sao chép

kính giữ Pháp Hoa

mà khinh và ghét

mà lòng oán hận,

thì tội báo họ

tôn giả hãy nghe

Như Lai nói đến.

(114) Những người như vậy

sau khi chết rồi

sa vào Vô gián

trọn một thời kỳ.

Sau thời kỳ ấy

lại sa tiếp tục,

triển chuyển cho đến

vô số thời kỳ.

(115) Ra khỏi địa ngục

thì làm súc sinh:

làm chó, dã can,

mình mẩy ốm gầy

đen đủi ghẻ lác

ai cũng hành hạ.

(116) Và vì mọi người

ai cũng gớm ghiếc,

nên thường đói khát

xương thịt khô khan.

(117) Sống với khốn khổ

chết vì ngói đá:

làm mất giống Phật

nên chịu tội ấy.

(118) Nếu làm lạc đà

hoặc làm giống lừa,

thì thường chở nặng

lại bị đánh đập,

chỉ nghĩ cỏ nước

không biết gì hơn:

phỉ báng kinh này

nên bị tội ấy.

(119) Nếu làm dã can

lẩn vào làng xóm,

mình mẩy ghẻ lác

lại mất một mắt,

bị những trẻ con

đánh đập quăng ném,

chịu đủ đau đớn

có khi đến chết.

(120-121) Chết các thân trên

thì làm mãn xà,

mình lớn mà dài

năm trăm do tuần,

điếc, chậm, không chân,

uốn bò bằng bụng,

bị những sâu kiến

xúm lại rỉa ăn,

khốn khổ ngày đêm

không khi nào ngừng:

phỉ báng kinh này

nên bị tội ấy.

(122) Hết làm súc sinh

nếu may làm người

thì các giác quan

u mê đần độn,

thân lùn tướng xấu

tay cong chân quẹo

mắt đui tai điếc

mình cong lưng gù.

(123) Nói ra điều gì

người cũng không tin;

hơi miệng hôi thối

quỷ quái phụ nhập.

(124) Bần cùng, hèn hạ,

bị người sai khiến;

bịnh tật gầy ốm,

không nơi nương tựa.

(125) Làm thân với người

người không đếm xỉa.

Biết được điều gì

cũng liền quên mất.

(126) Nếu học làm thuốc

trị bịnh đúng phép,

mà người thêm bịnh

có khi đến chết.

Nếu mình bị bịnh

không ai cứu chữa,

tuy dùng thuốc hay

bịnh càng thêm dữ.

(127) Người khác phản loạn,

cướp giật trộm cắp,

những tội như vậy

mình bị họa lây.

(128) Tội nhân như vậy

trong thì gian dài

không thấy được Phật –

vua của thánh triết

tuyên thuyết chánh pháp

giáo hóa cho người.

(129) Tội nhân như vậy

thường sinh những chỗ

đủ thứ tai nạn,

điên cuồng điếc lác

tâm trí thác loạn,

trong thì gian dài

không hề nghe được

chánh pháp Như Lai.

(130) Hằng sa thời kỳ,

sinh ra là đã

điếc lác câm ngọng

giác quan không đủ.

(131) Họ ở địa ngục

như dạo vườn hoa,

ở chỗ dữ khác

như ở nhà mình,

lạc đà và lừa

và heo với chó

những loài như vậy

là chỗ họ sinh:

phỉ báng kinh này

nên bị tội ấy.

(132) Nếu được làm người

thì tự trang sức

bằng điếc với mù

bằng câm với ngọng

bằng nghèo với hèn

bằng bao suy biến.

(133) Lại tự trang phục

bằng các thứ bịnh

đại loại như là

thủng nước, khô nóng,

lở lói, phong hủi,

và ung thư da.

Thân họ thường xuyên

là chỗ hôi thối,

tập hợp biết bao

những thứ dơ bẩn.

(134) Nắm cứng bản ngã

bồi thêm sân hận,

dục tình hừng hực

chẳng kể cầm thú:

phỉ báng kinh này

bị tội như vậy.

(135) Này Xá Lợi Phất,

tội báo những kẻ

phỉ báng không tin

kinh Pháp Hoa này,

nói hết thời kỳ

cũng không hết được.

(136) Như Lai vì vậy

cố răn chư vị

đừng nói Pháp Hoa

cho kẻ vô trí.

(137) Những ai có được

các căn lanh lợi,

trí tuệ thông minh

nghe nhiều nhớ mạnh,

quyết tâm cầu được

tuệ giác Phật đà,

những người như vậy

mới được nói cho

(138) Nếu ai từng gặp

ức ngàn đức Phật,

trồng các gốc lành,

tâm nguyện sâu vững,

những người như vậy

mới được nói cho.

(139) Nếu ai tinh tiến

thường làm từ tâm,

không tiếc thân mạng,

mới được nói cho.

(140) Ai biết kính nhau

không có ẩn ý,

xa kẻ phàm phu

riêng ở núi chằm,

những người như vậy

mới được nói cho.

(141) Này Xá Lợi Phất,

nếu thấy có ai

biết tránh bạn xấu

biết thân bạn đạo,

những người như vậy

mới được nói cho.

(142) Nếu thấy con Phật

giữ giới trong sạch

như ngọc trong suốt,

cầu kinh Đại thừa,

những người như vậy

mới được nói cho.

(143) Ai không giận dữ,

ngay thẳng, ôn hòa,

thương xót tất cả,

trọng kính chư Phật,

những người như vậy

mới được nói cho.

(144) Nếu có con Phật

ở giữa công chúng

đem tâm trong sáng

dùng những yếu tố,

ví dụ, lời chữ,

thuyết pháp thông suốt,

những người như vậy

mới được nói cho.

(145) Nếu có tỷ kheo

vì được toàn giác,

cầu pháp bốn phương

chắp tay kính nhận;

(146) chỉ thích kính nhận

kinh điển Đại thừa,

chứ không tiếp nhận

kinh điển nào khác

dầu chỉ một bài

chỉnh cú mà thôi,

những người như vậy

mới được nói cho.

(147) Như người thiết tha

tìm cầu cho được

xá lợi của Phật,

những người tìm cầu

Pháp Hoa cũng vậy,

được rồi kính nhận;

(148) người ấy không cầu

kinh sách nào khác,

càng không nghĩ đến

sách vở ngoại đạo,

những người như vậy

mới được nói cho.

(149) Này Xá Lợi Phất,

Như Lai nói đến

sắc thái những người

cầu tuệ giác Phật,

nói hết thời kỳ

cũng không hết được.

Và những người ấy

mới tin hiểu được;

chư vị nên nói

cho họ được nghe

về kinh Đại thừa

Diệu Pháp Liên Hoa.

***

Phẩm 4: Tin Hiểu

Lúc ấy Tu Bồ Đề, vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng, cùng các tôn giả Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Mục Kiền Liên, từ nơi đức Thế Tôn nghe được điều chưa từng có, là nghe đức Thế Tôn trao cho tôn giả Xá Lợi Phất lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì thấy thật là hiếm có, nên hoan hỷ, phấn chấn, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trần vai phải, đầu gối bên phải quỳ xuống chấm đất, chuyên nhất tâm trí mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, rồi cúi mình, cung kính thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư Tăng, tuổi cũng già cả, ai cũng tự cho đã được Niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế Tôn thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắc tướng và không ưa thích. Còn đối với pháp Bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch thế giới làm nên chúng sinh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy là vì đức Thế Tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng Niết bàn, thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng mà đức Thế Tôn dạy cho Bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham thích. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, chúng con được nghe ngài trao cho Thanh văn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì lòng quá hoan hỷ, được sự chưa từng có. Chúng con không ngờ ngày nay bỗng nhiên nghe được điều hiếm có ấy. Chúng con tự mừng một cách sâu xa vì được ích lợi vĩ đại, vô số ngọc báu chúng con không cầu mà tự được cả.

Bạch đức Thế Tôn, bây giờ chúng con thích thú mà trình bày một sự ví dụ để thưa rõ ý nghĩa như vậy. Ví như có người tuổi đã nhỏ dại mà lại bỏ cha trốn đến xứ khác, ở lâu mười năm, hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi lớn rồi, lại thêm nghèo khốn, người ấy bôn ba khắp nơi để kiếm cơm áo, lần hồi đến nhằm đô thành cha ở. Còn người cha thì từ trước đến giờ tìm con mà không được, nên dừng lại mà ở tại đô thành ấy. Ông rất giàu có. Tài sản và bảo vật, đại loại như bạc vàng, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê và chân châu thì vô số. Mọi kho tàng đều tràn đầy. Có lắm phụ tá, môn lại và tôi tớ. Voi ngựa, xe cộ và bò dê thì vô số kể. Lợi tức thu chi khắp cả các nước. Thương khách rất đông đảo.

Người con nghèo khốn đi qua các vùng dân cư, hết xứ lớn đến xứ nhỏ, và rồi đến nhằm đô thành cha ở. Người cha vẫn thường nhớ con. Xa con hơn năm mươi năm mà ông chưa bao giờ nói việc ấy với ai, chỉ nghĩ riêng mà buồn tiếc. Ông lo già cả, nhiều của, vàng bạc kho tàng tràn đầy mà không có con cháu, một mai chết đi thì của ấy tiêu tan vì không có người để giao phó. Lo nghĩ như vậy nên ông thường tha thiết nhớ con. Ông nghĩ nếu gặp con để giao của thì hết lo hết nghĩ, vui thích biết mấy.

Bạch đức Thế Tôn, người con nghèo khốn làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhằm lâu đài người cha, đứng lại bên cửa, xa thấy người cha ngồi trên ngai sư tử mà ghế đẩu nâng chân cũng trang hoàng vàng ngọc. Bà la môn, sát lợi và cư sĩ thì kính cẩn bao quanh. Thân ông trang sức bằng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn tiền vàng. Môn lại và tôi tớ thì cầm quạt lông trắng đứng hầu hai bên. Trên đầu thì che trướng đính ngọc và treo rủ xuống là những dải phan kết hoa. Dưới đất thì được rưới nước thơm và rải những thứ hoa danh tiếng. Bảo vật thì la liệt và đang được thu chi. Đủ thứ hoa mỹ và đặc biệt tôn nghiêm như vậy. Người con nghèo khốn thấy người cha tư thế lớn lao đến thế thì sợ hãi, hối tiếc đến nhằm chỗ này. Nghĩ thầm đây là vua hoặc ngang với vua, không phải chỗ mình làm mướn kiếm ăn. Chẳng bằng đi đến xóm nghèo, có chỗ bán sức, cơm áo dễ kiếm hơn. Ta đứng mãi ở đây thì có thể bị cưỡng bách làm việc. Nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau. Người cha, vị trưởng giả giàu có ấy, ngồi trên ngai sư tử nhưng thấy con thì nhận biết được liền, lòng rất vui mừng, nghĩ rằng bảo vật kho tàng của ta nay đã có người để giao phó rồi. Ta nhớ mãi đứa con này, không làm sao gặp được mà nay nó bỗng nhiên tự đến, rất hợp nguyện ước của ta. Ta già rồi mà vẫn ham con tiếc của! Tức thì sai phái viên cấp tốc chạy theo dẫn về. Phái viên chạy mau đến bắt. Người con nghèo khốn kinh hãi, lớn tiếng kêu oan, tôi đâu có xúc phạm gì đến các người, tại sao các người bắt tôi? Phái viên bắt càng gấp, kéo bừa dẫn về. Người con nghèo khốn tự nghĩ vô tội mà bị bắt như bắt tù thì chắc phải chết. Càng nghĩ càng sợ nên ngất đi mà ngã xuống đất. Người cha từ xa thấy vậy thì bảo phái viên, ta không cần người này nữa; đừng dẫn người này về theo cách cưỡng bách như thế. Hãy lấy nước lạnh rưới mặt cho người này tỉnh lại, nhưng đừng nói gì với người này nữa. Người cha bảo như vậy vì biết con mình ý chí thấp hèn. Ông tự biết chính sự cao sang của mình làm cho con mình khiếp sợ. Biết đích là con trai của mình, nhưng người cha áp dụng phương tiện, không nói với ai rằng người này là con tôi. Ông bảo phái viên nói với con mình, rằng ta thả anh, anh đi đâu tùy ý. Người con nghèo khốn mừng như được sự chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo để kiếm cơm áo.

Trưởng giả muốn dẫn dụ con mình nên lập chước phương tiện. Ông kín đáo sai hai phái viên hình sắc tiều tụy, không oai phong gì, dặn rằng các người đi tìm người nghèo khốn vừa rồi, từ từ nói rằng ở đây ta có việc thuê làm, trả giá gấp đôi. Người ấy chịu thì các người dẫn về cho làm. Người ấy có hỏi muốn thuê làm gì, thì các ngươi bảo thuê quét dọn dơ bẩn, và chúng tôi cùng làm với anh. Hai phái viên tức khắc đi tìm người con nghèo khốn. Tìm được nói rõ mọi việc. Người con nghèo khốn hỏi biết giá thuê, rồi đi liền đến lâu đài người cha mà quét dọn dơ bẩn với hai người kia.

Người cha thấy con như vậy thì vừa thương xót vừa quái lạ. Ngày khác, từ trong cửa sổ, ông xa thấy thân con gầy ốm tiều tụy, phân đất bụi bặm làm bẩn cả người. Tức khắc ông cởi chuỗi ngọc, cởi áo mềm mịn thượng hạng và bao nhiêu đồ trang sức khác, thay vào, ông mặc chiếc áo thô rách cáu bẩn, lại làm cho bụi đất lấm lem cả người, rồi tay phải cầm dụng cụ quét dọn dơ bẩn, bộ dáng có vẻ ghê sợ đồ dơ, đến bảo những người làm thuê: Các người hãy làm cho siêng, đừng nhác đừng nghỉ. Với cách phương tiện ấy ông mới gần được con ông. Sau đó lại bảo: Chàng trai này, hãy làm luôn ở đây, đừng đi đâu nữa. Ta sẽ trả thêm tiền thuê cho anh. Cần gì về thau chậu, gạo bún, muối giấm, thì đừng có e ngại. Có người sai vặt vừa già vừa xấu kia, cần thì ta cấp cho. Anh hãy yên tâm. Ta như cha anh, anh đừng lo nghĩ gì cả. Ta đối xử như vậy là vì ta già cả mà anh trai trẻ, vời lại anh làm việc thường không dối không nhác, không tức giận không oán than. Ta không thấy anh có những tính xấu ấy như các người làm thuê khác. Từ nay về sau anh như con trai của ta sinh ra. Trưởng giả tức thì đặt cho cái tên gọi là con. Người con nghèo khốn, dẫu mừng vì sự đãi ngộ ấy, vẫn tự xưng như cũ, rằng mình là người ngoài, người làm thuê hèn hạ. Do vậy mà trong hai mươi năm trời, vẫn chỉ được bảo quét dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con nghèo khốn ra vào trong lâu đài một cách không e ngại gì nữa. Nhưng chỗ ở thì vẫn thích ở chỗ cũ.

Bạch đức Thế Tôn, bấy giờ trưởng giả bị bịnh, tự biết gần mất, mới bảo người con nghèo khốn, ta có lắm vàng ngọc, kho tàng tràn đầy. Trong đó ø nhiều ít và đáng thu đáng chi thế nào, con phải biết cho rõ. Ý cha như vậy, con phải thể theo. Nay thì cha với con không khác gì cả. Con phải chú ý, đừng để thất thoát. Người con nghèo khốn, khi ấy, tức thì vâng lời, lãnh nhận và biết rõ mọi thứ, từ vàng ngọc cho đến kho tàng. Nhưng không có ý gì mong lấy cho đủ một bữa ăn, và chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, tâm lý thấp kém vẫn chưa bỏ được. Phải qua ít lâu nữa, cha biết con tâm trí đã thênh thang, chí lớn đã thành đạt, đã biết tự khinh bỉ tâm lý ngày trước của mình, nên lúc sắp chết, ông gọi con và triệu tập họ hàng, quốc vương, đại thần, sát lợi, cư sĩ. Mọi người tập họp cả rồi, ông tự tuyên bố, rằng xin các vị biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra. Trước đây, tại đô thành cũ, con tôi đã bỏ tôi mà trốn chạy, lưu lạc khổ sở hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên như vậy, tôi tên như vậy. Ngày xưa, tại đô thành ấy tôi lo lắng tìm kiếm mà không được, ngày nay, tại đô thành này bỗng nhiên tôi gặp được con tôi. Nó thật con tôi, tôi thật cha nó. Ngày nay, hết thảy tài sản bảo vật của tôi đều là của con tôi, và trước đây thu chi thế nào, con tôi đã biết rõ cả. Bạch đức Thế Tôn, khi người con nghèo khốn nghe lời ấy của người cha trưởng giả thì cùng cực vui mừng, được sự chưa từng có, nghĩ rằng mình vốn không có lòng nào mong cầu, vậy mà ngày nay kho báu tự đến.

Bạch đức Thế Tôn, người cha, vị trưởng giả giàu có ấy là đức Thế Tôn. Chúng con chỉ như chư Phật, nhưng đức Thế Tôn vẫn thường gọi chúng con là con Phật. Bạch đức Thế Tôn, chúng con vì ba sự đau khổ mà chịu bao nhiêu nóng rát phiền bực trong chốn sống chết, đời này vẫn ngu và lầm, không biết nhận thức gì hết nên ưa thích giáo pháp thấp nhỏ. Đức Thế Tôn phải bảo chúng con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch hý luận dơ bẩn đối với các pháp. Trong huấn dụ ấy, chúng con nổ lực tinh tiến, đạt được Niết bàn như cái giá một ngày làm thuê. Đạt được như vậy mà lòng chúng con rất mừng, tự cho đầy đủ, và tự bảo, ở trong giáo pháp của đức Thế Tôn, chúng con nhờ nổ lực tinh tiến mà đã nhận được rất nhiều. Nhưng đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn đắm say dục lạc thô tệ, bị khổ vì thế mà thành ra ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên tạm thời buông thả, bỏ đó mà chưa phán bảo rằng các người cũng có phần nhận được kho tàng tuệ giác của Như Lai, mặc dầu đức Thế Tôn đã khéo léo nói cho chúng con biết về kho tàng tuệ giác ấy. Chúng con, từ đức Thế Tôn, nhận được Niết bàn chỉ như cái giá làm thuê một ngày mà lại cho là đã được lớn lao, còn đối với cỗ xe vĩ đại thì chúng con không có chí nguyện gì mong cầu. Chúng con cũng dựa vào tuệ giác của đức Thế Tôn mà diễn giảng tuệ giác ấy cho chư vị Bồ tát, nhưng tự mình thì không có chí mong ước. Như vậy là vì đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ nên áp dụng phương tiện mà thuyết pháp theo tâm lý chúng con, và chúng con không hề biết mình là thật con Phật. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn không tiếc lẩn gì về tuệ giác của ngài; chỉ vì chúng con tuy xưa nay vẫn là thật con Phật mà lại ưa thích thấp nhỏ, nếu biết ưa thích vĩ đại thì ngài đã dạy cho giáo pháp vĩ đại. Ngày nay, qua kinh Pháp Hoa này, đức Thế Tôn tuyên bố chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất, như vậy ngày trước, trước mặt chư vị Bồ tát, ngài chê Thanh văn chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là, sự thật, ngài chỉ muốn đem giáo pháp vĩ đại mà giáo hóa chúng con. Do vậy nên chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì mong cầu mà ngày nay kho báu vĩ đại của đấng Pháp vương tự đến với chúng con: con Phật đáng nhận được gì thì chúng con đã nhận được cả.

Lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Nay chúng con nghe

tiếng nói Thế Tôn,

lòng mừng rộn rã

được chưa từng có.

(2) Đức Thế Tôn nói

chư vị Thanh văn

sẽ được làm Phật

như vậy có nghĩa

đống ngọc tối thượng

của đức Thế Tôn,

chúng con không cầu

mà tự nhận được.

(3) Như đứa bé trai

nhỏ dại ngu ngơ,

bỏ cha trốn đi

đến xứ xa lạ.

(4) Lang thang các xứ

hơn năm mươi năm.

Người cha lo nhớ

tìm kiếm khắp nơi.

(5) Tìm kiếm quá mệt

dừng một đô thành,

tạo lập lâu đài

vui với ngũ dục.

(6- Ông rất giàu sang

8) có lắm bạc vàng

xa cừ mã não

chân châu lưu ly,

voi ngựa dê bò,

xe liễn xe dư

và xe thuyền khác;

có lắm ruộng đất

lắm người phục dịch

và nhiều môn lại.

Lợi tức thu chi

khắp cả các nước,

thương khách buôn bán

ở đâu cũng có.

Có vạn ức người

kính trọng hướng về.

Thường được vua chúa

quí mến quan tâm,

quan quyền thân hào

ai cũng tôn trọng.

Vì nhiều duyên cớ

đông người qua lại.

(9- Giàu sang đến thế

10) thế lực lại lớn,

nhưng mà tuổi già

nên càng nhớ con,

ngày đêm lo nghĩ.

Rằng chết sắp đến,

con dại bỏ ta

hơn năm mươi năm,

kho tàng bảo vật

rồi làm sao đây.

(11) Người con nghèo khốn

vì kiếm cơm áo

từ xứ nhỏ này

đến xứ nhỏ khác,

từ xứ lớn khác

đến xứ lớn này.

(12) Chỗ thì cũng có,

chỗ không có gì,

đói khát gầy ốm

mình sinh ghẻ chốc.

(13) Lần hồi đi đến

nhằm ngay đô thành

của người cha ở,

làm thuê làm mướn

và rồi đến nhằm

lâu đài người cha.

(14) Trưởng giả lúc ấy

ngồi ở trong cửa,

chăng trướng báu lớn

ngồi ngai sư tử.

Tùy thuộc bao quanh

lắm kẻ phục dịch.

(15) Lại có những người

kế toán vàng ngọc,

thu chi tiền của,

ghi chép giấy tờ.

(16) Người nghèo thấy cha

sang cả tôn nghiêm

thì cho là vua

hoặc ngang với vua,

sợ và tự quái

đến chi chốn này!

(17) Lại nghĩ nếu ta

đứng mãi ở đây,

có thể bị ép

bắt buộc làm việc.

Nghĩ suy như thế

người nghèo bỏ chạy

để hỏi xóm nghèo

mà đến làm thuê.

(18) Trưởng giả lúc ấy

ngồi ngai sư tử,

xa thấy con mình

biết mà không nói,

sai ngay phái viên

đuổi bắt đem về.

(19) Người nghèo kêu hoảng

ngất xỉu xuống đất,

vì nghĩ người này

bắt mình chắc giết.

Vị gì cơm áo

đến nhằm chỗ này!

(20) Trưởng giả biết con

u mê hèn kém,

chắc chắn không tin

ta nói là cha.

(21) Ông liền phương tiện

đổi sai vài người

chột mắt, lùn xấu,

không chút oai phong,

rằng hãy tìm bảo

muốn thuê mướn nó,

(22) quét dọn dơ bẩn

trả giá gấp đôi.

(23) Người nghèo nghe nói

vui vẻ đi theo

đến dọn dơ bẩn

làm sạch phòng nhà.

(24) Nhìn qua cửa sổ

trưởng giả thường xuyên

quan sát con mình,

nghĩ rằng con mình

ngu muội thấp kém

thích làm việc hèn.

(25) Do đó trưởng giả

đổi mặc áo dơ

cầm đồ dọn bẩn

đi đến chỗ con,

phương tiện gần gũi

bảo hãy siêng làm.

(26) Ta thêm tiền công

cho dầu xoa chân

ăn uống đầy đủ

đệm chiếu dày ấm.

(27) Trưởng giả la mắng

anh làm cho siêng,

lại dịu dàng bảo

anh như con ta.

(28) Trưởng giả khéo léo,

lần hồi sai bảo

ra vào lâu đài.

Sau hai mươi năm,

bảo nắm mọi việc

trong lâu đài ấy.

(29) Ông chỉ cho biết

tất cả vàng ngọc,

tài sản thu chi

cũng cho biết cả.

(30) Được đãi như vậy

nhưng người nghèo khốn

vẫn ở ngoài cửa

nương náu chòi tranh,

tự nghĩ mình nghèo

đâu có của đó.

(31- Thêm ít lâu nữa

33) trưởng giả biết con

tâm chí dần dần

đã lớn rộng ra.

Muốn giao tài sản,

ông họp họ hàng

quốc vương đại thần

sát lợi cư sĩ.

Trước những người ấy

ông nói người này

là con trai tôi,

bỏ tôi mà trốn

đi đến xứ khác

đến năm mươi năm.

Từ khi gặp lại

cho đến ngày nay

cũng đã trải qua

hai mươi năm nữa.

Xưa nơi thành ấy

mất người con này,

tôi tìm khắp nơi

mới đến ở đây.

(34) Ngày nay tất cả

tài sản tôi có,

kể cả lâu đài

và bao gia nhân

đều giao con tôi

mặc ý sử dụng.

(35) Người nghèo khi ấy

tự nghĩ xưa kia

mình quá nghèo khốn

tâm chí thấp hèn,

nay từ nơi cha

cả được vàng ngọc

được luôn lâu đài

được hết tài sản,

nên rất vui mừng

như chưa từng có.

(36) Thế Tôn cũng vậy.

Biết rõ chúng con

chí thích thấp nhỏ,

nên ngài chưa hề

tuyên bố chúng con

cũng được làm Phật,

chỉ nói chúng con

đạt được một ít

thành quả thuần khiết

và thành những vị

đệ tử Thanh văn

trong cỗ xe nhỏ.

(37) Thế Tôn sắc bảo

chúng con giảng nói

đường lối tối thượng,

đường lối mà ai

tu tập trọn vẹn

đều sẽ thành Phật.

(38) Vâng lời Thế Tôn

chúng con cũng đã

vận dụng những thứ

yếu tố ví dụ

cùng bao lời chữ

mà giảng nói về

đường lối tối thượng

cho đại bồ tát.

(39) Những con Phật ấy

từ nơi chúng con

nghe đường lối này,

ngày đêm tư duy

nỗ lực tu tập,

bấy giờ Thế Tôn

cùng với chư Phật

liền thọ ký cho,

rằng trong vị lai

sẽ được làm Phật.

(40) Do vậy chúng con

từng nghĩ lầm rằng

kho tàng bí yếu

của Phật Thế Tôn

chỉ có bồ tát

mới được nói cho,

chúng con không được

nói cho pháp ấy.

Ngày nay chúng con

tự biết in như

kẻ nghèo khốn kia

dầu được gần cha

và biết bảo vật

mà không mong lấy;

(41) chúng con giảng nói

kho báu chánh pháp

của Phật Thế Tôn,

mà tự chúng con

không chí muốn có

thì cũng như vậy.

(42) Chúng con mới được

niết bàn nội tại

mà lại tự cho

đã là đầy đủ,

chỉ biết sự ấy

không biết gì hơn.

Chúng con nếu được

nghe nói những việc

làm sạch thế giới

làm nên chúng sinh

thì không cảm thấy

thích thú chút nào.

(43) Tại sao như vậy,

bởi vì toàn thể

các pháp đều không:

không sinh không diệt

không lớn không nhỏ

đã không phiền não

cũng không khử trừ,

tư duy như vậy

cho nên chúng con

không còn thích gì.

(44) Với tuệ giác Phật

chúng con trường kỳ

không ham không mê

không chí ưa thích,

trong khi đối với

niết bàn của mình

thì lại tự cho

đã là cứu cánh.

(45) Chúng con trường kỳ

tu tập về Không,

thoát được cái họa

khổ não ba cõi,

làm cho thân này

thành thân cuối cùng,

và thực hiện được

niết bàn chưa toàn;

thế là đối với

giáo huấn Thế Tôn

chúng con tự cho

đã thực hiện được

một cách chắc chắn,

và cho thế là

đã báo đáp được

hồng ân Thế Tôn.

(46) Cho dẫu chúng con

nói pháp bồ tát

cho các con Phật

để họ cầu được

tuệ giác Phật đà,

nhưng chính chúng con

đối với pháp ấy

không thích bao giờ.

(47) Đức Đại đạo sư

bỏ qua chúng con

chính vì xét thấy

tâm lý như vậy.

Và chưa bao giờ

ngài khuyên chúng con

tinh tiến bước tới

bằng cách nói rõ

bước tới thì có

ích lợi chân thật.

(48) Như trưởng giả giàu

biết con chí kém

nên dùng phương tiện

khắc phục lòng con,

rồi sau mới giao

tất cả tài sản.

(49) Thế Tôn cũng vậy,

làm việc hiếm có:

biết rằng chúng con

chí thích thấp nhỏ

nên đức Thế Tôn

dùng phương tiện lực

trước hết thuần hóa

tâm trí chúng con,

sau đó mới dạy

tuệ giác vĩ đại.

(50) Ngày nay chúng con

được chưa từng được,

vốn không hy vọng

nay tự được cả,

như người nghèo khốn

được bao của báu.

(51) Bạch đức Thế Tôn,

ngày nay chúng con

mới được tuệ giác

và được thành quả:

được mắt trong suốt

thấy pháp thuần khiết.

Chúng con trường kỳ

nghiêm trì tịnh giới,

ngày nay bắt đầu

nhận được thành quả.

(52) Ở trong giáo pháp

của đức Pháp vương,

chúng con lâu ngày

thực hành phạn hạnh,

ngày nay nhận được

thành quả vĩ đại

đã rất thuần khiết

lại không gì hơn.

(53) Chúng con ngày nay

mới thật Thanh văn:

đem cái tiếng nói

của tuệ giác Phật

mà phát lộ ra

cho mọi người nghe.

(54) Chúng con ngày nay

cũng thật La hán:

khắp trong thế gian

bao gồm tất cả

chư thiên nhân loại

ma vương phạn thiên,

chúng con ứng thọ

cho họ hiến cúng.

(55) Hồng ân Thế Tôn

thật là cao cả:

ngài đã vận dụng

mọi cách hiếm có

thương xót giáo hóa

ích lợi chúng con.

Nên dẫu trải qua

vô số thời kỳ,

ai mà trả được

hồng ân như vậy.

(56) Tay chân phục dịch

đầu đỉnh lễ kính,

cúng hiến tất cả

cũng không trả được.

Đội bằng đỉnh đầu

vác với hai vai,

hằng sa thời kỳ

tôn kính hết lòng;

(57-lại hiến cỗ bàn

58) cực kỳ mỹ vị,

hay dâng vải quí

nhiều đến vô lượng,

đồ nằm thuốc thang

cúng hiến đủ cả;

đem gỗ đàn hương

và những vàng ngọc

mà dựng bảo tháp

và cất tự viện,

rồi dùng vải quí

mà trải mặt đất;

với những cách ấy

hiến cúng Thế Tôn

hằng sa thời kỳ

cũng không trả được.

(59) Thế Tôn là bậc

cực kỳ hiếm có,

lại có đủ cả

vô lượng vô biên

đại thần thông lực

ngoài tầm nghĩ bàn;

ngài không sai sót

lại không xao động,

làm một vị vua

thống lãnh các pháp,

vậy mà có thể

vì kẻ thấp kém,

ngài nhẫn chịu được

mọi sự thấp kém.

(60) Đối với bao kẻ

phàm phu cố chấp,

ngài vẫn tùy nghi

mà thuyết pháp cho,

bởi vì đối với

tất cả các pháp

Thế Tôn đã được

sự rất tự tại.

(61) Thế Tôn biết hết

thị hiếu, sở thích,

chí hướng, năng lực

của các chúng sinh,

tùy sức của họ

kham nhiệm được gì

thì dùng vô lượng

những sự ví dụ

mà thuyết cho họ

giáo pháp phong phú.

(62) Lại tùy căn lành

mà chúng sinh có

từ các đời trước,

và biết rất rõ

ai đã thuần hóa

ai chưa thuần hóa;

xét đủ mọi mặt

biết rành tất cả,

rồi chính ở nơi

cỗ xe duy nhất,

Thế Tôn tuỳ nghi

nói ba cỗ xe.

***

    Xem thêm:

  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Thích Nguyên Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bi Hoa – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bổn Nguyện Công Đức Của Bảy Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai – Thích Nữ Tâm Thường dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Phật Thuyết Kinh So Sánh Công Đức về Thần Chú Diệt Trừ Tội Chướng của 12 Danh Hiệu Chư Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Vua Ưu Điền Dùng Chánh Pháp Trị Nước - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên – Thích Nữ Như Phúc dịch - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Du Già Liên Hoa Bộ - Kinh Tạng