1
2
3
4
5
6
7

QUYỂN 4

PHẨM THỨ 11: TÙY HỶ

Khi ấy, trong đại hội có Bồ tát tên Đảnh Vương, dẫn hai vạn năm ngàn người từ thế giới An Trụ ở phương Đông đến. Ông ta bước đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ đức Phật và lui qua ngồi một bên, bạch Phật:

– Con nghe Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn ở trong thai giáo hóa có vô lượng thần biến, có cung điện bảy báu được trang hoàng rất nhiều vật báu, được chư Phật Thế tôn tôn trọng cung kính. Chư Phật Thế tôn quá khứ, tương lai và hiện tại chưa từng nói pháp khó có này. Tướng pháp chơn tế không thể cùng tận, luôn thực hành những hạnh khổ cực từ vô số kiếp. Trong thời gian đó cũng có sanh có diệt. Con muốn nghe biết tất cả những quốc độ khác nhau mà thần đức Như Lai đã giáo hóa, luôn hành bình đẳng nhập vào đạo vô vi, bát giải đồng chơn, phạm hạnh thanh tịnh để cho chúng con không còn sự nghi ngờ.

Phật dạy:

– Lành thay! Lành thay! Này đại sĩ Đảnh Vương, những điều ông hỏi thật sâu xa khó nghĩ, có nhiều lợi ích cứu độ những người mê lầm, phước nhiều không thể tận.

Bấy giờ, Thế tôn liền dùng sức thiền định tam muội duỗi cánh tay vàng xuống hai mươi hai ức cõi Phật ở hạ phương bưng thần tháp bảy báu của Thi Khí Như Lai, tháp ngang rộng một vạn tám ngàn do-tuần. Bên ngoài vách tháp có hành lang bằng bảy báu. Nước ao, vườn, trái cây cũng đều bằng bảy báu. Ao sau vườn có bờ bằng vàng bạc. Trong ao ấy tự nhiên có nước cam lồ tám vị, có vô số trăm ngàn loại chim kỳ lạ: uyên ương, nhạn, le le… Tiếng chim kêu rất hay và mọi người cùng nhau vui chơi rất thú vị.

Khi ấy, Thế tôn nói kệ với Bồ tát Đảnh Vương:

– Quá khứ Phật Thức Khí

Thần tháp bằng bảy báu

Cây hoa rất nhiều màu

Hoa vàng, thân bằng bạc

Ao nước có tám vị

Người đói khát no đủ

Phước cúng được quả báo

Đạt công đức trong thai

Lại sau Phật diệt độ

Đấng bổn nguyện Tùy Thi

Tháp bảy báu Phật ấy

Khắp cả hằng sa cõi

Có rất nhiều châu báu

Khoái lạc cũng khó lường

Đức Phật thủ diệt độ

Bậc tối thắng đệ nhất

Cũng có tháp bảy báu

Đầy khắp cõi hư không

Người mắt sáng hiểu biết

Cung phụng tâm cung kính

Dẹp mạn không cống cao

Không tham đắm lợi dưỡng

Quả báo ao bảy báu

Dứt tưởng không chấp trước

Cũng trong thai giáo hóa

Lưu bố vô số kiếp

Sau Phật bát Niết-bàn

Câu Na Hàm Mâu Ni

Thần đức đại thông đạt

Độ thoát hơn ba Phật

Giáo hóa các đệ tử

Ba thừa không dứt đoạn

Rời khỏi phương Đông này

Trong thai hiện biến hóa

Khuyến khích kẻ hậu lai

Dẫn dắt vào nhãn tịnh

Lại Phật Ca Diếp tôn

Ngồi thẳng ức trăm kiếp

Chư thiên làm quyến thuộc

Tịch tịnh không lay động

Cũng có tháp bảy báu

Ở cõi Phật Kim Cang

Cứu hộ kẻ đọa lạc

Không rơi vào đường tà

Ta nay Thích Ca Văn

Dõng mãnh hiện một mình

Chuyên tâm giữ ý chí

Không vướng đường sanh tử

Cõi Phật tuy xấu ác

Nhưng độ không thể lường

Nay ở bào thai mẹ

Lấy thần biến làm vui

Chúng sanh cõi Dục giới

Đọa lạc vào vạc dầu

Dìu dắt họ ra khỏi

Giống như con thiêu thân.

Bấy giờ, Thế tôn dùng thần lực biến ba ngàn đại thiên thế giới sáng rực màu vàng ròng, khiến cho chúng trong đại hội đều thấy thế giới an lạc. Các đại Bồ tát ở đó đều ngồi trên hoa sen bảy báu. Đệ tử quyến thuộc ở đây đều màu vàng ròng, họ ăn uống bằng thiền định giải thoát, giới luật oai nghi chưa từng sai trái.

– Thế nào, này Bồ tát Đảnh Vương! Ai đến cõi Phật vừa hiện du hóa để cúng dường, phụng thờ thì phước ấy nhiều không?

Bồ tát Đảnh Vương thưa Phật:

– Rất nhiều, rất nhiều, bạch Thế tôn! Vì sao? – Vì cúng dường một cõi Phật phước ấy khó lường, huống chi nhiều cõi Phật như vậy.

Phật dạy:

– Nếu có Bồ tát vượt qua bất thối chuyển ở Nhất sanh bổ xứ, ở trong thai hiện thần thông biến hóa, ai cung kính Bồ tát này thì đức ấy rất tối thắng. Vì sao? – Vì Bồ tát này đã làm Phật sự không thể nghĩ bàn.

Phật lại dạy Bồ tát Đảnh Vương:

– Nay Ta sẽ nói cho ông về tám đường chánh để trừ bỏ tám điên đảo:

Hằng hà sa các cõi Phật khắp mười phương xây đầy tháp bảy báu, nhưng không bằng cúng dường Bồ tát Bát chánh đạo này với y phục, thức ăn uống, giường chiếu, ngọa cụ, thuốc thang, hương viên, hương bột, hương vụn, chiên đàn, gấm lụa, vòng hoa, những vật trang hoàng thân… thì phước ấy rất nhiều.

Có đại Bồ tát có thể đối với bốn loài sanh: thai, hóa, thấp, noãn mà phân biệt bốn ý chỉ trong một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày; một tháng, hai tháng cho đến bảy tháng; một năm, hai năm cho đến bảy năm; một kiếp, hai kiếp cho đến bảy kiếp. Nếu có chúng sanh phụng thờ cúng dường trước tháp bảy báu cho đến Bồ tát Bát chánh đạo thì không bằng người cúng dường cho Bồ tát Tứ ý chỉ, phước ấy rất nhiều.

Nếu Bồ tát Nhất sanh bổ xứ ở trong thai chuyển pháp luân Vô thượng bao hàm hết tất cả sự biến hóa, vô số đại sĩ thần đức qua lại xoay vần không bị chướng ngại, rồi trở lại hợp lại một người không giác tri. Nếu có chúng sanh cúng dường phụng thờ, không thương tiếc những gì của bản thân, giống như ngày nay Ta đã trải qua ba a tăng kỳ kiếp đoạn trừ diệt tưởng, đây là thân cuối cùng vào thai để giáo hóa, chứng quả thần thông, đều được giải thoát.

Giống như quả chín, nó biến đổi không dừng, thân Phật là không, không có giới – định – huệ – giải nhưng mùi hương của Ngài xông ướp bằng đạo đức oai nghi, không làm mất mười hai hạnh đầu đà. Một phần khổ này là cảnh giới của Ta.

Khi ấy, Bồ tát Đảnh Vương đến trước Phật tán thán với kệ:

– Thức là gốc sanh tử

Là đường đến Niết-bàn

Tự tại trong bào thai

Du hí vô lượng cõi

Bốn sanh thành cõi Phật

Biến mười sáu thần túc

Đạo vốn không một tướng

Thệ nguyện đều như nhau

Chúng sanh bị trói buộc

Hiện có người tốt xấu

Vô hình không thể thấy

Nay mới được quán sát

Các thân Phật quá khứ

Dạy bảo không bờ bến

Pháp bát đạo vô thượng

Chuyên về độ quần manh

Kinh pháp hình xá lợi

Hiện thần thông nơi đời

Để người ta dẫn dắt

Được nghe bất tư nghì

Sáu thần tháp báu Phật

Kho báu, đài bảy báu

Mỗi mỗi phân biệt kỹ

Ý nghĩa không thể lường

Xưa kia Phật hành đạo

Như không, không chấp trước

Nay ở bào thai mẹ

Thọ hóa chẳng phải một

Đắc tánh chơn như Phật

Cũng trụ tánh như thật

Trừ bỏ tâm kiêu mạn

Lạy đấng không, vô tánh

Mỗi ánh sáng xá lợi

Chiếu khắp các cõi Phật

Thọ hóa như hằng sa

Là do thần đức Phật

Quốc độ cách đây xa

Nhuận đạo cam lồ Phật

Nay muốn về cõi xưa

Tuyên dương pháp Như Lai.

Nói kệ xong, Bồ tát Đảnh Vương đi nhiễu Phật ba vòng và lạy Phật, lui ra.

***

PHẨM THỨ 12: NGŨ ĐẠO TẦM THỨC

Bấy giờ đức Thế tôn muốn thị hiện chỗ mà thức sẽ đi đến là: hướng đến thức đạo, thức tục, thức hữu vi, thức vô vi, thức hữu lậu, thức vô lậu, thức hoa, thức quả, thức báo, thức vô báo, thức trời, rồng, thức quỷ thần, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn và phi nhơn, trên lên đến thức hai mươi tám tầng trời, dưới đến thức ngục Vô cứu.

Khi ấy Thế tôn ở trong thai hiện dây móc xích bằng hài cốt đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

Phật dạy A-Tư-Đà:

– Ông có thể phân biệt thức của hài cốt này không?

A Tư Đà thưa:

– Không phân biệt được. Vì sao? – Vì chưa được thấu triệt, sức tu hành chưa đạt.

Phật dạy Bồ tát Di Lặc:

– Trong cõi trời này ông chưa đắc thần thông ư?

Di Lặc bạch Phật:

– Có điều thành tựu, có điều chưa thành tựu.

Phật dạy Di Lặc:

– Ông hãy quán sát dây móc xích hài cốt để cho tất cả chúng sanh biết nơi mà thức đến. Hãy phân biệt, xác định rõ ràng để không còn nghi ngờ.

Khi ấy, Bồ tát Di Lặc liền đứng dậy, cầm thần gậy bảy báu kim cương gõ vào dây móc xích hài cốt để nghe tiếng của xương cốt ấy. Ngay khi ấy, Bồ tát Di Lặc bạch Phật:

– Người này qua đời vì nội kết sân giận quá nhiều nên thức đọa làm loài rồng.

Lại gõ vào xương và nói:

– Người này kiếp trước hành đầy đủ mười điều thiện nên được sanh lên cõi trời.

Lại gõ vào xương, nói:

– Người này đời trước phá giới phạm luật nên sanh trong địa ngục.

Cứ như vậy, Bồ tát gõ xương: hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi, trên là hai mươi tám tầng trời, dưới đến địa ngục Vô cứu và biết nơi thức đi đến, biết quả báo thiện ác, hành quả báo của nghiệp trắng đen; trong đó chỉ có một toàn thân xá lợi là không bị sứt mẻ.

Khi ấy Di Lặc lấy gậy gõ vào để suy tìm thức này nhưng lại không biết thức của ai . Gõ như vậy ba lần, Di Lặc thưa trước Phật:

– Thần thức của người này con không thể biết được. Chẳng lẽ Như Lai nhập Niết-bàn rồi sao?

Phật dạy Di Lặc:

– Ông là người vào đời tương lai sẽ tiếp nối quả vị Phật, sẽ được thành Phật, đắc đạo Vô thượng, vậy sao gõ vào xá lợi mà ông không biết thức của ai?

Di Lặc bạch Phật:

– Phật bất tư nghì, không thể hạn lượng vì chẳng phải cảnh giới của chúng con để có thể đo lường. Nay con có điều nghi ngờ, cúi xin Thế tôn hãy nói thần thức của năm đường để cho hết thảy mọi người được biết chỗ thiện ác mà họ đến để không còn ai nghi ngờ gì cả. Với Như Lai, nay xá lợi này không có sứt mẻ, xin Ngài hãy nói thức ấy để chúng con biết.

Phật dạy Di Lặc:

– Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều lưu bố xá lợi, chẳng phải cảnh giới của các ông phân biệt. Vì sao? – Vì xá lợi này tức là xá lợi của Ta, làm sao có thể tìm kiếm thần thức của Như Lai được! Nay Ta sẽ phân biệt rõ cho ông về thức thượng – trung – hạ của Như Lai. Dù là Bồ tát nhưng đều khác nhau:

Bồ tát Sơ trụ chưa tạo được sức căn đức mà chỉ đắc thần thông.

Bồ tát Nhị trụ thì dùng thiên nhãn nhìn biết nơi mà thức hướng đến là thối hay bất thối địa. Cũng nhìn thấy người ở cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc nhìn thấy chúng sanh ở vô số hằng hà sa cõi Phật phương Đông cúng dường chư Phật, phụng thờ không bị chướng ngại. Còn biết kiếp số mà họ thọ ký là một kiếp, hai kiếp, cho đến trăm ngàn ức kiếp.

Hoặc có Bồ tát ở địa tam trụ nhìn thấy xá lợi thì biết nơi thức đi đến là Hữu dư Niết-bàn hay Vô dư Niết-bàn. Như Lai không thấy chỗ đi đến của hành thức, tứ trụ.

Bồ tát Tứ trụ thấy thức pháp của Sơ trụ, Nhị trụ, Tam trụ, nhưng không thấy chỗ đi đến của thức pháp xá lợi bậc Ngũ trụ.

Phật dạy Di Lặc:

– Bồ tát Ngũ trụ phân biệt phẩm hạ.

Đối với Lục trụ thì thấy hoặc không thấy nơi thức đi đến. Bồ tát Bất thối chuyển lên đến Nhất sanh bổ xứ thì không biết ý nghĩ của Như Lai khi Ngài cất bước chân.

Bồ tát kế thấy Bát trụ, Thất trụ, Lục trụ nhưng lại không biết ý nghĩ của Nhất sanh bổ xứ khi cất bước chân, huống chi muốn gõ vào móc xích xương cốt để phân biệt. Việc này không thể làm được.

Phật dạy Di Lặc:

– Ông nên biết điều này, mười hiệu: Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn chỉ có Phật mới biết ý nghĩ theo thần thức của Phật.

Khi ấy, Thế tôn nói với đại chúng bằng kệ:

– Luân hồi vực năm đường

Thần thức ấy rất khổ

Tai, mũi, thân tâm dơ

Không thể nào xa lìa

Thức tưởng kết thêm cấu

Lấy đạo trí huệ chặt

Huệ chiếu chỗ tối tăm

Được đến trường Vô úy

Thức Phật đều thấy pháp

Những bộ xương xá lợi

Giả sử nát như bụi

Rất nhỏ không thể thấy

Như Lai biết rõ ràng

Pháp thiện ác báo ứng

Thức Phật rất vi diệu

Chẳng phải, chẳng không phải

Vừa nói độ vạn ức

A tăng kỳ chúng sanh

Di Lặc lại thành Phật

Cũng sẽ bỏ xá lợi

Vốn do mẹ sanh ra

Thai pháp cũng như nay.

Nghe Phật nói xong, đại Bồ tát Di Lặc đi nhiễu Phật bảy vòng, đầu mặt lạy sát chân Ngài rồi về chỗ cũ.

***

PHẨM THỨ 13: CHƯ PHẬT HÀNH TỀ VÔ SAI BIỆT

Bấy giờ, đức Thế tôn liền thị hiện tướng kỳ lạ đặc biệt: biến tất cả Bồ tát thành Phật có đầy đủ tướng ánh sáng. Tất cả mặc dù khác nhau nhưng đều thuyết pháp cùng một giọng nói, phân biệt vô thường, đời đời đều trở về không.

Đức của các Ngài khó lường được và cung kính tôn trọng nhau, có đầy đủ oai nghi lễ độ và chỉ nói pháp vi diệu, không có bớt thêm, co, duỗi, cúi, ngước. Các vị đều ngồi cao tòa bằng bảy báu cực đẹp, có màn trướng bằng the lụa.

Đầu tiên: nói pháp độ vô số toàn là nam, không có nữ.

Nói pháp lần thứ hai: độ toàn nữ, không có nam.

Nói pháp lần thứ ba: độ toàn người chánh kiến.

Nói pháp lần thứ tư: độ toàn người tà kiến.

Nói pháp lần thứ năm: độ nam nữ chân chánh bằng nhau.

Nói pháp lần thứ sáu: độ tà chánh cũng bằng nhau.

Ngay khi ấy, tất cả pháp đều được thành tựu, không còn ngã sở và đạo quả được thành thục.

Theo thường pháp của chư Phật nói là nói về nghĩa lý.

Thần túc thứ ba có tám vạn bốn ngàn pháp môn không hành, tám vạn bốn ngàn pháp môn vô tướng, tám vạn bốn ngàn pháp môn vô nguyện. Mỗi pháp môn đều có vô lượng nghĩa. Giống như thân người trí huệ có một ngàn cái đầu, mỗi đầu có ngàn cái lưỡi, mỗi lưỡi có một ngàn nghĩa. Nếu muốn đạt hoàn toàn nghĩa của ba pháp môn thì đối với trăm ngàn phần chưa đạt được một. Đây là kho tàng bí mật tinh túy của chư Phật. Được như vậy là đều nhờ kiếp trước đã thành tựu trong sự học.

Khi ấy, dù khác nhau nhưng chư Phật đều đồng thanh nói kệ:

– Nguyện xưa của chúng ta

Nay đã được thành quả

Thân vàng, lời thanh nhã

Các tướng đều đầy đủ

Muốn cầu huệ vô cực

Thành tựu không còn nghi

Lành thay, đấng ba cõi

Tối thắng không ai bằng

Xưa Ta ở Đâu Suất

Chọn lựa nơi thọ sanh

Giáng xuống vào thai mẹ

Kết duyên chư Như Lai

Những chúng sanh không duyên

Nói Ta không thành đạo

Trong thai dạy chúng sanh

Trong thời gian thành Phật

Kinh Ta nói trước sau

Tám mươi bốn ức voi

Sức voi và sức người

Chở vác không thể nổi

Nay Ta phải hoan hỷ

Ghi nhớ đừng quên mất

Nói pháp chưa thành đạo

Trong thai giảng chánh pháp

Phật hành không sai khác

Tất cả đều bình đẳng

Chỉ Phật mới biết Phật

Công đức nghĩa nhiều ít

Muốn đắc tư nghì Phật

Việc làm phải kỳ diệu

Trải qua vô số kiếp

Không đạt được mảy lông.

Sau khi nói kệ này, Thế tôn thuyết pháp lần đầu tiên toàn là nam, không có nữ, và ngay trên tòa họ đắc bất thối chuyển, có lòng tin kiên cố, không thể nào làm trở ngại được.

Bấy giờ, Thích Ca mâu Ni thâu oai thần trở lại giống như trước và nói kệ:

– Chứng quả Bát chánh đạo

Không thầy tự nhiên ngộ

Một mình dạo ba cõi

Tự đạt đạo Niết-bàn

Pháp vốn không một tướng

Đại biện tài mau lẹ

Nay Ta đã chứng quả

Dứt ái không chấp trước

Vốn tánh pháp năm ấm

Không thấy có thiện ác

Dùng thần lực cứu khổ

Thản nhiên đạo tịch diệt

Các ông trong hội này

Thệ nguyện đã thành tựu

Chưa đắc, nay đã đắc

Vui thay, nghiệp lành này

Dây nhân duyên làm ngại

Trừ sạch không còn gì

Pháp la võng của Ta

Tự nhiên bị hủy hoại

Ngu si không thấy chơn

Tự đọa bốn sắc duyên

Chưa quán sát kỹ càng

Phân biệt gốc tướng khổ

Như nay Ta thành đạo

Công phu nói không hết

Phật rống tiếng sư tử

Kiếp lửa, kiếm ác cướp

Đúc nặn chúng sanh khổ

Lấy màu nhuộm tơ trắng

Nhẫn nhục chịu khổ hại

Đến chết không trả thù

Giữ tâm như hư không

Thay đổi không lâu dài

Đối với đời bấy giờ

Tội ngũ nghịch khổ não

Khó dạy, không thể độ

Chư Phật không cứu được

Tìm gốc làm hiện duyên

Chỉ dẫn chỗ vô vi

Phá tâm ương ngạnh ấy

Chuyên nhất được giải thoát

Giáo pháp nói lần đầu

Không sanh, không khởi diệt

Đều hướng về Phật đạo

Không ai bị đọa lạc.

Khi Phật nói kệ này xong, các chúng nam, chúng nữ, chúng chánh, chúng tà đều có lòng tin rốt ráo, đắc địa bất thối chuyển.

Phật dạy các đại Bồ tát:

– Các ông muốn thấy Như Lai dùng thần lực giáo hóa đạo bất tư nghì, pháp tánh thuần thục, không có người nam, người nữ, rành mạch về nghĩa lý thọ thân người nữ, không được Phật thọ ký. Ma, Thích, Phạm vương không có tướng chân thật. Các ông có muốn biết bốn chúng này được thọ ký thành Phật không?

Khi ấy, Bồ tát tên Vô Tận Ý đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải chấm đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Con chưa hề nghe Như Lai nói pháp về bốn hạng người này được thành Phật. Nay mới khai diễn đại nghĩa.

Và lại bạch Phật:

– Xả thân thọ thân liền thành Phật sao?

Phật dạy Vô Tận Ý:

– Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông: Chín mươi mốt kiếp về quá khứ có Phạm thiên vương tên Đại Biện Tài, thông suốt xưa và nay, thường thích nhàn cư, ngồi trong cung trời suy nghĩ: “Nay ta có thể giáo hóa cung nữ và các Phạm vương ở đây. Khi Ta được thành Phật đều có chư thiên đi theo, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, đồng thời thành Phật không vui sao?”.

Nghĩ như vậy xong, Phạm thiên vương liền ở thiên cung, đến cây Trí Độ, ngồi ngay thẳng tư duy, nhất ý nhất tâm, chánh niệm tỉnh giác, không có tưởng niệm gì khác, liền thành Phật với ba mươi hai tướng đại nhân và tám mươi vẻ đẹp.

Quyến thuộc của chư thiên tu hành chánh pháp Tỳ kheo, đắc A-la-hán và tất cả đều là hàng lợi căn. Chúng thiên nữ ấy có người đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, không còn sanh trở lại thế gian này nữa, rồi liền bát Niết-bàn. Đó gọi là Phạm thiên vương không xả thân thọ thân mà thân hiện tại được thành Phật đạo.

Phật dạy Bồ tát Vô Tận Ý:

– Bảy mươi sáu kiếp về quá khứ có thiên vương thứ sáu – thống lãnh ba ngàn đại thiên thế giới – tên là Hại Ác. Từ tầng trời thứ sáu trở xuống đến tự tại vô ngại, ở cung trời ấy trải qua vô số biết bao sự tư duy, hối hận những việc xưa kia hủy báng Tam bảo, ngăn cản đạo quả. Giả sử Ta thọ báo, đọa vào ba đường, không rời khỏi đường ác, thì nay Ta có thể sửa đổi tâm làm ác và cùng với quyến thuộc chư thiên trong thiên cung này tu phạm hạnh, cầu đạo Vô thượng, tiến tới thành Phật, không phải vui sao?!

Lại suy nghĩ: “Cảnh giới mà Ta cai quản có vô lượng vô số thiên nữ vui chơi, không gì vui hơn đây. Giả sử Ta thành Phật thì cũng giống như cõi này, dần dần giải đãi” .

Lại tới kiếp số loài ma có tri thức tu hành, bước lên địa vị Thập trụ, giảng nói công đức của Phật, xuất gia tu đạo, có các tướng đầy đủ. Tâm ma khai mở, sửa đổi, tâm tánh nhập vào thiền định, không có dấy nhiều tưởng niệm, căn tánh mau lẹ. Ngay đó, liền ở thiên cung mà chứng đạt tam minh, trang nghiêm cõi Phật, không còn tái sanh nữa, liền thành Vô thượng chí chơn Chánh đẳng Chánh giác, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả cõi ma, không chỗ nào mà không thấy.

Khi ma thành Phật, có ba ức thiên tử tâm tự sanh niệm, cho rằng: do ma huyễn hóa chứ chẳng phải đạo chân thật và hết thảy rút lui trở về cung. Mười sáu ức thiên tử đều đến thân cận, phụng thờ, cúng dường như Phật không khác. Và ngay nơi tòa chứng bốn quả. Đó là Đại thiên vương Hại Ác, không xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Phật lại dạy Bồ tát Vô Tận Ý:

– Sáu mươi mốt kiếp về quá khứ, ở phương Đông có Thích Thiên Tử tu thiên nhãn, tâm thanh tịnh, thích thiền định, luôn muốn xuất gia tiến đến Phật đạo. Pháp của chư thiên ấy bị suy nên có điềm ứng và không bao lâu qua đời.

Chư thiên từ từ giảm sút sự ham thích ngủ nghỉ, thân thể dơ bẩn, hoa tự khô héo, không thích tòa báu, thức ăn không ngon, rồi liền đi ra sau vườn tắm rửa, giặt giũ. Với thân trời này, mắt thấy rất xa. “Làm thế nào có Phật để đến lễ lạy, viếng thăm, cung kính cúng dường, được thọ cấm giới của Phật, và liền ngay thân này đắc thành Phật đạo” . Nghĩ vậy xong, ngồi ngay thẳng tư duy, dùng thiên nhãn thấy phương trên có Phật hiệu Vô Lượng Không Hành, thế giới thanh tịnh, hiện đang nói pháp, đầu giữa cuối hoàn toàn thiện.

Thế rồi Thích thiên tử dùng thần lực khoảng như người co duỗi cánh tay, đến chỗ Phật ấy lễ lạy sát chân, lui qua đứng một bên và khen Phật bằng kệ:

“Tướng sáng chiếu mười phương

Chiến thắng bọn ma oán

Giảng nói con đường đạo

Dứt nghi, không còn lầm

Người phạm hạnh thanh tịnh

Đều nhờ hạnh tối thắng

Tùy cơ nói chơn pháp

Không trái pháp bổn hạnh

Con là chủ chư thiên

Muốn tu đạo thanh tịnh

Cúi xin Phật thương xót

Được đến chỗ an ổn” .

Bấy giờ, Thế tôn dạy Thích thiên tử:

– Lành thay! Lành thay! Ông phát tâm rộng lớn, muốn được cứu vớt khổ của chúng sanh: người chưa đắc được đắc, người chưa đạt được đạt, người chưa thành tựu muốn được thành tựu, muốn cho người mù được mắt sáng, người điếc được nghe, người gù lưng được thẳng, người không có tay chân được có tay chân. Ông hãy trở về bổn cung, ngồi dưới cây đạo, phân biệt các hành là pháp trụ hay pháp tán.

Nghe xong, Thích thiên tử lạy trước Phật. Khi ấy, ông ta biến mất, trở về cung trời. Quyến thuộc chư thiên đều quy về nương tựa, làm cho công đức của ông ta càng tăng trưởng, tướng suy hao đã tiêu mất sạch. Ông ta ngồi thẳng thâu nhiếp thân, tâm ý bất động, liền đắc thành Vô thượng Chí chơn Đẳng chánh giác, hướng dẫn chín mươi ba ức thiên nữ chứng bốn đạo quả. Đó gọi là Thiên Đế Thích không xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Phật dạy Bồ tát Vô Tận Ý:

– Năm mươi bốn ức hằng hà sa kiếp về quá khứ có thế giới tên Hỏa Diệm, Phật hiệu Vô Dục Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn nói pháp độ người , khéo tu phạm hạnh, biết rõ về pháp Tứ đế, bố thí cho tất cả. Nhân dân cõi đó đều thọ thân nữ, hiểu rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, phân biệt về thọ nhập, không còn phiền não, nhàm chán thân khổ này ; cùng nhau phát thệ nguyện rộng lớn, mặc áo giáp vô úy muốn cứu độ chúng sanh, làm thanh tịnh cõi Phật, quăng trừ các xấu ác, lập ý chí kiên cố, đạt đến Bất thối chuyển ; cùng nhau thực hành hiểu rõ về pháp không, vô tướng, vô nguyện. Trong một lúc, trong một ngày thông đạt Tam đẳng, liền thành Phật đạo, các tướng đầy đủ, sống chết tự tại, lấy nhỏ nhập vào lớn, lấy lớn nhập vào nhỏ. Trong một ngày độ vô lượng a tăng kỳ chúng sanh, giáo hóa chúng sanh vào Vô dư y Niết-bàn. Đó gọi là bất xả thân thọ thân mà thành Phật đạo.

Bấy giờ muốn tuyên lại nghĩa này, Thế tôn nói kệ:

– Pháp tánh như biển lớn

Không nói có đúng – sai

Kẻ phàm phu, hiền thánh

Bình đẳng không cao thấp

Chỉ do tâm dơ nhiếp

Thủ chứng như trở tay

Đạo thành vua ba cõi

Xiển dương tiếng sư tử

Pháp biệt không có pháp

Không có hạnh nam nữ

Nay đời năm trược này

Hiện có phần thọ thân

Đoạn diệt kẻ chấp thường

Làm chướng ngại kiếp số.

Khi Thế tôn nói kệ này xong, có tám vạn bốn ngàn ức chúng sanh lập chí kiên cố và tất cả đều nguyện thành Phật, không còn tái sanh.

***

PHẨM THỨ 14: HÀNH ĐỊNH BẤT ĐỊNH

Bấy giờ, trong hội có Bồ tát tên là Thường Tiếu, đạt sáu thông, có oai đức và thần lực tự tại, biện tài vô úy, chấm dứt phần sanh tử, không còn chấp trước việc gì, những điều nói ra đều được tin dùng, hiểu rõ các pháp không, như huyễn hóa, như mộng, như sóng nắng, như lá đỏ trong nước mà loài thú ngu si cho là nước thịt, cuối cùng không lấy được, như tiếng vọng trong núi ; hiểu rõ các pháp không sanh không diệt, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của chúng sanh, nên liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật:

– Cúi xin Thế tôn, con có chút nghi ngờ. Nếu được cho phép con mới dám thưa. Trí tuệ của Đại thánh Như Lai vô ngại, trước biết do nhân duyên quá khứ mà trói các hành, sau làm rõ nguyên lý thành bại và nhân duyên hợp tan của vị lai. Hành nghiệp thiện ác là do phát tâm khác nhau. Nay con nghe Như Lai ở trong thai giáo hóa chúng sanh là các hành có sai khác, có đối không đối, có quả báo không có quả báo, có hành đen trắng, không có hành đen trắng. Lại có chúng sanh từ khi mới phát tâm trải qua vô số kiếp mà không được thành tựu, hoặc có chúng sanh chỉ sáng phát tâm mà chiều liền thành Phật. Cúi xin Thế tôn hãy nói cho, con rất muốn nghe.

Thế tôn dạy Bồ tát Thường Tiếu:

– Theo lý lẽ mà ông hỏi đều là do oai thần của Như Lai cảm vời ra. Muốn thành tựu các pháp thì không đoạn thật tánh của Như Lai, trước cũng như sau. Vì sao? – Vì pháp tánh của Như Lai không thể nào nắm bắt, giữ gìn được, cũng chẳng phải phạm vi A-la-hán, Bích Chi Phật biết được.

Khi ấy, Thế tôn dùng thần lực xuất ra tướng lưỡi rộng dài, ánh sáng tướng lưỡi chiếu a tăng kỳ kiếp cõi Phật, tận cùng phương Đông, khiến cho chúng sanh năm đường thấy ánh sáng ấy tìm đến chỗ Như Lai. Ngay giữa chặng mày, Thế tôn lại xuất ánh sáng tướng lông trắng, trên chiếu tám mươi bốn ức hằng hà sa cõi chúng sanh.

Bấy giờ, Thế tôn nói kệ cho Bồ tát Thường Tiếu:

– Ba mươi mốt âm vang

Nghiệp báo được trong sạch

Bốn mươi tám trần cấu

Trời hành năm mươi năm

Bồ tát tóc bảy báu

Phát sanh tâm chúng sanh

Bốn loại cây đạo quả

Tâm thức định không loạn

Kẻ thiếu trí vô phước

Mắc khẩu nghiệp rất nhiều

Ăn uống biết vừa đủ

Đi đứng đúng oai nghi

Bình đẳng thương tất cả

Mới gọi đạo Bồ tát

Đời năm trược ba cõi

Điên đảo vướng cõi ma

Phá hoại gốc nghiệp thiện

Như bóng không rời hình

Căn tánh có lanh chậm

Tới lui lòng do dự

Phát nguyện độ chúng sanh

Công đức trọn đầy đủ

Thành tựu thân mười lực

Thế tục pháp hữu vi

Tư duy khó lường được

Vừa chết lại tái sanh

Như lửa cháy núi rừng

Tâm niệm đốt chánh pháp

Lan đến a tăng kỳ

Thân mặc giáp thệ nguyện

Dõng mãnh độ kẻ dữ

Tiêu diệt chúng quân ma

Lỗ chân lông thân người

Hơn sáu mươi bốn vạn

Người trí huệ biết rõ

Các nghiệp báo nhỏ nhặt

Người lợi căn Diêm Phù

Thọ thân rất xấu xí

Từ mỗi lỗ chân lông

Rịn chảy không kín đáo

Thân Kim cang Như Lai

Chân lông ba mươi bảy

Kín đáo không rịn chảy

Không bị lửa thiêu cháy

Ma và quyến thuộc ma

Sa môn, Bà la môn

Phạm thiên và chúng Thích

Thần lực bọn quỷ thần

Muốn đụng lông tóc Phật

Việc này không thể được

Hư không thành địa giới

Nhật nguyệt có thể rơi

Muốn đụng lông tóc Phật

Không thể nào làm được

Đây là nghiệp pháp tục

Chẳng phải tướng vô vi

Thọ hành chịu nghiệp quả

Các tướng đều khác nhau

Thân Phật thể Kim cang

Ngoài hành theo báo nghiệp

Là quả báo thế tục

Lìa xa pháp vô vi

Tướng Phật pháp chân thật

Không hiện ra bên ngoài

Muốn biết tướng trong Phật

Như dùng thần túc vậy.

Nói kệ xong, đức Thế tôn dạy Bồ tát Thường Tiếu:

– Duyên báo duyên duyên báo

Chí đạo vô ngại báo

Tam bảo chơn tánh báo

Hành thú Niết-bàn báo

Thế tục vô trước báo

Nhất hướng cứu cánh báo.

Đó là đệ nhất nghĩa của đại Bồ tát, không nhiễm, không chấp trước, không thể nắm bắt, không vướng vào cõi Dục mà cũng không lìa cõi Dục. Quá khứ có, vị lai có, hiện tại có. Chẳng phải quá khứ có, chẳng phải vị lai có, chẳng phải hiện tại có, không sanh không diệt. Qua trăm ngàn kiếp, đại Bồ tát đã thông đạt, không còn chướng ngại, khiến cho mọi tầng lớp chúng sanh đều hiểu rõ cái không đó vốn có quả báo để thành tựu khẩu nghiệp, thông đạt cả âm thanh.

Hoặc có đại Bồ tát trong phút chốc có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới hóa thành thủy giới, giống như Tỳ kheo đắc thiền quán vô lượng thủy giới. Con trùng, rùa, ba ba trong thủy giới ấy không xúc chạm nhau. Do chứa công đức nhiều kiếp nên không hư không hoại. Đó gọi là đại Bồ tát nhập vào Thủy giới tam muội.

Hoặc có chúng sanh thấy Bồ tát nhập định cho là nước, rồi lấy gạch, ngói, đá, cây cỏ quăng vào. Bồ tát nhập định, tâm như hư không, không biết có người đến xúc não. Đó là đại Bồ tát nhập vào lực của thủy giới.

Hoặc có Bồ tát thiền định nhiếp tâm nhập vào Hỏa giới tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên quốc độ này bùng cháy. Chúng sanh ngu si nói rằng Bồ tát gặp lửa kiếp thiêu, chạy tán loạn nhưng không tránh được lửa. Mặc dù lửa cháy đỏ nhưng Bồ tát thấy mát mẻ không nóng. Đó là đại Bồ tát nhập vào Hỏa quang tam muội. Oai thần của tam muội này không thể so lường. La hán, Bích Chi Phật cũng không thể đạt được.

Hoặc có Bồ tát nhập năm phần pháp thân, tâm định bất động, khiến ba ngàn đại thiên thế giới nào bò – bay – máy – cựa cho đến trùng, kiến đều dùng oai thần tiếp đỡ chúng, nên chúng không gặp phiền não, bảy ngày được an ổn. Sau khi qua đời, tất cả đều sanh lên cõi trời. Trong một ngày nói pháp mà hóa có mặt khắp mọi nơi, trong đó người nào thấy thần đức của Như Lai thì trần cấu đều được trừ sạch, muốn gì được nấy, hoặc sanh vào cõi chư Phật ở phương khác. Đó là nhờ đại Bồ tát nhập năm phần pháp thân định tâm ban cho.

Có Bồ tát nhập vào Bất động sư tử phấn tấn tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Chúng sanh trong đó đều quy phục, tu hành thanh tịnh, mặc áo tàm quý, bỏ tâm kiêu mạn, hướng dẫn chúng sanh đến tám con đường chân chánh, trừ khử bảy mươi bảy tâm chấp ngã. Cấu nhiễm chất chứa lâu đời chỉ trong nhất thời đều trừ sạch cả. Đó là do đại Bồ tát nhập vào Phấn tấn vô úy tam muội cảm vời ra.

Có đại Bồ tát nhập Tán thân định ý, phân biệt thức tụ từ đâu đến và đi về đâu. Mỗi mỗi đều phân biệt rõ ràng là không, vô tịch nhiên. Trước – sau – giữa đều không có đầu mối. Đó là do đại Bồ tát nhập Tán thân định ý tam muội mà cảm vời ra.

Có đại Bồ tát nhập Nhẫn đảnh tam muội, có thể làm thân này biến thành con trùng không có chân tay đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sanh thấy chẳng biết đó là gì nên nói là đống thịt. Nếu ai lấy ăn thì mùi vị như cam lồ và đều làm no đủ cho chúng sanh bị đói khát. Đó là do đại Bồ tát nhập Nhẫn đảnh tam muội mà cảm vời ra.

Có Bồ tát dùng Thần lực tam muội khiến núi sông, đá, vách trong ba ngàn đại thiên thế giới này hóa thành cam lồ, giống như đường phèn, ăn vào không biết ớn, khiến cho bốn chứng bệnh nặng kiết sử của chúng sanh vĩnh viễn lành hẳn không còn trở lại. Chúng sanh phát nguyện: “Nguyện muốn sanh về thế giới vô tận” . Đó là nhờ thần lực của đại Bồ tát cảm vời ra.

Lại nữa, đại Bồ tát nhập vào Độc bộ tam muội, làm cho tất cả chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này thấy Bồ tát đi cất bước chân, hạ chân xuống. Ai gặp Bồ tát đi bộ thì có thể ngăn chận người tội không còn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đây đều do thân – khẩu – ý Bồ tát thanh tịnh và phát nguyện cứu độ đạt đến nơi cứu cánh, không bao giờ quay trở lại. Đó là nhờ vô lượng tâm nguyện phước lành của đại Bồ tát cảm vời ra.

Lại nữa, đại Bồ tát dùng thần thông định nhập vào Nhạo pháp tam muội, khiến cho các loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này đều quay về, đến chỗ Bồ tát để cầu xin xuất gia, tu phạm hạnh vô thượng, phát tâm giống nhau, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, theo thường pháp của chư Phật về pháp oai nghi, cấm giới, giáo thọ thì có thể tức thời ở vào Minh huệ địa. Minh huệ địa là nơi hành pháp của Bồ tát Bát trụ, chẳng phải nơi Nhị thừa tu tập. Đó gọi là nhờ thần lực của đại Bồ tát cảm vời ra.

Lại nữa, đại Bồ tát dùng đại bi của Phật nhập vào Vô ngại đinh, khiến cho các loài quần manh trong ba ngàn đại thiên thế giới này cùng làm cha mẹ, anh em, bạn bè, dòng họ, tri thức, ai không có của cải thì cho của cải, cung cấp các vật cần dùng cho đến quốc thành, vợ con, voi ngựa, vàng bạc, trân bảo, xe cộ, mã não, bạch châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, bích thạch, trân bảo lẫn lộn, y phục, thức ăn uống, giường mùng, chiếu chăn, thuốc thang, hương hoa, phấn xoa… đều cho họ sung túc. Những người được sự giáo hóa trong đó đều đầy đủ, làm chúng sanh phát tâm ở trong địa Nhạo pháp.

Sao gọi là địa Nhạo pháp? – Nghĩa là ai hợp với đạo Tu-đà-hoàn thì có pháp chân thật cốt yếu để đoạn ba kiến pháp.

Ai hợp với đạo Tư-đà-hàm thì còn bảy đời nữa thành đạo.

Ai hợp với đạo A-na-hàm thì nói thiện pháp không có năm ấm che lấp.

Ai hợp với đạo A-la-hán thì nói Niết-bàn thọ chứng không trở ngại.

Ai hợp với đạo Bồ tát thì nói pháp Lục độ đảnh nhẫn, phát tâm tiến lên.

Ai hướng đến Phật đạo thì nói cứu cánh tịnh Nhất thiết trí, trang nghiêm Phật giáo chúng sanh. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, lễ lạy, thờ phụng chư Phật Thế tôn, được đắc sáu thần thông:

– Mắt có thể thấy thấu triệt.

– Tai có thể nghe thông suốt

– Tự biết đời trước

– Biết tâm người khác.

– Thân có thể bay.

– Các trần cấu đều đoạn sạch, không còn nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng.

Đó gọi là nhờ thần lực của đại Bồ tát nhập Nhạo pháp tam muội mà cảm vời ra.

Có đại Bồ tát nhập vào Kim cang tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới biến thành bảy báu, cứu giúp, ban bố cho người nghèo khổ. Ai xin thức uống cho thức uống, ai xin thức ăn cho thức ăn và rồi nói cho họ về quả báo của sự xan tham. Hễ người nào xan tham thì chết đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nghèo khổ, áo không đủ che thân, bị người ghét bỏ, hoặc làm nô tỳ, làm người ở mướn, hoặc đọa làm súc sanh gánh vác mang nặng.

Bồ tát nói cho họ về hạnh không dâm dục thì được sanh lên trời. Dâm là ô uế, chết đọa vào đường ác như núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than, địa ngục thiết chủy, địa ngục hắc thằng, địa ngục phất thỉ, núi băng, cối giã,… chịu vô lượng khổ. Hoặc vào trong ngục hoa sen đỏ, gió thổi lửa đốt xương cốt phân ly.

Trong đó Bồ tát nói vô thường, thân không tồn tại lâu dài như đánh đá thấy lửa, như sấm sét qua trước mắt, huyễn hóa chẳng phải một thì vì sao chịu khổ, tinh thần suy sụp mà không mong cầu thoát khỏi.

Bồ tát nói pháp chân thật cho họ như vậy để người tội đều được hết khổ. Đó gọi là nhờ đại Bồ tát dùng định ý đại bi tam muội của Phật mà cảm động đến.

Bấy giờ Thế tôn nói kệ:

– Chúng sanh muốn giải thoát

Cửa năm đường ba cõi

Tinh tấn không giải đãi

An trụ đạo vô vi

Như người xây nhà cửa

Không cây gỗ mà thành

Chủ yếu trước ban đất

Rồi dựng trụ, xây tường

Phật đạo như hư không

Không do một hạnh thành

Giữ ý thật kiên cố

Ruộng tâm không quyến luyến

Hằng sa Phật quá khứ

Vị lai cũng không tận

Có vị lần lượt thành

Có vị được siêu việt

Ta dạy ngộ chưa ngộ

Khiến đến tám chánh đạo

Nghe rồi không thọ nữa

Pháp này do ai tạo

Xưa ta xả tưởng thân

Kiếp số không cho khó

Không thầy mà tự ngộ

Là đạo sư tất cả

Đạo sư hiện ra đời

Không duyên, không thần thông

Cốt độ người chưa độ

Thị hiện thành vô vi.

Khi Thế tôn nói kệ này xong, có năm mươi sáu ức hằng hà sa chúng sanh đoạn diệt vọng tưởng, không còn ưa thích nghiệp của thế tục và đồng thời phát nguyện cầu đạo vô thượng.

***

    Xem thêm:

  • Kinh Luân Vương Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà-ra-ni - Kinh Tạng
  • Pháp Thức Thực Hành Tâm Chú Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 24 – Thọ Báo - Kinh Tạng
  • Kinh Ca Diếp Tiên Nhơn Nói Phương Thuốc Cho Người Nữ - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 48 – Kinh Kosambiya (Kosambiya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tu Hành Bản Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Thọ Đề Già - Kinh Tạng
  • Kinh Tạp A-Hàm Quyển 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Hạnh Người Cư Sĩ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 1 Đến Phẩm 10 - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Phổ Diệu - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Năng Thắng Phan Vương Như Lai Trang Nghiêm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng