Quyển 16
Xuất ly Phồn Phược địa thanh bạch giải thoát đạo lộ đại quyết trạch phần – Thứ 31
Như vậy đã nói qua về tối cực quảng đại cụ hành sơn vương vô tận hải hải đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến xuất ly phồn trược địa thanh bạch giải thoát đạo lộ đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Trong giải thoát đạo lộ
Có ba mươi vô vi
Là mười không, mười có
Như thế những vô vi
Trong năm mốt vị ấy
Tất cả đầy đủ có
Nương pháp vị lập chuyển
Có hai loại hơn lên
Luận rằng: Xuất ly phồn phược địa thanh bạch giải thoát đạo lộ phần lại có 20 vô vi thường pháp. Đó là 10 không và 10 có vô vi. Mỗi mỗi đều sai biệt. Những gì là 10 không vô vi? –
Một là quảng đại hư không tự nhiên thường trụ ly tạo tác không vô vi.
Hai là đại hư không ảnh không vô vi.
Ba là hư không ảnh ảnh không vô vi.
Bốn là phá ảnh vô sở hữu không vô vi.
Năm là không không cụ phi không vô vi.
Sáu lý ly ngôn tuyệt thuyết không vô vi.
Bảy là tuyệt ly vị tốt không vô vi.
Tám là tuyệt ly tâm giải không vô vi.
Chín là tuyệt ly cùng cùng không vô vi.
Mười là vô chướng vô ngại đại không đại không không vô vi.
Đây chính là mười.
Còn những gì gọi là 10 hữu vô vi?
Một là tất cả ngôn thuyết quyết định thường trụ vô ngại phi không vô vi.
Hai là tất cả tâm thức quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Ba là tất cả đại chủng quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Bốn là tất cả cụ phi quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Năm là tất cả hữu thật quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Sáu là tất cả tánh đại quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Bảy là tất cả kim quang quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Tám là tất cả hữu danh quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Chín là tất cả vô danh quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Mười là quảng đại viên mãn tự tánh bổn hữu tất cả loại có, quyết định thường trụ vô phá phi không vô vi.
Đây gọi là mười.
Như trong bài kệ giải thoát đạo lộ có 20 vô vi. Là 10 không và 10 có. Như vậy 20 loại vô vi pháp. Năm mươi mốt loại Kim Cang vị đầy đủ viên mãn không khuyết thất, chuyển đổi.
Như kệ đã nói như thế các vô vi trong 51 vị tất cả đều đầy đủ có vậy. Nương vào 20 vô vi như thế, 51 vị ấy kiến lập chuyển tướng liền có 2 loại. Những gì là hai? – Một là trọng trọng hạch nhiếp vô chướng ngại môn. Hai là lần lượt loạn chuyển qua khỏi môn. Đây gọi là hai.
Như bài kệ, nương vào pháp vị để lập chuyển có hai trọng trọng siêu vậy. Riêng trọng trọng hạch nhiếp vô chướng ngại môn hình tướng như thế nào? – Kệ rằng:
Hai mươi pháp mỗi một
Mỗi nhiếp sau hai mươi
Năm mươi mốt loại vị
Một một đều mỗi mỗi
Nhiếp năm mươi mốt vị
Lại nhiếp sai tướng nầy
Là do nhơn duyên vậy
Kiến lập nhiều loại môn
Luận rằng: Sao gọi là tướng trọng trọng môn? – Là hạch nhiếp vậy. Hạch nhiếp những gì? – Đó là 20 loại vô vi thường pháp tín tâm đầy đủ. Một một đều nhiếp các vị sau và mỗi 20 loại vô vi pháp ấy. Như nói tín tâm dư vị lại cũng như vậy. Như kệ nói 20 pháp một một mỗi nhiếp lấy sau 20 vậy. Năm mươi mốt loại vị, mỗi nhiếp 51, lại chẳng có chướng ngại. Như kệ nói 51 loại vị một một tất cả mỗi mỗi nhiếp lấy 51 vị vậy. Một một pháp ấy nhiếp tất cả vị. Một một vị ấy nhiếp tất cả pháp, lại chẳng có chướng ngại. Như kệ lại nhiếp tướng nầy sai biệt. Từ đấy 2 loại hạch nhiếp môn vậy. Lập nên nhiều tên khác. Như kệ nói lấy đây làm nhơn duyên; cho nên kiến lập nhiều loại tên.
Như vậy đã nói qua về trọng trọng hạch nhiếp vô chướng ngại môn rồi; bây giờ lần lượt nói đến loạn chuyển siêu quá môn. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Trong năm mốt vị ấy
Tùy một qua năm mươi
Dần dần tăng pháp số
Cho biến chuyển rộng khắp
Luận rằng: Ở đây muốn làm rõ nghĩa gì của bài kệ nầy? – Vì muốn hiện thị 51 loại Kim Cang vị. Lấy niềm tin làm đầu trải qua 50 vị. Dùng sự phát tâm trụ ở phần đầu nầy trải qua 50 vị. Cho đến dùng tối cực địa mà vì phần đầu nầy trải qua 51 vị. Nếu phần 1 chuyển và tăng 41 lần số trăm pháp vị chuyển. Nếu chuyển cái thứ 2 tăng 82 lần số trăm pháp vị chuyển. Cho đến tối hậu địa vậy. Như trong kệ 51 vị, tùy theo một trải qua 50 rồi dần dần tăng pháp số, chu biến quảng đại chuyển vậy. Trong kinh Uẩn Cao Sơn Vương phẩm loại nói như thế nầy: Trong vô phá địa địa môn lại có tịch tịnh bảo kỳ số chúng đa. Nếu có hành giả nhập vào trong pháp môn nầy thì trải qua các pháp vô vi đại đạo, chẳng có chỗ chướng ngại, lại chẳng có chỗ nghi sợ. Tâm nầy tự tại quyết định thường trụ đại an lạc; dần dần tăng trưởng, thường công đức như biển cả; cho đến nói rộng ra.
Giải thoát Sơn Vương căn bản địa địa vô ngại tự tại đại quyết trạch phần – Thứ 32.
Như đã nói qua về xuất ly phồn phược địa thanh bạch giải thoát đạo lộ đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói về giải thoát sơn vương căn bản địa địa vô ngại tự tại đại quyết trạch phần. Tướng nầy ra sao? – Kệ rằng:
Trong căn bản sơn vương
Không, có hỗ tương sanh
Các vị tương sanh vậy
Chuyển đổi, to lớn chuyển
Luận rằng: Trong bài kệ nầy muốn làm rõ nghĩa gì? – Vì muốn hiện thị 10 không vô vị. Một một mỗi mỗi ấy xuất sanh 10 hữu vô vị thường pháp. 10 hữu vô vị ấy một một mỗi mỗi xuất sanh 10 không vô vị thường pháp. 51 vị một một, mỗi mỗi xuất sanh 50 nương vào trọng trọng đẳng môn, viên mãn rộng rãi chuyển khắp. Như kệ nói trong sơn vương ấy không, có hỗ tương với nhau sanh ra các vị tương sanh; cho nên chuyển đổi rộng rãi hơn. Trong kinh Ma Ha Diễn Hải nói như thế nầy: Trong biển giải thoát ấy lại có, không có; lại có có không. Số nầy thật nhiều. Như vậy không, có tuy là thường diệt; nhưng phi thường lượng. Tuy là công đức mà chẳng sai quấy phẩm. Cho nên nói là giải thoát tạng hải; cho đến nói rộng ra.
Quyển 17
Giải Thoát Sơn Vương Đại Đạo Lộ Đại Quyết Trạch Phần – Thứ 33
Đã nói qua về giải thoát sơn vương căn bản địa địa vô ngại tự tại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến Giải Thoát Sơn Vương đại đạo lộ đại quyết trạch phần. Tướng nầy ra sao? – Kệ rằng:
Trong Sơn Vương đạo lộ
Trước nói về số lượng
Tăng không không, có có
Vị vị chuyển thắng sanh
Luận rằng: Trong Giải Thoát Sơn Vương đại đạo lộ phần lại có 3 chuyển. Những gì là ba? – Một là không không chuyển. Mười không vô vi một một mỗi mỗi sanh ra 10 không vậy. Hai là hữu hữu chuyển. Mười hữu vô vi, một một mỗi mỗi sanh ra 10 hữu. Ba là vị vị chuyển. 51 vị ấy một một mỗi mỗi sanh ra 50 vậy. Đây gọi là ba. Giữ tự tướng, sanh phi tha tướng vậy. Như kệ đã nói về Sơn Vương đạo lộ như trước, số lượng tăng không không hữu hữu, vị vị chuyển thắng sanh vậy. Ngoài chủng chủng môn, chuyển chuyển tăng số; nên rộng biết như thế.
Quảng đại vô tận giải thoát hải hải Ma Ha Sơn Vương đại quyết trạch phần – Thứ 34
Đã nói qua về Giải Thoát Sơn Vương đại đạo lộ địa quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói về quảng đại vô tận giải thoát hải hải Ma Ha Sơn Vương đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Trước đã nói các chuyển
Chẳng có cùng tận vậy
Luận rằng: Trong kệ nầy mưốn làm rõ ý nghĩa gì? – Vì muốn hiện thị không sanh tự không, vô hữu cùng tận. Không sanh khác với không vô hữu cùng tận. Không sanh các hữu, không hữu cùng tận. Có lại như thế vô hữu cùng tận. Vị cũng lại như thế vô hữu cùng tận. Trọng trọng vô cùng, loạn chuyển vô cùng. Chẳng có ngằn mé, chẳng có trước sau, sâu xa sâu xa, chu biến chu biến quảng đại chuyển hành. Tức là giải thoát hải sơn vương vô ngại tự tại thể tướng dụng vậy. Như bài kệ trước đã nói về các chuyển, chẳng có cùng tận vậy.
Quyển 18
Ma Ha Không Trần Hải Tạng Sơn Vương Đạo Lộ Đại Quyết Trạch Phần – Thứ 35
Đã nói qua về quảng đại vô tận giải thoát hải hải Ma Ha Sơn Vương đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến Ma Ha không trần hải tạng vương đạo lộ đại quyết trạch phần. Tướng nầy ra sao? – Kệ rằng:
Trong biển vương đạo ấy
Đầy đủ trăm tự tại
Dùng đến nhân duyên nầy
Kiến lập tên hải vương
Luận rằng: Trong bài kệ nầy muốn làm rõ nghĩa gì? – Vì muốn hiện thị hải vương tạng, trong ấy không có pháp sai biệt. Chỉ có tự tại mà thôi. Có bao nhiêu tự tại? – Nghĩa là cả trăm loại vậy. Những gì là một trăm?
Một là thời tự tại, 32 pháp. Lại một lúc chuyển; lại một lúc chuyển khác. Lại lúc chuyển mà chẳng chuyển. Lại chẳng chuyển mà chuyển. Lại lúc chuyển xa, lại lúc chuyển gần cho đến vô lượng vậy.
Hai là xứ tự tại. Một khác với xứ chuyển, cho đến vô lượng.
Ba là vật tự tại; vì đồng dị cùng với dụng; cho đến vô lượng vậy.
Bốn là chu biến tự tại; chẳng có nơi nào mà chẳng thông; cho đến vô lượng vậy.
Năm là đại tiểu tự tại, cực trọng cực vi; cho đến vô lượng vậy.
Sáu là hữu vô tự tại, lại hiện lại ẩn; cho đến vô lượng vậy.
Bảy là tịch động tự tại; lại định lại tán vậy; cho đến vô lượng.
Tám là thậm thâm tự tại, bất khả tư nghì đẳng sự; cho đến vô lượng vậy.
Chín là bất tự tại tự tại, dùng việc nghịch lại; cho đến vô lượng vậy.
Mười là vô ngại tự tại, dùng việc thuận nghịch; cho đến vô lượng vậy.
Mãi cho đến thứ 10 tự tại tự tại. Vô tận tự tại và tất cả tự tại; cho đến vô lượng vậy.
Như trước đã nói về 32 pháp. Như vậy tự tại đầy đủ viên mãn, chẳng khuyết, thất, chuyển đổi. Dùng nghĩa nầy cho nên lập nên tên là Hải Vương; có như thế nên suy nghĩ phán xét. Như kệ đã nói về hải vương đạo lộ đầy đủ một trăm tự tại. Dùng nhơn duyên nầy cho nên kiến lập nên tên Hải Vương. Trong kinh Giác Hoa có nói như thế nầy: Đệ nhứt quảng phần đại hải môn trung nếu nói rộng ra thì có một và 10 phương thế giới vi trần số lượng tự tại. Nếu nói lược thì có 100 tự tại; cho đến nói rộng ra.
Đại bất khả tư nghì trọng trọng bất khả Xưng Lượng A Thuyết Bổn Vương Đại Quyết Trạch Phần – Thứ 36
Đã nói qua về Ma Ha không trần hải tạng vương đạo lộ đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến bất khả tư nghì trọng trọng bất khả xưng lượng A Thuyết Bổn Vương đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
A thuyết bổn vương trung
Có mười phương số trần
Mười phương không trần ấy
Ba mươi ba pháp hải
Luận rằng: Trong bài kệ nầy muốn làm rõ nghĩa gì? – Vì muốn hiện thị A Thuyết Hải; trong nầy đầy đủ viên mãn 10 phương thế giới trần số. Mười phương thế giới trần số ấy trong 33 pháp hải. Mười phương thế giới trần số ấy trong 10 phương hư không trần số của 33 pháp hải. Cho nên như kệ đã nói là A Thuyết Bổn Vương; trong ấy có 10 phương trần lượng và 10 phương hư trần lượng trong 33 pháp hải vậy. Trong kinh Bổn Vương nói như thế nầy:
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo với Đại Chúng rằng: Ta dùng 3 đạt trí thông đạt tất cả pháp; chẳng có chỗ chướng ngại; chẳng có chỗ thiếu sót, mà lại có một biển bất khả tư nghì; bất khả tư nghì; chẳng thể rõ hết. Nghĩa là không trần bổn vương thanh đức viên mãn tự tại tự tại vô tận tạng hải; cho đến nói rộng ra.
Quyển 19
Giảo Lượng (so sánh) Công Đức Tán Thán Tín Hành Hiện Thị Lợi Ích Đại Quyết Trạch Phần – Thứ 37
Đã nói qua về đại bất khả tư nghì trọng trọng bất khả xưng lượng A Thuyết Bổn Vương đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói đến Tỷ Lượng Công Đức tán thán tín hành hiện thị lợi ích đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Giống như đám lửa cháy
Sức sáng bung ra xa
Với ánh sáng mạnh ấy
Hay trừ tối tận xa
Huyền Văn Bổn Luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có những chúng sanh
Cùng ở chung thế giới
Tuy chưa được thấy, học
Luận nầy giống sáng kia
Hay phá chúng sanh xa
Tâm tướng chẳng sáng thấy
Làm cho thấy rõ ràng
Tùy phần tỏ nhiễm nầy
Giống như đám lửa kia
Chuyển hơn gần nơi ấy
Ánh sáng dần dần rõ
Hay phá tối lại tăng
Huyền văn bổn luận này
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Cùng ở chung một nước
Tuy chưa được thấy, học
Luận nầy như ánh sáng
Trừ chúng sanh vô trí
Chuyển đổi làm cho sáng
Giống như đám lửa kia
Chuyển đổi đến gần hơn
Ánh sáng càng rõ thêm
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Cùng một nơi ở chung
Tuy chưa được thấy, học
Luận nầy như ánh sáng
Trừ chúng sanh vô trí
Chuyển đổi lại sáng thêm
Giống như đám lửa kia
Lại đến gần nơi đây
Ánh sáng càng tăng thêm
Sưởi ấm cả thân nầy
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Cùng sống trong một nhà
Tuy chưa được thấy, học
Luận nầy ánh sáng kia
Trừ tâm mê, hộ thân
Chuyển đổi tăng trưởng mãi
Giống như có một người
Được gặp lửa lớn kia
Người nầy liền rõ ngay
Sáu loại lợi ích lớn
Nghĩa là dẹp sự lạnh
Hay thành thục đầy đủ
Độc trùng chẳng nhập vào
Phá tối thường rõ ràng
Tùy thỉnh người, cho thêm
Thường đốt xấu xa đi
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Được gặp luận huyền văn
Người nầy liền sẽ được
Sáu loại lợi ích lớn
Liền ngăn quân phiền não
Thành tựu phẩm công đức
Tà ma chẳng nhập vào
Phá vô minh tất cả
Bát nhã huệ hiện tiền
Bần cùng giống Phật Pháp
Lại đến cầu chúng sanh
Tùy thuận mà thí cho
Thiêu đốt phẫn phiền não
Giống như có hoa đẹp
Sinh trưởng trong hồ sâu
Tên là hoa sen xanh
Có người trong khoảnh khắc
Thấy tướng hoa sen nầy
Một trăm lẽ bảy ngày
Với nhãn căn thanh bạch
Cuối ngày không bụi bặm
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Tuy chưa rõ luận nầy
Văn nghĩa như biển lớn
Mà mắt thấy luận nầy
Mắt ấy sẽ thanh tịnh
Thấy ba đời chư Phật
Có mắt thêm phương tiện
Giống như có trống trời
Cao như trên đọt cây
Tên gọi rõ nghe hay
Rất nhiều các thiên nữ
Nghe tiếng trống ấy rồi
Hai ngàn lẽ bảy ngày
Tai nầy hằng nghe xa
Chẳng bị hề hấn gì
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Tuy chưa rõ nghĩa ấy
Mà tai nghe luận nầy
Tai ấy liền thanh tịnh
Nghe được tiếng chư Phật
Tạo thêm phương tiện tai
Giống như có thuốc tốt
Như tuyết trên đỉnh núi
Tên gọi như mùi quý
Có người lấy thuốc nầy
Đem thấm vào nơi lưỡi
Thân hương gây hứng khởi
Chẳng muốn cần ăn uống
Mà mạng sống dài lâu
Giống như chim trên không
Huyền văn bổn luận này
Lại cũng như thế ấy
Nếu có chúng sanh nào
Trong luận nầy một chữ
Một câu hay một dòng
Hay trích một phần thôi
Hoặc cả một quyển thảy
Dùng lưỡi để đọc tụng
Tuy chẳng rõ nghĩa lý
Mà thường được hết thảy
Biển cả của kinh điển
Tụng đọc kinh công đức
Giống như có Bồ Tát
Tên gọi bất tư nghì
Bậc đại lực giải thoát
Bồ Tát đại sĩ nầy
Thần thông tự tại vậy
Với tất cả chỗ tạo
Tất cả chẳng chướng ngại
Tùy đó mà hiện tiền
Huyền văn bổn luận này
Lại cũng như thế ấy
Nếu có các chúng sanh
Quán thấu nghĩa lý nầy
Rõ biết văn chú giải
Thấu rõ tất cả pháp
Đều chẳng có chướng này
Mỗi mỗi rõ phân minh
Giống như có sức thần
Tên gọi an lạc lớn
Có người làm nhà nhỏ
Thờ tự vị thần nầy
Như cùng với bảy báu
Làm cho được an lạc
Huyền văn bản luận này
Lại cũng như thế ấy
Nếu có nam và nữ
Huyền văn bản luận nầy
Siêng thọ trì đọc tụng
Có người tạo việc nhỏ
Chuyên tâm cúng người nầy
Tức liền vô cùng tận
Phước đức trí huệ nhỏ
Chẳng có tâm nghi kỵ
Giống như hoa hương quý
Tên gọi Phần Mãn Bố
Có người mang hương nầy
Du hành đến phương xa
Trải qua nhiều nơi khác
Trong thời gian bảy ngày
Hương thơm ấy chẳng hết
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Có có người nam nữ
Xách mang bộ luận nầy
Du hành đến phương xa
Hay qua sông biển lớn
Nếu có các chúng sanh
Tất cả đều được lợi
Nếu qua cả núi rừng
Mà chúng sanh gặp được
Thì cũng lợi ích lớn
Giống như có châu quý
Tên gọi ngọc như ý
Theo đây châu ở kia
Cùng vô lượng ngọc báu
Chung quanh vây cùng khắp
Huyền văn bổn luận nầy
Lại cũng như thế ấy
Tùy nơi chốn dừng lại
Trong mười phương thế giới
Thần vương nhiều như bụi
Mỗi mỗi Thần vương kia
Được che chở mười phương
Những thần quyến thuộc thảy
Giữ giùm châu luận nầy
Nếu lúc chánh pháp diệt
Lâm vi trần tan mất
Mà có các Thần vương
Phát tiếng khóc to lên
Tùy đó mà còn lại
Qua đó được bảo hộ
Người thọ trì luận nầy
Như những vị Thần kia
Khi sanh, sau lúc chết
Thường chẳng lìa giữ gìn
Công đức thật khó lường
Đây lược nói như thế
Giảo lượng quá xung Kha Tính Phỉ Báng hiện thị chúng nghiệp đại quyết trạch phần – Thứ 38
Như vậy đã nói qua về giảo lượng công đức tán thán tín hành hiện thị lợi ích đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói về giảo lượng quá hoạn kha tính phỉ báng hiện thị tội nghiệp đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Giống như có một núi
Tên là Bảo Luân Thượng
Núi nầy đầy bảy báu
Lại chẳng có cùng tận
Bần cùng cầu của quý
Vô lượng vô biên số
Có châu bị cấm lấy
Tên gọi Đảnh Pha Lê
Nếu người có châu nầy
Liền giữ cả bảy báu
Xa lìa khổ bần cùng
Liền được an lạc lớn
Nếu người không châu nầy
Chẳng thể lấy cấm kia
Cuối ngày chẳng thể được
Hỏi vì sao như vậy
Nếu người đến không châu
Tuy thấy cọp lang sói
Cùng với trùng, rắn xanh
Đủ loại các côn trùng
Cuối chẳng thấy của báu
Chỉ thấy toàn đồ độc
Tên nầy thật sợ hãi
Cuồng loạn khiến chạy thoát
Cho đến chết ngất đi
Trân bảo tự nhiên đó
Mà người cầu trân kia
Phước mỏng tội thật dày
Chẳng thể thấy được vậy
Chúng sanh cũng như thế
Căn lành người sâu xa
Giữ chặt niềm tin châu
Vào biển sâu đại thừa
Lấy công đức làm quý
Ra khỏi sanh tử khổ
Người căn lành ít ỏi
Được thấy luận sâu xa
Mà chẳng có tín tâm
Nương chánh tạo việc tà
Thọ các khổ chẳng dứt
Giống như sanh ra mù
Được đồ quý tốt đẹp
Mà chẳng có hoan lạc
Người si cũng như thế
Tuy được luận sâu nầy
Vì kẻ ngu si ấy
Chẳng rõ của xuất thế
Chẳng có tâm nghiên tầm
Giống như rồng trong ruộng
Từ nước trôi ra biển
Mê lớn lại loạn lớn
Quở biển rồi chết mất
Người si cũng như vậy
Tự chỗ chấp cứng kia
Nhứt định chẳng thay đổi
Chưa từng nghe pháp nầy
Mê lớn càng sai lớn
Phỉ báng càng rộng rãi
Đọa lạc vào đường dữ
Chẳng có ngày ra khỏi
Nếu có chúng sanh nào
Thấy nghe vui luận nầy
Chẳng tin, tâm hủy báng
Người nầy lại hủy báng
Ba đời tất cả Phật
Ba đời các Pháp tạng
Ba đời các biển Tăng
Người nầy sẽ bị tội
Vô lượng vô biên số
Chẳng thể rõ ngằn mé
Mười phương thế giới trần
Chư Phật Đại Bồ Tát
Một lúc đều xuất hiện
Tuyên thuyết nhiều như vậy
Pháp môn như biển lớn
Chuyên dạy dỗ người nầy
Trải qua vô lượng kiếp
Cuối chẳng thể dạy dỗ
Hỏi vì sao như vậy
Tuy tuyên nói pháp nầy
Chẳng ra khỏi đường khác
Như vậy các chúng sanh
Mười phương thế giới trần
Chư Phật Đại Bồ Tát
Dùng đại thần thông lực
Hướng về kiếp vị lai
Quan sát thế giới ấy
Thấy thời gian không hạn
Hỏi vì sao như vậy
Chẳng học ba mươi bốn
Quy tắc Đại Kim Cang
Đến bờ Đại Niết Bàn
Chẳng có nơi như vậy
Cho nên các hành giả
Nên cần tu phương tiện
Nến quán biển pháp nầy
Chẳng thể đến bờ kia
Dừng sanh tâm phỉ báng
Đọa lạc vào đường ác
Chẳng có lúc ra khỏi
Quyết định chẳng nên làm
Quyết định chẳng nên làm
Tội nghiệp tuy rất nhiều
Mà lược nói như vậy.
Quyển 20
Hiện thị bổn nhơn quyết định chứng thành trừ nghi sanh tín đại quyết trạch phần – Thứ 39
Đã nói qua về giảo lượng quá hoạn kha tính phỉ báng hiện thị tội nghiệp đại quyết trạch phần rồi; bây giờ lần lượt nói về hiện thị bổn nhơn quyết định chứng thành trừ nghi sanh tín đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Con từ xưa nay vô lượng kiếp
Theo Thế Tôn tu Bồ Tát hạnh
Một thuở làm tôi, nhà Thế Tôn
Tên nước Kim, vua tên Thủy Kỳ
Bảo Kim Luân tạng vị vua nầy
Có ba mươi ức nô tỳ thảy
Có sáu mươi ức ngựa trắng lớn
Vàng bạc đồ quý lại vô tận
Có người ở thấp tên Thường Tín
Đại vương bảo cho Thường Tín biết
Ngươi giữ sáu mươi ức ngựa nầy
Chẳng rời, gìn giữ không bị thương
Lúc ấy nô kia nhận các ngựa
Thường hay chẳng lìa, không thương tích
Như vậy sáu mươi ức ngựa trắng
Qua một ngày ăn tiền gấp trăm
Lúc ấy Thường Tín nghĩ thế nầy
Thân ta một ngựa trong nhiều ngựa
Khó thay khó thay chẳng thương tích
Những con ngựa xấu, chạy khó cấm
Lấy gì phương tiện để gìn giữ
Thường Tín suy nghĩ như vậy rồi
Liền đến nương Thầy để học cách
Pháp thuật thay giữ vạn ngựa trắng
Trong sáu mươi ức ngựa trắng ấy
Có con ngựa quý hóa thành ngựa
Phát ra tiếng lớn nói thế nầy
Ngựa ngựa tất cả nên tuân thủ
Lúc ấy có ngựa đã hóa ngựa
Đều đến ở trước mà lễ bái
Những con ngựa khác đều theo lễ
Sau khi làm những việc ấy rồi
Hóa ngựa việc nhỏ cũng thành tựu
Tất cả các ngựa đều phục tùng
Thường Tín chỗ nguyện được thành tựu
Chẳng có tâm nào để lo lắng
Thường Tín lại liền nghĩ thế nầy
Tất cả ngựa kia do ta dạy
Trừ được mọi việc đủ vàng ròng
Tạo nên việc lành dễ, uế báo
Bảo các ngựa nên nói như vầy
Hãy nghe hãy nghe! Các súc sanh
Thân ta cùng thân của các ngươi
Ở đời quá khứ, tâm sám hối
Đều tạo tất cả những nghiệp ác
Cả nô và ngựa sanh xứ nầy
Trong tất cả lúc chẳng tự tại
Bịnh khổ hay gặp, đói lạnh thảy
Một thuở chẳng được an lạc nầy
Nếu mà sanh ra chẳng làm thiện
Đời sau lại thọ quả báo nầy
Mãi mãi chẳng có lúc ra khỏi
Như nói các ngươi cùng súc sanh
Tự lo đầy đủ nơi công đức
Tu Di đói khát, cảm vui dài
Ta, người có tâm muốn tu hành
Chẳng có lúc nhàn hay trống vắng
Huống nữa các ngươi thân súc sanh
Hình dơ tâm trược, tu lúc nào
Như bảo từ ta hóa, chẳng nghịch
Trong nước nầy có chim thù thắng
Tên là nhã âm thinh giác ngộ
Chim nầy tiếng bất khả tư nghì
Người nghe âm nầy tâm bi khởi
Lúc ấy sáu mươi ức ngựa kia
Nghe Thường Tín nói lời ấy rồi
Một lúc khóc lớn tiếng bi ai
Cho đến mười ngày chẳng dừng nghỉ
Như thế các ngựa cùng rống lên
Cùng chim hòa cùng tiếng giác ngộ
Bình đẳng bình đẳng chẳng sai biệt
Lúc ấy ngựa Thường Tín đều vui
Hai trăm phần vàng làm hai phần
Một phần để làm thân sanh trưởng
Một phần để làm cho ruộng phước
Phần phước điền năm mươi vàng ấy
Tạo tác một tượng Phật Kim Cang
Tổng cộng sáu mươi ức tượng Phật
Trên cùng hết thảy tượng ngựa trắng
Tên là Trường Nghiêm Tạp Sắc Kiến
Thường Tín, các ngựa đều bị chết
Lần hai sanh lại đều làm người
Cùng làm quyến thuộc chẳng xa rời
Xuất gia học đạo siêng tu hành
Sáu mươi ức người xuất gia kia
Đều tên Mã Minh chẳng có khác
Từ quá khứ đã có tên nầy
Thường Tín quá khứ, nay Thích Ca
Sáu mươi ngựa trắng từ thuở kia
Nay thời sáu mươi ức Mã Minh
Con ngựa đầu ấy Tạp Sắc Kiến
Nay là thân ta đây vậy
Lần thứ ba lại sanh làm người
Theo Thế Tôn hành Bồ Tát hạnh
Lần thứ tư sanh lại làm người
Theo Thế Tôn tập tu nhẫn nhục
Chuyển năm trăm lần sanh như thế
Có lần sanh trong cảnh sân hận
Bị làm thân rắn thọ khổ lớn
Lần khác sanh thân cá thật to
Lần khác nữa bị làm thân rắn
Rắn ấy được ở chỗ Thế Tôn
Gục đầu sám hối phát tàm quý
Do kệ rõ ý phát tâm lớn
Lần khác sanh được làm người vậy
Theo Thế Tôn phát nguyện quyến thuộc
Liền đó nguyện với Thế Tôn rằng
Nếu ta thành đạo giác ngộ rồi
Tuyên nói trăm ức kinh điển thảy
Làm cho lợi ích cả chúng sanh
Ta liền thệ nguyện như thế nầy
Tạo tác hằng trăm giải thích hiện
Phần lợi ích để cho chúng sanh
Như vậy sau nầy trải nhiều đời
Thế Tôn đầy đủ biển hành nhơn
An trụ pháp giới vị Sơn Vương
Ta cũng lần lần tu nhơn hạnh
Chứng vào Bất Động Địa Thứ Tám
Ta liền đến trước Đức Thế Tôn
Cúi đầu đảnh lễ đứng một phía
Lúc ấy Thế Tôn bảo ta rằng
Ta nhớ từ xưa vô lượng kiếp
Ta ngươi cùng ở chung một nơi
Phát nguyện tạo nhơn duyên quyến thuộc
Như bảo ngươi tạo ra luận dạy
Sau ta diệt độ cùng chánh pháp
Ta liền đảnh lễ chung tất cả
Hướng đến Thế Tôn bạch thế nầy
Con nay chẳng rõ tạo luận pháp
Tối tăm chẳng chỗ rõ biết hết
Duy nguyện Thế Tôn vì con mê
Khai bày tạo tác luận giáo pháp
Lúc ấy Thế Tôn bảo ta rằng
Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử
Hãy nghe hãy nghe và suy ghĩ
Ta sẽ vì ngươi phân biệt nói
Thiện Nam Tử! Chư Phật Pháp Tạng
Vô lượng vô biên chẳng nói hết
Vô cùng tận lại chẳng phân giới
Như vậy biển pháp cũng vô tận
Hoặc nói luận rộng hay nói gọn
Tất đều nhiếp thảy chẳng dư ra
Tên gọi tạo tác luận giáo pháp
Ta lại nghi thêm liền thưa thỉnh
Pháp môn biển, rộng không lường nổi
Con nay chưa đủ biển trí tuệ
Ở nơi học vị chưa rốt ráo
Tất nhiếp chẳng dư giữ được gì
Lúc ấy Thế Tôn bảo ta rằng
Pháp môn tuy nhiều như biển cả
Chỉ nhiếp vô lượng Tông Bổn Pháp
Nếu nhiếp đủ Tông Bổn Pháp nầy
Tên là nhiếp cả các pháp tạng
Ta lại liền bạch như thế nầy
Vì sao gọi là Tông Bổn Pháp
Số lượng bao nhiêu rõ biết chăng ?
Lúc ấy Thế Tôn bảo ta rằng:
Nói là Tông Bổn Pháp Thể ấy
Là ba mươi bốn pháp biển lớn
Nếu có người luận cùng pháp nầy
Tên gọi luận đầy đủ biển lớn
Nếu có người luận chẳng đầy đủ
Tên gọi một phần luận Tiểu Trí
Đây là nhơn duyên chính yếu ấy
Ta nương vào ba mươi bốn pháp
Nhiếp lấy điều chính chẳng nói dư
Nhơn duyên phẩm loại tuy vô lượng
Mà tổng nói lược như thế nầy.
Khuyến trì lưu thông phát đại nguyện hải địa quyết trạch phần – Thứ 40
Như vậy đã nói xong phần hiện thị bổn nhơn quyết định chứng thành trừ nghi sanh tín đại quyết trạch phần; bây giờ lần lượt nói về khuyên trì lưu thông phát đại nguyện hải đại quyết trạch phần. Tướng nầy như thế nào? – Kệ rằng:
Nguyện cho đầy đủ luận lớn nầy
Biến khắp cõi bất khả tư nghì
Xuất sanh trí Bát Nhã vô lượng
Tiêu trừ vô biên tối, vô minh
Chuyển đổi Tam Bảo biển lớn ấy
Chẳng phi pháp, mưa công đức tạng
Chẳng thỉnh mời, khắp cả tương ưng
Chẳng khuyến tấn tự nhiên thành tựu.