Kinh Phật Thuyết Phổ Môn Phẩm
Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch
Bản Việt dịch của Thích Nữ Tâm Thường
***
Nghe như vầy:
Một thời, Phật du hóa ở núi Linh Thứu, nơi thành Vương Xá cùng với đông đủ chúng đại Tỳ kheo gồm tám trăm vị và bốn vạn hai ngàn Bồ tát, đắc các tổng trì, đã đạt thần thông, Thánh trí rộng lớn, thông suốt, biện tài vô ngại, đã đạt tam muội, hiểu rộng rãi tất cả mọi việc.
Khi ấy, có Bồ tát tên Ly Cấu Tạng cùng với chín vạn hai ngàn Bồ tát, từ nước của Như Lai Phổ Hoa đến, nước đó tên là Tịnh Hạnh. Các ngài nay du hóa đến thế giới Nhẫn này là muốn đi đến núi Linh Thứu vì có điều muốn thưa hỏi và lãnh thọ.
Khi ấy, đức Thế tôn từ xa trông thấy, liền mỉm cười, từ trong miệng phóng ra luồng ánh sáng thù thắng đặc biệt. Sắc quang minh khác lạ chiếu khắp mười phương, soi sáng thấu suốt trong ngoài không sót một chỗ nào.
Bấy giờ, Bồ tát Đại Sĩ Phổ Thủ Đồng Chơn, ngay giữa đại hội đại chúng đứng dậy, sửa y phục, bày vai bên phải, quỳ thẳng chấp tay bạch Phật:
– Kính bạch Thế tôn! Vì lẽ gì Thế tôn mỉm cười? Thế tôn mỉm cười là vì có người thưa hỏi, chứ chẳng phải sự chói sáng của thế gian, chẳng phải sự kham nhận và sự lân mẫn của Bồ tát Đại sĩ mới được như vậy. Sự mỉm cười của Thế tôn là có ý. Cúi xin Thế tôn chỉ dạy, tất cả chúng con đều cùng ưa thích muốn nghe.
Bấy giờ, đức Thế tôn bảo Bồ tát Phổ Thủ:
– Ở phương Đông, cách đây vô lượng vô số chẳng thể tính kể, trăm ngàn cai số a tăng kỳ, có thế giới tên là Tịnh Hạnh, đức Phật cõi đó hiệu là Phổ Hoa Như Lai, thường cùng với vô số ức ức trăm ngàn các Đại Bồ tát vây quanh, cùng giảng về pháp “Bất thối chuyển Bất tư nghì”. Ở đó có Bồ tát Tôn trưởng tên là Ly Cấu Tạng cùng với vô số ngàn các Bồ tát Đại sĩ quyến thuộc vây quanh, bay đi trong không trung. Ta đang nghĩ Bồ tát Ly Cấu Tạng kia riêng chọn con đường xa đi đến các nước để ban bố lời của Như Lai Phổ Hoa Chí Chơn Đẳng Chánh Giác. Nay vị Bồ tát ấy được sai đến đây lãnh thọ phẩm Phổ Môn và ngay hôm nay đang trên đường đến đây để gặp gỡ chúng Bồ tát, và hiện giờ vị Đại thánh ấy dùng định Như Kỳ Tượng hiển bày và nêu lên giáo pháp, thị hiện cùng khắp làm cho các chúng Bồ tát ở vô lượng vô số thế giới cùng một lúc đều đi đến chỗ của Đại Phạm Thiên ở cõi Nhẫn này. Vì vậy Ta mỉm cười.
Đức Thế tôn nói vừa xong, Bồ tát Ly Cấu Tạng cùng với các đại chúng bỗng nhiên từ giã Phạm Thiên, đi đến núi Linh Thứu, cùng với quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui đứng một bên. Các chúng Bồ tát ở chỗ vắng vẻ trong núi Linh Thứu này đều đến tập hợp, đảnh lễ xong, lui ngồi một bên.
Bấy giờ, Bồ tát Ly Cấu Tạng liền hóa làm bảy hoa sen báu có ngàn cánh đem đến chỗ Như Lai Năng Nhơn Chí Chơn Đẳng Chánh Giác cúi dâng lên và bạch:
– Đức Như Lai Phổ Hoa Chí Chơn Đẳng Chánh Giác ở thế giới Tịnh Hạnh có lời kính vấn an Thế tôn: “Đi lại có được nhẹ nhàng, thể lực có được khỏe mạnh, đứng ngồi có được an ổn và việc cứu độ có được nhiều không?”. Nay sai con đến đây xin Ngài chỉ dạy và xin lãnh thọ phẩm Phổ Môn là phẩm thanh tịnh bất khả tư nghì. Cúi xin Thế tôn vì hàng khai sĩ giảng thuyết.
Khi ấy, Đại sĩ Bồ tát Ly Cấu Tạng thưa hỏi đầy đủ xong, lui lên hư không cùng với các khai sĩ ngồi xếp bằng trên tòa hoa sen báu.
Bấy giờ, Phổ Thủ Đồng Chơn ngay giữa đại hội đại chúng liền đứng dậy sửa y phục, bày vai hữu, đến trước, quỳ thẳng chấp tay bạch Phật:
– Lành thay! Kính bạch Thế tôn! Cúi xin Thế tôn giảng thuyết phẩm Phổ Môn là phẩm thanh tịnh bất khả tư nghì. Nguyện xin Thế tôn vì các Bồ tát phân biệt giảng thuyết. Con nhớ thuở xưa, cách đây nhiều đời lâu xa, từ nơi Như Lai Phổ Chứng Minh Chí Chơn Đẳng Chánh Giác được nghe kinh điển này, lập nên tám mươi bốn vạn trăm ngàn ức cai tam muội, lại thêm bảy mươi bảy ức trăm ngàn các cai Tổng trì hạnh môn. Cúi xin Thế tôn thương xót các Bồ tát mà tuyên dương lại.
Phật bảo Phổ Thủ Đồng Chơn:
– Lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông nói đầy đủ Phổ Môn, những việc tàng chứa ở trong tâm, quý báu, bí mật không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, Bồ tát Phổ Thủ và đại chúng đều thưa:
– Dạ bạch Thế tôn, chúng con ưa thích muốn được nghe.
Bấy giờ, Phổ Thủ Đồng Chơn cùng với các Bồ tát nhất tâm lãnh thọ lời dạy và lắng nghe.
Phật bảo Phổ Thủ:
– Nếu có Đại Bồ tát nào muốn học pháp nhập vào Phổ Môn thì bình đẳng đến với sắc, bình đẳng đến với âm thanh, bình đẳng đến với mùi hương, bình đẳng đến với các vị, bình đẳng đến với sự mịn màng trơn láng, bình đẳng đến với tâm giới, bình đẳng đến với nữ nhơn, bình đẳng đến với nam tử, bình đẳng đến với đồng nữ, bình đẳng đến với đồng tử, bình đẳng đến với chư thiên, bình đẳng đến với chư long, bình đẳng đến với quỷ thần, bình đẳng đến với Kiền thác hòa, bình đẳng đến với A tu luân, bình đẳng đến với Ca lâu la, bình đẳng đến với Chơn đà la, bình đẳng đến với Ma hầu lặc, bình đẳng đến với địa ngục, bình đẳng đến với ngạ quỷ, bình đẳng đến với súc sanh, bình đẳng đến với tham dâm, bình đẳng đến với sân giận, bình đẳng đến với ngu si, bình đẳng đến với các thiện, bình đẳng đến với các đức bổn, bình đẳng đến với các hữu vi, bình đẳng đến với các vô vi….
Như vậy, này Phổ Thủ! Chỗ các khai sĩ có thể đi giáp khắp là như vậy. Tất cả đều bình đẳng vì ở chỗ bình đẳng nên tiến đến đạo trọn vẹn, không còn thối lui, đều nhập vào chỗ sâu xa bí mật của pháp yếu rỗng không, vắng lặng. Đó là học nhập vào pháp Phổ môn, Định môn.
Phật bảo Phổ Thủ Đồng Chơn:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với sắc? – Hiểu rõ sắc như bọt nước, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể hộ trì, không bền chắc, thì đó là ý quán bình đẳng không có sắc. Như vậy là Bồ tát bình đẳng đến với sắc.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với âm thanh? – Như người cất tiếng kêu lớn nên có âm thanh dội lại, nhưng ngay khi ấy liền diệt mất, không có hình tượng, chẳng biết đi đâu, tất cả biết bao nhiêu là việc đều không thể có, nhưng không khác, cũng không có tướng. Đã hiểu không có tướng thì lời của người nói ra rỗng không, không thật. Đã hiểu rõ các âm thanh là do từ núi sâu vang dội ra thì có thể quán bình đẳng. Như vậy là Bồ tát bình đẳng đến với âm thanh.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với mùi hương? – Trăm ức kiếp số xoay quanh qua lại, mũi ngửi nhưng không nhàm chán, các hương bay đến mạnh hơn gió mưa, đều tập hợp quy tụ về thân, như vực sâu ở biển lớn, chỗ nào cũng đầy tràn nước. Hình tượng của hương đó vô thường, luôn thay đổi, biến hóa như mộng huyễn, không có gốc rễ, làm rối loạn đạo đức, nhưng chẳng thể nắm giữ. Đó là pháp hư ngụy không chơn thật. Giả sử tìm tòi, dò xét kỹ cũng không có chỗ hội hiệp. Do thuộc loại như vậy nên không sở hữu và không thể nắm giữ. Rỗng không, không thật, bỗng chốc như hư không, như huyễn, như hóa, vốn không có hình tướng, bóng dáng của tưởng thức, gặp duyên khởi lên nên thành hình tượng. Nếu có thể phân biệt được đó là rỗng không, không thật thì đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với mùi hương.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với các vị? – Vị mặn đến yết-hầu không biết, cũng không phải là không có vị. Do nhơn duyên phân biệt, chỉ có vị ngọt trên lưỡi mà thôi. Trăm ngàn các vị đều do duyên hiệp hội, đó là huyễn hóa. Đất sanh ra chỉ một vị, thấm nhuận, không có nhiều vị. Hiểu biết rõ không tưởng, không nghĩ, tất cả đều là vị ngọt, đó là Bồ tát bình đẳng đến với các vị.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với sự mịn màng trơn láng? – Tâm chí thì chỉ có việc tham cầu, thân mặc hoa hòe cùng (mang) các thứ châu báu hiếm lạ, làm cho sắc đẹp càng tăng thêm. Sự đẹp đẽ đó chẳng thể nắm bắt được, đều là do duyên. Sự mịn màng trơn láng không có chỗ trụ, cũng không có chỗ dính mắc. Suy cho cùng thì sự mịn màng trơn láng không có ích. Người đời vì ham muốn, tham lam, ngu si, xấu ác tạo nên gốc sanh tử đều do đây phát khởi.
Bậc Đại sĩ trí tuệ sáng suốt thì biết rõ việc đó nên không làm theo, suốt đời không bị họa hoạn. Tất cả những gì có mặt đều nhờ đất chuyên chở, thuộc một loài có hình như nhau không khác. Chỉ nghe sắc tạo ra sự rối loạn cho mọi người, khiến tạo ra các sắc loại khác nhau, đã mang mặc rồi thì mê loạn đạo đức, chẳng gần gũi chúng hiền.
Người thông đạt biết rõ, không làm theo những việc như vậy; ở ẩn, mặc áo vải thô, làm người ngu để nuôi dưỡng trí tuệ. Bên ngoài giống như người mọi rợ, nhưng bên trong ôm ấp ngọc châu sáng ngời. Ngàn vạn ức kiếp cùng với đạo đồng một thể, xa lìa ngô ngã, cũng không ngã tưởng. Sự mịn màng trơn láng cùng với ngã, cả hai đồng nhau. Như hư không không thật, như huyễn, như hóa, cũng không có sự nương tựa, cũng không có chỗ trụ. Nhơn vì đắm trước mang mặc nên mới có sự khen ngợi tốt đẹp. Bậc Đại sĩ thấy việc đó biết rõ, không sở hữu.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với mịn màng trơn láng.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với tâm pháp? – Tâm pháp là người hộ trì ba cõi, an ủi, khuyên răn khiến cho tụ hội. An ủi thì dùng đức, khuyên răn thì dùng quyền, lãnh thọ thì dùng tuệ. Tu phạm hạnh thì ba cõi đều vắng lặng, đứng tại một chỗ, cũng không hiệp – ly, làm cho vĩnh viễn chẳng còn biết được sự tồn tại của tâm pháp, chẳng thấy hình tượng, âm thanh qua lại, cũng không do dự, đúng như tâm của mọi người không hiệp không tan, chẳng biết chỗ ở, cũng không có chỗ đi đến. Hoặc hiện ra vô số các thứ sắc, mỗi mỗi đều khác nhau. Bên trong cũng không có chỗ, chỗ cũng không trụ, như huyễn, như hóa, rỗng không, không nơi chốn, không nơi chốn nên không có chỗ ở.
Bậc Đại sĩ thấy việc đó biết rõ, không sở hữu, liền tự mình giữ tâm không nhớ nghĩ, không mong cầu. Thấy hoặc chẳng thấy, nghe hoặc chẳng nghe, vắng lặng tự giữ gìn.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với tâm pháp.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát ý bình đẳng đến với người nữ? – Quán sát bốn đại thì không có người nữ. Người có tâm chí ngu si mê hoặc, đối với ái dục đều mơ hồ, hoang mang, thể của nó đồng nhau, không thể hủy hoại. Nói có người nữ thì cũng giống như thầy huyễn hóa làm ra hình con người; cúi xuống, ngước lên đều tùy theo ý của thầy huyễn điều khiển. Vì những việc làm của những hóa nhơn do ý ưa thích của huyễn sư vậy.
Đối với nữ nhơn như huyễn, khởi lên ý ham muốn sắc, đó không thực có người nữ giống như con người. Người ngu si bị mê hoặc nên ý theo dục, dục liền đưa đến ái, ái đưa đến ưa thích, từ đây chẳng thể buông thả, nên gấp rút kềm chế để điều phục. Người sáng suốt thấu rõ việc đó, phân biệt như hư không, rỗng không, vắng lặng và không có hình tướng. Duyên khởi lên thì nhơn đối lại, không khởi thì không đối.
Nếu người nào có thể phân biệt được như thế thì đó là Bồ tát ý quán bình đẳng đến với người nữ.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với tịnh pháp? – Tịnh pháp đó là nam tử, như khiến cho nam tử,v.v… tự mình phát sanh tâm ý. Tâm vị ấy như Kim cang, ý chỉ nghĩ đến người nữ nên phát khởi tâm dục mạnh mẽ. Tâm dục vô sắc, thật chẳng thể nắm bắt được, cũng chẳng hiện ra hình tượng người nữ,v.v… chỉ do các sắc dục phát sanh tưởng người nữ. Dù cho dục đã nghĩ tưởng, nhưng người nam kia, người nữ kia đồng như ngựa đồng hoang, như trăng trong nước.
Người quán như thế thì không có nam nữ, hiểu rõ không có hình nam, thì hình nữ cũng như vậy, hư ngụy mà lập nên, không tồn tại lâu dài, chỉ do huyễn hóa hiện ra nên thoáng hiện liền diệt. Vì có thể phân biệt nên biết rõ ý người nam, ý người nữ. Cả hai việc này rỗng không, không sở hữu. Đã bình đẳng thì có thể hiện ra người nữ, lại cũng hóa thành người nam.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với tịnh pháp nam tử.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với đồng nữ? – Giống như nhổ gốc cây thì mầm non của cây không bao giờ phát sinh. Tâm không phát khởi thì từ đây dừng hẳn. Người có trí tuệ sáng suốt thì không tìm cầu nơi quả. Quả cũng chẳng thể đắc. Nếu có người con ngang bướng trong gia tộc, thông suốt luận nghị, hiểu thấu tất cả tư tưởng, vô niệm, dõng mãnh, như cây khô không sanh hoa quả, như các dòng nước khô cạn không chảy; ở đây giống như con gái đồng nữ, sự hiện hữu này bình đẳng như hư không, không có thật.
Quán người nữ kia vốn cũng thanh tịnh, quán người nam kia vốn cũng thanh tịnh, quán Niết-bàn kia vốn cũng thanh tịnh. Bình đẳng như thế tức là quán bình đẳng đến với đồng nữ.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với đồng nam? – Ví như cây cối, giả sử không có mầm mộng thì không có gốc, thân. Giả sử không có gốc, thân thì không có hoa quả. Giả sử không có hoa quả thì không có tên gọi. Người nữ cũng như vậy, giả sử không có nữ nhơn thì không có người nam, bình đẳng đến với nam nữ thì không ngô ngã. Dựa vào danh hiệu mà đặt tên, tưởng là vô tri. Biết nữ không sanh thì không có tánh con. Hiểu rõ tất cả mọi người đều không có, không tức là đều bình đẳng. Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với đồng nam.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với chư thiên? – Chư thiên nghiêm tịnh, công đức tự nhiên, ý trong sạch thanh khiết, tâm tịnh, khẩu tịnh, không có tội lỗi. Cung điện trang sức đẹp đẽ, kỳ diệu, không có người tạo lập. Cây tâm hoa đẹp cũng không người trồng, phước đức tự nhiên giống như huyễn hóa, tuổi thọ không thể nghĩ bàn. Trong sạch sáng ngời như lưu ly, hoàn toàn trong sạch, cũng không rộng hẹp. Do hư vô thành lập, chư thiên thể hư dối, tự nhiên sinh ra hình, bỗng dưng hiển hiện.
Nói một cách đúng đắn thì hình ảnh của chư thiên hiện ra đó là hư vô, không mượn dụ bên ngoài quán sát bên trong. Số cung điện, lầu các tự nhiên của ba mươi hai cõi trời không có người thấy được, chỉ có người đắc đạo mới biết thôi. Đây là do Bồ tát thấy sâu xa trong ngoài đều bình đẳng không khác.
Đó là Bồ tát bình đẳng đến với chư thiên.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với các rồng? – Thấy không có nước, liền nổi mây mưa bảy ngày, nước thấm nhuần khắp tất cả không kể trong ngoài, cùng khắp cõi Diêm Phù Lợi rồi lần lần chảy về biển lớn. Nguyên do của sự đầy nước là như thế.
Chúng sanh học như vậy, biết bao nhiêu là duyên, duyên này rất nhiều, tìm cầu khởi diệt, đưa đến lo buồn hiện ra vô số tội, đủ loại không đồng. Quán sát bên trong sân giận là do từ đâu? Rồng trở mình, cá giao kinh sợ, mọi người đều như vậy, làm trời nghiêng đất lỡ đều từ nơi rồng khởi lên. Rồng bên trong không trở mình thì rồng bên ngoài chẳng theo.
Chúng sanh không phải tự nhiên mà có phước. Kẻ ngu mê tăm tối cho hư là thật. Bồ tát Đại sĩ quán rồng bình đẳng, trong ngoài tương ưng, thương xót như nhau.
Đó là Bồ tát bình đẳng đến với rồng.
Lại bảo Phổ Thủ:
Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với quỷ thần? – Tâm như cửa mở và sắc có hình tượng, thân họ cao lớn không thể sánh kịp. Một niệm nghĩ, số đông trăm ngàn tụ hội, cũng không có hình tượng, âm thanh đối lại.
Ví như uống thuốc độc thì tự hại thân mình, tâm đó cùng loại, không nên sợ hãi. Tất cả đều do buông lung, phóng túng, vì khó ngăn chận, khi gặp thì có sự sợ hãi. Điều này không có thật, nếu khởi tưởng thì hiện đến, tưởng đó chẳng thể nghĩ bàn, không thật nên nói là rỗng không.
Quán sát bên trong, quỷ thần từ đâu khởi lên? Quỷ thần bên trong biết bao nhiêu trăm ngàn, bên ngoài cũng như vậy. Bên trong không phát sanh khủng khiếp thì bên ngoài không sợ hãi. Bên trong không thương xót thì bên ngoài không rơi lệ. Bên trong phát sanh tưởng quỷ thần thì bên ngoài có vô số trăm ngàn chúng quỷ thần đều hiện đến. Do duyên này đưa đến bệnh hoạn, hoặc là đến chết, chịu vô số khổ, đều do tâm xiên xẹo bất chánh vậy.
Bồ tát Đại sĩ biết rõ rỗng không, không có quỷ thần, tất cả đều là từ nơi tâm ý khởi lên, thì tâm có thể bình đẳng thanh tịnh, ý vắng lặng, chẳng tà vạy. Vì vậy, Bồ tát không có sự nhiễu hại. Hoặc hiện hình tượng quỷ với các thứ biến hóa. Bên trong quán sát rõ biết không có quỷ thần, bên ngoài liền tiêu diệt.
Như vậy gọi là Bồ tát bình đẳng đến với quỷ thần.
Lại nữa, Phổ Thủ! Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với Kiền-thác-hòa? – Pháp đó vốn không có tánh nhưng có tiếng nói, chiều sáng, không qua lại, cũng chẳng lui tới, như hư không, không có hình tướng, tùy tiếng mà lập nên như thế.
Nếu có Bồ tát Đại sĩ quán sát bên trong không có tưởng thức thì không có Kiền thác hòa. Kiền thác hòa là vị dẫn đầu của quỷ thần. Bên trong không khởi tưởng thì bên ngoài không niệm tà. Như vậy thì duyên nào đưa đến các bệnh?
Muốn tập hợp Kiền thác hòa có tên nhưng không hình, âm vang qua lại không có người thấy, lời nói tóm lại hoàn toàn không có hiện hữu. Kiền thác hòa hư dối không thật. Bồ tát đều quán đấy là do huyễn hóa.
Như vậy là Bồ tát bình đẳng đến với Kiền thác hòa.
Lại nữa, Phổ Thủ! Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với A-tu-luân? – Lấy việc có chứng cớ, tâm A-tu-luân hoàn toàn không khởi, không diệt, không sanh, không tận, nhưng đồng loạt hiện ra tất cả. Ý sân nhuế độc hại đều là A-tu-luân. A-tu-luân tức là thần rồng. Đối với tâm nhiều sân nhuế mà hiện ra bình đẳng. Đó là Bồ tát quán ý bình đẳng đến với A-tu-luân.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với Ca lầu la? – Bảo – vâng lập ra từ ngữ danh hiệu, mặc dù không có danh sắc nhưng danh sắc do lưỡi, từ lưỡi đưa đến họa, lập ra cội gốc tội lỗi. Bồ tát Đại sĩ học rộng trí sâu, biết rõ đó là rỗng không, huyễn hóa như vậy là từ ý mà sanh ra hình, không có người thấy. Vì âm thanh qua lại làm mờ nhạt chăng? Người tâm bất chính biến hóa trăm ngàn ức thứ như vậy. Quán sát bên trong cả hai đều không, không có sở hữu. Bồ tát quán bình đẳng không có Ca lầu la, đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với Ca lầu la.
Lại nữa, Phổ Thủ! Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với Chơn đà la? – Có những điều không làm mà làm. Có những điều không làm thì không làm. Cũng có cái tạo nên lại có thể phá hoại. Bay đi trong hư không, không ai đuổi kịp nên lập danh hiệu là Chơn đà la. Tất cả đều do tay, tay nắm giữ các việc làm, ý phát sanh thì tay hành động, hành động thì phạm đại thừa, khiến có khổ địa ngục là đều do Chơn đà la.
Nếu Bồ tát phân biệt không có sự sanh ra mọi loài thì xa lìa các việc làm, tay tự nhiên không lay động, thì do nhơn nào có Chơn đà la? Quán sát bên trong chẳng động thì chẳng lay, không khởi thì không diệt, không sanh thì không tử. Trong động thì ngoài phát, ý buông thả mà tay hành động, hành động thì liền rơi vào khổ, rơi vào khổ thì có bệnh, thì đều có quỷ thần, quỷ thần tức là Chơn đà la.
Bồ tát Đại sĩ hiểu rõ không, không mà lại không, không không, không thật. Bình đẳng quán Chơn đà la, tất cả đều do biến hóa không có hình đúng như thật, bình đẳng với các việc làm thì không có Chơn đà la.
Đó là Bồ tát bình đẳng quán Chơn đà la.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với Ma hầu lặc? – Tên của pháp ấy lập nên biết bao nhiêu loại người, lãnh thọ đủ các loại hình dáng đều do đó. Nguồn gốc của loài người tùy theo số lượng đó mà hiện ra biết bao nhiêu pháp, lập nên tất cả hình tượng và tên gọi. Pháp không sở hữu, chức hiệu như vậy, ở nơi thân hình là tâm ý, lìa thân hình là Ma hầu lặc.
Sự tưởng tượng là hư vô, đạo thành là ở tâm ý, tâm ý giữ gìn phúc lớn, tâm ngay thẳng thì được thành đạo, các tưởng thức phân minh thì các nhớ nghĩ cũng đều dừng. Không tưởng đưa đến tự nhiên, chỉ nói tiếng bình đẳng. Tất cả vì đoán quyết dứt sự nghi nên hiện ra Ma hầu lặc. Đó là Bồ tát thâm nhập quán bình đẳng, quán sát bên trong, bên trong không khởi, bên ngoài không tạo thì không có danh tự Ma hầu lặc. Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với Ma hầu lặc.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với địa ngục? – Pháp vốn không, không có địa ngục, do tưởng thức thành hình, địa ngục không có chủ. Có người cầu thì tự nhiên có, như kêu to thì âm thanh vang lên, như phù du thì gieo đầu vào đèn, cho là số bị đốt cháy không có thể cứu được. Vì sao? – Vì thân miệng mời gọi thì tự nhiên đến, nó rỗng không, không người tạo tác. Từ tưởng của mình và các tưởng không có, rỗng không. Sự qua lại rỗng không, sự tới lui duyên do ách nạn là chính từ nơi mình khởi lên, tự mình làm lành thì bệnh không từ đâu mà nhập vào được. Thân miệng không phạm thì cũng không chết, địa ngục thanh tịnh, tươi đẹp, thanh khiết, không nhơ.
Bồ tát Đại sĩ sở dĩ không sợ sanh tử là vì không có duyên với địa ngục. Vì sao? – Vì không phạm giới cấm. Biết rõ tất cả đều như huyễn, cũng không sở hữu. Tuy lập các tướng nhưng không có tướng, không chấp trước tướng, cũng không phải là không có tướng, tướng không sở hữu, huyễn hóa thành hình tượng. Nếu người thấy tướng ấy thì đều vui vẻ, vui vẻ nên đưa đến thương yêu, nhơn đó đưa đến đại nguyện. Riêng biệt như hư không, bình đẳng, vắng lặng nhưng mà hiện ra các họa hoạn khổ não của địa ngục.
Quán sát bên trong, do miệng mà thân bị oán giận. Miệng là cửa ngục, chỉ vào mà không ra. Vào thì liền tiêu tan hết, ra thì thành bùn đất. Như vậy khổ nhọc sẽ bị số ức, do đó Bồ tát im lặng, không nói, không dùng miệng lưỡi (lời lẽ) để có được sự ăn uống. Cũng không nói năng, im lặng tự giữ gìn. Không vào chỗ đông người, không khen ngợi mình, miệng không nói hai lời, nhẫn chịu các tác động bên ngoài. Bồ tát như thế thì không có địa ngục. Nguyên nhân của địa ngục chỉ do miệng, lời ra thì tội vào nên không lìa họa này. Bồ tát giữ gìn miệng, không lựa chọn mùi vị, ưa thích như nhau, không có ngon dở. Ăn uống cốt đủ nuôi thân hình mà thôi.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với địa ngục.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với ngạ quỷ? – Ngạ quỷ không có hình tướng, cũng không có tên gọi, vốn không có nơi chốn, cũng không có chỗ dừng. Nhơn keo kiệt mà thành. Tham dục dẫn đến keo kiệt cũng không có chỗ trụ, chẳng rõ sở hữu, chẳng biết đại pháp, chấp có ngô ngã, chẳng thấy vô thường, nghe vạn ức hương thơm càng lâu càng sâu nặng. Từ keo kiệt đưa đến tham, từ tham đưa đến dục, từ dục đưa đến ái, từ ái đưa đến thích, từ thích đưa đến lo, từ lo đưa đến khổ, từ khổ đưa đến đau đớn, từ đau đớn đưa đến trói buộc, từ trói buộc đưa đến bệnh hoạn, từ bệnh hoạn đưa đến chỗ chết. Ở trong ba nạn đó không được cơm ăn áo mặc, thân thể trần truồng đói khát, chẳng được nước uống, lấy hiệu làm tên, nên gọi là ngạ quỷ.
Bồ tát Đại sĩ biết tất cả vốn không, hiểu rõ là không có ngạ quỷ, vắng lặng như hư không. Vì sao? – Vì Bồ tát thường thực hành bình đẳng, mũi quen không ngửi các mùi hương, hoàn toàn không mến mộ ưa thích loại nào. Tham là từ mũi mà vào và đưa đến cái ương họa lớn này. Mũi là tinh chất của đài tâm hỗn loạn, cũng không chỗ nhập, cũng không chỗ xuất. Không lãnh thọ hương sắc thì không tham, nếu không tham thì không lẫn tiếc.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đến với ngạ quỷ.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với súc sanh? – Pháp vốn không, súc sanh từ nhơn duyên khởi lên, như hình tượng mây mù hiện ra, biết bao nhiêu là hình sắc, chẳng giống nhau, người thấy vui thích liền đưa đến tưởng sanh tử khởi diệt. Giận từ bên trong khởi lên, khởi lên sự tưởng niệm về mười hai vòng móc xích dính mắc của thức, đóng chặt không mở, đưa đến súc sanh.
Súc sanh không có gốc rễ, đều không sở hữu, tâm nghĩ ngợi rỗng không, đều do các sắc. Sắc là gốc rễ tốt, rong ruỗi theo năm đường, uyển chuyển theo sanh tử, nhận lãnh vô số hình dạng. Hoặc làm chim bay, hoặc làm thú chạy, rỗng không, vô thường. Tên là nhơn nơi hình mà đặt, đủ loại hình tượng, màu sắc đồng với mây mù. Súc sanh tội phước tâm tánh như huyễn, do mê hoặc hư vọng mà nói là hình súc sanh.
Bồ tát Đại sĩ quán xét không ngô ngã, hiểu rõ không danh tự, mắt khi mới nhìn sắc ý chẳng tham sắc, tâm chẳng nghĩ đến sắc, thân chẳng xúc chạm sắc. Bồ tát dùng bốn đẳng tâm quán sắc trong, sắc ngoài, bay đến các nơi tăm tối trong mười phương, thông suốt tất cả, đều từ mắt ra vào. Mắt là tinh chất của mặt trời, mặt trăng.
Có hai tên:
– Sắc nhập là Kim sí điểu.
– Sắc xuất là Văn Thù Sư Lợi.
Quán sát bên trong thì tất cả các tên gọi đều từ mắt mà vào, làm động gốc rễ sanh tử, tạo ra sự ngang ngược, đều do Kim sí điểu nên gọi là súc sanh. Loại quần manh súc sanh ngọ ngoạy, hơi thở ngắn thuộc loại bò đi. Tất cả các loài biến hóa đều gọi là súc sanh.
Bồ tát quán sát trong thân người đều giống như thế, cũng làm thành ba ngàn đại thiên quốc độ, quốc độ có số trăm ức. Như vậy, chẳng thể mỗi mỗi tính được. Trên có cõi trời Ba mươi ba, dưới đến cõi Kim Cang Sát, ở khoảng giữa có nạn của mười tám địa ngục lớn. Chỗ ở của chư thiên và loài người đều có cung điện và phi nhơn, quỷ thần, rồng, chim bay, thú chạy, dưới đến cây cỏ, thuộc loại có hình đều ở bên trong của thân người, số đó đều trú tại nơi đây. Một vật không đồng (trái nhau) thì người đó liền đoản mạng (chết). Mỗi vật, mỗi vật tương ưng không sai khác, thì người đó liền thông minh, có trí tuệ sáng suốt. Hoặc nếu người trộm cướp, bị hổ lang thú dữ, hoặc rơi xuống hầm hố, bị cây cối xóc nhằm và bị rắn, chó làm hại đều là từ bên ngoài phát ra mới có sự tan thân hoại thể, nên tự trách việc hiện tại, không thể dựa vào thù địch đời trước nên tự suy nghĩ trong ngoài đưa đến sự sanh diệt, tự gieo vào chỗ tối tăm.
Chúng sanh bên trong, chúng sanh bên ngoài, hình dáng bên trong, hình dáng bên ngoài.v.v….đồng nhau không khác. Mọi người đều như vậy. Bên trong khởi lên ý xấu, thì bên ngoài liền tìm đến. Bên trong có thần phản nghịch thì bên ngoài liền phản nghịch, liền hại thân người.
Người ngu si chẳng tự biết, ngồi oán trách quỷ thần. Tất cả đều do sắc. Cảnh vật vào mắt, mắt là chư hầu của tâm mà là chúa của trăm điều xấu. Sự khoái lạc của tâm chắc chắn có cái hoạn về sau, tất cả đều do đó đưa đến súc sanh, đồng nói là vắng lặng thanh tịnh.
Đó là Bồ tát bình đẳng đến với súc sanh.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với tham dâm? – Pháp vốn không, tham dâm từ duyên khởi lên, duyên khởi đưa đến tham, tham do ái dục, dục từ tưởng khởi lên, tưởng, không tưởng như hư không, không có nơi chốn. Nhơn dục đưa đến mê hoặc, trộm cướp, rối loạn tánh căn bản, lập nên gốc rễ lo buồn.
Tham dâm như chỗ trống không, không thể nắm bắt được, như ảnh theo hình, như vang theo tiếng, không thật, không có hình tượng, chẳng thể nắm bắt được. Loại ngu si điên đảo tư tưởng nhơ nhớp. Pháp vốn không có trần cấu, rỗng không, vắng lặng. Dục trống rỗng như hư không, không thể cứu hết được, đến mười phương tìm chẳng thấy.
Tham dâm vốn không có hình tướng. Sự tham dâm tối tăm. Tham dục tự làm tiêu tan mất thân hình, sợ không yên ổn nên ở chỗ kín đáo.
Ở đời khi biệt ly thương tiếc lâu dài chẳng gặp lại. Hoặc như cầm thú thường ôm lòng lo sợ. Giống như người đàn ông đối mặt với kẻ địch, trong lòng sợ hãi bỏ chạy, chạy trốn để không thấy được mình. Người chạy cũng rỗng không, bỏ chạy mệt nhọc cũng không có người đuổi bắt, tự làm khổ thân. Lao nhọc như thế, gia đình ân ái cũng lại rỗng không. Nhưng người thương yêu mến mộ dụng công tham dục, thì dục là nỗi lo bị trói buộc trong lao ngục. Dục là ý chí mạnh mẽ, thương xót quần sanh.
Người không dính mắc vào dâm dật thì tất cả không lo điềm xấu bên trong, hoàn toàn được an ổn. Tất cả đều không, không sở hữu, không mà lại thỏa thích với không thì cái không đó thành có. Họ không giải thoát, ngu si điên đảo. Trái lại bảo rằng “tưởng” là tối tăm, không hiểu pháp như hư không, không còn, không mất.
Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hiểu rõ các tham dục, không thoát khỏi tham dục thì bị trói nơi các nạn. Ái dục rỗng không, hư vô không thật. Người mà chê bai tham dâm thì cầu thoát dục. Người muốn thoát dục thì không khởi việc này, đều niệm sai khác, không có cội gốc. Gốc mà không có gốc, gốc tự nhiên tịnh, không có nhiễm ô, như là đạo tràng của Phật, bình đẳng không tưởng.
Người tham dâm dật thì không lìa tai ương. Người theo sự vắng lặng thì ưa lìa dục. Các tưởng đều rỗng không mới lìa các tưởng khởi niệm, như vậy thì niệm mà không có sở niệm. Cầu thoát tham dâm nghĩa là sẽ vượt qua dục tưởng, không còn sự tìm cầu, không ôm ấp ngọn nguồn, không nghĩ đến tham dục. Vốn thanh tịnh như vậy thì chẳng khởi tưởng giải thoát.
Nếu vượt qua khỏi dục thì gọi là Tịnh. Tham dục rỗng không, không chấp trước, điều này không sai khác. Người ngu tối tăm chẳng hiểu nên liền tạo ra hai tưởng. Pháp bình đẳng một thể không nam nữ, trời là cha, đất là mẹ, trời đất sinh ra thì có gì là khác nhau?
Bồ tát hành bình đẳng thì không tìm cầu nam nữ, như huyễn, như hóa, gốc ngọn đồng như vậy. Người thấy nam nữ có sự sai khác là vì xa lìa cội gốc thì nó không còn hiện hữu.
Phát khởi các tưởng nhớ nghĩ thì các sự buộc ràng lại đến thiêu đốt. Tham dục không phát khởi thì không có các sự nhớ nghĩ, không có các sự trói buộc, không đốt cháy; có các sự trói buộc thì các sự trói buộc không cởi bỏ. Người cởi bỏ tham dâm thì tên giả ái dục không làm nhiễm trước. Các tên gọi không làm trở ngại. Biết dục vốn là không, không nắm bắt được, thấy chơn thật rốt ráo, không mong sự tĩnh tu, trong ngoài đồng nhau, không thấy giả dối. Người tham dục chẳng thoát được.
Phật pháp đồng như Niết-bàn, giải trừ tham dục thì lìa được ngô ngã, hiểu rõ tham dục thì tịch tịnh, noi theo sự đạm bạc, quán sát bên trong, các dục là từ nơi tai, tai cùng với ý thông nhau, cùng nhau tiếp nhận mạnh mẽ không thể cản nổi. Hàng phục tất cả, có hai tên gọi:
– Dục nhập là sư tử vương.
– Dục xuất là Duy Ma Cật.
Ở trong ba cõi cũng giống như ra khỏi, nên không chỗ nào là không nhập, không chỗ nào là không xuất. Đó là Bồ tát bình đẳng đối với tịnh uế.
Tai chẳng lãnh thọ năm âm thanh, làm người dẫn đường cho cõi trời, cõi người trong mười phương, trở nên vị dẫn đường lớn, chẳng hề mỏi mệt. Điều cốt yếu để nghe pháp, trước hết phải thọ nhận. Ba ngàn đại thiên quốc độ mười phương trong ngoài, số người và vật, trong đó mặt trời, mặt trăng tuy chiếu sáng còn không thể chiếu hết. Người tuy có con mắt nhưng chẳng thể thấy được sự vật ở xa.
Nhĩ xứ ở chỗ vắng vẻ, không thấy ánh sáng nhưng trong số thấy được, nhan sắc nó là đứng đầu. Việc nhỏ nhiệm trong ngoài trên dưới ở mười phương trước hết là quy về tai. Tai không có sự mến mộ ưa thích thì gọi là vô cấu. Quán bình đẳng các pháp, lấy pháp làm thức ăn, tai nghe trước hết nên người nghe pháp là thọ nhận trước vậy.
Sở dĩ Bồ tát được không đói khát vì chỉ lấy không nghe làm thức ăn, không thấy làm nước uống, ít nói năng làm trăm vị. Dục thanh tịnh bình đẳng. Dục như hư không, rỗng không, không bụi bặm, đạm bạc như Niết-bàn. Đối với các việc thấy như huyễn hóa.
Đó là Bồ tát quán bình đẳng đối với các pháp đến với tham dâm.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với sân giận? – Pháp vốn không có nhơn duyên sân giận.
Này Phổ Thủ, giận là từ nơi đối diện nhau mà khởi lên, không đối diện thì không khởi, nhơn dựa vào mà sanh ra, không có ngã mà gọi là ngã, tạo nên vô lượng việc.
Như cây cối sinh trưởng, trước hết là từ các loại mầm. Sự kết hận thì nguy hại. Tiếng tự nhiên, rỗng không, không tưởng, không niệm. Như ngồi yên dưới cây, tự tưởng là cọ cây để lấy lửa, nhưng trở lại đốt cháy cây đó. Nhơn duyên tuy tan rã nhưng mà đều quay về nơi gốc sanh ra. Lửa diệt chẳng còn. Hư không tạo nên thân hình, tiếng nai cũng như vậy. Nhơn dục cân lường, cả hai đều rỗng không.
Người trí hiểu rõ điều đó không khởi sân giận. Duyên từ tiếng khởi lên, không ở trong thân, chẳng từ ngoài đến, không do rỗng không, từ duyên khác khởi lên, nhơn đối diện mà lập nên, mỗi mỗi đều phân biệt các loại, đưa đến hơn thua.
Bồ tát bình đẳng, không sân giận, như gió gieo họa, có oán hận, có khinh thường. Nếu biết phương tiện do tưởng lập duyên thì tiếng nhơ xấu cũng như vậy.
Nhơn giận rỗng không, sanh ra sân giận trở lại tự thiêu đốt mình, không có người thay thế, nhưng sắc thân đó tự mình buông thả, do tự mình nói lời xấu ác buông thả, không thể tự kềm chế. Phước hết thì họa đến, như ngọn đèn cháy là do dầu mè, dùng hết dầu, trở lại đốt cháy tim.
Sân giận cũng thế, không có người cứu giúp. Người có thể phân biệt sân giận hoàn toàn không có hình tượng, bình đẳng xét tiếng nghe, cội gốc của giận, nộ, hận đồng nhau, không gốc rễ, không nắm giữ. Phân biệt pháp giới thì thấy bình đẳng.
Ý do bốn lo sợ thâu nhận hết và đứng đầu sân nộ. Sân nộ ngang ngạnh nên có sự tạo tác, ý rỗng không, ngay khi sanh liền diệt, nhưng không rốt ráo. Trong khi hoảng hốt thì ý chẳng thể toan tính, rối loạn đức. Dứt ý, không nghĩ nhớ thì không tham dâm.
Tham dâm là từ ý khởi lên sự tham muốn. Người không tham dâm thì sân giận từ đâu đến? Ý động thì tâm khởi, như độc long cử động liền đưa đến sân giận. Miệng mở thì tội vào, như sông ngòi chảy về biển. Như toàn cõi đất trời bị thiêu đốt, không còn sự vật nào hết.
Quán sát bên trong thì không thể sân giận. Vì sao? – Vì mười phương đồng bình đẳng, không có ba đường, ý bình đẳng không sân giận. Không sân giận thì không có ba độc. Không có ba độc thì duyên vào đâu có bệnh? Ai có bất kỳ bệnh gì đều sẽ tiêu hủy. Chúng sanh nơi ba cõi từ nơi ý sanh ra hình, nhơn sân giận mà nhận vào bệnh này, chẳng tự hối trách, bảy mươi lăm ngày, bảy mươi lăm đêm, mỗi ngày ba lần tự than trách.
Nay ở đời này lập nên hình tượng là từ nơi ý làm ra. Phạm vào loài người và săn bắn, chài lưới, chim bay thú chạy trong ba cõi, hoặc dùng lồng nhốt chim, làm tổn hại thân thể, hoặc bẻ gãy tứ chi, đến nay chân tay khập khiễng, cong queo, chẳng thể gánh vác, làm cho chúng thêm đau đớn, đối với chúng lại vui vẻ.
Người ngu si chẳng biết chính mình trở lại hại mình. Trong suốt năm, thân bị bệnh nặng. Như việc làm hại ở đâu cũng không ai giúp đỡ. Nếu ý khởi sân giận độc hại, một khi uất hận mạnh mẽ thì hoặc dùng đao binh, hoặc cầm cung tên, muốn đánh bắn nhau, hoặc dùng liềm búa muốn chém đầu người. Như thế thì đã phạm chúng sanh ba cõi.
Nếu có Đại sĩ Bồ tát nào thân thể tật bệnh, đau đớn, bệnh nhẹ, bệnh nặng đồng nhau không khác, thì nên biết là đã phạm vào chúng sanh trong ba cõi, tùy theo chỗ đau đớn đó mà kêu danh tự chúng sanh trong ba cõi. Càng tự xét trách, gieo mình trải tóc rơi lệ sám hối ba Tôn.
Trong ba Tôn có sáu việc: gọi là sáu độ vô cực trị bệnh bên trong. Bên ngoài có ba Tôn cũng có sáu độ vô cực trị bệnh bên ngoài.
Phổ Thủ lại hỏi:
– Những gì là ba Tôn bên trong có sáu việc?
Đáp:
– Ba Tôn bên trong là:
Thứ nhất: Tâm tôn, an ủi chúng sanh nơi ba cõi, chỉ dạy sự sáng suốt lớn, làm cho đều được an ổn, gọi là lòng tin vô thượng chánh chơn, cũng hiệu là Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Thứ hai: Nhĩ tôn, thường ở chỗ vắng lặng và không trang sức, bay đi qua lại khắp mười phương, nhơn gian, thiên thượng, chỗ sâu xa tối tăm đều đến. Nghe biết tất cả, nhưng không nói năng, đạm bạc vô vi, chỉ qua lại cùng khắp, chỉ lấy tình đưa về tâm.
– Một là mỗi lời nói ra ban đầu không sai khác, gọi là Vô cấu xưng.
– Hai là giữ gìn hết giới luật.
– Ba là độ khắp tất cả.
– Bốn là nhẫn nhục lớn.
– Năm là tin chư Phật.
– Sáu là tâm Như Lai.
– Bảy là đã tịnh lại càng tịnh.
– Tám là không động chuyển.
– Chín là không đâu là không an lạc.
– Mười là thành lớn Tỳ Xá Ly không đâu là không dung nạp.
Mười đức hạnh như thế đồng với thân Như Lai.
Thứ ba là: Nhãn tôn, thường ở cõi Sắc, cõi Dục, không tự cống cao, dẫn dắt tất cả người tội lỗi. Bay đi trong mười phương, trong ngoài sáng suốt, không có người thấy, cũng có mười đức hạnh:
– Một là Văn Thù Sư Lợi.
– Hai là chỗ nào cũng vào.
– Ba là tịnh uế trừ hết.
– Bốn là thường thanh tịnh.
– Năm là Nhật Nguyệt trong sáng.
– Sáu là mở bày, dẫn dắt tất cả người tội lỗi.
– Bảy là không ai có thể làm ô uế.
– Tám là dẫn dắt người trong mười phương.
– Chín là các lậu đã sạch, không còn các uế.
– Mười là tin Như Lai, hộ trì tất cả.
Đó là ba điều tôn quý bên trong.
Thường thực hành đại từ đại bi, thương xót nghĩ đến khổ sanh tử. Nên biết, các loài quần manh trong ba cõi mà không nên hủy diệt, vì hủy diệt là hủy diệt ba tôn, thường nên hổ thẹn quy mạng sám hối.
Ba tôn đó là:
Thứ nhất: ý tịnh, tên là Ba Tuần.
Thứ hai: dục tịnh, tên Sư tử vương.
Thứ ba: sắc tịnh, tên Kim sí điểu.
Lại hỏi:
– Ba tôn như vậy là theo pháp nào mà gọi?
Đáp:
– Ý dứt trừ không sân giận, chúng ma đều hàng phục. Ý là vị thần của thân, tên là Ba Tuần. Nói rộng ra, các tâm tưởng theo hộ vệ là những điều lành.
– Sư tử vương là vị thần tai. Tai chẳng lãnh thọ các bụi bặm, ba cõi riêng nhẫn tất cả tưởng, chẳng cùng tranh nhau nên gọi là Sư tử vương. Nói rộng ra tất cả không sợ, thường làm vị thầy dẫn đường cho mười phương, sẽ làm Phật, thường làm chiếu ngồi mà không nhàm chán.
– Kim sí điểu là vị thần của mắt. Mắt nhập vào là sắc, sắc liền dứt, bay đi trong mười phương, chẳng ai có thể biết, hàng phục các ma, dẫm đạp chúng rồng. Thần rồng chống cự lại, nổi ý sân giận. Kim sí điểu ở trên mặt biển, bóng hiện trong nước, các rồng sợ hãi, không dám ra ngoài.
Ba Tuần hóa rồng muốn có sự hưởng thụ nhưng Nhãn ấm đã đoạn. Kim sí điểu ở trên thường dùng trăm ngàn các loại sắc đáng sợ như Kim quang, Tinh quang của mặt trăng chẳng thể ngang bằng. Tinh quang của mặt trăng chẳng thể sánh lại với lông của Kim sí điểu. Vậy là khiến cho Kim sí điểu ở trong tam giới riêng hùng mạnh độc tôn.
Nếu người nào làm người dẫn đường để đưa đến quả Phật, ta sẽ đều ở trên đó dùng lông vàng trên thân để chiếu sáng, khiến cho thân đều được sắc hoàng kim. Tất cả người trông thấy, không ai là không hoan hỷ.
Phật dạy:
– Ba tôn và sáu nhơn ấy là: sáu độ vô cực bên trong, vì vậy Bồ tát hành sáu độ chẳng hoại sắc vô thường, tự mình đau xót nghĩ đến nỗi đau khổ sanh tử. Người biết nghĩ đến sanh tử thì không có sáu độ vô cực. Nếu Đại Bồ tát thân thể không an ổn thì nên biết cùng với sáu độ vô cực bên trong chống trái, không thuận. Theo lời chỉ dạy nên suy nghĩ như trên đã nói, tự trói buộc thân hình, chớ dùng tánh cứng cõi mà tự nói không tội. Nếu không dừng lại và chí tâm sám hối thì không bao lâu tự mình giết mình. Việc này chẳng phải là chỗ thầy thuốc giỏi có thể chữa được.
Phổ Thủ lại bạch Phật:
– Những gì là ba tôn sáu việc bên ngoài?
Đáp:
– Thứ nhất: Phật tôn.
– Thứ hai: Pháp tôn.
– Thứ ba: Tỳ kheo Tăng tôn.
Lại có ba tôn, những gì là ba?
– Thứ nhất: Tịnh tôn.
– Thứ hai: Sắc tôn.
– Thứ ba: Dục tôn.
Phổ Thủ lại bạch hỏi:
– Ba tôn này ứng dụng thế nào?
Phật dạy:
– Một là: xả bỏ tham dục, bố thí, thân được phước, đó là “Thí độ vô cực”.
– Hai là xả: bỏ sắc, giữ gìn giới, thân được thanh tịnh, đó là “Giới độ vô cực”.
– Ba là: xả các trần lao, thực hành đại nhẫn nhục để xa lìa các tưởng, được trí tuệ thanh tịnh. Đó là “Nhẫn độ vô cực”.
– Bốn là: biết Tỳ kheo Tăng thanh tịnh, xả bỏ các việc nhơn duyên khởi diệt để xây dựng nên tinh tấn, đạt đến đạo tràng, trụ địa vị thanh tịnh. Đó là “Tấn độ vô cực”.
– Năm là: biết pháp thanh tịnh, xả bỏ các niệm tà, duyên tưởng mà tâm định một chỗ, thân được an ổn, biết quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó là “Thiền độ vô cực”.
– Sáu là: biết Phật thanh tịnh, xả bỏ tất cả sự đắm trước, đạt đến chỗ “vô trụ”, thâm nhập pháp chánh yếu, rỗng không, không tưởng nhớ việc Niết-bàn, tất cả vốn không. Đó là “Trí độ vô cực”.
Phật dạy:
– Đó là sáu độ vô cực bên ngoài. Như vậy là hiểu rõ mười hai việc pháp trong – ngoài. Lại vì mở ra mười hai môn, tuy hiểu rõ nhưng do không chế ngự nên nhơn đối cảnh liền khởi tưởng, đưa đến ý buông lung, chẳng thể nhẫn nhục, buông thả tâm miệng, ý sân giận, nói lời độc ác, liền thành mười hai nhơn duyên, trôi lăn theo ba cõi, chẳng lìa năm nẻo. Bồ tát Đại sĩ,v.v… đối với trong ngoài cũng không quở trách, tất cả đều vô ngại như bóng trăng trong nước. Nếu âm thanh bình đẳng thì không có âm sân giận, vốn nó bình đẳng, không cội gốc, không biên giới. Phân biệt pháp giới thì thấy bình đẳng. Đó là Bồ tát bình đẳng đến với sân nhuế, là ý pháp vậy.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với ngu si? – Ngu là từ không mà khởi lên. Quán sát si không có. Giả sử không sở hữu thì ngu si vốn không, hoàn toàn không có điên cuồng, tối tăm. Người không có nguyện xấu thì vô ngại như hư không, vì hư không rỗng lặng. Tưởng chướng ngại cho sự cầu không. Về mặt tạo ngu si lập hư cho là thật mà khởi lên phẫn hận. Việc làm của ngu si là tìm danh để hiểu chữ. Phô trương danh thanh bạch nhưng mà khó đạt được sự vui mừng, không rõ các pháp vì tưởng lầm dơ bẩn, tưởng là chướng ngại, xấu hổ, rỗng không, vô hình.
Ví như người đàn ông muốn vượt hư không nhưng không có cánh. Việc làm không hiệp lý nên chẳng vào được không, ức kiếp cũng chẳng được. Thường gặp gỡ nhưng chẳng thể biết gốc ngọn của không. Ngu si cũng như vậy, gốc ngọn không thể nghĩ bàn, che lấp, tối tăm, chẳng khai phát. Cuộc đời kẻ không có chí hướng thì lại đầy tràn, như trụ ở giữa hư không, không biết phương hướng, cũng không người vẹn toàn, không ai có thể độ thoát. Như trăm ngàn ức cai tập khí ưa thích che lấp tối tăm, họ cũng không nhàm, thường đói khát không no đủ, như đồng tử ưa màu sắc, thổi bong bóng cho đầy nhưng hơi ngắn nên vừa ra khỏi miệng thì không còn nữa.
Tội – phước như bong bóng, rỗng không. Cầu tốt đẹp, chơn thật, cao xa cũng vậy. Nhún nhường thanh tịnh cũng như vậy. Nếu làm theo người ngu thì tìm cầu chẳng thể được, đến cũng rỗng không, đi cũng rỗng không. Người ôm ấp tội lỗi, tốt cũng làm, xấu cũng không bỏ. Thấy việc tốt chẳng học tập theo, chỉ chuyên theo kiến thức sai lầm. Người thực hành như thế gọi là ngu không đáy. Dứt gốc rễ thì không có hình dáng gốc rễ; không gốc rễ, không chỗ trụ nên không thể dứt hết.
Giả sử ngu không thể dứt được thì si cũng chẳng thể được. Giống như chúng sanh như huyễn như hóa thì chẳng thể ban cho. Giả sử đặt ra ví dụ một ngày độ hết tất cả các loài chúng sanh trong ba cõi, khiến cho đều đắc Niết-bàn, tuổi thọ của Phật trụ ở đời ức kiếp không thể tính. Việc cứu thoát phàm phu, độ khắp mọi người không cùng tận, vì lập nên một cõi người vô tưởng, ngu tối như huyễn, chẳng thể được.
Quán thanh tịnh của Phật cùng sự ngu si đồng nhau, việc này không hai. Giả sử người nào có thể quán bình đẳng thì có thể nghĩ đến đạo. Ngu si và trí tuệ đồng nhau, không có các sự ngăn ngại. Chúng sanh quần manh đồng nhau, không thể nghĩ bàn.
Người ngu si chẳng thể tính biết được dấu vết của ý. Tâm người đó rỗng không, không có giới hạn. Ngu tối không giới hạn vì không thể đắc, rỗng không, đắm trước, không có tên, do nương vào hữu hình; cái không thấy thì vĩnh viễn không thể nắm bắt. Tâm tánh vô minh hoàn toàn không sở hữu thì từ đâu đưa đến để khởi lên mà có sân giận? Xét không ngô ngã, si đã không khởi lên thì loại nào tối tăm?
Như si không nơi chốn, Phật đạo cũng như thế. Hiểu rõ không biên giới, các pháp không hai. Phân biệt âm thanh bình đẳng, quán sát âm vang mù mịt. Hiểu rõ mây đồng như nhau, ngu tối như mây, phân biệt bình đẳng thì hiểu rõ định ý.
Đó là Bồ tát bình đẳng đến với ngu si.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với bất thiện? – Dục hành không hình tượng, sân hành không nơi chốn, chẳng hành hạnh si. Biết mọi người bình đẳng, các ô uế cũng như nhau. Các sanh diệt đều như nhau, hiểu bình đẳng hư vô, rỗng không, không sở hữu, hoàn toàn thanh tịnh như vậy. Đó là Bồ tát bình đẳng đến với bất thiện.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với các gốc thiện đức? – Chúng sanh tu thiện với biết bao nhiêu tâm hành. Các hành như nhau, không hành nào sai khác, chỉ hành một hạnh, không làm chướng ngại hành hiện tại. Rõ hành không hai thì có thể bình đẳng. Do biết các hành bình đẳng, như huyễn, sắc thanh đồng như nhau thì hiểu rõ âm thanh lời nói. Âm thanh lời nói không hai, giống như tiếng vang, như bóng hình, qua lại giáp khắp, cũng không nơi chốn. Gốc đức cũng như vậy, như huyễn, như hóa. Đó là Bồ tát bình đẳng đến với gốc thiện đức.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với hữu vi? – Có, không có, tất cả đều từ niệm. Niệm ấy tức là niệm rỗng không, suy xét không thể lường, khó tính toán, không biên cương, không ranh giới, khởi lên làm tưởng. Tưởng là từ niệm duyên, tính đếm cũng không cùng tận, rõ biết bình đẳng là vô cùng, không hình không tượng, giải thuyết đồng vắng lặng, thấy tất cả đều an, đã an, đã đẹp, không kể vô thường. Đó là Bồ tát bình đẳng đến với hữu vi.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với vô vi? – Gốc thanh tịnh, pháp vắng lặng, cũng không hiệp hội, hình không rõ, tiếng giả dối, quán sát bình đẳng thì âm thanh không ngôn, không giáo, đều vô vi. Quán bình đẳng các sự đắm trước lời nói, âm thanh như thế, đó là Bồ tát bình đẳng đến với vô vi.
Lại bảo Phổ Thủ:
– Thế nào là Bồ tát bình đẳng đến với bình đẳng? – Trong chỗ hữu vi chẳng trụ hữu vi. Các hành bình đẳng như hư không vô ngại, chẳng trụ ba cõi. Ba cõi vốn không, vì sao cầu Niết-bàn? Niết-bàn vắng lặng không xuất, không nhập, không ngôn, không thuyết, cho đến hoàn toàn an ổn, độ thoát tất cả chúng sanh không rõ là bao nhiêu. Pháp thân như hư không, không hiệp, không tan, cũng không qua lại, cũng không tới lui, như hư không rỗng lặng. Đó là Bồ tát bình đẳng đến với bình đẳng.
Ngay khi Thế tôn thuyết chương cú này, thật chưa từng có người làm theo như thế, chẳng thể nghĩ bàn, hiếm có ở đời.
Khi ấy có một vạn hai ngàn Bồ tát đều đắc pháp nhẫn bất khởi. Bảy mươi hai ức trăm ngàn thiên nhơn đều phát ý Vô thượng chánh chơn đạo. Hai trăm sáu mươi vạn Tỳ kheo lậu tận ý giải. Có sáu ngàn Tỳ kheo Ni đều phát ý Vô thượng chánh chơn đạo. Có hai ngàn hai trăm thanh tín sĩ, một ngàn tám trăm thanh tín nữ cũng đều phát ý Vô thượng chánh chơn đạo.
Bấy giờ, Phổ Thủ Đồng Chơn lại bạch:
– Thế tôn! Cúi xin Đại thánh diễn thuyết danh hiệu Tam muội này. Bồ tát do đây mà đạt đến chí đức, các căn sáng suốt. Nghe nguyên nhơn danh hiệu của Tam muội này thì sẽ đạt được tất cả pháp. Và những việc sáng suốt tốt đẹp tuy chưa thông suốt nhưng đều hàng phục được chúng mê hoặc tà kiến; ưa thích một loại văn tự, phân biệt rõ tất cả các loại văn tự, dùng tất cả các loại văn tự để rõ một loại văn tự, trí tuệ biện tài không thể đo lường. Vì các quần sanh giảng thuyết chánh pháp, phân biệt hiểu rõ, duyên đúng với pháp nhẫn, đem tất cả hạnh nhập vào một tướng, đạt được luận nghị vô lượng vô hạn, hiểu rõ luận nghị bốn phân biệt biện.
Ngay khi ấy, đức Thế tôn bảo Phổ Thủ Đồng Chơn:
– Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ. Nay Ta sẽ vì nhơn giả phân biệt gốc ngọn.
Phổ Thủ đáp:
– Thật quý hóa! Chúng con mong muốn được nghe.
Phật dạy:
– Có Tam muội tên “Ly vô lượng cấu”. Giả sử Bồ tát đạt được định này thì thấy khắp tất cả các sắc đều thanh tịnh.
Phật bảo Phổ Thủ:
– Có Tam muội tên “Hoại nhược cang”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì trí tuệ sáng suốt, che lấp tất cả ánh sáng của mặt trời mặt trăng.
Có Tam muội tên “Thành cụ quang minh”, giả sử Bồ tát đạt được đinh này thì oai quang rực rỡ, quý báu, che phủ tất cả Phạm vương, Đế thích trong ba cõi. Tất cả đều được an ổn, ánh sáng rực rỡ của chư thiên bỗng nhiên không hiện nữa.
Có Tam muội tên “Xả giới”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì ở giữa chúng hội trừ sạch tất cả bệnh dâm, nộ, si.
Có Tam muội tên Mạc năng đương”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì chiếu sáng tất cả quốc độ của chư Phật, ở tám phương trên dưới.
Có Tam muội tên “Chư pháp vô sở sanh”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì nắm được tất cả các điều Phật chỉ dạy trong kinh điển, vì chúng hội phân biệt nghĩa cốt yếu, mở bày diễn giảng nghiệp vi diệu không đắm trước.
Có Tam muội tên “Vô niệm lôi âm”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì lời nói âm thanh thông suốt đến Phạm thiên, diễn thuyết trong mười phương không ai hơn được, ở chỗ tối tăm che lấp ngăn ngại đều nghe được hết.
Có Tam muội tên “Hiểu liễu nhứt thiết ứng tâm sở nhạo”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì có thể làm cho chúng sanh vui vẻ, tùy theo sự ưa thích của họ khiến cho họ thoát khỏi cái duyên bị câu thúc làm chướng ngại cho sự hiểu biết, tất cả chúng hội đều được an ổn.
Có Tam muội tên “Vô hội hiện duyệt tinh tấn”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì nhìn thấy vô vi, không có giới hạn, mê hoặc; trước và sau đều thấy nghe, đều được thông suốt, tất cả sở nhập đều có thể vượt qua.
Có Tam muội tên là “Vô niệm bảo đức nhạo ư thế giới”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì phóng các thần túc, thi thiết giáo hóa chúng sanh.
Có Tam muội tên “Chư âm duyên hội”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì hiểu các âm thanh lời nói, dùng vô số văn tự hiểu rõ một văn tự, dùng một văn tự nói vô số văn tự. Do hiểu rõ văn tự bên trong, văn tự bên ngoài nên thương xót. Kẻ bên trong không đạt, bên ngoài cũng chẳng rõ, trong ngoài tương ưng, không có văn tự khác.
Có Tam muội tên là “Tích chúng thiện đức”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì phân biệt tội phước, làm sáng tỏ bình đẳng, có thể làm cho tất cả chúng sanh được nhiều sự vui vẻ; khiến nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng chúng Thanh văn, tiếng Duyên giác, tiếng Bồ tát, tiếng độ vô cực, tiếng Nhất thiết trí. Vị đó có nói ra điều gì cũng không có âm thanh, rõ biết tất cả nghiệp cốt yếu sâu xa.
Có Tam muội tên “Khởi chư tổng trì vi nhứt thiết vương”, giả sử Bồ tát đạt được định này phân biệt tất cả vô lượng tổng trì, khiến cho rõ suốt tất cả pháp vô ngại là điều cốt yếu.
Có Tam muội tên “Tịnh chư biện tài vô vi chi hạnh”, giả sử Bồ tát đạt được định này thì trừ sạch tất cả lời nói âm thanh, không còn ngôn giáo, cũng không âm vang, không ngôn, không giáo, cũng không sở hữu.
Khi ấy, Phổ Thủ bạch đức Thế tôn:
– Cúi xin Đại thánh đối với thân thô lậu này thì có nên giảng dạy công đức của kinh điển không?
Phật bảo:
– Nên giảng dạy.
Phổ Thủ bạch Phật:
– Giả sử Bồ tát nghe kinh điển này nhưng không hồ nghi, phát tâm thọ trì đọc tụng, giảng thuyết, thì vị đó hiện tại được biện tài vi diệu, biện luận thông minh, biện luận vui vẻ, biện luận thâm diệu, không nhóm họp, thường tu tập từ tâm giúp các chúng sanh, không phá hoại làm tổn thương tâm ý. Vì sao? – Giả sử lo nghĩ đến những việc đã làm, phụng hành theo hạn đó thì biết chắc chắn theo thân, chưa từng lìa bỏ.
Bấy giờ đức Thế tôn khen ngợi Phổ Thủ:
– Lành thay! Lành thay! Ông nói lời đó thật là đúng ý. Giống như bố thí sẽ đạt được giàu có lớn, chẳng hư dối. Trì giới sẽ sanh thiên, cũng chẳng hư dối. Làm cho kinh điển này cũng như vậy, học tập đưa đến biện tài cũng không hư dối, đều được ý chí căn bản. Giống như mặt trời mọc thì chiếu sáng khắp thiên hạ, trừ hết các sự tối tăm, kinh này cũng như thế, người học tập đọc tụng đưa đến biện tài thông suốt tất cả. Ví như Bồ tát ngồi nơi đạo tràng, dưới gốc cây Bồ-đề, đắc đạo Vô thượng chánh chơn, thành Tối chánh giác, Bồ tát cũng như thế, học tập đọc tụng kinh này, chắc chắn được biện tài, trừ hết các sự nghi ngờ.
Thế nên, này Phổ Thủ! Giả sử Bồ tát nay muốn nêu lên biện tài, hiểu rõ, lựa chọn các pháp thì nghe kinh điển này tâm chẳng còn do dự, nên thọ trì giảng thuyết, đọc tụng, vì các chúng hội giảng thuyết rộng rãi ý nghĩa của kinh.
Bấy giờ, Bồ tát Ly Cấu Tạng ở trước Phật, bạch:
– Sau khi Phật diệt độ, có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp này, vì chúng hội mở bày giảng thuyết nghĩa lý, kẻ hèn này sẽ vì họ gần gũi tuyên thuyết, giảng giải sự quay về, khiến họ không còn hồ nghi và mau được biện tài.
Khi ấy, ác ma buồn rầu rơi lệ, đi đến chỗ Phật, bạch Thế tôn:
– Cúi xin Thế tôn đừng kiến lập kinh này. Như Lai chí chơn Đẳng chánh giác thường nuôi dưỡng lòng thương xót rộng lớn, có người nào bị đau khổ thì ban cho sự an vui lớn. May mắn thay Đại thánh! Kính xin Ngài hãy giải trừ mê hoặc cho con. Giống như xưa kia Thế tôn ban đầu ngồi dưới gốc cây, nơi đạo tràng diễn kinh pháp này. Nay lại thêm một lần nữa Ngài giảng thuyết lại kinh điển này. Con nay trong lòng ôm ấp sự lo lắng, uất ức, buồn rầu. Ngay khi Như Lai mới thành Phật đạo đã cứu giúp, con lại chống đối, nhưng không thể thắng. Tất cả đều sẽ đắc đạo Bất thối chuyển Vô thượng chánh chơn, thành Tối chánh giác. Nếu có kẻ phàm phu nghe được kinh này, nghe tiếng, nhớ tên, sẽ đều đắc đạo, sẽ đưa đến diệt độ, sẽ làm trống không cảnh giới của con, trống không cung điện ma. Đại thánh vỗ về, nuôi nấng, kiến lập đại bi, nay cúi xin Ngài xót thương cứu giúp.
Phật bảo ma:
– Này Ba Tuần! Chớ nên sợ hãi, chớ nên khủng khiếp, chớ nên lo buồn. Tất cả chúng sanh chẳng diệt độ hết. Như Lai cũng chẳng kiến lập kinh này.
Ma nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, tâm thiện phát sanh và bỗng nhiên biến mất.
Phổ Thủ bạch Phật:
– Vì lẽ gì Như Lai vì ma giảng thuyết giáo pháp này?
Phật bảo Phổ Thủ:
– Kinh điển này trụ chỗ vô trụ, cho nên vì ma thuyết lời này. Ta không kiến lập kinh này, chân thành không hư dối. Tất cả các pháp trụ chỗ vô trụ, chẳng thể đạt được, không có ngôn giáo, lìa cả hai bên, gốc ngọn đều bình đẳng nên chắc thật không gốc. Pháp giới như chiếc cân, bình đẳng như hư không, không có, không không, chơn chánh không sai khác. Nay kinh này lưu bố ở cõi Diêm Phù Đề, trong thiên hạ sẽ có điềm lành ứng hiện.
Thế tôn vừa xây dựng giáo pháp chân thật, tự nhiên nghe âm thanh cùng khắp giữa hư không:
“ Đúng như lời Phật dạy, chân thật không hư dối ”.
Phật bảo A-Nan:
– Lãnh thọ yếu chỉ kinh Phổ Môn Phẩm này, thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ dạy để cùng học tập.
Lại bảo A-Nan:
– Kho tàng kinh điển gồm có tám vạn bốn ngàn pháp phẩm, so với kinh này đồng nhau không khác. Vì sao? – Vì một câu kinh này nhập vào khắp tất cả vô lượng các yếu chỉ huệ môn pháp giới. Chỉ có Như Lai phân biệt hiểu rõ. Chúng sanh hiểu kinh điển đó mà được thành đạo, rồi sau đó giảng thuyết kho tàng kinh điển tám vạn bốn ngàn pháp phẩm.
Thế nên, này A-Nan! Nên thọ trì, đừng để cho bị diệt mất. Phải cẩn thận giữ gìn cho kỹ, vì mọi người thọ trì đọc tụng.
Phật thuyết kinh này xong, Bồ tát Ly Cấu Tạng, Phổ Thủ Đồng Chơn, hiền giả A-Nan, chư thiên, người đời, Kiền thác hòa, A tu luân,…. nghe kinh này hoan hỷ cúi đầu đảnh lễ rồi lui.