Kinh Tự Thệ Tam Muội
Phật Thuyết Tự Thệ Tam Muội Kinh
Hậu Hán An Thế Cao dịch
Bản Việt dịch của Thích Nữ Tịnh Nguyên
***
Nghe như vầy:
Một thuở nọ, đức Phật đến tinh xá Giao Lộ, trong rừng nước Ma-Kiệt-Đà, nơi đạo tràng Hiển Dương Độc Chứng. Đây là chỗ khi đức Phật mới chứng có hào quang sáng rực, tự nhiên có hoa sen báu. Cùng đi với đức Phật có ba vạn hai ngàn đại Tỳ-kheo đều là A-la-hán đã diệt sạch các lậu, làm chủ tâm ý, giữ gìn các căn, tự tại trong ba đời, thần thông không chướng ngại, ví như rồng lớn, những việc cần làm đã làm xong, đầy đủ thánh huệ, thông suốt các căn nguyên của chúng sanh, như: hiền giả Xá-Kợi-Phất, đại Mục-Kiền-Liên và vô số Bồ-tát đều có đầy đủ phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn, đi vào kho tàng của chư Phật, vượt qua các việc làm của ma, đến hằng sa cõi để ban bố lòng từ lục độ, tùy thời cứu giúp chúng sanh được an vui, tiếng tốt đồn xa, như: Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Từ-Thị… như vậy làm thượng thủ.
Thế rồi, Như Lai nhập vào Tịnh hóa chứng tam muội, làm cảm động đến hằng sa cõi Phật. Trước tòa của đức Phật, tự nhiên một tòa sen từ dưới đất vọt lên. Hoa ấy thơm đẹp, sáng chiếu thấu đến mười phương. Hoa có ngàn cánh. Trên mỗi hoa sen có mỗi hóa Bồ-tát và theo thứ tự mà đứng giữa hư không. Tại chỗ, các vị Bồ-tát lạy năm vóc sát đất, đi nhiễu đức Phật bảy vòng rồi đứng trước Ngài, cung kính khen ngợi chưa từng có:
– Kính lạy đức Thế Tôn! Ở cõi chúng con có cây Hóa-linh-thụy, khi cây mới mọc có ánh sáng chiếu khắp hằng sa cõi Phật. Cây phát ra tiếng to, trong trẻo, hòa nhã, làm rung động lòng người, ai nghe cũng đều vui mừng, đầy đủ lòng bình đẳng, tu tập sáu độ của hạnh Đại thừa, ba mươi bảy phẩm hoàn tất Phật sự.
Bấy giờ mỗi đức Phật ở hằng sa cõi đều bảo Bồ-tát giảng dạy giáo pháp để ánh sáng Đại thừa sáng rỡ. Các Ngài dạy Bồ-tát cõi mình:
– Từ cõi Phật này, các ông vượt qua hằng sa cõi, có cõi Phật Sa Ha (Hán dịch: cõi Nhẫn). Phật cõi ấy hiệu Năng Nhơn Như Lai Vô sở trước Chí chơn Đẳng chánh giác, dùng pháp luật và thần túc để giảng dạy làm Phật sự.
Mỗi đức Phật Như lai cầm hoa sen ngàn cánh đưa Bồ-tát cõi mình và nói rằng:
– Ông hãy mang nhân danh Ta với lòng chí thành cung kính gởi đến Như Lai, Ngài đã thực hành hạnh Bồ-tát có công đức tròn đầy, chí nguyện đã thành tựu, đầy đủ đạo thể, sanh vào đời năm trược để giúp đỡ chúng sanh, theo thứ lớp vượt lên trước Bồ-tát Di-Lặc, có lòng từ bi, tu lục độ cứu vớt quần sanh. Ngài đi đứng có an lạc không? Giáo hóa có dễ dàng không? Như Lai của con dạy đến dâng hoa này thành pháp cúng dường, xin cho tất cả chúng sanh đều hội nhập vào đạo tràng này.
Thế rồi nương oai thần của Phật, các Bồ-tát từ cõi của mình bỗng nhiên biến mất, vào sâu định tịch tịnh tam muội, nhập quán tam muội, trong chốc lát đã đến cõi Kham-nhẫn. Rời khỏi tòa, các Bồ-tát đứng cung kính chiêm ngưỡng Thế Tôn và lạy năm vóc sát đất, đi nhiễu bảy vòng rồi lui về vị trí của mình với thần túc thù thắng, oai nghi đỉnh đạc, pháp phục tề chỉnh, thưa trước Phật:
– Bạch Thế Tôn! Như Lai của chúng con gởi vô lượng lời thăm hỏi chí thành cung kính đến Ngài. Ngài thực hành hạnh Bồ-tát có công đức tròn đầy, chí nguyện đã thành tựu, đầy đủ đạo thể, sanh vào đời năm trược để giúp đỡ chúng sanh, lần lượt vượt lên trước Bồ-tát Di-Lặc, có lòng từ bi, tu lục độ, cứu vớt quần sanh. Ngài đi đứng có an lạc không? Giáo hóa có dễ dàng không? Nay dâng hoa này thành pháp cúng dường, xin cho tất cả chúng sanh đều hội nhập vào đạo tràng này.
Đức Phật dạy:
– Này Chánh sĩ! Với trí tuệ, chư Như Lai giáo hóa không mệt mỏi, thông đạt tam muội, pháp thân thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt tròn đầy, pháp thân hoàn toàn thanh tịnh, không còn bỉ thử, khen ngợi những điều đã nghe với ý hoan hỷ cùng tận.
Bấy giờ, đức Năng Nhơn Như Lai nhận hoa và bỗng mỉm cười, ánh sáng từ kim khẩu phóng ra chiếu sáng khắp hằng sa vô lượng cõi Phật mười phương. Ngài đem hoa ấy rải cúng dường hằng sa chư Phật và ánh sáng chiếu thấu hằng sa thế giới. Chúng sanh nhờ ánh sáng từ bi của Phật nên được trí tuệ sáng suốt, biết rõ đời trước. Ánh sáng ấy lần lượt chiếu xuống chỗ địa ngục, ba cõi ác, tám nạn, cung trời, cõi người… Tất cả đều nhờ ánh sáng từ bi mà được giải thoát. Trăm ngàn chúng sanh nhất tâm phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Ánh sáng ấy quay trở lại quanh Như Lai ba vòng rồi nhập vào đỉnh đầu. Bấy giờ hằng sa chư Phật đều thấy lẫn nhau. Nhờ oai thần của chư Phật, chúng sanh đều được thấy Ngài.
Sau khi biến hóa xong, chư Phật đều hiện trở lại như cũ. Trong chúng hội có Bồ-tát tên Hiền Nhu đến trước Phật nói kệ khen:
– Lành thay! Đại thánh hóa
Thương xót loài quần sanh
Từ vô lượng số kiếp
Tích chứa hạnh công đức
Tất cả hạnh công đức
Có hơn cả trăm ngàn
Trăm phước thành một tướng
Lạy Chí tôn ba cõi
Lành thay! Đại thánh hóa
Từ – huệ không biên giới
Giáo pháp tịnh lại quý
Thích sư, trời trong trời
Đại trí cao vô thượng
Thuyền pháp cứu quần sanh
Thánh huệ tịnh vô lượng
Cúi lạy đấng Vô thượng
Lành thay! Đại thánh hóa
Ánh từ sáng hằng sa
Ngu muội đều dứt sạch
Mê muội và đục trong
Bố thí hợp theo thời
Thiện quyền độ chúng sanh
Cầu pháp độ tất cả
Kính lạy đấng ba cõi.
Đức Phật dạy Hiền Nhu:
– Theo pháp chư Phật, mỉm cười có ba nguyên nhân. Ba nguyên nhân là gì?
* Nhất thiết trí thâm sâu vi diệu, thông suốt ba đời, thấu rõ nguồn gốc chúng sanh. Ai hướng đến ba thừa đều có bổn hạnh căn tín đầy đủ. Hoặc có Bồ-tát giữ vững chắc thệ nguyện rộng lớn, mặc áo giáp đức lớn để giúp đỡ chúng sanh, đoạn tận các nẻo, làm cầu đò cho chúng sanh, chuyên tu tập sáu độ, không lìa bỏ chúng sanh, giữ đạo kiên cố, từ từ tiến lên dõng mãnh tinh tấn, bố thí không còn có tướng, giữ giới, tu tập hạnh nhẫn nhục, thiền định không tán loạn, trí tuệ sáng suốt, hướng đến Bất thối chuyển.
Này Hiền Nhu! Đức Phật sẽ thọ ký cho người đó. Chẳng phải chỉ một đức Phật thọ ký cho họ, mà còn được chư Phật hiện tại mười phương thọ ký. Đây là nguyên nhân thứ nhất.
* Này Hiền Nhu! Nếu có Bồ-tát hướng đến A-duy-nhan (Nhất sanh bổ xứ) trồng nhiều gốc đức, đầy đủ Thánh huệ, cúng dường hằng sa vô lượng chư Phật thì tất cả đều được thọ ký, quyết đoán rõ ràng, làm thanh tịnh cõi Phật, giáo hóa bình đẳng với chúng sanh, đưa họ vào một hạnh; mời chư Phật, Hiền thánh đại nhơn đến làm thuyền đại pháp trong bốn dòng nước dữ, làm cạn biển lục dục, khô mười hai nhân duyên, đi vào năm đường, làm thanh tịnh năm nhãn, tâm ý tịch tịnh, ở cung Đâu Suất nhóm họp các Bồ-tát đại sĩ chánh sĩ thanh tịnh, đi trong ba cõi giảng nói pháp bất thối chuyển, được chư Phật hiện tại trong mười phương khen ngợi giữa bốn bộ chúng. Cũng giống như Bồ-tát này khen ngợi về đức của vị ấy rằng: “Không bao lâu sẽ giáng thần thành Phật, chúng sanh trong mười phương được giải thoát”. Đây là nhân duyên thứ hai.
* Này Hiền Nhu! Nếu có Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất hết tuổi thọ sẽ giáng thần nhập vào Cứu cánh Quảng hiện tam muội. Chư thiên cõi Tịnh Cư quán khắp ba ngàn đại thiên cõi có đất đai rộng lớn, nhân dân thuận hòa, các hàng Sát-lợi, Phạm chí, trưởng giả cả trăm ức ở thành ấp nào cũng có đạo đức, thanh tịnh, thuần thục, nhơn từ, hòa nhã. Chuyển luân Thánh vương ở Thiên Trúc thì nhóm họp nghị bàn với những người uyên bác, có chư thiên theo hầu một bên. Hiện ở trong cung điện có thị nữ túc trực hầu hạ. Hiện học hết kinh điển thế tục, quán bốn vô thường. Thiên tử trời Tịnh Cư khuyên vị ấy xuất gia, vào trong núi nghiên cứu tường tận, ngồi dưới cây bối-đa, cạo bỏ râu tóc, tự thệ làm Tỳ-kheo, tu học pháp của Phật trước đây, lấy pháp làm thầy, có trời cõi Tịnh Cư làm chứng. Vào một đêm chứng Tam đạt, thu phục quân ma, đầy đủ Phật sự. Cây Linh thụy mọc khắp nơi, mỗi Như Lai trong hằng sa cõi chư Phật ở cõi mình giữa tám bộ chúng khen ngợi công đức Bồ-tát ngồi dưới gốc cây. Chư đức Phật bảo Bồ-tát cõi của mình đến tặng hoa với lòng rất thành kính và tán dương Đại thừa.
Như vậy, này Hiền Nhu! Chư Phật hiện tại mười phương đều biết vị ấy, chúng sanh trong hội đạo tràng rất vui mừng. Đây là nguyên nhân thứ ba.
Những Bồ-tát đến đều là những vị vốn có nhân duyên với Như Lai. Nhờ nghe nói pháp của Như Lai, các Bồ-tát đều đắc Vô sanh, hoặc có vị hướng đến Đồng chơn, hoặc hướng đến Liễu sanh, hướng đến A-duy-nhan. Như Lai thọ ký từng vị phân minh, rõ ràng và đầy đủ. Chánh sĩ nên biết! Phật mỉm cười không phải vô cớ.
Khi đức Phật nói như vậy, có bảy mươi na-thuật Bồ-tát đắc địa vị Đồng chơn, sáu mươi ức na-thuật Bồ-tát đắc địa vị Liễu sanh, ba mươi ức na-thuật Bồ-tát đắc A-duy-nhan, trăm ngàn Tỳ-kheo đắc A-la-hán, chín mươi ức na-thuật người đạt dấu chân đạo, chư thiên ba cõi đắc pháp nhãn tịnh.
Khi ấy Thánh sư nói kệ:
– Pháp giới đều là không
Sắc thân chơn thanh tịnh
Giáo hóa độ cùng tận
Tam muội không có nhân
Cõi Phật cũng chẳng không
Huệ tịnh cũng chẳng có
Thương đời, hiện mỉm cười
Chánh sĩ nên thọ mau.
Trong chúng có Bồ-tát tên Minh Kiến Quang Hiền, đứng dậy sửa pháp phục, bày vai phải, gối phải sát đất, quỳ dài chấp tay thưa trước Phật:
– Con có điều muốn thưa. Cúi xin Thánh sư dùng vô lượng huệ chiếu giải thích để cho những ai còn chưa nghe.
Thế Tôn dạy:
– Lành thay! Ông cứ hỏi. Ta sẽ giảng giải cốt lõi pháp vô thượng cho ông.
Bồ-tát Minh Kiến Quang Hiền thưa:
– Bạch Thế Tôn! Vì sao nói rằng: Bồ-tát Chánh sĩ xuất gia đầy đủ đạo, chứng đắc Nhất thiết trí?
Thế Tôn dạy:
– Này Chánh sĩ! Ông hãy lắng nghe cho rõ, nắm lấy ý nghĩa mà suy nghĩ cặn kẽ cốt lõi của nó. Chư Phật xuất gia chắc chắn có nguyên do nên ở nơi thanh vắng ngồi thiền, tư duy giáo lý huyền diệu, thông đạt đến chỗ nhiệm mầu. Ai chuyên tâm nghĩ đến đạo, chắc chắn được phước báo. Ai được phước báo thì làm trời cõi Tịnh Cư, Phạm Thiên, tự tại ra lệnh Đế Thích biến hóa bốn ảnh tượng vô thường già – bệnh – chết. Nhờ nghe nói pháp này mà tất cả chứng ly dục khổ nạn, nhớ nghĩ đạo thanh tịnh, vào núi tinh chuyên hành thiền.
Vừa nghĩ ý này, Tứ thiên vương xuống đến cây bối-đa, khiến vị ấy nhớ lại pháp xuất gia trước đây của Phật, lấy pháp làm thầy, Phạm thiên làm chứng, tín căn kiên cố, tu tập sáu độ, bốn đẳng, bốn ân, bốn thiền, hành năm thần thông, có phương tiện thiện xảo tự tại, tu tập ba mươi bảy phẩm, hoàn tất Phật sự, đã phát tâm không từ bỏ chúng sanh, bỗng nhiên tự ngộ. Đế Thích xuống đưa dao cạo tóc cho vị ấy. Thế rồi, Bồ-tát tay phải cầm dao, suy nghĩ: “Cắt bỏ những tập khí khổ não, dơ bẩn, trồng cây vô trước, đoạn trừ dòng sanh tử, thông suốt nguồn Nê-hoàn. Đã phát tâm và được xuất gia rồi, ý chí kiên cố không giải đãi, có lòng tin sâu sắc, không thối chuyển, hiểu biết đầy đủ, suy nghĩ rõ ràng”.
Dao chưa đụng tóc mà bỗng nhiên tóc rụng, tự nhiên nổi lên nhục kế sáng đẹp. Bồ-tát suy nghĩ: “Trước kia Phật xuất gia, cạo tóc thì liền có pháp phục ca-sa”. Bồ-tát vừa nghĩ như vậy, trời Tịnh Cư đem ca-sa vải Kiếp-ba-dục ở cõi trời Sắc giới dâng cúng Bồ-tát và thưa:
– Cúi xin Chánh sĩ hãy nhận pháp phục này.
Bồ-tát liền nhận và đắp lên mình, rất vừa khít, với oai nghi nghiêm đẹp. Cùng lúc ấy, chư Phật ở hằng sa vô số cõi đều thấy như vậy và đưa ca-sa cho Bồ-tát. Bồ-tát nhận ca-sa của chư Phật, chư Phật nào cũng hiện oai thần hợp nhập lại thành một, gọi là Tát Phi Phật Đầu Chấn Việt. Y phục này hiện đang ở cõi Phạm thiên. Ngồi thiền sáu năm để hoàn tất túc duyên, đêm cuối của năm thứ sáu giới chứng mới hiện.
Giới chứng là gì? – Nghĩa là lập chí ở nơi thanh vắng mà hưởng thụ chánh pháp, tinh thần linh hoạt sâu xa, giữ gìn giới thể, hành đạo không tiếc thân mạng, vứt bỏ nó vì sánh mình bằng với vạn vật, không mong cầu lợi dưỡng, giữ không và hành tịch, luôn luôn quán pháp thanh tịnh, hành bốn đẳng từ – bi – hỷ – xả, thanh tịnh, tuyên dương bốn ân, bố thí với lòng nhân ái, có lợi đem cho người một cách bình đẳng vì lòng thương yêu vô tận, hiểu rõ bốn thiền không có vết bẩn, không phân biệt, tránh sắc thuộc mắt, tránh âm thanh thuộc tai, dứt bỏ hương thơm thuộc mũi, đoạn trừ mùi vị thuộc miệng, không tiếp xúc thuộc thân, dứt tâm vọng niệm thuộc ý, diệt trừ sáu dục, bỏ tập khí cũ, sắc dừng sắc, thanh dừng thanh, hương dừng hương, vị dừng vị, niệm thấy tánh sắc thanh tịnh làm tịch tịnh tỷ căn, kềm chế năng lực của miệng, dứt sự ham thích, định trụ giác ý, sắc chẳng phải sắc, chẳng phải không sắc, không có diệt sắc, không phải sắc của sắc.
Vứt bỏ các đại, diệt trừ các tập khí cũ. Thanh chẳng phải thanh, chẳng phải không thanh, không phải thanh của thanh, dứt bỏ sự thọ này, dừng sự phát khởi kia, không có đối tượng đối đãi, ngăn ngừa đối tượng, đoạn ngay bổn nguyện.
Hương chẳng hương, chẳng phải không hương, không phải hương của hương, tinh thần hoàn toàn thanh tịnh, thần túc thanh tịnh.
Vị chẳng vị, chẳng phải không vị, không phải vị của vị, tịch tịnh, rất vi tế, căn lực mạnh mẽ.
Vui chẳng phải vui, không phải vui của vui, bốn đại đều thanh tịnh. Tâm ý thức duyên bảy pháp. Bảy pháp thanh tịnh là chỗ hướng đến của tịnh.
Tâm không phải tâm, chẳng phải không tâm, không phải tâm của tâm.
Ý không phải ý, chẳng phải không ý, không phải ý của ý.
Thức không phải thức, chẳng phải không thức, không phải thức của thức. Chẳng phải ý thức tập hợp lại thành một. Do biết một mà trừ bỏ một. Một đó không bị lay động.
Tâm là không, đối tượng là tịnh, vứt bỏ danh dự, xả các nhập, không có chủng tánh, không có quyến thuộc, xa lìa hình pháp, không còn ngã – ngã sở, không có người, xả bỏ thân mạng, không tưởng ba cõi, không có thức, không ngã, không ngã sở, không người, không mạng, không ý, không tên họ, không hóa, không số, không tạo tác, không từ đâu đến, không đi về đâu, không sanh không diệt, không thân không phạm, không miệng không nói, không tâm không suy nghĩ, không có việc thế tục, không nghĩ tưởng, có chỗ duyên không chỗ trụ, không có giới không giữ, không thành niệm, không bại hoại. Đó gọi là giới cấm. Trong ngoài đều thanh tịnh, giữ giới cấm của Phật không chút tì vết, cũng không chấp vào giới, không sân không giận, an định thanh tịnh vượt qua đạo thế gian.
Này Chánh sĩ! Bồ-tát ban đầu ngồi dưới gốc cây, trước tiên làm thanh tịnh giới chứng, vứt bỏ gốc khổ dục, đoạn tâm ý tán loạn không tưởng khởi, không tưởng động, không tưởng dù một chút, không tưởng ngã, không tưởng người, không tưởng chặng giữa, không tưởng đây kia, không tưởng bên trong bên ngoài, không tưởng đạo, không tưởng tục, không tưởng diệt, diệt cái tưởng không, không có tưởng không, không tưởng không có tưởng không, tận hết các tưởng vô tận.
Này Chánh sĩ! Bồ-tát ngồi dưới gốc cây, lập chứng một ngàn tám trăm giới bổn thanh tịnh. Chứng số này xong, bỗng nhiên tòa Kim cang từ đất vọt lên làm cung ma thứ sáu chấn động. Chư thiên ba cõi ngồi không yên, tất cả cùng nhau đi xuống cây bối-đa để cúng dường hằng sa cõi, bỗng nhiên có tiếng lớn phát ra:
“Đêm nay Bồ-tát ngồi dưới gốc cây sẽ chứng ngộ, chúng sanh đều nghe thấy”
Này Chánh sĩ! Đó là Bồ-tát đầy đủ giới, chứng đạt thành Nhất thiết trí với ba đạt, sáu thần thông, ba mươi bảy phẩm, mười tám pháp bất cộng, mười lực thần thông, bốn vô sở úy… tất cả đều đầy đủ. Ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách, có công đức thu phục quân ma, ánh sáng chiếu khắp hằng sa cõi. Chúng sanh nhờ ánh sáng từ bi này mà được an lạc và phát tâm Vô thượng chánh chơn.
Khi đức Phật nói như vậy, có tám trăm Tỳ-kheo đắc A-la-hán, ba vạn trời đắc pháp nhãn, ba ngàn thanh tín sĩ đắc A-na-hàm, chánh sĩ Hiền Nhu… đắc liễu sanh. Tất cả chúng hội phát tâm Vô thượng chánh chơn.
Thánh sư dạy Hiền Nhu:
– Thuở xưa ta ở nước Diệm Di, bỗng nhiên bè đảng thiên ma xông nhập vào đại chúng với y phục khác lạ rồi tranh cãi với đại chúng, phỉ báng nhau. Tỳ-kheo sanh tử không thích đạo thể, nổi sân và đều phân tán khỏi chúng, chỉ có La-hán chánh chơn đi vào núi rừng. Bấy giờ, vào ngày mười bốn tháng bảy, lúc sao mai mọc, Thế Tôn bảo A-Nan đánh kiền chùy, trải nệm cỏ, còn lại mình ta cùng A-Nan tự tứ. Lúc này trời Tịnh Cư ở giữa hư không bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Chúng Tỳ-kheo đã phân tán. Ngài tự tứ một mình sao?”.
Phật dạy:
“Xưa kia Ta xuất gia, ông làm chứng; đến khi Ta đến ngồi dưới cây Bối-đa, ông cũng làm chứng. Ta đã trở lại Diêm-phù-lợi đến ba ngàn lần, ở vô lượng cõi Như Lai đều chứng Nhất thiết trí. Từ khi thành Phật đến lúc nhập Niết-bàn, ông làm chứng ba lần, minh thể đầy đủ. Thiên tử nên biết! Như Lai có đạo huệ và thần thông, một mình đi trong ba cõi, còn phải tu chứng, huống chi tất cả chúng sanh vì đạo mà không có thầy hay sao?”.
Phật dạy trời Tịnh Cư:
– Đời sau nhiều người giữ chí nguyện thanh bạch, tâm đạo trong sáng, không thích thế tục, ẩn cư trong núi rừng, lập ý chí xuất gia kiên cố. Nếu không có Sư trưởng dạy chánh pháp thì nên theo pháp xuất gia của Ma-ha-Ca-diếp là lìa sự ham muốn xả dục làm chứng; lìa tục xả tục làm chứng; lìa danh dự xả danh dự làm chứng; xem nhẹ thân mạng, xả thân hư giả làm chứng; lìa bỏ sự mong cầu, trong ngoài xả sự cầu mong làm chứng. Này thiên tử! Ma-ha Ca-diếp với năm chứng này mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, đạt được pháp tịnh tự nhiên của thầy, làm cảm đến chư Phật mười phương, cầu xin thưa thỉnh, ngưỡng mộ pháp xuất gia của chư Phật, mời Tịnh Cư làm chứng. Ba chứng này rõ ràng thì thành Tỳ-kheo hành mười hai hạnh đầu-đà, nhất tâm kiên cố không khởi tưởng chứng. Nay dưới gốc cây, Ca-Diếp chứng đầy đủ thần thông, sau đầy đủ sáu thần thông của Phật.
Này thiên tử! Đời sau Tỳ-kheo suy nghĩ rõ ràng pháp này, không tự cao cầu danh mà khinh khi đại chúng để mong được cúng dường; cũng không xem thường bỏ qua pháp này, chống đối với chúng; không thờ chúng Tăng làm thầy, cho rằng pháp này hoàn toàn không có Tỳ-kheo; người có thể được làm thầy là người ưa thích, ngưỡng mộ, hành theo pháp này. Nếu có Tăng thì cầu Tăng làm chứng, vì Tam bảo Phật – Pháp – Tăng giống như Như Lai. Như Lai khen ngợi luật trong sáng, chúng Tỳ-kheo làm thượng thủ.
Thiên tử nên biết, trong Tỳ-kheo tất có đủ ba thừa.
Khi nghe Phật nói pháp này, trời Tịnh Cư và bốn bộ chúng hoan hỷ làm lễ rồi lui ra.