Quyển thứ tư
(Gồm 15 nước)
1. Nước Trách Ca
2. Nước Chí Na Bộc Đệ
3. Nước Phiệt Lan Đạt La
4. Nước Quật Lộ Đa
5. Nước Thiết Đa Đồ Lô
6. Nước Ba Lý Dạ Đản La
7. Nước Vị Thố La
8. Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La
9. Nước Tốt Lục Cần Na
10. Nước Châu Đệ Bổ La
11. Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La
12. Nước Cù Tỳ Sương Na
13. Nước Ác Ê Chế Đản La
14. Nước Tỳ La Sắc Na
15. Nước Kiếp Tỷ Tha.
1) Nước Trách Ca, chu vi hơn vạn dặm, phía Đông giáp với sông Tỳ Phấn Xa. Phía Tây giáp với sông Tín Độ. Đô thành rộng hơn 20 dặm, chuyên nghề trồng lúa, có nhiều lúa mạch. nơi đây cũng có nhiều vàng, bạc, chì, đá, đồng, thiếc v.v… . Khí hậu rất nóng và có nhiều gió. Phong tục bạo tàn; lời nói thô bỉ. Y phục thường dùng màu trắng, kiêu xa, lộng lẫy. Không tin Phật Pháp, tin vào nhiều vị thần khác nhau. Có 10 ngôi Già Lam, trong khi đó đền thờ hơn 100 ngôi. Nơi nước nầy có nhiều chỗ bố thí cho người nghèo, họ cho thưốc men, hoặc cho đồ ăn. Cho nên những kẻ lữ hành qua đây cảm thấy ít mệt mõi vì có ăn và có mặc. Thành lớn phía tây nam, cách 14.5 dặm đến thành Xa Yết La Cố. Tuy thành quách đã hư hoại nhưng nền móng vẫn còn chắc chắn, chu vi hơn 20 dặm. Trong đó, xây thêm một thành nhỏ chu vi 6.7 dặm. Những người ở trong thành nầy rất giàu có và họ là những người ở nước phía bắc đến, mà cách đây 100 năm, nước nầy có vị Vua tên là Ma Ê La Cự La.
Thành nầy do một vị Vua người Ấn, có tài trí và tánh tình rất cương trực trị vì, nhưng những nước láng giềng chưa thần phục. Đời sống dư dả chuyên học tập Phật Pháp. Vua sắc lệnh chư Tăng phải suy tôn một vị phạm hạnh, nhưng chư tăng chưa chấp thuận, vì họ sống theo hạnh xả ly nên không cần tuân lệnh. Những bậc cao minh học rộng thuộc dòng họ Thích oai nghiêm khi nghe đàm luận về vấn đề đó liền ưng thuận. Nhà vua bảo :
Ta cũng kính Phật Pháp cho nên muốn tìm danh tăng, trong các ngươi ai có thể làm điều nầy để cùng đàm luận với ta chăng. Biết đâu trong tăng đoàn ấy có kẻ hiền minh cùng sánh vai với ta. Người đó sẽ được tôn kính. Lệnh nầy đã được ban ra trong năm xứ Ấn Độ. Tiếp theo Phật Pháp bị hoại diệt tăng lữ chẳng có người nào kế vị.
Nước Ma Yết Đa có Vua Bà La A Dật đã sùng kính Phật Pháp và yêu thương dân chúng. nhưng đại tộc của Vua lâm vào cảnh dâm loạn tự giữ phần mình không theo lệnh các viên chức. Lúc bấy giờ các tướng lãnh ở dưới trướng trị vì của Vua, biết rằng lúc nhỏ vua nghe lời các vị quan, còn bây giờ không cần biết đến chỉ lo chiến tranh. Làm như thế không nghĩ rằng có tội, mà ngay cả bản thân cũng như cây cỏ cũng bị ảnh hưởng lây. Nói xong đi ra khỏi cung, đi sâu vào trong rừng mà trong nước ấy có hơn vạn người đi theo tận nơi hải đảo. Đại tộc của nhà Vua cùng với binh lính ra biển thảo phạt. Nhà vua thấy sự nguy hiểm nầy, không sợ nguy hiểm liền ra nghinh chiến. Trống vàng một tiếng nổi lên. Binh lính bốn bề sáp nhau, bắt sống Đại Tộc, không cho người tiếp cứu. Đại Tộc của Vua tự xấu hổ mất luôn đường về. Ai nấy đều long đong. Nhà Vua ngồi trên toà Sư Tử bốn bên có quần thần hộ vệ, lại ra lệnh cho đại thần nói với Đại Tộc rằng:
– Nhà ngươi đã lộ diện muốn ta xa rời vương vị phải không?
Đại Tộc thưa:
– Lên Ngôi thì dễ nhưng gặp oán thù cũng không khó. Nếu mà không có sự liên hệ thì làm sao đối mặt với nhau để nói chuyện.
Nói đi nói lại ba lần như thế nhưng vẫn không nghe theo. Những lời ra lệnh như thế rất nhiều và tội nầy đã được biết. Tam Bảo là phước điền, là chỗ nương tựa của bốn loài. Chớ đem tâm lang sói mà hủy hoại nghiệp lớn. Phước chẳng phải do thần giúp mà nhà ngươi có thể lấy được sanh mạng của ta. Tội chẳng có thể xá, bỏ điều nghi mà tạo nên hình phạt được. Khi ấy mẹ của Vua Ấu Nhựt nghe được và ý thức việc thiện, nên khi nghe việc sát hại Đại Tộc liền bảo cho Vua Ấu Nhựt rằng:
– Ta thường nghe Đại Tộc đem lợi ích cho người có trí tuệ.
Do vậy Vua Ấu Nhựt nên ra lệnh Đại Tộc đến cung của Mẫu Hậu.
Mẫu Hậu nói:
– Than ôi! Đại Tộc! Ông không xấu hổ sao! Thế gian vô thường sự vinh nhục là điều thường thấy. Ta là mẹ của ông, nếu ông nhớ tình mẹ con, phải nên theo lời mà thường thăm nom.
Đại Tộc thưa rằng:
– Ngày xưa giết Vua cướp nước. Bây giờ làm kẻ tù nhân. Vương nghiệp phế bỏ. Tông miếu không còn. Trên xấu hổ tiên linh. Dưới thẹn với bá tánh. Mặt mũi nào để nhìn lên và cúi xuống nữa. Chẳng thể tự sát sao?
Vương Mẫu nói:
– Hưng phế tuỳ thời. Tồn vong hữu vận (việc thịnh suy theo thời gian, Sự mất còn theo vận mệnh). Lấy tâm để cứu người tức là được việc đừng quên vấn đề ấy, đừng lấy vật để cứu tâm. Lấy tâm mà cứu vật mà được mất đều quên, còn lấy vật mà cứu tâm thì buồn vui lại hiện. Hãy nên tin theo Nghiệp Báo và theo thời gian thay đổi đừng nên nương vào lời nói và sự tồn tại của thân nầy. Đại Tộc cảm tạ rồi thưa :
Há vì bất tài đã cùng Vua dựng nền hành chánh của nước, nhưng nay nước đã mất, đế nghiệp suy tàn. Tuy ở trong cuộc đời tục luỵ mà tham đắm cuộc sống ngắn ngủi. Nay thì biết rồi việc đã tạo xin cảm tạ thâm ân. Bây giờ sẽ nương vào đó để mà hành xử.
Mẫu hậu nói :
– Con ta vì tự ái nên sống chết đến cùng, rồi bảo với Ấu Nhựt rằng: Điển tích trước đã đủ sự huấn dụ cho quá khứ mà nên sống một nếp sống tốt đẹp. Nay Đại Tộc của Vua chỉ làm toàn việc ác và chỉ có phước đức mới không cùng tận. Nếu giết hại những người nầy, sau 12 năm sẽ nhận báo ứng, phải có lòng trung với đất nước mới là Vua của một nước. Phải biết đất nước phương bắc kia mà nghe lệnh ta đừng vì sự oán thù mà làm cho mất Vua mất nước.Ta là người đàn bà đang chờ cái lễ nghĩa ấy. Tất cả các binh lính cùng những người hộ vệ hãy nên rút ra khỏi biển và Vua em của Đại Tộc hãy trở lại nước của mình. Đại Tộc mất ngôi chỉ còn lại rừng núi nên đi đánh nước phía bắc là Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La là người trọng lễ nghĩa, thương người mất nước phong cho thái ấp. Thời gian trôi qua, lại đốc suất dân trong thái ấp khởi lên giết Vua Ca Thấp Di La mà tự xưng Vương. Thừa việc chiến thắng nầy, mà ra oai với nước phía Tây là Kiền Đa La. Đem binh lính chinh phạt sát hại Vua nước nầy. Đại thần, dân chúng đều chết oan uổng. Đốt phá chùa tháp cho đến 1600 cơ sở. Binh lính giết dân chúng ở ngoài thành nhiều vô kể. Tất cả đều bị tàn sát chẳng kể loài nào. Lúc bấy giờ có người tiến đến và can gián nhà Vua rằng :
Sự uy hiếp của Đại Vương rất mạnh mẽ. Binh lính chẳng ai giao tiếp nổi. Giết hết những kẻ ác và người dân thế nào cũng nguyện lấy thân nầy chết thay cho họ.
Vua nói:
– Nhà ngươi tin Phật Pháp, làm việc phước đức, mong được thành Phật, thường nói về sự sống. Ngươi muốn dạy đời, nói việc ác của ta cho đời sau sao. Nay ta bảo cho ngươi biết không được từ chối. Hãy đem ba ức người kia (?) nhận chìm xuống sông Tín Độ. Ba ức người đó bị chìm xuống rồi, phân thân trở thành ba ức binh sĩ và trở về lại nước của mình bị mất. Sau đó tìm lại nơi mình bị chết để làm mưa làm gió. Trời đất kinh hoàng nổi cơn sóng gió. Lúc đó, quả nhân mới thương mà than rằng giết oan mọi người không tiếc, làm cho Phật Pháp bị diệt vong nên phải đoạ vào địa ngục Vô gián lưu chuyển không cùng.
Cổ Thành của nước Xá Yết La, bên giữa có một ngôi Già Lam, Tăng tín đồ hơn 100 người. Họ học theo giáo pháp Tiểu Thừa. Bồ Tát Thế Thân ngày xưa đã ở đây soạn Thắng Nghĩa Đế Luận. Tại đây có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước. Trong quá khứ có bốn vị Phật thuyết pháp ở đây và cũng có di tích của bốn vị Phật kinh hành nơi đây. Cách phía tây bắc của Già Lam khoảng năm dặm sáu, lại có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua Asoka dựng nên để ghi lại nơi đây là nơi mà bốn đức Phật trong quá khứ đã thuyết pháp. Phía đông bắc của hoàng thành đi hơn 10 dặm đến một Bảo Tháp bằng đá cao hơn 200 mét cũng do Vua Asoka xây dựng. Đây là nơi ghi lại dấu tích của đức Như Lai qua phương bắc để hoằng hóa trên đường dừng lại nơi đây. Theo truyền ký Ấn Độ chép rằng trong Bảo Tháp ấy có lưu Xá Lợi, phát ra ánh sáng vào giờ Ngọ. Từ phía đông đi khoảng năm trăm dặm đến nước Chí Na Bộc Đệ.
2) Nước chí Na Bộc Đệ, chu vi hơn hai ngàn dặm. Kinh Đô chu vi mười bốn dặm năm. Họ trồng lúa hoa quả cùng những cây ăn trái khác. Nghề nghiệp của nước nầy rất phong phú, khí hậu ôn hòa, phong tục yếu kém. Học Đời Học Đạo đều có, nhưng tin Tà chánh lẫn lộn. Có hơn 10 ngôi Già Lam và 8 ngôi Đền Thờ.
Ngày xưa Vua Ca Nị Sắc Ca đã tuần du đến nơi đây vì nghe nước bên cạnh lớn mạnh và có những phong tục đặc thù. Làm sao mà phía tây lại có uy thế như vậy. Cho nên Vua Ca Nị Sắc Ca thường gặp những điều may. Ngày đêm bên nhà đều có binh lính canh gác. Nhà Vua đã ở lại nước nầy suốt mùa đông. Rồi đến nơi Na Bộc Đệ Chất Tử ở. Từ đây trở thành tên nước. Đất nước nầy cũng theo kịp Ấn Độ. Đất không có lê, có đào, do đó Chất Tử nói rằng:
Muốn ăn đào lê thì phải đến nước Na La Phiệt Phất Đản La mới có. Vì nước nầy người ta tin kính các nước phía đông nên được như thế. Đó là quê hương đất nước của Vua ta đời trước.
Phía đông nam đại thành, hơn 500 dặm, đến Chùa Đáp Vị Tô Phạt Na. Tăng Tín Đồ hơn 300 người, học theo phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Chúng Tăng ở đây đức hạnh thanh cao, tuy học Tiểu Thừa nhưng nghiên cứu rất rộng rãi. Trong hiền kiếp có 1000 vị Phật ở đây, tập họp Trời Người lại giảng sâu về Diệu Pháp. Đức Như Lai sau khi nhập Niết Bàn 300 năm, có ngài Ca Chiên Diên luận sư sáng tác Phát Trí Luận tại nơi nầy.
Ở trong chùa Phiệt Lâm, có một Bảo Tháp cao hơn 200 thước do Vua A Dục dựng lên. Nơi đây cũng là nơi mà trong quá khứ có bốn vị Phật đã ngồi, cũng như đi kinh hành còn lưu lại dấu tích. Nơi tháp nhỏ, có nhiều động đá lớn thứ tự đối nhau không biết bao nhiêu mà kể. Ở nơi đây, trong kiếp sơ cũng có nhiều vị đến tu và chứng quả Thánh, còn nhiều hài cốt lưu lại. Cách Già Lam Nhiễu Sơn 20 dặm, có hơn 100 ngàn ngôi tháp thờ Xá Lợi Phật, liên tục với nhau. Từ đây qua phía đông bắc đi hơn 145 dặm, đến nước Phiệt Lan Đạt La.
3) Nước Phiệt Lan Đạt La, từ phía đông sang phía tây tám trăm dặm, từ nam ra bắc hơn 1000 dặm. Chu vi của Đô thành khoảng 12.3 dặm. Dân chúng sống bằng trồng trọt và cấy lúa. Cây trái hoa quả sum sê. Khí hậu ôn hoà. Phong tục cứng cõi. Dung mạo không được đẹp. Nhà cửa giàu có. Có hơn 50 ngôi Già Lam và 2000 vị Tăng, theo cả hai trường phái Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có 3 Đền Thờ của Ngoại Đạo và hơn 500 người theo. Họ dùng tro bôi khắp người. Tiên Vương của nước nầy sùng kính ngoại đạo, sau gặp một vị A La Hán và được nghe Pháp, sanh tín tâm. Cho nên trong nước Ấn Độ cũng thuần tín theo vua mà phụng sự Tam Bảo, gần năm nước của Ấn Độ. Nhìn chung rất hỗn tạp, tốt xấu khó phân. Vua sắc lệnh chúng Tăng phải trang nghiêm tinh tấn, đoạn trừ tà niệm, để cho mọi người khởi tâm cung kính ngưỡng mộ. Vị nào phạm giới bị phạt rất nặng. Ngài trùng tu tất cả Thánh tích. Hoặc Bảo Tháp, hoặc Chùa Viện khắp trong nước Ấn Độ đều như vậy. Từ đây đến phía đông bắc qua động Du Tuấn Lãnh, đường bộ rất nguy hiểm, hơn 700 dặm đến nước Quật Lộ Đa.
4) Nước Quật Lộ Đa, chu vi hơn 3000 dặm, có núi non bao bọc chung quanh. Đô thành rộng hơn 14 dặm rưỡi. Đất đai dùng để cày cấy trồng trọt. Hoa quả tốt tươi. Vì ở gần núi Hy Mã Lạp Sơn cho nên có nhiều dược thảo quý. Nơi đây sản xuất nhiều vàng, bạc, đồng đỏ, lân tinh, đá hoa cương. Khí hậu lạnh lẽo, thường có mưa tuyết. Dáng người thô kệch. Tánh tình cương nghị mạnh mẽ. Có hơn 20 ngôi Già Lam, và hơn 1000 Tăng Tín Đồ, đa phần theo Đại Thừa. Một số ít tu học theo các bộ phái khác. Có hơn 15 ngôi Đền Thờ ngoại đạo, lẫn lộn với nhau. Hầu hết những tường Đền Thờ nầy nằm sát núi, có nhiều phòng đá.
Những vị A La Hán thường trú nơi đây. Các vị tiên nhân cũng dừng chân đến. Có một ngôi Bảo Tháp tại Trung Tâm do Vua A Dục xây dựng. Ngày xưa, Như Lai cũng đã từng đến nước nầy thuyết pháp độ sanh. Vẫn còn để lại di tích. Từ đây đi về hướng bắc bằng đường bộ hơn 1890 dặm, vượt qua đèo núi hiểm trở đến được nước Lạt Hộ La. Đi về phía bắc hơn 2000 dặm nữa, dọc đường gió lạnh tuyết bay không thể tránh được đến nước Vị La Sa.
Từ nước Quật Lộ đã đi về phía nam hơn 700 dặm, vượt qua núi lớn cùng sông to, đến nước Thiết Đa Đồ Lô.
5) Nước Thiết Đa Đồ Lô, có chu vi hơn 2000 dặm. Phía tây giáp với sông lớn. Chu vi của Đô Thành 17.8 dặm. Dân chúng sống bằng nghề trồng lúa. Hoa quả tốt tươi. Có nhiều vàng bạc, ngọc trai. Dân chúng ăn mặc phức tạp. Khí hậu nóng, phong tục thuần hoà. Tánh tình của người trên làm việc thiện, người dưới giúp đỡ mọi người. Thuần tín Phật Pháp, tín nguỡng cung kính. Có mười ngôi Già Lam ở chung quanh kinh thành, nhưng vườn tược hoang phế chẳng có bóng dáng một vị Tăng nào cả. Cách thành phía đông nam ba dặm tư, có một ngôi Bảo Tháp cao hơn 200 thước, do Vua A Dục kiến tạo nên. Bên cạnh đó còn có di tích bốn vị Phật quá khứ ngồi và đi kinh hành. Lại từ đây đi sang phía tây nam hơn 800 dặm, đến nước Ba Lý Dạ Đản La.
6) Nước Ba Lý Dạ Đản La, chu vi hơn 3000 dặm. Vương thành 14.5 dặm. Dân chúng sống bằng nghề canh nông, giàu có lúa mạch. Có những loại lúa chỉ trong 60 ngày là thu hoạch được. Nhiều bò và dê, ít hoa quả. Khí hậu nóng nực, phong tục đặc biệt. Họ chẳng thích học nghề, lại cung kính ngoại đạo, thuộc dòng Phệ Xá. Tánh tình hung bạo. Có 8 ngôi Già Lam, hư nát quá nhiều. Tăng đồ cũng ít, lại học theo phái Tiểu Thừa. Có 10 ngôi đền thờ, và hơn ngàn người ngoại đạo. Từ đây đi về hướng đông hơn 500 dặm, đến nước Vị Thố La.
7) Nước Vị Thố La, chu vi hơn 5000 dặm. Chu vi của Đô Thành hơn 20 dặm. Đất đai dùng để trồng trọt là chính. Nhiều nhà trồng xoài thành rừng. Tuy cùng là xoài nhưng có hai loại. Loại nhỏ màu xanh, chín biến thành màu vàng. Loại lớn trước sau vẫn là màu xanh. Nơi đây sản xuất lông thú và vàng bạc. Khí hậu nóng, gió nhiều. Phong tục lành mạnh. Dân chúng siêng tu phước, sùng kính bậc phạm hạnh và ham học. Có hơn 20 ngôi Già Lam và hơn 2000 tăng sĩ, tu theo cả hai trường phái Tiểu thừa và Đại thừa. Có 5 ngôi Đền thờ của Ngoại Đạo sống rất tạp nhạp. Có ba Bảo Tháp đều do Vua Asoka kiến lập. Nơi đây còn rất nhiều di tích của bốn vị Phật trong quá khứ. Xá lợi của chư vị Thánh đệ tử của Phật còn lưu giữ tại tháp nầy. Có tháp thờ quý Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Mãn Từ Tử (Punna-Phú Lâu Na), Đa La Ni Tử, Ưu Ba Li, A Nan Đà, La Hầu La, Mạn Thù Thất Lợi, (Văn Thù Sư Lợi) và Tháp thờ chư vị Bồ Tát v.v… . Mỗi năm chư tăng có ba tháng an cư, và hằng tháng có sáu ngày trai. Họ sách tấn nhau tu học rất tốt. Tín Đồ mang đồ cúng đầy đủ, hầu hết từ những nhà buôn. Tuỳ theo chùa chiền trang nghiêm mà tạo nên những tôn tượng đẹp. Ai tu theo A Tỳ Đạt Ma thì cúng dường ngài Xá Lợi Phất, ai tu theo thiền định thì cúng dường ngài Mục Kiền Liên. Ai trì tụng kinh điển thì cúng dường ngài Mãn Từ Tử. Ai tu theo Luật thì thờ ngài Ưu Ba Ly. Còn những vị Tỳ Kheo Ni cúng dường ngài A Nan. Những ai chưa thọ cụ túc thì thờ ngài La Hầu La. Những ai học Đại Thừa thì thờ cúng chư vị Bồ Tát hằng ngày. Các Bảo Tháp cũng được cúng dường tràng phan, bảo cái, linh, lọng, hương hoa, đều rải như mưa. Ngày đêm chấn động không cùng. Quốc Vương đại thần lấy việc tu thiện làm chính. Từ thành phía đông đi hơn 6 dặm rưỡi đến một chùa trong núi, lấy vách đá làm phòng, lấy hang làm cửa. Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta-Cận Hộ) đã xây dựng chùa nầy, trong đó có Bảo Tháp thờ móng tay của đức Như Lai.
Có một ngôi Già Lam ở phía bắc nằm trong núi có nhiều phòng bằng đá cao hơn 20 thước, chiều dài hơn 30 thước. Cứ bốn tấc có một tấm thẻ làm dấu nơi ngài Ưu Ba Cúc Đa đã thuyết pháp và hoá độ một đôi vợ chồng. Họ đã chứng quả A La Hán. Cứ cách một thẻ, thì có những phòng khác biệt có cắm cờ mà không ghi gì cả.
Từ phòng bằng đá ở phía đông nam cách hơn 24 dặm rưỡi, có một hồ lớn. Bên cạnh hồ có một Bảo Tháp, ngày xưa tại đây đức Như Lai đi kinh hành. Lúc bấy giờ có một con khỉ mang mật ong đến cúng Phật. Phật nhận mật ong, đem hoà vào nước cho chung Đại Chúng. Con khỉ ấy rất vui mừng nhảy lên chết tức khắc. Nhờ phước nầy mà tái sanh làm người.
Phía bắc của ao nầy không xa, có một rừng rậm. Bốn vị Phật ở quá khứ cũng lưu lại dấu tích trong khi đi kinh hành ở đây. Nơi đây cũng là nơi nhập định của Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên cùng với 1250 vị Đại A Lán. Có một Bảo Tháp ghi lại tất cả những di tích ấy. Đức Như Lai khi còn tại thế đã đến đây để thuyết Pháp và lưu lại trong rừng cây nầy. Từ đây đi về hướng đông bắc hơn 500 dặm, đến nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La.
8) Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La, chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Đất đai nơi đây dùng để cấy lúa. Khí hậu ôn hoà, phong tục còn nguyên sơ. Nhà cửa phòng ốc cao sang, trang trí thật là xa hoa. Con người thích sống an nhàn dùng ảo thuật để biến hoá. Làm việc ít nhưng thu lợi nhiều, bởi vì hàng hoá đa phần từ các quốc gia khác mang tới. Có ba ngôi Già Lam và hơn 700 Tăng Tín Đồ, hầu hết theo Tiểu Thừa Phật Giáo. Có hơn 100 ngôi đền thờ Ngoại Đạo. Dân chúng đa phần theo ngoại đạo. Chu vi Thành lớn hơn 200 dặm. Đây là đất lành. Nghe những bậc cổ đức cho biết rằng ngày xưa ở Ấn Độ có năm nước chia cho hai vua cai trị. Hai bên chiến tranh nhưng không phân thắng bại. Cả hai bên đều có âm mưu muốn chiếm đoạt bằng vũ lực. Muốn chinh phục thiên hạ mà quên đi phong tục cho nên người dân oán hờn không tuân theo mệnh lệnh của Vua. Còn Vua vì dân chúng mà khó toan tính như ban đầu. Thần có thể ở nơi động vật và quyền bính có thể ở nơi lập công.
Lúc bấy giờ, có một Phạm Chí trí dũng tài cao, mật sai cho bó lúa rồi bảo đem vào sân sau, làm những thư pháp để tàng chứa trong động núi. Năm tháng trôi qua cây đã cong héo. Nhà vua một hôm vào buổi sáng khi ngồi bảo cho các quần thần biết rằng:
– Ta bây giờ không còn đức độ để ở địa vị nầy nên trời đã báo mộng và sắc chiếu thư đang giấu trong núi. Nay hạ lệnh vào trong núi tìm kiếm thư ấy. Các quan phải báo cho dân chúng biết. Ngoài ra cũng nên cho mọi người xa gần biết được đại ý rằng:
– Phàm biển sanh tử không có bờ bến, còn sự trôi nổi thì lại không cùng. Bất luận loài nào, người nào cũng không phải tự nhiên mà sanh. Nay ta muốn gửi mệnh lệnh nầy để được lìa xa các khổ ải.
– Vương thành nầy phải xây dựng cách đây 200 dặm, chính tiên đế cũng đã tiên đoán nơi đó là đất tạo ra phước đức. Dù có ghi lại nhưng thời gian đã hủy diệt. Sanh linh không biết nên chìm đắm trong biển khổ. Thế mà chẳng cầu cứu thì làm sao được ư.
– Các ngươi biết rằng những loài hàm thức gặp nạn binh đao mà chết sanh lại làm người. Giết nhiều không tội mà còn nhận được phước báo của trời. Thuận cho con cháu giữ gìn kinh điển quí báu ngày xưa để đem đến đất này tạo nên phước đức vô cùng. Công ít mà phước thì nhiều, có gì gọi là thất lợi.
– Một khi mất thân nầy, đọa vào ba đường khổ, làm sao các loài hàm linh có thể tu hành được, mà những người nầy đều là những chiến binh, đã thấy việc chết rồi quay trở về.
Vua ra lệnh chiêu mộ các bậc dũng sĩ cả hai nước đều giao chiến. Hai bên chiến đấu người chết như rạ. Cho đến bây giờ, mới thật sợ hãi mà xương cốt đã chất cao, nên nước có tục lệ tương truyền rằng đó là phước địa.
Thành phía Tây bắc cách bốn dặm rưỡi, có một Bảo Tháp cao hơn 400 thước do Vua A Dục xây. Tháp có màu vàng màu đỏ, chiếu ra ánh sáng thanh tịnh, trong đó có Xá Lợi của Như Lai khoảng một đấu, thỉnh thoảng phát ra ánh sáng rực rỡ.
Thành phía Nam đi hơn 100 dặm, đến Chùa Cụ Hôn Trà đứng trơ trọi. Chùa Viện nằm san sát nhau nhưng trơ trọi. Tăng chúng rất thanh tịnh, uy nghiêm và nhàn nhã. Từ phía đông bắc nầy đi hơn 400 dặm đến nước Tốt Lục Cần Na.
9) Nước Tốt Lục Cần Na, chu vi sáu ngàn dặm. Phía đông giáp sông Hằng. Phía bắc giáp núi cao và giữa có sông Các Mâu Na. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm, Phía đông sông Các Mâu Na, phần nhiều còn hoang vu ít ai đặt chân đến. Đất đai phong thổ tốt tươi như nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La. Tánh tình dân chúng thuần hậu chất phác. Họ tin theo Ngoại Đạo, tu Phước và Huệ. Có năm ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Tiểu Thừa thuộc Tiểu Tập Du Bộ. Thường nghiên cứu huyền nghĩa của Luận và tìm cầu so sánh với những luận khác. Có hơn 100 ngôi đền nhưng ngoại đạo rất đông. Thành lớn ở phía đông của sông Cát Mâu Na, có một ngôi Bảo Tháp do vua A Dục dựng. Ngày xưa Như Lai đã từng trú ở đây để thuyết pháp độ sanh. Có một ngôi Bảo Tháp nữa, trong đó có thờ tóc và móng tay của Như Lai. Cũng có những tháp nhỏ, thờ tóc và móng tay của ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên và ngài La Hầu La, chung quanh có hơn mười ngôi như thế.
Sau khi đức Như Lai diệt độ rồi, nước nầy vì ngoại đạo lầm lẫn nên bị quở phạt. Họ tin theo tà pháp tổn hại chánh kiến. Hiện tại có năm ngôi Già Lam, nơi mà các luận sư nước ngoài tranh luận cùng ngoại đạo Bà La Môn. Từ phía đông của sông Cát Mâu Na đi hơn 800 dặm nữa, đến sông Hằng. Bình nguyên của sông rộng ba dặm tư. Phía đông nam chảy vào biển rộng hơn 10 dặm. Nước màu lóng lánh chảy xiết, nhiều quái vật nhưng không hại. Nơi đây đất cát rất đẹp. Tục lệ ở đây ghi lại rằng đó là nước của Phước Đức. Cho nên ai có tội xuống tắm thì sẽ hết tội. Khi dầm mình xuống đó, tái sanh về cõi Phạm Thiên. Hài cốt người chết nhúng xuống nước sông nầy, hương hồn không bị đoạ vào Ác Thú. Sóng nước đưa thần thức đầu thai. Lúc ấy ở nước Chấp Sư Tử (Tích Lan hiện nay), có Bồ Tát Đề Bà thâm chứng về thật tướng của các pháp tánh, buồn thương cho những kẻ ngu muội đã đến đây bị ngoại đạo dụ dỗ, bảo đàn bà và thiếu nữ tập họp lại thành đoàn từ nơi bờ sông làm cho nổi sóng nước. Bồ Tát Đề Bà dùng ánh sáng kéo đầu họ lại cho nên ngoại đạo bảo rằng:
– Ta khác họ cái gì?
Bồ Tát đáp:
– Cha mẹ tôi và thân tộc đang ở tại nước Chấp Sư Tử sợ khổ não đói khát cho nên mới đi xa.
Ngoại Đạo nói:
– Ta có gì sai đâu? chưa hề quên đi việc làm đấy. Đất nước của Ta có sông rộng có núi cao tạo nên nước nầy chung quy để cứu mọi người khỏi đói khổ. Đến nơi nầy để tìm cầu như trước. Chẳng nghe như thế sao?
Bồ Tát Đề Bà đáp:
– Làm sao nước sông và núi kia cứu được tội lỗi chất chồng?
Thời bấy giờ ngoại đạo nghe xong cảm tạ cúi đầu thuận quy Chánh Pháp. Sau khi hối cải, nguyện phụng trì Chánh Pháp. Sau khi qua sông ở bờ phía đông đến nước Châu Đệ Bổ La.
10) Nước Châu Đệ Bổ La, chu vi 6000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 20 dặm. Dân chúng chuyên về trồng lúa mạch, có nhiều hoa quả. Khí hậu ôn hoà. Gió mưa đều đặn. Họ tôn sùng học thuật, tin sâu tà chú. Cả chánh lẫn tà họ tin như nhau. Nhà Vua thuộc dòng Tuất Đạt La chẳng hề tin kính Phật Pháp mà tin Phạm Thiên. Có mười ngôi Già Lam, và hơn 800 Tăng Sĩ. Đa phần tu theo Đại Thừa Giáo của Bộ Phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Có hơn 50 ngôi đền thờ, ngoại đạo sống tạp nhạp với nhau.
Thành lớn phía nam đi hơn bốn dặm rưỡi, đến một Già Lam nhỏ. Có hơn 50 Tăng Sĩ. Ngày xưa luận sư Cù Noa Bác Tà Bà (Đức Quang) cũng ở tại nầy soạn ra Bàng Chơn Đẳng Luận. Trong hơn một trăm bộ phái, luận sư thuộc phái Tiểu Thừa nhưng là người thông minh, tài giỏi, mẫn tiệp, học nhiều, hiểu rộng và còn uyên bác cả Giáo Lý Đại Thừa nữa. Vì đọc Tỳ Bà Sa, nên Ngài tu theo Tiểu Thừa và sáng tác hơn mười bộ luận, trở thành người chấp trước Tiểu thừa, phản đối giáo nghĩa Đại Thừa. Ngài còn soạn hơn mười bộ Tục Thơ. Nhưng luận chứng của Ngài không bài xích những bậc tiền bối mà tư tưởng Giáo nghĩa Phật lý rất uyên áo, đến hơn mười thể loại, không thể diễn nói hết. Ngài còn nghiên tầm những tinh tuý và những nghi vấn đã từ lâu chưa giải quyết được.
Lúc ấy vì có Đề Bà Tê Na (Thiên Quân A La Hán) thường lên xuống cõi trời Đâu Suất, gặp đức Di Lặc để thỉnh hỏi điều nghi, cho nên Ngài cũng dùng thần lực lên đó, cầu gặp đức Di Lặc. Thấy đức Di Lặc từ xa nhưng ngài không vái chào. Rồi lại nghĩ rằng đức Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật, sao mình còn tự cao chưa đến kính lễ. Mình muốn thọ giáo mà lại không chịu kính phục. Ngài Đức Quang lại nghĩ rằng Tôn giả thường có những lời nói thành thật làm kim chỉ nam, nhưng mình là những đệ tử xuất gia đã thọ giới Cụ túc làm Tỳ Kheo. Còn ngài Bồ Tát Từ Thị hưởng phước lạc của chư thiên nhưng chưa xuất gia làm tăng lữ. Mình thi lễ e rằng không đúng oai nghi. Bồ Tát biết rõ tâm ngã mạn của ta, và cũng biết chẳng phải là pháp khí. Lên xuống ba lần như thế nhưng chẳng giải quyết được gì. Bèn thỉnh ngài Thiên Quân để lễ. Ngài Thiên Quân biết rằng kẻ kia ngã mạn, nên không đối đáp. Nhưng tâm của ngài Đức Quang chẳng hề thối lui. Giận khởi lên, ngài vào rừng sâu tu tập một thời gian chứng được định tuệ, mới biết rằng ngã mạn chưa trừ chẳng chứng được đạo quả.
Phía bắc của chùa Đức Quang cách ba dặm tư có một Đại Già Lam, có hơn 200 Tăng Sĩ. Họ đều học tập theo phái Tiểu Thừa, ở nơi mà Ngài Chúng Hiền (Sangha Bhadra) luận sư viên tịch. Luận sư là người Ca Thấp Di La, thông minh lanh lợi từ lúc còn thơ, cho nên đặc biệt nghiên cứu sâu Bộ Luận Tỳ Bà Sa của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Khi ấy có Bồ Tát Thế Thân phát tâm xiển dương giáo điển cho thật minh bạch nên soạn A tỳ đạt ma Câu Xá Luận để phá Luận Tỳ Ba Sa với ý nghĩa thiện xảo, lý lẽ thanh cao. Bộ Luận nầy làm cho ngài Chúng Hiền xem qua lưu ý và phát tâm bỏ ra 12 năm nghiên cứu và soạn Câu Xá Bạt Luận, có 25 ngàn bài tụng và hơn 800 ngàn lời. Ngôn ngữ thâm sâu cao xa vời vợi. Rồi bảo với môn nhân rằng:
– Ta đem sức tàn mà soạn ra Chánh Luận nầy, để phản bác tư tưởng của ngài Thế Thân, không cho lão già đó một mình nêu danh trên diễn đàn.
Vì vậy ông cho 43 người học trò mang luận văn nầy đi tìm gặp ngài Thế Thân.
Lúc đó đang ở trong thành Xá Yết La thuộc nước Lân Ca nghe tin đồn ngài Chúng Hiền sẽ đến tra vấn, ngài Thế Thân chuẩn bị hành trang. Học trò hoài nghi thưa với Ngài:
– Đại sư là bậc đức cao, hiền triết nổi danh đương thời, học trò xa gần đều kính nể phục tài. Mà bây giờ mới nghe tên Ngài Chúng Hiền đã lo lắng như vậy? Chúng con mạnh lắm.
Ngài Thế Thân nói:
– Ta không biết tránh tên nầy ở đâu. Nhìn cả nước, không có ai lịch lãm như kẻ hậu học Chúng Hiền nầy. Nghe nói biện luận rất lưu loát còn ta đã già rồi không thể luận nữa. Nếu nói một lời sanh ra chấp trước. Nên đưa họ đến miền trung Ấn Độ đối chất với những vị tăng khác, mới biết đúng sai, được mất như thế nào.
Một ngày sau, luận sư Chúng Hiền đến chùa nầy bỗng nhiên thần khí thay đổi. Mang sách ra để trước mặt và vọng nói tạ lỗi ngài Thế Thân rằng sau khi Như Lai diệt độ, vì các đệ tử chấp trước bộ phái và truyền lại các môn học trong phạm vi chuyên môn cho nên có sự khác nhau. Tuy cùng gốc nhưng khác ngọn. Con là người ngu chưa rõ cho nên tiếp tục soạn ra A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận để phá Đại nghĩa của luận sư của Tỳ Bà Sa. Chẳng lượng sức mình nên đã nhiều năm nghiên cứu và soạn ra luận nầy để phù trợ cho việc học chánh đáng. Sự hiểu biết thì ít, còn tham vọng thì nhiều, trong khi cái chết gần kề. Trong khi đó, những gì Bồ Tát tuyên dương thật chí lý, chẳng chấp vào có được của di văn, là điều hân hạnh lắm có chết cũng chẳng hối hận.
Các môn nhân cũng xin từ biệt mà thưa rằng:
– Chúng con là kẻ hậu học mà khinh chê bậc tiền bối, thì số phận ra sao?
Nay các người vì ta mang luận nầy và thư nầy đến thay ta sám hối với Bồ Tát. Họ nhận lãnh xong rồi ra đi với thư ấy. Khi đến nơi ngài Thế Thân ở thưa rằng:
– Thầy của chúng con là Chúng Hiền đã xả thọ mạng và có dạy rằng mang thư nầy đến để tạ lỗi, chẳng bỏ sót tên tuổi mà cũng chẳng quên. Bồ Tát Thế Thân xem xong luận rồi trầm ngâm một hồi lâu mà nói với môn nhân rằng:
Luận sư Chúng Hiền là người hậu học nhưng rất thông minh, lý luận tuy chưa đủ nhưng chữ nghĩa thì có dư. Nay ta muốn bài bác Luận nầy của Chúng Hiền chỉ rõ cho minh bạch cho đến chết cũng chưa xong. Quả thật là lời rất khó, huống gì nhân duyên nghĩa lớn còn tồn đọng lại sao. Và huống gì luận nầy còn làm rõ tông phái của mình cho nên ta chỉ đổi thành Thuận Chánh Lý Luận là đủ.
Môn nhân mới thưa rằng:
– Thầy chúng con là Chúng Hiền mất chưa bao lâu mà đã được Ngài sửa đổi luận nầy, chúng con rất vui mừng nhận lãnh.
Bồ Tát Thế Thân vì muốn trừ nghi của chúng, nên nói bài kệ rằng :
Như Vua Sư Tử
Heo thấy liền tránh
Hai lực hơn thua
Người Trí nên biết
Sau khi thiêu xong, hài cốt của Ngài Chúng Hiền thờ trong Bảo Tháp cách chùa phía tây bắc hơn 200 dặm trong rừng Ám Một La đến bây giờ vẫn còn tồn tại.
Từ phía rừng Ám Một La lại có một Bảo Tháp, thờ nhục thân của luận sư Tỳ Mạt La Mạt Đa La (Vô cấu Hữu Vimalamitra). Luận sư là người của nước Ca Thấp Di La. Ngài xuất gia với Bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ, hiểu rộng các kinh điển và nghiên cứu các luận khác. Ưa qua năm nước của Ấn Độ để học Tam Tạng giáo điển. Sau khi tu học thành tựu, Ngài trở về lại quê hương của mình. Trên đường về, ghé Bảo Tháp của Ngài Chúng Hiền than rằng:
Nguỡng bạch luận sư, Ngài là bậc thạc đức cao uyên, vì hoằng dương Luận nghĩa, đã tranh biện với bộ phái khác để giữ tôn chỉ của Bộ Phái mình. Sao ngài không sống lâu nữa. Con không sợ mất mác nhưng buồn vì chưa học được gì về những ý nghĩa sai khác để thay thế cho những sự nhớ mong về đức độ. Ngài Thế Thân tuy mất nhưng Tông của ngài vẫn còn truyền, con đã biết nên đã chế ra các Luận làm cho những người học trong cõi Thiệm Bộ Châu này dù theo Đại Thừa không còn nêu tên tuổi của Ngài Thế Thân nữa.
Phát tâm nguyện, đã dụng hết khả năng mà nói lên lời ấy, liền phát cuồng loạn, máu từ năm căn tuôn ra, liền biết mạng sống đã hết.
Cho nên trong thư có lời sám hối rằng:
Phàm là những ai theo Đại Thừa mà nói về Thuyết cứu cánh của Phật Pháp, khi tên gọi không còn nữa lý mới đến chỗ thanh cao. Vì ngu muội mà khinh chê bài xích sự tiến bộ của bậc tiền bối. Khi phước nghiệp đã hết thì thân nầy không còn nữa. Cho nên mọi người học trong hiện tại, phải biết rằng đừng nên sân hận mà phát chí cao sang, và chớ nên hoài nghi.
Lúc ấy đại địa chấn động, thân mệnh liền mất, rơi vào hầm lửa, những người đi chung thiêu xác và tạo tháp miếu để thờ. Lúc bấy giờ có vị A La Hán thấy Tháp Miếu mà than rằng:
Thật là khổ thay thương thay, vị luận sư nầy đã vì sự chấp kiến, có lời nói ác để hủy báng Đại Thừa mà bị đọa vào Vô gián địa ngục.
Phía tây bắc của nước nầy có sông Hằng. Bên cạnh phía đông có thành Ma Cốt La, chu vi hơn 20 dặm. Những người ở đó thường hay giao lưu với nhau chặt chẽ. Nơi đây cũng sản xuất những đá thủy tinh và đồ kim khí tốt. Rời khỏi thành chẳng bao xa, gặp sông Hằng, bên cạnh đó có một đền thờ rất linh hiển, mà ở trong có một cái hồ có bờ đá bao quanh, lấy nước từ sông Hằng vào và là cửa ngõ của năm nước Ấn Độ. Sông nầy tức là sông sanh Phước diệt tội. những người ở xa thường hay đến đây hơn trăm ngàn người để tắm rửa. Các vị vua có tâm từ thường hay tạo những ngôi nhà từ thiện để chứa thuốc men, bố thí chu cấp cho những người cô độc. Từ phía bắc, đi hơn ba trăm dặm, đến nước Bàng La Hấp Ma Phố Ma.
11) Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La, chu vi hơn 4000 dặm, núi non bao bọc bốn bề. Đô thành hơn 20 dặm. Người ở đây cũng như nhà cửa rất giàu có. Đất đai dùng để cày cấy và trồng trọt. Nơi nầy sản xuất đá thủy tinh. Khí hậu ít lạnh, gió mưa điều hòa. Phong tục thuần hậu. Tuy nghề nghiệp nhẹ nhưng nhiều lợi tức. Tánh tình cộc cằn, cả tà lẫn chánh đều tin. Có năm ngôi Già Lam, nhưng ít Tăng Sĩ. Có hơn mười ngôi đền thờ. Ngoại đạo sống chen chúc với nhau. Biên giới phía bắc giáp núi Hy Mã Lạp Sơn. Ở trong đó có nước Tô Phạt Sắc Nô Cô Đản La, nơi đây sản xuất vàng rất nổi tiếng. Đông Tây dài. Nam Bắc hẹp, tức là nước Đông Nữ, chỉ có những người đàn bà trị quốc cũng như làm Vua. Họ chẳng biết chánh sự là gì. Còn đàn ông chỉ lo làm ruộng. Đất đai trồng nhiều lúa mạch, có nhiều gia súc như bò, ngựa. Khí hậu lạnh lẽo. Nhân tình thô bạo. Phía đông giáp với nước Thố Phan, Phía bắc giáp với nước Vu Điền. Phía tây giáp với nước Tam Ba Ha. Từ Vị Đệ Phổ La đi xuống phía Đông Nam hơn 400 dặm gặp nước Cù Tỳ Sương Na.
12) Nước Cù Tỳ Sương Na, chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 14.5 dặm. Dân cư ở nơi đó thuần hậu. Chung quanh bao bọc bởi núi cao. Rừng, núi và hồ ao liên tục với nhau. Khí hậu và đất đai cũng giống như nước Vị Đệ Bổ La. Phong tục thuần chất, thích học hỏi, ưa làm phước. Đa phần tu theo Ngoại Đạo, cầu cho hiện tại được an vui. Có hai ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ, phần lớn tu theo phái Tiểu Thừa. Có hơn 30 ngôi đền thờ. Những ngoại đạo sống chen chúc với nhau.
Có một ngôi Già Lam ở ngoài thành lớn, trong đó có Bảo Tháp, do Vua A Dục xây dựng nên, cao hơn hai trăm thước. Như Lai ngày xưa tại đây, mỗi tháng giảng Pháp một lần. Bên cạnh đó có di tích của bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành. Nơi đây cũng có hai cái Tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai, mỗi tháp cao một trượng. Từ đây đi qua phía đông nam hơn 400 dặm, đến nước Ác Ê Chế Đản La.
13) Nước Ác Ê Chế Đản La, chu vi hơn 3000 dặm. Đô thành 17.8 dặm. Nơi nầy hiểm trở. Họ trồng lúa mạch, có nhiều rừng và suối. Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần chất, ngoan đạo, ham học, nhiều tài biết rộng. Có mười ngôi Già Lam và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo phái Chánh Lượng Bộ, thuộc Tiểu Thừa. Có 9 ngôi đền thờ và hơn 300 ngoại đạo. Họ tu theo Tự Tại Thiên và bôi tro vào mình.
Phía bên ngoài thành, có ao rồng và có một Bảo Tháp, do Vua A Dục xây. Nơi đây ngày xưa Như Lai đã vì Long Vương mà thuyết Pháp 7 ngày. Cạnh bên đó cũng có bốn Bảo Tháp nhỏ, chính là nơi bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. Từ đây qua phía đông đi hơn 267 dặm, qua sông Hằng, đến nước Tỳ La Sắc Noa.
14) Nước Tỳ La Sắc Noa chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 10 dặm. Khí hậu và phong thổ giống nước Ác Ê Chế Đản La. Phong tục mạnh mẽ, con người hiểu biết về nghệ thuật, sùng tín ngoại đạo ít kính tin Phật Pháp. Có hai ngôi Già Lam, và 300 Tăng Sĩ tu theo phái Đại Thừa. Có năm ngôi đền thờ Ngoại Đạo sống hỗn tạp với nhau. Trong thành lớn có chùa và có Bảo Tháp, cao hơn 100 thước, do Vua A Dục dựng lên. Như Lai ngày trước ở tại nơi đây thuyết kinh Uẩn Giới Xứ. Phía nầy lại có di tích của bốn vị Phật trong quá khứ đi kinh hành.
Từ đây qua hướng đông nam, hơn 200 dặm, đến nước Kiết Tỷ Tha.
15) Nước Kiết Tỷ Tha chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành hơn 20 dặm. Khí hậu đất đai cũng như nước Tỳ La Sắc Noa. Phong tục thuần hòa, người người ưa học, có nhiều nghệ thuật. Có bốn ngôi Già Lam và hơn 1000 người tu theo phái Chánh Lượng Bộ thuộc Tiểu Thừa. Có 10 đền thờ. Ngoại đạo thờ Đại Tự Tại Thiên sống hỗn tạp với nhau. Có một ngôi chùa lớn cách thành phía tây hơn 20 dặm, có những bản kinh khắc rất công phu và tôn tượng các vị Thánh cực kỳ trang nghiêm. Có hơn 100 Tăng sĩ tu theo Chánh Lượng Bộ và hơn 10 ngàn tịnh nhơn cư trú nơi đây. Chùa rất lớn, thờ Tam Bảo bên trong và ba bên đông nam bắc đều để trống. Đây là nơi đức Như Lai từ cõi Tam Thập Tam Thiên trở về. Ngày xưa đức Như Lai từ rừng Tự Thắng để vào Thiên cung. Ngài ngự nơi Thiện Pháp Đường thuyết Pháp cho mẹ. Sau ba tháng muốn trở lại trần gian. Nên Thiên Đế Thích mới dùng thần lực kiến tạo một cái thang báu toàn bằng vàng ròng, bên trái bằng thủy tinh, bên phải bằng bạc trắng. Đức Như Lai đã từ Thiện Pháp Đường được chư thiên cung tiễn đến thang lầu. Đại Phạm Vương tay cầm cây phất trần màu trắng đứng chờ ở đầu thang bên phải của thang lầu. Thiên Đế Thích cầm bảo cái bằng thủy tinh đứng chờ ở phía bên phải. Thiên chúng từ hư không rải hoa báu cúng dường và tán thán công đức của Phật. Trăm năm về trước cũng chưa có ai được, và mãi đến bây giờ cũng không cùng tận.
Vua các nước nhớ Ngài cho nên ra lệnh làm một trụ đá quý bằng trân bảo, ghi lại thang báu ngày trước. Trụ nầy cao 70 thước. Bên trên cùng khắc tinh xá, ở giữa khắc tượng Phật. Hai bên phải trái khắc hình Phạm Thiên Đế Thích để ghi nhớ nơi hạ thế của đức Phật. Bên cạnh đó cũng có một trụ đá do Vua A Dục xây cao hơn 70 thước màu sắc trong sáng. Phẩm chất chắc chắn. Bên trên có hình đầu Sư Tử hướng đến cầu thang và khắc những hình tượng khác chung quanh trụ đá nầy. Tùy theo tội phước của mỗi người mà ảnh của mình hiện lên trên trụ đá đó.
Bên cạnh trụ đá không xa, có một Bảo Tháp. Nơi đây ghi lại dấu tích của bốn vị Phật trong quá khứ tọa thiền và kinh hành. nơi Tháp nầy, ngày xưa là nơi của Như Lai tắm rửa. Tháp cũng là nơi Như Lai thiền định. Bên cạnh Tháp có một tảng đá rất lớn dài 50 bước, cao 7 thước. Đây là nơi kinh hành của đức Như Lai, dấu chân của Phật in xuống đó thành hình hoa sen. Hai bên tả hữu đều có những tháp nhỏ do Đế Thích và Phạm Vương kiến tạo nên. Phía trước tháp của Phạm Thiên Đế Thích là nơi mà Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước, nên hóa làm Vua chuyển Luân Vương. Khi Như Lai từ Tự Tại Thiên Cung trở lại Nam Thiệm Bộ Châu. Lúc đó ông Tô Bộ Thị (Thiện Hiện Tu Bồ Đề) đang ở trong động đá suy nghĩ rằng:
Nay Phật từ Thiên Cung trở về, nếu đến đó nghe Phật thuyết Pháp thì sẽ biết được các Pháp Không và Tánh của các Pháp nên dùng Huệ Nhãn để quán Pháp Thân của Phật. Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc muốn thấy Phật trước nên hóa làm Chuyển Luân Vương, có binh lính theo hầu bốn bên, trải đường đi bằng bảy báu, gặp đức Thế Tôn và thưa rằng:
– Con là Tỳ Kheo Ni.
Lúc ấy đức Như Lai bảo rằng:
– Ngươi không phải là người đón ta đầu tiên mà kẻ có duyên ấy là người quán về Pháp Không nên thấy được Pháp Thân ta trước.
Thánh tích nầy rất linh thiêng và được lưu truyền như thế. Phía đông nam của Bảo Tháp có một ao rồng được làm nên để bảo vệ thánh tích, nhằm ngăn chận những ai khinh phạm. Thời gian năm tháng tự tàn hoại. Không ai có thể phá được. Từ đây đi về phía đông nam ít hơn 200 dặm đến nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja).