Hợp Bộ Kinh Kim Quang Minh
Hợp Bộ Kim Quang Minh Kinh
Tùy Bảo Quý Hiệp
Bản Việt dịch của Tuệ Khai
***
BÀI TỰA KINH KIM QUANG MINH HỢP BỘ
Sa môn Thích Ngạn Tông – Chùa Nhật Nghiêm – Thuật
*
Kinh Kim Quang Minh là lời dạy cùng cực, đầy đủ chữ nghĩa, trống vàng đánh trong mơ; lý cực chân không, Bảo tháp vọt lên trên đất. Quả đủ ba thân, đền đáp báo xưa không thiếu; nhân mười địa tròn, hiển hiện túi Kinh đầy đủ. Sở dĩ hiệu Kinh Vương được xưng đến thế thì mới biết người hay khen ngợi rộng! Địa vị ấy khó lường lắm vậy!
Sa môn Thích Bảo Quí ở chùa Đại Hưng Thiện tiếp cận với chân thế Đạo An thần túc, khâm phục sự sáng giỏi, thật đáng gọi là bậc lương tài, học tập nghiên cứu nhiều Kinh, chưa từng hở tay, đáng gọi là thân tử của Cù Đàm, Nhan Uyên của Khổng Thị vậy. Nhưng Quí tôi nhìn thấy Sa môn Chi Mẫn Độ ở triều Tấn xưa hợp hai Chi hai Trúc, năm bản Thủ Lăng Nghiêm của Bạch ngũ gia làm một bộ, phân làm tám quyển. Lại hiệp một Chi, hai Trúc, ba bản Duy Ma của ba nhà làm một bộ, phân làm năm quyển. Nay Sa môn Tăng Tựu lại hiệp hai Sấm, La Thập, Gia Xá, bốn bản đại tập của bốn nhà làm một bộ phân làm sáu mươi quyển. Chẳng phải chỉ gom dòng nhỏ thêm cho biển cả mà cũng là tụ hạt cải, bồi đắp núi cao. Những hiệp Kinh này, văn nghĩa đều sáng rõ đầy đủ. Ấy đã là dấu tích để lại của những bậc tiên triết. Quí tôi liền nương thừa theo và lấy làm qui củ mà thấy có ba bản Kinh Kim Quang Minh: Đầu tiên, tại đời Lương có ngài Đàm Vô Sấm dịch làm bốn quyển, chỉ có mười tám phẩm. Tiếp đến đời Châu, ngài Xà Na Quật Đa dịch làm năm quyển, thành hai mươi phẩm. Sau đến đời Lương, ngài Chân Đế Tam Tạng, ở Kiến Khang dịch bốn phẩm: Tam thân phân biệt, Nghiệp chướng diệt, Đà la ni tối tịnh địa. Y Không mãn nguyện.v.v… tìm ra cái mất bổ túc phần trước phân làm hai mươi hai phẩm. Tuần tự ấy quả thật rằng, pháp sư Đàm Vô Sấm xưng là Kinh Kim Quang Minh, về thiên, phẩm có phần khuyết lậu. Thường lần theo văn mà đoán nghĩa thì cho là lời nói này có chứng cớ nhưng so sánh với các Kinh thì không ổn định. Khi thức, lúc ngủ, Bảo Quí tôi ôm mãi trong lòng và thường than, Kinh này bí mật thâm áo, làm sao phần sau tìm không thấy phẩm Chúc Lụy? Trước tuy ba người dịch mà nghi chưa cùng, mãi tưởng đến Phạm văn, nguyện rằng được gặp.
Đại Tùy ngự ở, Kinh mới liền đến, vua lệnh cho sở, ty tiếp nối nhau phiên dịch, đến năm Khai Hoàng thứ mười bảy, một thời nọ Pháp tịch khuyến thỉnh: Tam Tạng Pháp Sư nước Kiền Đà La của Bắc Thiên Trúc, đây là bậc chí đức, một lần nữa tìm hậu bản thì quả có phẩm Chúc Lụy, lại còn được phẩm Ngân Chủ Đà la ni. Vậy nên biết, nguồn pháp điển phân tán, phái riêng phân nhánh, thừa rót cuối dòng, lý khó toàn đủ. Nhờ Tam Tạng Pháp Sư Tuệ Tĩnh xung minh (sáng hơn người), học nghiệp ưu viễn (cao xa), Kinh luận trong ngoài nhiều chỗ bác thông, ở chùa Đại Hưng Thiện tại kinh đô, liền vì phiên dịch, đồng thời hợp với những phẩm ra trước làm thành hai mươi bốn phẩm, chép làm tám quyển. Học sĩ Phí Trường Phòng ở thành đô chấp bút, Sa môn thông Phạm văn Thích Ngạn Tông chùa Nhật Nghiêm hiệu đính. Ngọc báu đã đủ, mừng rỡ kính sâu, nguyện đèn pháp này truyền kiếp vĩnh viễn.
HỢP BỘ KINH KIM QUANG MINH
PHẨM THỨ NHẤT: TỰ (tựa)
Tôi nghe như vầy, một thuở đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật tại đại thành Vương Xá. Lúc đó đức Như Lai đang du hành ở vô lượng pháp tính thậm thâm, chỗ các đức Phật du hành, vượt hơn sở hành thanh tịnh của các Bồ tát. Đó là Kim Quang Minh, vua của các Kinh. Nếu có người nghe thì có tư duy nghĩa thậm thâm vi diệu vô thượng. Kinh điển như vậy thường được sự hộ trì của bốn đức Phật trong bốn phương. Đó là:
Phương Đông: Phật A Súc
Phương Nam: Phật Bảo Tướng
Phương Tây: Phật Vô Lượng Thọ
Phương Bắc: Phật Vi Diệu Thanh
Ta nay sẽ nói pháp Sám Hối.v.v… việc sinh ra công đức của pháp này là không có gì trên, có thể hoại tan các khổ, diệt hết nghiệp bất thiện.
Nhất thiết chủng trí
Lấy làm gốc căn
Vô lượng công đức
Là cái trang nghiêm.
Diệt trừ các khổ
Cùng vui không lường.
Các căn chẳng đủ
Thọ mạng hao tàn
Bần cùng khốn khổ
Lìa bỏ chư thiên
Gần gũi đấu tụng
Vương pháp gia thêm
Mỗi mỗi tranh giận
Tổn hao của tiền
Lo buồn kinh sợ
Tai (ương) lạ sao hung
Mọi tà cổ đạo (phái sử dụng chất độc)
Biến quái nối liền
Ngủ thấy ác mộng
Ngày thì buồn phiền.
Phải tắm gội sạch
Nghe Kinh này nên
Chí tâm thanh tịnh.
Mặc áo sạch tinh
Chuyên nghe Kinh đó
Chỗ đi thậm thâm
Kinh này uy đức
Có thể làm tan
Những ác như vậy.
Khiến kia (người trì kinh) Niết Bàn (tịch diệt).
Bốn vua Hộ Thế
Đem các thuộc quan
Cùng Dạ xoa chúng
Số nhiều không lường
Đều đến ủng hộ
Người thọ trì kinh.
Thiên thần Đại Biện
Thần sông Ni Liên
Thần quỉ Tử Mẫu
Thần đất chắc bền
Tôn thiền Đại Phạm
Tam Thập Tam Thiên
Vua rồng thần lớn
Khẩn na la vương
Ca Lâu La chúa
A Tu La vương
Cùng quyến thuộc họ
Đều đến đó chung
Ủng hộ người đó
Chẳng rời ngày đêm.
Nay lời ta nói:
Chư Phật Thế Tôn
Thậm thâm bí mật
Vi diệu hành xử (cung cách hành động)
Ức trăm ngàn kiếp
Rất khó được gặp.
Nếu được nghe Kinh
Hoặc vì người nói
Hoặc lòng vui mừng
Hoặc bày cúng dường
Thì người như vậy
Ở kiếp không lường
Thường được chư thiên
Tám bộ chúng kính.
Như vậy tu hành
Thì sinh công đức
Được chẳng nghĩ bàn
Vô lượng phước tụ
Cũng được mười phương
Chư Phật Thế Tôn
Thâm hạnh Bồ tát
Ủng hộ giữ gìn.
Mặc y phục sạch
Dùng thượng diệu hương
Từ tâm cúng dường
Luôn chẳng lìa khỏi
Thân ý sạch trong
Không có cấu bẩn
Hoan hỷ vui mừng
Ưa sâu Kinh đó
Nếu được nghe Kinh
Phải biết sẽ được
Nhân đạo, nhân thân
Và cả chánh mạng.
Sám hối nghe xong
Chấp trì trong lòng
Là căn thượng thiện
Được chư Phật khen.
PHẨM THỨ HAI: THỌ LƯỢNG (Thời lượng sống lâu)
Lúc bấy giờ, trong thành Vương Xá, có vị Đại Bồ tát tên là Tín Tướng, đã từng cúng dường vô lượng ức Nadotha trăm ngàn các đức Phật đời quá khứ và gieo trồng các thiện căn. Vị Bồ tát Tín Tướng này suy nghĩ rằng: “Vì nhân gì, duyên gì mà thọ mạng của đức Thích Ca Như Lai ngắn ngủi chỉ tám mươi năm?”. Ông lại nghĩ rằng: “Như lời đức Phật nói, có hai nhân duyên làm cho thọ mạng được dài. Những gì là hai? – Một là chẳng giết hại, hai là thí thực (cho ăn). Nhưng mà đức Thế Tôn của ta ở trong vô lượng trăm ngàn ức nadotha atăngkỳ kiếp, đã tu giới chẳng giết hại, đầy đủ mười thiện, đồ ăn thức uống ban cho chẳng thể hạn lượng. Thậm chí cả thân mình, xương tủy, máu thịt… làm no đủ sung mãn cho chúng sinh đói khát huống là đồ ăn, thức uống khác?” Vị Đại Sĩ chí tâm nghĩ về đức Phật như vậy. Khi suy nghĩ nghĩa này thì nhà vị ấy tự nhiên rộng lớn ra với những việc trang nghiêm: lưu ly xanh biếc, đủ thứ những báu xen lẫn vào nhau tạo thành đất nơi ấy, giống như nơi ở thanh tịnh của đức Như Lai. Có hương thơm vi diệu hơn cả hương thơm của chư thiên, khói mây buông xuống khắp đầy gian nhà ấy. Bốn mặt của ngôi nhà ấy đều có bốn tòa ngồi cao thượng diệu quí báu tự nhiên xuất hiện, thuần dùng thiên y mà làm đồ trải. Trên tòa ngồi vi diệu này đều có hoa và mọi thứ báu hợp thành làm chỗ ngồi cho các đức Phật. Ở trên hoa sen có bốn đức Như Lai:
Phương Đông hiệu A Súc
Phương Nam hiệu Bảo Tướng
Phương Tây Vô Lượng Thọ
Phương Bắc Vi Diệu Thanh.
Bốn vị Như Lai này tự nhiên mà ngồi trên tòa Sư Tử, phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi thành Vương Xá và ba ngàn đại thiên thế giới này cho đến thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Trời mưa xuống những hoa trời, tấu lên kỹ nhạc nhà trời… Lúc bấy giờ, chúng sinh sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới, nhờ thần lực của đức Phật, hưởng thụ khoái lạc của trời. Những kẻ các căn chẳng đủ liền được đầy đủ… Nói tóm lại, tất cả lợi ích sở hữu của thế gian, những việc chưa từng có đều xuất hiện đầy đủ.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng thấy các đức Phật và những việc hy hữu này vui mừng hớn hở, cung kính chắp tay hướng về các đức Thế Tôn, chí tâm niệm Phật mà suy nghĩ rằng: “Đức Thích Ca Như Lai công đức không lường, chỉ trong sự sống lâu là làm cho lòng sinh nghi hoặc! Sao thọ mạng của đức Như Lai mới có tám mươi năm như vậy?”
Lúc bấy giờ, bốn đức Phật do Chính Biến Tri nên bảo Bồ tát Tín Tướng rằng:
– Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên suy nghĩ về thọ mạng ngắn ngủi của đức Như Lai! Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì chúng ta chẳng thấy chư thiên, người đời, ma chúng, Phạm chúng, Sa môn, Bà la môn, người và chẳng phải người có thể suy nghĩ, tính toán về thời lượng sống lâu của Như Lai và biết giới hạn của sự sống lâu ấy, chỉ trừ chính Như Lai!
Bốn đức Như Lai sắp muốn tuyên nói cặn kẽ việc được thọ mạng của đức Thích Ca Văn Phật thì Chư thiên, rồng, quỉ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già của Dục giới, Sắc giới và vô lượng trăm ngàn ức nadotha Đại Bồ tát, nhờ thần lực của Phật, đều đến tụ tập ở tại nhà của Đại Bồ tát Tín Tướng. Lúc bấy giờ, bốn đức Phật, ở giữa đại chúng, sơ lược dùng kệ dụ nói về thời lượng thọ mạng sở đắc của đức Thích Ca Như Lai mà làm bài tụng rằng:
Nước những biển sông
Có thể tính giọt
Nhưng không thể tính
Thọ mạng Thích Tôn!
Tu Di các núi
Có thể cân lường
Không có thể lượng
Thọ mạng Thích Tôn!
Tất cả đại địa
Biết được bụi trần
Không thể tính toán
Thọ mạng Thích Tôn!
Hư không chia cõi
Còn thể tận biên
Không thể kể hạn
Thọ mạng Thích Tôn!
Không thể tính kiếp
Ức trăm ngàn muôn
Phật thọ như vậy
Vô lượng vô biên!
Do nhân duyên đó
Nên nói hai duyên:
Chẳng hại mạng vật,
Thí ăn không lường
Nên thọ Đại sĩ
Chẳng thể tính lường
Vô biên vô lượng
Giới hạn cũng không.
Vậy nay ông hãy
Với Phật chẳng nên
Sinh lòng nghi hoặc:
Thọ mạng không lường!
(Theo Chân bản năm hàng sau cùng không có)
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Tín Tướng nghe bốn vị Phật này tuyên nói về thọ mạng không lường của đức Như Lai thì thân tâm tín giải vui mừng hớn hở. Khi nói Phẩm Thọ Mạng của Như Lai này thì vô lượng vô biên atăngkỳ chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bốn vị Phật bỗng nhiên biến mất. (Đoạn sau này do ngài Quật Đa dịch bổ sung).
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng ở bên các đức Phật đó nghe nói về thọ mạng của đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rồi, bạch với các đức Phật đó rằng:
– Thưa các đức Thế Tôn! Tại sao đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai kia hiển thị thọ mạng ngắn ngủi như vậy?
Nói như vậy rồi thì các đức Thế Tôn kia bảo Bồ tát Tín Tướng rằng:
– Nhưng khi đức Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở đời ngũ trược thì ở trong cõi đời sống lâu trăm tuổi, đối với chúng sinh tín giải thấp, chúng sinh thiếu căn lành, ngã kiến, chúng sinh kiến, mạng kiến, dưỡng dục phú dà la kiến, tà kiến, ngã, ngã sở, chấp trước.v.v… vì lợi ích các chúng sinh phàm phu và ngoại đạo Ni kiền tử, Ba lê bà xà ca.v.v… nên đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy để thành thục chúng sinh.
Này thiện nam tử! Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai kia hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy mà những chúng sinh cõi đó, nếu biết đức Như Lai vào Niết Bàn rồi thì phát sinh khổ tưởng, hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng, ưu sầu tưởng mà mau chóng sẽ thọ nhận những Kinh điển, sẽ gìn giữ đọc tụng, sẽ chẳng hủy báng. Vậy nên đức Như Lai hiển thị thọ lượng ngắn ngủi như vậy. Những chúng sinh đó, nếu thấy đức Như Lai chẳng vào Niết Bàn thì chẳng sinh ra hy hữu tưởng, ưu sầu tưởng, vị tằng hữu tưởng mà họ sẽ chẳng thọ nhận các Kinh điển đã nói của đức Như Lai cũng sẽ chẳng giữ gìn, đọc tụng. Sở dĩ vì sao? Vì cho là thường thấy vậy. Này thiện nam tử! Ví như có một trượng phu mà cha mẹ có nhiều quả báo tiền tài. Nhưng các con của vị trượng phu đó biết tài tụ rồi thì chẳng sinh hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng. Sở dĩ vì sao? Vì cho là quả báo nhiều vậy. Này thiện nam tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Những chúng sinh đó, nếu biết Như Lai chẳng vào Niết Bàn rồi, chẳng sinh hy hữu tưởng, vị tằng hữu tưởng, nan đắc tưởng. Sở dĩ vì sao? Vì cho là thường thấy. Này thiện nam tử! Ví như có một trượng phu, cha mẹ nghèo cùng có ít quả báo, những người đó, hoặc đến trong nhà của vua và đại thần của vua. Những người đó ở chỗ kia thấy kho lẫm đầy, đủ thứ những báu. Những người đó ở chỗ kia được hy hữu hạnh, được vị tằng hữu tưởng, sẽ sinh ra nan đắc tưởng và cũng vì của cải đó mà cần cù phát sinh ý tinh tấn, muốn được số của cải đó. Sở dĩ vì sao? Vì cho là ít quả báo vậy.
Này thiện nam tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Những chúng sinh kia nếu thấy đức Như Lai đã vào Niết Bàn thì sẽ được việc hy hữu, được việc chưa từng có, sẽ sinh ra khổ tưởng. Vào lúc không lường các đức Phật Thế Tôn mới xuất hiện ở đời, ví như hoa Ưu Đàm Bát La vào lúc không lường mới sẽ xuất hiện ở đời. Đúng vậy! Đúng vậy! Các đức Phật Thế Tôn vào lúc không lường mới sẽ ra đời thì những chúng sinh kia được hạnh hiếm có, được thấy việc chưa từng có nên sẽ được vui sướng. Những người đó thấy đức Như Lai rồi thì sẽ tin tưởng hướng về. Nếu khi nghe lời thật ngữ của đức Như Lai thì sẽ thọ nhận những kinh điển như vậy, sẽ chẳng ganh đua sai trái. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên đức Như Lai trụ thế chẳng lâu, sẽ mau chóng Niết Bàn. Này thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn dùng phương tiện khéo léo như vậy để thành thục chúng sinh.
Lúc ấy, những đức Phật Thế Tôn kia biến mất.
Bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng cùng vô lượng trăm ngàn Bồ tát và vô lượng câu trí nadotha trăm ngàn chúng sinh đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Chánh Biến Tri trong núi Kỳ Xà Quật. Đến nơi rồi, họ đảnh lễ dưới chân đức Phật, lùi về trụ ở một bên. Trụ ở một bên xong, Đại Bồ tát Tín Tướng bạch với đức Phật những việc như đã nói ở trên. Rồi đến những đức Phật Thế Tôn kia, đi tới chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong núi Kỳ Xà Quật. Đến nơi rồi, các vị mỗi mỗi đều theo phương hướng mà ngồi vào từng tòa ngồi của mình. Lúc bấy giờ, các đức Phật Thế Tôn, mỗi mỗi đều bảo Bồ tát thị giả rằng:
– Này thiện nam tử! Ông hãy đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai! Đến nơi rồi, ông vì chúng ta thăm hỏi ngài rằng: “Ngài có ít bệnh, đi đứng nhẹ nhàng, khí lực an vui chăng?” Lại nói tiếp lời này: “Hay thay! Thưa đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai! Hôm nay ngài muốn nói pháp bổn Kim Quang Minh, chúng con sẽ tùy hỷ!”
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ tát đó đi đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Đến nơi họ đảnh lễ dưới chân đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Lễ rồi, lùi về trụ ở một bên, trụ một bên xong, những vị Đại Bồ tát kia bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Bốn đức Phật Thế Tôn ở bốn phương hỏi thăm đức Thế Tôn có ít bệnh, đi đứng có nhẹ nhàng, khí lực có an lạc không?
Rồi những vị Bồ tát đó lại bạch rằng:
– Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin ngài nói pháp bản kinh Kim Quang Minh làm cho các chúng sinh lợi ích an lạc, cho đến trừ diệt đói khát, hiểm nguy.v.v…
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai khen các chúng Bồ tát rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này các thiện nam tử! Các ông mới có thể vì các chúng sinh khuyển thỉnh Như Lai!
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:
Ta chẳng rời khỏi núi (Kỳ Xà Quật)
Kinh báu này nói luôn
Vì thành thục sinh chúng
Thị hiện Bát Niết Bàn
Kiến phàm phu nhiễm trước(Nhận thức của phàm)
Lời ta nói chẳng tin
Những người đó thành thục
Ta hiện Bát Niết Bàn.
Lúc đó, đại hội có người Bà la môn họ Kiều Trần Như tên là Thánh Ký, ở giữa đại chúng, lòng xét nét an tọa, với vô lượng trăm ngàn chúng Bà la môn vây quanh trước sau mà chung cung kính cúng dường đức Như Lai. Nghe thọ mạng của đức Phật Thế Tôn, tám mươi tuổi ứng vào Niết Bàn, ông ấy rơi lệ buồn khóc, cùng với trăm ngàn chúng Bà la môn đều đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu đức Phật Như Lai thương xót lợi ích tất cả chúng sinh mà ngài Đại từ đại bi muốn khiến cho họ đều được đại an lạc thì ngài vì chúng sinh làm cha mẹ chân thật tối thượng vô đẳng và vô đẳng đẳng, vì thế gian làm chỗ qui y che chở hộ trì khiến cho các chúng sinh khoái lạc thanh lương như vầng trăng tròn đầy trong sạch tạo ra ánh sáng lớn, như mặt trời soi rọi đến núi Ưu Đà Diên. Nếu đức Phật Thế Tôn xem chúng sinh bình đẳng như La Hầu La thì nguyện xin đức Phật vì con ban cho một ân đức!
Lúc đó đức Như Lai mặc nhiên chẳng đáp. Ở trong hội này có đồng tử con của vua nước Lật Xa Tỳ tên là Nhất Thiết Chúng Hỷ Kiến, ở giữa đại chúng, đầy đủ biện từ, giỏi hay hỏi đáp. Lúc đó, vương tử thừa thần lực của đức Phật, nói với Bà la môn Kiều Trần Như rằng:
– Thưa Đại Bà la môn! Ngài cầu ân đức gì ở đức Thế Tôn? Ta có thể vì ông thi ân như ý muốn!
Vị Bà la môn nói rằng:
– Hay thay! Thưa vương tử! Chúng tôi nguyện muốn cung kính cúng dường thân của đức Thế Tôn! Vậy nên chúng tôi muốn được xá lợi của đức Như Lai, dù là như hạt cải. Sở dĩ vì sao? Vì theo như tôi nghe, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân cung kính cúng dường xá lợi của đức Như Lai thì làm đế chúa sáu trời, giàu sang an lạc ắt được vô cùng!
Lúc đó vương tử liền đáp rằng:
– Thưa Đại Bà la môn! Ngài hãy một lòng lắng nghe! Nếu ngài muốn nguyện cầu công đức không lường và quả báo sáu trời thì vua của các Kinh Kim Quang Minh này, khó nghĩ khó giải nhưng phước báo không cùng, điều chẳng thể biết của hàng Thanh Văn, Duyên giác. Kinh nay nhiếp trì hết công đức như vậy và vô biên phước báo chẳng thể nghĩ bàn. Tôi nay vì ông lược nói điều đó vậy.
Vị Bà la môn nói rằng:
– Hay thay! Thưa vương tử! Như vậy, Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh công đức vô biên, khó giải, khó giác ngộ… cho đến như Kinh này chẳng thể nghĩ bàn! Những Bà la môn bên cạnh nước của chúng ta đều nói như vầy: “Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhân được xá lợi của đức Phật như hạt cải, đặt trong tháp nhỏ, tạm thời lễ bái cung kính cúng dường thì công đức vô biên. Người này mạng chung làm chủ sáu trời, thọ niềm vui thượng diệu chẳng thể cùng tận”. Ông nay làm sao mà chẳng ưa nguyện cúng dường xá lợi cầu quả báo này vậy? Như vậy, thưa vương tử! Do nhân duyên này, tôi nay theo đức Phật muốn cầu xin một ân huệ!
Lúc đó vương tử liền dùng kệ đáp ông Bà la môn rằng:
Trong dòng sông chảy nhanh
Sinh được hoa Câu vật
Xá lợi thân Thế Tôn
Rốt ráo chẳng thể có.
Giả sử quạ màu hồng
Câu chỉ la hình trắng
Thân chân thật Thế Tôn
Chẳng thể thành Xá lợi,
Giả sử Diêm phù thọ (cây)
Hay sinh trái Đa La
Những cây Khư Thọ La
Chuyển sinh Am la quả
Như Lai vô diệt thân
Chẳng thể sinh Xá lợi.
Giả sử rùa có lông
Khả dĩ dệt quần áo
Chẳng phải dối, Phật thân
Trọn không có Xá lợi
Giả sử chân muỗi mòng
Khả dĩ làm thành quách (lâu)
Như Lai tịch tịnh thân
Không có việc Xá lợi.
Ví con “thủy chí trùng”
Trong miệng sinh răng trắng
Như Lai giải thoát thân
Trọn không trói buộc sắc.
Sừng thỏ làm bậc thềm
Lên đến trời từ đất
Xá lợi mà nghĩ càn (quấy)
Công đức không chỗ đó.
Chuột leo thềm sừng thỏ
Nguyệt thực trừ Tu la
Nương Xá lợi hết hoặc(mê hoặc)
Giải thoát không chỗ ra.
Như con ruồi say rượu
Chẳng thể tạo ổ hang
Với Phật không chánh hạnh
Ba thừa chẳng thể mong
Như lừa chỉ no đủ
Trọn không có kỹ năng
Ca múa khiến người thích
Là nhị thừa phàm tục,
Hay nói và hay làm
Tự, tha không chỗ đó.
Giả sử ngạc cùng quạ (ngạc: Loài chim chân có màn sống trên nước)
Đồng thời đậu một cành (cây)
Hòa hợp nhau ái niệm
Thể Như Lai thật chân
Thân Xá lợi hư vọng
Những điều đó đều không
Như lá Ba la nại
Mưa gió, chẳng thể ngăn
Với Phật khởi hư vọng
Sinh tử chẳng diệt tan.
Như thuyền lớn trên biển
Chở của báu đầy tràn
Sức con gái mới lớn
Nắm giữ, điều nay không!
Pháp thân không bờ cõi
Đất bất tịnh não phiền
Như Lai, chẳng thể nhiếp
Nghĩa ấy cũng như trên (vậy).
Ví như loài chim sẻ
Chẳng thể ngậm Hương Sơn
Phiền não nương pháp thân
Chẳng bị phiền não động.
Như vậy Như Lai thân
Thậm thâm khó nghĩ lường
Nếu chẳng như pháp quán
Sở nguyện khó được thành.
Vị Bà la môn nghe nghĩa này rồi liền dùng kệ đáp vương tử rằng:
Hay thay! Hay thay!
Ông chân Phật tử
Người đại cát tường
Thiện xảo phương tiện
Với lý chẳng động
Chánh ký đã thành
Vương tử nghe tôi
Nay lần lượt nói:
Chỗ nương độ đời
Phật đức khó nghĩ
Cảnh giới Như Lai
Người không thể biết.
Tất cả chư Phật
Chẳng chung cùng người (khác).
Tất cả chư Phật
Tịch tịnh xưa nay
Tất cả chư Phật
Tu hành như nhau.
Tất cả chư Phật
Thường trụ đời sau
Tất cả chư Phật
Một thể đồng nhau.
Những nghĩa như vậy
Là pháp Như Lai.
Thân thật Như Lai
Chẳng phải tạo tác
Vì sao như thế?
Vì Phật vô sinh
Kim cương chẳng hoại
Trong ngoài không ngăn (vô ngại)
Thị hiện tướng thân
Theo hóa sinh chúng.
Như Lai Đại tiên
Không có sắc tượng
Như vậy là thân
Chẳng phải máu thịt
Làm sao mà được
Xá lợi đó còn?
Vì hóa sinh chúng
Phương tiện hiện lên
Tất cả chánh giác
Chân pháp là thân.
Pháp giới thanh tịnh
Là Như Lai tên!
Vương tử phải biết
Như vậy Phật thân
Đúng như Phật nói
Nghĩa lý như vậy
Tôi nghe biết rồi.
Vì thỉnh Như Lai
Rộng nói phân biệt
Nghĩa lý chân thật
Xá lợi cầu xin
Mở phương tiện môn!
Lúc đó, ba vạn hai ngàn thiên tử trong hội nghe nói nghĩa thọ lượng thậm thâm như vậy của Như Lai rồi, tất cả đều đối với Đạo Bồ Đề Vô Thượng phát tâm kiên cố, vui mừng hớn hở, khác miệng đồng âm, nói kệ khen rằng:
Tất cả chư Phật
Chẳng Bát Niết Bàn
Tất cả chư Phật
Thân không hoại tan.
Chỉ vì thành thục
Các chúng sinh nên
Phương tiện thắng trí
Thị hiện Niết Bàn
Như Lai đời trước
Chẳng thể nghĩ bàn
Như Lai hậu tế
Thường, không hoại tan
Như Lai trung tế
Đủ thứ nghiêm trang.
Chúng sinh pháp giới
Đều vì lợi tha!
Lúc đó, Bồ tát Tín Tướng theo các đức Như Lai và hai Đại sĩ nghe nói ý nghĩa thọ mạng của đức Thích Ca rồi thì được thỏa mãn sở nguyện, lòng không nghi hoặc, hớn hở vui mừng, thân tâm khoái lạc, trong ngoài cùng khắp.
Bấy giờ có vô lượng atăngkỳ những loài chúng sinh nghe nghĩa này thì đối với đạo Vô thượng, đều được phát tâm. Bốn đức Như Lai bỗng nhiên biến mất, trong đại hội này chỉ còn lại đức Thích Ca Như Lai.
PHẨM THỨ BA: BA THÂN PHÂN BIỆT
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế – Đời Lương
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hư Không Tạng, ở tại trong đại chúng, đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, dùng hoa Kim bảo thượng diệu, tràng phan, bảo cái để cúng dường mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Đối với các đức Như Lai, Đại Bồ tát làm sao theo đúng như chánh pháp
tu hành?
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Suy nghĩ kỹ càng! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Này thiện nam tử! Tất cả Như Lai có ba thứ thân mà Đại Bồ tát đều nên phải biết. Cái gì là ba? Một là hóa thân, hai là ứng thân, ba là pháp thân. Như vậy ba thân nhiếp thọ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Làm sao Bồ tát liễu biệt hóa thân? Này thiện nam tử! Như Lai xưa ở trong vùng đất tu hành, vì tất cả chúng sinh tu đủ thứ pháp. Từ những pháp tu này đến tu hành mãn. Nhờ tu hành lực mà được tự tại. Nhờ lực tự tại nên theo chúng sinh tâm, theo chúng sinh hạnh, theo chúng sinh giới, hiểu rõ phân biệt nhiều thứ, chẳng đời thời, chẳng quá thời mà xứ sở tương ứng, thời gian tương ứng, hành động tương ứng, nói pháp tương ứng hiện đủ thứ thân. Đó gọi là hóa thân.
Này thiện nam tử! Các đức Phật Như Lai này vì các Bồ tát được thông đạt nên nói chân đế. Vì thông đạt sinh tử Niết Bàn một vị, bản thân thấy nỗi kinh sợ niềm mừng vui của chúng sinh. Vì Phật pháp vô biên mà tạo tác căn bản, Như Lai tướng ứng Như Như, nguyện lực trí Như Như. Thân này được hiện đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vầng sáng tròn sau cổ. Đó gọi là ứng thân.
Này thiện nam tử! Làm sao Đại Bồ tát liễu biệt pháp thân? Vì muốn diệt trừ tất cả những chướng phiền não.v.v…, vì muốn đầy đủ tất cả những thiện pháp thì chỉ có Như Như, trí Như Như. Đó gọi là pháp thân. Hai thứ thân trước là giả danh có, thân thứ ba này gọi là chân hữu (có chân thật). Thân này vì hai thân trước tạo tác căn bản. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi pháp Như Như, lìa khỏi trí không phân biệt thì tất cả chư Phật không có trí nào khác. Vì sao vậy? Vì tất cả chư Phật trí tuệ đầy đủ, tất cả phiền não diệt tận rốt ráo, được Phật địa thanh tịnh. Vậy nên pháp Như Như trí Như Như nhiếp lấy tất cả Phật pháp.
Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả chư Phật lợi ích cho mình, cho người đã đến chỗ rốt ráo. Lợi ích của mình tức là pháp Như Như. Lợi ích người khác tức là trí Như Như. Ở chỗ lợi ích mình và người mà được tự tại đủ thứ, vô biên công dụng. Vậy nên phân biệt Phật pháp vô lượng vô biên đủ thứ vậy. Này thiện nam tử! Ví như nương vào suy nghĩ vọng tưởng nói đủ thứ phiền não, nói đủ thứ nghiệp, nói đủ thứ quả báo. Nương như vậy vào pháp Như Như, trí Như Như nói đủ thứ Phật pháp, nói đủ thứ Duyên giác pháp, nói đủ thứ Thanh Văn pháp. Nương vào pháp Như Như, nương vào Như Như trí tất cả Phật pháp được tự tại thành tựu. Đó là điều chẳng thể nghĩ bàn thứ nhất. Ví như vẽ vào chỗ trống không làm đồ trang nghiêm cũng khó nghĩ bàn. Như vậy đối với pháp Như Như và Như Như trí nhiếp lấy, thành tựu Phật pháp cũng khó nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Thế nào là pháp Như Như? Như Như trí? Hai thứ không phân biệt mà được sự tự tại? Này thiện nam tử! Ví như đức Như Lai đã Bát Niết Bàn mà nguyện tự tại nên đủ thứ việc chưa hết nên pháp Như Như như vậy nhờ Như Như trí mà được việc tự tại.
Lại nữa, Đại Bồ tát vào Vô Tâm định nương vào nguyện lực trước, từ thiền định khởi sự. Như vậy hai pháp không có phân biệt, được việc tự tại vậy. Này thiện nam tử! Ví như mặt trời, mặt trăng không có phân biệt, cũng như gương nước (soi) không có phân biệt, ánh sáng cũng không phân biệt, ba thứ hòa hợp nên được có bóng (ảnh). Như vậy pháp Như Như, Như Như trí cũng không phân biệt, do nguyện tự tại nên chúng sinh có cảm mà ứng hóa hai thân như bóng của mặt trời mặt trăng do hòa hợp mà sinh ra. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như vô lượng vô biên gương nước nương vào ánh sáng nên bóng rỗng không, được hiện đủ thứ dị tướng. Rỗng không tức là vô tướng.
Này thiện nam tử! Như vậy mọi người chịu sự giáo hóa, các đệ tử.v.v… chính là hình bóng của pháp thân. Do nguyện lực nên ứng vào hai thân, hiện đủ thứ tướng mạo. Ở pháp thân địa không có dị tướng. Này thiện nam tử! Nương vào hai thân này tất cả chư Phật nói Hữu dư Niết Bàn. Nương vào pháp thân chư Phật nói Vô Dư Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì tất cả cái còn rốt ráo hết vậy. Nương vào ba thân này, tất cả chư Phật nói Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì hai thân nên chẳng trụ Niết Bàn. Lìa khỏi pháp thân không có Phật khác. Vì sao hai thân chẳng trụ Niết Bàn?. Vì hai thân là giả danh chẳng thật, từng niệm từng niệm diệt chẳng trụ, một đôi lúc xuất hiện do bất định vậy, còn pháp thân thì chẳng vậy. Vậy nên hai thân chẳng trụ Niết Bàn. Pháp thân thì chẳng hai nên chẳng trụ ở Bát Niết Bàn. Vậy nên nói nương vào ba thân là Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu vì ba tướng nên có trói buộc, có chướng ngại, xa lìa ba thân, chẳng đi đến với ba thân. Cái gì là ba? Một là tướng tư duy phân biệt, hai là tướng y tha khởi, ba là tướng thành tựu. Như vậy các tướng chẳng thể hiểu, chẳng thể diệt, chẳng thể tịnh nên chẳng được đến với ba thân. Với ba tướng này có thể hiểu, có thể diệt, có thể tịnh nên các đức Phật đầy đủ ba thân. Này thiện nam tử! Những người phàm phu chưa thể bạt trừ được ba tâm nên xa lìa ba thân, chẳng đến với ba thân. Cái gì là ba tâm? Một là khởi sự tâm, hai là y căn bản tâm, ba là căn bản tâm. Nương theo các đạo điều phục thì tâm khởi sự hết, nương theo pháp đoạn đạo thì tâm y căn bản hết, nương theo thắng bạt đạo thì tâm căn bản hết. Tâm khởi sự diệt nên được thân hiển hóa, tâm y căn bản diệt nên được thân hiển ứng, tâm căn bản diệt nên được đến pháp thân. Vậy nên tất cả Như Lai đầy đủ ba thân. Này thiện nam tử! Tất cả chư Phật đối với thân thứ nhất cùng chư Phật đồng sự, đối với thân thứ hai cùng chư Phật đồng ý, đối với thân thứ ba cùng chư Phật đồng thể. Này thiện nam tử! Thân Phật đầu tiên này, theo ý chúng sinh có nhiều thứ nên hiện đủ thứ tướng. Vậy nên nói là nhiều. Thân Phật thứ hai này, theo đệ tử một ý nên hiện một tướng. Vậy nên nói là một. Thân Phật thứ ba này qua khỏi tất cả các thứ tướng, chẳng phải cảnh giới chấp tướng. Vậy nên nói là chẳng một, chẳng hai. Này thiện nam tử! Thân thứ nhất này nương vào ứng thân nên được hiển hiện. Những ứng thân này nương vào pháp thân nên được hiển hiện. Pháp thân này là chân thật hữu, không chỗ nương. Này thiện nam tử! Ba thân như vậy do có nghĩa mà nói đến thường, do có nghĩa nên nói đến vô thường. Hóa thân thì hằng chuyển pháp luân, nơi nơi Như Như phương tiện nối tiếp nhau chẳng đoạn dứt. Vậy nên nói là Thường, chẳng phải là căn bản. Tất cả các dụng chẳng hiện đầy đủ nên nói là vô thường. Ứng thân thì từ vô thỉ sinh tử nối tiếp nhau chẳng dứt đoạn, pháp bất cộng của tất cả chư Phật có thể nhiếp trì, chúng sinh chưa hết thì công dụng cũng chẳng tận. Vậy nên nói là thường, chẳng phải là căn bản. Do dụng đầy đủ chẳng hiển hiện nên nói là vô thường. Pháp thân thì chẳng phải là hành pháp, không có khác và khác, là từ căn bản nên giống như hư không. Vậy nên nói là thường. Này thiện nam tử! Lìa vô phân biệt trí lại Vô Thắng trí, lìa pháp Như Như, cảnh giới vô thắng là pháp Như Như, là Như Như trí. Hai thứ Như Như này Như Như chẳng một, chẳng khác. Vậy nên pháp thân là tuệ thanh tịnh, là diệt thanh tịnh. Do hai thanh tịnh này nên pháp thân đầy đủ thanh tịnh. Lại nữa, này thiện nam tử! Phân biệt có bốn thứ thân: Có hóa thân chẳng phải ứng thân, có ứng thân chẳng phải hóa thân, có hóa thân cũng là ứng thân, có chẳng phải hóa thân cũng chẳng phải ứng thân. Hóa thân nào chẳng phải ứng thân? Như Lai đã Bát Niết Bàn nhưng do nguyện tự tại nên để lại thân này. Thân như vậy tức là hóa thân. Ứng thân chẳng phải hóa thân là thân gì? Là thân trước của đất này. Hóa thân cũng là ứng thân là thân gì? Là thân Như Lai trụ ở Hữu Dư Niết Bàn. Chẳng phải hóa thân chẳng phải ứng thân là thân gì? Là pháp thân của Như Lai.
Này thiện nam tử! Pháp thân này là hai Vô sở hữu hiển hiện. Những gì gọi là hai vô sở hữu? Đối với pháp thân này thì tướng và tướng xứ cả hai đều không, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng phải số chẳng phải phi số, chẳng phải sáng chẳng phải tối. Như vậy trí Như Như chẳng thấy tướng và tướng xứ, chẳng thấy chẳng phải có chẳng phải không, chẳng thấy chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng thấy chẳng phải số chẳng phải phi số, chẳng thấy chẳng phải sáng chẳng phải tối. Vậy nên cảnh giới thanh tịnh, trí tuệ thanh tịnh, chẳng thể phân biệt không, có và trung gian, chính là căn bản của Diệt đạo. Ở pháp thân này hiển hiện Như Lai. Này thiện nam tử! Quả báo, xứ sở, cảnh giới, nhân duyên của thân này mà nương vào gốc (căn bản) thì khó suy nghĩ đo lường. Nếu đứng về liễu nghĩa mà nói thì thân này tức là Đại thừa, là Như Lai tính, là Như Lai tạng. Nương vào thân này được phát tâm ban đầu, tu hành trung tâm mà được hiển hiện, tâm bất thoái địa cũng đều được hiện, tâm nhất sinh bổ xứ, tâm Kim Cương, tâm Như Lai cũng đều hiển hiện, vô lượng vô biên diệu pháp của Như Lai đều hiển hiện. Nương vào pháp thân này thì chẳng thể nghĩ bàn Đại Tam muội được hiển hiện. Nương vào pháp thân này được hiện tất cả Đại Trí. Vậy nên hai thân nương vào tam muội, nương vào trí tuệ mà được hiển hiện. Như pháp thân này nương vào tự thể nói thường, nói thật, nương vào Đại Tam muội nên nói đến lạc, nương vào Đại Trí nên nói thanh tịnh. Vậy nên Như Lai thường trụ, tự tại, an lạc, thanh tịnh. Nương vào Đại Tam muội, tất cả thiền định, Thủ Lăng Nghiêm.v.v… tất cả niệm xứ, đại pháp niệm.v.v… Đại từ Đại bi, tất cả Đà la ni, tất cả sáu thần thông, tất cả tự tại, tất cả pháp bình đẳng.v.v… nhiếp thọ thì như vậy Phật pháp đều xuất hiện. Nương vào Đại trí này thì mười lực lớn của Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện, một trăm tám mươi pháp bất cộng, tất cả pháp hy hữu chẳng thể nghĩ bàn đều hiển hiện. Ví như nương vào ngọc báu Như ý phát ra thì vô lượng vô biên đủ thứ những báu đều được hiện. Như vậy nương vào báu Đại Tam muội, nương vào báu Đại Trí Tuệ thì phát ra đủ thứ vô lượng vô biên những báu diệu pháp của Phật. Này thiện nam tử! Như vậy trí tuệ tam muội của pháp thân qua khỏi tất cả tướng, chẳng chấp trước ở tướng, chẳng thể phân biệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Đó gọi là Trung đạo. Tuy có phân biệt những không có phân biệt thể, tuy có ba số mà không có ba thể, chẳng tăng, chẳng giảm giống như mộng huyễn, cũng không sở chấp, cũng không năng chấp, pháp thể Như Như chính là chỗ giải thoát, qua khỏi cảnh giới tử vương (vua chết), vượt khỏi tối tăm sinh tử, chỗ chẳng thể đến của tất cả chúng sinh chẳng thể tu hành, nơi trú xứ của tất cả các đức Phật Bồ tát. Này thiện nam tử! Ví như có người nguyện muốn được vàng, tìm kiếm khắp nơi nơi, liền thấy quặng vàng. Đã thấy quặng rồi liền phá vỡ quặng, tuyển chọn lấy vàng cho vào bên trong lò luyện, rồi nấu chảy, gạn lọc thì được vàng ròng. Rồi tùy ý trở lại làm thành những vòng, xuyến… đủ thứ đồ trang sức. Tuy nhiều những công dụng nhưng tính vàng chẳng đổi. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu thắng giải thoát, tu hành việc thiện ở đời thì được thấy Như Lai và chúng đệ tử, được gần gũi rồi mà bạch đức Phật rằng: “Thưa đức Thế Tôn! Cái gì là thiện? Cái gì là bất thiện? Cái gì là chính tu hành? Mà được thanh tịnh, lìa khỏi bất tịnh?”. Chư Phật Như Lai và chúng đệ tử suy nghĩ như vầy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân này muốn cầu thanh tịnh, muốn nghe chính pháp!”. Biết như vậy rồi, chư Phật liền nói chính pháp. Thiện nam tử, thiện nữ nhân đó nghe chính pháp rồi thì chính niệm ghi nhớ, giữ gìn, phát tâm tu hành, được tinh tấn lực, phá trừ chướng ngại lười biếng. Phá chướng lười biếng rồi thì diệt trừ tất cả tội chướng. Phá tội chướng rồi thì ở chỗ Bồ tát học phá chướng không tôn trọng. Phá chướng không tôn trọng rồi thì phá tâm trạo hối. Phá tâm trạo hối rồi thì vào được sơ địa. Nương vào sơ địa bứng bỏ chướng lợi ích. Bứng bỏ chướng lợi ích rồi thì được vào Nhị địa. Nương vào Nhị địa phá chướng chẳng bức bách phiền não khốn khổ. Phá chướng này rồi thì vào đến Tam địa. Nương vào Tam địa này phá chướng nhuyến tịnh của tâm. Phá chướng nhuyến tịnh của tâm rồi thì vào đến Tứ địa. Nương vào Tứ địa này phá chướng thiện phương tiện. Phá chướng thiện phương tiện rồi thì vào với Ngũ địa. Nương vào Ngũ địa này phá chướng thấy chân tục. Phá chướng thấy chân tục rồi thì vào với Lục địa. Nương vào Lục địa này phá chướng thấy hành tướng. Phá chướng thấy hành tướng rồi thì vào với Thất địa. Nương vào Thất địa này phá chướng chẳng thấy diệt tướng. Phá chướng chẳng thấy diệt tướng rồi thì vào với Bát địa. Nương vào Bát địa này phá chướng chẳng thấy sinh tướng. Phá chướng chẳng thấy sinh tướng rồi thì vào với Cữu địa. Nương vào Cữu địa này phá chướng Lục thông. Phá chướng lục thông rồi thì vào với Thập địa. Nương vào Thập địa này phá chướng Nhất thiết sở tri. Phá Nhất thiết sở tri chướng rồi thì bạt trừ bản tâm, vào Như Lai địa. Như Lai địa tức là ba thứ thanh tịnh nên được cực thanh tịnh. Những gì là ba? Một là phiền não tịnh, hai là khổ tịnh, ba là tướng tịnh. Ví như có người luyện trị nước vàng nấu chảy, đã đốt, đã đập rồi thì không còn bụi bẩn làm hiển hiện thể của vàng vốn thanh tịnh. Vàng này thanh tịnh chẳng là không có vàng? Ví như thủy giới lắng đọng thanh tịnh không đục bẩn nữa vì hiển bày tính nước thanh tịnh chẳng là không nước? Như vậy pháp thân mà phiền não vốn khởi lên đều thanh tịnh. Phá thân này thanh tịnh chẳng là không thể (hình thể)? Ví như trong không khói, mây, bụi, mù đều đã sạch. Hư không thanh tịnh này chẳng là không hư không? Như vậy tất cả các khổ của pháp thân đều diệt hết nên nói thanh tịnh chẳng là vô thể. Ví như có người trong khi nằm ngủ mơ thấy nước lớn chảy lênh láng thân mình, vận tay động chân, ngược dòng nước mà lên. Do tâm lực chẳng lười biếng thoái lui ấy nên từ bờ này đến được bờ kia. Mơ đã tỉnh rồi chẳng thấy có nước và bờ kia, bờ này. Sinh tử vọng tướng đã diệt hết rồi thì giác ngộ thanh tịnh chẳng là vô giác? Như vậy tất cả vọng tưởng của pháp giới thanh tịnh chẳng lại si
nh ra nên nói là thanh tịnh thì chẳng là vô thể mà nói là thanh tịnh? Lại nữa, này thiện nam tử! Pháp thân này thì, phiền não chướng thanh tịnh nên có thể hiện Ứng thân, nghiệp chướng thanh tịnh nên có thể hiện Hóa thân, Trí chướng thanh tịnh nên có thể hiện Pháp thân. Ví như nương vào hư không sinh ra chớp, nương vào chớp phát ra ánh sáng. Như vậy nương vào Pháp thân nên sinh ra Ứng thân, nương vào Ứng thân nên sinh ra Hóa thân. Vậy nên tính cực thanh tịnh nhiếp thọ Pháp thân, trí tuệ thanh tịnh nhiếp thọ Ứng thân, Tam muội thanh tịnh nhiêp thọ Hóa thân. Ba thanh tịnh này là pháp Như Như, là chẳng khác Như Như, là Nhất vị Như Như, là Giải thoát Như Như, là cứu cánh Như Như. Vậy nên thể của chư Phật là một chẳng khác. Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nói với Như Lai là đại sư của ta thì phải biết thiện nam tử, thiện nữ nhân đó đều biết, đều thấy thân Như Lai không có thân khác. Này thiện nam tử! Vậy nên đối với tất cả cảnh giới chẳng chánh tư duy đều đoạn trừ mà đối với pháp này không có hai tướng không có phân biệt. Việc tu hành của bậc Thánh đối với Như Như không có hai tướng trong pháp tu hành vậy. Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả mọi thứ chướng đều trừ diệt. Như Như tất cả chướng diệt! Đúng vậy! Đúng vậy! Pháp Như Như, Như Như trí rất được thanh tịnh. Như Như pháp giới trí tuệ thanh tịnh. Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả tự tại nhiếp thọ đầy đủ, được tất cả tự tại thì tất cả các chướng đều diệt trừ, tất cả mọi thứ thanh tịnh. Tướng trí Như Như này nếu thấy như vậy thì đó gọi là Thánh Kiến, đó gọi là chân thật thấy Phật. Vì sao vậy? Vì Như Như được thấy Như Như vậy! Vậy nên Như Lai thấy tất cả Như Lai! Vì sao vậy? Vì Thanh Văn, Duyên Giác đã ra khỏi ba cõi, tìm kiếm cảnh giới chân thật nên chẳng thể thấy biết. Sự chẳng thấy biết của thánh nhân như vậy, tất cả phàm phu đều sinh nghi hoặc, phân biệt điên đảo, chẳng thể được độ, ví như con thỏ muốn bơi qua biển cả. Vì sao vậy? Vì chẳng thể thông đạt pháp Như Như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả Như Lai không phân biệt tâm. đối với tất cả pháp được sự thấy đại tự tại vô ngại thanh tịnh trí tuệ, chính là cảnh giới của mình chẳng chung với người khác. Vậy nên ở vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp chẳng tiếc thân mạng có thể làm việc khó làm vì được thân này. Như thân này tối thượng vô tỷ, là chỗ tối thắng, chẳng thể nghĩ bàn, quá giới hạn của lời nói, là nơi tịch tịnh vượt qua tất cả sợ hãi. Này thiện nam tử! Như vậy thấy biết Như Như chẳng sinh, chẳng già, chẳng chết, thọ mạng vô hạn, không có nằm ngủ, không có ăn uống, thân tâm luôn tại định, không có dao động tán loạn. Nếu đối với Như Lai mà khởi lòng tranh tụng thì chẳng thể được thấy Như Lai. Lời nói của Như Lai đều có thể lợi ích, có người lắng nghe đều được ân giải thoát. Nếu có người ác, voi ác, cầm thú ác.v.v… thì chẳng gặp gỡ nhau. Đối với Như Lai mà khởi nghiệp thì quả báo vô biên. Tất cả Như Lai không việc gì không ghi (ký). Tất cả cảnh giới lòng không muốn biết. Sinh tử Niết Bàn không có dị tâm. Lời ký của Như Lai không gì chẳng quyết định. Các đức Phật Như Lai, trong bốn uy nghi không gì chẳng phải trí nhiếp trì! Tất cả các pháp không có gì chẳng làm! Việc nhiếp lấy bằng từ bi không gì chẳng làm! Lợi ích cho tất cả chúng sinh!
Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh Kim Quang Minh này mà lắng nghe, tín giải thì chẳng đọa vào đường địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, a tu la, thường sinh lên cõi người trời chẳng làm hạng hạ liệt, hàng thân cận các đức Phật Như Lai, thính thọ chánh pháp, thường sinh ra ở các đất nước Phật thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì pháp thậm thâm này được vào tai. Thiện nam tử này Như Lai đã thấy, đã thọ ký sẽ được chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thiện nam tử này được pháp thậm thâm như vậy kinh qua tai thì phải biết người đó chẳng bài báng Như Lai, chẳng bài báng chánh pháp, chẳng bài báng thánh tăng, tất cả chúng sinh chưa gieo trồng căn lành khiến cho họ gieo trồng, kẻ đã gieo trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng thành tựu, chúng sinh sở hữu của tất cả thế giới đều có thể tu hành sáu ba la mật.
Lúc đó Bồ tát Hư Không Tạng, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, các thiên chúng.v.v… liền đứng dậy, trật áo vai phải, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu có đất nước mà nơi nơi giảng nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở đất nước ấy có bốn thứ lợi ích. Những gì là bốn? Một là quân chúng của quốc vương cường thịnh, không có các oán địch, lìa khỏi dịch bệnh, thọ mệnh lâu dài, cát tường an lạc, chánh pháp hưng long. Hai là phụ tướng, đại thần không tranh sự ái kính của vua. Ba là Sa môn, Bà la môn và nhân dân trong thôn ấp của đất nước tu hành chánh pháp, nhiều sự lợi ích, tuổi thọ dài lâu, giàu có an vui, đối với những ruộng phước được sửa lập. Bốn là trong ba mùa, bốn đại điều hòa thích hợp, được chư thiên tăng gia thủ hộ, lòng từ bi bình đẳng không gây hại làm tổn thương, khiến cho tất cả chúng sinh thành tâm quy ngưỡng đều tu hành hạnh Bồ Đề. Bốn thứ công đức lợi ích như vậy, chúng con đều sẽ vì chúng sinh làm lợi ích khắp nơi nơi!
Đức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Các ông cần phải như vậy mà tu hành đúng như kinh điển này thì pháp trụ thế lâu dài.
***
PHẨM THỨ TƯ: SÁM HỐI
Lúc bấy giờ, Bồ tát Tín Tướng liền ở đêm ấy mơ thấy chiếc trống vàng hình dáng lớn đẹp. Ánh sáng của trống ấy soi khắp ví như ánh sáng mặt trời. Ở trong ánh sáng lại được thấy mười phương vô lượng vô biên các đức Phật Thế Tôn ngồi trên tòa ngồi lưu ly dưới những cây báu, cùng với vô lượng trăm ngàn quyến thuộc vây quanh vì họ nói pháp. Thấy có một người tợ như Bà la môn dùng dùi đánh trống, phát ra âm thanh lớn. Âm thanh ấy diễn nói kệ tụng Sám Hối. Bồ tát Tín Tướng từ mộng tỉnh ra rồi, chí tâm nhớ nghĩ kệ tụng Sám Hối đã nghe trong mơ. Qua đêm đến sáng, ông ra khỏi thành Vương Xá. Bấy giờ, cũng có vô lượng vô biên trăm ngàn chúng sinh cùng với Bồ tát đều sang núi Kỳ Xà Quật, đến chỗ đức Phật. Đến chỗ đức Phật rồi, ông đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng, lui về ngồi một bên, lòng cung kính chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan, đem những điều thấy trống vàng và kệ Sám Hối trong giấc mơ ấy, hướng về đức Như Lai nói:
Giấc mơ đêm trước
Nhớ giữ hết lòng:
Mơ thấy trống vàng
Diệu sắc rực sáng
Sáng ấy rất thịnh
Sáng hơn mặt trời
Mười phương khắp soi
Hằng sa thế giới
Nhân ánh sáng ấy
Thấy các Như Lai
Ngồi tòa lưu ly
Dưới những cây báu
Đại chúng vô số
Nghe pháp vây quanh.
Thấy Bà la môn
Đang đánh trống vàng
Trong tiếng trống ấy
Nói kệ như vậy.
Diệu âm phát ra
Của trống vàng này
Có thể trừ diệt
Ba đời khổ cực
Địa ngục súc sinh
Ngã quỉ vân vân…
Bần cùng khốn khó
Và các “hữu” khổ.
Trống này hiện ra
Tiếng kêu nhiệm mầu
Hay trừ não hại
Chúng sinh các loại.
Bố úy đoạn tan
Vô cụ được thành
Giống như chư Phật
Vô sở úy được.
Chư Phật thánh nhân
Công đức đã thành
Lìa khỏi sanh tử
Đến bờ Đại Trí.
Như vậy chúng sinh
Công đức được thành
Định và trợ đạo
Giống như biển cả
Trống này hiện lên
Như vậy diệu âm
Khiến chúng sinh được
Phạm âm sâu sắc
Chứng Phật không trên (vô thượng)
Quả Bồ đề tôn
Chuyển pháp vô thượng
Vi diệu thanh tịnh
Trụ thọ (mạng) không lường
Kiếp chẳng nghĩ bàn
Chánh pháp diễn nói
Chúng sinh ích lợi
Hay hại não phiền
Các khổ tiêu tan
Tham, sân, si hoặc
Đều khiến tịch diệt.
Nếu có chúng sinh
Ở Địa ngục thành
Lửa lớn bừng cháy
Thiêu nướng thân ấy
Nếu nghe trống vàng
Tiếng vi diệu vang
Nghe lời trống phát
Liền tìm lễ Phật.
Cũng khiến chúng sinh
Túc mạng biết rành
Trăm, ngàn đời trước
Đến ngàn vạn ức
Chánh niệm giữ lòng
Chư Phật Thế Tôn
Cũng nghe lời nói
Vô thượng vi diệu.
Diệu âm phát sinh
Từ trong trống vàng
Lại khiến sinh chúng
Gặp chư Phật thánh
Tất cả những là
Nghiệp ác lìa xa
Khéo tu vô lượng
Những nghiệp bạch tịnh.
Chư thiên, người đời
Chúng sinh mọi loài
Theo suy nghĩ họ
Nguyện cầu đã có
Như vậy trống vàng
Âm thanh vang lên
Đều khiến có thể
Thành tựu đầy đủ.
Nếu có chúng sinh
Đọa địa ngục thành
Lửa mạnh bừng cháy
Thiêu đốt thân ấy
Không ai đỡ đần
Các nạn chuyển vần…
Khiến những người đó
Đều diệt các khổ.
Nếu có chúng sinh
Bị khổ hoành hành
(Quả) Báo ba đường dữ
Và loài người nữa
Như vậy trống vàng
Âm thanh vang lên
Có thể diệt hết
Tất cả các khổ.
Không nơi về nương
Người cứu cũng không
Ta vì bọn họ
Làm chỗ nương, hộ.
Các đấng Thế Tôn
Nay sẽ chứng biết
Lâu rồi với con
Sinh đại bi tâm
Nơi nơi tại khắp
Mười phương chư Phật
Hiện tại Thế Hùng
Đấng Lưỡng Túc Tôn!
Con vốn tạo tác
Nghiệp ác chẳng lành
Nay sám hối trước
Các đấng Thập Lực!
Chẳng biết hồng ân
Cha mẹ, Thế Tôn
Chẳng rõ thiện pháp
Tạo tác mọi ác,
Tự thị giống dòng
Của cải giàu sang
Tuổi trẻ phóng dật
Làm các hạnh ác,
Lòng nghĩ chẳng lành
Miệng làm nghiệp ác
Theo lòng tạo tác
Chẳng thấy lỗi lầm,
Phàm phu ngu làm
Tối che chẳng biết
Gần gũi bạn ác
Lòng loạn não phiền,
Năm dục nhân duyên
Lòng sinh sân nhuế
Chẳng biết chán chê
Nên làm mọi ác.
Phi thánh(chẳng phải thánh) cận kề
Nhân sinh ganh ghét
Bần cùng nhân duyên
Gian dối làm ác
Hệ thuộc người khác
Thường có kinh hoàng
Tự tại chẳng được
Mà tạo các ác.
Tham dục, sân, si
Nhiễu động lòng kia
Khát ái bức bách
Tạo tác mọi ác.
Nương nơi ăn mặc
Và cả nữ sắc
Các kết não phiền
Tạo tác mọi ác.
Thân miệng ý ác
Ba nghiệp nhóm gom
Như vậy mọi tội
Nay xin Sám Hối!
Hoặc chẳng kính nhường
Phật, Pháp, Thánh tăng
Như vậy các tội
Nay đều Sám Hối!
Hoặc chẳng kính nhường
Duyên Giác Bồ tát
Tội lỗi như trên
Nay xin Sám Hối!
Do vô trí nên
Bài báng pháp chân
Chẳng biết cung kính
Cha mẹ tôn trưởng
Mọi tội như trên
Nay xin Sám Hối!
Ngu hoặc che tối
Kiêu mạn buông lung
Nhân tham, si, sân
Tạo tác các ác
Mọi tội như trên
Nay đều Sám Hối!
Con nay cúng dường
Vô lượng vô biên
Những đức Phật của
Thế giới ba ngàn (đại thiên)!
Con sẽ cứu bạt
Tất cả mười phương
Vô lượng sinh chúng
Chịu các khổ nàn!
Con sẽ an chỉ
Chẳng thể nghĩ bàn
A tăng kỳ chúng
Trụ mười địa yên!
Người đã dừng yên
Trụ ở Thập Địa
Thì khiến đủ đầy
Chính Giác Như Lai!
Vì một sinh chúng
Ức kiếp tu hành
Khiến vô lượng chúng
Biển khổ qua nhanh!
Con sẽ vì hết
Tất cả chúng sinh
Diễn nói biển pháp
Vi diệu thậm thâm
Gọi là Kim Quang
Diệt trừ các ác!
Ngàn kiếp tạo tác
Nghiệp ác nặng nề
Nếu chí tâm mà
Một lần sám hối
Như vậy mọi tội
Đều tận diệt tan.
Ta nay đã nói
Về pháp Sám hối
Kim Quang Minh này
Thanh tịnh vi diệu
Mau chóng diệt ngay
Nghiệp chướng tất cả.
Ta sẽ an chỉ
Thập địa trụ yên
Mười thứ bảo trân
Dùng làm chân cẳng
Thành Phật vô thượng
Công đức quang minh
Khiến các chúng sinh
Qua biển ba hữu.
Chư Phật sở hữu
Pháp tạng thậm thâm
Chẳng thể nghĩ bàn
Vô lượng công đức
Nhất thiết trí thông
Nguyện đều cụ túc
Với trăm ngàn thiền
Giác đạo, lực, căn
Chẳng thể bàn nghĩ
Các Đà la ni
Thế Tôn mười lực
Ta sẽ thành được.
Chư Phật Thế Tôn
Có từ bi lớn
Sẽ chứng lòng thành
Thương nhận hối tâm.
Nếu ta trăm kiếp
Mọi ác tạo nên
Do nhân duyên đó
Sinh đại ưu khổ
Thiếu thốn bần cùng
Buồn rầu kinh sợ
Nghiệp ác bàn hoàn
Khiếp nhược trong lòng
Ở khắp mọi chỗ
Tạm không lạc hoan
Mười phương hiện tại
Đại bi Thế Tôn
Có thể trừ hết
Bố úy chúng sinh.
Nguyện xin thọ con
Thành tâm Sám hối
Khiến con sợ hãi
Đều được tiêu tan.
Nghiệp bẩn phiền não
Sở hữu của con
Nguyện xin hiện tại
Chư Phật Thế Tôn
Dùng Đại bi thủy
Tẩy trừ sạch trơn.
Quá khứ các ác
Nay hối lỗi hết,
Tội hiện tạo nên
Thành tâm phát lộ,
Việc ác chưa làm
Chẳng dám làm nữa,
Nghiệp ác đã làm
Chẳng dám che giấu.
Ba thứ nghiệp thân
Nghiệp miệng có bốn
Ba nghiệp ý làm
Nay đều Sám hối.
Việc làm miệng thân
Và cả ý nghĩ
Mười nghiệp chẳng lành (ác)
Tất cả Sám hối.
Mười ác lìa nhanh
Tu hành mười thiện
Thập Trụ dừng yên
Chứng được mười lực.
Nghiệp ác tạo nên
Đáng chịu ác báo
Nay trước Thế Tôn
Thành tâm Sám hối.
Nếu nước này cùng
Những thế giới khác
Sở hữu pháp lành
Đều đem hồi hướng
Thì con tu hành
Thân miệng ý thiện
Nguyện đời sau thành
Được đạo Vô Thượng!
Nếu tại thế gian(các cõi hữu)
Sáu đường hiểm nạn
Không trí ngu đần
Tạo tác các ác
Nay trước Thế Tôn
Đều xin Sám hối!
Sở hữu thế gian
Sinh tử hiểm nạn
Đủ thứ dâm bôn
Gặp nạn phiền não
Những nạn như trên
Con nay Sám hối!
Nạn khinh tháo tâm
Nạn gần bạn ác
Nạn hiểm thế gian (tam hữu)
Và nạn ba độc
Khó gặp không nàn (nạn)
Khó gặp lúc tốt
Tu đức gian nan
Gặp Phật cũng khó
Những khó như trên
Nay đều Sám hối!
Chư Phật Thế Tôn
Con theo y chỉ
Vậy nên nay con
Kính lễ biển Phật!
Sáng rực sắc vàng
Tu Di không khác
Vậy nên nay con
Đảnh lễ Tối Thắng!
Sắc ấy vô thượng
Giống như vàng ròng
Nhãn mục sạch trong
Như lưu ly biếc.
Công đức uy thần
Danh xưng hiển trước
Đại bi Phật nhật(mặt trời Phật đại bi)
Diệt mọi tối tăm
Thiện tịnh không bẩn
Lìa những bụi ngăn
Phật nhật vô thượng
Sáng soi khắp cùng
Lửa phiền não rực
Khiến lòng nóng bừng
Chỉ Phật trừ được.
Như trăng thanh lương
Ba mươi hai tướng
Tám mươi vẻ đẹp
Trang nghiêm thân ấy
Nhìn ngắm không nhàm (chán).
Công đức lồng lộng
Lưới sáng hiển quang
Ba cõi trụ an
Như nhật chiếu thế (như mặt trời soi thế gian)
Như lưu ly trong
Sạch không tỳ vết
Diệu sắc mênh mông
Chủng loại đều khác
Sắc ấy đỏ hồng
Như nhật mới mọc
Pha lê bạch ngân
Điểm tô lưới sáng
Đủ thứ như trên
Trang nghiêm Phật nhật
Biển cả tử sinh
Ở trong ba hữu
Sóng quét nước tràn
Não loạn lòng con
Vị ấy khổ độc
Rất là thô nhám
Lưới sáng Như Lai
Hay khiến khô hết
Diệu thân đoan nghiêm
Tướng tốt thù đặc
Kim sắc quang minh
Chiếu khắp tất cả
Biển trí mông mênh
Rộng đầy ba cõi
Vậy nên nay con
Cúi đầu kính lễ.
Như nước biển cả
Biết lượng khó khăn
Đại địa vi trần
Chẳng thể xưng kể
Những Tu Di sơn
Khó thể độ lượng
Bờ cõi hư không
Cũng chẳng thể được
Cũng vậy Thế Tôn
Công đức vô lượng,
Mọi người có tâm
Không có thể biết,
Ở kiếp không lưòng
Hết lòng suy nghĩ
Chẳng thể biết thông
Bờ công đức Phật.
Các núi trên đất
Còn có thể lường,
Giọt nước biển cả
Còn thể tính thông.
Công đức chư Phật
Không ai biết được!
Tướng tốt nghiêm trang
Khen ngợi danh xưng
Như vậy công đức
Khiến chúng đều được!
Con do nghiệp lành
Cùng các nhân duyên
Chẳng lâu lai thế (đời sau)
Phật đạo sẽ thành.
Tuyên giảng diệu pháp
Lợi ích chúng sinh
Độ thoát tất cả
Các khổ không lường,
Các ma phục hàng
Và cả quyến thuộc.
Chuyển diệu pháp luân
Vô Thượng thanh tịnh
Trụ thọ (mạng) không lường
Chẳng nghĩ bàn kiếp,
Sung túc chúng sinh
Vị pháp cam lộ.
Con sẽ đầy đủ
Sáu Ba la mật
Giống như chư Phật
Quá khứ đã thành!
Đoạn các phiền não
Trừ tất cả khổ
Diệt hết tham, sân
Và si vân vân…
Chúng con nhớ nghĩ
Túc mạng của mình
Trăm, ngàn kiếp sống
Trăm ngàn ức sinh (đời sống)
Thường phải chí tâm
Chánh niệm chư Phật
Nghe nói pháp chân
Vi diệu Vô thượng.
Con nhân nghiệp lành
Thường gặp chư Phật
Các ác lìa nhanh
Tu các nghiệp thiện.
Tất cả chúng sinh
Thế giới sẵn có
Khổ não không lường
Con sẽ diệt hết!
Nếu có chúng sinh
Các căn hủy hoại
Chẳng được hoàn toàn
Đều khiến đầy đủ.
Thế giới mười phương
Bệnh khổ sẵn có
Thiếu thốn gầy mòn
Không người cứu hộ
Khiến giải thoát liền
Những khổ như vậy,
Thế lực hoàn toàn
Bình phục như cũ.
Nếu phạm phép vương (vua)
Sắp phải chết chém
Sợ hãi không lường
Ưu sầu khổ não
Những người như trên
Đều khiến giải thoát!
Nếu chịu cùm gông
Đánh đập trói buộc
Đủ thứ khốn cùng
Bức thiết lấy thân,
Trăm ngàn vô số
Kinh sợ lo buồn
Đủ thứ nỗi sợ
Nhiễu loạn tấm lòng
Vô lượng khổ não
Như vậy vân vân…
Nguyện khiến tất cả
Được giải thoát liền!
Nếu có sinh chúng
Đói khát nhiễu phiền
Khiến được mọi thứ
Đồ ăn uống ngon!
Người mù được thấy
Điếc nghe rõ ràng
Kẻ câm nói được
Áo kẻ trần truồng
Người nghèo cùng khốn
Liền được bảo tàng
Kho lẫm đầy ắp
Thiếu thốn không còn…
Tất cả đều thọ
Khoái lạc bình an
Thậm chí không có
Một người chịu khổ
Chúng sinh nhìn nhau
Mặt mày hòa nhã
Hình dáng đoan nghiêm
Người ưa gặp gỡ
Lòng nghĩ đến luôn
Việc thiện người khác
No đủ uống ăn
Đầy đủ công đức.
Theo ý chúng sinh
Suy nghĩ mong muốn
Đều nguyện được thành
Đủ thứ kỹ nhạc
Không hầu, đàn tranh( Không hầu tên một thứ đàn)
Cầm, sắt, trống, thổi…
Đủ thứ như trên
Âm thanh vi diệu
Giang hà, trì chiểu ( chiểu:cái ao hình cong)
Suối chảy các dòng (nước)
Hoa vàng cùng khắp
Và hoa Ưu Bát
Theo ý chúng sinh
Nghĩ đến cầu xin
Liền được đủ thứ.
Y phục, uống ăn
Tiền tài trân bảo
Lưu ly, kim ngân
Chân châu, bảo ngọc
Anh lạc lẫn xen
Nguyện cho sinh chúng
Chẳng nghe ác thanh
Thậm chí không có
Điều ác để nhìn.
Nguyện cho sinh chúng
Sắc mạo đẹp xinh
Với nhau mỗi mỗi
Đều ái niệm chung.
Đồ dùng sinh sống
Có của thế gian
Theo sở niệm họ
Khiến đầy đủ liền.
Nguyện cho sinh chúng
Những việc cầu tìm
Mà họ cần đến
Theo niệm được liền!
Cây cối hoa hương
Thường theo thời tiết (Ấn Độ có ba mùa: Tam thời)
Mưa xuống bột hương
Và hương xoa thân
Chúng sinh hưởng thụ
Khoái lạc vui mừng!
Nguyện cho sinh chúng
Thường được cúng dường
Mười phương chư Phật
Nhiều chẳng nghĩ bàn
Diệu pháp vô thượng
Vô cấu sạch trong
Và những Bồ tát
Đại chúng Thanh Văn!
Nguyện cho chúng sinh
Thường được lìa khỏi
Tám nạn ba đường (ác)
Gặp chỗ không nạn
Kính hầu Thế Tôn
Đấng vua Vô Thượng!
Nguyện cho chúng sinh
Thường sống tôn quí
Của báu nhiều thêm
Yên ổn phong lạc
Thượng diệu hình dung
Trang nghiêm thân ấy
Công đức viên thành
Có danh xưng lớn!
Nguyện cho nữ nhân
Đều thành nam tử
Đầy đủ trí thông
Tinh cần chẳng nhác (lười biếng)
Tất cả đều hành
Theo Bồ tát đạo
Gìn lòng tu hành
Sáu Ba la mật
Thường thấy mười phương
Chư Phật không lường
Ngồi dưới cây báu
Trên lưu ly sàn (giường)
Thiền định trụ an
Tự tại khoái lạc
Diễn nói pháp chân
Người nghe ưa thích
Nghiệp ác sở tác
Hiện tại của con
Và đời quá khứ
Mà các hiểm nàn
Đáng được quả ác
Nhưng chẳng vừa lòng
Nguyện xin diệt hết
Khiến không có còn!
Nếu các sinh chúng
Ba “hữu” buộc ràng
Màn lưới sinh tử
Kín mít chắc bền
Nguyện dùng dao trí
Cắt đứt phá tan
Trừ các khổ não
Bồ Đề sớm thành!
Nếu Diêm Phù ấy
Và nhiều địa phương
Vô lượng thế giới
Sở hữu chúng sinh
Đã làm đủ thứ
Công đức diệu lành
Thì con hết lòng
Hoan hỷ theo họ
Do việc này con
Tùy hỷ công đức!
Việc làm nghiệp lành
Của thân miệng ý
Nguyện ở lai thế (đời sau)
Đạo Vô Thượng thành
Được sạch không bẩn
Quả báo cát tường!
Nếu có kính lễ
Khen Thập Lực Tôn
Lòng tin thanh tịnh
Không những nghi võng!
Có thể như trên
Nói lời Sám Hối
Liền được vượt lên
Sáu mươi kiếp tội!
Các thiện nam tử
Và thiện nữ nhân
Các vua Sát lợi
Và Bà la môn…
Nếu có cung kính
Xưng tán Thế Tôn
Chắp tay hướng Phật
Kệ này tán dương
Thì tại nơi sống
Thường biết túc mạng
Đầy đủ các căn
Thanh tịnh đoan nghiêm
Đủ thứ công đức
Đều được viên thành
Tại khắp mọi chỗ
Thường làm quốc vương
Được sự cung kính
Phụ tướng, đại thần
Chẳng phải ở chỗ
Năm, mười Thế Tôn
Gieo trồng công đức
Nghe sám hối pháp,
Mà ở không lường
Trăm ngàn vạn ức
Chỗ Phật Thế Tôn
Gieo trồng thiện căn
Nhiên hậu mới được
Nghe Sám Hối này.
PHẨM THỨ NĂM: NGHIỆP CHƯỚNG DIỆT
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế – Đời Lương
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thiện chánh phân biệt vào đến thâm pháp diệu hữu gọi là Thiền, từ lỗ chân lông phóng ra đủ thứ ánh sáng. Vô lượng trăm ngàn thứ sắc màu đều từ thân phát ra. Nhân bên trong ánh sáng này, tất cả đất nước chư Phật đều hiện ra trong ánh sáng. Đời ác năm trược nhiều như cát sông Hằng mà thí dụ tính toán chẳng thể bì kịp ở mười phương được ánh sáng này soi đến. Những chúng sinh ở các cõi đó đã làm mười ác, nghiệp năm vô gián, bài báng Tam Bảo, bất hiếu với cha mẹ, Sa môn, Bà la môn, khinh mạn tôn trưởng… đáng đọa vào địa ngục, ngã quỉ, súc sinh… nhưng mỗi mỗi đều nhờ ơn ánh sáng đến chỗ họ ở. Những chúng sinh đó thấy ánh sáng ấy rồi thì ứng niệm an lạc. Nhân uy lực của ánh sáng nên các chúng sinh trở nên đoan chính vi diệu, sắc tướng đầy đủ, phước đức trang nghiêm, đều được gần gũi các đức Phật Thế Tôn.
Lúc đó, đại chúng cùng Thiên Đế Thích và Nữ thần sông Hằng đều đến chỗ hội, lui ngồi một bên.
Đến đây, Thiên Đế Thích thừa thần lực của đức Phật, liền đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Làm sao thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tu hành Đại Thừa, nhiếp thọ tất cả chúng sinh? Những nghiệp chướng đó làm sao sám hối mà được giải thoát?
Đức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay tu hành muốn vì vô lượng vô số vô biên chúng sinh, khiến cho họ được thanh tịnh giải thoát an lạc, thương xót chúng sinh! Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh vì nghiệp chướng nên rơi vào nhiều thứ tội, cần phải ngày đêm sáu thời trật áo vai phải, gối phải đặt xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: “Qui mạng đảnh lễ tất cả chư Phật Thế Tôn hiện tại mười phương thế giới đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển pháp luân, chiếu pháp luân, trì pháp luân, mưa xuống Đại pháp vũ, đánh lên trống Đại pháp, thổi loa Đại pháp, phát ra âm thanh vi diệu, dựng Đại pháp tràng, thắp đuốc Đại pháp vì muốn lợi ích an lạc cho chúng sinh, hành pháp thí dỗ dành tiếp dẫn, gánh vác tất cả chúng sinh, vì khiến cho vô lượng vô số chúng sinh được thanh tịnh, được an lạc, vì khiến cho đại chúng được đại quả báo, vì chư thiên, người đời được thanh tịnh. Như vậy Thế Tôn nên đáp ứng sự lễ bái cung kính! Con dùng thân miệng ý đảnh lễ quy y chân thành. Những đức Thế Tôn này dùng chân thật tuệ, dùng chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng biết hết, thấy hết nghiệp thiện ác của tất cả chúng sinh. Con từ vô thỉ theo dòng sinh tử cùng tất cả chúng sinh đã tạo nghiệp chướng, bị sự ràng buộc của tham, sân, si.v.v… khi chưa biết Phật, khi chưa biết Pháp, khi chưa biết Tăng thì chưa biết thiện ác mà vì thân miệng ý bị vô lượng tội. Do lòng ác nên làm chảy máu thân Phật, bài báng chánh pháp, phá hòa hợp Tăng, giết hại A la hán, giết hại cha mẹ, mười pháp bất thiện tự làm, dạy người khác làm, thấy người làm tùy hỷ. Thân ba, miệng bốn, ý ba nghiệp hạnh, đối với các chúng sinh ngang ngược phát sinh sự chê bai, cân đong lừa dối lấy ngụy làm chân, đồ ăn uống bất tịnh đem cho chúng sinh, đối với cha mẹ sở hữu trong sáu đường sinh tử xúc phạm não hại nhau, vật dụng của chùa tháp, vật dụng của thường trụ tăng, vật dụng của tứ phương tăng sinh tâm trộm cắp cướp đoạt mà sử dụng tự tại. Như lời đức Phật nói, dạy bảo về pháp luật thì phân biệt lỗi lầm, học tập xằng bậy. Sư trưởng dạy bày chẳng tùy tùng nhau. Có người hành Thanh Văn, người hành Duyên Giác, người hành Đại thừa thì sinh lòng ưa nhục mạ khiến cho lòng những người tu hành thoái lui, sầu hận. Thấy có người hơn mình liền ôm lòng ganh ghét, pháp thí, tài thí mà sinh ra chướng ngại, vô minh che phủ, tà kiến nghi hoặc, sử ác tăng trưởng, ở chỗ chư Phật mà khởi lời nói ác, pháp nói phi pháp, phi pháp nói là pháp… Những tội như vậy, ngay như chư Phật bằng chân thật tuệ, chân thật nhãn, chân thật chứng minh, chân thật bình đẳng thấy hết biết hết. Phụng thừa đối trước chư Phật sám hối đều phát lồ hết, chẳng dám che dấu, tội chưa làm chẳng dám làm nữa, tội đã làm nay đều sám hối! Nghiệp chướng sở tác đáng đọa vào đường ác, địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, A tu la… sinh chỗ mười hai nạn, nguyện xin nghiệp chướng sở hữu đời nay của con đều diệt trừ hết, đời vị lai chẳng thọ giống như việc tu hành đạo Tam Bồ Đề của những Đại Bồ tát đời quá khứ mà nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối. Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được tiêu trừ, ác đời sau lại chẳng dám làm. Cũng như các Bồ tát đời vị lai tu hạnh Tam Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối. Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa. Cũng như những Đại Bồ tát của thế giới mười phương hiện tại tu hạnh Tam Bồ Đề, nghiệp chướng sở hữu đều đã sám hối. Như nghiệp chướng của con hôm nay cũng xin sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa. Cũng như những Đại Bồ tát ba đời, quá khứ, vị lai, hiện tại, nghiệp chướng như vậy đều xin sám hối. Con cũng như vậy, nghiệp chướng sở hữu nay con cũng xin sám hối, đều phát lộ ra, chẳng dám che dấu, tội đã làm nguyện được trừ diệt, ác đời sau chẳng dám làm nữa”. Vậy nên thiện nam tử, nếu có tội lỗi trong một sát na chẳng được che dấu, huống gì là một ngày, một đêm. Này thiện nam tử! Nếu có người phạm tội mà nguyện được thanh tịnh, ôm lòng xấu hổ, tin vào đời vị lai nhất định có quả báo, sinh lòng rất sợ hãi, như vậy tu hành. Ví như trai gái, như lửa cháy đầu, như lửa cháy áo phải cứu cho mau tắt, lửa nếu chẳng tắt, lòng chẳng được yên! Thiện nam tử này, nếu đã phạm tội thì cũng lại như vậy, liền nên sám hối, khiến cho tội diệt trừ. Đối với tất cả pháp, muốn cầu thanh tịnh, không các chướng ngại thì như vậy sám hối, tội sau này chẳng dám làm nữa. Nếu muốn sinh vào nhà giàu sang, vàng bạc, thóc gạo đầy ắp kho lẫm, phát khởi hạnh Đại thừa cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh vào gia đình hào quí Bà la môn đầy đủ bảy báu cũng nên sám hối diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh vào gia đình đại quý Sát lợi và Chuyển Luân Thánh Vương cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Tứ Thiên Vương cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời thứ Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đâu Suất Đà, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Phạm Phụ, Phạm Tịnh, Đại Phạm cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Thiếu Quang, Vô Lượng Quang, Tịnh Quang cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Thiếu Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Biến Tịnh cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn sinh lên trời Vô Dục, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời A Ca Ni Sấc cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn cầu quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán cũng nên sám hối, trừ diệt nghiệp chướng. Nếu muốn nguyện cầu ba minh, sáu thông, Bồ đề tự tại, Thanh Văn lực, Cứu cánh Thanh Văn Đại Tự Tại, Bích Chi Phật Bồ Đề Tự Tại địa cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Nếu muốn nguyện cầu trí Nhất Thiết trí, Tịnh trí, Bất Tư Nghị trí, Bất Động Trí, Tam Miệu Tam Bồ Đề Chánh Biến trí cũng nên sám hối, diệt trừ nghiệp chướng. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì tất cả các pháp từ nhân duyên sinh. Lời Như Lai đã nói, tướng khác sinh, tướng khác diệt do nhân duyên khác vậy. Lúc đó, các pháp
quá khứ đã diệt đã hết đã chuyển. Như vậy nghiệp chướng không còn sót lại nữa. Các hành pháp đó chưa được hiện sinh mà khiến cho được sinh ra, nghiệp chướng vị lai lại chẳng khởi lên nữa. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì tất cả pháp rỗng không. Như Lai đã nói, cũng không chúng sinh, cũng không người sống lâu (?), cũng không nhân ngã, cũng không sinh diệt, cũng không hành pháp. Này thiện nam tử! Tất cả các pháp đều nương vào gốc. Gốc này cũng chẳng thể nói. Vì sao vậy? Vì quá hơn tất cả tướng vậy. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vào đến chân lý như vậy mà sinh ra tín kính thì đó gọi là không chúng sinh mà có gốc. Do nghĩa này nên nói đến sám hối trừ diệt nghiệp chướng. Này thiện nam tử! Có bốn thứ pháp thành tựu để thiện nam tử, thiện nữ nhân diệt trừ nghiệp chướng, được vĩnh viễn thanh tịnh. Những gì là bốn? Một là chính tâm thành tựu. Hai là nghĩ đến nghĩa kinh thậm thâm chẳng sinh bài báng. Ba là đối với Bồ tát mới phát tâm khởi lên tâm Nhất Thiết trí. Bốn là đối với tất cả chúng sinh khởi lên lòng vô lượng Từ. Nếu có thể thành tựu bốn thứ pháp như vậy mà sám hối thì nghiệp chướng được trừ diệt vĩnh viễn.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Chuyên tâm hộ ba nghiệp
Chẳng bài báng thâm kinh
Tạo tâm Nhất Thiết trí
Nghiệp chướng sạch, từ tâm.
Này thiện nam tử! Lại có bốn thứ nghiệp chướng rất lớn khó có thể thanh tịnh. Những gì là bốn? Một là đối với luật nghi của Bồ tát phạm ác rất nặng. Hai là đối với mười hai bộ kinh Đại Thừa mà lòng sinh ra bài báng. Ba là ở trong tự thân chẳng thể tăng trưởng tất cả thiện căn. Bốn là Tâm tham trước “hữu”.
Lại có bốn pháp đối trị diệt trừ nghiệp chướng. Những gì là bốn? Một là đối với tất cả các đức Như Lai trong thế giới mười phương chí tâm thân cận sám hối tất cả tội.
Hai là vì tất cả chúng sinh trong mười phương mà khuyến thỉnh các đức Phật nói các diệu pháp.
Ba là tùy hỷ công đức thành tựu sở hữu của tất cả chúng sinh trong mười phương.
Bốn là tất cả công đức căn lành sẵn có của mình đều đem hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Khi đó, Thiên Đế Thích bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Làm sao đối với hạnh Đại Thừa mà thiện nam tử, thiện nữ nhân có người hành, có người chẳng hành hạnh ấy? Làm sao mà tùy hỷ được công đức thiện căn của tất cả chúng sinh?
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng nói rằng: “Tất cả chúng sinh của thế giới mười phương tu thí, tu giới, tu định thì con nay đều tùy hỷ!” Do sự tùy hỷ như trước nên tôn thắng khả ái vô thượng vô đẳng đều tùy hỷ. Như vậy sở hữu thiện căn quá khứ vị lai đều tùy hỷ. Ở trong đời hiện tại, công đức phát tâm Bồ Đề sở hữu của Bồ tát sơ phát tâm, đại công đức tụ sở hữu của người hành hạnh Bồ tát hơn trăm đại kiếp, được Vô sanh pháp nhẫn, được bất thoái địa, gom công đức được Nhất sinh bổ xứ… Tất cả công đức như vậy đều dùng tùy hỷ khen ngợi đều như nói trên. Công đức của tất cả Bồ tát quá khứ, vị lai đều tùy hỷ khen ngợi cũng lại như vậy. Hiện tại mười phương thế giới, tất cả chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đã đủ đạo Tam Bồ Đề, vì độ thoát tất cả chúng sinh, chuyển vô thượng pháp luân, làm pháp thí vô ngại, thắp đuốc Đại pháp, đánh lên trống Đại pháp, thổi loa Đại pháp phát ra âm thanh vi diệu, dựng Đại pháp tràng… Tất cả chúng sinh đều nhờ ơn pháp thí đều được no đủ, khuyến hóa chúng sinh đều khiến cho họ tín thọ, vì muốn an lạc cho tất cả chúng sinh, ai niệm tất cả chúng sinh. Tất cả người trời đều nhờ ơn an lạc. Thiện căn công đức của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ tát đều đã tu tập lập thành. Nếu có chúng sinh chưa đủ các công đức như đây thì đều khiến cho họ đầy đủ. Con đều tùy hỷ mà khen ngợi họ. Nói như vậy cũng như sở hữu công đức của chư Phật, Bồ tát và chúng Thanh Văn của ba đời, con đều phát sinh tùy hỷ mà khen ngợi ”. Đúng vậy! Này thiện nam tử! Tùy hỷ có vô lượng vô số công đức tụ! Ví như tất cả chúng sinh sẵn có của ba ngàn đại thiên hằng hà sa số thế giới đều thành A la hán, diệt tất cả các lậu mà có thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn cả đời dùng y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược tứ sự cúng dường thì công đức như vậy chẳng bì kịp tùy hỷ người tu công đức. Vì sao vậy? Vì công đức trước có số có lượng, chẳng nhiếp lấy tất cả các công đức, còn công đức tùy hỷ này không lượng không số, có thể nhiếp lấy tất cả công đức của ba đời. Vậy nên, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn tăng trưởng thiện căn của mình thì nên tùy hỷ người tu công đức như vậy. Nếu có nữ nhân muốn chuyển nữ nhân làm nam thân thì nên phải tùy hỷ người tu công đức như vậy!
Lúc đó, trời Đế Thích bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin ngài vì con lại nói về công đức khuyến thỉnh! Vì con muốn khiến cho Bồ tát vị lai được ánh sáng lớn và Bồ tát hiện tại phát nguyện tu hành.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân cầu nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì phải tu hành đạo Đại thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thì ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: “Đảnh lễ tất cả chư Phật Thế Tôn mười phương hiện đã được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác có thể chuyển pháp luân Vô thượng! Con hôm nay đều đảnh lễ khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân Vô thượng, thắp đèn Đại pháp, giữ gìn đạo lý của pháp, thí pháp vô ngại, thắp đuốc Đại pháp, mưa xuống Đại pháp vũ, đánh trống Đại pháp, thổi tù và Đại pháp phát ra âm thanh vi diệu, dựng Đại pháp tràng vì độ thoát tất cả chúng sinh… đều nói như trên cho đến người trời đều nhờ ơn an lạc”.
Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì nên tu hạnh Đại Thừa Thanh Văn, Duyên Giác! Trong số ấy có người chưa tu hành thì ngày đêm sáu thời, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng một ý, miệng tự nói lên rằng: “Đảnh lễ tất cả chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới muốn bỏ ứng thân vào Niết Bàn thì hôm nay con cúi thỉnh chư Phật chớ Bát Niết Bàn, trụ lâu ở đời, độ thoát, đem an lạc cho tất cả chúng sinh… như đã nói ở trước cho đến người trời đều nhờ ơn mà an lạc! Nay con đem công đức thiện căn khuyến thỉnh này để hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng như công đức sở hữu của các vị Đại Bồ tát quá khứ, vị lai và hiện tại đều hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, con cũng như vậy, tất cả công đức khuyến thỉnh mà con có đều hồi hướng hết về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác!”. Này thiện nam tử! Giả dụ như có thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng thất bảo chứa đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới cúng dường Như Lai. Nếu lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân thì phước công đức khuyến thỉnh ấy hơn phước kia. Vì sao vậy? Vì thiện căn trên đó tức là tài thí, còn công đức khuyến thỉnh tức là pháp thí. Này thiện nam tử! Vả như bảy báu đặt ở ba ngàn đại thiên hằng hà sa số thế giới, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng bảy báu đầy hằng hà sa số thế giới đó mà cúng dường tất cả các đức Phật. Nhưng nếu lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân thì phước ấy hơn phước trên kia. Vì sao vậy? Vì pháp thí ấy có năm thứ việc. Những gì là năm?
Một Pháp thí thì người và ta đều được lợi, còn Tài thí chẳng vậy.
Hai là Pháp thí có thể khiến cho chúng sinh ra khỏi ba cõi, còn Tài thí thì chẳng ra khỏi Dục giới.
Ba là Pháp thí thì lợi ích cho pháp thân, còn Tài thí thì tăng trưởng sắc thân.
Bốn là Pháp thí thì tăng trưởng đến vô cùng, còn Tài thí thì nhất định có cạn kiệt.
Năm là Pháp thí có thể đoạn trừ vô minh, còn Tài thí thì dừng phục lòng tham. Vậy nên, này thiện nam tử! Công đức khuyến thỉnh vô lượng vô số, khó có thể ví dụ. Như thuở xưa khi ta làm hạnh Bồ tát, như ở trước các đức Thế Tôn khuyến thỉnh chuyển Đại Pháp Luân. Do thiện căn này nên tất cả Đế Thích và Đại Phạm Vương khuyến thỉnh ta chuyển Đại Pháp Luân. Thế Tôn thỉnh chuyển Pháp Luân vì độ thoát và đem an lạc cho tất cả chúng sinh và các người, trời. Ta ở thuở xưa, khi làm hạnh Bồ Đề đã khuyến thỉnh Như Lai ở đời lâu dài chớ Bát Niết Bàn. Nương vào công đức này nên ta được mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại biện, đại từ đại bi, được vô lượng vô số pháp bất cộng. Ta đã vào với Vô dư Niết Bàn mà Chánh pháp của ta trụ ở đời lâu dài. Pháp thân của ta thì thanh tịnh vô tỷ với đủ thứ tướng mạo, vô lượng trí tuệ, vô lượng tự tại, vô lượng phước đức khó có thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sinh nhờ ơn sâu từ nhuận mà trăm ngàn vạn ức kiếp nói chẳng thể hết. Vậy nên pháp thân của ta có thể nhiếp tàng tất cả pháp mà tất cả pháp chẳng thể nhiếp tàng pháp thân. Pháp thân thường trụ chẳng rơi vào thường kiến, tuy lại đoạn diệt nhưng chẳng rơi vào đoạn kiến mà phá tan đủ thứ kiến của tất cả chúng sinh, có thể sinh ra tất cả chủng loại chân kiến, có thể cởi bỏ sự trói buộc cùng sự chẳng khác trói buộc của tất cả chúng sinh, có thể gieo trồng những cội rễ thiện của tất cả chúng sinh, có thể thành thục căn lành của tất cả chúng sinh, người đã thành thục thì có thể khiến cho được giải thoát, không tác không động, vô vi tịch mịch, an lạc tự tại, xa lìa rối loạn ồn ào, qua khỏi ba đời có thể thấy ba đời, qua khỏi cảnh giới của Thanh Văn, Duyên Giác, là sự tu hành của Đại địa Bồ tát, tất cả Như Lai đều không khác bản thể. Nhờ lực thiện căn công đức khuyến thỉnh nên pháp thân như vậy hôm nay ta đã được. Vậy nên, này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vì được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà một câu, một kệ do giữ gìn, khuyến hóa và vì người giảng nói thì thiện căn công đức khó có thể hạn lượng, huống gì là khuyến thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân, trụ thế lâu dài chớ vào Niết Bàn?
Lúc đó, trời Đế Thích bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Làm sao thiện nam tử, thiện nữ nhân vì được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà tu hành đạo Đại thừa Thanh Văn Duyên Giác? Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thiện căn công đức thì làm sao đem hết hồi hướng vì trí Nhất Thiết trí?
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì tu hành đạo Đại thừa Thanh Văn Duyên Giác. Nếu có chúng sinh chưa được tu hành thì một ngày một đêm, một lòng một ý, miệng tự nói rằng: “Con từ vô thỉ sinh tử đến nay, thiện căn đã có của con đều đã thành tựu, ở chỗ Tam Bảo hoặc ở chỗ khác… cho đến súc sinh, người chẳng phải người.v.v… cho đến đem một thăng, một nhúm (toát: một đơn vị đo lường ngày xưa) đem bố thí cho tất cả, và dùng lời nói khéo léo hòa giải sự đấu tranh, ba qui y, học giới, tất cả thiện căn công đức đều do sám hối mà được, đều do tùy hỷ mà được, đều do khuyến thỉnh mà được. Những thiện căn đó đặt yên một chỗ rồi nhiếp lấy đồng thời tập hợp xưng lường đều đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh, đã vĩnh viễn xả thí lại không lòng đoạt lấy, giải thoát chẳng nhiếp lấy. Như chư Phật Thế Tôn thấy biết chẳng thể nghĩ lường, trí tuệ của Phật, vô ngại, vô cấu. Tất cả thiện căn công đức như vậy, chư Phật đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh mà chẳng trụ tướng tâm, chẳng xả tướng tâm. Con cũng như vậy, thiện căn công đức đều đem bố thí trở lại cho tất cả chúng sinh. Con nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tay báu phá hư không sinh ra báu thỏa mãn nguyện của chúng sinh. Phú lạc vô tận, phước đức vô tận, diệu pháp vô tận, tự tại vô tận, bốn biện tài vô tận vì được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì được trí Nhất Thiết Trí nên con nay thí cho tất cả chúng sinh thiện căn công đức. từ thiện căn này lại thu hoạch vô lượng tất cả thiện căn, rồi con tập hợp xưng lường đem hết hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhờ thiện căn này nên đều cùng với chúng sinh chung đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, được trí Nhất Thiết Trí. Như đức Đại Bồ tát thuở xưa tu hành đạo Bồ đề thì thiện căn công đức đều hồi hướng vì Nhất Thiết Chủng trí. Con cũng như vậy, thiện căn công đức cũng đều hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và nhân thiện căn này nên cũng cùng với chúng sinh đồng chung cùng một lúc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì được trí Nhất Thiết Trí. Giống như thiện căn công đức của Đại Bồ tát vị lai cũng nên hồi hướng chung cùng với tất cả chúng sinh được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con cũng như vậy, thiện căn công đức sẵn có của con cũng đem hồi hướng… như rộng nói ở trên. Giống như thiện căn công đức của đức Đại Bồ tát hiện tại hồi hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cùng với tất cả chúng sinh chung được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con cũng như vậy, thiện căn công đức sẵn có của con cũng cùng với chúng sinh chung đó… như rộng nói ở trên. Như các đức Phật khác ngồi dưới cây Bồ Đề Đạo Tràng, vô cấu thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trụ ở Pháp tạng vô tận, Đà la ni, Thủ Lăng Nghiêm tam muội, phá ma Ba Tuần và vô lượng binh chúng, nên thấy nên biết nên giác ngộ, nên thông đạt… Tất cả như vậy mà trong một sát na đều soi rõ hết. Rồi vào sau đêm chứng được đạo Cam Lộ, được pháp Cam Lộ. Con cũng như vậy, cùng với tất cả chúng sinh đồng chung thiện căn. Nhờ thiện căn này nên đều được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng được trí Nhất Thiết Trí giống như: đức Phật Vô Lượng Thọ, đức Phật Thắng Quang, đức Phật Diệu Quang – Đức Phật A Súc, đức Phật Công Đức Thiện Quang, đức Phật Sư Tử Quang Minh, đức Phật Bách Quang Minh, đức Phật Võng Quang Minh, đức Phật Bảo Tướng, đức Phật Bảo Viêm, đức Phật Viêm Quang Minh, đức Phật Viêm Thịnh Quang Minh, đức Phật An Cát Thượng Vương, đức Phật Vi Diệu Thanh, đức Phật Diệu Trang Nghiêm, đức Phật Pháp Tràng, đức Phật Thượng Thắng Thân, đức Phật Biến Khả Ái Sắc, đức Phật Quang Minh Biến Chiếu, đức Phật Phạm Tịnh Vương, đức Phật Thượng Tính.
Như vậy các đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai, hiện tại đều thị hiện ứng hóa được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển Vô Thượng Pháp Luân, vì muốn độ thoát, đem an lạc cho tất cả chúng sinh… nói rộng ra như trên. Con cũng vậy, đồng chung với chúng sinh được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển Đại pháp luân… nói rộng ra như trên”. Này thiện nam tử! Nếu ông được Phẩm Diệt Nghiệp Chướng của vua mọi thứ kinh Kim Quang Minh này thì ông phải thọ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì gom được vô lượng vô số công đức rộng lớn. Giống như tất cả chúng sinh sẵn có trong ba ngàn đại thiên thế giới, không có trước sau (cùng một lúc), đều được thành tựu thân người, được thân người rồi, được đạo Duyên Giác. Rồi nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân trọn đời cung kính lễ bái, tứ sự cúng dường từng vị Duyên Giác một. Mỗi mỗi đều cung cấp bảy báu nhiều như núi Tu Di để cúng dường. Như vậy rồi từng vị Duyên Giác một đều vào Niết Bàn, người ấy, khởi dựng tháp bảy báu mà mỗi một tháp đều bằng thất bảo. Những gì là bảy báu? Là: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, mã não, xa cừ, báu xanh vàng.v.v… Những tháp ấy cao rộng mười hai do tuần. Ở chỗ những tháp này dùng những hoa hương tràng phan bảo cái… mỗi một thứ đồ cúng đều dùng để cúng dường. Này thiện nam tử! Ý ông thế nào? Thiện nam tử, thiện nữ nhân đó được phước nhiều lắm không?
– Rất nhiều, thưa đức Thế Tôn!
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Phẩm Diệt Nghiệp Chướng của vua mọi kinh điển Kim Quang Minh vi diệu này, ông phải thọ trì đọc tụng, nhớ nghĩ chẳng quên, vì người khác giải nói rộng rãi thì công đức thiện căn như đã nói trước đối với công đức tụ sở đắc sau của ông trăm phần chẳng bì kịp một! Dù trăm ngàn vạn ức phần tính toán, ví dụ đã chẳng thể bì kịp! Vì sao vậy? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhân đó trụ ở trong Chính hạnh, khuyến thỉnh đấng Chánh Giác Thế Tôn của cõi Phật mười phương chuyển pháp luân Vô Thượng, đều khiến cho Như Lai hoan hỷ khen ngợi. Này thiện nam tử! Như lời ta nói, trong tất cả sự bố thí thì Pháp thí là hơn hết, vậy nên này thiện nam tử! Ở chỗ Tam Bảo thiết lễ cúng dường chẳng thể sánh được! Thọ trì Tam Qui và các giới cấm chẳng thể sánh được! Tam Bảo chẳng rỗng không chẳng thể sánh được! Tam Bảo ba đời của tất cả thế giới mà khuyến thỉnh trụ thế lâu dài chẳng thể so sánh được! Ba đời tất cả thế giới ở vô lượng kiếp, khuyến thỉnh Như Lai nói Chánh pháp thậm thâm, chẳng thể so sánh được! Tất cả chúng sinh của tất cả thế giới tùy sức lực, tùy khả năng, tùy tấm lòng mà ở trong ba thừa khuyên phát tâm Bồ Đề, chẳng thể sánh được! Ba đời chúng sinh của tất cả thế giới đều khiến cho họ không trở ngại, mau chóng được thành tựu công đức đủ đầy, chẳng thể sánh được! Ba đời chúng sinh sẵn có của tất cả thế giới mà khuyên bảo khiến cho họ không ngăn ngại được Tam Bồ Đề, chẳng thể sánh được! Ba đời chúng sinh của tất cả thế giới mà khuyên bảo khiến cho họ ra khỏi bốn đường ác, chẳng thể sánh được! Ba đời chúng sinh của tất cả thế giới mà khuyên bảo khiến cho họ diệt hết nghiệp ác sâu, chẳng thể sánh được! Tất cả khổ não mà khuyên bảo khiến cho họ được giải thoát, chẳng thể so sánh được! Tất cả sợ hãi khốn khổ bức bách mà khuyên bảo khiến cho họ được giải thoát, chẳng thể sánh được! Ở trước chư Phật ba đời, thiện căn công đức sẵn có của tất cả chúng sinh mà khuyên bảo khiến cho họ đều đem tùy hỷ, tự phát nguyện Bồ Đề ba đời, chẳng thể sánh được! Ác hạnh, nhục mạ, đường nghiệp ác diệt trừ, tất cả thiện căn công đức đều nguyện nhiếp trì, sinh sống khắp nơi nơi đều khuyến thỉnh cung kính cúng dường tất cả Tam bảo, khuyến thỉnh khắp đều thanh tịnh phước hạnh, thành tựu viên mãn đạo Tam Bồ Đề, khuyến thỉnh viên mãn đầy đủ sáu Ba la mật, khuyến thỉnh chuyển Pháp Luân Vô Thượng, khuyến thỉnh trụ vô lượng kiếp, nói vô lượng diệu pháp thậm thâm… chẳng thể so sánh được!
Lúc đó, trời Đế Thích, nữ thần, sông Hằng, vô lượng những Phạm vương và Tứ Thiên Vương đứng dậy, đều trật áo vai phải, quì gối phải xuống dất, chắp tay đảnh lễ mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, tất cả được nghe vua của mọi kinh Kim Quang Minh này, nay phải thọ trì đọc tụng, vì người khác giải nói rộng rãi nên phải nương vào pháp này mà trụ. Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì chúng con muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác theo nghĩa này, đủ thứ tướng hạnh Chánh pháp vậy.
Lúc đó, Phạm vương và trời Đế Thích.v.v… đều vân tập đến chỗ nghe pháp, dùng đủ thứ hoa Mạn đà la mà tung lên trên đức Phật. Đất của ba ngàn đại thiên thế giới đều chấn động lớn, tất cả trống trời và các âm nhạc chẳng tấu mà tự kêu lên, phóng ra ánh sáng màu vàng đầy cùng khắp thế giới, phát ra tiếng nói rằng, kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này đem từ ân đến kịp khắp nơi, đủ thứ lợi ích,đủ thứ thiện căn Bồ tát tăng trưởng, diệt trừ các nghiệp chướng.
Đức Phật dạy rằng:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì ta nhớ từ thuở xưa đến đời này với hàng trăm ngàn atăngkỳ kiếp, có đức Bảo Vương Đại Viêm Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri xuất hiện ở đời và trụ ở thế giới những sáu trăm tám mươi ức kiếp. Lần tập hội đầu tiên của ngài với trăm ngàn ức ức vạn chúng đều được A la hán, các lậu đã hết, đủ sáu thần thông, tự tại vô ngại. Lần tập hội thứ hai với chín mươi ngàn ức ức vạn chúng được A la hán, các lậu đều hết, ba minh sáu thông đều được tự tại. Lần tập hội thứ ba với chín mươi tám ngàn ức ức vạn chúng đều được A la hán, ba minh sáu thông tự tại vô ngại. Lúc đó, đức Như Lai Bảo vương Đại Viêm Chiếu cùng với những người trời, Phạm vương, Sa môn, Bà la môn và các nhân dân vì muốn độ thoát đem an lạc cho tất cả nên xuất hiện ở đời. Này thiện nam tử! Ta vào lúc bấy giờ làm thân nữ nhân tên là Phước Bảo Quang Minh. Lần tập hội thứ ba, chỗ ngồi của ta ở hội gần gũi đức Thế Tôn, ta thọ trì đọc tụng kinh Kim Quang Minh này, vì người khác giải nói rộng rãi, được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vậy nên đức Thế Tôn đã vì ta thọ ký rằng: Người con gái Phước Bảo Quang Minh này, ở đời vị lai, sẽ được làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Sau khi xả bỏ thân nữ, từ đó đến nay qua khỏi bốn đường ác, sinh trong cõi trời người, hưởng thụ niềm vui thượng diệu, tám mươi bốn trăm ngàn lần làm Chuyển Luân Vương, đến ngày hôm nay được làm Phật mà danh xưng vang lừng đầy khắp thế giới.
Lúc này, hội chúng mới thấy đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu chuyển pháp luân Vô Thượng, nói pháp vi diệu. Từ cõi Ta Bà này đi về phương Đông kia, qua trăm ngàn hằng hà sa số cõi Phật, có thế giới tên là Bảo Trang Nghiêm, hiện nay đức Phật kia chưa Bát Niết Bàn còn hiện tại đang nói pháp vi diệu, hóa độ chúng sinh rộng rãi.
Lại nữa, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe danh hiệu của đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu này thì được Bất Thoái Chuyển ở Bồ tát địa đến Bát Niết Bàn. Nếu có người nữ nghe danh hiệu của đức Như Lai Bảo Vương Đại Viêm Chiếu thì đến lúc sắp mạng chung đức Thế Tôn đi đến chỗ người ấy. Được thấy đức Phật rồi thì họ rốt ráo chẳng lại thọ thân nữ. Này thiện nam tử! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này có đủ thứ lợi ích, đủ thứ căn lành của Bồ tát tăng trưởng, diệt trừ các nghiệp chướng. Này thiện nam tử! Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di ở tại khắp nơi nơi vì người giảng nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ở tại đất nước của họ đều được bốn thứ thiện căn công đức. Những gì là bốn?
Một là quốc vương không có các bệnh tật, phiền não và tất cả tai ách.
Hai là thọ mạng lâu dài không có chướng ngại.
Ba là không có những oán địch binh chúng dũng kiện không ai có thể thắng.
Bốn là an ổn khoái lạc, diệu pháp thường hưng thịnh. Vì sao vậy? Vì vua người như vậy thì Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên Vương, chúng Dạ xoa thường đến thủ hộ họ. Này thiện nam tử! Có việc như vậy không?
Những vô lượng Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và chúng Dạ xoa đều cùng lúc đồng thanh đáp lời đức Thế Tôn rằng:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu ở tại đất nước có giảng nói kinh này thì quốc vương các nước đó được chúng tôi, bốn thiên vương thường đến ủng hộ, đi đứng chung cùng với các vua ấy. Nếu có tất cả tai chướng, oán địch thì chúng con, bốn thiên vương đều có thể tiễn đưa đi hết. Nếu có bệnh tật, phiền não, những điều chẳng vừa ý chúng con đều khiến cho trừ khỏi, tăng trưởng thọ mạng. Đối với pháp Cát tường, đối với pháp ái kính sức chúng con có thể khiến cho họ sinh lòng hoan hỷ. Chúng con cũng có thể làm cho binh chúng của những vua ấy đều dũng kiện!
Đức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Đúng như lời ông nói! Các ông hãy tu hành! Vì sao vậy? Vì các quốc vương này theo đúng như pháp tu hành. Tất cả nhân dân theo vua tu tập. Nếu có nhân dân có thể theo đúng như pháp tu hành thì các ông đều nhờ ơn mà sắc lực thắng lợi, cung điện sáng đẹp, quyến thuộc cường thịnh!
Các Đế Thích, Phạm Vương.v.v… bạch đức Phật rằng:
– Đúng vậy! Thưa đức Thế Tôn!
Đức Phật dạy rằng:
– Ở đất nước này, nơi nơi giảng nói kinh điển vi diệu Kim Quang Minh thì đối với các đại thần, tể tướng của đất nước mong nhờ bốn thứ ân: Một là tương thân, hòa kính, ái niệm, tôn trọng, an nhẫn lẫn nhau. Hai là thường được lòng kính trọng của vị nhân vương (vua người), cũng được sự ái kính ủng hộ của Sa môn, Bà la môn, nước lớn, nước nhỏ. Ba là khinh tài, trọng pháp, chẳng cầu thắng lợi, thanh danh lan truyền khắp, mọi người khen ngợi ngưỡng mộ. Bốn là thọ mạng lâu dài, yên ổn khoái lạc. Như vậy là bốn thứ ân đức. Nếu có đất nước tuyên nói kinh này thì Sa môn, Bà la môn .v.v… được bốn thứ công đức. Những gì là bốn? Một là y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược. Hai là đều được an tâm ngồi thiền, đọc tụng. Ba là nương vào núi rừng được trụ yên vui. Bốn là nương vào tâm đều được thỏa mãn đầy đủ như ý. Đó gọi là bốn công đức. Nếu có đất nước giảng nói Kinh này thì tất cả nhân dân đều được giàu thịnh an vui, không có các dịch bệnh, khách thương buôn qua lại thu hoạch được nhiều của báu, đầy đủ bốn phước. Đó gọi là đủ thứ công đức lợi ích.
Lúc đó, Đế Thích, Phạm Vương, bốn Thiên vương và đại chúng của hội này, bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như vậy ý nghĩa kinh điển này rất sâu, nếu đời hiện tại có đức Như Lai, ba mươi bảy phẩm trợ đạo.v.v… thì trụ thế chưa diệt. Nhưng nếu khi kinh điển này tận diệt thì Chánh pháp cũng diệt!
Đức Phật dạy rằng:
– Vậy nên, này thiện nam tử! Đúng vậy! Tướng mạo của kinh Kim Quang Minh này, một câu, một bài kệ, một phẩm, một bộ mà nếu một lòng nghe chân chính, một lòng gìn giữ chân chính, một lòng suy nghĩ chân chính, một lòng đọc tụng chân chính, một lòng vì người khác giảng nói rộng rãi thì được an vui mãi mãi.
***
PHẨM THỨ SÁU: ĐÀ LA NI TỐI TỊNH ĐỊA
Lúc đó, Bồ tát Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Diệm cùng với vô lượng ức chúng đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, đem đủ thứ hương hoa, tràng phan bảo cái để cúng dường mà nói lên rằng:
– Dùng bao nhiêu nhân duyên để được tâm Bồ Đề? Cái gì là tâm Bồ Đề? Thưa đức Thế Tôn! Đối với Bồ Đề thì tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, tâm quá khứ chẳng thể được. Lìa khỏi Bồ Đề thì tâm Bồ Đề chẳng thể được. Bồ Đề thì chẳng thể ngôn thuyết (nói bằng lời), tâm thì cũng không sắc, không tướng, không sự, không nghiệp, chẳng phải có thể tạo tác. Chúng sinh thì cũng chẳng thể được, cũng chẳng thể biết! Thưa đức Thế Tôn! Thì làm sao nghĩa thậm thâm của các pháp mà có thể biết?
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Sự nghiệp bí mật của Bồ Đề tạo tác chẳng thể được biết. Lìa khỏi Bồ Đề thì tâm Bồ Đề cũng chẳng thể được. Bồ Đề thì chẳng thể ngôn thuyết, tâm cũng vô tướng, chúng sinh cũng chẳng thể được biết. Vì sao vậy? Vì như ý, tâm cũng như vậy. Như tâm, Bồ Đề cũng như vậy, chúng sinh cũng như vậy. Như chúng sinh, tất cả pháp ba đời cũng như vậy.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như vậy Đại Bồ tát được gọi là tâm thông tất cả pháp, chính là nói Bồ Đề và tâm Bồ Đề. Bồ Đề chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tâm cũng như vậy, chúng sinh cũng như vậy. Ở trong cái như này cũng chẳng thể được. Vì sao vậy? Vì tất cả pháp không sinh. Bồ Đề chẳng thể được tên Bồ Đề chẳng thể được, chúng sinh chẳng thể được tên chúng sinh chẳng thể được, Thanh Văn chẳng thể được, tên Thanh Văn gọi là chẳng thể được, Duyên Giác chẳng thể được Tên Duyên Giác chẳng thể được. Bồ tát chẳng thể được tên Bồ tát chẳng thể được, Phật chẳng thể được tên Phật chẳng thể được, hành phi hành chẳng thể được tên hành phi hành chẳng thể được. Ở trong tất cả pháp Tịch Tịnh mà được an trụ, nương vào tất cả thiện căn công đức mà được phát ra thì đó gọi là sơ phát tâm Bồ Đề, ví như vua núi Bảo Tu Di. Đó gọi là Đàn Ba la mật nhân. Phát tâm thứ hai ví như đại địa trì giữ từng mỗi một pháp sự. Đó gọi là Thi Ba la mật nhân (nhân trì giới). Ví như sư tử lông ức dài, vua của loài thú, có thần lực lớn, bước đi một mình không sợ không có run rẩy, tâm thứ ba như vậy gọi là Sằn đề Ba la mật nhân (nhân nhẫn nhục). Ví như sức Na la diên của phong luân (bánh xe gió) mạnh mẽ nhanh chóng, tâm thứ tư chẳng thoái chuyển như vậy, đó gọi là Tỳ lê gia Ba la mật nhân (nhân tinh tấn). Ví như lầu ngoạn cảnh bằng bảy báu có bốn hành lang xung quanh, gió mát mẽ thổi vào bốn cửa. Tâm thứ năm như vậy sinh ra đủ thứ pháp tạng công đức còn chưa mãn túc. Đó gọi là Thiền Ba la mật nhân (nhân thiền định). Ví như ánh sáng vầng mặt trời tỏa sáng rực rỡ. Tâm thứ sáu như vậy có thể phá diệt tối tăm sinh tử. Đó gọi là Bát nhã Ba la mật nhân (nhân trí tuệ). Ví như vị thương chủ đại phú có thể khiến cho các tâm nguyện thỏa mãn đầy đủ. Tâm thứ bảy như vậy có thể khiến cho qua khỏi con đường hiểm ác sinh tử, có thể khiến cho được nhiều báu công đức. Đó gọi là Phương Tiện Thắng Trí Ba la mật nhân. Ví như vầng trăng viên mãn sạch trong. Tâm thứ tám như vậy, tất cả cảnh giới thanh tịnh đầy đủ. Đó gọi là Nguyện Ba la mật nhân. Ví như vua Chuyển Luân Thánh làm chủ Binh bảo thần (bề tôi) thì xử lý phân công theo như ý. Tâm thứ chín như vậy, khéo có thể trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, công đức thấm nhuần khắp, lợi ích rộng rãi cho tất cả. Đó gọi là Lực Ba la mật nhân. Ví như hư không và Chuyển Luân Thánh Vương. Tâm thứ mười như vậy, đối với tất cả cảnh giới đều thông đạt, đối với tất cả pháp tự tại, đến được địa vị quán đảnh. Đó gọi là Trí Ba la mật nhân – Đức Phật dạy – Này thiện nam tử! Như vậy là mười thứ nhân của tâm Bồ Đề của Đại Bồ tát.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nương theo năm thứ pháp để thành tựu Đàn Ba la mật của Đại Bồ tát. Những gì là năm? Một là tín căn, hai là từ bi, ba là không lòng cầu dục, bốn là nhiếp thọ tất cả chúng sinh, năm là nguyện cầu trí Nhất Thiết Trí. Thiện nam tử này nương theo năm pháp đó thì Đàn Ba la mật có thể được thành tựu – Đức Phật dạy – Này thiện nam tử! Nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Thi Ba la mật. Những gì là năm? Một là ba nghiệp thanh tịnh. Hai là chẳng vì tất cả chúng sinh tạo tác nhân duyên phiền não. Ba là cắt đứt các con đường ác, mở cửa đường lành. Bốn là qua khỏi địa vị của Thanh Văn, Duyên Giác. Năm là tất cả nguyện công đức thỏa mãn đầy đủ. Này thiện nam tử! Nương theo năm pháp này thì Thi Ba la mật có thể được thành tựu.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát có thể thành tựu Sằn đề Ba la mật. Những gì là năm? Một là điều phục phiền não tham, sân. Hai là quán chỉ tức chẳng tiếc thân mạng, chẳng sinh ra an lạc. Ba là suy nghĩ nghiệp xưa. Bốn là muốn thành thục thiện căn công đức của tất cả chúng sinh nên phát tâm từ bi. Năm là vì muốn được Vô sinh pháp nhẫn thậm thâm. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Sằn đề Ba la mật (nhẫn nhục độ vô cực).
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Tỳ lê gia Ba la mật. Những gì năm? Một là cùng các phiền não chẳng được ở chung. Hai là phước đức chưa đủ chẳng được an vui. Ba là tất cả việc khó làm chẳng sinh lòng nhàm chán. Bốn là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh nên thành tựu đại từ đại bi để nhiếp thọ. Năm là nguyện cầu Bất Thoái Chuyển địa. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Tỳ lê gia Ba la mật (Tinh tấn độ vô cực).
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp, Bồ tát Mahatát thành tựu Thiền Ba la mật. Những gì là năm? Một là tất cả thiện pháp nhiếp trì chẳng tan mất. Hai là giải thoát hai chỗ sinh tử chẳng nhiễm trước. Ba là nguyện được thần thông vì thành tựu thiện căn của chúng sinh. Bốn là phát tâm làm sạch sẽ pháp giới vì lòng thanh tịnh. Năm là cắt đứt cội rễ tất cả phiền não của chúng sinh. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Thiền Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu Bát nhã Ba la mật. Những gì là năm? Một là đối với tất cả chư Phật Bồ tát thông tuệ đại trí thì cúng dường thân cận lòng không chán đủ. Hai là các đức Phật Như Lai nói pháp thậm thâm, lòng thường ưa nghe không có chán đủ. Ba là Chân tục thắng trí. Bốn là thấy, nghĩ phiền não mà như vậy thắng trí có thể phân biệt cắt đứt. Năm là đối với pháp ngũ minh của thế gian đều thông đạt. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Bát nhã Ba la mật –
Đức Phật dạy:
– Này thiện nam tử! Lại nương theo năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu phương tiện thắng trí Ba la mật. Những gì là năm? Một là đối với ý dục và tâm hành phiền não của tất cả chúng sinh đều thông đạt. Hai là vô lượng những pháp môn đối trị tâm đều hiểu rõ. Ba là Đại từ đại bi vào ra tự tại. Bốn là Đại Ba la mật có thể tu hành thành thục, nguyện cầu đều thỏa mãn đầy đủ. Năm là tất cả Phật pháp liễu đạt nhiếp thọ đều nguyện cầu. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu phương tiện Thắng trí Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát thành tựu nguyện Ba la mật. Những gì là năm? Một là đối với tất cả pháp bản lai chẳng sinh chẳng diệt, chẳng có chẳng không, lòng trụ an lạc. Hai là quan sát tất cả các pháp tối diệu, tất cả cấu bẩn thanh tịnh tâm được an trụ. Ba là qua tất cả tướng, tâm Như Như, không tác, không hành, chẳng khác, chẳng động, an tâm với Như. Bốn là vì việc lợi ích chúng sinh, ở trong tục đế, được an tâm trụ. Năm là đối với Xa ma tha, Tỳ bát xá na (chỉ quán) đồng thời có thể trụ. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Nguyện Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nương theo năm pháp sau đây Đại Bồ tát thành tựu Lực Ba la mật. Những gì là năm? Một là tâm hạnh hiểm ác của tất cả chúng sinh, trí lực có thể giải được. Hai là có thể khiến cho tất cả chúng sinh vào với pháp thậm thâm. Ba là tất cả chúng sinh qua lại sinh tử theo nhân duyên của họ, thấy biết được như vậy. Bốn là đối với ba nhóm trí lực của tất cả chúng sinh có thể phân biệt biết. Năm là lý Như là chủng tử là thành thục, là giải thoát. Như vậy nói pháp đều chính là trí lực. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Lực Ba la mật.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Lại có năm pháp, Đại Bồ tát tu hành thành tựu Trí Ba la mật. Những gì là năm? Một là đối với tất cả pháp phân biệt thiện ác đầy đủ trí năng. Hai là đối với hắc pháp bạch pháp xa lìa hay nhiếp lấy đầy đủ trí năng. Ba là đối với sinh tử, Niết Bàn chẳng chán, chẳng mừng đầy đủ trí năng. Bốn là hạnh đại phước đức, hạnh đại trí tuệ được độ rốt ráo đầy đủ trí năng. Năm là tất cả pháp bất cộng.v.v…. của chư Phật và trí Nhất Thiết trí đầy đủ quán đỉnh trí năng. Này thiện nam tử! Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Trí Ba la mật
Đức Phật dạy:
– Này thiện nam tử! Cái gì là nghĩa của Ba la mật? Hành đạo thắng lợi là nghĩa của Ba la mật. Đầy đủ trí đại thậm thâm là nghĩa của Ba la mật; hành chẳng hành pháp lòng chẳng chấp trước là nghĩa của Ba la mật; tội lỗi của sinh tử, công đức của Niết Bàn, chánh giác, chánh quán là nghĩa của Ba la mật; kẻ ngu người trí đều nhiếp thọ hết là nghĩa của Ba la mật; có thể hiện đủ thứ pháp bảo trân diệu là nghĩa của Ba la mật; trí vô ngại giải thoát đầy đủ là nghĩa của Ba la mật; pháp giới, chúng sinh giới phân biệt biết là nghĩa của Ba la mật; Đàn (bố thí).v.v.. trí có thể khiến cho đi đến Bất Thoái Chuyển địa là nghĩa của Ba la mật; có khả năng làm đầy đủ Vô sanh pháp nhẫn, là nghĩa của Ba la mật; thiện căn công đức của tất cả chúng sinh có thể khiến cho thành thục là nghĩa của Ba la mật; ở đạo tràng thanh lương thành tựu Phật tuệ, mười lực, bốn vô úy, pháp bất cộng.v.v… là nghĩa của Ba la mật; sinh tử, Niết Bàn đều là vọng kiến có thể độ không còn nữa là nghĩa của Ba la mật; tế độ tất cả là nghĩa của Ba la mật; tất cả người ngoài đến vấn nạn nhau mà giỏi có thể giải thích, khiến cho họ hàng phục là nghĩa của Ba la mật; có thể chuyển mười hai bánh xe hành pháp là nghĩa của Ba la mật; không sở trước, không sở kiến, không hoạn lụy, không suy nghĩ khác là nghĩa của Ba la mật.
Này thiện nam tử! Bồ tát Sơ địa là tướng hiện trước, vô lượng vô biên đủ thứ vật báu tàng trữ trong ba ngàn đại thiên thế giới đều tràn đầy. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Nhị địa là tướng hiện trước. Đất ba ngàn đại thiên thế giới bằng phẳng như bàn tay, vô lượng vô số đủ thứ diệu sắc, báu thanh tịnh, đồ trang nghiêm. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Tam địa là tướng hiện trước. Tự thân dũng kiện, áo giáp, binh khí trang nghiêm, tất cả oán địch đều có thể tiêu diệt hàng phục. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Tứ địa là tướng hiện trước. Bốn phương phong luân đủ thứ hoa đẹp đều tung rải tròn đầy trên đất. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Ngũ địa là tướng hiện trước. Như người con gái báu với tất cả trang nghiêm. Trên đỉnh thân cô ấy tung nhiều hoa Đa La, chuỗi báu đẹp trang sức suốt từ thân đến đầu. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Lục địa là tướng hiện trước: Ao hoa thất bảo có bốn đường thềm, cát vàng đầy khắp, thanh tịnh không bẩn. Nước tám công đức đều đầy tràn. Hoa Uất ba la, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi… trang nghiêm ao ấy. Ở chỗ ao hoa tự thân du hí, khoái lạc thanh tịnh, mát mẻ không gì so sánh. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Thất địa là tướng hiện trước: Bên trái, bên phải đáng đọa địa ngục nhưng do lực của Bồ tát nên trở lại được chẳng đọa, không có tổn thương, không có thống não. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Bát địa là tướng hiện trước: Bên trái, bên phải, sư tử lông ức dài, vua loài thú, tất cả mọi loài thú đều sợ hãi. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Cữu địa là tướng hiện trước: Vua Chuyển Luân Thánh với vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường. Trên đỉnh đầu bảo cái trắng trang nghiêm bằng vô lượng mọi thứ báu, để che ở trên. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Bồ tát Thập địa là tướng hiện trước: Thân Như Lai sắc vàng sáng rực, vô lượng tịnh quang đều viên mãn, vô lượng ức Phạm vương vây quanh cung kính cúng dường, chuyển bánh xe diệu pháp Vô Thượng. Bồ tát thấy hết.
Này thiện nam tử! Sao Sơ địa mà gọi là Hoan hỷ? Vì được ra đời, điều chưa được của tâm ngày xưa mà hôm nay mới được đại sự, đại dụng, sở nguyện như ý đều thành tựu, rất vui mừng khánh lạc vậy. Vậy nên sơ địa gọi là Hoan Hỷ địa. Tất cả tội vi tế, tội lỗi phá giới đều thanh tịnh. Vậy nên Nhị địa gọi là Vô Cấu địa.
Vô lượng Trí Tuệ Quang Minh tam muội, chẳng thể khuynh động, không thể tiêu diệt hàng phục, nghe trì Đà la ni lấy làm căn bản. Vậy nên Tam địa gọi là Minh địa.
Có thể thiêu cháy phiền não, dùng lửa trí tuệ tăng trưởng ánh sáng, đạo phẩm tu hành này nương làm xứ sở. Vậy nên Tứ địa gọi là Diệm địa (Diệm tuệ địa). Việc tu hành phương tiện thắng trí tự tại này khó được, nhìn thấy, suy nghĩ phiền não chẳng thể điều phục. Vậy nên Ngũ địa gọi là Nan Thắng địa. Hành pháp nối tiếp nhau tỏ rõ hiển hiện vô tướng, nhiều suy nghĩ hiện tiền. Vậy nên Lục địa gọi là Hiện Tiền địa.
Vô lậu, vô gián, vô tướng, tư duy giải thoát tam muội, xa tu hành. Địa này thanh tịnh không chướng ngại. Vậy nên Thất địa gọi là Viễn Hành địa.
Vô tướng, chánh tư duy, tu được tự tại, các hạnh phiền não chẳng thể làm cho động. Vậy nên Bát địa gọi là Bất Động địa.
Nói tất cả chủng loại pháp mà được tự tại không hoạn lụy, tăng trưởng trí tuệ tự tại không ngăn ngại. Vậy nên Cữu địa gọi là Thiện Tuệ địa.
Pháp thân như hư không, trí tuệ như mây lớn có thể khiến cho che đầy khắp tất cả. Vậy nên Thập địa gọi là Pháp Vân địa.
Sơ địa muốn hành đạo hữu tướng là vô minh chướng ngại, sợ hãi sinh tử là vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Sơ Địa Chướng.
Tội lỗi vi tế là nhân vô minh, đủ thứ tướng nghiệp hành là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Nhị Địa Chướng.
Điều xưa chưa được thắng lợi nay được nên vọng động trào dâng là nhân vô minh, chẳng nghe, trì đủ Đà la ni là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Tam Địa Chướng.
Mùi thiền định ưa sinh lòng ái trước là nhân vô minh, yêu thích pháp tịnh vi tế là nhân vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Tứ Địa Chướng.
Một ý suy nghĩ muốn vào Niết Bàn, một ý suy nghĩ vào sinh tử. Suy nghĩ Niết Bàn này, suy nghĩ sinh tử này chính vô minh là nhân. Sinh tử Niết bàn không bình đẳng, suy nghĩ vô minh làm nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Ngũ Địa Chướng.
Hành pháp nối tiếp nhau tỏ rõ hiển hiện chính vô minh là nhân, pháp tướng đôi lúc hành đến tâm chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Lục Địa Chướng.
Các tướng vi tế hoặc hiện hay chẳng hiện là do vô minh, tư duy một vị thuần thục muốn đoạn nhưng chưa được phương tiện là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Thất Địa Chướng.
Đối với pháp vô tướng dùng nhiều công lực là do vô minh, chấp tướng tự tại khó có thể được độ là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Bát Địa Chướng.
Nói pháp không lường, danh xưng, mùi vị, câu cú không lường, trí tuệ phân biệt không lường mà chưa thể nhiếp trì là do vô minh. Bốn vô ngại biện chưa được tự tại là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Cữu Địa Chướng.
Thần thông tối đại chưa được như ý là do vô minh. Bí mật tạng vi diệu tu hành chưa đủ là do vô minh. Nương theo hai thứ tâm thô lậu là Thập Địa Chướng.
Tất cả cảnh giới vi tế ngăn ngại trí là nhân vô minh. Vị lai ngăn ngại này chẳng lại sinh mà chưa được chẳng lại sinh ra trí thì chính vô minh là nhân. Đó là Như Lai Địa Chướng.
Này thiện nam tử! Đối với Bồ tát Sơ địa thì tu hành hướng về Đàn Ba la mật (Bố thí độ vô cực).
Đối với Nhị địa thì tu hành hướng về Thi Ba la mật (Trì giới độ vô cực).
Đối với Tam địa thì tu hành hướng về Sằn đề Ba la mật (Nhẫn nhục độ vô cực).
Tứ địa tu hành hướng về Tỳ lê gia Ba la mật (Tinh tấn độ vô cực).
Ngũ địa tu hành hướng về Thiền Na Ba la mật (Thiền định độ vô cực).
Lục địa tu hành hướng về Bát nhã Ba la mật (Trí tuệ độ vô cực).
Thất địa tu hành hướng về Phương tiện thắng trí Ba la mật.
Bát địa tu hành hướng về Nguyện Ba la mật.
Cữu địa tu hành hướng về Lục Ba la mật.
Thập địa tu hành hướng về Trí Ba la mật.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát sơ phát tâm gọi là diệu bảo khởi Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ hai thì khả ái trụ ở Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ ba thì Nan động Tam ma đề nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ tư thì Bất Thoái Chuyển tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ năm thì Bảo Hoa tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ sáu thì Nhật Viên Quang Diệm tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ bảy thì Nhất Thiết Nguyện Như Ý Thành Tựu tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ tám thì Hiện Tại Phật Hiện Tiền Chứng Trụ tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ chín thì Trí Tạng tam muội nhiếp thọ được sinh.
Phát tâm thứ mười thì Thủ Lăng Nghiêm Ma Dà tam muội nhiếp thọ được sinh.
Này thiện nam tử! Đó gọi là mười thứ phát tâm của các Đại Bồ tát. Này thiện nam tử! Đại Bồ tát ở Sơ địa này nương theo lực công đức gọi là Đà la ni được sinh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói chú rằng:
Đát điệt tha (1) Phú lâu ni (2) Na la đệ (3) Đầu hống đầu hống đầu hống (4) Na bạt tu lý dủ (5) Ô bà ta chỉ (6) Na bạt chiên đổ lỗ (7) Đệ dũ đa chỉ (8) Đa bạt đạc lạc sam (9) Đãn địa ba lý ha lam (10) Câu lưu (11) Tỏa ha (12).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là Hơn một hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Sơ địa tụng trì chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sự sợ hãi, tất cả ác thú, tất cả ác quỉ, những sự não hại, tai ương của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng ngại, chẳng quên nghĩ đến Sơ địa.
Này thiện nam tử! Những Đại Bồ tát khéo an trụ ở Nhị địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Uất tọa ly (2) Chỉ lý chỉ lý (3) Uất thụ la (4) Thụ la nam (5) Thiền đẩu thiền đẩu uất tọa ly (6) Hống liễu hống liễu (7) Tỏa ha (8).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là hơn hai lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Nhị địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú, tất cả ác quỉ và oán tặc, tai ương, các não hại của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Nhị địa.
Này thiện nam tử! Những Đại Bồ tát ở Nan Thắng Đại Lực Tam địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Đãn đãi chỉ (2) Bát đãi chỉ (3) Kha la trí (4) Cao lại trí (5) Chỉ do ly (6) Đãn chỉ ly (7) Tỏa ha (8).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là hơn ba lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Tam địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử…,, tất cả ác quỉ, những oán tặc, tai ương và những não hại của người chẳng phải người, giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Tam địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát ở đại lợi ích khó hoại Tứ địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Thi lý thi lý (2) Đà di ni đà di ni (3) Đà lý đà lý ni (4) Thi lý thi lý ni (5) Tỳ xả la bà tế (6) Ba thỉ na (7) Bàn đà ha mị để (8) Tỏa ha (9).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là Hơn bốn lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Tứ địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử, tất cả ác quỉ, những oán tặc, tai ương và những độc hại của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Tứ địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với đủ thứ công đức trang nghiêm Ngũ địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Ha lý ha lý ni (2) Già lý già lý ni (3) Kha la ma ni (4) Tăng kha la ma ni (5) Tam hà ha sa ni (6) Diệm bà ha ni (7) Đam bà ha ni (8) Mô ha ni (9) Tá diễm bộ hống bệ (10) Tỏa ha (11).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là hơn năm lần hằng hà sa số chư Phật làm cứu hộ. Bồ tát Ngũ địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả cọp, sói, sư tử độc hại, tất cả ác quỉ và oán tặc, tai ương, những sự não hại của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Ngũ địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với Viên trí.v.v… Lục địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Tỳ đầu ly tỳ đầu ly (2) Ma lý ni (3) Kha lý kha lý (4) Đầu dụ ha để (5) Lưu lưu lưu lưu (6) Châu liễu châu liễu (7) Đỗ lỗ bà đỗ lỗ bà (8) Xả xả xả giả (9) Bà lật sa (10) Tát hoạt tư để (11) Tát bà tát đỏa nam (12) Tất trì hà đẩu (13) Mạn đa la ba thả (14) Tỏa ha (15).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là hơn sáu lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Lục địa trì tụng Đà la ni này, được độ tất cả sợ hãi, tất cả cọp, sói, sư tử… độc hại, tất cả ác quỉ và oán địch, tai ương, những sự não hại của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Lục địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với pháp Thắng hạnh Thất địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Xà ha xà ha lậu (2) Xà ha xà ha xà ha lậu (3) Tỳ liễu chỉ tỳ liễu chỉ (4) A mật đa la dà ha ni (5) Bà lực sái ni (6) Tỳ liễu sỉ chỉ (7) Bà liễu bà để (8) Tỳ đề hỷ chỉ (9) Tần đà tỳ lý ni (10) Mật lát đát để chỉ (11) Bồ hô trửu dậu bồ hô trửu dậu (12) Tỏa ha (13).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là quá bảy lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Thất địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử, tất cả ác quỉ và những oán tặc, độc hại, tai ương của người chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Thất địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với Vô tận tạng Bát địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Thỉ lý thỉ lý (2) Thi lý (3) Mị để mị để (4) Kha lý kha lý (5) Ha lý ha lý (6) Ế liễu ế liễu (7) Chu liễu chu liễu (8) Bàn đà ha mị (9) Tỏa ha (10).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là quá tám lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Bát địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử…, tất cả ác quỉ và oán tặc, độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Bát địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với vô lượng môn Cữu địa này gọi là Đà la ni được sinh.
Đát điệt tha (1) Ha lý chiên địa lý chỉ (2) Câu lam bà la thê (3) Đẩu la tử (4) Bạt tra bạt tra tử (5) Thỉ lý thỉ lý (6) Kha thi lý (7) Kha tỷ thi lý (8) Tát hoạt tư để (9) Tát bà tát đỏa nam (10) Tỏa ha (11).
Này thiện nam tử! Đà la ni này gọi là quá chín lần hằng hà sa số các đức Phật làm cứu hộ. Bồ tát Cữu địa trì tụng Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử…, tất cả ác quỉ và oán tặc độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Cữu địa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát đối với Phá hoại kiên cố Kim Cương sơn Thập địa này gọi là Đà la ni được sinh:
Đát điệt tha (1) Tất đề ế (2) Tu tất đề ế (3) Mỗ giả nỉ (4) Mỗ sai nỉ (5) Tỳ mục để (6) A ma lị (7) Tỳ ma lị (8) Niết ma lị (9) Măng dà lị (10) Hỷ lại nhã kiệt thứ bệ ế (11) Hà thứ na kiệt thứ bệ ế (12) Bà mạn đa bạt khát đệ lị (13) Tát bà lại tha ta đà ha nỉ (14) Ma na tử (15) Ma ha ma na tử (16) Át bộ hống để (17) Át triết bộ hống để (18) Bà la đệ (19) Tỳ la thị (20) Át chu để (21) A mỹ lý để (22) A la thị (23) Tỳ la thị (24) Bà lam ha mể (25) Bà làm ma tu lị (26) Phú lâu nỉ (27) Phú lâu na ma nộ la thể (28) Tỏa ha (29).
Này thiện nam tử! Câu Đà la ni Quán đảnh Cát tường này gọi là quá mười lần hằng hà sa số chư Phật làm cứu hộ. Bồ tát Thập địa trì tụng chú Đà la ni này, được độ thoát tất cả sợ hãi, tất cả ác thú như cọp, sói, sư tử…, tất cả ác quỉ và oán địch, độc hại, tai ngược của người, chẳng phải người.v.v… giải thoát năm chướng, chẳng quên nghĩ đến Thập địa.
Lúc đó, Bồ tát Sư Tử Tướng Vô Ngại Quang Viêm liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật, liền dùng kệ tụng mà khen ngợi đức Phật rằng:
Kính lễ đấng Vô Tỷ (không gì ví được)
Nói nghĩa vô tướng thâm
Chúng sinh mất chánh kiến
Tế độ Phật hay làm.
Phật nhãn của Thế Tôn
Không thấy một pháp tướng
Pháp nhãn vô thượng tôn
Thấy chẳng nghĩ bàn nghĩa.
Một pháp chẳng thể sinh
Cũng chẳng diệt một pháp
Vì bình đẳng kiến nên
Ngài đến chỗ Vô thượng!
Chẳng tổn sinh tử nên
Niết Bàn nguyện ngài chứng!
Quá khỏi hai pháp kiến
Nên tịch tịnh viên thành.
Trí Thế Tôn một vị
Sạch hay chẳng sạch trong
Chẳng phân biệt giới hạn.
Được thanh tịnh không trên(vô thượng).
Thế Tôn thân vô biên.
Chẳng nói một ngôn tự (một lời, một chữ)
Chúng đệ tử Thế Tôn
No đầy mưa pháp vũ.
Suy nghĩ tướng chúng sinh
Mọi thứ đều không có
Khốn khổ các chúng sinh
Thế Tôn cứu tế khắp.
Khổ, vui, thường, vô thường
Có ngã hay không ngã…
Như vậy nhiều nghĩa hơn
Tuệ Thế Tôn vô trước.
Chẳng một khác thế gian
Như hang rỗng tiếng vang
Chẳng độ cũng chẳng diệt
Chỉ Phật biết rõ ràng.
Pháp giới không phân biệt
Vậy nên không thừa khác
Vì độ chúng sinh nên
Nói ba thừa phân biệt.
Lúc đó, Đại tự Tại Phạm Vương, ở giữa đại hội, đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Hy hữu khó lường! Nghĩa vi diệu của Kinh Kim Quang Minh này rốt ráo đủ đầy đều có thể thành tựu tất cả Phật pháp, tất cả Phật ân!
Đức Phật dạy rằng:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Này thiện nam tử! Đúng như lời ông nói! Này thiện nam tử! Nếu được nghe Kinh Kim Quang Minh này thì tất cả Bồ tát chẳng thoái Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì Bồ tát bất thoái địa thành thục thiện căn này, Đệ nhất ấn này, vua mọi Kinh, kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này được lắng nghe, thọ trì, đọc tụng. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì nếu tất cả chúng sinh chưa gieo trồng căn lành, chưa thành thục căn lành, chưa gần gũi các đức Phật thì chẳng được nghe Kinh Kim Quang Minh này. Này thiện nam tử! Do lắng nghe, thọ trì Kinh Kim Quang Minh này nên tất cả tội chướng của thiện nam tử, thiện nữ nhân đó đều có thể trừ diệt, được thanh tịnh cực cùng, thường được thấy Phật, chẳng lìa khỏi Thế Tôn, thường nghe diệu pháp, thường thính Chánh pháp, sinh Bất Thoái địa, người thắng sư tử mà được thân cận chẳng xa lìa nhau, Vô tận vô giảm hải ấn xuất diệu công đức Đà la ni, Vô tận vô giảm Chúng Sinh Ý Hành ngôn ngữ thông đạt Đà la ni, Vô tận vô giảm nhật viên vô cấu tướng quang Đà la ni, Vô tận vô giảm mãn nguyệt tướng quan Đà la ni, Vô tận vô giảm năng phục nhất thiết hoặc sự công đức lưu Đà la ni, Vô tận vô giảm phá hoại kiên cố Kim cương sơn Đà la ni, Vô tận vô giảm thuyết bất khả tư nghị nhân duyên tạng Đà la ni, Vô tận vô giảm chân thật ngữ ngôn pháp tắc âm thanh thông đạt Đà la ni, Vô tận vô giảm hư không vô cấu tâm hành ấn Đà la ni, Vô tận vô giảm vô biên Phật thân năng hiển hiện Đà la ni, này thiện nam tử! Những Đà la ni như vậy đều được thành tựu. Những Đại Bồ tát, ở mười phương tất cả cõi Phật, các đức Phật hóa thân nói đủ thứ Chánh Pháp Vô Thượng, các vị đối với Pháp Như Như chẳng động, chẳng đi, chẳng lại, giỏi có thể thành thục căn lành của tất cả chúng sinh mà cũng chẳng thấy tất cả chúng sinh có thể thành thục, nói đủ thứ các pháp mà đối với các ngôn từ chẳng động, chẳng đi, chẳng đứng, chẳng lại, có thể hiện sinh diệt hướng về không sinh diệt, nói các hành pháp không chỗ đi lại, tất cả pháp không khác.
Nói Kinh Kim Quang Minh này rồi thì ba vạn ức Đại Bồ tát được Vô Sanh Pháp Nhẫn, vô lượng các Bồ tát chẳng thoái tâm Bồ Đề, vô lượng vô biên Tỳkheo được Pháp Nhãn Tịnh, vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ Đề. Khi đó, đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Đạo ngược dòng tử sinh
Thậm thâm diệu khó thấy
Tham dục che chúng sinh
Tối tăm ngu chẳng thấy.
Lúc đó, chúng của đại hội đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch rằng:
– Nếu có bất cứ chỗ nào tuyên giảng Kinh Kim Quang Minh này thì đại chúng của hội này đều đến chỗ đó để làm thính chúng (những người nghe). Thầy nói pháp này có đủ thứ lợi ích, an vui không chướng ngại, thân tâm sảng khoái. Chúng con đều sẽ tận tâm cúng dường thầy và làm cho các thính chúng yên ổn khoái lạc. Đất nước có tuyên giảng pháp này không có các oán tặc, nạn khủng bố, không nỗi sợ đói kém, không nỗi sợ loài chẳng phải người, nhân dân hưng thịnh. Chỗ nói pháp này, tất cả chư thiên, người chẳng phải người và các chúng sinh chẳng được từ trên mà đi qua làm thấm bẩn chỗ nói pháp. Vì sao vậy? Vì chỗ nói pháp tức là Tháp của Kinh ấy. Thiện nam tử, thiện nữ nhân cần phải dùng những hương hoa, lụa là ngũ sắc, tràng phan, bảo cái để cúng dường chỗ nói pháp đó. Chúng con vì họ làm cứu hộ, đem lợi ích tiêu trừ tất cả chướng ngại, theo sự cần dùng của họ mà cung cấp đầy đủ như ý.
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Đúng vậy! Các ông cần phải tinh cần tu hành đúng như Kinh điển này thì pháp sẽ trụ thế lâu dài.
Ghi chú
(Ghi chú để tham chiếu thêm phần Chướng ngại từ Sơ địa đến Thập địa ở trang 374 Kinh Kim Quang Minh Hợp Bộ – Đại chính Tân Tu).
Sinh tử bố úy vô minh là chướng của Sơ địa. Tội lỗi vi tế là nhân vô minh, đủ thứ nghiệp hành tướng là nhân vô minh. Đó là chướng của Nhị địa. Chỗ nghiệp chưa được thắng lợi mà được nên vọng động trào ra là nhân vô minh, chẳng nghe trì đủ Đà la ni là nhân vô minh. Hai vô minh đó là chướng của Tam địa. Mùi vị thiền định ưa sinh lòng ái trước thì vô minh là tác nhân. Đó là chướng của Tứ địa. Một ý suy nghĩ muốn vào Niết Bàn, một ý suy nghĩ muốn vào sinh tử. Suy nghĩ Niết Bàn đó và suy nghĩ sinh tử đó chính vô minh là nhân. Suy nghĩ chẳng bình đẳng về sinh tử và Niết Bàn chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Đệ Ngũ địa. Hành pháp tướng tiếp nối tỏ rõ hiển hiện thì vô minh là nhân, tướng pháp đôi lúc đi đến với tâm chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Đệ Lục địa. Các tướng vi tế hoặc hiện hay chẳng hiện chính vô minh là nhân. Một vị thuần thục suy nghĩ muốn đoạn mà chưa được phương tiện chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Thất địa. Đối với pháp vô tướng dùng nhiều công lực chính vô minh là nhân, chấp tướng tự tại khó có thể được độ chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Bát địa. Nói pháp vô lượng, danh xưng, mùi vị, câu cú vô lượng, trí tuệ phân biệt vô lượng mà chưa có thể nhiếp trừ thì vô minh là nhân, bốn vô ngại biện chưa được tự tại chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Đệ Cữu địa. Tối đại thần thông chưa được như ý chính vô minh là nhân, tạng bí mật vi diệu tu hành chưa đủ chính vô minh là nhân. Nương theo hai thứ tâm thô lậu đó là chướng của Đệ Thập địa. Tất cả cảnh giới vi tế mà trí bị ngăn ngại thì vô minh là nhân. Vị lai ngăn ngại này chẳng sinh mà chưa được chẳng sinh ra trí thì chính vô minh là nhân. Đó là chướng của Như Lai địa.
Ghi chú thêm mười bài chú của bản
Đại Tạng đời Minh để tham khảo:
1- Đát điệt tha (1) Phú lâu nỉ (2) Na la đề (3) Đậu hống đậu hống đậu hống (4) Gia bạt tu lý du (5) Ô bà ta để (6) Gia bạt chiên đà lỗ (7) Đề du đa để (8) Đá bạt dịch lạc sám (9) Đàn địa ba lý ha lam (10) Câu lưu (11) Tá ha (12).
2- Đa điệt tha (1) Uất toa ly (2) Chỉ lý chỉ lý (3) Uất xã la (4) Xã la nam (5) Thiền đẩu thiền đẩu (6) Uất tọa ly (7) Hống liễu hống liễu (8) Tá ha (9).
3- Đá điệt tha (1) Đàn địa chỉ (2) Bát đà chỉ (3) Kha la trí (4) Cao lại trí (5) Chỉ do lị (6) Đàn tri lị (7) Tá ha (8).
4- Đá điệt tha (1) Thi lị thi lị (2) Đà di nị đà di nị (3) Đà lý đà lý nị (4) Thi lý thi lý nị (5) Bệ xả la bà tế (6) Ba thỉ na (7) Bà đa ha mị để (8) Tá ha (9).
5- Đá điệt tha (1) Ha lý ha lý nị (2) Già lý già lý nị (3) Ca la ma nị (4) Tăng ca la ma nị (5) Tam ba ha sa nị (6) Diễm bà ha nị (7) Tất đam bà ha nị (8) Mô ha nị (9) Tá diễm bộ hống bệ (10) Tá ha (11).
6- Đá điệt tha (1) Tỳ đầu lị tỳ đầu lị (2) Ma lý nị (3) Kha lý kha lý (4) Bật đầu dụ ha để (5) Lưu lưu lưu lưu (6) Chu liễu chu liễu (7) Đỗ lỗ bà đỗ lỗ bà (8) Già già già giả (9) Bà lật sa (10) Hoạt kỳ để (11) Tát bà tát đỏa nam (12) Tất trì hà đẩu (13) Mạn đa la ba thí (14) Tá ha (15).
7- Đá điệt tha (1) Xà ha xà ha lậu (2) Xà ha xà ha lậu (3) Tỳ liễu chỉ tỳ liễu chỉ (4) A mật đa la dà ha nỉ (5) Bà lực sái nỉ (6) Tỳ liễu sĩ chỉ (7) Bà liễu ba để (8) Tỳ đề hỷ chỉ (9) Tần đà tỳ lý nỉ (10) Mật lát đát để chỉ (11) Bồ hô trữu dậu bồ hô trữu dậu (12) Tá ha (13).
8- Đá điệt tha (1) Tử lý tử lý (2) Thỉ ly ni (3) Mị để mị để (4) Kha lý kha lý (5) Ha lý ha lý (6) Ế liễu ế liễu (7) Chu liễu chu liễu (8) Bạn đà ha mi (9) Tá ha (10).
9- Đá điệt tha (1) Ha lý chiên đà lý chỉ (2) Câu lam bà la thê (3) Đẩu la tử (4) Bạt tra bạt tra tử (5) Tử lý tử lý (6) Kha tử lý (7) Kha tỷ tu lý (8) Tát hoạt tát hoạt kỳ để (9) Tát bà tát đỏa nam (10) Tá ha (11).
10- Đá điệt tha (1) Tất đề ế (2) Tu tất đề ế (3) Mỗ giả ni (4) Mỗ sai nê (5) Tỳ mục để (6) A ma lị (7) Tỳ ma lị (8) Niết ma lị (9) Măng dà lị (10) Hỷ lại nhã cạt lạt bệ ế (11) Hà lạt na cạt lạt bệ ế (12) Ta mạn đa bạt cạt đề lị (13) Tát bạt lạt tha ta đà ha nê (14) Ma na tử (15) Ma ha ma na tử (16) Át bộ hống để (17) Át triết bộ hống để (18) Bà la đề (19) Tỳ la đề (20) Át chu để (21) A mỹ lý để (22) A la thị (23) Tỳ la thị (24) Bà lãm ha mị (25) Bà lãm ma tu lị (26) Phú lâu nê (27) Phú lâu na ma nộ la thể (28) Tá ha (29).
***
PHẨM THỨ BẢY: TÁN THÁN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa thần Kiên Lao rằng:
– Này thiện nữ thiên! Đời quá khứ có vị vua tên là Kim Long Tôn thường dùng lời tán thán khen ngợi các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại rằng:
Con nay tôn trọng
Kính lễ ngợi khen
Khứ, lai, hiện tại
Chư Phật mười phương.
Chư Phật thanh tịnh
Tịch diệt nhiệm mầu
Sắc thượng trong màu
Ánh vàng chiếu sáng.
Ở trong các tiếng
Tiếng Phật trên cùng
Giống như Đại Phạm
Thâm viễn sấm vang.
Tóc Phật đen biếc
Bụt ốc sáng lên (ánh sáng tóc xoắn ốc của đức Phật)
Ong xanh, khổng tước
Màu chẳng thể bằng (chẳng ví được)
Răng ngài tươi trắng
Như ngọc tuyết băng
Kim nhan hiển phát
Phân đều rõ ràng
Mắt ngài dài rộng
Không bẩn sạch trong
Như đóa sen biếc
Nở soi nước xanh
Tướng lưỡi dài rộng
Hình sắc ánh hồng
Ánh sáng chiếu diệu
Như hoa mới sanh.
Vùng mi hào tướng
Trắng màu ánh trăng
Xoắn phải thấm nhuận
Lưu ly sạch trong
Mày cong dài nhỏ
Hình mảnh trăng non
Màu sắc đen mướt
Hơn cả chúa ong.
Mũi cao tròn thẳng
Như đúc thoi vàng
Mềm mại vi diệu
Đang ở diện môn.
Như Lai thắng tướng
Thứ lớp trên cùng (tối thượng)
Được vị chân chính
Không ai ngang bằng.
Mỗi lỗ chân lông
Sinh một lông xoắn
Mịn mềm biếc xanh
Giống cổ khổng tước (chim công).
Khi vừa mới sinh
Thân phóng ánh sáng
Soi khắp mười phương
Vô lượng đất nước
Ba cõi diệt tan
Tất cả các khổ
Khiến các chúng sinh
Hưởng thụ khoái lạc.
Địa ngục, súc sinh
Và cả ngã quỉ
Tất cả nhân thiên
Yên ổn không hoạn.
Tất cả diệt tan
Vô lượng ác thú.
Vi diệu sắc thân
Như nước vàng tụ.
Diện mạo sạch trong
Như vầng trăng tròn.
Thân Phật sáng rỡ
Như nhật mới lên (mặt trời mới mọc)
Uy nghi tấn chỉ (tiến tới, dừng lại)
Như Sư tử vương.
Tay dài buông xuống
Quá khỏi gối chân
Giống như gió động
Cành Ta La rung.
Một tầm vầng sáng
Chiếu sáng không lường
Giống như tụ tập.
Trăm ngàn trời, trăng (mặt trời, mặt trăng).
Thân Phật tịnh diệu
Dơ bẩn đều không
Sáng ấy soi khắp
Mọi cõi Thế Tôn (cõi Phật).
Phật quang lồng lộng
Sáng rực lửa hừng
Làm lu mờ hết
Nhật nguyệt không lường.
Phật nhật, đăng, cự (đuốc)
Soi cõi không lường
Đều khiến chúng sinh
Theo sáng thấy Phật.
Vốn đã tu hành
Trăm ngàn hạnh nghiệp
Công đức tụ thành
Trang nghiêm thân Phật.
Cánh tay nhỏ tròn
Như mũi vua tượng (chúa voi)
Tay chân sạch mềm
Kính ái không nhàm.
Khứ lai chư Phật (các đức Phật quá khứ, vị lai). Số như vi trần
Chư Phật hiện tại
Cũng lại như trên.
Như Lai (nhiều) như vậy
Con nay lễ lạy!
Thân miệng sạch trong
Ý cũng như vậy
Dùng hảo hoa hương
Cúng dường hiến dâng.
Trăm ngàn công đức
Tám vịnh ca khen.
Giả sử trăm lưỡi
Ngàn kiếp ở trong
Khen công đức Phật
Chẳng thể tận cùng!
Công đức sở hữu
Hiện tại Thế Tôn
Đủ thứ sâu bền
Vi diệu đệ nhất.
Ví lưỡi có ngàn
Muốn khen một Phật.
Còn chẳng thể xong
Phần nhỏ công đức!
Huống muốn ngợi khen
Công đức chư Phật!
Đại địa, thượng thiên
Lấy làm biển cả
Đến Hữu Đảnh thiên
Tràn đầy những nước
Còn dùng sợi lông
Đếm biết số giọt.
Không có thể biết
Đức một Thế Tôn!
Con nay đã lễ
Khen ngợi Thế Tôn!
Nghiệp thân miệng ý
Thảy đều sạch trong.
Tất cả nghiệp thiện
Đã tu không lường
Cùng các sinh chúng
Chứng đạo Vô Thượng.
Như vậy nhân vương
Đã khen ngợi Phật
Lại phát thề nguyền
Như vậy không lường.
Nếu con lai thế (đời sau)
Vô lượng vô biên
A tăng kỳ kiếp
Tại khắp chỗ sinh
Thường ở trong mộng
Nhìn thấy trống vàng
Được nghe âm vang
Thâm áo sám hối!
Nay đã ngợi khen
Diện mạo thanh tịnh
Đời sau con nguyền
Cũng được như vậy.
Công đức Thế Tôn
Chẳng thể nghĩ bàn
Ở trăm ngàn kiếp
Rất khó được gặp.
Nguyện ở không lường
Đương lai đời sống
Đêm thấy mơ màng
Ngày nói như thật.
Con sẽ tu hành
Đầy đủ Lục độ
Cứu bạt chúng sinh
Vượt qua biển khổ
Nhiên hậu thân con
Thành đạo Vô Thượng
Khiến thế giới con
Không gì đồng đẳng
Dâng cống trống vàng
Nhân duyên khen Phật.
Do báo này nên
Vào đương lai thế
Gặp đức Thích Tôn
Được thọ ký biệt
Đồng khiến hai con
Kim Long, Kim Quang
Thường sinh nhà con
Đồng chung thọ ký.
Nếu có chúng sinh
Không người cứu hộ
Bức thiết mọi khổ
Không chỗ nương dừng
Thì đương lai, con
Vì bọn người đó
Làm đại cứu hộ
Và chỗ nương dừng
Có thể trừ khổ
Khiến diệt tận cùng.
Thí cho sinh chúng
Những an vui lành.
Đời vị lai, con
Hành Bồ Đề đạo
Chẳng kể kiếp số
Như đời tận cùng
Do Kim Quang ấy
Sám hối nhân duyên:
Giả sử biển ác
Biển nghiệp của con
Và biển phiền não
Đều cạn không còn,
Biển công đức, nguyện
Của con viên thành,
Biển cả trí tuệ
Đầy đủ sạch trong
Công đức không lường,
Trợ Bồ Đề đạo
Như biển mênh mông
Trân bảo cụ túc
Do sám hối lực
Của ánh sáng vàng
Bồ Đề công đức
Vô ngại quang minh
Tuệ quang không bẩn
Soi suốt sạch trong.
Ánh sáng thân con
Đời sau chiếu khắp.
Ánh sáng uy thần
Công đức rực rỡ
Ba cõi ở trong
Đặc thù tối thắng
Nhứng sức đức công
Không gì giảm thiểu
Sẽ độ chúng sinh
Vượt qua biển khổ
Đều đem đặt yên
Biển cả công đức.
Đời sau nhiều kiếp
Hành đạo Bồ Đề
Như xưa chư Phật
Hành đạo Bồ Đề
Ba đời chư Phật
Tịnh diệu đất nước.
Chư Phật chí tôn
Vô lượng công đức
Đời sau khiến con
Được những khác biệt
Cõi tịnh công đức
Như Phật Thế Tôn!
(Này) Tín Tướng phải biết!
Bấy giờ, quốc vương
Kim Long tôn giả
Chính là thân ông!
Hai con lúc đó
Kim Long, Kim Quang
Là con ông đó
Ngân Tướng vân vân…
PHẨM THỨ TÁM: KHÔNG
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương.
Vô lượng kinh khác
Đã rộng nói không
Nên Kinh này chỉ
Lược mà giải nói.
Chúng sinh độn căn
Trí tuệ ít ỏi
Chẳng rộng biết thông
Nghĩa không vô lượng
Nên Kinh này chỉ
Lược mà nói “không”.
Phương tiện diệu lạ
Đủ thứ nhân duyên.
Vì kẻ căn độn
Khởi đại bi tâm
Nay ta diễn nói
Điển này diệu Kinh.
Như điều ta giải
Biết ý chúng sinh
Thân này hư ngụy
Giống như tụ không.
Lục nhập xóm làng
Chỗ dừng giặc kết
Tất cả tự trụ
Với nhau chẳng biết.
Nhãn căn thọ sắc
Tai phân biệt thanh
Mũi ngữi các hương
Lưỡi nếm đến vị
Sở hữu thân căn
Tham thọ các xúc
Ý căn phân biệt
Tất cả pháp trần.
Sáu tình các căn
Tự duyên từng thứ
Cảnh giới các trần
Chẳng hành duyên khác.
Tâm như huyễn hóa
Chạy theo sáu tình
Mà vọng tưởng luôn
Phân biệt các pháp
Giống như thế nhân
Chạy đuổi hư không.
Tai hại sáu giặc
Ngu chẳng dè chừng (đề phòng tránh xa)
Tâm luôn y chỉ
Cảnh giới sáu căn
Mỗi mỗi tự biết
Là chỗ rập rình
Đi theo sắc, thanh
Hương, vị, xúc, pháp
Tâm ở sáu tình
Như chim mắc lưới
Tâm ấy mọi chỗ
Luôn ở các căn
Theo đuổi các trần
Không có tạm bỏ.
Hư ngụy thân không (rỗng)
Chẳng thể trưởng dưỡng
Không có tranh tụng
Chủ chính cũng không.
Từ các nhân duyên
Hòa hợp mà có
Không có thật, bền
Vọng tưởng khởi lên
Cơ quan nghiệp lực
Giả nguy tụ không.
Địa, thủy, hỏa, phong
Tập hợp thành lập
Tuy lúc giảm, tăng
Chung nhau tàn hại.
Như bốn rắn chung
Nhốt cùng một rọ
Rắn bốn Đại đó
Tính chúng khác rõ
Trên hai, dưới hai
Các phương cũng hai.
Như vậy rắn Đại
Đều diệt không còn.
Hai rắn Địa, Thủy
Tính chúng nặng chìm.
Hai rắn Phong, Hỏa
Tính nhẹ thăng lên.
Hai tính tâm thức
Tháo động chẳng dừng
Theo nghiệp thọ báo
Các đường nhân, thiên
Theo nghiệp sở tác
Ba hữu đọa lạc.
Địa, thủy, hỏa, phong
Khi hoại diệt tan
Đại, tiểu bất tịnh
Bên ngoài chảy tràn
Thân sinh ra trùng
Không thể yêu thích
Ném bỏ nghĩa trang (bãi tha ma).
Như cây mục nát
Thiện nữ phải xem (nữ thần sông Hằng).
Các pháp như vậy
(Thì) chỗ nào có nhân (người) .
Và cả sinh chúng.
Vốn tính Tịch không
Vô minh nên có
Các Đại như trên
Mỗi một chẳng thật.
Vốn tự chẳng sinh
Tính không hòa hợp
Do nhân duyên trên
Ta nói các Đại
Vốn chẳng thật chân
Hòa hợp mà có.
Thể tính vô minh
Vốn tự chẳng có
Vọng tưởng nhân duyên
Hòa hợp mà sinh
Không sở hữu vậy
Vô minh giả danh
Vậy nên ta nói
Gọi rằng: Vô minh
Hành, Thức, Danh sắc
Lục nhập, xúc, thọ
Ái, Thủ, Hữu, Sinh
Lão tử, ưu não
Các nghiệp khổ hành
Chẳng thể nghĩ bàn
Sinh tử vô tế
Chẳng dứt xoay vần.
Vốn không có sinh
Cũng không hòa hợp,
Suy nghĩ chẳng lành
Tạo tác tâm hành
Ta đoạn tất cả
Các kiến buộc ràng
Dùng dao trí tuệ
Cắt lưới não phiền.
Ngôi nhà năm ấm
Xem đều tịch không
Chứng đạo Vô Thượng.
Vi diệu đức cộng
Mở cam lộ môn (cửa)
Bày cam lộ khí (đồ)
Vào cam lộ thành (thành quách).
Ở cam lộ thất (nhà)
Khiến cho chúng sinh
Ăn vị cam lộ
Thổi đại pháp loa
Đánh đại pháp cổ (trống)
Thắp đại pháp đăng (đèn)
Mưa Thắng pháp vũ.
Ta nay phá tan
Tất cả oán kết
Dựng lên pháp tràng
Vi diệu đệ nhất.
Độ các chúng sinh
Khỏi biển sinh tử
Đoạn tuyệt ba đường (ác)
Vô lượng khổ não.
Rực lửa não phiền
Đốt cháy chúng sinh
Không ai cứu hộ
Không chỗ nương dừng
Ta dùng cam lộ
Vị ngon thanh lương
Sung mãn bọn đó
Nóng cháy khỏi liền.
Ở vô lượng kiếp
Các hạnh tu hành
Cúng dường cung kính
Chư Phật Thế Tôn
Kiên cố tu tập
Đạo Bồ Đề luôn
Cầu được thân pháp
Như Lai thật chân
Bỏ những cái trọng (những cái mà mình xem trọng):
Chi tiết tay chân
Đầu mắt não tủy
Tình yêu nữ nam
Tiền tài trân bảo
Trân châu, kim ngân
Lưu ly, anh lạc
Mọi vật dị thường
Trong ba ngàn đại thiên thế giới
Mà cây cối chặt làm thẻ xong,
Ba ngàn đại địa tán thành bụi
Những bụi này cùng khắp hư không,
Tất cả chúng sinh có trí tuệ
Đem trí này cho một người thông,
Người thông như vậy nhiều như bụi.
Tính số bụi này, biết số lường.
Trí tuệ Như Lai chẳng thể tính
Một niệm trí tuệ của Thế Tôn
Kiếp chẳng thể tính, tính không hết.
PHẨM THỨ CHÍN: Y KHÔNG MÃN NGUYỆN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế – Đời Lương
Lúc đó, Như Ý Bảo Quang Diệu Thiện nữ thiên, ở giữa đại chúng đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, dùng kệ bạch đức Phật rằng:
Con hỏi Lưỡng Túc Tôn
Tối Thắng soi thế giới:
Pháp Bồ tát chánh hành?
Nguyện rũ lòng cho phép!
Phật dạy: Thiện nữ thiên
Ngươi nếu có nghi hoặc
Thì mặc ý hỏi han
Ta sẽ phân biệt nói!
– Sao các Bồ tát hành
Hạnh Bồ Đề chân chánh
Lìa sinh tử, Niết Bàn
Lợi mình, ích người vậy?
Đức Phật dạy rằng:
– Này thiện nữ thiên! Nương theo pháp giới mà hành pháp Bồ Đề, tu hạnh bình đẳng. Này thiện nữ thiên! Thế nào gọi là nương nơi pháp giới tu pháp Bồ đề, tu hạnh bình đẳng. Này thiện nữ thiên! Năm ấm có thể hiện pháp giới, pháp giới tức là năm ấm. Năm ấm cũng chẳng thể nói, chẳng phải năm ấm cũng chẳng thể nói. Vì sao vậy? Vì nếu năm ấm là pháp giới thì tức là đoạn kiến. Nếu lìa khỏi năm ấm thì tức là thường kiến. Lìa khỏi hai biên, chẳng chấp trước hai biên, chẳng thể thấy lầm (lỗi). Cái thấy vô danh, vô tướng thì đó gọi là nói đến pháp giới. Này thiện nữ thiên! Làm sao năm ấm có thể hiện ra pháp giới? Này thiện nữ thiên! Như vậy năm ấm chẳng từ nhân duyên sinh. Vì sao vậy? Vì nếu từ nhân duyên sinh thì đã sinh nên được sinh và chưa sinh nên được sinh. Nếu đã được sinh thì vì nhân duyên gì sinh? Nếu đã sinh chẳng từ nhân duyên sinh thì nếu khi chưa sinh chẳng thể được sinh. Vì sao vậy? Vì chưa sinh các pháp thì tức là không có, vô danh, vô tướng mà chẳng phải là khả năng biết của tính toán thí dụ. Sự sinh của chẳng phải nhân duyên, này thiện nữ thiên! Ví như tiếng trống nương vào gỗ, nương vào da, nương vào dùi, nương vào nhân công … nên được phát ra tiếng. Tiếng trống đó không, quá khứ cũng không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không. Vì sao vậy? Vì âm thanh của trống đó chẳng từ gỗ sinh ra, chẳng từ da sinh ra, chẳng từ dùi sinh ra, chẳng từ nhân công sinh ra. Tiếng này chẳng ở ba đời sinh ra thì tức là chẳng sinh. Nếu chẳng thể được sinh thì chẳng thể được diệt. Nếu chẳng thể được diệt thì không có chỗ từ đó đến. Nếu không có chỗ từ đó đến thì cũng không có chỗ để đi. Nếu không có chỗ để đi thì chẳng thường chẳng đoạn. Nếu chẳng thường chẳng đoạn thì chẳng một chẳng khác. Vì sao vậy? Vì nếu chẳng một chẳng khác thì tức là pháp giới. Nếu vậy thì người phàm phu có thể thấy Chân Đế, được Niết Bàn an lạc vô thượng. Nghĩa này chẳng đúng! Vậy nên chẳng một. Nếu nói sinh ấy khác thì tất cả hành tướng của chư Phật Bồ tát tức là chấp trước, chưa được giải thoát phiền não trói buộc thì chẳng thể được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao vậy? Vì tất cả Thánh nhân ở trong pháp hành pháp phi hành đồng với trí tuệ hành. Vậy nên chẳng khác. Vậy nên năm ấm chẳng phải có, chẳng từ nhân duyên sinh, chẳng phải chẳng có năm ấm, chẳng qua cảnh giới Thánh, chẳng phải khả năng theo kịp của ngôn ngữ, vô danh, vô tướng, vô nhân, vô duyên, không có cảnh giới, không có thí dụ, thỉ chung tịch tịnh, bản lai tự không! Vậy nên năm ấm có thể hiện pháp giới. Này thiện nữ thiên! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chân khác tục khác. Như vậy khó có thể nghĩ lường! Đối với cảnh giới Thánh, phàm chẳng khác nghĩ suy, chẳng bỏ tục, chẳng bỏ chân, nương theo pháp giới làm hạnh Bồ Đề.
Bấy giờ, khi đức Thế Tôn nói lời đó rồi thì thiện nữ thiên hớn hở vui mừng, liền đứng dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, một lòng đảnh lễ mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Lời nói về Chánh hạnh Bồ Đề, con nay phải học tập!
Khi đó, Chủ thế giới Ta Bà, vua trời Đại Phạm, ở giữa đại chúng, hỏi thiện nữ thiên Như Ý Bảo Quang Diệu rằng:
– Hạnh Bồ Đề này khó có thể tu hành. Lòng người làm sao đối với hạnh Bồ Đề này mà được tự tại?
Thiện nữ thiên đáp Phạm vương rằng:
– Thưa Đại Phạm Vương! Nếu lời đức Phật nói là thậm thâm chân thật thì tất cả phàm phu chẳng được mùi vị ấy. Cảnh giới Thánh này vi diệu khó biết! Nếu giả sử lòng tôi nương theo pháp này mà được an lạc trụ, là chân thật ngữ thì tôi nguyện cho vô lượng vô biên chúng sinh của tất cả ngũ trược ác thế đều được ba mươi hai tướng kim sắc, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, ngồi hoa sen báu, hưởng thụ vô lượng khoái lạc, mưa xuống hoa đẹp của trời, các âm nhạc của trời chẳng tấu mà tự kêu, tất cả cúng dường đều đầy đủ.
Thiện nữ thiên đó nói rồi thì chúng sinh sẵn có trong tất cả ngũ trược ác thế đều kim sắc đầy đủ ba mươi hai tướng, chẳng phải nam chẳng phải nữ, ngồi hoa sen báu, hưởng thọ vô lượng khoái lạc giống như cung trời Tha Hóa Tự Tại, không các đường ác, cây báu hàng lối la liệt, hoa sen bảy báu đầy khắp thế giới, mưa xuống hoa trời bảy báu thượng diệu, kỹ nhac trời tấu lên, Như Ý Bảo Quang Diệu tức thời chuyển hình dáng nữ làm thân Phạm thiên.
Vua trời Đại Phạm hỏi Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng:
– Ông ngày xưa dùng hành động gì để hành hạnh Bồ đề?
Bồ tát đáp rằng:
– Thưa Phạm vương! Nếu trăng trong nước có thể hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng đã hành hạnh Bồ Đề! Nếu mơ thấy hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề! Nếu hơi nước trong ánh lửa hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề! Nếu âm vang của tiếng hành hạnh Bồ Đề thì tôi cũng hành hạnh Bồ Đề!
Vua trời Đại Phạm nghe lời này rồi, nói với Bồ tát rằng:
– Ông nương vào đâu mà nói lời nói này?
Đáp rằng:
– Thưa Phạm Vương! Không có một pháp nào mà có thật tướng! Tướng nhân quả thành vậy!
Phạm Vương lại bạch Bồ tát rằng:
– Nếu như đây thì các người phàm phu đều nên được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác!
Bồ tát đáp rằng:
– Do suy nghĩ gì mà ngài nói lời đó? Thưa Phạm Vương! Người si hoặc khác, người trí tuệ khác, Bồ Đề khác, chẳng phải Bồ Đề đề khác, giải thoát khác, chẳng phải giải thoát khác! Thưa Phạm Vương! Như vậy các pháp bình đẳng không khác, đối với pháp giới này Như Như chẳng khác, không có trung gian mà có thể chấp trì, không tăng không giảm. Thưa Phạm Vương! Ví như vị huyễn sư thiện xảo huyễn thuật và đệ tử huyễn ở tại ngã tư đường, lấy những đất, cát, cây, lá.v.v… gom lại một chỗ, rồi làm đủ thứ huyễn thuật, khiến cho mọi người nhìn thấy những voi, những ngựa, những xe, những quân, từng đống bảy báu, đủ thứ kho lẫm…. Nếu có chúng sinh ngu si vô trí, chẳng khả năng tư duy, chẳng biết gốc huyễn mà hoặc thấy hoặc nghe rồi tác khởi suy nghĩ rằng: “Đúng như sự thấy của ta là những voi ngựa.v.v…” Rồi họ cho đó là chân thật. Như thấy như nghe tùy theo năng lực chấp trước cái thấy, họ tự nói là thật mà đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Người có trí thì có thể suy nghĩ rõ được gốc huyễn, hoặc thấy hoặc nghe mà suy nghĩ rằng: “Những voi, ngựa.v.v… ta thấy chẳng phải là chân thật, chỉ có việc huyễn hóa mê hoặc mắt người. Cái gọi là những voi, ngựa.v.v… và những kho lẫm ở chỗ đó thì chỉ có danh tự, không có thật thể!” Rồi như điều đã thấy, như điều đã nghe, tùy theo năng lực chẳng chắp trước cái thấy và tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải là chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Những người trí này nói theo lời nói của đời đều muốn khiến người khác biết nghĩa chân thật. Nhưng như thấy, như nghe thì chẳng như vậy. Thưa Phạm Vương! Như vậy nếu có chúng sinh phàm phu ngu si chưa được trí tuệ Thánh xuất thế, chưa biết tất cả các pháp Như Như chẳng thể ngôn thuyết thì những phàm phu đó hoặc thấy hoặc nghe hành pháp hay chẳng phải hành pháp mà suy rằng: “Thật có như vậy các pháp, đúng như cái ta thấy, đúng như cái ta nghe!” Những người phàm phu đó như thấy, như nghe, rồi tùy theo năng lực mà chấp trước cái thấy, tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Nếu có chúng sinh chẳng phải người phàm phu, đã thấy đệ nhất nghĩa đế, được Thánh tuệ xuất thế, biết tất cả pháp Như Như chẳng thể ngôn thuyết. Các Thánh nhân này hoặc thấy hoặc nghe hành pháp hoặc chẳng phải hành pháp, tùy theo năng lực chẳng chấp trước cái thấy, tự nói rằng là thật, đối với người khác chẳng phải là chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ, không thật hành pháp, không thật chẳng phải hành pháp, như điều đã nghe như điều đã thấy chỉ là suy nghĩ hư vọng hành tướng chẳng phải hành tướng mê hoặc trí tuệ của người. Chỗ đó gọi là hành pháp chẳng phải hành pháp chỉ có danh tự không có thật thể. Như điều đã thấy, như điều đã nghe tùy theo năng lực chẳng chấp trước cái thấy, tự nói là thật, đối với người khác chẳng phải chân, sau chẳng lặp lại suy nghĩ. Những Thánh nhân này đúng như lời nói của đời, thuận theo lời ấy vì muốn khiến cho người khác biết nghĩa chân thật. Như vậy, thưa Phạm vương! Thánh trí kiến của những Thánh nhân này chẳng thể nói là pháp Như Như nhiếp lấy hành pháp, chẳng phải hành pháp. Pháp Như Như này là trí Tha chứng nên nói bằng đủ thứ tên.
Vua trời Đại Phạm hỏi Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu rằng:
– Có bao nhiêu chúng sinh có thể hiểu có thể thông chánh pháp thậm thâm vi diệu như vậy?
Bồ tát đáp rằng:
– Thưa Phạm Vương! Phàm là ngần ấy những số lòng người huyễn hóa thì ngần ấy chúng sinh có thể hiểu có thể thông pháp thậm thâm đó.
Phạm Vương lại hỏi:
– Người huyễn hóa này tức là chẳng có thì số tâm như vậy từ đâu mà được?
Bồ tát đáp rằng:
– Thưa Phạm Vương! Như vậy Pháp giới chẳng có chẳng không. Như vậy chúng sinh có thể hiểu có thể thông là nghĩa thậm thâm!
Khi đó, Phạm Vương bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này thông đạt chẳng thể nghĩ bàn nghĩa thậm thâm như vậy!
Đức Phật dạy rằng:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Này Phạm Vương! Đúng như lời ông nói! Vì sao vậy? Vì Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này đã dạy Phạm Vương học quan sát pháp Vô Sinh nhẫn!
Đến đây, vua trời Đại Phạm cùng các Phạm chúng đứng dậy trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay cung kính, đảnh lễ dưới chân Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu, nói lời như vầy:
– Hy hữu thay! Hy hữu thay! Hôm nay chúng tôi được thấy đại sư, được nghe chính pháp!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, đối với tất cả pháp thông đạt vô ngại, bảo Phạm Vương rằng:
– Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu này, ở đời vị lai sẽ được làm Phật hiệu là Đức Bảo Diệm Cát Thượng Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Khi nói Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì ba ngàn ức Bồ tát được Bất Thoái Chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tám ngàn ức thiên tử được Vô Cấu Tịnh đối với pháp thành tựu Thanh Tịnh Pháp Nhãn. Vô lượng vô số quốc vương, thần dân được pháp nhãn tịnh. Năm mươi ức Tỳ kheo làm hạnh Bồ Đề muốn thoái tâm Bồ Đề nghe Bồ tát Như Ý Bảo Quang Diệu nói pháp, được nguyện kiên cố chẳng thể nghĩ bàn đủ đầy, trở lại phát tâm Bồ Đề, đều tự cởi áo cúng dường Bồ tát, một lần nữa phát tâm Vô Thượng Thắng Tấn. Phát tâm Vô Thượng Thắng Tấn rồi thì nguyện rằng: “Xin khiến cho thiện căn công đức của chúng con đều chẳng thoái chuyển, xin hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như vậy những Tỳ kheo nương theo công đức này tu hành, qua chín mươi đại kiếp sẽ được thành tựu. Những Tỳ kheo này ra khỏi sinh tử, đức Phật vì họ thọ ký rằng, qua ba mươi atăngkỳ kiếp sẽ ở nước Phật hiệu Nan Thắng Quang Vương, nước Phật ấy tên là Vô Cấu Quang, họ đồng thời được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều đồng một danh hiệu gọi là Nguyện Trang Nghiêm Gian Xí Vương Phật.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Phạm Vương rằng:
– Kinh Kim Quang Minh này chánh văn chánh thính có thân lực lớn. Này Phạm Vương! Ông hàng trăm ngàn đại kiếp tu hành sáu Ba la mật mà không có phương tiện, nhưng nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân đã được nghe Kinh Kim Quang Minh này, ghi chép, hàng nửa tháng, nửa tháng một lần chuyên đọc tụng thì thiện công đức tụ này so với công đức trước nhân lên trăm ngàn phần chẳng bì kịp một phần, thậm chí tính toán thí dụ đã chẳng thể bì kịp. Này Phạm Vương! Vậy nên ta nay phải lệnh cho tu học, thọ trì, vì người khác giải nói rộng rãi.Vì sao vậy! Vì Kinh điển vi điệu thậm thâm như vậy, khi ta hành đạo Bồ Đề đã như đối với chiến trận chẳng tiếc thân mạng để được thông hiểu Kinh này mà thọ trì, đọc tụng, vì người khác giải nói. Này Phạm Vương! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương, nếu vua tại thế thì bảy thứ báu của vua chẳng diệt, còn nếu vua qua đời thì tất cả bảy báy tự nhiên mà hết. Này Phạm Vương! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này nếu hiện ở đời thì báu đại Chánh pháp đều chẳng diệt. Vậy nên phải nương theo Kinh Kim Quang Minh mà nghe, đọc tụng, thọ trì, vì người khác giải nói, ghi chép ở trong công đức hành Tinh tấn Ba la mật, chẳng tiếc thân mạng, chẳng sợ mệt nhọc. Những đệ tử của ta cần phải tinh cần tu học như vậy!
Lúc đó chúa trời vua trời Đại Phạm cùng với vô lượng Phạm chúng, Đế Thích, Tứ Thiên Vương và Dạ xoa chúng đều đứng cả dậy, trật áo vai phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính mà bạch đức Phật rằng:
– Tất cả chúng con sẽ vì chánh pháp mà thủ hộ, lưu thông Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này! Pháp sư nói pháp, nếu có những ách nạn, chúng con sẽ loại trừ, khiến cho đủ các thiện sắc và ý vị đủ đầy, biện tài vô ngại, thân tâm rộng mở! Người của pháp hội đều khiến cho họ khoái lạc. Chỗ nói pháp đó, nếu đất nước đói kém, oán tặc, bị phi nhân khủng bố… thì chúng con tống khứ hết. Giả sử nhân dân nước ấy giàu có, thịnh vượng, hoan lạc, thong dong là đều do ân lạc của bốn vua chúng con.v.v… Nếu có người cúng dường quyển Kinh này thì chúng con cũng sẽ vì họ tạo tác đại ủng hộ như đối với đức Phật không khác.
***
PHẨM THỨ MƯỜI: TỨ THIÊN VƯƠNG
Bấy giờ, vua trời Tỳ Sa Môn, vua trời Đề Đầu Lại Tra, vua trời Tỳ Lưu Lặc Xoa, vua trời Tỳ Lưu Bác Xoa đều đứng dậy, trật áo vai phải, đặt gối phải xuống đất, hồ qui chắp tay bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh, vua của mọi Kinh này, được sự hộ niệm của các đức Phật Thế Tôn, trang nghiêm công đức thâm diệu của Bồ tát, thường được sự cung kính của chư thiên, có thể khiến cho vua trời, lòng sinh hoan hỷ, cũng được sự khen ngợi của các vị Hộ Thế. Kinh này có thể chiếu soi cung điện của chư Thiên. Kinh này có thể cho chúng sinh khoái lạc. Kinh này có thể khiến cho các dòng sông địa ngục, ngã quỉ, súc sinh khô cháy cạn kiệt. Kinh này có thể trừ được tất cả sự khủng bố. Kinh này có thể đẩy lui oán tặc ở phương khác đến. Kinh này có thể trừ nạn lúa gạo khan hiếm, đói kém. Kinh này có thể trị khỏi tất cả dịch bệnh. Kinh này có thể diệt sao xấu biến dị. Kinh này có thể khử bỏ tất cả ưu não. Nói tóm lại, Kinh này có thể diệt vô lượng vô biên trăm ngàn khổ não của tất cả chúng sinh.
Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, nếu khi ở tại đại chúng tuyên nói rộng rãi thì chúng con, Tứ thiên và quyến thuộc khác nghe vị pháp Cam lộ vô thượng này được tăng thêm thân lực, lòng tinh tấn, dũng nhuệ, đủ các uy đức.
Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, bốn vua có thể nói Chánh pháp, tu hành Chánh pháp, làm vua thế pháp đem pháp trị đời.
Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, bốn vua và trời, rồng, quỉ thần, Càn thát bà, A tu la, Khẩn na la, Ca lâu la, Ma hầu la già dùng pháp trị đời, ngăn chận các quỉ ác ăn nuốt tinh khí.
Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, bốn vua, hai mươi tám bộ những quỉ thần.v.v… và vô lượng trăm ngàn quỉ thần dùng mắt trời thanh tịnh hơn mắt loài người luôn quan sát ủng hộ cõi Diêm Phù Đề này.
Thưa đức Thế Tôn! Vậy nên chúng con gọi là vua hộ thế. Nếu đất nước này có những suy hao, oán tặc xâm phạm cảnh giới, đói kém dịch bệnh đủ thứ gian nan mà nếu có Tỳkheo thọ trì Kinh này thì chúng con bốn vua sẽ chung khuyến thỉnh khiến cho vị Tỳkheo này, do sức của chúng con, nên mau chóng đi đến làng xóm, quận huyện của nước gian nan kia, tuyên nói, lưu hành rộng rãi Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh đó. Nhờ đó khiến cho đủ thứ trăm ngàn sự suy hao như vậy.v.v… đều tận diệt hết. Thưa đức Thế Tôn! Như đất nước sở hữu của các quốc vương, nếu có người trì Kinh này đến nước ấy thì vua nước đó phải đến chỗ này để thính thọ Kinh điển vi diệu như vậy, nghe rồi vui mừng, lại phải hộ niệm cung kính người đó.
Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, bốn vua lại sẽ hết lòng siêng năng ủng hộ vua nước đó và nhân dân trong nước, vì họ trừ hoạn nạn, suy bại, khiến cho họ được yên ổn.
Thưa đức Thế Tôn! Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì Kinh này mà nếu những nhân vương (vua loài người) có thể cung cấp cho họ sự yên ổn thì chúng con, bốn vua sẽ khiến cho vua đó và nhân dân trong nước tất cả đều yên ổn, không bệnh hoạn.
Thưa đức Thế Tôn! Nếu có bốn chúng thọ trì, đọc tụng Kinh điển vi diệu này mà nếu những nhân vương có thể cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán thì bốn vua chúng con cũng lại sẽ khiến cho nhân vương như vậy, ở trong các vua, thường được sự cúng dường, cung kính tôn trọng, tán thán đệ nhất, cũng khiến cho những vua khác khâm phục, hâm mộ, ngợi khen vua ấy tốt.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi bốn thiên vương hộ thế:
– Hay thay! Hay thay! Bốn vua các ông, đời quá khứ, đã từng cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức các đức Phật. Ở chỗ các đức Phật, các ông đã gieo trồng thiện căn, nói ra chánh pháp, tu hành chánh pháp, dùng pháp trị đời, làm vua người, trời. Các ông ngày hôm nay ích lợi lâu dài, đối với các chúng sinh làm đại từ đại bi, ban cho chúng sinh tất cả niềm vui, có thể ngăn chận các ác, siêng cho các thiện. Do nghĩa này nên nếu có nhân vương có thể cúng dường, cung kính Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này thì các ông thích ứng hộ niệm như vậy, diệt khổ não của vua ấy, cho vua ấy an lạc. Bốn vua các ông và các quyến thuộc, vô lượng vô biên trăm ngàn quỉ thần nếu có thể hộ niệm Kinh điển như vậy thì tức là hộ trì chánh pháp của chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Bốn vua các ông và thiên chúng khác, trăm ngàn quỉ thần cùng với A tu la khi chung chiến đấu thì chư thiên các ông luôn được thắng lợi. Các ông, nếu có thể hộ niệm Kinh này thì đều có thể tiêu diệt, hàng phục tất cả khổ như là giặc oán, đói kém, dịch bệnh…. Nếu bốn bộ chúng có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này thì các ông cũng nên cẩn tâm thủ hộ, vì họ trừ khử suy hao, phiền não và ban cho an lạc.
Lúc bấy giờ, bốn thiên vương lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, ở đời vị lai, chỗ mà Kinh này lưu bố, hoặc đất nước, thành ấp, quận huyện, xóm làng… tùy theo chỗ lưu bố đến của Kinh đó, nếu các quốc vương dùng luật trời trị thế, lại có thể cung kính chí tâm thính thọ Kinh điển vi diệu này, đồng thời lại tôn trọng cúng dường, cung cấp cho bốn bộ chúng thọ trì Kinh điển này. Do nhân duyên này nên chúng con từng lúc, từng lúc được nghe Kinh điển vi diệu này, nghe rồi liền được tăng thêm sức mạnh của thân, lòng tinh tấn dũng nhuệ, đủ các uy đức. Vậy nên chúng con và vô lượng quỉ thần thường phải ẩn hình theo chỗ lưu bố của Kinh điển ấy mà làm sự ủng hộ khiến cho không lưu lại nạn, cũng lại hộ niệm những quốc vương.v.v… nghe Kinh đó và nhân dân nước ấy trừ khỏi mọi hoạn nạn, khiến cho họ đều được yên ổn, các giặc oán cũng khiến cho chúng thoái lui tan rã. Nếu có nhân vương khi nghe Kinh này mà oán địch, nước bên cạnh dấy khởi ý niệm như vầy: “Ta sẽ đem đủ bốn thứ binh hủy hoại đất nước kia” thì thưa đức Thế Tôn! Do thần lực Kinh điển này nên bấy giờ, kẻ địch bên cạnh lại có oán khác tạo tác lưu nạn. Ở đất nước ấy khởi lên những tai họa suy hao não hại khác và dịch bệnh. Lúc bấy giờ, nếu oán địch khởi lên những việc ác như vậy rồi, chuẩn bị đầy đủ bốn thứ binh khởi đi hướng đến đất nước đó thảo phạt thì chúng con bấy giờ sẽ cùng với quyến thuộc vô lượng vô biên trăm ngàn quỉ thần che giấu hình thể của mình, vì đất nước đó tạo tác sự hộ trợ, khiến cho oán địch kia tự nhiên thoái lui, tan vỡ, dấy lên những sợ hãi, đủ thứ lưu nạn. Binh chúng nước kia còn chẳng thể đến, huống là lại có thể có sự phá hoại!
Lúc bấy giờ, đức Phật khen bốn vua trời rằng:
– Hay thay! Hay thay! Bốn vua các ông mới có thể ủng hộ ta trăm ngàn ức na do tha kiếp đã có thể tu tập Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cung kính cúng dường những nhân vương thọ trì Kinh này, vì họ tiêu trừ suy hao hoạn nạn, khiến cho các vua ấy an lạc, lại có thể ủng hộ cung điện, nhà cửa, thành ấp, xóm làng, biên cương đất nước… cho đến cả oán tặc đều khiến cho chúng thoái lui tan rã, diệt hết suy hao não hại, khiến cho được yên ổn. Các ông cũng khiến cho các vua sẵn có trong cõi Diêm Phù Đề không có những việc hung hiểm, suy hao, đấu tụng. Bốn vua phải biết tám muôn bốn ngàn thành ấp, tụ lạc của cõi Diêm Phù Đề này, tám muôn bốn ngàn những vị nhân vương.v.v… đều ở nước của họ vui sướng khoái lạc, mỗi mỗi ở nước mình mà được tự tại, đối với tiền tài trân bảo sở hữu của mình mỗi mỗi đều tự túc, chẳng xâm đoạt nhau. Theo đúng sự tu tập nghiệp đời trước của họ mà tùy nghiệp thọ quả báo, chẳng sinh lòng ác, tham cầu nước của người khác, mỗi mỗi đều tự sinh lòng lợi ích, sinh ra lòng từ, lòng an lạc, lòng chẳng tranh tụng, lòng chẳng phá hoại, lòng không trói buộc, lòng không khổ sở, đều ở đất nước của họ tự sinh ra hoan lạc, trên dưới hòa mục giống như nước với sữa, lòng họ ái niệm nhau, tăng thêm các căn lành. Do những nhân duyên này nên cõi DiềmPhu Đề này yên ổn, giàu thịnh, khoái lạc, nhân dân đông đúc, đất đai mầu mỡ, âm dương điều hòa, thời tiết chẳng vượt thứ tự, mặt trời mặt trăng tinh tú chẳng mất độ bình thường, gió mưa theo đúng thời tiết, không có các tai ương ngang trái, nhân dân giàu có, tự đủ với của cải, lòng không tham lam bỏn xẻn cũng không ganh ghét.v.v… làm mười điều thiện. Người ở cõi ấy mạng chung phần nhiều được sinh lên trời, cung trời sung mãn tăng thêm thiên chúng. Nếu đời vị lai có các nhân vương nghe Kinh điển này và cúng dường bốn bộ chúng thọ trì Kinh này thì nhân vương này được an lạc lợi ích. Bốn vua các ông và quyến thuộc, vô lượng trăm ngàn quỉ thần.v.v… Vì sao vậy? Vì bốn vua các ông nếu lúc nào cũng được nghe Kinh điển này thì vì đã được nước Chánh pháp, uống vị cam lồ, tăng thêm sức mạnh của thân, lòng tinh tấn dũng nhuệ, đủ các uy đức. Các nhân vương này nếu có thể chí tâm thỉnh thọ Kinh điển này thì vì Kinh điển đã có thể cúng dường ta. Nếu cúng dường ta thì tức là cúng dường chư Phật, quá khứ, vị lai và hiện tại. Nếu có thể cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại thì được vô lượng chẳng thể nghĩ bàn công đức tụ. Do nhân duyên này nên các nhân vương này đáng được ủng hộ và trong cung hậu phi, thể nữ, quyến thuộc, các vương tử.v.v… cũng đáng được ủng hộ, suy hao não hại tiêu diệt, khoái lạc hưng thịnh, cung điện nhà cửa yên ổn thanh tịnh, không các tai biến, thần hộ gia trạch tăng trưởng uy đức, cũng thọ vô lượng vui sướng khoái lạc, trong các quốc độ ấy, nhân dân đều thọ niềm vui của ngũ dục tất cả việc ác đều tiêu diệt.
Lúc bấy giờ, bốn vua trời bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Đời vị lai, nếu có vị nhân vương muốn được hộ thân và hậu phi, thể nữ, các vương tử.v.v… cung điện nhà cửa, được hộ thân đệ nhất, chỗ vua cai trị rất là thù thắng, đủ công đức vương giả chẳng thể nghĩ bàn, muốn được nhiếp lấy vô lượng phước tụ, đất nước không có oán tặc từ phương khác đến, không có các ưu não và những việc khổ thì thưa đức Thế Tôn! Vị nhân vương như vậy chẳng nên buông lung, tán loạn tâm mình, nên sinh lòng cung kính nhún nhường, nên trang nghiêm cung điện nhà cửa tối thắng vi diệu đệ nhất, đủ thứ nước thơm đem dùng tưới lên đất, tung đủ thứ hoa, trải lên đại pháp tòa sư tử và dùng vô lượng vật trân quí kỳ lạ mà trang sức, giăng lên đủ thứ vô số những tràng phan, bảo cái vi diệu. Rồi vua phải tắm gội sạch sẽ, dùng hương thơm xoa thân, mặc áo sạch đẹp, tự nghiêm sức chuỗi ngọc, ngồi ở tòa ngồi nhỏ thấp, chẳng tự cao tự đại, trừ khử tự tại, lìa khỏi các phóng dật, khiêm hạ tự ty, trừ khử kiêu mạn mà chánh niệm thính thọ Kinh điển như vậy. Đối với người nói pháp thì vua ấy sinh Thế Tôn tưởng (nghĩ như là Thế Tôn). Lại đối với hậu phi, vương tử, thể nữ, quyến thuộc ở nội cung thì vua sinh lòng từ ai, nhan mạo hòa nhã, cùng nói khuyên họ đem đủ thứ đồ cúng dường mà cúng dường pháp sư. Vị vua này, bấy giờ, đã khuyến hóa rồi liền phát sinh vô lượng hoan hỷ khoái lạc, lòng vui mừng bội phần, lại tự khích lệ mình, chẳng sinh mệt ỏi, tạo tác nhiều lợi ích, đối với người nói pháp sinh ra lòng cung kính bội phần.
Lúc ấy, đức Phật bảo bốn vị vua trời tiếp rằng:
– Bấy giờ vị nhân vương nên mặc áo trắng sạch sẽ tinh khiết, với đủ thứ chuỗi ngọc tề chỉnh trang nghiêm, cầm bảo cái thượng diệu bằng lụa là, phục sức dung nghi chẳng mất phép tắc đời thường, đích thân ra phụng nghênh người nói pháp. Vì sao vậy? Vì vị vua này như vậy tùy theo bước chân ông ấy, trong từng bước, từng bước tức là đã cúng dường, gặp gỡ trăm ngàn ức na do tha các đức Phật Thế Tôn, lại được siêu việt nạn sinh tử bằng số kiếp như vậy. Lại vào đời sau, trong số kiếp như thế, thường được phong thọ địa vị Chuyển Luân Vương. Tùy theo từng bước từng bước của vua ấy mà cũng được công đức đời hiện tại như vậy, lực tự tại chẳng thể nghĩ bàn, thường được cung điện người trời bằng thất bảo cực diệu tối thắng, ở tại khắp chỗ sinh ra được tăng thêm thọ mạng, lời nói luận biện được sự tin dùng của mọi người không điều úy kỵ, có danh xưng lớn, thường được sự cung kính của người trời, hưởng thụ thượng diệu lạc trên trời, trong loài người, được tự tại thế lực, đầy đủ uy nghi, thân sắc vi diệu, đoan nghiêm đệ nhất, thường gặp các đức Phật, gặp gỡ thiện tri thức, thành tựu đầy đủ vô lượng phước tụ. Này bốn vua các ông! Như vậy, các ông thấy, nhân vương được vô lượng đủ thứ công đức lợi ích như vậy.v.v… Vậy nên vị vua này cần phải đích thân ra phụng nghênh vị pháp sư, hoặc từ một do tuần đến trăm ngàn do tuần, đối với pháp sư nên sinh Phật tưởng, nên tác khởi ý niệm này: “Ngày hôm nay Chánh trí của đức Thích Ca Như Lai vào cung của ta, nhận sự cúng dường của ta, vì ta nói pháp. Ta nghe pháp này liền chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì đã được gặp trăm ngàn vạn ức na do tha đức Phật, vì đã cúng dường các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại, đã được rốt ráo khổ ba đường ác, ta nay đã gieo trồng trăm ngàn vô lượng nhân của Chuyển luân thánh vương, Đế thích, Phạm vương, đã gieo trồng vô biên hạt giống căn lành, đã khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức những chúng sinh.v.v… qua khỏi sinh tử, đã tập hợp vô lượng vô biên phước tụ, hậu cung quyến thuộc đã được ủng hộ cung điện nhà cửa, các suy bại, hao tổn đều đã tiêu diệt, đất nước không có oán tặc, chông gai, oán địch phương khác chẳng thể xâm lăng”. Này bốn vua các ông! Như vậy nhân vương nên tạo tác sự cúng dường chính pháp như vậy, thỉnh thọ thanh tịnh Kinh điển vi diệu này và cung kính cúng dường tôn trọng tán thán bốn bộ chúng thọ trì Kinh điển này, cũng sẽ hồi hướng phần công đức tối thắng sở đắc này ban cho các ông và quyến thuộc, chư thiên, quỉ thần khác.v.v… Tụ tập các công đức thiện như vậy thì hiện thế thường được vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn lợi ích tự tại, uy đức thế lực thành tựu đầy đủ, có thể dùng Chánh pháp tiêu diệt hàng phục các ác.
Lúc bấy giờ, bốn vua trời bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu đời vị lai có các nhân vương tạo tác sự cung kính chánh pháp như vậy, chí tâm thỉnh thọ Kinh điển vi diệu này và cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi bốn bộ chúng thọ trì Kinh điển này, sửa sang nhà cửa, tưới nước thơm lên đất, chuyên tâm chánh niệm khi nghe nói pháp thì chúng con, bốn vua cũng sẽ ở tại trong đó chung nghe pháp này. Nguyện cho các nhân vương được tự lợi, đem một phần ít công đức sở đắc của mình ban cho chúng con! Thưa đức Thế Tôn! Các nhân vương đó ở chỗ ngồi của người nói pháp, vì chúng con nên đốt đủ thứ hương thơm cúng dường Kinh này. Hơi thơm vi diệu này ở trong khoảnh khắc một niệm liền đến những cung điện tròi của chúng con. Hương thơm ấy tức thời biến thành lọng hương. Lọng hương vi diệu ấy màu vàng chói sáng chiếu vào cung chúng con, cung của Đế Thích, cung của Phạm Vương, của Đại Biện thần thiên, của Công Đức thần thiên, của Kiên Lao địa thần, của Tán Chỉ Quỉ Thần tối đại tướng quân, của Nhị Thập Bát Bộ quỉ thần đại tướng, Ma Ê Thủ La Kim Cương Mật Tích, Ma Ni Bạt Đà quỉ thần đại tướng, Quỉ Tử Mẫu cùng năm trăm con trẻ vây quanh giáp vòng, A Nâu Đạt long vương, Bà Yết La long vương… Những chúng như vậy tự ở cung điện mà mỗi mỗi đều được nghe mùi diệu hương này và thấy ánh sáng của lọng hương soi khắp. Ánh sáng của lọng hương này cũng chiếu soi tất cả cung điện của chư thiên.
Đức Phật bảo bốn vua trời rằng:
– Ánh sáng của lọng hương này chẳng phải chỉ đến cung điện của bốn vua các ông. Vì sao vậy? Vì những nhân vương này khi tay bưng lò hương cúng dường Kinh thì hương ấy lan cùng khắp, trong khoảnh khắc một niệm, đến khắp ba ngàn đại thiên thế giới: trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức biển cả, trăm ức núi Tu Di, trăm ức núi Đại Thiết Vi, núi Tiểu Thiết Vi và các vua núi, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức bốn thiên vương, trăm ức Tam Thập Tam Thiên, cho đến trăm ức Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, ở ba ngàn đại thiên thế giới này, tất cả cung điện của rồng, quỉ, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già đều đầy đủ thứ khói thơm lọng mây trong hư không, ánh sáng lọng mây hương cái ấy cũng soi chiếu cung điện. Như vậy đủ thứ khói thơm lọng mây sở hữu của ba ngàn đại thiên thế giới đều chính là sức uy thần của Kinh này. Những nhân vương này khi tay bưng lò hương cúng dường Kinh thì đủ thứ mùi thơm chẳng chỉ lan khắp ba ngàn đại thiên thế giới này mà trong khoảnh khắc một niệm cũng lan khắp mười phương vô lượng vô biên hằng hà sa số trăm ngàn vạn ức thế giới của chư Phật. Ở trên các đức Phật, trong hư không hương thơm cũng kết thành lọng hương màu vàng chiếu soi khắp cũng lại như vậy, các đức Phật Thế Tôn nghe được diệu hương này, thấy được lọng hương đó và ánh sáng màu vàng. Hằng hà sa số của đức Phật Thế Tôn của thế giới mười phương thấy những thần lực biến hóa như vậy rồi, khác miệng đồng lời, đối với người nói pháp mà khen ngợi rằng: “Hay thay! Hay thay! Thưa Đại sĩ! Ông nay có thể tuyên nói lưu bố Kinh điển vi diệu thậm thâm như vậy tức là đã thành tựu vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn công đức tụ. Nếu có người nghe Kinh điển thậm thâm này thì công đức sở đắc chẳng ít, huống là thọ trì đọc tụng vì chúng sinh khác mở bày phân biệt diễn nói nghĩa Kinh ấy. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này mà vô lượng vô biên ức na do tha những Bồ tát.v.v… nếu được nghe thì tức là chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Lúc ấy, các đức Phật hiện tại của vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng thanh nói rằng: “Này thiện nam tử! Ông vào đời sau, nhất định sẽ được ngồi dưới cây Bồ Đề Đạo Tràng, bậc tối tôn tối thắng ở trong ba cõi, vượt lên trên tất cả chúng sinh, do sức cần tu nên thọ các khổ hạnh, khéo có thể trang nghiêm Bồ Đề đạo tràng, có thể phá hoại tà luận của ngoại đạo trong ba ngàn đại thiên thế giới, tiêu diệt hàng phục những ma oán tặc dị hình, giác ngộ rõ những pháp tịch diệt thanh tịnh vô cấu đệ nhất, đạo Bồ Đề Vô Thượng thậm thâm. Này thiện nam tử! Ông đã có thể ngồi ở chỗ tòa ngồi Kim Cương chuyển pháp luân mười hai thứ hạnh thậm thâm được chư Phật khen là Vô thượng, có thể đánh trống Pháp tối đại Vô thượng, có thể thổi tù và cực vi diệu vô thượng, có thể dựng pháp tràng tối thắng vô thượng, có thể nhen đuốc pháp cực sáng Vô thượng, có thể mưa pháp vũ cam lộ Vô thượng, có thể đoạn dứt vô lượng oán kết phiền não, có thể khiến cho vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha chúng qua khỏi biển lớn không bờ đáng sợ, có thể thoát khỏi sự sinh tử luân chuyển không bờ cõi, lại gặp được vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha đức Phật.
Lúc bấy giờ, bốn Thiên vương lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này có thể được đủ thứ công đức vị lai, hiện tại. Vậy nên nhân vương nếu được nghe Kinh điển vi diệu này thì tức là họ đã ở trăm ngàn vạn ức chỗ Phật gieo trồng các căn lành. Con do kính niệm nhân vương này nên lại thấy vô lượng phước đức. Bốn vua chúng con và quyến thuộc khác, trăm ngàn vạn ức quỉ thần, ở từ cung điện khi thấy đủ thứ khói hương lọng mây ứng điềm thì chúng con ẩn giấu chẳng hiện thân, vì nghe pháp nên sẽ đến chỗ vua đó, dừng ở chỗ cung điện có giảng pháp. Đại Phạm thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Biện thiên thần, Công Đức thiên thần, Kiên Lao địa thần, Tán Chỉ Quỉ Thần đại tướng quân.v.v… Hai mươi tám bộ quỉ thần đại tướng, Ma Ê Thủ La, Kim Cương Mật Tích, Ma Ni Bạt Đà quỉ thần đại tướng, Quỉ Tử Mẫu và năm trăm quỉ tử vây quanh giáp vòng, A Nậu Đạt long vương, Ta Yết La long vương… vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha quỉ thần, chư thiên. Những chúng như vậy vì nghe pháp nên đều ẩn che, chẳng hiện thân mình, đi đến chỗ vị nhân vương, dừng ở chỗ cung điện có nói pháp.
Thưa đức Thế Tôn! Chúng con, bốn thiên vương và vô lượng quỉ thần quyến thuộc khác đều sẽ đồng tâm lấy vị nhân vương này làm thiện tri thức, đồng chung một hạnh làm thiện tương ứng, vua ấy có thể làm thí chủ đại pháp Vô thượng, dùng vị cam lộ làm sung mãn chúng con. Chúng con cần phải ủng hộ vị vua đó, trừ khử hoạn nạn suy bại khiến cho được yên ổn và khiến cho những tai ương hoạn nạn của cung điện, nhà cửa, đất nước thành ấp của vua ấy đều bị tiêu diệt.
Thưa đức Thế Tôn! Nếu có nhân vương đối với Kinh điển này, lòng phát sinh lìa bỏ, chẳng ưa nghe và lòng vua ấy chẳng muốn cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, hoặc bốn bộ chúng có người thọ trì, đọc tụng, khen ngợi mà các vua ấy cũng lại chẳng thể cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi thì bốn vua chúng con và vô lượng quỉ thần, quyến thuộc khác tức là chẳng được nghe chánh pháp này, quay lưng với vị cam lộ, mất pháp lợi lớn, không có thế lực và cả uy đức, tổn giảm thiên chúng, thêm lớn đường ác.
Thưa đức Thế Tôn! Bốn vua chúng con và vô lượng quỉ thần bỏ đất nước của vị nhân vương ấy. Chẳng chỉ riêng chúng con mà cũng có vô lượng vị thủ hộ đất nước, các cựu thiện thần đều bỏ đi. Chúng con, chư thiên và các quỉ thần đã bỏ đi rồi thì đất nước ấy sẽ có đủ thứ tai họa khác thường, tất cả nhân dân mất đi thiện tâm của mình, chỉ có sự trói buộc, sân nhuế, đấu tranh, phá hoại lẫn nhau, nhiều những dịch bệnh, Tuệ tinh (ác tinh) xuất hiện, lưu tinh quái lạ tan vỡ rơi rụng, năm sao và các tinh tú lạc mất tiến độ bình thường (đi sai quĩ đạo), hai mặt trời cùng xuất hiện, mặt trời mặt trăng bị nhật nguyệt thực, cầu vòng trắng đen xấu xuất hiện từng lúc từng lúc, đại địa chấn động phát ra âm thanh lớn, gió dữ, mưa dữ không ngày nào không có, lúa gạo kham hiếm, cơ cẩn đói rét, có nhiều giặc oán phương khác đến xâm lấn, nhân dân đất nước ấy chịu nhiều khổ não, đất nước ấy không có chỗ nào đáng yêu thích cả.
Thưa đức Thế Tôn! Bốn vua chúng con và những vô lượng trăm ngàn quỉ thần cùng các cựu thiện thần thủ hộ đất nước khi rời đi xa thì ở đó sinh ra vô lượng việc ác như vậy.v.v…. Thưa đức Thế Tôn! Nếu có vị nhân vương muốn được tự hộ và vương quốc của mình thọ nhiều an lạc, muốn khiến cho tất cả chúng sinh của đất nước đều thành tựu đầy đủ khoái lạc, muốn được tiêu diệt và hàng phục tất cả ngoại địch, muốn được sự ủng hộ tất cả đất nước, muốn dùng chánh pháp để chánh trị đất nước, muốn được diệt trừ sự sợ hãi của chúng sinh, thưa đức Thế Tôn! Thì vị nhân vương này nhất định cần phải nghe Kinh điển này và cung kính cúng dường người đọc tụng thọ trì Kinh điển này! Bốn vua chúng con và vô lượng quỉ thần do nhân duyên thiện căn ăn được pháp này, được uống vị pháp cam lộ Vô thượng nên tăng trưởng sức mạnh của thân, lòng tinh tấn dũng nhuệ tăng thêm chư thiên. Vì sao vậy? Vì do vị nhân vương này chí tâm thính thọ Kinh điển này. Như các Phạm thiên nói ra Dục luận, Thích Đề Hoàn Nhân nói ra đủ thứ Thiện luận, thần tiên Ngũ thông nói ra Thần tiên luận.
Thưa đức Thế Tôn! Phạm thiên, Thích Đề Hoàn Nhân, người năm thần thông tuy có trăm ngàn ức na do tha vô lượng Thắng luận nhưng Kinh Kim Quang Minh là tối thắng ở trong số đó. Sở dĩ vì sao? Là vì đức Như Lai nói Kinh Kim Quang Minh này vì chúng sinh, vì khiến cho các nhân vương bên trong tất cả cõi Diêm phù đề dùng Chánh pháp trị, vì cho tất cả chúng sinh sự an lạc, vì muốn ái hộ tất cả chúng sinh, muốn khiến cho chúng sinh không các khổ não, không có oán tặc chông gai của phương khác, các ác hại sở hữu đều quay lưng lại mà chẳng hướng đến, muốn khiến cho đất nước không có ưu não, dùng Chánh pháp giáo hóa, không có tranh tụng. Vậy nên nhân vương ở mỗi đất nước nên nhen đuốc pháp sáng rực chánh pháp để tăng thêm thiên chúng, bốn Thiên vương chúng con và vô lượng quỉ thần, chư thiên, thiện thần ở bên trong cõi Diêm phù đề, do nhân duyên này nên được uống pháp vị cam lộ sung mãn, được uy đức lớn và tinh tấn lực đầy đủ. Bên trong cõi Diêm phù đề yên ổn, giàu có an vui, nhân dân đông đúc an vui. Ở chỗ ấy lại vào đời sau vô lượng trăm ngàn chẳng thể nghĩ bàn na do tha kiếp, nhân dân thường hưởng thọ khoái lạc đệ nhất vi diệu, lại được gặp gỡ vô lượng chư Phật, gieo trồng các thiện căn, rồi nhiên hậu chứng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô lượng công đức như vậy.v.v… đều chính đức Như Lai Chánh Biến Tri nói. Như Lai qua khỏi trăm ngàn ức na do tha các Phạm thiên do lực Đại bi vậy, cũng qua khỏi vô biên trăm ngàn ức na do tha Thích Đề Hoàn Nhân do lực khổ hạnh vậy. Vậy nên Như Lai vì chúng sinh diễn nói Kinh Kim Quang Minh như vậy. Nếu tất cả chúng sinh của cõi Diêm phù đề và những nhân vương thế gian hay xuất thế gian mà làm việc nước, tạo thế luận đều nhân Kinh này muốn làm cho chúng sinh được an lạc thì đức Thích Ca Như Lai thị hiện Kinh này, tuyên nói rộng rãi, lưu bố khắp nơi.
Thưa đức Thế Tôn! Do nhân duyên này nên các vị nhân vương cần phải nhất định thính thọ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi Kinh này.
Lúc bấy giờ, đức Phật lại bảo bốn vua trời rằng:
– Bốn vua các ông và quyến thuộc, vô lượng trăm ngàn na do tha quỉ thần khác, nếu các nhân vương này có thể chí tâm nghe Kinh điển này và chúng sinh cung kính tôn trọng khen ngợi thì bốn vua các ông chính nên ủng hộ, diệt cho họ hoạn nạn suy bại mà cho họ an vui. Nếu có người có thể tuyên nói rộng rãi, lưu hành cùng khắp diệu điển như vậy, ở trong cõi trời, người làm việc Phật lớn lao, có thể đem lại lợi ích lớn cho vô lượng chúng sinh… người như vậy thì bốn vua các ông nhất định phải ủng hộ chớ khiến cho họ vì duyên khác mà bị nhiễu loạn, phải làm cho lòng họ điềm tĩnh hưởng thụ khoái lạc để tiếp tục lại sẽ được tuyên nói rộng rãi Kinh này.
Lúc bấy giờ, bốn vị vua trời liền đứng dậy, trật áo vai phải, đặt gối phải xuống đất, quì dài chắp tay, ở trước đức Thế Tôn dùng kệ khen rằng:
Trăng Phật thanh tịnh
Đủ đầy trang nghiêm
Phật nhật sáng rỡ
Phóng ngàn hào quang.
Như Lai diện mục
Tối thượng tịnh minh.
Răng trắng không bẩn
Như căn hoa sen.
Công đức vô lượng
Như biển mênh mông.
Vực trí không đáy
Nước pháp đầy tràn.
Tam muội trăm ngàn
Không có khuyết giảm.
Dưới chân phẳng bằng (bên dưới bàn chân) Tướng thiên bức hiện
Ngón chân lưới màn
Giống như vua ngỗng
Quang minh chói sáng
Như Bảo Sơn Vương
Vi diệu thanh tịnh
Như vàng luyện ròng.
Phước đức sở hữu
Chẳng thể nghĩ bàn
Núi công đức Phật
Con nay lễ mừng.
Chân pháp thân Phật
Giống như hư không
Ứng vật hiện hình
Như trăng trong nước
Không có chướng ngăn
Như diệm (ngọn lửa) như hóa (huyễn hóa)
Vậy nên nay con
Cúi lạy Phật nguyệt (vầng trăng Phật).
Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:
Kinh Kim Quang Minh
Vua của các Kinh
Thậm thâm tối thắng
Vì không gì trên.
Thập lực Thế Tôn
Kinh đã tuyên nói.
Bốn vua các ông
Cần phải siêng hộ
Do nhân duyên đó
Kinh thâm diệu này
Hay cho sinh chúng
Khoái lạc không lường
Vì lợi an lạc
Của các chúng sinh
Nên mãi lưu bố
Ở Diêm phù đề
Hay diệt ba ngàn
Đại thiên thế giới
Đường ác sẵn có
Vô lượng các khổ
Các vị nhân vương
Diêm phù đề nội
Lòng sinh xót thương
Chánh pháp trị thế.
Nếu hay lưu bố
Diệu Kinh điển này
Thì khiến cõi ấy
Yên ổn thịnh giàu
Chúng sinh của nước
Đều thọ khoái lạc.
Nếu có nhân vương
Muốn yêu thân thể
Và đất nước mình
Muốn được phong thịnh
Thì phải hết lòng
Tắm rửa sạch trong
Đến chỗ pháp hội
Nghe Kim Quang Minh.
Kinh này có thể
Làm nên việc lành
Tiêu diệt tất cả
Oán tặc ngoài trong,
Lại hay trừ diệt
Sợ hãi không lường.
Những vua Kinh đó
Ban cho tất cả
Vô lượng chúng sinh
Yên ổn khoái lạc.
Như cây trân bảo
Ở trong nhà dân
Có thể sinh sản
Tất cả bảo trân.
Diệu Kinh điển đó
Cũng lại như trên
Có thể sinh sản
Các công đức vương.
Như nước lạnh trong
Có thể trừ khát
Kinh Kim Quang Minh
Cũng lại như vậy
Trừ khử các vương (các vua)
Công đức khao khát
Như hòm đựng dùng
Chứa vật báu lạ
Ở tại tay mình
Sử dụng tùy ý.
Kinh Kim Quang Minh
Cũng lại như vậy
Cho theo ý mình
Như vương pháp bảo
Kinh Kim Quang Minh
Kinh điển vi diệu
Thường được chư thiên
Cung kính cúng dường
Cũng được hộ thế
Bốn Đại Thiên Vương
Uy thần thế lực
Theo hộ, giữ gìn.
Chư Phật mười phương
Thường niệm Kinh ấy
Có người diễn nói
Lành thay! Ngợi khen
Cũng có trăm ngàn
Vô lượng thần quỉ
Đến từ mười phương
Ủng hộ người đó.
Kinh này nếu có
Người được nghe xong
Lòng sinh hoan hỷ
Hớn hở không lường.
Diêm phù đề nội
Đại chúng không lường
Hết thẩy vui mừng
Tập họp nghe pháp,
Nghe Kinh Kim Quang (Minh)
Đủ các uy đức
Thiên chúng tăng thêm
Tinh khí thân lực.
Lúc bấy giờ, bốn vua trời nghe kệ này xong, bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con từ xưa đến nay chưa từng được nghe pháp tịch diệt vi diệu như vậy. Chúng con nghe rồi, lòng sinh ra buồn vui, nước mắt tuôn trào, toàn thân rung động, chi thể rã rời, nhưng lại được vô lượng chẳng thể nghĩ bàn diệu lạc đầy đủ.
Rồi họ dùng hoa Mạn đà la, hoa Đại mạn đà la của trời tung lên trên đức Như Lai để cúng dường. Làm như vậy để cúng dường đức Phật rồi, bốn vua trời lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Bốn vua chúng con, mỗi người đều có năm trăm quỉ thần luôn luôn theo người nói pháp mà thủ hộ.
***
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT: NGÂN CHỦ ĐÀ LA NI
Hán dịch: Xà Na Quật Đa – Đời Tùy
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng:
– Các Bồ tát này đã huân tu các pháp gọi là các Bồ tát mẫu, Bồ tát tích hạnh (hạnh xưa), Bồ tát nhiếp thọ. Có pháp bổn tên là Bất nhiễm trước Đà la ni.
Nói như vậy rồi, mạng giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nói Đà la ni thì Đà la ni câu nghĩa gì đây? Vì Đà la ni chẳng phải là Đà la ni, thưa đức Thế Tôn! Vì phương xứ chẳng phải là phương xứ!
Nói như vậy rồi, đức Phật bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng:
– Rất hay! Rất hay! Này Xá Lợi Phất! Như ông phát hạnh Đại thừa, tín giải Đại thừa, tăng sức Đại thừa! Đúng như lời ông nói, Đà la ni ấy chẳng phải phương xứ, chẳng phải chẳng phương xứ, chẳng phải pháp, chẳng phải chẳng pháp, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải sự vật, chẳng phải chẳng sự vật, chẳng phải duyên, chẳng phải chẳng duyên, chẳng phải hành, chẳng phải chẳng hành, không có pháp sinh cũng không có diệt, chỉ vì lợi ích cho Bồ tát. Như vậy nói, Đà la ni này là đạo sở tác hợp lực trụ. Đó gọi là các công đức Phật, Giới của Phật, học của Phật, mật ý của Phật, sinh ra Phật, gọi pháp bổn tên là Bất nhiễm trước Đà la ni.
Nói như vậy rồi, mạng giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin ngài vì con diễn nói Tu dà đa (kinh)! Nguyện vì con diễn nói pháp bổn Đà la ni này mà Bồ tát trụ ở trong đó rồi sẽ thành chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ thành Chánh nguyện, chẳng y chỉ biện tài tự tính của pháp (?), sẽ được hy hữu tự an trụ đạo, gọi là được Đà la ni vậy.
Nói như vậy rồi, đức Phật bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng:
– Rất hay! Rất hay! Này Xá Lợi Phất! Đúng vậy! Đúng vậy! Này Xá Lợi Phất! Bồ tát được Đà la ni nên nói như Phật. Này Xá Lợi Phất! Bồ tát được Đà la ni, nếu có người cúng dường tôn trọng thừa sự cung cấp thì phải như cúng dường Phật. Này Xá Lợi Phất! Nếu sẽ có người nghe Đà la ni này hoặc thọ trì, hoặc tín giải thì những người đó trở lại ứng cúng dường như vậy, chẳng lìa khỏi tâm Bồ Đề như Phật không khác. Này Xá Lợi Phất! Đây là câu Đà la ni.
Đa điệt tha (1) San Đà la ni (2) Uất đa la ni (3) Tam bát la đế sử si đa (4) Tu na ma (5) Tu bát la đế sa tra (6) Tỷ xà dạ ba la (7) Tát đế gia bát la đề xà nhã (8) Tu a hô ha (9) Xà na ma đế (10) Uất đa ba đà ni (11) A bà na ma nê (12) A tỷ sư đà nê (13) A tỷ tỳ gia hạ la (14) Thủ bà la đế (15) Tu nê thi lợi đa (16) Bà hầu cùng bà (17) A tỹ bà đà (18) Ta bà ha (19).
Này Xá Lợi Phất! Đây là câu Đà la ni tên là Bất nhiễm trước, chính trụ, chính thọ tạo tác rồi. Nếu Bồ tát thọ trì thì Bồ tát đó hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp chẳng bỏ các nguyện, thân Bồ tát đó sẽ có thể hàng phục dao, gậy, thuốc độc, thú dữ… đều có thể bị hàng phục. Vì sao vậy? Này Xá Lợi Phất! Đà la ni Bất nhiễm trước này là mẹ của chư Phật quá khứ, mẹ của chư Phật đương lai, mẹ của chư Phật hiện tại, gọi pháp bản tên là Bất nhiễm trước Đà la ni. Này Xá Lợi Phất! Nếu có mười atăngkỳ ba ngàn đại thiên thế giới mà trong đó đầy bảy báu, rồi đem số báu đó cúng dường cho các đức Phật Thế Tôn và dùng đồ ăn thức uống, quần áo thượng thắng sẽ đem cúng dường những đức Phật trong ngần ấy atăngkỳ kiếp đó. Nếu đối với bản pháp Đà la ni Bất nhiễm trước này sẽ trì một câu thôi thì phước đức này sinh ra nhiều hơn phước đức cúng dường trên kia. Vì sao vậy? Này Xá Lợi Phất! Vì bản pháp Đà la ni Bất nhiễm trước này là mẹ của chư Phật vậy.
PHẨM THỨ MƯỜI HAI: ĐẠI BIỆN THIÊN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương
Lúc bấy giờ, Đại Biện thiên thần bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Người nói pháp đó, con sẽ thêm Lạc Thuyết Biện lực cho người ấy, khiến cho người ấy nói pháp trang nghiêm, theo thứ lớp khéo được đại trí. Nếu trong Kinh này có mất văn tự, câu nghĩa lầm lỗi thì chúng con có thể khiến cho vị Tỳkheo nói pháp này theo thứ lớp trở lại được năng lực cho tổng trì, khiến cho chẳng quên mất. Nếu có chúng sinh ở chỗ trăm ngàn đức Phật gieo trồng các căn lành thì người nói pháp này vì những người đó nên ở cõi Diêm Phù Đề giải nói, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho Kinh ấy chẳng đoạn tuyệt, lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được nghe Kinh này, sẽ khiến cho những người đó được lợi mạnh mẽ chẳng thể nghĩ bàn đại trí tuệ tụ, chẳng thể xưng lường quả báo phước đức, giỏi lý giải đủ thứ vô lượng phương tiện, giỏi có thể biện luận thông suốt (thỏa đáng) tất cả các luận, giỏi biết đủ thứ kỹ thuật của thế gian, có thể ra khỏi sinh tử được bất Thoái Chuyển, nhất định mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
( Phần dưới đây do ngài Xà Na Quật Đa dịch bổ túc vào)
Con nay lại muốn nói cho người nói pháp ấy phép chú dược tắm rửa. Nếu có Tỳkheo thọ trì Kinh này, lại có chúng sinh rất ưa thích nghe Kinh điển đó thì con vì những người đó trừ tất cả ác tinh tai quái, trừ cho họ dịch khí bệnh tật, khổ sinh tử, ác khẩu, đấu tranh, miệng lưỡi huyện quan, đêm nằm ác mộng, ác thần chướng nạn, yếm độc, chú trớ… tất cả ác chướng đều được diệt trừ. Những chúng sinh này nếu có thính thọ kinh pháp đó thì cần phải trì tụng chú này, dùng chú dược nấu nước nóng tắm rửa thân mình. Vậy nên con nói pháp chú dược: Lấy xương bồ tốt, hùng hoàng, mục túc hương, thi lợi sa, cam tùng hương, xa di (câu kỷ), thảo hoắc hương, hoa cao thảo, trầm hương, quế bì, đinh hương, phong hương, bạch giao hương, an tức hương, A la sa tiển hương, linh lăng hương, ngải nạp hương, chiên đàn hương, thạch hùng hoàng, thanh mộc hương, Uất kim hương, phụ tử, giới tử (hạt cải), súc sư, mật uất kim căn, na la đà thảo, long hoa…
Những vị thuốc như vậy thái mỏng ra, dùng ngày Quỷ tinh hòa hợp giã thuốc. Giã thuốc rồi dùng chú này chú vào đó một trăm lẻ tám biến (lần), nói chú rằng:
Đát điệt tha tô chỉ – Yết lị chỉ – Ca ma đá tả xà nộ ca la trì ha nộ ca la trì – Nhơn đà la xà li – Xa ca đề ly – Ba xà đề – Ly a bạt đá – Ca tư hài na – Câu độ câu – Ca tỳ la ca tỳ la mạt chỉ thi la mạt chỉ san đề – Đầu đầu ma bạt chỉ thi lị thi lị tát đế – Gia tát thất đế – Ta ba ha.
Rồi dùng phân trâu trét lên đất dọc ngang bảy khuỷu tay để làm đạo tràng, dùng hoa tung rải trong đạo tràng, treo tràng phan bảo cái bằng lụa ngũ sắc che khắp trên đất ấy, dùng chén vàng chén bạc đựng nước thạch mật, nước bồ đào, nước đường, sữa đặc ở bên ngoài đạo tràng. Đầu bốn góc đều đặt một người mình mang mâu giáp, tay cầm giáo, gậy, giấu mình mà đứng. Lại cần bốn đồng nữ, đồng tử đều mặc áo sạch phụng trì bình hoa cũng đứng ở bốn góc của đạo tràng, đốt giao hương cúng dường chẳng được đứt đoạn. Lại làm thần phan ngũ sắc, bốn góc an trí bảo tràng và trăm thứ âm thanh kỹ nhạc, dùng đồ sạch mới đựng nước thơm ấy đặt ở giữa đạo tràng. Rồi trước phải kiết giới, nhiên hậu mới tắm gội. Đọc chú rằng:
Đát điệt tha – Át la ky – Gia gia nỉ – Ê lị thi – Lị xí xí lị – Ta ba ha.
Rồi dùng chú chú vào nước hai mươi mốt biến, tung rải bốn phương. Lại nói chú nước thuốc, chú thân. Trước chú thân một trăm lẻ tám biến, lại chú nước thuốc một trăm lẻ tám biến, rồi dùng nước thuốc này tắm gội thân mình. Chú tắm rằng:
Đá điệt tha – Tỳ dà trì – Ta dà trì – Tỳ dà trà – Bạt đế ta ba ha.
Tụng chú tắm gội rồi, hành giả vì chính người ấy phát hoằng thệ nguyện rằng: “Nguyện xin thần tinh (sao) che hộ thân mạng, luôn khiến cho tốt lành, không có các chướng nạn, ác tinh tai quái đều không có gì sợ, bốn đại an lành, không có các bệnh hoạn, tất cả nỗi sợ hãi đều được trừ khỏi. Người ấy nói chú thân chú và nguyện chú rằng:
Ta nỉ tỳ ta nỉ – Ta ba ha – Ta dà trì – Tỳ dà trì ta ba ha ta dà la – Tam phù đá gia – Ta ba ha – Càn đà ma đà na gia ta ba ha – Ni la kiền tha gia ta ba ha – A la kỳ đá – Tỳ lị xà gia ta ba ha ê ma bà – Tam phù đá gia – Ta ba ha – A ni di la bạc ca đá la gia ta ba ha – Nẳn mồ bà dà bà đế – Bạt lam ma nỉ na ma ta la tát ky đế ma ha đề tỳ tứ trấn đố – Mạn đá la bát đà đảm bà la hùng ma a nô mạn nhã đô ta ba ha.
Đến đây, Đại Biện thiên thần bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì, đọc tụng, ghi chép, lưu thông, theo đúng như pháp mà làm thì hoặc thành ấp, tụ lạc, đồng trống, đường đi, chùa tháp, tăng phòng, trú xứ của người thế tục… Con sẽ vì những người này, đem theo quyến thuộc, tấu lên kỹ nhạc trời, đi đến đạo tràng, trừ diệt tất cả bệnh, tất cả ác tính tai quái, trừ cho họ tất cả dịch bệnh, khổ sinh tử, trừ tất cả ác khẩu, đấu tranh, miệng lưỡi của quan huyện, trừ tất cả đêm năm ác mộng, trừ tất cả ác thần chướng nạn, trừ tất cả yếm độc, chú trớ, trừ tất cả ác chướng. Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì đọc tụng Kinh này thì mau chóng qua khỏi phiền não, vào đến A tỳ bạt trí địa, hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do công đức này nên mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen thiên thần Đại Biện rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này Đại Biện thiên thần! Ông có thể vì chúng sinh suy nghĩ việc thiện, có thể khiến cho tất cả chúng sinh thực thi sự không sợ của họ, vì các chúng sinh nói lên công năng của thuốc chú này làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Đến đây, thiên thần Đại Biện lễ đức Phật ba lạy rồi trở lại tòa ngồi cũ. Lúc bấy giờ, Bà la môn Kiều Trần Như, do chú lực nên sẽ thỉnh thiên thần Đại Biện:
Cũng sẽ cung kính
Đại Biện thiên thần
Tất cả thế gian
Danh đều đến khắp.
Ở trong núi luôn
Trời, rồng, quỉ, thần
Tất cả đều kính
Áo cỏ mặc thường
Một chân mà đứng
Tất cả chư thiên
Đều đi đến đó.
Muốn thỉnh thiên thần
Nguyện cho tất cả
Trí tuệ chúng sinh
Lời nói biện rõ
Hay dùng lời lành.
Đa điệt tha – Mậu lị tỳ lị – A bà kỳ – A bà xà bạt đế hưng cừ lị – Di cừ li – Tân dà la bạt đế – Ương cừ sái mạt lợi chỉ tô ma đế – Đề kỳ ma đế – A kỳ lợi – Ma kỳ lợi đa la già bạt đế – Chỉ chỉ lợi thi lợi di lợi – Ma chỉ lợi la di nỉ – Lô ca chiết sư đế – Lô ca thi li sư đế – Lô ca tất lợi dịch tất đà bạt la đế – Tỳ ma mục xí – Thủ chỉ già lợi a ba la đế ha đế a ba la đế hà đa phù địa – Nam mâu chỉ nam mâu chỉ – Ma ha đề tỳ ba la đế dà lợi hất na – Na ma ta ca lam ma ma phù địa a ba la đế ha đa bà bà đố – Xa tát đa la – Xa lô ky đạn đa – La tỳ tra ca ca tỳ gia địa sơ – Đa diệt tha – Ma ha ba la bà tỳ ê lợi di lợi – Ê lợi di lợi – Tỳ già la đố – Ma ma phù địa y phạm na ma tả bà na dà bà đế – Tỳ gia đề ta la ta bạt đế – Ca la trì chỉ do li ê lợi di lợi ê lợi di lợi – A bà ha dương di ma ha đề – Tỳ Phật đà tát tri na – Đạt ma tát tri na tăng dà tát tri na nhân đà la tát tri na – Bà lâu na tát tri na di lô chỉ tát tri na – Bà đề na tri sảng tát tri na – Tát tri na bà chi nỉ na – A bà ha – Dương di ma ha đề tỳ đá điệt tha – Ê lợi di lợi – Ê lợi ê lợi tỳ già la đô bột đề – Ma ma nam mô bà già bà đế – Ma ha đề tỳ ta la ta ba đế – Tất trấn đố mạn đa la ba đà – Ta ba ha.
Lúc bấy giờ, Bà la môn Kiều Trần Như dùng kệ khen thiên thần Đại Biện:
Tất cả các quỉ thần
Nay chí tâm nghe kỹ
Tôi nay muốn ngợi khen
Thiên thần Đại Thánh Biện.
Đại Biện thiên tối tôn
Trong tất cả các nữ
Trời, tu la vân vân…
Dạ xoa và Càn thát
Trong các thánh thế gian
Là tối tôn tất cả.
Công đức nhiều vô vàn
Dùng để trang nghiêm thân
Mắt như hoa ưu bát
Tướng trí tuệ công đức
Như ngọc bảy báu thành
Thế gian rất khó thấy
Tôi nay muốn ngợi khen
Lời thậm thâm tối thắng.
Quyết định ban cho tất cả chúng
Tối thắng tối cao không ai hơn
Tướng tốt đoan nghiêm nhuần sinh chúng
Dáng hình thanh tịnh như hoa sen
Mắt dài mở ra hơn tất cả
Thân thể đoan chánh nhìn không nhàm
Đủ thứ trang nghiêm các tướng tốt
Ánh sáng thanh tịnh như ánh trăng
Trí tuệ có thể khắp tất cả
Giỏi tổng trì nhớ dai chẳng quên
Hiện hình người cưỡi trên sư tử
Thể có tám tay trang nghiêm thân
Chúng sinh nhìn thấy như mãn nguyệt
Tiếng vi diệu ngữ ngôn biện bàn
Khó nghĩ bàn thậm thâm trí tuệ
Do trí tuệ này tròn đầy luôn.
Hay thí chúng sinh tất cả nguyện
Với tất cả chúng là tối tôn.
Đế thích, Tu la, Dạ xoa với
Càn thát bà và cả chư thiên…
Tất cả đại chúng hằng khen ngợi
Chúng tôi đây đó phải cúng dường
Lòng cung kính thanh tịnh cẩn trọng
Do nguyện này nên đều cát tường
Ở chỗ bố úy luôn phòng hộ.
Nếu lại có người lòng sạch trong
Kệ bảy chữ này sáng sớm tụng
Ta khiến người này nguyện mãn viên
Cần gì cấp cho không thiếu thốn.
Nói kệ này xong, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
PHẨM THỨ MƯỜI BA: CÔNG ĐỨC THIÊN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương
Lúc bấy giờ, trời Công Đức bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Người nói pháp này, con sẽ tùy theo vật cần dùng của ông ấy như y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và các của cải khác mà cung cấp cho người này không có gì thiếu thốn, khiến cho lòng an trụ, ngày đêm hoan lạc, chánh niệm tư duy chương cú Kinh này, phân biệt nghĩa sâu. Nếu có chúng sinh ở chỗ trăm ngàn đức Phật gieo trồng các căn lành thì người nói pháp này vì những chúng sinh đó nên ở cõi Diêm Phù Đề tuyên dương, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Những chúng sinh đó nghe Kinh này rồi, ở đời vị lai vô lượng trăm ngàn na do tha kiếp, thường ở tại trên trời, trong loài người hưởng thụ niềm vui, gặp gỡ chư Phật; mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khổ của ba đường ác đều hết không còn.
Thưa đức Thế Tôn! Con đã ở chỗ đức Bảo Hoa Công Đức Hải Lưu Ly Kim Sơn Chiếu Minh Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn đời quá khứ, gieo trồng các căn lành. Vậy nên con nay tùy theo phương nghĩ đến, tùy theo phương nhìn thấy, tùy theo phương đi đến mà khiến cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh hưởng thọ các khoái lạc như y phục, ẩm thực, đồ dùng sinh sống, vàng, bạc, bảy báu, chân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, bích ngọc, kha bối… đều không gì thiếu thốn. Nếu có người xưng tán Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh, vì con cúng dường các đức Phật Thế Tôn, ba lần xưng tên con, đốt hương cúng dường. Cúng dường đức Phật rồi, riêng dùng hoa hương, đủ thứ vị ngon cúng dường cho con, tung rải các phương thì phải biết người đó liền có thể tụ tập của cải vật báu. Do nhân duyên này nên tăng trưởng vị của đất, thần đất và chư thiên đều được hoan hỷ, việc gieo trồng lúa gạo, mầm, thân, cành, lá, quả trái sum suê. Thần cây vui mừng sinh ra vô lượng đủ thứ những vật. Con thì dùng lòng từ niệm các chúng sinh nên ban cho họ nhiều vật dụng cần dùng cho cuộc sống.
Thưa đức Thế Tôn! Vua Tỳ Sa Môn ở phương Bắc này có ngôi thành tên là A Ni Mạn Đà. Thành ấy có vườn tên là Công Đức Hoa Quang. Ở trong vườn này có khu vườn tối thắng tên là Kim Tràng với bảy báu rất vi diệu. Đây tức là nơi con thường dừng ở. Nếu muốn của báu được tăng trưởng thì người này phải ở tại chỗ của mình, tưới nước quét dọn sạch sẽ, tắm gội thân thể, mặc áo trắng tinh khiết, dùng diệu hương xoa thân. Rồi vì con ba lần xưng danh diệu đức Phật Bảo Hoa Lưu Ly Thế Tôn kia. Lễ bái cúng dường, đốt hương, tung hoa cũng phải ba lần xưng Kinh Kim Quang Minh và chí thành phát nguyện. Rồi riêng dùng hương hoa, đủ thứ vị ngon cúng thí cho con, tung rải các phương. Lúc bấy giờ, phải nói chương cú như vầy:
– Bà lị phú lâu na già lợi – Tam mạn đà đạt xá ni – Ma ha tỳ ha la dà đế – Tam mạn đà tỳ na dà đế – Ma ha dà lị ba đế – Ba ta di – Tát bà đá tam mạn đà – Tu bát lị phú lệ – A dạ na đạt ma đế – Ma ha tỳ cổ tất đế – Ma ha di lặc ky tăng kỳ đế – Ê đế tỷ tam bác kỳ hy đế – Tam mạn đà a tha – A miễn ta la ni.
Nam mô Nhất Thiết Tam Thế Phật! Nam mô Nhất Thiết Chư Bồ tát! Nam mô Di Lặc Bồ tát.v.v…. con nay muốn nói thần chú:
Đá điệt tha – Ba lị phú lâu na già lợi – Tam mạn đà đạt xá ni – Ma ha tỳ ha la dà đế – Tam mạn đà tỳ đà na dà đế – Ma ha ca diếp lị gia. Ba lợi ba la ba nỉ tát bà lợi đà tam mạn đa tu bát lợi đế – Phú lệ na a dạ na đạt ma đa ma ha câu tất đế – Ma ha di lặc đế lô ky tăng kỳ đế đế ê đế tỉ tăng kỳ hi đế – Tam mạn đà át tha hà miễn ba la ni – Tá ba ha.
Chương cú quán đảnh này nhất định cát tường chân thật chẳng hư. Chúng sinh đẳng hạnh và trung thiện căn cần phải thọ trì đọc tụng thông lợi, bảy ngày bảy đêm thọ trì tám giới, sáng chiều tịnh tâm, hương hoa cúng dường mười phương chư Phật, thường vì thân mình và các chúng sinh và hồi hướng đầy đủ về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tác khởi thệ nguyện này khiến cho sở cầu của con đều được cát tường, ở chỗ ở của mình như nhà cửa, phòng xá tự quét dọn sạch sẽ, tinh khiết, rồi hoặc tại chỗ của mình, hoặc chỗ A lan nhã dùng bùn thơm tô trát trên đất, đốt hương thơm vi diệu, bày tòa ngồi đẹp thanh tịnh, dùng đủ thứ hoa hương tung trải lên đất ấy để đợi con. Con vào lúc đó, như trong khoảnh khắc một niệm, vào nhà người ấy liền ngồi trên tòa ngồi vi diệu đó. Từ đây, ngày đêm con khiến cho gia cư này, hoặc thôn ấp, hoặc tăng phường, hoặc lộ địa không điều gì thiếu thốn. Hoặc tiền, hoặc vàng bạc, hoặc trân bảo, hoặc trâu dê, hoặc lúa gạo… tất cả sự cần dùng liền được đầy đủ, mọi người đều thọ khoái lạc. Nếu họ có thể đem phần thiện căn tối thắng đã làm của mình mà hồi hướng cho con thì con sẽ trọn đời chẳng xa người ấy. Ở chỗ sở trụ chí tâm hộ niệm, tùy theo sự cầu xin của người ấy, con khiến cho họ được thành tựu. Người ấy cần phải chí tâm lễ những đức Phật Thế Tôn như vầy mà danh hiệu các vị ấy là: Bảo Thắng Như Lai, Vô Cấu Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Như Lai, Kim Diệm Quang Minh Như Lai, Kim Bách Quang Minh Chiếu Tạng Như Lai, Kim Sơn Bảo Cái Như Lai, Kim Hoa Diệm Quang Tướng Như Lai, Đại Cự Như Lai, Bảo Tướng Như Lai… cung kính lễ bái: Tín Tướng Bồ tát, Kim Quang Minh Bồ tát, Kim Tạng Bồ tát, Thường Bi Bồ tát, Pháp Thượng Bồ tát… cũng lễ bái đức A Súc Như Lai ở phương Đông, đức Bảo Tướng Như Lai ở phương Nam, đức Vô Lượng Thọ Phật ở phương Tây, đức Vi Diệu Thanh Phật ở phương Bắc.
PHẨM THỨ MƯỜI BỐN: KIÊN LAO ĐỊA THẦN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương
Lúc bấy giờ, địa thần Kiên Lao bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kinh Kim Quang Minh này, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai ở tại khắp nơi nơi, hoặc thành ấp tụ lạc, hoặc sơn trạch chỗ trống, hoặc cung vua nhà cửa… thưa đức Thế Tôn! Tùy theo chỗ Kinh điển này lưu bố, trong địa phận này bày tòa ngồi Sư tử để cho người nói pháp ngồi trên tòa ngồi ấy diễn nói tuyên dương rộng rãi Kinh điển vi diệu này thì con sẽ ở trong chỗ đó luôn làm túc vệ mà ẩn che thân mình, ở dưới pháp tòa đảnh lễ kính trọng dưới chân pháp sư ấy. Con nghe pháp rồi, được uống pháp vị cam lộ vô thượng, tăng thêm khí lực mà đại địa này sâu đến mười sáu vạn tám ngàn do tuần, từ bờ cõi Kim Cương đến trên đất biển đều được mọi vị tăng trưởng đầy đủ, mầu mỡ phong thịnh hơn ngày hôm nay. Do vậy cho nên, bên trong cõi Diêm Phù Đề, thảo dược, cây cối, rễ, thân, cành, lá, hoa, trái sum suê, màu đẹp vị thơm. Chúng sinh ăn những thứ đó rồi thì tăng trưởng thọ mạng, sắc lực được yên, các căn, sáu tình đầy đủ thông lợi, uy đức nhan mạo đoan nghiêm đặc thù. Thành tựu đủ thứ như vậy rồi thì sự nghiệp đã làm được nhiều thành công, có thế lực lớn, tinh cần dũng mãnh. Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Bên trong cõi Diêm Phù Đề yên ổn, giàu thịnh, vui sướng, nhân dân đông đúc, tất cả chúng sinh thụ hưởng nhiều khoái lạc, lòng ưng ý thích theo niềm vui của họ. Những chúng sinh này được uy đức, thế lực lớn này rồi, có thể cúng dường Kinh Kim Quang Minh và cung kính cúng dường bốn bộ chúng, người thọ trì. Vào lúc ấy, con sẽ đến chỗ ấy, vì các chúng sinh thọ khoái lạc mà thỉnh người nói pháp tuyên bố rộng rãi Kinh điển như vậy. Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì kinh Kim Quang Minh này, nếu khi tuyên nói rộng rãi thì uy đức sở đắc của con và quyến thuộc hơn bội phần bình thường, thân lực tăng trưởng, lòng tinh tấn dũng nhuệ.
Thưa đức Thế Tôn! Con uống vị cam lộ vô thượng rồi, đất cõi Diêm Phù Đề ngang dọc bảy ngàn do tuần phong thịnh mầu mỡ bội phần lúc thường. Thưa đức Thế Tôn! Sự nương tựa của tất cả chúng sinh trên đại địa này đều như có thể tăng trưởng tất cả vật cần dùng. Tăng trưởng tất cả vật cần dùng rồi, khiến cho các chúng sinh sử dụng theo ý, hưởng thụ khoái lạc với đủ thứ ẩm thực, y phục, ngọa cụ, cung điện, nhà cửa, cây cối, vườn rừng, sông ao, suối giếng.v.v… Những vật như vậy nhân nương vào đất đều đầy đủ hết. Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Những chúng sinh này vì biết ơn con nên tác khởi ý nghĩ này: “Ta phải nhất định thính thọ Kinh này, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán!”. Nghĩ thế rồi, họ liền từ chỗ ở, hoặc thành ấp, tụ lạc, nhà cửa, đất trống mà đi đến chỗ pháp hội mà thính thọ Kinh này. Đã thính thọ rồi, họ trở lại chỗ ở của mình, đều mừng cho nhau mà nói lên rằng: “Chúng ta hôm nay nghe được diệu pháp thậm thâm vô thượng này, đã được nhiếp lấy chẳng thể nghĩ bàn công đức tụ, gặp gỡ vô lượng vô biên các đức Phật, quả báo ba đường ác đã được giải thoát, vào đời vị lai thường sinh lên trời, trong loài người, hưởng thọ khoái lạc”. Những chúng sinh đó đều ở tại trú xứ, hoặc vì người khác diễn nói Kinh này, hoặc nói một ví dụ, một phẩm, một duyên, hoặc lại xưng tán một đức Phật, một vị Bồ tát, một bài kệ bốn câu… cho đến một câu mà xưng danh tự đầu đề Kinh này… Thưa đức Thế Tôn! Tùy theo chỗ sở trụ của chúng sinh đó mà đất nơi ấy đầy đủ mầu mỡ phong thịnh hơn đất chỗ khác. Phàm vật sinh ra nhân đất này đều được tăng trưởng to rộng nhiều thêm khiến cho chúng sinh thụ hưởng được khoái lạc, của báu dư thừa, ưa làm bố thí, lòng thường kiên cố tin sâu Tam Bảo.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo địa thần Kiên Lao rằng:
– Nếu có chúng sinh thậm chí chỉ nghe nghĩa một câu của Kinh Kim Quang Minh này thì thọ mạng trong loài người hết được tùy ý vãng sinh lên Tam Thập Tam thiên. Này Địa thần! Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường Kinh điển này mà trang nghiêm nhà cửa… cho đến giăng treo một phan một bảo cái, hoặc dùng một chiếc áo… thì sáu trời cõi Dục đã có cung điện thất bảo tự nhiên thì người này sau khi mạng chung liền vãng sinh về đó. Này Địa thần! Ở trong những cung điện thất bảo, mỗi mỗi đều tự nhiên có bảy thiên nữ chung nhau vui sướng, ngày đêm thường hưởng thụ khoái lạc vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, Địa thần bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Do nhân duyên khi Tỳkheo ngồi pháp tòa nói pháp, con thường ngày đêm hộ vệ chẳng rời, ẩn che thân mình và tại dưới pháp tòa, đảnh lễ dưới chân vị ấy, thưa đức Thế Tôn! Nên nếu có chúng sinh ở trăm ngàn chỗ Phật gieo trồng thiện căn thì người nói pháp này vì những người đó mà ở cõi Diêm Phù Đề tuyên nói, lưu bố Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Những chúng sinh đó nghe Kinh này rồi, đời vị lai vô lượng trăm ngàn na do tha kiếp, họ ở trên trời, trong loài người thường hưởng thọ khoái lạc, gặp gỡ các đức Phật, mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khổ của ba đường ác đều cắt đứt không còn.
PHẨM THỨ MƯỜI LĂM: TÁN CHỈ QUỈ THẦN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương
Lúc bấy giờ, Tán Chỉ Quỉ Thần đại tướng quân và hai mươi tám bộ những quỉ thần đều liền đứng dậy, trật áo vai phải quì gối phải xuống đất, bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, nếu đời hiện tại và đời vị lai, ở tại khắp nơi nơi, hoặc thành ấp, tụ lạc, hoặc sơn trạch, chỗ trống, hoặc vương cung, nhà cửa… tùy theo chỗ lưu bố của Kinh điển này thì con sẽ cùng với hai mươi tám bộ đại quỉ thần này đi đến chỗ đó, ẩn che thân hình mà theo đuổi ủng hộ người nói pháp đó, tiêu diệt các ác khiến cho được yên ổn. Đối với chúng nghe pháp, hoặc nam hoặc nữ hay đồng nam, đồng nữ, ở trong Kinh này, thậm chí chỉ nghe được danh hiệu một đức Như Lai, một vị Bồ tát, và danh tự đầu đề của Kinh điển này mà thọ trì đọc tụng thì con sẽ theo hầu làm túc vệ ủng hộ, diệt hết ác của người ấy, khiến cho được yên ổn. Và quốc ấp, thành quách hay cung điện vua, nhà cửa, chỗ trống đều cũng như vậy. Thưa đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà con tên là Tán Chỉ Quỉ Thần đại tướng? Thưa vâng, đức Thế Tôn tự sẽ chứng biết. Thưa đức Thế Tôn! Con biết tất cả pháp, tất cả duyên pháp, rõ tất cả pháp, biết rành rẽ pháp, như pháp an trụ tất cả pháp, như tính đối với tất cả pháp, hàm thọ tất cả pháp.
Thưa đức Thế Tôn! Con hiện thấy ánh sáng trí chẳng thể nghĩ bàn, đuốc trí chẳng thể nghĩ bàn, trí hạnh chẳng thể nghĩ bàn, trí tụ chẳng thể nghĩ bàn, trí cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn! Con đối với các pháp chánh giải, chánh quán được chánh phân biệt, chánh giải. Con đối với duyên chánh có thể hiểu rõ. Thưa đức Thế Tôn! Do vậy nên gọi là Tán Chỉ Đại Tướng. Thưa đức Thế Tôn! Tán Chỉ Đại Tướng, con khiến cho người nói pháp trang nghiêm lời nói biện luận chẳng đoạn tuyệt, mọi vị tinh khí theo lỗ chân lông vào làm sung mãn thêm thân lực, lòng tinh tấn dũng nhuệ, thành tựu trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, vào chánh ức niệm… Những việc như vậy đều khiến cho người nói pháp đó đầy đủ, lòng không mệt chán, thân thọ an vui, lòng được hoan hỷ. Do vậy nên người đó có thể vì chúng sinh rộng nói Kinh này. Nếu có các chúng sinh ở trăm ngàn chỗ Phật gieo trồng các thiện căn thì người nói pháp vì những chúng sinh đó, ở bên trong cõi Diêm phù đề tuyên dương, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Vô lượng chúng sinh nghe Kinh này rồi sẽ được trí tụ chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp lấy công đức tụ chẳng thể nghĩ bàn. Vào đời vị lai vô lượng trăm ngàn kiếp họ thường ở trong người, trời hưởng thụ khoái lạc. Vào đời vị lai họ gặp gỡ các đức Phật, mau chóng được chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả mọi khổ và số phận ba đường ác diệt trừ vĩnh viễn không còn. Nam mô Bảo Hoa Công Đức Hải Lưu Ly Kim Sơn Quang Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri! Nam mô Vô Lượng Bách Thiên Ức Na Do Tha Trang Nghiêm Kỳ Thân Thích Ca Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri thắp lên đuốc pháp vi diệu như vậy! Nam mô Đệ Nhất Uy Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên! Nam mô Bất Khả Tư Lượng Trí Tuệ Công Đức Thành Tựu Đại Biện Thiên!
PHẨM THỨ MƯỜI SÁU: CHÁNH LUẬN
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm – Đời Bắc Lương
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo địa thần Kiên Lao rằng:
– Thuở quá khứ, có vị vua tên là Lực Tôn Tướng, vị vua ấy có người con tên là Tín Tướng chẳng bao lâu sẽ thọ ngôi Quán Đảnh, thống lĩnh đất nước. Bấy giờ, vua cha bảo thái tử Tín Tướng ấy rằng: “Đời có Chánh luận khéo trị đất nước! Ta thuở xưa từng làm thái tử, chẳng bao lâu phải nối ngôi vua cha. Bấy giờ, vua cha mang Chánh luận đó mà vì ta giải nói. Ta dùng Chánh luận này khéo trị đất nước đến hai vạn năm, chưa từng một niệm dùng hạnh phi pháp, đối với quyến thuộc của mình, tình cảm không có ái trước”.
Những gì là Chánh luận trị đời? – Này Địa thần! Bấy giờ, vua Lực Tôn Tướng vì thái tử Tín Tướng nói kệ này rằng:
Ta nay sẽ nói
Chánh luận chư vương
Vì lợi sinh chúng
Đoạn các nghi nan
Vua người tất cả
Vua trời chư thiên
Nên phải hoan hỷ
Chắp tay lắng lòng (nghe):
Các vua hòa hợp
Gom núi Kim Cương.
Hộ Thế bốn trấn
Khởi hỏi Phạm Vương:
– Đại sư Phạm tôn
Đấng Tự Tại Thiên
Hay trừ nghi hoặc
Vì tôi đoạn tan
Làm sao người đó
Được gọi là Thiên?
Làm sao nhân vương
Lại gọi thiên tử?
Trong loài người sinh
Sống ở vương cung
Chính pháp trị thế
Mà gọi là Thiên (trời)?
Hộ Thế tứ vương
Hỏi xong việc đó
Tôn sư Phạm Vương
Liền nói kệ đáp:
– Các ông tuy dùng
Nghĩa này mà hỏi
Ta nay cần phải
Vì mọi chúng sinh
Nói bày tuyên dương
Thắng luận đệ nhất.
Nhân Tập nghiệp nên
Sinh trong nhân gian
Thống lĩnh đất nước
Nên xưng Nhân vương.
Ở trong thai mẹ
Chư thiên thủ hộ
Hoặc trước giữ gìn
Sau vào thai mẹ
Tuy tại nhân trung
Mà làm Nhân vương
Vì do trời hộ
Lại xưng thiên tử
Tam Thập Tam thiên
Đều lấy đức mình.
Chia cho người đó
Nên xưng thiên tử.
Đã thêm sức thần
Nên được tự tại
Pháp ác lìa khỏi
Khiến chẳng khởi lên
An trụ pháp thiện
Tu khiến rộng thêm
Hay khiến chúng sinh
Sinh lên thiên thượng
Nửa tên Nhân vương.
Cũng tên Chấp Lạc,
La sát dữ dằn
Làm ác hay ngăn.
Cũng tên cha mẹ
Tu thiện dạy răn
Thị hiện quả báo
Chư thiên đã hộ.
Các nghiệp ác lành
Vị lai hiện tại
Hiện chịu báo đền
Chư thiên đã hộ.
Nếu có ác sự
Chẳng hỏi mà buông.
Chẳng trị tội ấy
Chánh giáo chẳng dùng
Bỏ xa thiện pháp
Ác tụ lớn tăng
Nên khiến trong nước
Nhiều những tranh gian
Tam Thập Tam thiên
Đều sinh sân hận
Do vị quốc vương
Tha ác không trị
Ác pháp hại dân
Gian trá xí thạnh.
Oán địch tha phương
Tranh đến xâm lược
Sở hữu nhà mình
Tiền tài trân bảo
Giặc trộm ác hung
Chung nhau cướp đoạt.
Pháp trị thế gian
Chẳng làm việc đó.
Nếu làm việc đó
Nước ấy diệt tan
Như con cuồng tượng (voi điên)
Dày xéo ao sen
Gió dữ bỗng khởi
Mưa xấu thường tuôn
Ác tinh xuất hiện
Nhật nguyệt vô quang
Kết quả ngũ cốc
Đều chẳng nhiều thêm.
Do vua bỏ chính
Khiến nước cơ hàn
Trời ở cung điện
Đều ôm lo buồn.
Do vua bạo ngược
Chẳng tu việc lành
Lúc đó, Thiên đế
Nói với nhau rằng:
– Vua này làm ác
Bạn cùng ác hung!
Vì tạo tác ác
Bị trời giận hờn
Do trời nổi giận
Chẳng lâu nước tan
Phi pháp binh khí
Gian trá đấu tranh
Dịch bệnh hoành hành
Dồn vào nước ấy.
Tất cả trời liền
Lìa bỏ vua đó
Khiến nước bại vong
Sinh đại sầu não.
Anh em chị em
Vợ con quyến thuộc
Lưu ly cô độc
Thân cũng diệt vong.
Lưu tinh (sao băng) rơi rụng
Hai ngày hiện liền
Giặc ác tha phương
Xâm lược cõi ấy.
Nhân dân cơ hàn
Nhiều những dịch bệnh
Đại thần trọng dụng
Lìa bỏ tử vong
Voi ngựa xe cộ
Thoáng chốc diệt tan
Gia tài sản nghiệp
Sở hữu quốc dân
Tranh nhaucướp đọat
Chết vì đao binh
Năm tinh các tú (tinh tú: sao)
Trái mất độ thường (không theo quĩ đạo)
Các dịch bệnh ác
Nước ấy lan tràn.
Những người hưởng lộc
Sủng ái đại thần.
Và những quan lại
Chuyên làm phi pháp.
Làm ác như trên
Mà hưởng ân huệ
Người tu pháp lành
Ngày ngày suy giảm
Người ác pháp hành
Mà sinh cung kính.
Thấy người tu hành
Lòng chẳng ngoái lại
Nên khiến thế gian
Ba điều lạ khởi:
Sao mất độ thường
Tuôn mưa gió dữ.
Phá hoại pháp chân
Cam lộ vô thượng
Những loài chúng sinh
Và đất mầu mỡ.
Tệ ác kính nhường,
Người lành hủy báng
Nên mưa đá tuông
Dịch bệnh, đói, chết
Trái cây, gạo thóc
Suy giảm vị ngon
Chúng sinh nhiều bệnh.
Nước ấy đầy tràn
Quả ngon trái ngọt
Ngày ngày giảm dần
Vị đắng thô ác
Theo thời tăng lên.
Chỗ cũ du hí
Đáng yêu vô cùng
Nay đều khô héo
Đáng yêu không còn.
Đồ ăn chúng sinh
Thượng vị tinh diệu
Tổn giảm dần dần
Ăn không bổ dưỡng
Xấu xí dung nhan
Suy vi khí lực.
Phàm việc uống ăn
Chẳng biết chán đủ,
Dũng mãnh lực tinh
Diệt hết không có.
Giải đãi chơi rong
Tràn đầy nước ấy.
Tật khổ nhiều thêm
Bức thiết thân ấy.
Biến động ác tinh
La sát làm loạn
Nếu có Nhân vương
Làm theo phi pháp
Bạn ác tăng lên
Tổn đạo nhân thiên,
Ở trong ba cõi
Khổ não nhiều thêm.
Khởi lên việc ác
Như vậy không lường
Đều do Nhân vương
Ái trước quyến thuộc
Cho họ tạo ác
Chẳng trị mà buông (tha).
Nếu là chư thiên
Ủng hộ đời sống
Thì vua như trên
Trọn chẳng được thế.
Có người làm lành
Được sinh Thiên thượng,
Người làm chẳng lành
Đọa ba đường ác
Tam Thập Tam thiên
Sinh ra cháy nóng
Do vua ác dung (túng)
Tha mà chẳng trị.
Trái nghịch chư thiên
Và cha mẹ dạy
Chẳng trị chánh chân
Chẳng phải con hiếu
Khởi lên ác gian
Phá hoại đất nước.
Chẳng nên bỏ buông (tha)
Phải chánh trị tội
Vậy nên chư thiên
Hộ trì vua đó.
Ác pháp diệt tan
Tu tập thiện căn
Hiện thế chánh trị
Vương vị được tăng
Nên đều vì nói:
Nghiệp lành, chẳng lành.
Hay bày nhân quả
Nên được làm vương
Chư thiên thủ hộ
Lân vương (vua ở gần) giúp đỡ
Vì mình vì người
Tu chánh trị nước.
Có người hoại nước
Chánh giáo phải dùng.
Vì mạng và nước
Chánh pháp tu hành
Chẳng nên làm ác
Ác chẳng nên dung (túng)
Việc sở hữu khác
Chẳng ứng hoại nước
Ác nhân (nhân duyên) nhiều gian (trá)
Nhiên hậu khuynh bại.
Nếu khởi nhiều gian (trá)
Hủy hoại đất nước
Như voi dữ nhất
Phá hoại ao sen.
Oán hận chư thiên
Nên trời sinh não
Khởi việc ác hung
Khắp cùng nước ấy.
Vậy nên phải dùng
Chánh pháp trị thế,
Dùng thiện hóa dân (nước)
Chẳng theo phi pháp.
Thà mất mạng thân
Chẳng yêu quyến thuộc
Với thân phi thân (người thân, chẳng phải người thân)
Lòng luôn bình đẳng.
Xem thân, phi thân
Hòa hợp làm một.
Chánh hạnh danh xưng
Lưu trải ba cõi
Chánh pháp trị dân (nước)
Người làm nhiều thiện,
Thường dùng thiện tâm
Chiêm ngưỡng quốc vương
Hay khiến thiên chúng
Đầy đủ mãn sung.
Vậy nên Chánh trị
Gọi là Nhân vương
Tất cả chư thiên
Vua người ái hộ.
Giống như cha mẹ
Ủng hộ con mình
Nên khiến nhật nguyệt
Các sao, năm tinh (tinh tú: sao)
Theo phận tề chỉnh
Chẳng mất độ thường
Gió mưa đúng lúc (theo đúng thời tiết)
Không có tai ương
Khiến nước phồn thịnh
An lạc tưng bừng
Nhân dân tăng ích (thêm)
Quần chúng chư thiên.
Do nhân duyên đó
Nên các Nhân vương
Thì mất thân mạng
Ác chẳng nên làm,
Chẳng nên lìa bỏ
Chính pháp bảo trân
Do chính pháp bảo
Người đời yêu thương.
Thường phải cận thân
Người tu chánh pháp
Công đức tụ gom
Trang nghiêm thân ấy
Với quyến thuộc mình
Luôn biết dừng đủ
Phải xa ác nhân
Tu trị chính pháp.
Dừng yên chúng sinh
Ở các thiện pháp
Dạy bảo hộ phòng
Khiến lìa bất thiện
Nên đất nước yên,
Giàu thịnh vui sướng
Vua đó cũng thêm
Uy đức đầy đủ
Tùy theo nhân dân
Hành động ác pháp
Cần phải phục hàng
Như pháp dạy răn
Vua này sẽ được
Danh dự tốt lành
Khéo hay nhiếp hộ
An lạc chúng sinh.