Quyển thứ hai
Phẩm pháp thứ nhất
Phần hai
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có người muốn được Như Thật Trí, được Chánh Biến Tri, được đoạn lìa sanh tử ở ngay tự tâm của họ. Điều ấy có nghĩa rằng chưa lìa sự tham lam và không thể có kết quả, không thể biến tri, chẳng thể đẳng giác cũng chẳng Niết Bàn, cũng chẳng chứng đắc được vô thượng an lạc. Nếu có người đã tham muốn như thế rồi, có thể xa lìa rồi. Nơi tự tâm của y ly được tham dục rồi, thì kẻ đó tức sẽ được thông đạt, tức sẽ được chánh giác, tức sẽ được Niết Bàn, tức sẽ có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên sự tham muốn đó là Như Thật Trí, là ứng Chánh Biến Tri, là hay cầu xa lìa. Ở nơi pháp Phật thường tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu cầu trí chưa được
Niết Bàn còn xa kia
Kẻ tham trí như thế
Đến Niết Bàn khó được
Ta thấy loài hữu tình
Do tham dục nhiễm ô
Trở lại đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều ấy
Xa rời việc tham dục
Chứng được quả Sa Môn
Chắc chắn chẳng sanh nữa.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết nếu có kẻ sân hận chưa có Như Thật Trí, chưa có Chánh Biến Tri, chưa thể xa lìa. Nơi tự tâm kẻ ấy chưa lìa được sự sân hận vậy. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có kẻ tham về Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, hay xa lìa rồi thì tự tâm nơi kẻ ấy đã xa rời sự sân hận tức hay thông đạt, tức hay biến tri, tức hay đẳng giác, tức hay Niết Bàn, tức hay chứng được vô thượng an lạc. Cho nên kẻ sân đó nên có Như Thật Trí, nên Chánh Biến Tri, nên cầu xa lìa, ở nơi Phật Pháp hay tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu sân hận chưa hết
Niết Bàn vẫn còn xa
Sân hận đã hết rồi
Niết Bàn chẳng giao động
Ta xem loài hữu tình
Do sân hận ô nhiễm
Lại qua nơi ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều ấy
Kẻ xa lìa sân hận
Chứng được quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng sanh nữa.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ vì si mê nên chưa biết được Như Thật Trí, chưa biết được Chánh Biến Tri, chưa có thể xa lìa. Đối với tâm của kẻ đó chưa rời khỏi sự si mê thì chẳng thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có người từ nơi si mê mà sanh Như Thật Trí, Chánh Biến Tri rồi, xa lìa rồi thì đối với tâm kẻ đó đã xa rời si mê vậy. Cho nên có thể thông đạt, tức có thể biến tri, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên từ si mê có thể có Như Thật Trí, có thể có Chánh Biến Tri, có thể cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp hay tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu chưa hiểu được si
Kẻ kia xa Niết Bàn
Nếu đã rõ si rồi
Đến Niết Bàn không khó
Ta xem loài hữu tình
Do si mê ô nhiễm
Lui tới đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều đó
Kẻ ấy đoạn si mê
Chứng được quả Sa Môn
Tức được chỗ chẳng sanh
Từ Đức Thế Tôn ta đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ nào bị che lấp khó thấy Như Thật Trí, khó biết Chánh Biến Tri, khó thể lìa sanh tử. Tự tâm của kẻ kia chưa ra khỏi chỗ bị che lấp. Cho nên chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng có thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có người bị che khuất rồi thì Như Thật Trí, Chánh Biến Tri rồi, có lìa sanh tử rồi thì đối với tự tâm của kẻ kia đã xa rời sự che khuất vậy. Tức hay thông suốt, tức hay biến tri, tức hay đẳng giác, tức hay Niết Bàn, tức hay chứng được vô thượng an lạc. Cho nên đối với sự che đậy kia phải biết có thể là Như Thật Trí, có thể là Chánh Biến Tri, có thể cầu được sự xa lìa. Ở nơi Phật Pháp thường hay tu hành phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu chưa rõ che đậy
Niết Bàn đến còn xa
Biết rõ che đậy rồi
Đến Niết Bàn chẳng khó
Ta xem loài hữu tình
Do che đậy nhiễm ô
Lại nghe đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều nầy
Đoạn được sự che đậy
Được chứng quả Sa Môn
Chắc chắn chẳng thọ sanh.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như vầy. Nầy các Tỳ Kheo! Nếu có kẻ nương vào sự não hại thì chưa có Như Thật Trí, chưa có Chánh Biến Tri, chưa thể xa lìa. Ở nơi tự tâm của kẻ ấy chưa rời được phiền não. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được an lạc. Nếu có kẻ qua khỏi sự khổ não rồi thì Như thật trí, Chánh biến tri rồi, có thể đoạn lìa sanh tử rồi thì đối với tự tâm của kẻ đó đã xa rời phiền não rồi vậy. Tức có thể thông đạt, có thể Chánh Biến Tri, tức có đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên đối với sự phiền não đó, nên là Như Thật Trí; nên là Chánh Biến Tri, nên cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp, tu hành phạm hạnh. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu phiền não chưa rõ
Kẻ kia xa Niết Bàn
Khổ não đã biết rồi
Niết Bàn không xa nữa
Ta xem loài hữu tình
Do phiền não ô nhiễm
Tới lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều nầy
Xa rời phiền não nầy
Chứng được quả Sa Môn
Chắc chắn chẳng sanh tử.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ nương nơi giận hờn chưa được Như Thật Trí, chưa được Chánh Biến Tri, chưa có thể xa lìa, ở nơi tự tâm của kẻ đó, chưa rời khỏi sự giận hờn; nên chưa thể thông đạt, chưa thể biến tri, chưa thể đẳng giác, chưa thể Niết Bàn, chưa thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu kẻ đó nơi giận hờn đã qua Như Thật Trí, qua Chánh Biến Tri, có thể qua sự đoạn lìa, thì nơi tự tâm của người ấy đã lìa khỏi sự giận hờn vậy. Tức có thể thông đạt, tức có thể biến tri, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên ở nơi sự giận hờn, nên là Như Thật Trí; nên là Chánh Biến Tri; nên cầu lìa sanh tử. Ở trong Phật Pháp, hay tu phạm hạnh. Lúc bây giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu giận hờn chưa hết
Người kia khó Niết Bàn
Kẻ rõ giận hờn rồi
Đến Niết Bàn không khó
Ta xem các hữu tình
Do giận hờn nhiễm ô
Đến lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết như vậy
Kẻ xa lìa sanh tử
Được chứng quả Sa Môn
Cuối cùng chẳng sanh tử
Ta từ Đức Thế Tôn đã nghe được như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ ghét gỏng, chưa được lìa sanh tử, kẻ ấy nơi tự tâm, chưa lìa khỏi sự ghét gỏng vậy. Không thể thông đạt, không thể biến tri, không thể đẳng giác, không thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có kẻ ghét gỏng mà đã qua Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, có thể lìa sanh tử rồi thì nơi tự tâm kẻ ấy đã xa lìa sự ghét gỏng vậy. Tức có thể thông đạt, tức có thể biến tri, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn. Tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên đối với kẻ ghét gỏng giống Như Thật Trí, giống Chánh Biến Tri, giống cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp thường tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu ghét gỏng chưa rõ
Kẻ ấy Niết Bàn xa
Nơi ghét gỏng rõ biết
Đến Niết Bàn không ngại
Ta xem các hữu tình
Do ghét gỏng nhiễm ô
Tới lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết rõ hết
Kẻ xa lìa ghét gỏng
Được chứng quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng sanh nữa.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu ở nơi tật đố, chưa có Như Thật Trí, chưa có Chánh Biến Tri, chưa thể lìa sanh tử, ở nơi tự tâm kia, chưa rời khỏi sự tật đố vậy. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu từ tật đố mà được Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, có thể lìa sanh tử rồi, nơi tự tâm của kẻ kia đã lìa được tật đố vậy. Tức có thể thông đạt, tức có thể biến tri, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên từ nơi tật đố, nên Như Thật Trí, nên Chánh Biến Tri, nên cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp, hay tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu tật đố chưa rõ
Kia đến Niết Bàn khó
Tật đố đã rõ rồi
Đến Niết Bàn chẳng sao
Ta xem loài hữu tình
Do nhiễm ô tật đó
Lui tới đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết được rồi
Kẻ xa lìa tật đố
Được chứng quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng thọ sanh.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ keo kiệt, chưa rõ Như Thật Trí, chưa được Chánh Biến Tri, chưa thể lìa sanh tử. Ở nơi tự tâm của người đó, chưa lìa được sự keo kiệt vậy, chẳng có thể thông đạt, chẳng có thể biến tri, chẳng có thể đẳng giác, chẳng có thể Niết Bàn, chẳng có thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu từ sự keo kiệt mà biết Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, lìa xa sanh tử rồi, thì ở nơi tự tâm của người ấy lìa khỏi sự keo kiệt vậy. Tức có thể thông đạt, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên sự keo kiệt, nên là Như Thật Trí; nên là Chánh Biến Tri, nên lìa xa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp, hay tu phạm hạnh. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu chưa rõ keo kiệt
Kẻ kia xa Niết Bàn
Kẻ rõ keo kiệt rồi
Đến Niết Bàn chẳng khó
Ta xem loài hữu tình
Do keo kiệt nhiễm ô
Tới lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết rõ được
Xa lìa sự keo kiệt
Chứng được quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng thọ sanh.
Ta từ Đức Thế Tôn đã từng nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ ham thích, chưa được Như Thật Trí, chưa có Chánh Biến Tri, chưa thể lìa sanh tử. Ở nơi tự thân kia chưa lìa được sự ham thích vậy. Chẳng có thể thông đạt, chẳng có thể biến tri, chẳng có thể đẳng giác, chẳng có thể Niết Bàn, chẳng có thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có kẻ ham thích Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, hay lìa sanh tử rồi. Ở nơi tự tâm của họ tức đã lìa sự ham thích vậy. Tức có thể không đạt, tức có thể biến tri, tức có thể đẳng giác, tức có thể Niết Bàn, tức có thể chứng được vô thượng an lạc. Cho nên nơi ham thích nên có Như Thật Trí, nên là Chánh Biến Tri, nên cầu lìa sanh tử. Ở trong Phật Pháp hay tu phạm hạnh. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu ham thích chưa rõ
Kia đến Niết Bàn xa
Ham thích đã rõ rồi
Đến Niết Bàn chẳng khó
Ta thấy loài hữu tình
Do ham thích ô nhiễm
Tới lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều ấy
Kẻ xa lìa ham thích
Chứng được quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng thọ sanh.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ hay khinh thường thì chưa được Như Thật Trí, chưa được Chánh Biến Tri, chưa được lìa sanh tử. Ở nơi tự tâm của kẻ kia là do chưa lìa được sự khinh thường vậy. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có kẻ từ sự khinh thường mà biết Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, hay lìa sự sanh tử rồi thì ở nơi tự tâm của họ đã lìa xa sự khinh thường vậy. Tức được thông đạt, tức hay biến tri, tức hay đẳng giác, tức hay Niết Bàn, tức hay chứng vô thượng an lạc. Cho nên sự khinh thường nên là Như Thật Trí, nên là Chánh Biến Tri, nên là lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp hay tu phạm hạnh. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu chưa rõ khinh thường
Kia đến Niết Bàn xa
Kẻ khinh thường đã rõ
Đến Niết Bàn chẳng khó
Qua lại đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều nầy
Xa rời sự khinh thường
Chứng được quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng thọ sanh
Ta từ Đức Thế Tôn nghe được như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có kẻ bị hại chưa hiểu được Như Thật Trí, chưa rõ Chánh Biến Tri, chưa thể lìa sanh tử. Kẻ kia nơi tự tâm chưa lìa được sự di hại vậy. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu có kẻ di hại đã hiểu Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, hay lìa sanh tử rồi. Ở nơi tự tâm kẻ ấy đã lìa sự di hại rồi tức hay thông đạt, tức hay biến tri, tức hay đẳng giác, tức hay Niết Bàn, tức hay chứng được vô thượng an lạc. Cho nên sự di hại nên là Như Thật Trí, nên là Chánh Biến Tri, nên cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp tu hành phạm hạnh. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu chưa rõ di hại
Kia đến Niết Bàn xa
Kẻ biết di hại rồi
Niết Bàn không khó đến
Ta xem loài hữu tình
Do di hại nhiễm ô
Qua lại đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Nếu hay biết điều ấy
Vĩnh viễn không bị hại
Chứng được quả Sa Môn
Cứu cánh chẳng thọ sanh.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu mà tất cả chưa được Chân Thật Trí, chưa được Chánh Biến Tri, chưa thể lìa sanh tử. Ở nơi tự tâm của kẻ kia chưa lìa tất cả vậy. Chẳng thể thông đạt, chẳng thể biến tri, chẳng thể đẳng giác, chẳng thể Niết Bàn, chẳng thể chứng được vô thượng an lạc. Nếu từ nơi tất cả đã có Như Thật Trí rồi, Chánh Biến Tri rồi, có thể xa lìa sanh tử rồi. Ở nơi tự tâm kẻ kia lìa tất cả rồi vậy. Tức hay thông đạt, tức hay biến tri, tức hay đẳng giác, tức hay Niết Bàn, tức hay chứng được vô thượng an lạc. Cho nên tất cả, nên Như Thật Trí, nên Chánh Biến Tri, nên cầu lìa sanh tử. Ở nơi Phật Pháp, hay tu hành phạm hạnh. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu tất cả chưa rõ
Kia đến Niết Bàn xa
Tất cả biết rõ rồi
Đến Niết Bàn chẳng khó
Ta xem loài hữu tình
Do tất cả nhiễm ô
Tới lui đọa ác thú
Thọ sanh tử luân hồi
Sâu nhiếp kinh phía trước Uẩn Đà Nam viết:
Tham sân si cả thảy
Chứa nhóm phiền sầu hận
Ghen, keo cùng ưa thích
Khinh, hại cùng tất cả.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết tất cả sự tu tập, phước nghiệp ở trong, từ tâm giải thoát là điều cần thứ nhất. Vì sao vậy ? Vì tâm từ giải thoát là uy đức cao vời. Ảnh hưởng đến tất cả các sự nghiệp phước đức khác. Nhờ vào những uy đức như thế, nếu muốn tu học về từ tâm giải thoát thì trong 16 phần chưa được một phần. Các Tỳ Kheo nên biết. Ví dụ trong các vị Quốc Vương lớn nhỏ thì chuyển luân thánh vương là đệ nhất. Vì sao vậy ? Vì chuyển luân thánh vương có uy đức cao cả. Vị chuyển luân nầy trong 16 phần cũng chưa được một. Các phước nghiệp cũng lại như thế: Nếu muốn tu tâm từ bi giải thoát trong 16 phần cũng chẳng được một phần. Lại cũng như trong tất cả ngôi sao thì mặt trăng là tối vi đệ nhất. Vì sao vậy ? Vì mặt trăng có ánh sáng cao vợi, chiếu sáng hơn tất cả các vì sao. Ở trong các ánh sáng của sao đó nếu so ra thì mặt trăng nầy trong 16 phần cũng chỉ được một. Các phước nghiệp cũng lại như vậy. Nếu muốn tu tâm từ bi giải thoát thì trong 16 phần cũng chỉ được một phần. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Tất cả các phước nghiệp
Như tâm từ giải thoát
Trong mười sáu phần ấy
Chỉ được có một phần
Có một loài hữu tình
Hay tu tâm từ thiện
Cùng phước đức vô biên
Hà huống là tất cả
Trong các đại quốc vương
Uy phục vang khắp nơi
Thế gian giúp người nghèo
Tất cả chẳng phải làm
Như thế mà thí phước
Ấy là tu tâm từ
Trong mười sáu phần ấy
Chỉ được có một phần
Như chuyển luân Thánh Vương
Uy đức trong các vua
Cũng như mặt trăng lớn
Ánh sáng chiếu cùng nơi
Tất cả tu như thế
Hết thảy là phước nghiệp
Đều làm tâm từ thiện
Uy đức chứa cùng khắp
Tu từ tâm giải thoát
Nếu ngược hoặc chẳng người
Tất cả các hữu tình
Tất cả đều chẳng hại.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết, ta xem thế gian chẳng có pháp nào làm cho những loài có tình hiểu được cái tâm chưa đắc để mà hy vọng cầu được cái quả vô thượng an lạc. Làm cái nhân duyên từ bên ngoài như là thiện hữu tri thức. Cho nên đối với loài hữu tình với cái nhân thiện tri thức đó muốn gì được nấy. Nghĩa là sẽ dứt các điều ác, tu tập các thiện pháp, chứng được bản tâm thanh tịnh không có tạp nhiễm. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Ta xem trong thế gian
Chẳng có một pháp nào
Kẻ chưa chứng được tâm
Lúc cầu vô thượng quả
Phải nhờ duyên bên ngoài
Như người thiện tri thức
Gần gũi thiện tri thức
Nếu không, chẳng thành tựu
Cung kính vâng lời dạy
Chẳng buông hay gìn giữ
Sẽ chứng quả Niết Bàn
Xa sợ, thường an lạc
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết, ta xem thế gian, chẳng có một pháp nào vì kẻ có học mà chưa được tâm, hy vọng cầu quả vô thượng an lạc, tạo duyên bên trong như tác ý ngay thẳng. Cho nên đối với loài hữu tình kia. Vì tác ý chơn chánh để cầu tất cả được mãn nguyện. Nghĩa là sẽ dứt các điều ác, tu tập các thiện căn, chứng được thân thanh tịnh không bị những tạp nhiễm. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Ta xem các thế gian
Chẳng có một pháp nào
Do học mà được tâm
Lúc cầu vô thượng quả
Phải tạo duyên bên trong
Như kia tạo nơi ý
Tu tập chánh pháp rồi
Nếu cầu chẳng thành tựu
Như pháp mà quan sát
Chẳng buông lung tu hành
Xa sẽ đến Niết Bàn
Lìa sợ, thường an lạc.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu các loài hữu tình hay biết bố thí trí huệ khi quả báo đến, sáng sủa trước mắt, như ta biết đây sẽ không keo kiệt, do tâm bị nhiễm ô mà làm cho kia chỉ ăn được một ít rồi phân chia ra cho kẻ khác, sau đó mới tự ăn. Lại chẳng biết rằng vì tâm keo kiệt làm cho nhiễm ô; nên tuy có nhiều đồ ăn uống quý giá mà chẳng thí cho kẻ khác, chỉ dùng riêng một mình, cho nên với quả bố thí bằng trí huệ đó tuy được sanh làm trời, người; nhưng bị sanh đi sống lại nhiều lần, hưởng các sự vui sướng. Lúc ấy Đức Thế Tôn muốn sâu vào nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Thế gian loài hữu tình
Nếu biết được huệ thí
Hay cảm quả báo lớn
Thấy rõ như Như Lai
Tâm nầy chẳng làm gì
Keo kiệt lại nhiễm ô
Chỉ có ít đồ ăn
Mà cũng đem thí cho
Do thí chẳng có huệ
Chẳng sáng như Thế Tôn
Chỉ có ăn uống nhiều
Bỏn xẻn chẳng thể xả
Ở nơi ruộng phàm thánh
Ba thời tâm vui thí
Quả báo cõi trời người
Qua lại làm nhiều kiếp.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu các loài hữu tình hay biết phạm giới sẽ bị quả báo, rõ ràng trước mặt. Như ta đã biết, đi đứng nằm ngồi đều chẳng yên ổn. Nói cười ăn uống đều chẳng để tâm. Tâm ấy sợ hãi như bị chảy máu. Thân hình xấu xa như bị dao cắt, lại cũng chẳng biết, an nhiên chẳng sợ. Cho nên những kẻ phạm giới, tội ấy có thể đọa ác thú, càng ngày tăng dần, tạo nên quả báo. Lúc ấy Đức Phật sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Thế gian loài hữu tình
Nếu hay biết phạm giới
Bị đọa vào chốn khổ
Thấy rõ giống Như Lai
Bốn oai nghi chẳng an
Chẳng nghĩ suy nói cười
Tâm hoảng hốt chảy máu
Thân xấu xí cắt rạch
Do chẳng biết, phạm giới
Hay bị khổ ác thú
Thấy sáng giống Như Lai
An nhiên chẳng sợ hãi
Tất cả người phạm giới
Chắc chắn đọa ác thú
Sự khổ càng tăng lên
Khổ quả cũng chẳng cùng
Ta từ Đức Thế Tôn đã từng được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có các loài hữu tình hay biết trì giới, khi thọ quả báo thì sáng suốt trước mắt như ta thấy vậy. Nơi tự thân kia, không sanh vào loài thú, được an lạc ở lại vị lai. Kiên trì giới cấm, không thể không biết được là nơi tự thân của kẻ ấy sẽ được an lạc. Vì không phạm giới cấm cho nên những phước đức của sự trì giới, hay cảm con đường thiện, tăng trưởng sự lợi ích, có những quả báo an lạc. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Thế gian các hữu tình
Nếu hay biết trì giới
Hay cảm thọ quả vui
Thấy rõ như Như Lai
Nơi tự thân thanh tịnh
Lìa xa nơi ác thú
Cầu quả vị tương lai
Kiên trì giới thanh tịnh
Do hay biết trì giới
Hay cảm quả vui vẻ
Thấy rõ giống Như Lai
Chẳng phạm vào tịnh giới
Cùng những người trì giới
Được sanh vào chỗ lành
Thọ nhận nhiều an lạc
Chứng vô thượng Niết Bàn
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có các loài hữu tình, biết mà nói dối, chẳng xấu chẳng hổ, chẳng sửa hối tâm. Ta nói người kia tạo nên ác nghiệp, chẳng tạo thiện nghiệp. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nên biết người vọng ngữ
Tâm không xấu hổ, hối
Như thế loài hữu tình
Chẳng ác nào chẳng tạo
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có các loài hữu tình, biết mà nói dối, lại sanh xấu hổ, cải đổi tâm tánh, ta nói rằng người ấy tạo được thiện pháp. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Khi nói dối tự biết
Sanh tâm hổ thẹn, hối
Như thế loài hữu tình
Chẳng thiện nào chẳng làm
Siêng năng chẳng buông lung
Như thế tu chơn chánh
Chứng vô thượng Niết Bàn
Xa rời sự sợ hãi
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết. Có một điều tối thắng. Đó là Bồ Đặc Già La. Ở nơi thế gian, nếu chẳng xuất hiện trong vô lượng hữu tình, xa rời thánh huệ. Tại sao gọi là một Bồ Đặc Già La. Đó có nghĩa là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Cho nên các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không ở thế gian thì không thể tuyên dương nói pháp tu hành trí tuệ. Vậy nên các loài hữu tình mất đi thánh huệ. Các Tỳ Kheo nên biết! Các người thoái tâm đó có cả tài sản; nên gọi là mất mát nhỏ. Còn mất mát lớn là thối thất thánh huệ. Cho nên nếu có chúng hữu tình thoái thất thánh huệ thì ở trong Phật Pháp có nhiều lo buồn, sống không hoan hỷ, có tai nạn, lo sợ. Có phiền não và quấy nhiễu. Tương lai đêm dài thọ khổ và thọ nhận nhiều loại tai hại mãnh liệt, tăng trưởng máu đào thường vào đường sanh tử, vô số đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, A Tu La thú. Số khác thì làm người, trời, sanh tử ưu não. Cho nên do loài hữu tình mà thánh huệ nầy chưa được giác ngộ, chưa được thông đạt. Ở nơi lục thú sanh tử luân hồi, khổ cho hữu tình chứng được thánh huệ, hay vào ra nơi khổ ải. Cho nên nầy các ngươi phải biết rằng ta nay đang tu tập thánh huệ làm cho chẳng thối thất, ta đương y nơi thánh huệ tùy sự giác ngộ mà trải qua. Nầy các Tỳ Kheo! Phải nên biết rằng nên làm như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn muốn vào nghĩa sâu nầy mà nói kệ rằng:
Như Lai chẳng xuất hiện
Thế gian loài hữu tình
Chẳng cứu chẳng nương về
Đều thối thất thánh huệ
Mất người quen tiền bạc
Đó là điều mất nhỏ
Nếu mất chơn thánh huệ
Đó là điều mất lớn
Ta xem khắp thế gian
Mất vô thượng thánh huệ
Luân chuyển nơi sanh tử
Thọ nhiều thân khác nhau
Họ ở nơi pháp ấy
Nhiều khổ ít an lạc
Về tương lai đêm dài
Luân hồi sanh tử lâu
Nếu muốn cầu thánh huệ
Cuối cùng gặp khó khăn
Nên cầu chư Như Lai
Nên xuất hiện nơi đời.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Có một tối thắng Bồ Đặc Già La ở nơi thế gian, nếu đã xuất hiện thì vô lượng hữu tình tăng trưởng thánh huệ. Vì sao mà gọi là một Bồ Đặc Già La ? Đó là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Cho nên nếu chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện nơi thế gian có hay nói đến pháp tu hành thánh huệ làm cho loài hữu tình tăng trưởng thánh huệ thì các Tỳ Kheo nên biết! Lại được tăng trưởng bạn lành và của cải, địa vị. Đó là sự tăng trưởng nhỏ. Tăng trưởng thánh huệ là tăng trưởng lớn. Vì sao vậy ? Nếu các loài hữu tình tăng trưởng thánh huệ thì ở trong pháp nầy được nhiều hỷ lạc, chẳng lo khổ chỗ ở, chẳng có tai nạn, chẳng có lo âu, chẳng có phiền muộn và nhiễu hại. Cũng chẳng bị đêm dài làm cho khổ sở về sau. Chẳng hề thọ nhận nhiều loại cực hình tai hại về sau, cũng chẳng tăng trưởng máu huyết, chẳng vào nơi đường sanh tử, chẳng đọa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, A Tu La, chẳng thọ thân người trời sanh tử khổ não. Vì sao vậy ? Do nơi chúng hữu tình nơi thánh huệ nầy mà được giác ngộ cũng như thông suốt. Chẳng sanh vào 6 nẻo luân hồi. Nếu các loài hữu tình chưa tăng trưởng thánh huệ thì khó thoát ly sự khổ ải vô biên. Cho nên các ngươi nên biết rằng ta đương tu tập về thánh huệ, làm cho tăng trưởng. Ta đương nghĩ về thánh huệ cho họ được giác ngộ và thông đạt. Nầy các Tỳ Kheo! Phải nên biết như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Như Lai nếu xuất hiện
Thế gian loài hữu tình
Có cầu có quy y
Đều tăng trưởng thánh huệ
Được bạn lành tài sản
Đó là tăng trưởng nhỏ
Nếu được chơn thánh huệ
Đó là tăng trưởng lớn
Ta xem khắp thế gian
Được vô thượng thánh huệ
Chẳng luân chuyển sanh tử
Chắc chắn nơi Niết Bàn
Họ ở nơi pháp ấy
Lìa khổ thường an lạc
Về tương lai đêm dài
Lìa sanh tử luân hồi
Nếu muốn tăng thánh huệ
Phải biết khổ chúng sanh
Nên cầu Phật Thế Tôn
Sống lâu nơi cõi thế
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Thế giới có một pháp, khi sanh ra làm cho chúng sanh ngu si tăng trưởng, sân hận tật đố kiên cố, dơ bẩn tăng theo, ác thú đầy dẫy vì các chúng sanh không phải lợi ích mà làm việc bất an, làm cho thế gian trời người đại chúng chẳng có ý nghĩa và lợi ích, tăng trưởng sự sầu khổ. Sao gọi là một pháp ? Đó gọi là tà kiến. Cho nên do tà kiến mà làm cho chúng hữu tình ngu si tăng trưởng, sân hận dày sâu, dơ bẩn tăng trưởng, ác thú đầy dẫy làm cho các chúng sanh làm việc chẳng lành. Cho nên chẳng an lạc. Làm cho chúng sanh trong thế gian trời người và đại chúng chẳng có ý nghĩa chẳng được lợi ích, tăng trưởng sự sầu khổ. Như thế đó có tên là một pháp. Lúc sinh trưởng thì làm cho chúng hữu tình ngu si tăng trưởng. Nói rộng cùng ra làm cho thế gian, trời, người đại chúng, chẳng có ý nghĩa, chẳng được lợi ích, tăng trưởng ưu khổ. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Lúc tà kiến sanh trưởng
Làm ngu si tăng theo
Và điên đảo kiên cố
Các dơ bẩn tăng theo
Làm đầy các ác thú
Vì chẳng lợi lạc ai
Tà kiến hại người hiền
Như lửa thiêu đồ vật
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết. Trong đời có một pháp lúc sanh ra làm cho chúng hữu tình ngu si tổn giảm, điên đảo trừ diệt, tịnh pháp tăng theo, lìa những ác thú, thiện thú thành tựu cùng các chúng sanh vì đại lợi ích , vì đại an lạc làm cho thế gian trời người đại chúng, có ý nghĩa, có lợi ích tăng trưởng niềm vui. Thế nào là một pháp? Đó là chánh kiến. Cho nên do chánh kiến mà làm cho chúng hữu tình ngu si được tổn giảm, điên đảo được trừ diệt, tịnh pháp được tăng trưởng, thoát khỏi ác thú, thiện thú thành tựu, cùng các chúng sanh vì đại lợi ích, vì đại an lạc làm cho thế gian trời người đại chúng có ý nghĩa, có lợi lạc, tăng trưởng niềm vui, như thế có tên là một pháp trong đời. Lúc sanh trưởng ra làm cho loài hữu tình ngu si tổn giảm, nói rộng cho đến làm cho thế gian trời người đại chúng có ý nghĩa, có lợi ích, tăng trưởng niềm vui. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Lúc chánh kiến sanh trưởng
Làm ngu si tổn giảm
Và điên đảo trừ diệt
Các tịnh pháp tăng theo
Lìa ác, đầy thiện thú
Vì ích lợi an vui
Chánh kiến nơi hiện tại
Sớm chứng được Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Ta xem trong thế gian chẳng có một pháp nào mà xa rời bệnh tật, giống như tâm nầy. Vì sao vậy ? Từ tâm sinh ra cảnh, xa tật trở lại, thế là xuất thế gian chẳng thể thí dụ. Các ngươi nên giữ tâm tướng nầy. Khi giữ tâm tướng lành nầy rồi hãy nên suy nghĩ. Khi tư duy rồi, nên hay quán sát. Khi quán sát rồi hay làm cho an trụ. Khi an trụ rồi. Nếu chẳng may bị tham dục quấy nhiễu thì các ngươi quán sát thâm sâu hơn, ta làm cho những tham dục đó phải biết, ta làm cho những tham dục bên trong đó phải biết, quán sát cho kỹ, lại phải tác ý, suy nghĩ tùy theo một tướng dễ thương. Nếu tâm tùy thuận hướng về an lạc thì sẽ có cảnh giới dễ thương. Phải biết tâm nầy tùy thuận theo dục mà làm cho sai trái. Lúc ấy các ngươi phải nên tự giác. Ta ví điều nầy như sự tham dục ở bên trong, chẳng thể giác được, chẳng phải chẳng có. Ngươi nay chưa đoạn lìa được ngũ dục tham muốn thì sự chứng ngộ có sự sai biệt. Ta dụ như quả vị tu tập chưa chứng, ví như có người bị nước cuốn nhanh, thuyền bè trôi giạt, ngược chiều mà đi. Người nầy lúc ấy phải dùng nhiều sức. Nếu hay lười biếng phải chảy ngược dòng như các ngươi biết. Khi suy nghĩ một pháp có thể như thế, nếu tâm tùy thuận vui theo an lạc, vui theo cảnh ngoài, phải biết tâm nầy tùy thuận các dục làm cho sai mất. Các ngươi lúc ấy phải nên tự giác, do nơi nội tâm tham dục mà chẳng thể giác, chẳng làm chẳng có, ta nay khi chưa đoạn ngũ dục tham lam thì sự chứng quả có sự sai biệt. Ta nay ví như chưa tu chứng quả. Các ngươi nên tác ý suy nghĩ tùy theo tướng dễ thương. Nếu tâm tùy thuận muốn hướng về thiện lạc thì có tướng xa lìa. Phải biết tâm nầy tùy thuận xa lìa, làm cho các dục cũng sai khác. Lúc ấy các ngươi nên tự biết rằng ta đã làm cho không còn tham dục bên trong nữa. Chẳng có ví dụ nữa. Nếu mà chẳng giác, ta làm cho đoạn ngũ dục tham lam chứng được quả vị, có sự sai biệt với trước. Ta làm cho có thể chứng quả rồi. Như xương cánh bỏ vào giữa lửa, liền co quắp lại, chẳng thể tồn tại. Các ngươi nên biết như thế, suy nghĩ tùy theo một tướng dễ thương. Nếu tâm tùy thuận hướng về hỷ lạc xa lìa tướng ấy, phải biết tâm nầy tùy thuận xa lìa các dục sai khác. Các ngươi lúc ấy nên tự biết rằng ta đã làm cho những tham dục bên trong chẳng có chẳng còn. Nếu mà không tỉnh thì ta làm cho đoạn đi ngũ dục tham lam để chứng được quả vị sai biệt giống như phía trước. Ta làm cho có thể chứng được quả như thế rồi thì các ngươi nên biết ta phải làm sao để chuyển tự tâm trở thành thuận pháp ? Làm cho điều phục tâm nầy ? Xa rời khỏi dục, tùy thuận xuất ly. Các vị Tỳ Kheo! hãy nên biết. Lúc ấy Đức Thế Tôn muốn sâu và nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Chẳng có một pháp nào
Thay đổi giống như tâm
Khó chế ngự khó phòng
Đức Phật đã nói thế
Dụ như có người trí
Đem đồ để vào lửa
Điều phục chúng khó khăn
Làm xa rời trong đó
Như thế các Tỳ Kheo
Phải học phép phương tiện
Điều phục nơi tâm tánh
Làm cho chứng Niết Bàn
Sâu vào nghĩa kinh trước Uẩn Đà Nam viết:
Tu từ tu hai duyên
Giống phạm giới trì giới
Hai vọng hai thánh huệ
Tà kiến chánh kiến tâm.