Quyển năm
Phẩm thứ hai
Phần ba
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết. Bố thí có hai loại. Thế nào là hai ? Một là tài thí, hai là pháp thí.
Thế nào gọi là tài thí ? Nghĩa là có một loại Bổ Đặc Già La (chúng sanh) hay bố thí đủ loại đồ ăn uống ngon lạ, thuốc men, y phục, nhà cửa, giường nằm, kể cả tài sản, đèn dầu, khi có bịnh thì lo trị liệu, xả như thế đó, chia đều ra cho kẻ khác. Nên có tên là tài thí.
Thế nào gọi là pháp thí ? Nghĩa là rộng vì kẻ khác mà nói chánh pháp, đầu giữa cuối đều tốt đẹp, văn nghĩa rõ ràng. Đó là pháp thuần đầy thanh tịnh phạm hạnh, làm cho các loài hữu tình khi nghe rồi thì giải thoát sanh, già, bệnh, chết, sầu, thán, ưu buồn khổ sở, não loạn. Đây có tên là pháp thí. Nơi hai pháp tài và pháp thí nầy, bố thí pháp là cao cả bậc nhất. Ví như trong thế gian từ bò lấy sữa, từ sữa lấy lạc, từ lạc lấy tô (váng sữa), từ váng sữa nầy sẽ sinh ra váng sữa nóng lại từ váng sữa nóng nầy sinh ra đề hồ. Nơi đó có đầy đủ những chất vị của bò là đề hồ vậy. Đây là chất ngon nhất.
Như vậy trong hai loại tài và pháp thí, pháp thí là cao cả bậc nhất. Ở nơi pháp thí nầy người hay bố thí chẳng sanh điên đảo. Đó là Như Lai, chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng trượng phu, điều ngự sĩ, thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Ở nơi hai loại thí
Pháp thí là bậc nhất
Kẻ hay bố thí pháp
Thiện thế tối thắng tôn
Nhận lãnh tài sản thí
Như Lai bậc đáng kính
Thí tài vẫn chưa đủ
Nên cho pháp chúng sanh
Tài thí cho chúng sanh
Đời đời được giàu có
Pháp thí làm cho người
Cứu cánh chứng Niết Bàn
Ta từ Đức Thế Tôn đã nghe được như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Từ tế có hai loại. Thế nào gọi là hai ? Một là cúng tiền, hai là cúng pháp. Kẻ cúng tiền nghĩa là có một loại Bổ Đặc Già La (chúng sanh) hay cúng nhiều loại thức ăn ngon ngọt, mùi thơm, áo quần, nhà cửa, giường nằm, của cải đèn dầu, những loại như thế có tên là cúng tài sản. Kẻ cho pháp nghĩa là người có thể cho khế kinh, ứng với ký biệt cô khởi, tự thuyết, bổn sự bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu pháp cho đến vô lượng phương tiện như chơn lý mà nói ra, thí thiết tạo nên, đặc biệt mở bày, có tên là cho pháp. Đối với cho tiền bạc thì cho pháp là tối thượng bậc nhất. Giống như trong thế gian, từ bò có sữa, từ sữa có lạc, từ lạc có tô, từ tô nầy sanh thêm trở thành tô nóng (váng sữa). Lại từ tô nóng nầy sinh ra đề hồ (sữa đặc). Tất cả những loại nầy cũng từ sữa bò sinh mà thôi. Đề hồ là tối thượng đệ nhất. Như vậy tài pháp hai loại cho ấy, cho pháp là quan trọng bậc nhất. Ở nơi pháp thường chẳng điên đảo, kẻ thực hành phép cho ấy chỉ có Như Lai, ứng cúng, chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng trượng phu, điều ngự sĩ, thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nơi hai loại cho ấy
Cho pháp là hàng đầu
Kẻ hay cho pháp ấy
Thiện Thệ Đức tối tôn
Nhẫn của cải nhà vườn
Như Lai là bậc nhất
Thí cho tiền chẳng đủ
Cho pháp cả chúng sanh
Cho tiền làm chúng sanh
Đời đời được sung sướng
Cho pháp cho chúng sanh
Cứu cánh chứng Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết, phàm những kẻ tu hành khi tập trung lại nên làm hai việc. Một là nói pháp, hai là lặng yên. Do pháp mà nói, hiểu được cái đức. Khi rõ các đức rồi liền sanh kính tin sâu xa. Sau khi tin kính sâu xa rồi thì thực hành, sau khi thực hành rồi thì thân cận cúng dường. Khi thân cận cúng dường rồi cầu nghe chánh pháp. Khi cầu nghe chánh pháp rồi thì làm cho chẳng loạn. Sự nghe chẳng loạn rồi thì tai nghe chánh pháp. Khi nghe chánh pháp rồi thì nơi pháp mà thông suốt. Khi pháp thông suốt rồi thì có thể giữ gìn và nhớ pháp ấy, đoạn quan sát nghĩa lý. Khi quan sát nghĩa lý rồi thì từ nơi pháp sâu vào ý nghĩa suy nghĩ. Lúc từ pháp nầy suy nghĩ thì sanh ra ham muốn. Khi ham muốn rồi thì liền được sức mạnh. Khi đã có sức mạnh rồi thì có thể gọi số nhiều. Khi nhiều rồi thì hay chọn lựa. Khi chọn lựa rồi thì tùy theo sự hiểu biết mà tự làm cho ngộ. Ta việc sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau do vì đã vắng lặng vậy, tâm được tịnh lặng, thanh tịnh trong sáng, chẳng có khó khăn, xa rời phiền não, điều thuận chủ động, an trụ chẳng động, thường hay phát sanh, khi phát sanh rồi, như thật mà biết. Như thật biết rồi làm cho xa lìa. Khi đã xa lìa rồi, làm cho ly dục. Lại khi ly dục rồi làm cho giải thoát. Khi đã được giải thoát rồi làm cho tự biết là ta đã được giải thoát rồi. Ta việc sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau nữa. Nên các Tỳ Kheo nên nói pháp lành, nên hiểu pháp quý. Nếu làm được vậy cho đến có tên chân thật, giữ gìn cờ pháp, chẳng người tập hội, nói chơi cười đùa, mà hay nghe biết đứng đắn, các pháp thật tướng, hay trừ các lậu, hay chứng Niết Bàn. Ta thường ở chung và nói pháp lành, hiểu rõ pháp nầy nên có tên là số một, gìn giữ cờ pháp. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Có kẻ khi tập trung
Nên tu hành hai việc
Nghĩa vắng lặng yên ổn
Và nói lời chánh pháp
Do nói lời chánh pháp
Cùng ở yên thanh tịnh
Biết thực tướng các pháp
Cứu cánh chứng Niết Bàn
Các Tỳ Kheo các ngươi
Nếu muốn nói pháp lành
Cho đến tên chân thật
Cầm giữ cờ chánh pháp
Ta thường ở trong chúng
Hay nói sáng các pháp
Cho nên tên thứ nhất
Nắm giữ cờ chánh pháp
Nếu nương cờ chánh pháp
Hay nói hay tu hành
Sẽ thoát ly sanh tử
Đến cứu cánh Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu có Tỳ Kheo khi nói năng phi lý tạo ý, khởi ý mong cầu, khởi ý si mê, khởi ý tổn hại. Như vậy Tỳ Kheo, tên là kẻ ác, làm kẻ kiêu mạn hay hướng đến nhiều phương tiện ác xấu vậy. Hay đoạn hay lìa, hay bỏ thiện pháp buông lung giải đãi, chẳng hay siêng năng, quên mất chánh niệm, lại chẳng chánh tri, tâm hay tán loạn, nương vào các căn, chẳng lìa sự thấy, chẳng muốn xa rời, như thật trí chánh, hướng đến ác ma, việc ác chẳng thiện. Vì các ác ma và các bất thiện pháp điều phục mà tăng trưởng tất cả các ác pháp. Nếu các Tỳ Kheo khi lúc ở yên, phi lý tác ý, quảng nói rộng ra tăng trưởng tất cả sự ác, chẳng thiện. Như vậy Tỳ Kheo đã phá đi những kẻ có trí và phạm hạnh, ta vì nơi họ thường chẳng tán dương. Như vậy Tỳ Kheo tuy được xuất gia, thọ giới Cụ Túc; nhưng là kẻ ác, ngu si vô trí. Cho nên các ngươi nên biết rõ vậy. Ta nay vì sao mà phương tiện đoạn trừ kẻ phi lý tạo ý, tạo ra phương tiện tu tập như lý tác ý. Nầy các Tỳ Kheo! phải biết như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Lúc nói hoặc ở yên
Từ các căn tạo ác
Chẳng nghe lời ta dạy
Đó kẻ ngu vô trí
Nên hỡi các Tỳ Kheo
Nên tu chẳng buông lung
Lìa phi lý tạo ý
Hãy như lý suy nghĩ
Các ngươi nếu siêng năng
Lời nói chẳng buông lung
Chẳng xa độ sanh tử
Chứng vô thượng Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Nếu các Tỳ Kheo khi dùng lời nói như chân lý mà tác ý, xa rời khỏi tính toán, chẳng si mê, chẳng tổn hoại, như vậy các Tỳ Kheo có tên là đa thiện. Chẳng có tà mạn, hướng đến những niềm an lạc làm phương tiện. Nơi đoạn, nơi lìa, chẳng buông xả. lìa sự buông lung, siêng năng tinh tấn, chánh niệm chánh tri, niệm định chẳng loạn, các căn giữ gìn, có thấy nghe xuất ly, hay biết xa rời. Đó là trí huệ chơn chánh làm tiêu hủy ác ma và các pháp bất thiện. Điều phục ác ma và các pháp bất thiện, làm tổn giảm những việc ác và các pháp bất thiện. Nếu các Tỳ Kheo ở nơi yên ổn như giáo lý mà tác ý, nói rộng cho đến làm tổn giảm các việc ác và các pháp chẳng lành. Như vậy đó các Tỳ Kheo. Vì những người có trí và có phạm hạnh mà xưng tán. Ta cũng y nơi họ mà thường hay xưng tán. Như vậy đó các Tỳ Kheo, có tên là kẻ xuất gia chơn chánh và thọ giới Cụ Túc vậy. Có trí tuệ lớn, chẳng vui riêng ai, tên gọi chẳng si, cho nên các ngươi phải biết làm theo như vậy. Ta nay vì sao mà tạo phương tiện tu tập, như chơn lý mà tác ý, phương tiện đoạn trừ cũng như chẳng phải chân lý mà tác ý thì các ngươi nên biết, nên học như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nói năng cùng yên lặng
Chẳng từ căn tạo ác
Hay phụng hành ta dạy
Đó là người có trí
Tu xa rời hơn thua
Đến chẳng si, chẳng hại
Có xa rời chánh kiến
Phải hiểu biết như thật
Hay điều phục ác ma
Các ác cùng chẳng thiện
Xa rời cùng phiền não
Chứng cứu cánh Niết Bàn
Cho nên các Tỳ Kheo
Nên tu, chẳng buông lung
Nên như lý tạo ý
Lìa phi lý suy nghĩ
Các ngươi nếu siêng năng
Lời yên chẳng buông lung
Chẳng lâu nơi sanh tử
Chứng vô thượng Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn đã từng được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Các hữu học Tỳ Kheo! Có hai loại lực. Thế nào gọi là hai ? Nghĩa là tư trạch lực (lực chọn lựa) và tu tập lực. Vì sao Tỳ Kheo ? Có tư trạch lực ? Nghĩa là có một loại Tỳ Kheo có học thọ dụng nhiều loại áo quần, đồ ăn uống, nhà cửa, giường nằm, thuốc men và những đồ dùng tất cả đều có chọn lựa, chẳng phải không chọn lựa để mà thọ dụng. Ở nơi chưa được áo quần, đồ ăn uống, nhà cửa, chỗ nằm, thuốc men cùng đồ dùng chẳng có tâm hy vọng cầu mong để được áo quần, đồ ăn uống, nhà ở, phòng ốc, thuốc men, đồ dùng không tham đắm nhiễm trước mà hay nhẫn thọ. Vì mưa nắng đói khát, gió máy, trùng muỗi, gặp rắn rít v.v… mà nhẫn thọ, để khỏi phỉ báng, dòm ngó mà lãnh thọ. Vì sự sống còn của thân, làm cho mạnh khỏe, nhẫn điều khó nhẫn, sợ mạng bị mất, khó trị nên khổ sở mà thọ, thường hay nhẫn thọ vì tất cả thế gian hay làm việc nhẫn khó làm. Vì việc lành mà chọn lựa. Các thân, ngữ, ý ba loại việc ác nầy hay chiếu soi hiện pháp, sanh pháp và hậu pháp, chẳng phải vì ái lạc khổ và quả dị thục mà tác ý tư dung. Ta nay đang đoạn những việc xấu của 3 loại thân khẩu ý nầy. Ta đương tu tập 3 loại vi diệu của thân khẩu ý nầy có thể biết được rõ ràng 3 loại ác kia là quá ngu dại. Lại cũng phải hiểu rằng 3 loại vi diệu ấy luôn luôn có công đức. Khi biết như thế chơn chánh rồi phải siêng dứt, siêng tu, việc ác việc thiện, tu giữ tự thân làm cho thanh tịnh, lìa các tội lỗi. Như vậy có tên là có học Tỳ Kheo suy nghĩ lực sơ khởi.
Sao gọi là Tỳ Kheo có lực tu tập ? Nghĩa là có một loại Tỳ Kheo có học có thể nhớ nghĩ tất cả những sự hiểu biết đều tương thuận, nhưng mà không gặp, cho đến trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả tất cả đều thuộc về giác chi mà chẳng sai biệt, tu niệm giác chi, đều nương tựa vào việc dừng lại sự đầy đủ, dừng lại chỗ xa lìa, tất cả đều nương tựa nơi mất đi, hồi hướng về việc xả bỏ, tu tập chọn pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả, giác chi, tất cả đều nương vào sự dừng lại của sự đầy đủ. Tất cả đều nương vào sự dừng lại chia lìa, nương vào nơi diệt, hồi hướng về sự xả bỏ. Như thế có tên là hữu học Tỳ Kheo có tu tập và có lực. Như vậy có tên là Tỳ Kheo có học có 2 lực. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Các hữu học Tỳ Kheo
Lược nói hai loại lực
Tư trạch và tu tập
Hay hàng phục ma quân
Thấy việc ác hay đoạn
Biết diệu đức hay tu
Nên nhẫn thọ suy nghĩ
Có tên tư trạch lực
Nương tựa đủ, rời, diệt
Và hướng về nơi xả
Mà tu bảy giác chi
Có tên tu tập lực.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết, do 2 loại pháp tận diệt mà chết. Thế nào là 2 pháp? Một là do nghiệp và hai là do thọ. Do nghiệp xoay chuyển và do tuổi thọ đã mãn mà quyết định mệnh chung. Nếu lúc có nghiệp cũng đồng thời có thọ. Nếu lúc có thọ cũng đồng thời có nghiệp. Vì sao thế ? Đó là 2 pháp hằng thường hòa hợp, chẳng khi nào không hòa hợp. Đó là 2 pháp khó thể cho được, không thể phân ly, lúc mà có nghiệp cũng đồng thời có thọ. Khi lúc có thọ cũng đồng thời có nghiệp. Nếu có nghiệp nầy tức có thọ kia. Nếu có thọ nầy tức có nghiệp kia. Nếu chẳng có nghiệp cũng chẳng có thọ. Nếu chẳng có thọ nầy cũng chẳng có nghiệp kia. Dụ như lửa sinh ánh sáng vậy. Nếu có lửa tức có ánh sáng. Nếu có ánh sáng tức có lửa. Nếu chẳng có lửa tức chẳng có ánh sáng. Nếu chẳng có ánh sáng tức chẳng có lửa. Nghiệp và thọ lại như thế. Nếu có nghiệp nầy tức có thọ kia. Nếu có thọ nầy tức có nghiệp kia. Nếu chẳng có nghiệp nầy tức chẳng có thọ kia. Nếu chẳng có thọ nầy tức chẳng có nghiệp kia. Như thế đó 2 loại pháp, mất hết đi rồi thì chết vậy. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Hai pháp hằng nương nhau
Đó là nghiệp và thọ
Nghiệp có thọ cùng hữu
Nghiệp không thọ cũng không
Thọ nghiệp chưa mất đi
Hữu tình chưa chết hẳn
Thọ nghiệp nếu tận diệt
Hàm thức chết chẳng ghi.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 2 loại hành. Trong chúng sanh ở thế gian đều cùng tạo tác. Thế nào gọi là hai ? Một là hay cảm thấy việc thọ mạng ngắn ngủi. Hai là hay cảm thấy thọ mạng dài lâu.
Thế nào gọi là cảm thấy thọ mạng ngắn ngủi ? Nghĩa là có một loại Bổ Đặc Già La (chúng sanh) thường ưa sát sanh, vì tánh hung bạo, làm tay dính máu, tổn hại sanh mạng, chẳng chút xấu hổ, chẳng có lòng thương nơi các chúng sanh ấy nên thường làm việc sát hại, cho đến giết chết những con kiến nhỏ. Điều ấy có tên là cảm thấy đời sống thọ mạng ngắn ngủi.
Thế nào gọi là cảm thấy thọ mạng dài lâu ? Nghĩa là có một loại Bồ Đặc Già La (chúng sanh) xa rời sự sát sanh, bỏ khí cụ giết hại, xấu hổ và có lòng từ mẫn nơi những chúng sanh thường chẳng sát hại cho đến chẳng hại một con kiến nhỏ, cho nên có tên là hay cảm thấy thọ mệnh dài lâu. Như vậy có tên là 2 loại việc làm. Thế gian các chúng sanh tất cả đều tạo tác. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Thế gian loài hữu tình
Lược nói có hai hành
Do hai hành sai biệt
Cảm thọ có dài ngắn
Nghĩa thường ưa sát sanh
Hung bạo huyết dính tay
Chẳng xấu không từ mẫn
Cảm sống ngắn chẳng ghi
Thường ưa lìa sát sanh
Thí bỏ những đồ sát
Có xấu có lòng thương
Cảm sống lâu chẳng ghi.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Do 2 hành tương ưng mà giữ tâm tướng. Thế nào là hai ? Một là duyên lành tướng, hai là tác ý hành tướng. Cho nên tất cả lấy quá khứ hiện tại và tương lai làm tướng của tâm. Tất cả đều do 2 loại hành tướng nầy. Nầy các Tỳ Kheo! Do 2 loại hành tướng nầy mà nên chánh cần, làm tốt cho tướng của tâm. Tâm đã thâu rồi, nên tác ý làm việc thuận, sau khi tác ý thuận rồi nên quan sát giỏi. Sau khi quan sát tốt rồi nên hay ở yên. Khi ở yên rồi liền cùng địa giới, siêng năng tu tập, chẳng tính chẳng hại cùng với thủy giới, hỏa giới, phong giới siêng năng tu tập vô lượng vô tổn. Tỳ Kheo nên biết! Dụ như địa giới nếu ở trong ấy an trí phẫn uế, nước tiểu, máu mủ những loại như vậy đồ tốt hoặc xấu đều để ở chung ở trong đất ấy, chẳng có phân biệt cao thấp, xấu dơ. Như thế tâm nầy ở vào với đất ấy. Nên phải siêng năng tu tập vô lượng vô tổn tức đồng đất đai, siêng năng tu tập vô lượng vô tổn chỉ gặp những loại chúng duyên sai biệt, mà tâm thì chẳng phân biệt tính toán, chung quy do điều sai biệt làm nhân duyên mà tâm nầy có cao thấp. Lại như nơi nước, nơi lửa, nơi gió, nếu ở trong ấy mà an trí phẫn uế, nước tiểu, hôi nồng mùi máu như thế nhiều loại sạch và chẳng sạch để vào trong ấy, mà nơi nước, nơi lửa, nơi gió chẳng có chống trái, chẳng hiểu cao thấp, như vậy tâm nầy cũng đồng thủy giới, hỏa giới, phong giới, phải siêng tu tập, vô lượng vô tổn, tức đồng thủy giới, hỏa giới, phong giới, siêng năng tu tập, vô lượng, vô tổn, chỉ gặp những loại giống, khác nhau làm duyên mà tâm thì không phân biệt tính toán, chung lại chẳng do sự sai biệt nầy làm nhân duyên mà tâm nầy cao thấp. Do sự cố định nầy mà có ý thức của thân cho đến tất cả duyên tướng bên trong, chấp ta, chấp thuộc về ta, thấy nghe theo mắt, tốt còn, tốt mất nương vào 2 loại, tâm nầy cao cả, lìa tất cả tướng, tịch tĩnh an lạc, được thuận giải thoát. Cho nên tất cả tâm thuận giải thoát, huệ thuận giải thoát đều ở tâm nầy. Chấp của ta và chấp thuộc về ta, thấy ghi tùy mắt, thuận cùng chẳng thuận nương vào hai loại. Tâm nầy siêu việt, lìa tất cả tướng, tịch tịnh an ổn thuận giải thoát, tâm nầy có được, lợi ích xưng tán, tâm nầy chẳng phải chỉ gặp điều khổ, tâm nầy chẳng cảm cho nên vượt lên trên tám pháp của thế gian. Tâm nầy bình đẳng, dụ như đất, lửa, nước, gió trong thế gian. Thế gian 8 pháp chẳng hay bị nhiễm. Lúc ấy Đức Thế Tôn vào sâu nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Khó điều phục động tâm
Xa đi chẳng có hai
Hay siêng năng làm tướng
Đó là sáng thế gian
Lấy tâm tướng lành rồi
Lại lấy ý quan sát
Chánh niệm ở tâm nầy
Khuyên tu cùng bốn giới
Như vậy chánh ở yên
Hay cởi bỏ các dục
Vì đời ở tám pháp
Tâm lành tốt chẳng nhiệm
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 2 loại pháp là cùng lên xuống hòa hợp và ở trong đó vô khuyết, vô gián. Thế nào gọi là hai ? Nghĩa là sanh và tử. Giống như ánh sáng của thế gian bị che khuất, chỉ có cùng lên hoặc xuống hay hòa hợp nhau. Ở trong nầy vô khuyết, vô gián; khi ánh sáng xuất hiện thì bóng tối liền tan. Khi bóng tối đến thì ánh sáng phải đi. Sanh tử cũng vậy. Hay cùng lên xuống hòa hợp nhau. Ở nơi nầy vô khuyến, vô gián. Khi có sanh tức không có tử. Khi có tử tức chẳng có sanh. Lúc bây giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Như ánh sáng bóng tối
Cùng đến và cùng đi
Ở nơi hai pháp ấy
Chưa hề có gián đoạn
Sanh tử cũng như vậy
Cả hai cùng lên xuống
Ở nơi hai pháp ấy
Chưa từng có gián đoạn
Vô minh vốn là gốc
Nước ái cứ thấm dần
Sanh tử mãi liên tục
Chẳng mất cũng chẳng diệt.
Ta từ Đức Thế tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Chết cũng có 2 loại. Thế nào là hai ? Một là chẳng điều phục được sự chết. Hai là điều phục được sự chết. Thế nào gọi là chẳng điều phục được sự chết ? Nghĩa là kẻ ngu, không hiểu biết sanh ra chưa thể thân cận với bậc chánh kiến hiền lành. Chưa hề hiểu rõ pháp lành. Ở nơi pháp lành chưa thể tự điều phục. Bị cái thấy chi phối như lấy sắc làm ta. Lấy sự bị có cho là ta. Cái có ở nơi ta, ta ở nơi hình tướng ấy. Bị cái thấy chi phối nên thọ tức là ta. Sự cảm thọ cũng cho là ta. Thọ ở nơi ta và ta ở nơi thọ. Nó bị cái thấy chi phối. Tưởng tức là ta, tưởng xúc cũng là ta. Tưởng ở nơi ta, ta ở nơi tưởng. Bị cái thấy chi phối. Hành tức là ta, hành xúc ở nơi ta. Hành ở tại ta, ta ở tại hành. Bị cái thấy chi phối nên nói thức tức là ta, thức xúc thuộc về ta. Thức ở tại ta, ta ở tại thức. Mắt thấy sắc cũng vậy, chấp vào hình tướng, chấp lấy việc nầy và lấy đó làm nhân duyên. Ở nơi nhãn căn chẳng thể chánh niệm phòng giữ mà trụ vào sự phát khởi của tham muốn. Cho nên phát sanh rất nhiều việc ác và những pháp chẳng lành. Tùy theo tâm nầy mà chảy xiết, chẳng thể dừng nghỉ. Ở nơi nhãn căn chẳng thể giữ gìn. Từ con mắt phóng túng nhìn ra các cảnh giới tham trước màu sắc và mùi vị, cột chặt vào tâm nầy, do sự tham lam nầy mà thọ khổ dài lâu, thọ khổ cực hình, thọ sự trói buộc khổ sở, tăng sự nóng giận nơi thân, tăng sự trống rỗng nơi ý, không biết bao nhiêu sự qua lại lên xuống sanh vào bàng sanh, ngạ quỉ, hoặc A Tu La, người, trời các thú v.v… thọ nhận những sự cực khổ, đều do con mắt chẳng điều phục được vậy. Như vậy đó khi tai nghe âm thanh rồi, mũi ngửi mùi hương rồi, lưỡi nếm vị rồi, thân có sự va chạm rồi, ý đã hiểu pháp rồi, chấp giữ vào hình tướng ấy, rồi sự chấp thủ ấy cho là tốt. Đây là nhân duyên và tại nơi ý chẳng thể chánh niệm, giữ gìn để mà ở yên, phát sanh sự tham não. Cho nên tạo ra không biết bao nhiêu là việc ác và pháp chẳng lành. Tùy theo tâm nầy mà lưu chuyển thấm vào chẳng thể chấm dứt. Ở nơi ý căn nầy chẳng thể giữ gìn; nên từ ý căn phóng túng đó, tạo ra những cảnh giới, tham trước các mùi vị và trói buộc vào đó, đây là nhân duyên làm cho tham dục, thọ đêm dài khổ sở, thọ sự khổ cực hình, thọ sự trói buộc khổ sở, tăng máu nơi người, tăng nên con đường trống rỗng, qua lại lên xuống nhiều đời đọa lạc sanh vào bàng sanh, ngạ quỉ và A Tu La, người, trời các loài thú, thọ nhận nhiều khổ sở, đều do ý căn chẳng điều phục được vậy. Như vậy có tên là chẳng điều phục được sự chết.
Thế nào gọi là có thể điều phục được sự chết ? Nghĩa là các hiền thánh, đa văn đệ tử thường hay thân cận với những bậc chánh kiến, hiểu biết và có tâm lành. Cho nên phải hiểu đây là tất cả các pháp lành. Từ nơi pháp lành ấy mà tự điều phục, chẳng theo sự tùy thích của sự thấy nghe như sắc tức là ta, sắc xúc thuộc về ta, sắc ở tại ta, ta ở tại sắc, không thuận theo sự thấy đó. Thọ tức là ta, thọ xúc ở nơi ta, thọ ở nơi ta, ta ở nơi thọ, chẳng thấy như vậy. Tưởng tức là ta, tưởng xúc ở nơi ta, tưởng ở tại ta, ta ở tại tưởng, chẳng thuận theo sự thấy như thế. Hành tức là ta, hành xúc ở nơi ta, hành ở tại ta, ta ở tại hành; chẳng thuận theo sự thấy như vậy. Thức tức là ta, thức xúc ở tại ta, thức ở tại ta, ta ở tại thức. Mắt thấy sắc rồi chẳng chứng và tướng nầy,chẳng chấp vào sự phụ thuộc. Do nhân duyên nầy mà ở nơi con mắt, hay sanh chánh niệm, phép lành, phòng hộ giữ gìn ở yên chẳng khởi tham dục. Cho nên những việc ác, bất thuận theo tâm mà thấm nhuần, tất cả có thể không trói buộc nơi nhãn căn và nơi đây hay gìn giữ những pháp lành, chẳng từ con mắt nầy mà thấy những cảnh giới; chẳng tham sắc, mùi vị làm trói buộc tâm nầy; chẳng chuyên vào sự tham mà nhận lãnh đêm dài khổ sở, thọ cực hình, thọ những sự khổ nhọc như tăng máu nơi thân, tăng sự trống không nơi nội tại; chẳng làm cho sanh vào bàng sanh, ngạ quỷ hoặc A Tu La, người, trời các thú để thọ những phiền não. Tất cả đều do sự điều phục được nhãn căn vậy.
Như thế hoặc lúc khi tai nghe rồi, mùi ngửi rồi, lưỡi nếm vị rồi, thân xúc chạm rồi, ý hiểu pháp rồi, không chấp vào tướng ấy, chẳng chấp theo tốt hay xấu. Do nhân duyên nầy ở nơi ý căn, lại hay chánh niệm giữ gìn mà ở, chẳng khởi lòng tham lo cho đến nhiều tội ác, chẳng có thiện pháp, tùy theo tâm mà lưu chuyển. Tất cả đều có thể lo lắng là đều do ý căn, việc tốt hay giữ, chẳng từ ý căn mà nhìn qua các cảnh giới, chẳng tham pháp vị trói buộc tâm nầy. Chẳng duyên nơi sự tham nầy mà thọ nhận đêm dài khổ sở, hay thọ nhận sự khổ sở, sự làm cho khổ, tăng trưởng áp huyết nơi thân và tăng đường trống rỗng nơi ý. Chẳng qua lại ở đây hay sanh vào bàng sanh, ngạ quỷ và A Tu La, người trời các thú, thọ nhận những sự khổ cực. Tất cả đều do ý căn tốt đẹp điều phục vậy. Như vậy có tên là điều phục mà chết.
Các Tỳ Kheo nên biết! Chẳng điều phục mà chết, chìm đắm vô lượng sanh tử khổ hải. Còn điều phục mà chết thì siêu độ vô lượng sanh tử khổ hải. Cho nên có tên là 2 sự chết. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Lược nói các hữu tình
Phép chết có hai loại
Điều phục hoặc chẳng điều
Chẳng có phép thứ ba
Nếu chẳng điều mà chết
Nhứt định sinh vào thú
Thọ các khổ luân hồi
Trải qua nhiều vô lượng
Kẻ điều phục mà chết
Cuối chẳng vào ác thú
Sanh vào cõi trời người
Hay diệt trừ các khổ
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Tất cả các pháp, lược nói có 2 loại. Thế nào là hai ? Một là tạp nhiễm, hai là thanh tịnh. Nên quan sát chơn chánh do chỉ một pháp. Vì sao vậy ? Nếu chỉ một pháp, mà hay giữ gìn chánh đáng, tức là tất cả hay giữ gìn tốt. Nếu ở một pháp mà chẳng giữ gìn chơn chánh thì ở pháp đó tất cả đều chẳng giữ gìn. Thế nào gọi là một pháp ? Nghĩa là tâm chúng sanh. Nếu ở tâm ấy chẳng thể giữ gìn, tức chẳng thể giữ thân, miệng, ý nghiệp. Nếu chẳng thể giữ thân ngữ ý nghiệp thì người nầy tức làm hư hoại tất cả thân ngữ ý. Thân ngữ ý nghiệp, tất cả đều bại hoại vậy. Tâm nầy tức có nhiễm ô cấu uế. Tâm nầy nhiễm ô và cấu uế có thể biết được rõ ràng về sự tự lợi lạc và sự lợi lạc cho kẻ khác. Chẳng có nơi nào có thể biết nói lời lành hay nói nghĩa ác. Chẳng có nơi có thể chứng tất cả pháp tối thượng chơn chánh thánh trí. Lại cũng chẳng có nơi nào cả. Vì sao vậy ? Vì tâm có nhiễm ô và cấu uế vậy. Dụ như trong thế gian có chỗ quan sát. Nếu ở nơi tâm mà chứa bất thiện tức là duyên nhiễm ô. Tất cả đều bị thấm qua trợ duyên cho sự xấu. Do vậy cho nên bị bại hoại. Lại như ở thế gian nầy nơi thôn xóm, tụ lạc gồm có các ao hồ nên nhiễm ô và cấu uế. Người có mắt sáng thì ở tại bên bờ lấy ý quan sát. Ở nơi đó ếch nhái rùa cá, đá sỏi các loại, đi đứng qua lại rất khó khăn. Vì sao vậy ? Vì nước bị dơ và xấu xa. Như vậy đó chúng sanh nếu tâm chẳng giữ gìn tức chẳng thể bảo hộ cho thân ngữ ý nghiệp được. Nếu chẳng thể giữ gìn thân ngữ ý nghiệp được thì kẻ đó tức đã làm bại hoại tất cả thân ngữ ý nghiệp rồi. Thân ngữ ý nghiệp tất cả đều bị bại hoại. Tâm nầy tức bị nhiễm ô, cấu uế. Kẻ có tâm nhiễm ô cấu uế thường có thể thấy biết được sự lợi lạc và làm lợi lạc đầy đủ cho kẻ khác. Cũng chẳng có nơi nào có thể làm cho hiểu biết lời nói hay, đúng và lời nói xấu ác. Cũng chẳng có nơi nào có thể chứng tất cả pháp chơn thánh tri kiến. Lại cũng chẳng có nơi nào cả. Vì sao vậy ? Vì tâm nầy có nhiễm ô và cấu uế vậy. Nếu có tâm hay bảo hộ tốt, tức có thể hộ cho thân ngữ ý nghiệp. Nếu giữ gìn cho thân ngữ ý nghiệp tốt thì người ấy tức là người đã làm cho thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại. Cho nên gọi là thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại vậy. Tâm nầy tức chẳng có ô nhiễm cấu uế. Tâm chẳng ô nhiễm và cấu uế thì thường hay thấy rõ việc tự lợi lạc và sự lợi lạc cho kẻ khác đều đầy đủ. Ở nơi nầy thường hay biết rõ việc lành mà nói nghĩa lý cũng như việc ác. Ở nơi ấy hay chứng được tất cả thắng pháp chơn thánh tri kiến. Ở nơi ấy, tại sao như vậy ? Vì tâm không xấu xa và cáu bợn vậy. Dụ như trong thế gian nầy là nơi quan sát. Nếu có một tâm mà chứa toàn điều lành, tức sẽ trong sạch. Chẳng có thẩm thấu. Do duyên đẹp đẽ nầy mà không bị thẩm thấu vậy. Tất cả chẳng hư hại. Lại như ở thế gian nầy xa rời làng xóm ao hồ. Chẳng có xấu xa cùng những dơ sạch. Người có mắt sáng sống ở bên bờ tác ý quan sát. Trong nầy lại có ếch nhái, rùa cá, đá vụn đủ loại. Đi ngang qua đó có thể thấy rõ ràng. Vì sao vậy ? Vì nước không đục, không bị cáu bợn vậy. Cho nên chúng sanh nếu có tâm hay giữ gìn thì có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp được tốt. Nếu có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp được tốt thì người nầy tức vì thân ngữ ý nghiệp chẳng làm bại hoại. Cho nên thân ngữ ý nghiệp chẳng bại hoại vậy. Tâm nầy tức tâm chẳng dơ, không cấu uế. Tâm chẳng ô trược và cấu uế thì có thể thấy rõ sự lợi lạc và sự lợi lạc đầy đủ khác. Lại có nơi có thể biết rõ lời nói ý nghĩ lành, lời nói ý nghĩ xấu. Lại có nơi có thể chứng được tất cả thắng pháp chơn chánh tri kiến. Lại có nơi như thế. Tại sao vậy ? Vì tâm không có dơ uế và xấu xa vậy.
Các Tỳ Kheo nên biết! Đó là tâm tạp nhiễm vậy, gọi là hữu tình tạp nhiễm. Lại cũng có tâm thanh tịnh, có hữu tình thanh tịnh. Cho nên gọi là tạp nhiễm thanh tịnh 2 pháp, tất cả đều nương vào nơi tâm và từ tâm nầy mà sanh khởi. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nếu chẳng giữ gìn tâm
Tùy theo các sở thích
Hay buông lung cẩu thả
Tất cả chẳng có làm
Nếu giữ gìn tâm tốt
Chẳng tùy theo ham muốn
Không buông lung cẩu thả
Tất cả đều giữ gìn
Thế gian có kẻ tốt
Hay giữ thân ngữ ý
Chẳng tạo các việc ác
Tên chân thật trượng phu
Lại từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 2 loại thấy, làm cho các loài hữu tình hay thay đổi tướng tốt xấu, oán hại nhau, ca tụng để thấy, quan trọng đầu tiên. Nầy các Sa Môn hoặc Bà La Môn! Hãy nhiếp lấy sự chẳng thấy hãy tập thấy sự chẳng thấy. Nếu chẳng thấy có cũng như ái lạc cùng các sự thấy khác; thay đổi tướng tốt xấu, oán hại nhau, chẳng thấy nghe sự tán thưởng, là điều đầu tiên. Nếu có Sa Môn hoặc Bà La Môn ở nơi 2 sự thấy có tập diệt mà xa lìa sự ngu muội nầy, chẳng phải chánh huệ, hiểu rõ như thật thì ta nói người kia tên gọi là vô tri kiến (chẳng hiểu biết gì cả). Có tham sân si, có sai có hại. Chẳng huệ, chẳng sáng, chẳng thể giải thoát sanh tử, sầu thán, ưu não v.v… Chẳng thể giải thoát sanh tử và các sự khổ. Nếu có Sa Môn hoặc Bà La Môn ở nơi 2 sự thấy nầy mà các tập diệt vị, quá ngu si xa rời,có thể được chánh huệ, như thật hiểu biết, ta nói người kia được gọi là kẻ tri kiến, chẳng tham sân si, chẳng sai chẳng hại, có trí tuệ sáng suốt. Thường hay được giải thoát sanh lão bệnh tử sầu não than van v.v… Có thể được giải thoát sanh tử là những khổ lớn. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Thế gian do hai thấy
Làm cho đúng hoặc sai
Nầy kia làm giận hờn
Để thấy hoặc chẳng thấy
Kẻ thấy có thế nầy
Ái lạc chẳng hay bỏ
Đó là kẻ ngu si
Thường hay tự xưng tán
Nếu chẳng biết thấy nầy
Tập diệt, ngu phải ra
Thấy tên độc, bị thương
Vô minh bị che lấp
Đầy đủ tham sân si
Vô minh thấy trí sáng
Định chẳng thể giải thoát
Sanh lão bệnh tử thảy
Nếu hay biết thấy nầy
Ra khỏi ngu, tập diệt
Thấy tên độc chẳng hại
Phá vô minh tối tăm
Xa rời tham sân si
Đầy đủ thấy nghe trí
Quyết định hay giải thoát
Sanh lão bệnh tử thảy
Lại từ Đức Thế Tôn được nghe như thế này. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 2 loại chánh kiến, nên tìm sự chân thật mà suy nghĩ quan sát. Kẻ hay tìm hiểu xưng tán, quan sát thì có thể được những gì chưa được, hay gặp những gì chưa gặp, hay chứng những gì chưa chứng, hay qua khỏi sầu than, hay diệt các ưu khổ, hay được như chơn lý, hay gặp gỡ cam lồ, hay chứng được Niết Bàn. Sao lại có hai ? Nghĩa là tất cả thế gian chánh kiến và xuất thế gian chánh kiến. Thế nào mà có tên là thế gian chánh kiến ? Nghĩa là có một loại khởi sự thấy chân thật, lập luận như thật, quyết định có bố thí, có thọ có xấu hổ, có nghiệp lành dữ, có dị thục quả, có thế gian nầy và ở tại thế gian nầy có cha, có mẹ, có các loài hữu tình hóa sanh khác nhau nhiều loại. Ở nơi thế gian nầy có các Sa Môn, Bà La Môn v.v… sống đời thanh tịnh ở thế gian nầy và thế gian khác; tự nhiên thông đạt làm được chứng thọ. Như vậy có tên là thế gian chánh kiến. Nầy các đệ tử! Nơi đây ta gọi là thế gian chánh kiến nên tìm hiểu tư duy xưng tán quan sát, y vào đó ta nói là thế gian chánh kiến. Có thể làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu thán, ưu khổ, phiền não v.v… Nếu chẳng quan sát rõ cũng chẳng hiểu biết, nương vào đó ta nói thế gian chánh kiến, chẳng làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử sầu não, ta thán v.v… Vì sao vậy ? Như vậy đó nói rằng thế gian chánh kiến. Chẳng phải là thánh kiến, chẳng lìa ly kiến, chẳng có thể làm cho cứu cánh Niết Bàn kiến, chẳng yểm chẳng ly, chẳng mất chẳng tịnh, chẳng chứng thông huệ, chẳng thành đẳng giác, chẳng chứng Niết Bàn, mà hay bị cảm vào sự sanh lão bệnh tử, sầu thán, ưu não, buồn phiền v.v… Như vậy biết rồi thì với thế gian pháp nầy phải sanh tâm sợ hãi, mà tưởng nhớ đến pháp xuất thế gian an tịnh. Cho nên từ đó sanh sợ hãi nơi pháp của thế gian. Cả 2 đều chẳng chấp nhận. Khi không chấp nhận rồi, chẳng có cầu mong. Chẳng cầu mong rồi thì nội chứng đắc cứu cánh Niết Bàn. Khi chứng như thế rồi thì tự biết rằng, ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những gì đã làm xong, chẳng thọ sanh nữa. Như thế các ngươi! Y theo nơi nầy nói rằng thế gian chánh kiến, hay tìm tòi xưng tán, quan sát. Sao lại có tên là xuất thế gian chánh kiến ? Nghĩa là biết sự khổ, biết sự khổ tập, biết sự khổ diệt và có thể biết được hứng thú tới con đường diệt khổ. Cho nên có tên là xuất thế gian chánh kiến. Nầy các Thánh đệ tử, y vào nơi nầy mà nói xuất thế gian chánh kiến vậy. Nên tìm hiểu, suy nghĩ, xưng tán quan sát. Y vào nơi nầy mà nói là xuất thế gian chánh kiến, có thể làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu não, lo buồn v.v… Chẳng lắng nghe quan sát rồi, thì làm cho hiểu rõ. Y vào nơi nầy mà nói là xuất thế gian chánh kiến, hay là làm cho chúng sanh cứu cánh giải thoát sanh lão bệnh tử, sầu khổ, ưu bi, phiền loạn v.v… Cho nên gọi đây là xuất thế gian chánh kiến, đây là chơn Thánh kiến, đây là xuất ly kiến, đây là cứu cánh chứng Niết Bàn kiến, hay yểm hay ly, hay diệt hay tịnh, hay chứng thông huệ, hay thành đẳng giác, hay được Niết Bàn, hay qua khỏi tất cả sanh lão bệnh tử, sầu thán, lo âu, khổ não v.v… Như vậy đã biết rồi thì nơi thế gian nầy sẽ xuất hiện trân bảo, đồng thời ở thế gian nầy sẽ sanh tư tưởng hạ tặc. Khi có tư tưởng xuất thế trân bảo rồi thì thân được nhẹ nhàng. Khi thân nhẹ nhàng rồi thì được niềm vui miên viễn, thọ được niềm vui miên viễn rồi thì tâm được tịch tịnh. Khi tâm được tịch tịnh rồi thì có thể sinh thật tri kiến. Khi đã có thật tri kiến rồi thì hay thích xa lìa. Khi xa lìa rồi thì hay ly dục. Khi ly dục rồi thì hay giải thoát. Khi được giải thoát rồi thì làm cho hiểu biết, ta sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau. Như thế các ngươi! Y nơi nầy mà nói xuất thế gian chánh kiến. Nên tìm hiểu và suy nghĩ rõ rồi xưng tán quan sát. Cho nên có tên là 2 loại chánh kiến. Nên tìm hiểu xưng tán quan sát có thể được những điều chưa được, có thể gặp những điều chưa gặp, có thể chứng những gì chưa chứng, có thể qua được các sầu thán, có thể diệt được ưu khổ, có thể được như chơn lý, có thể gặp gỡ cam lồ, có thể chứng được Niết Bàn. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Chánh kiến có hai loại
Thế gian, xuất thế gian
Kẻ trí thường suy nghĩ
Hay hiểu tất cả khổ
Suy nghĩ nơi thế gian
Mà sinh tâm sợ hãi
Do chẳng chấp vào thọ
Cứu cánh chứng Niết Bàn
Suy nghĩ xuất thế gian
Hay sanh của trân bảo
Hoan hỷ tâm an lạc
Từ đây mà nhẹ nhàng
Nhẹ nhàng rồi an vui
Vui rồi tâm vắng lặng
Tâm định sinh giác chi
Hiểu rõ bốn như thật
Thấy đoạn thật các nghi
Nghi không nơi chứa chấp
Giải thoát tất cả khổ
Chứng vô thượng Niết Bàn
Sâu vào nghĩa trước Uẩn Đà Nam viết:
Cho cùng các tập hội
Như cùng chẳng học hết
Hành tướng chết, giống, khác
Sạch dơ cùng hai thấy.