Quyển bảy
Phẩm Pháp thứ ba
Phần hai
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Ở nơi thế gian nầy tử (con) có 3 loại. Thế nào là ba ? Một là đẳng tử, hai là thắng tử và ba là liệt tử.
Thế nào gọi là đẳng tử ? Nghĩa là có một loại cha mẹ do giới đức mà tạo thành điều thiện hay lìa sát sanh, lìa trộm cướp, lìa dục tà hạnh, lìa vọng ngữ, lìa uống các loại rượu sanh ra giải đãi. Người con cũng đầy đủ giới đức, thành thục điều phục các thiện pháp, hay lìa sát sanh, lìa trộm cướp, lìa dục tà hạnh, lìa vọng ngữ là lìa uống các thứ rượu sanh ra giải đãi. Cho nên đây gọi là đẳng tử.
Còn thế nào gọi là thắng tử ? Nghĩa là có một loại cha mẹ phạm giới làm các điều ác, vui việc giết hại, làm việc trộm cướp, làm việc tà hạnh, làm việc nói dối và uống những thứ rượu say sinh ra buông lung. Người con có thể trì giới điều phục thuần phục các pháp lành, hay lìa sự giết hại, lìa sự trộm cướp, lìa sự tà hạnh, lìa sự nói dối, lìa việc uống các thứ rượu say sinh ra giải đãi. Cho nên có tên là thắng tử.
Thế nào gọi là liệt tử ? Nghĩa là có một loại cha mẹ đầy đủ giới đức, điều phục thiện pháp hay lìa sát sanh, hay lìa trộm cướp, hay lìa tà hạnh, hay lìa nói dối và hay lìa uống các thứ rượu sinh ra giải đãi. Còn người con thì phạm giới, làm các việc ác, vui việc sát sanh, làm việc trộm cướp, làm việc tà hạnh, làm việc nói dối và làm việc uống rượu sinh ra những giải đãi. Nên có tên là liệt tử.
Như thế đó trong thế gian nầy có tên gọi cho người con có 3 loại như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Thế gian người có trí
Có loại đẳng, thắng tử
Chẳng vui là liệt tử
Làm tổn hại gia môn
Nên biết trong ba ấy
Một liệt hai làm thắng
Đức Phật đã nói rằng
Các hiền thánh cũng vậy
Hai kia tin giới luật
Trí huệ chẳng ngăn ngại
Như trời trong trăng sáng
Nơi đâu cũng sáng sủa
Nên gần gũi cúng dường
Chư Phật đều xưng dương
Xa lìa các trần cấu
Việc làm chẳng sợ hãi
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có một loại Tỳ Kheo tôn trọng chánh pháp vui theo chánh pháp, thực hiện theo chánh pháp, siêng năng hành trì, thường thích hành pháp. Như thế Tỳ Kheo, tùy niệm chánh pháp, thường vui và xa rời tham, không có căn lành, chẳng tham thiện căn, tu hành đầy đủ, thường hay vui vẻ đoạn trừ sân bất thiện căn, vô sân thiện căn, tu cho viên mãn. Thường vui để đoạn trừ si bất thiện căn, tu 4 niệm trụ, lại làm cho đầy đủ, tu 4 niệm trụ, chứng được viên mãn rồi, tu 4 chánh đoạn, lại làm cho viên mãn, tu 4 chánh đoạn, được viên mãn rồi, tu 4 thần túc, lại làm cho viên mãn rồi, tu 4 thần túc. Được đầy đủ rồi tu tập ngũ căn, làm cho viên mãn rồi, tu tập ngũ căn, làm cho viên mãn rồi tu tập ngũ lực. Làm cho viên mãn rồi, tu tập ngũ lực, được viên mãn rồi tu thất giác chi, làm cho viên mãn rồi, tu thất giác chi, được viên mãn rồi tu bát thánh đạo, làm cho viên mãn rồi tu bát thánh đạo, được viên mãn rồi thì được sáng và giải thoát. Tất cả đều được viên mãn. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Tôn trọng pháp thường vui
Làm cho pháp lưu hành
Nơi pháp thường hay nhớ
Hay chẳng lùi chánh pháp
Chánh niệm tu thiện niệm
Chẳng nhớ làm việc ác
Hành pháp định hay siêu
Đời nầy đời khác vui
Pháp giúp người hành pháp
Như lúc mưa có dù
Hành pháp giúp lợi lạc
Chẳng thể đọa tam đồ
Ta đã từng nghe Đức Thế Tôn nói lời như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Thế gian nầy lược nói có 3 loại tầm tư. Các Tỳ Kheo hữu học! khi chưa chứng được thì mong cầu chứng được vô thượng an lạc, hay làm cho thoái thất. Thế nào là ba ? Thứ nhất là thân cận tương ưng với tầm tư, hai là sự lợi dưỡng tưng ứng với tầm tư, ba là đố thắng tương ứng với tầm tư. Như thế lược nói có 3 loại tầm tư. Các Tỳ Kheo hữu học, kẻ chưa được tâm muốn cầu được vô thượng an lạc thì phải làm cho mất đi. Cho nên các ngươi phải biết học như thế nầy. Ta nay vì chẳng khởi sự gần gũi tương ưng với tầm tư, chẳng khởi lợi dưỡng tương ưng với tầm tư, chẳng khởi đố thắng tương ưng với tầm tư. Nầy các Tỳ Kheo! nên biết như thế. Lúc ấy Đức Thế tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nương tối tăm tầm tư
Lược nói có ba thứ
Học cầu vô thượng lạc
Làm chướng tất vô ngại
Nương gần gũi tương ưng
Lợi dưỡng và đố thắng
Đến vui lớn tịnh lớn
Cuối cùng không có nghịch
Bỏ thân thuộc lợi dưỡng
Và đố thắng tầm tư
Nhiếp chỉ quán khuyên tu
Sớm dứt được sự khổ
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Lược nói có 3 pháp. Có học Tỳ Kheo kẻ chưa được tâm muốn cầu vô thượng an lạc thì phải nên làm cho mất đi. Thế nào là ba ? Một là Tỳ Kheo vui mừng theo công việc như nghiệp tham ái, đắm trước vào nghiệp. Hai là các Tỳ Kheo vui mừng theo nói chuyện, tham ái việc đàm thoại, đắm trước nơi câu chuyện. Ba là các Tỳ Kheo vui theo sự ngủ nghỉ, tham ái và ngủ nghỉ, đắm trước vào ngủ nghỉ. Như thế có 3 pháp. Các hữu học Tỳ Kheo kẻ chưa được tâm muốn cầu được pháp vô thượng an lạc thì phải làm cho mất đi. Cho nên các ngươi phải nên biết, ta sẽ vì những nghiệp không vui, chẳng nghiệp vì ái, chẳng nghiệp vì đắm trước. Ta sẽ vì chẳng vui nói chuyện, chẳng ưa đàm thoại, chẳng đắm trước nói chuyện, ta sẽ vì chẳng vui ngủ nghỉ, chẳng thích ngủ nghỉ, chẳng đắm trước ngủ nghỉ. Các Tỳ Kheo các ngươi nên học như thế. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Lúc cầu quả vô thượng
Có ba pháp nên lùi
Nghiệp vui, ái, đắm trước
Nói chuyện và ngủ nghỉ
Hữu học các Tỳ Kheo
Nếu đủ ba pháp nầy
Cuối chẳng thể chứng đắc
Được quả tam bồ đề
Nếu muốn cầu chứng mau
Được chứng tam bồ đề
Phải ít nói và ngủ
Siêng năng tu chỉ quán
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 3 loại pháp hòa hợp hiện tiền làm cho tịnh tín các thiện nam tử sanh vô lượng phước. Thế nào là ba ? Một là lòng tin thanh tịnh hòa hợp với nhau hay làm cho những người con trai sanh ra nhiều phước. Hai là làm cho hòa hợp với nhau làm cho lòng tin thanh tịnh của các Thiện Nam tử sanh ra vô lượng phước. Thứ ba là phước điền hòa hợp với nhau có thể làm cho lòng tin thanh tịnh của các thiện nam tử sanh ra vô lượng phước. Cho nên có tên là 3 pháp hòa hợp hiện tiền làm cho phát khởi lòng tin thanh tịnh của các thiện nam tử sanh ra vô lượng phước. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Ba pháp hợp hiện tiền
Hay sanh vô lượng phước
Nghĩa tịnh tín cho đồ
Và chơn tịnh phước điền
Đủ huệ cùng giới đức
Hay điều phục ba độc
Tu sa môn phạm hạnh
Tên chơn tịnh phước điền
Đầy huệ đầy lòng tin
Giữ gìn như của quý
Phụng thí phước điền tốt
Tất sẽ được quả lớn
Thân có bốn oai nghi
Nương Tam Bảo Tứ Đế
Chánh thiện chẳng dơ nhớp
Tên là tâm lành vậy
Với trí sáng bố thí
Pháp thí là hơn cả
Tâm tịnh nói chánh pháp
Chư Phật đều xưng tán.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! những người có trí nên biết 3 loại pháp chẳng bền chắc, dễ dàng như thế. Thế nào gọi là ba ? Một là tiền tài chẳng bền chắc, hai là của cải chẳng bền chắc và ba là thân thể chẳng bền chắc. Tài sản của cải thân thể là ba điều chẳng bền chắc của mạng người. Của cải làm cho thân mệnh không bền chắc giống như tài sản. Nghĩa là kẻ tịnh tín thiện nam tử hoặc thiện nữ nhơn như pháp siêng năng lao dịch bằng chân tay, ra sức đổ mồ hôi mới có được những tài sản quý giá, nên tự chính thân mình cung phụng cho cha mẹ, cho vợ con, nô tỳ, bạn bè quyến thuộc, ngày đêm gặp gỡ, vui vẻ sinh sống mà khi gặp Sa Môn hoặc Bà La Môn giữ gìn giới đức hay điều phục thiện pháp, siêng tu phạm hạnh, trừ khử giải đãi, kiên nhẫn nhu hòa, thẳng ngay đường tốt, bỏ các đường tà, chí thú Niết Bàn, giữ tâm thanh tịnh, hoan hỷ cung kính như biết như nên giữ gìn bố thí, xa cầu vô thượng an lạc Niết Bàn. Hoặc hy vọng tương lai được quả vui trời người. Đó có tên là của cải chẳng bền, tài sản chẳng bền.
Thế nào là thân mệnh chẳng bền ? Nghĩa là có kẻ tịnh tín thiện nam tử hoặc thiện nữ nhơn thành tựu chánh kiến hay lìa sát sanh, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm hạnh thanh tịnh, lìa sự trộm cắp, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh, lìa sự tà dâm, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh. Lìa sự nói dối, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh; lìa sự uống rượu sanh buông lung, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh, như thế các loại có tên là thân thể chẳng bền chắc.
Thế nào là đời sống chẳng bền chắc ? Nghĩa là ở trong pháp của ta, các Thánh đệ tử hiểu biết như thật về khổ đế, hiểu biết như thật về tập đế, hiểu biết như thật về khổ diệt đế; hiểu biết như thật và có thể hướng đến khổ diệt đạo đế. Cho nên ở đây có tên là 3 loại không bền chắc, 3 loại dễ thay đổi. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng :
Như đời có người trí
Bị mất mà chẳng quý
Kẻ chánh kiến cũng thế
Tất cả đều thay đổi
Biết được tiền, thân, mệnh
Chẳng tịnh chẳng bền chắc
Cầu thanh tịnh bền chắc
Ra khỏi thế gian vui
Trên đời tiền, thân, mệnh
Ở đời rất bền chắc
Chứng thường lạc Niết Bàn
Đó là pháp chắc thật
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Căn có 3 loại, tánh nầy sâu xa, hiển hiện sâu xa, tánh nầy khó thấy, hiển hiện khó thấy. Sao gọi là ba ? Một là chưa biết sẽ được biết gốc. Hai là biết gốc, ba là biết đầy đủ gốc. Vì sao có tên chưa biết sẽ được biết gốc ? Nghĩa là trong pháp của ta các Thánh đệ tử y nơi chưa thấy biết các khổ thánh đế mà thấy mà biết, phát sanh muốn vui, làm cho siêng năng, nhiếp tâm giữ tâm thì việc chưa thấy biết khổ tập thánh đế, làm cho thấy cho biết phát sanh được niềm vui, siêng năng tinh tấn nhiếp tâm thọ trì, nơi chưa thấy biết về khổ diệt thánh đế, làm cho thấy, biết phát sanh niềm vui siêng năng tinh tấn nhiếp tâm thọ trì. Nơi chưa thấy biết có thể đến khổ diệt chơn đạo thánh đế. Vì sự thấy biết phát sanh niềm vui, siêng năng tinh tấn nhiếp tâm thọ trì. Cho nên có tên là chưa biết sẽ được biết cái gốc.
Sao lại có tên là biết cái gốc ? Nghĩa là trong pháp của ta các Thánh đệ tử, hiểu rõ như thật, đây là khổ thánh đế, đây là tập thánh đế, đây là khổ diệt đế, đây là thú khổ diệt chơn đạo thánh đế. Đây là biết gốc gác.
Thế nào là biết đầy đủ gốc gác ? Nghĩa là trong pháp của ta, các Thánh đệ tử, các lậu đã tận đắc chơn vô lậu, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát, hay biết chơn chánh, ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân nữa, cho nên có tên là biết gốc gác đầy đủ. Như vậy có tên là gốc có 3 loại. Tánh nầy rất sâu xa, hiển hiện sâu xa; tánh nầy khó thấy, hiển hiện khó thấy. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Ở nơi chánh pháp ta
Thánh đệ tử hữu học
Thuận tu con đường chánh
Đây là căn thứ nhất
Biết rõ khổ tập đế
Và khổ tập khổ diệt
Hay vui khổ diệt đạo
Đây là gốc thứ hai
Gốc thứ ba nên biết
Các lậu đều hết sạch
Chứng được chơn vô lậu
Tâm sáng thiện giải thoát
Biết ta đã hết sanh
Các phạm hạnh đã lập
Việc làm cũng đã xong
Chẳng thọ thân sau nữa
Thân tâm thường tịch tĩnh
Lành giữ gìn các căn
Giữ gìn thân sau cùng
Hàng phục các ma chướng
Ta từ Đức Thế tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! lược nói có 3 loại Bổ Đặc Già La (chúng sanh) vì nghĩa lợi mà nên thân cận. Thế nào là 3 loại ? Một là có loại chúng sanh thành tựu giới kém định kém và huệ kém. Hai là có một loại chúng sanh thành tựu tất cả giới định huệ. Ba là có một loại chúng sanh thành tựu thắng giới, thắng định và thắng huệ. Trong đó có loại chúng sanh thành tựu giới định huệ đều kém, làm sao được lợi ích mà nên thân cận ? Nghĩa là loại chúng sanh nầy chẳng có hy vọng cầu cứu, chỉ có lòng từ, khuyên nên tinh tấn. Vì đây là lợi lạc cho nên gần gũi. Trong đó có một loại chúng sanh thành tựu tất cả giới định huệ, vì sự lợi ích mà nên thân cận. Nghĩa là loại chúng sanh nầy suy nghĩ rằng họ đang vì ta mà nói giới tương tự, ta đương vì họ mà nói giới tương tự, hỗ tương nhau nghe làm cho được tương tục, làm được nhiều việc cho nên suy nghĩ rằng họ đương vì ta mà nói về định tương tự và ta đương vì họ mà cũng nói định tương tự, hỗ tương nhau nghe, làm cho tương tục, đã làm nhiều việc và suy nghĩ rằng họ đương vì ta mà nói huệ giống nhau và ta đương vì họ mà cũng nói huệ giống nhau. Hỗ tương nhau nghe làm cho được liên tục, đã làm nhiều việc. Vì nghĩa nầy mà lợi lạc nên phải gần gũi.
Trong ấy lại có một loại chúng sanh thành tựu thắng giới thắng định thắng huệ. Vì sao lợi ích mà nên thân cận ? Nghĩa là loại chúng sanh nầy suy nghĩ rằng ta đương vì kia mà nương vào nơi giới uẩn, nếu chưa viên mãn thì làm cho viên mãn. Nếu ta đã đầy đủ thì nhập vào chánh niệm, kiên cố giữ gìn, liền suy nghĩ rằng ta đương vì kia mà nương vào định uẩn. Nếu chưa đầy đủ làm cho đầy đủ. Nếu đã đầy đủ thì nhiếp vào chánh niệm kiên cố giữ gìn, liền suy nghĩ rằng ta sẽ nương vào kia nơi huệ uẩn. Nếu chưa đầy đủ thì làm cho đầy đủ. Nếu đã đầy đủ thì làm cho chánh niệm và kiên cố giữ gìn. Vì nghĩa nầy nên thân cận, cho nên có tên là lược nói 3 loại chúng sanh nên thân cận gần gũi. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Gần kẻ thấp, từ bi
Gần kẻ cao, lợi ích
Gần kẻ tốt, vì đức
Đầy đủ hay giữ gìn
Gần kẻ thấp, ít đức
Gần kẻ giữa, đức vừa
Gần kẻ trên, đức trọng
Vậy nên gần thượng sĩ
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! nên dùng thân nầy ở vào bất tịnh quán; nên để thân nầy theo hơi thở và theo suy nghĩ và nên nương vào đi đứng để quán vô thường, khổ, vô ngã. Nếu có thể nơi thân nầy dùng bất tịnh quán thì với cảnh tịnh, sẽ dễ đoạn lìa tham dục. Nếu hơi thở và sự nhớ nghĩ mà hay đoạn trừ tầm tư, chướng ngại thì nên quán về vô thường bởi sự đi đứng, quán về khổ, vô ngã, để làm cho có thể xa lìa ái dục mà ở thế gian nầy thường hay chấp chặt vào. Khi không chấp vào thì không sợ hãi, đã không sợ hãi thì làm cho chứng đặng cứu cánh Niết Bàn. Khi đã chứng Niết Bàn rồi thì làm cho tự hiểu rằng ta việc sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau nữa. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Nơi thân quán bất tịnh
Hơi thở chỗ suy nghĩ
Quán các hành vô thường
Cho đến khổ, vô ngã
Được các hành tánh không
Được tối thắng tịch tịnh
Ái không còn chấp giữ
Chứng cứu cánh Niết Bàn.
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Các thân của loài hữu tình thì vì 3 loại dũng kiện, oán tặc và tùy toại (theo sự ưa thích) mà làm hại. Vì sao gọi có ba ? Một là buồn cho sức khỏe của sự già mà oán hờn. Hai là buồn cho bệnh tật mà oán hờn. Ba là buồn cho vô thường mà lo buồn. Đây là 3 loại buồn lo về sức khỏe. Chúng thường hay làm cho chúng hữu tình khổ sở nơi thân và nơi thân ấy lược nói ba pháp. Thứ nhất là thọ mệnh, thứ hai là hơi ấm và thứ ba là tâm thức. Như thế gọi là ba pháp.
Khi xa lìa thân thể thì có tên là chết đi, hôi thối khó chịu, bỏ nơi nhà xác, chẳng thể dùng lại được. Cho nên thân nầy là hư ngụy, do các pháp hợp thành. Ở nơi đó có sự thọ mạng, hơi ấm và thức mà tạo nên pháp nầy. Y vào nhân duyên để sanh, vô thường chi phối, chẳng mạnh chẳng lực, cuối cùng hoại diệt, giặc già bệnh chết, thường theo chẳng buông, thế mà kẻ ngu phàm vì vô minh chứa nhóm, nên tham đắm nơi ái ân, chẳng chịu xa rời. Các thánh đệ tử của ta cũng do các sự giả hợp nầy mà tạo thành thân, phải biết rõ như thế, có nhiều nỗi lo, liền làm cho tất cả trong ngoài thân có thể sâu vào tham đắm. Nên lìa tham dục. Khi lìa tham dục rồi liền được giải thoát. Khi đã giải thoát rồi liền tự hiểu rằng ta việc sanh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong. chẳng còn thọ thân sau nữa. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Tất cả thân hữu tình
Ba oán tặc theo hại
Đó là già bệnh chết
Khi chưa bỏ được chúng
Các pháp hợp thành thân
Hư ngụy chẳng phải thật
Nếu bỏ mạng thọ thức
Rồi ra chỉ nhà xác
Người ngu chẳng biết rằng
Thường lấy ái đắm say
Hiền thánh có trí tuệ
Xa lìa như phẩn hôi
Tu vô lậu thánh đạo
Đoạn ba tặc nhân duyên
Đặng thường lạc Niết Bàn
Chắc ra khỏi ba cõi
Thế gian người có trí
Thường lo lắng thân mình
Cầu thường lạc Niết Bàn
Siêng năng chớ buông lung
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Về các việc của phước nghiệp. Lược nói ở đây có 3 loại, nên tu nên tập. Thế nào gọi là ba ? Một là thí phước nghiệp. Hai là giới phước nghiệp và ba là tu phước nghiệp.
Thế nào gọi là thí phước nghiệp ? Nghĩa là có tịnh tín thiện nam hoặc thiện nữ hay bố thí về đồ ăn uống, hương hoa, dầu thơm, áo quần, xe cộ, chỗ ngủ, phòng ốc, đèn dầu, vườn tược cùng các tài sản khác, như thế có tên là bố thí phước nghiệp.
Thế nào có tên là giới phước nghiệp ? Nghĩa là có tịnh tín thiện nam tín nữ hay lìa sát sanh cứu cánh viên mãn, chẳng phạm, thanh tịnh, lìa trộm cướp, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh, lìa tà hạnh, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm, thanh tịnh. Lìa nói dối, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm, thanh tịnh. Lìa uống các thứ rượu sanh ra buông lung, cứu cánh viên mãn, chẳng phạm thanh tịnh, như thế có tên là giới phước nghiệp.
Thế nào có tên là tu phước nghiệp ? Nghĩa là có tịnh tín thiện nam hoặc tín nữ tu tâm từ khắp đến các nơi, ở yên đầy đủ như thế thứ 2, thứ 3, thứ 4, trên dưới nhiều thể tất cả thế gian cũng đều biến khắp, yên ổn đầy đủ làm cho từ tâm rộng lớn vô lượng; chẳng oán, chẳng hại, rộng khắp mà ở tu tâm từ bi biến mãn một phương, đầy đủ ở yên. Như thế thứ 2, thứ 3, thứ 4, cho đến trên dưới các phương, tất cả thế giới tất đều cùng khắp, đầy đủ ở yên làm cho tâm từ rộng khắp vô lượng, chẳng sợ chẳng hại, biến khắp mà ở, tu hỷ từ tâm, biến đến một phương đầy đủ ở yên như thế thứ 2, thứ 3, thứ 4, trên dưới tất cả thế giới đều biến khắp đầy đủ. Ở yên làm cho tâm từ quảng đại vô lượng, chẳng oán chẳng hại biến khắp ở yên, tu xả nơi tâm, biến mãn một phương, đầy đủ ở yên như thế thứ 2, thứ 3, thứ 4, trên dưới tất cả thế giới đều biến khắp đầy đủ an trụ, làm cho xả bỏ, tâm ấy vô lượng, chẳng hờn chẳng hại, biến khắp mà ở. Như thế gọi là tu phước nghiệp. Nơi nầy nói là 3 phước nghiệp nên tu nên tập, nên tu tập nhiều. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Có ba pháp nên tu
Nên tập càng nên tập
Hay được ba niềm vui
Đó là thí, giới, tu
Tu thí cảm nhiều tiền
Tu giới được sống lâu
Tu từ bi hỷ xả
Sẽ sanh cõi trời tịnh
Thế gian người có trí
Muốn cầu vui thù thắng
Nên tu ba phước nầy
Định sẽ được chẳng nghi
Ta từ Đức Thế Tôn được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Thế gian tối thắng, lược nói có 3 loại. Thế nào gọi là ba ? Một là tất cả thí thiết hữu tình, không chân, 2 chân, 4 chân hoặc nhiều chân, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, cho đến nơi cõi phi tưởng phi phi tưởng Phật đã vì tối thắng, cho nên Như Lai ứng chánh đẳng giác, minh hạnh viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm. Nếu nơi Phật mà khởi tâm thanh tịnh thì ở nơi lòng tin đó là điều tối thắng vậy. Như có lòng tin ấy cảm được quả báo ở nơi trời người cũng là quan trọng không kém.
Thứ hai là tất cả pháp môn, thế và xuất thế gian, có hoặc chẳng có v.v… đều là các pháp môn cả. Niết Bàn tối thắng, nghĩa là lìa các kiêu mạn, tức các khát ái, diệt A Lại Da, đoạn các đường hiểm, ái hết, lìa dục, tịch tịnh Niết Bàn. Nếu như thế ở nơi pháp Niết Bàn khởi tâm thanh tịnh tin tưởng, thì nơi lòng tin ấy là điều quan trọng nhất, như thế lòng tin thanh tịnh sẽ cảm quả báo nơi trời người, điều ấy rất quan trọng.
Thứ ba là đối với tất cả sự thí thiết cho đồ chúng, bằng hữu, ân nghĩa đều tập trung vào nơi Phật thánh đệ tử, tức tăng là tối thắng. Nghĩa là 4 hướng, 4 quả, 8 loài chúng sanh ở trong các loài hữu tình vì chơn vì diệu, vì tối tôn đệ nhất nên phải cung kính diên trì, cung kính cúng dường, xưng dương tán thán, chẳng quản thân mệnh tài sản của cải thế gian, trời người v.v… vô thượng phước điền. Nếu ở nơi hiền thánh tăng ấy khởi tâm tin thanh tịnh thì tốt đẹp vô cùng. Với tâm thành ấy sẽ cảm quả báo, nơi trời người, tốt đẹp hạng nhất. Như thế có tên là 3 loại tối thắng. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Tối thắng có 3 loại
Đó là Phật Pháp Tăng
Nương vào sanh lòng tin
Hay thấy pháp tối thắng
Nương Phật sanh tịnh tín
Biết Đức Lưỡng Túc tôn
Chứng vô thượng Bồ Đề
Trời người cùng ứng cúng
Nương Pháp sanh tâm lành
Biết ly dục trung tôn
Chứng vô thượng Niết Bàn
Tịch tịnh thường an lạc
Nương Tăng sinh lòng tin
Biết ở chúng trung tôn
Chứng vô thượng phước điền
Trời người đều ứng cúng
Thí tốt nhất ruộng phước
Sanh tối thắng công đức
Cảm tối thắng an lạc
Thọ sắc lực tiếng tăm
Cúng dường người cao cả
Tu hành pháp cao siêu
Được tối thắng an lạc
Trên trời hoặc loài người
Thí Tam Bảo phước điền
Tên gọi là tối thắng
Đâu đâu cũng an lạc
Sau đó chứng Niết Bàn
Sâu vào nghĩa nầy Uẩn Đà Nam viết:
Con cái nặng hai học
Phước dày sâu chúng sanh
Bất tịnh và oán giận
Phước nghiệp việc tối thắng
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 3 loại Đại Sư xuất hiện nơi thế gian làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh, thương yêu thế gian trời người đại chúng làm cho được vô lượng lợi ích an lạc.
Thế nào là ba ? Nghĩa là Như Lai, ứng chánh đẳng giác, minh hạnh, viên mãn, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật, Bạt Già Phạm. xuất hiện nơi thế gian vì các chúng sanh mà khai mở chánh pháp, đầu giữa trước sau đều tốt, văn nghĩa rõ ràng, thị hiện đầy đủ, thanh bạch phạm hạnh. Đó là khổ đế, đó là tập đế, đó là đạo đế, đó có thể hướng đến khổ diệt đạo đế, như thế có tên là Đệ Nhứt Đại Sư xuất hiện nơi thế gian làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh, ai mẫn thế gian thiên nhơn đại chúng làm cho được vô lượng lợi ích an lạc. Lại nữa Như Lai, ứng chánh đẳng giác, vô học đệ tử tức các vị A La Hán các lậu đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, việc đáng bỏ đả bỏ được sự lợi ích an lạc, hết các kiết sử, rồi cung phụng hành trì lời dạy chánh đáng của Như Lai. được giải thoát rồi, chứng biến tri rồi, xuất hiện nơi thế gian làm cho tất cả chúng sanh khai mở chánh pháp, đầu giữa cuối đều tốt, văn nghĩa rõ ràng, thị hiện đầy đủ, thanh bạch phạm hạnh. Nghĩa là khổ đế, là tập đế, là khổ diệt đế, có thể hướng đến khổ diệt đạo đế, như thế có tên là Đệ Nhị Đại Sư xuất hiện nơi thế gian làm lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sanh, ai mẫn thế gian trời người đại chúng làm cho được vô lượng lợi ích an lạc.
Lại nữa Như Lai, ứng chánh đẳng giác, hữu học đệ tử đầy đủ phạm hạnh, đầy đủ chánh kiến đa văn; cho nên chánh văn khế kinh khi đọc tụng biên chép riêng như Già Đà, Vô vấn tự thuyết, Bổn Sự, Bổn Sanh, phương quảng rộng nói, hiểu biết rõ ràng nghĩa nầy, xuất hiện ở thế gian vì các chúng sanh mà khai mở chánh pháp, trước giữa sau cuối đều tốt, văn nghĩa rõ ràng, thị hiện đầy đủ, thanh bạch phạm hạnh. Nghĩa là khổ đế, khổ tập đế, khổ diệt đế, có thể hướng đến khổ diệt đạo đế, như thế có tên là Đệ Tam Đại Sư xuất hiện ở thế gian làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh, ai mẫn thế gian, trời người đại chúng làm cho được vô lượng an lạc lợi ích. Như vậy có tên là 3 loại Đại Sư xuất hiện nơi đời làm lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sanh, ai mẫn thế gian trời người đại chúng làm cho được vô lượng lợi ích an lạc. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Có ba loại Đại Sư
Nếu xuất hiện ở đời
Hay lợi ích an lạc
Trời người cùng thế gian
Một là Đức Như Lai
Hai là vô học đệ tử
Ba là hữu học đệ tử
Đủ tịnh giới đa văn
Như thế ba Đại Sư
Trời người cùng ứng cúng
Hay tuyên nói chánh pháp
Rộng mở cửa cam lồ
Làm vô lượng chúng sanh
Xa rời các kết sử
Giải thoát khổ sanh tử
Chứng thường lạc Niết Bàn
Dụ như Đạo Sư giỏi
Hay chỉ người đường tốt
Đi đúng cứ thế theo
Được an lạc chẳng nghi
Như thế ba Đại Sư
Chỉ chúng sanh tứ đế
Tu hành chẳng buông lung
Định, siêu sanh giải thoát
Ta từ Đức Thế Tôn đã được nghe như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Có 3 lúc chư thiên tụ tập hoan hỷ tinh tường, hiện tướng siêng năng xuống đến nhơn gian. Thế nào là ba ? Nghĩa là đệ tử ta hoặc có tài sản ít, hoặc có tài sản nhiều, hoặc có quyến thuộc ít, hoặc có nhiều quyến thuộc, hoặc thuộc dòng họ tôn quý, hoặc dòng họ thấp mà mới phát tâm rồi truyền pháp ấy rộng ra trong gia đình, có kẻ hoan hỷ xuất gia, lúc ấy chư thiên hoan hỷ tập hội, hoặc giống lời nói trời người đang biết. Nay đệ tử Phật cùng với quân ma bạn ác giao chiến với nhau cho nên ta bảo chúng trời giáng xuống nhân gian, tham gia giúp đỡ tăng trưởng tín tâm làm cho không ai chướng nạn. Nói lời ấy rồi xuống đến nhân gian, làm việc đáng làm, như thế có tên là lần thứ nhất chư thiên giáng thế, hoan hỷ rõ bày, hiện tướng siêng năng lai giáng nhơn gian. Lại đệ tử của ta cạo bỏ râu tóc mặc áo cà-sa có tâm tin chân chánh, bỏ nhà, không có riêng tư xuất gia làm Tỳ Kheo tu theo hòa kỉnh, ở yên giữ gìn giới biệt giải thoát, làm việc mô phạm, chẳng có gì là không viên mãn. Ở nơi tội nhỏ cũng sinh sợ hãi, thọ học tất cả những học xứ đáng học, thành tựu thanh tịnh thân ngữ ý nghiệp, thành tựu đời sống thanh tịnh, thành tựu sự thấy thanh tịnh. Lúc ấy chư thiên hoan hỷ tập hội hoặc nói nên lời, chư thiên đều biết làm cho đệ tử Phật cùng với ác ma đang đánh nhau ta làm cho chư thiên xuống trần giúp đỡ tăng sức, uy lực để chiến thắng ma quân. Làm như thế rồi lại xuống thế gian, làm những gì nên làm. Như thế có tên là lần thứ hai chư thiên tập hội, hoan hỷ rõ ràng, hiện tướng siêng năng lại xuống thế gian. Lại đệ tử ta các lậu đã tận, chứng chơn vô lậu, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát. Ở nơi pháp ấy tự chứng thông huệ, đầy đủ an trụ, có thể tự biết rằng ta sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân nữa. Lúc ấy chư thiên hoan hỷ tập hội hoặc nói lời ấy chư thiên đều biết làm cho đệ tử Phật cùng với các quân của ác ma đang giao tranh thì chặt đứt đầu ma và chiến thắng ma quân rồi tự nói rằng ta việc sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau. Chúng ta tán thán chư thiên mang hương hoa rồi giáng xuống nhân gian lễ bái cúng dường, xưng dương tán thán thỉnh nói chánh pháp, độ thoát thân nầy khỏi sanh lão bệnh tử, nói lời ấy rồi liền xuống nhân gian, làm việc nên làm. Như thế có tên là lần thứ ba chư thiên tập hội, hoan hỷ rỡ ràng, hiện tướng tốt đẹp giáng xuống nhân gian. Tỳ Kheo nên biết! Nếu có quốc thổ, thành ấp, làng xóm có kẻ tịnh tín phát tâm xuất gia thì được cạo tóc xuất gia chơn chánh. Kẻ xuất gia ấy các lậu sẽ hết. Ở nơi quốc độ thành ấp ấy chư thiên cùng các thiện thần thường hay giáng xuống gia hộ bảo trì làm cho nơi ấy phong phú vui vẻ, phong điều vũ thuận, chẳng có những tật ách. Những chúng sanh trong ấy hướng về lòng từ, đồng tu thiện nghiệp, hiện tại tương lai, đêm dài an ổn sớm chứng vô thượng thường lạc Niết Bàn. Như thế có tên là ba lúc chư thiên tập hội, hoan hỷ rỡ ràng, hiện tướng đoan nghiêm giáng xuống nhân gian. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Chư thiên nơi ba thời
Hoan hỷ cùng tập hội
Rỡ ràng cùng sắc tướng
Lai giáng nơi nhân gian
Tối sơ cầu xuất gia
Sau đó là thế phát
Thứ ba lậu tận hết
Hàng phục các ma quân
Chư thiên thấy xuất gia
Hay trừ được các lậu
Hoặc cung kính cúng dường
Như vậy mà ca tụng
Quy mệnh kẻ thù thắng
Quy mệnh tối thượng sĩ
Quy mệnh cho chúng ma
Giữ gìn tên tuổi lớn
Chư thiên tâm hoan hỷ
Giúp đỡ tu cúng dường
Mong muốn được cắt tóc
Lậu tận chứng vô sanh
Cho nên phải siêng năng
Tĩnh lự nhớ vui yên
Dũng mãnh chẳng buông lung
Điều phục các ma quân
Ở nơi luật của Phật
Chánh tín mà xuất gia
Hay giải thoát các lậu
Vĩnh viễn xa rời khổ.
Ta nghe từ Đức Thế Tôn như thế nầy. Các Tỳ Kheo nên biết! Lược nói có 3 sự việc, tối đại trời người. Thế nào là ba ? Một là sống lâu, hai là đoan nghiêm, ba là khoái lạc. Như thế 3 việc, cả trời lẫn người trăm ngàn vạn lần không thể tính đếm. Cho nên như ở nhân gian nầy tính số 50 năm thì ở cõi thiên nơi Tứ Thiên Vương thiên thì chỉ một ngày một đêm. Như vậy ngày đêm số đến 30 cho đến một tháng chứa thành 12 tháng, rồi thì một năm. Như thế từng năm, nơi Tứ Thiên Vương thọ lượng đến 500. Như vậy ở cõi người là chín trăm vạn tuổi nhưng người ở cõi nầy chỉ sống 100 năm. Như ở cõi thiên vào từng trời thứ 33 bằng một ngày một đêm. Như vậy ngày đêm số đến 30 rồi thì một tháng, kế đến 12 tháng, rồi thì một năm, như vậy hằng năm thì ở cõi trời thứ 33 ấy thọ lượng là 1.000 tuổi. So với nhân gian thì 3 ngàn 6 trăm vạn tuổi. Như vậy ở nhân gian 200 năm thì ở cõi Dạ Ma một ngày một đêm, rồi thì ngày đêm số đến 30 rồi thì một tháng, chứa đến 12 tháng, rồi một năm, hằng năm như vậy. Ở cõi trời Dạ Ma tuổi thọ là 2.000 tuổi, bằng với nhân gian nầy là một ức bốn trăm vạn tuổi. Như vậy ở cõi đời 400 tuổi thì ở cõi Đẩu Suất một ngày một đêm, như vậy ngày đêm số đến 30, rồi thì một tháng, chứa đến 12 tháng, rồi thì một năm, hằng năm như thế, ở cõi Đẩu Suất thiên thọ mạng 4.000 năm so với nhân gian nầy là năm ức bảy ngàn sáu trăm vạn tuổi. Như vậy ở cõi người nếu sống 800 tuổi thì ở cõi Lạc Biến Hóa Thiên chỉ một ngày một đêm. Như vậy ngày đêm tính đến 30 rồi thì một tháng, kế đến 12 tháng rồi thì một năm, cho đến hằng năm cõi Lạc Biến Hóa Thiên ấy là 8.000 năm so với nhân gian là 23 ức 4 trăm vạn tuổi. Như vậy thế nên sống 1.600 năm thì ở cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên chỉ một ngày một đêm. Số cho đến 30, rồi thì một tháng, chứa đến 12 tháng. Rồi thì một năm, hằng năm như thế. Ở cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên thọ mạng là 1 vạn 6 ngàn tuổi. So với người đời là 92 ức 1 ngàn 6 trăm vạn tuổi (ở đây tính số vạn vạn là 1 ức) như thế tên gọi là Trường Thọ Thiên, chư thiên đoan nghiêm, chư thiên khoái lạc, ở cõi nhân gian nầy không có gì có thể ví dụ được.
Như thế chư thiên có 3 loại thắng sự. Tất cả đều là như vậy, vô thường, vô đán, chẳng thể giữ tin, đều bị biến đổi. Sau khi chết gặp gỡ việc chết nơi chư thiên chúng kia khi lâm chung cũng có thiên chúng đến đưa và chỉ cho biết các cõi tiên và nguyện cho họ vãng sanh vào cõi lành. Khi lâm vào cõi lành rồi thì được lợi lạc. Được thiện lạc rồi thì thành tựu. Ở nơi chư thiên qua lại cõi lành, được lợi lạc, được thành tựu. Nghĩa là ở cõi chư thiên khi mệnh chung lại sanh vào người cùng với con người, qua lại cõi thiện. Đến cõi người rồi. Nơi Phật nói pháp và luật, hộ trì chánh tín, tên gọi là thiện lợi. Như thế lòng tin chơn chánh tăng trưởng lớn mạnh, cội gốc vững vàng. Thế gian Sa Môn hoặc Bà La Môn, Chư Thiên ma phạm, không thể như pháp dẫn họ vào sự thoái chuyển. Nên có tên là thành tựu. Do sự thành tựu nầy mà ở nơi Phật pháp làm được nhiều việc. Nghĩa là thanh tịnh lòng tin, xuất gia thọ giới, tu Đột Ma Tha, Tỳ Bát Xá Xa, quán 4 thánh đế, vĩnh viễn dứt trừ các lậu, chứng được Niết Bàn, tận chỗ nhỏ nhất. Lúc ấy Đức Thế Tôn sâu vào nghĩa nầy mà nói kệ rằng:
Chư Thiên ba việc thắng
Sống lâu đẹp đẽ vui
Người đời kể ngày tháng
Tính đến khó lường được
Như đây ba điều thắng
Phi thường lại khó có
Khó giữ, pháp biến đổi
Tử ma lực còn lại
Thiên tướng khi xả mệnh
Và chư thiên tập hội
Dạy dỗ những điều lành
Làm cho tâm hoan hỉ
Dương nguyện cho trời Phật
Vãng sanh nơi đường lành
Cùng với loài người thảy
Sanh nơi nước sáng sủa
Ở vào nơi Phật pháp
Gặp được niềm tin chánh
Tăng trưởng gốc sâu bền
Tà giáo chẳng thể chuyển
Thân ngữ ý làm ác
Hay phương tiện xả bỏ
Bị sanh vào nơi khác
Lại có dư phương tiện
Nhiều tu thân ngữ ý
Ba thù thắng thiện pháp
Như lý chánh tư duy
Làm vô lượng rộng lớn
Tu các việc phước nghiệp
Nghĩa thí giới đa văn
Ở nơi chánh pháp Phật
Xuất gia tu phạm hạnh
Chánh tín tu pháp lành
Hay nhẫn và mềm mại
Hoặc sanh ở trời người
Hoặc chứng Niết Bàn vui
Như vậy chư thiên tiên
Đến giáo huấn chỉ bày
Khi bỏ mạng cõi trời
Như mẹ yêu con thơ
Chư thiên thường phát nguyện
Thiện vui hay tăng ích
Làm cho A Tu La
Thối lui chẳng tăng nữa.