1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

 09. Phẩm Tỳ Lê Gia Ba La Mật Thứ Chín

 Đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: « Thế nào là đại Bồ Tát vì Vô thượng Bồ đề nên y dựa Tỳ lê gia Ba la mật mà thật hành bồ tát hạnh?

 Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát y dựa Tinh tấn Ba la mật mà tinh tấn tu hành học hành bồ Tát hạnh.

 Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ bất thối tinh tấn, có thể chẳng kể thân mạng quí trọng mà phát đại tinh tấn cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, ân cần lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, nghiên tầm cứu cánh, thông đạt nghiã thú, vì người mà rộng diễn giảng khai thị, hoặc lại biên chép tu học đúng lý. Đây gọi là đại Bồ Tát thật hành Bồ Tát hạnh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thế nào gọi là chẳng kể thân mạng?

 Lúc đại Bồ Tát thật hành tinh tấn Ba La mật, dầu bị kẻ khác khủng bố hăm dọa:Nếu ông ở nơi kinh Bồ Tát tạng nầy mà thọ trì đọc tụng nhẫn đến rộng giảng diễn khai thị như người tu học như lý, thì ta chẳng lấy trăm cây tên nhọn đâm xiên qua thân thể ông trừ dứt mạng sống của ông. Dầu nghe lời hăm doạ ấy đại Bồ Tát ấy chẳng để tâm, không sợ sệt, không kinh hoảng, phát bốn thứ thế dũng mãnh kiên cố, nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng càng thêm tinh tấn chẳng vứt chẳng bỏ chẳng xa chẳng rời, thành tựu đày đủ, tìn giải mãnh lợi, tín giải kiên cố, kham nhẫn kiên cố, chánh cần kiên cố.

 Này Xá Lợi Phất! Ta sẽ vì ông mà nói thí dụ về kiên cố nhẫn, kiên cố chánh cần, để cho đại Bồ Tát được kiên cố nhẫn, kiên cố chánh cần thật hành Bồ Tát đạo chẳng kể thân mạng..

 Này Xá Lợi Phất! giả sử tất cả hữu tình chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên thế giới, hoặc loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc loài có sắc hình, không sắc hình, có tưởng,không tưởng,chẳng phải có tưởng không tưởng, hoặc loài thấy được, chẳng thấy được, tất cả chúng sanh ấy trong khoảng sát na đồng thời được thân người, đối với Bồ Tát họ đồng kết oán thù rất nặng bảo Bồ Tát rằng: << Nếu ở nơi kinh Bồ Tát tạng ấy mà ông thọ trì, đọc tụng nhẫn đến vì người rộng giảng nói khai thị, biên chép, tu học như lý, thì chúng ta dồng bắt trói ông sẽ giết chết ông.

 Vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật, nên đại bồ Tát dầu nghe hăm doạ ấy, nhưng không hề có một niệm sợ hải, chỉ nhiếp trì đủ bốn thứ chánh pháp chuyên cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng.

 Đây gọi là đại BồTát thành tựu bất thối Ba la mật vậy. Lại còn thành tựu vô biên oai lực dũng mãnh tinh tấn, chánh cần dũng kiện, tịnh giới dũng kiện, đại huệ dũng kiện, chánh hạnh thắng trí thảy đều dũng kiện.

 Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành tinh tấn Ba la mật, vì đại Bồ Tát ấy đầy đủ nhẫn lực lớn như vậy, nên giả sử mười phương vô lượng chúng sanh đều cầm dao kiếm đăm chém Bồ Tát. Đối với chúng sanh ấy, Bồ Tát chẳng hề có một niệm giận hờn.

 Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì an trụ nhẫn lực như vậy, nên an vui vững vàng như Đại Phạm Vương, như Thiên Đế Thích, như núi Tu-di chẳng khuynh động, thường an trụ từ bi luôn quan niệm cứu độ chúng sanh, trọn không thối chuyển công hạnh đang thực hành, mà Bồ Tát này lòng bao dung rộng lớn như đại địa, như đại thủy, như đại hỏa, như đại phong, như hư không, lại hay tu tập đối trị cội gốc tham sân si.

 Này Xá Lợi Phất! Nếu có đại Bồ Tát đem tất cả trân bửu vô giá chứa đầy cả hằng sa vô lượng thế giới, dùng phụng thí cho vô lượng đức Như Lai Đẳng Chánh Giác, lại có đại Bồ tát thật hành Tỳ lê gia Ba la mật, lắng nghe pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng như vậy rồi qua ở chỗ vắng rảnh nhiếp tâm suy gẫm pháp ấy và tinh tấn tu học, lại khiến các Bồ Tát chưa tu học cũng ưa thích tu tập.

 Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát này vì thật hànhTinh tấn Ba la mật nên nhiếp trì vô lượng thiện căn vi diệu, chẳng phải người dưng thí kia có thể bằng được. Tại sao? Vì thiện căn như vậy thuộc về Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên chư đại Bồ Tát ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng này phải lắng nghe thọ trì đọc tụng, hoặc lại biên chép nói cho người phát khởi tinh tấn dũng mảnh tu tập.

 Lại này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát phát khởi Tinh tấn Ba la mật phải nên tu hành chỗ bất hành hành. Chỗ bất hành hành ấy là Niết-bàn vậy.Nói bất hành là vì các thiên ma chẳng đi.Còn nói hành là vì các người lành tu tinh tấn thì đi đến nơi ấy. Nói người lành là chư Phật, Độc Giác và đệ tử Phật. Tại sao? Vì các người lành vô thánh đạo và chư PhậtThế Tôn đều xu hướng bát Niết-bàn vậy.

 Này Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh phần đông đi 3 chỗ. Đó là tùy thuận ác đạo, xu hướng ác đạo, và sẽ đọa ác đạo. Vì thế nên đối với pháp tạp nhiễm, chư đại Bồ Tát trọn chẳng tùy thuận, chỉ cầu những pháp lành xuất ly giới nhẫn đa văn.

 Này Xá Lợi Phất! chúng sanh thế gian phần đông an trụ vô nghiệp mà luôn tự cho là mình an trụ hữu nghiệp.

 Chúng sanh thế gian phần đông giải đãi mà tự cho là mình phát khỡi chánh cần.

 Vì thế nên, này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát trí huệ trọn chẳng cùng với hạng vô nghiệp.giải đãi quen gần nhau, lại cũng chẳng sa vào trong số của họ, chỉ quen gần với chư đại Bồ Tát đồng một hạnh với mình. Tại sao? Vì chẳng có chúng sanh nào đối với đại bát Niết-bàn thanh tịnh vô nhiễm tối thắng mà sanh lòng tín giải thanh tịnh như Bồ Tát.

 Này Xá Lôi Phất! Đại Bồ Tát phát khởi Tinh tấn Ba la mật chẳng những vì tự mình chứng Niết_Bàn mà phát khởi tinh tấn, mà còn vì nhiếp thọ tất cả hữu tình khiến các chúng sanh được lợi lạc nên tu hành chánh hạnh phát khởi tinh tấn khai thị dắt dìu đặt để chúng sanh trên đường thánh đạo, do đó nên gọi Bồ Tát là thiện trượng phu”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng:

 “Chánh cần không lười nhác

 Thường đủ đại tinh tấn

 Nơi Phật Bồ Tát tạng

 Sáng suốt luôn thọ trì

 Khéo tư duy pháp nghĩa

 nơi Phật chẳng nghĩ bàn

 Luôn siêng cầu tịnh pháp

 Nên gọi là Bồ Tát

 Bực chánh cần đại huệ

 Ngồi cội diệu bồ đề

 Dẹp các quân ác ma

 Do Bát Nhã tinh tấn

 Hiện thũ hộ cấm giới

 Nhiệm trì các thế gian

 Vì lơị ích chúng sanh

 Thường tinh tấn vô hạn

 Nầy Xá Lợi Phất!Kinh điển Đại thừa Đại Bồ Tát tạng vi diệu như vậy lưu bố trong đời hay làm cho chúng sanh phát đại hoan hỷ, lại hay dẩn sanh phước đức trí huệ, cảm đại tài phú, hay cảm chư thiên thù thắng khoái lạc, hay cảm đầy đủ viên mãn tất cả, hay sanh tất cả chư Phật Nhu Lai: Trí lực vô sở uý, vô ngại trí, đại từ đại bi, bất cộng Phật pháp. Nói tóm lại, hay dẩn sanh tất cả Phật pháp, dẹp trừ ma oán, khiến tâm thanh tịnh, hay phát trí huệ, cùng gốc sanh tử, tận ngần mé khổ, hay gần Niết-bàn.

 Nầy Xá Lợị Phất! Đời sau này, lúc Phật và các ông đã nhập Niết-bàn, năm trăm năm sau, bấy giờ có nhiều chúng sanh phước bạc đối với kinh nầy họ chẳng tin chẳng trọng lại hủy diệt vứt bỏ. Lại có vô lượng chúng sanh phước đức kính thờ kinh nầy như lý tu học chuyên cần tinh tấn để cầu Vô thượng Bồ đề, để cầu giới, văn, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, để cầu tất cả Phật pháp, lợi lạc tất cả chúng sanh, để bỏ tà kiến tu hành chánh kiến, để bỏ sanh tử tu hành thánh đạo, vì muốn diễn thuyết chánh pháp hàng phục quân ma, vì muốn bỏ lìa tham ái điều phục sân hận phá trừ ngu si dứt diệt vô minh phát huệ minh vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đời đương lai, nếu có chúng sanh nghe pháp nầy, rồi muốn cầu tất cả thiện pháp thì nên phát khởi chánh cần dũng mảnh tăng thượng. Do vì nghe pháp vi diệu nầy thì đối với Phật pháp không còn chướng ngại quyết định không nghi.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bấy giờ lại có vô lượng chúng sanh, do phước đức nhiều nên có ý chí tăng thượng cầu Vô thượng Bồ đề được nghe kinh nầy. Nghe rồi sẽ được sự vui mừng rộng lớn, rất khéo nghiên tập pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng và tu hành đúng như lời.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Bấy giờ sẽ có người thích nghe giáo pháp cũa Như Lai, tùy theo nhân duyên sai biệt mà họ được nghe kinh điển nầy. Nghe xong họ sẽ được sự vui mừng. rộng lớn. Được vui mừng rồi họ phát khởi tinh tấn có thể ở nơi pháp hữu vi diệu Bồ Tát tạng này lấy chút ít phần thiết thiệt.

 Này Xá Lợi Phất! Thí như trên mặt biển lớn có trôi nổi vô lượng trái chín đầy đủ sắc hương ngon ngọt. Có một trượng phu phát khởi sức dũng mãnh tinh tấn lội vào biển lớn vận động tay chân vớt lấy trái chín ấy, hoặc hai hoặc ba trái rồi ra khỏi biển đến một chỗ ăn nếm trái chín ấy mới biết là rất ngon ít có, trượng phu ấy bèn ngĩ rằng những trái chín thơm ngon này từ nào ta chưa hề được ăn, ta nên mạnh dạn lội vào biển lần nữa để vớt lấy những trái còn lại. Suy nghĩ song, trượng phu ấy trở lại mé biển thì không còn thấy trái chín đâu cả. Trượng phu ấy rất hối hận tự trách sao chẳng vớt lấy thật nhiều trái chín để nó trôi mất cả.

 Này Xá Lợi Phất! Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, năm trăm năm sau, lúc chánh pháp Vô thượng sắp diệt, sẽ có vô lượng chúng sanh ít tin ít thí, ít giới, ít huệ, ít tu tinh tấn, tùy theo nhân duyên sai biệt mà họ được nghe kinh điển vi diệu này, nghe xong ở nơi kinh này họ chỉ được chút ít nghĩa cạn nhỏ, nhẫn đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, lại bị ác ma nhiễu loạn che ngăn chẳng cho người khác nghe hỏi và cúng dường ca ngợi kính tin người trì kinh ấy. Biết mọi người chẳng kính trọng người ấy ở nơi kinh này an trụ tâm xả, đem chút ít câu nghĩa đã được nghe đến ở chỗ vắng vẻ để tư duy quan sát sanh lòng vui mừng, mà lại hối hận tự trách rằng: nay ta bỏ mất lợi lành, tại sao ta chẳng nghe nhiều lảnh thọ nhiều chánh pháp của chư Phật Như Lai. Do đó đồi với Như Lai phát khởi tâm thâm trọng hơn lúc trước.

 Này Xá lợi Phất! Bấy giờ có các Tỳ Kheo vì bị ác ma nhiễu loạn nên nghe kinh này rồi đối với quần chúng họ sẽ phát khởi chê bai, cho rằng kinh này do các nhà văn soạn ra, chẳng phải do Phật nói. Vì thế nên đối với kinh này có các Tỳ Kheo hoàn toàn chẳng nghe chẳng tin ».

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:…

 ” Được nghe pháp này

 Đối với Phật Pháp

 sẽ không chướng ngại

 Quyết định không nghi

 Các người ít phước

 Chẳng được gặp nghe

 Người phước đức nhiều

 Được nghe kinh này

 Các người ít phước

 Dầu nghe chẳng tin

 Nhiều phước nghe rồi

 Đầu đội vui mừng

 Người ít phước nói

 chẳng phải Phật dạy

 Họ sẽ bị đọa

 Như đui sa hố

 Người nhiều phước đức

 nghe rồi vui mừng

 Sẽ sanh cõi lành

 Như tô nhiều nước

 Các người ít phước

 Nghe sanh lo rầu

 Họ sẽ thọ khổ

 Chẳng thoát tối tăm

 Dầu được nghe ít

 Lại bị ma nhiễu

 Chê bai Phật Pháp

 Mau đọa địa ngục.

 Lại này Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai thành tựu đầy đủ diệu trí thanh tịnh nhẫn đến biết rõ tâm niệm của tứ chúng, hoặc tỳ kheo hay tỳ kheo ni, hoặc ưu bà tắc hay ưu bà di, ở đời đương lai lúc chánh pháp diệt, nghe kinh điển này hoặc tùy thuận tin nhận, hoặc hủy báng khinh khi, hoặc có người hoàn toàn chẳng được nghe, tất cả như vậy, trí thanh tịnh của Như Lai đều biết rõ cả?

 Này Xá Lợi Phất! Nếu có đại Bồ Tát và các chúng sanh khác ở nơi kinh này nghe rồi lảnh thọ tinh tấn tu tập thì sẽ được thành tựu bốn pháp vô chướng thanh tịnh:

 Một là thành tựu Thi la vô chướng thanh tịnh.

 Hai là thành tựu đầy đủ vô nạn thanh tịnh.

 Ba là thành tựu gặp chư Phật gần gũi cúng dường vô chướng thanh tịnh.

 Bốn là thành tựu được ban đầu thấy Phật Di Lặc vô chướng thanh tịnh.

 Này Xá Lợi Phất! Các chúng sanh ấy nghe kinh này rồi tuỳ theo phương tiện tu tập, quyết sẽ được các thiện căn vi diệu như trên đã nói.

 Lại này Xá Lợi Phất! Đời đương lai lúc chánh pháp diệt, có các đại Bồ Tát an trụ Đại thừa tu hành Tinh tấn Ba la mật, ở nơi kinh này chuyên cần tu học phát đại tinh tấn lắng nghe thọ trì, biên chép, đọc tụng, nghiên tầm, chỉ thú rộng vì người giảng nói khai thị. Bấy giờ sẽ có mười pháp chướng ngại xuất hiện thế gian. Các người có trí phải sớm hay biết chớ chuyển theo nó. Chỉ phải phát khởi tinh tấn dũng mãnh thọ trì kinh này. Những gì là mười thứ chướng ngại mà người trí phải biết chớ chuyển theo nó?

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh cấm khẩu chẳng nói được, ở nơi kinh này bèn chẳng giảng nói được. Đây là thứ chướng ngại thứ nhất mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh đau mắt bèn chẳng đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ chướng ngại thứ hai mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh tay chưn mình mẩy đồng thời đều bịnh cả, bèn chẳng đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ chướng ngại thứ ba mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh chẳng thích chỗ mình đương ở mà muốn bỏ đi, bèn chẳng đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ chướng ngại thứ tư mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh giận thù làm hại nhau, bèn chẳng đọc tụng giảng nói được. Đây là thứ chướng ngại thứ năm mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma làm cho người trì kinh sanh sự tranh cãi gây gổ giận mắng kiện thưa, do đó nên oán thù tàn hại nhau, bèn chẳng lưu hành giảng nói kinh này mà tạo tạo tác sự việc khác. Đây là thứ chướng ngại thứ sáu mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Có các Tỳ kheo phát khởi tinh tấn, ở nơi kinh này cầu nghe tụng tập. Bấy giờ ác ma hóa làm hình người tục hoặc người xuất gia đến chỗ người trì kinh làm rối loạn tâm ý khiến chẳng thọ trì được trở lại huỷ báng và thích sự việc khác. Đây là thứ chướng ngại thứ bảy mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Đời đương lai lúc chánh pháp sắp diệt có các tỳ kheo trẻ ở nơi kinh này phát lòng tin thanh tịnh ưa thích ở nơi pháp luật của Phật. Vì thật hành tinh tấn Ba la mật nên họ phát khởi tinh tấn thâm tâm an trụ Vô Thượng bồ đề. Lại ở kinh này họ cung kính lắng nghe. Đã đuợc nghe rồi lòng rất vui mừng. Bấy giờ các Tỳ Kheo trẽ ấy bị hai bổn sư Hòa Thượng và A xà Lê làm chướng ngại mà bảo rằng: » Kinh của các ông thọ trì ấy chẳng phải của Phật nói, chẳng phải Phật Bồ đề, chẳng phải chánh pháp, chánh phải chánh luật, chẳng phải thánh giáo. Các tỳ kheo trẻ ấy nghe theo lời dạy bảo của hai Thầy bèn rời bỏ Phật Bồ Đề. Hai Thầy lại bảo các ông phải tinh tấn tu học các luật các pháp của ta dạy. Các Tỳ kheo trẻ ấy tuân lảnh lời Thầy. Những thiện căn tăng thượng đã tu tập trước kia bị hai Thầy phá hư. Sau khi thiện căn hư mất, các tỳ kheo trẻ ấy lại bị ác ma dối gạt bèn tạo nghiệp chướng chánh pháp, lúc lâm chung cảnh ác hiện ra hôn mê si loạn mà cảm lấy nghiệp địa ngục.

 Các việc bất thiện ấy ở đương lai, đức như lai ở hiện tại đây đều biết rõ tất cả.

 Ở đời đương lai lại có các Tỳ kheo trẻ ở nơi kinh này sanh ác kiến chê bỏ chẳng tin, đi đâu họ đều buông lời hủy báng.

 Chư Đại Bồ Tát an trụ Đại Thừa phát khởi tinh tấn, trong thời kỳ ấy phải sanh 4 quán tưởng: một là phải quán tưởng nghĩ tự điều phục tâm mình. Hai là phải quan sát sự việc mình làm chớ ngó đến sự việc của người Ba là có lòng xót thương chúng sanh. Bốn là ở chỗ rảnh vắng có ý tưởng bảo hộ tâm mình và tâm người.

 Đời đương lai có nhiều chúng sanh thọ các tà kiến, đối với các Tỳ kheo diễn nói chánh pháp, họ ít tín thọ, họ chẳng kính trọng thưa hỏi nghĩa kinh, họ chẳng gần gũi cúng dường trở lại lăng nhục khinh miệt. Với các Tỳ Kheo giảng thuyết phi pháp thì nhiều người tín thọ, họ được thế lực lớn có nhiều người cúng dường kính trọng thưa hỏi. Nhơn đó họ hủy báng kinh này. Bấy giờ có các chúng sanh chẳng ưa thích kinh này, nghe hủy báng họ càng vui thích. Còn các người ưa thích vì nghe hủy báng nên chẳng còn ưa thích kinh này. Các tỳ kheo ấy càng thêm đông mạnh đến nổi người trì kinh này ở trước chúng hội chẳng khai thị được. Đây là thhứ chướng ngại thứ tám mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Đời đương lai có các Tỳ Kheo vì tham ái mà làm trộm cướp, ưa thích ba thứ tệ của thế gian: một là ưa thích tham cầu cơm áo thế gian, hai là ưa thích theo cầu ăn uống thế gian, ba là ưa thích theo cầu văn hoa ca kệ hí luận thế gian. Đây là thứ chướng ngại thứ chín mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo nó.

 Đời đương lai lúc chánh pháp diệt, có các Bồ tát an trụ Đại Thừa vì thực hành tỳ lê gia Ba la mật nên đối với kinh điển này phát khởi tinh tấn dũng mãnh tăng thượng biên chép, thọ trì nghiên tầm, đọc tụng vì người rộng giảng dạy. Những người ấy sẽ bị ác ma nhiễu loạn và phiền não nghiệp chướng che đậy nên vui thích việc thế gian, càng ưa thích đàm luận viêc thế gian và cần cầu những đàm luận thế gian, ưa thích ngủ nghỉ, ưa thích dông người rộn rịp và phương tiện cần cầu đông người rộn rịp, vì thế nên ở nơi kinh điển này chẳng thọ trì, cũng chẳng đọc tụng nghiên tầm nghĩa thú, cũng chẳng giảng dạy cho người.

 Này Xá Lợi Phất! Trong Phật Giáo, không có ai khác có thể làm tổn chánh pháp hay làm cho chánh pháp mau hủy diệt được, ngoại trừ các ác Tỳ Kheo lười nhác. Đây là thứ chướng ngại thứ mười mà người trí phải hay biết chớ chuyển theo no Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

 Lúc chánh pháp diệt nhiều chướng ngại

 Sẽ khởi những thứ nghiệp ác ma

 Với pháp lành sạch chẳng thích tu

 Cũng chẳng ưa cầu thắng niết bàn

 Trí huệ ít kém đủ ác kiến

 Chẳng muốn an trụ trong chánh pháp

 Làm đủ cá chạnh phi pháp

 Sẽ đọa ác đạo quyết chẳng nghi

 Những người như vậy lúc lâm chung

 Không ai có thể cứu họ được

 Hòa thượng và giáo thọ của họ

 Mãng chung sẽ đọa ba ác đạo

 Trăm ngằn câu chi do tha kiếp

 Vì cầu danh lợi mà bị khổ

 Thường bị ba thứ lửa đốt cháy

 Làm sao cho họ mau thoát khỏi

 Phật đã chứng thành Vô Thượng Giác

 Chuyển đại pháp luân diệu thanh tịnh

 Trời người thế gian chẳng chuyển được

 Nay Phật cố chuyển độ chúng sanh

 Bỏ Pháp Phật mà đời khó có

 Gần quen các phẩm loại ác ma

 Sẽ bị vô biên khổ rất nặng

 Chướng ngại thí giới của họ tu

 Chướng nhơn duyên Bồ Đề thánh đạo

 Nếu ai siêng năng nơi Phật Giáo

 Mà làm mê lầm đường chánh đạo

 Nếu có lắng nghe pháp Đại thừa

 Tuyên nói các lý không vô ngã

 Lúc đường thật hành các chánh pháp

 Ác ma sẽ làm chướng ngại họ

 Bảo đây là thắng đây chơn thiệt

 Pháp chẳng thắng thiệt tưởng thắng thiệt

 Trở lại hủy báng Phật chánh pháp

 Phải biết sẽ mau đọa địa ngục

 Nếu có chúng sanh đối với Phật

 Cung kính mến ưa hết lòng tin

 Lắng nghe pháp Bồ Tát tạng này

 Mừng vui tùy thuận mà ca ngợi

 Ác ma biết họ vui Đại thừa

 Cùng quyến thuộc ma đồng sầu khổ

 Liền biến hiện nhiều tướng khủng bố

 Để làm chướng ngại kẻ chơn tu

 Hoặc sẽ biến làm hình Tỳ Kheo

 Trá hiện thân nhau để đàm luận

 Bảo đây chẳng phải đạo Bồ đề

 Sao laị noi theo mà học tập

 Có các chúng sanh ở kinh nầy

 Phát khởi chánh cần tinh tấn hạnh

 Lại bị dẫn dụ và khinh chê

 Do đó phế bỏ chẳng tu học

 Đã bị ác ma làm hoặc loạn

 Theo ý ma chuyển bị ma nắm

 Ma bảo kinh ấy chẳng phải chánh

 Nơi pháp tịch diệt bèn vứt bỏ

 Họ cũng rời bỏ đấng Đạo Sư

 Cũng chẳng cần cầu pháp Vô thượng

 Họ đã phát khởi ngã mạn rồi

 Sẽ mau chóng thẳng vào địa ngục

 Bấy giờ có số ít chúng sanh

 Ưu muốn cần cầu pháp không nầy

 Chẳng được hòa hiệp đồng tu tập

 Đều riêng lưu tán nơi phương khác

 Pháp tối thắng Vô thượng như vậy

 Người sẽ được nghe đều khinh hủy

 Người trì kinh pháp sợ trốn xa

 Đời sau sẽ có các sự ấy

 Nước nầy sẽ toàn không người trì

 Phương xa dầu có chẳng được nhiều

 Dầu có người trì tụng kinh nầy

 Đều bị quên bỏ không han hỏi

 Thế gian nương nhờ trong thánh giáo

 Pháp thậm thâm Vô thượng như vậy

 Vô lượng chướng ngại ở” đời sau

 Phật đều biết rỏ như hiện tại

 Đời sau người hiền trì chánh pháp

 Chẳng kể thân mạng ở vắng vẻ

 Tu tập tuyên dạy chánh pháp nầy

 Sẽ được mau thăng nơi thiện đạo.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đời sau lúc pháp sắp diệt, lại có chư đại Bồ Tát tu Đại thừa thật hành Tỳ lê gia Ba La Mật, thấy các ác chúng sanh ấy phỉ báng hủy diệt chánh pháp nầy phải càng phát khởi sức chánh cần đại tinh tấn dũng mãnh, ở nơi pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng ân cần lắng nghe thọ trì biên chép đọc tụng vì người rộng giảng dạy. Trong lúc ấy, chư đại Bồ Tát phải phát khởi bốn ý tưởng. Những gì là bốn ý tưởng?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy nghĩ tưởng rằng người cha quý báu của ta chẳng bao lâu sẽ diệt. Vì cớ ấy nên đức Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như La Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác trong trăm ngàn câu chi na do tha vô số đại kiếp chuyên cần tu tập những hạnh khó làm mới được tạng báu chánh pháp nầy, thế nên ta phải phát khởi tinh tấn phụng trì lưu thông rộng rãi cho pháp bửu còn lâu chẳng diệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thí như có người chi” có một đứa con trai nên rất cưng thương. Đứa con trai ấy đủ cả tướng phước đức, ngắm nhìn chẳng chán. Sau đó người ấy vì có việc dắt đứa con trai qua chổ nguy nan, sợ con té ngã nên nắm ôm giữ gìn kỹ lưỡng: chớ để con trai ta té xuống chỗ hiểm nạn.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy cũng vậy, rất kính trọng tin thờ nơi Phật, chẳng bỏ pháp bửu Vô thượng nầy, lòng luôn mong cầu Niết bàn thanh tịnh, dầu ở ác thế mà có thể giữ lấy chánh pháp tối thắng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nay Phật đem chánh pháp Vô thượng nhơn duyên Bồ đề nầy phó chúc cho đại Bồ Tát ấy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thí như trong đời lúc đại quân đấu chiến, ít có ai vì bảo vệ quân chúng mà ở trước mặt trận, chỉ trừ trượng phu hùng mãnh quả cảm đốc suất quân kiêu dũng đứng trước mặt trận chống địch để bảo vệ quân mình.

 Nầy Xá Lợi Phất! Cũng vậy, đời đương lai lúc chánh pháp diệt những kẽ phá hoại chánh pháp hiện ra, có những người phát khởi thâm tâm ưa thích Niết bàn, có thể ở nơi pháp bửu Vô thượng nầy nhẩn đến thọ trì chút ít yếu nghĩa. Phải biết người ấy chính là mặc áo giáp Kiên cố chánh cần phát khởi sức đại tinh tấn dũng mãnh phá tan mặt trận quân ma.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có người ở nơi kinh điển nầy nhẫn đến thọ trì một bài kệ 4 câu tùy hỉ khen ngợi rằng kinh điển nầy thiệt của Phật nói và rộng giảng dạy cho nhiều người. Phải biết người ấy chính là tùy hỉ khen nói chánh pháp của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Như Lai chẳng nói người ấy được chút phần công đức quả báo, mà Như Lai nói người ấy hay thành tựu khối công đức lớn lượng đồng hư không. Như Lai nói người ấy là thiện nhân. Hạng thiện nhân như vậy rất là khó có, là người biết ơn, là người báo ơn. Người biết ơn báo ơn như vậy là trân bửu trong loài người.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đời đương lai lúc chánh pháp diệt, lúc ác ma hiện oai thế, nếu có chúng sanh ở nơi Phật tin trọng chẳng bỏ thọ trì kinh nầy không rời. Phật nói người ấy là trượng phu đệ nhứt, là thiện trượng phu, là thắng trượng phu, là kiện trượng phu, là đại trượng phu. Phải biết người ấy là bạn pháp tốt của Như Lai chớ chẳng phải ác đảng trá hiện. Phải biết người ấy thực hành công hạnh chơn thiệt

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ tát phải tu tập chánh hạnh kiên cố, cho đến chết không hề tạm bỏ. Với Phật phải ân cầ n vệ hộ, cho đến chết không hề tạm bỏ.Với chánh pháp phải ân cần nhiếp thọ, cho đến chết không hề tạm bỏ. Với pháp không thậm thâm phải ân cần tin hiểu, cho đến chết không hề tạm bỏ.

 Đây là ở đời ác sau nầy, đại Bồ Tát phát khởi 4 pháp.

 Đời đương lai, lúc pháp sắp diệt, luc chánh pháp bị phỉ báng, lúc chánh pháp bị diệt, lúc đồ đảng phạm giới lớn mạnh, lúc đua nhau theo cầu ác chú thuật của thuận thế ngoai đạo, lúc kiếp trược loạn, lúc kiện trược loạn, lúc phiền não trược, lúc chúng sanh trược, lúc mạng trược loạn, đại Bồ Tát phải y chỉ nơi ba chỗ. Đó là phải ở A lan nhã, phải ở nơi dứt tranh chấp, phải ở nơi Phật Bồ đề. Đời ác sau nầy đại Bồ Tát phải y chỉ ở ba chỗ ấy để được đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật vậy.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng:

 ” Chẳng xa lìa nơi pháp tối thắng

 Để hết khổ: sanh, lão, bệnh, tử

 Thường xuyên tinh tấn không vọng niệm

 Phải mau thành tựu tự tha lợi

 Nếu ai đối với chánh pháp này

 nghe rồi thọ trì chánh tư duy

 Phải biết Phật là thầy của họ

 Còn họ là chơn tử của Phật

 Nếu chẳng lắng nghe chánh pháp này

 Dầu nghe chẳng trụ chánh tư duy

 Người ấy sẽ đến các ác đạo

 Như các dòng nước chảy về biển

 Trăm ngàn câu chi do tha kiếp

 Chư Phật xuất hiện rất khó gặp.

 Dầu được tạm gặp chẳng tin thờ

 Sẽ theo ác ma làm điều ác.

 Lại nầy Xá Lợ Phất! Quá khứ chin mươi mốt kiếp, có Phật xuất thế hiệu Thắng Quán Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

 Trong pháp hội của Phật Thắng Quán có sáu Tỳ Kheo kết đoàn thường làm ác hạnh. Sáu Tỳ kheo ấy tên là Thiện Kiến, Thiện Lạc, Hoan Hỉ, Điều Thiện, Tô Du Giá và Hỏa Thiên Thọ.Các Tỳ Kheo ấy luôn nói phi pháp:Có ngã, có nhân, có thường, có loạn. Họ đến chỗ kín đáo bàn mưu rằng chúng ta phải đều riêng đi dụ hóa mỗi người kết nạp trăm nhà làm đồ đảng, lại khiến trăm nhà truyền cáo quyến thuộc, các quyến thuộc truyền cáo thân nhân, hoặc có thể sẽ đến năm ngàn nhà. Bàn mưu xong, họ chia nhau đi giáo hóa các làng các chợ, hoặc đến vương đô, hoặc đến lân quốc. Nhà nào họ cũng đều ghé, chẳng nói chánh pháp mà hủy báng Phật trước hết.

 Sáu ác Tỳ Kheo ấy hủy báng thế nào? Họ bảo mọi người rằng các pháp thế gian đều quyết định có ngã, có nhân, có chúng sanh, có thọ mạng. Nếu thế gian mà quyết là không ngã không pháp thì ai đi ai đến, ai ngồi ai nằm, ai nói ai nín, ai bố thí, ai lãnh nhận, ai thọ dụng, ai chịu khổ vui, ai chịu chẳng khổ chẳng vui.Nếu có ai bảo rằng thế gian quyết không có ngã, nhận, chúng sanh, thọ mạng, phải biết đó là oan gia của mọi người mà chẳng phải là thiện hữu.

 Các ác Tỳ Kheo ấy lại dụ hóa đàn ông đàn bà và nam nữ rằng: nếu có người nào nói các pháp không ngã nhân chúng sanh thọ mạng, phải biét đó là kẻ bất thiện, là kẻ bạo ác, là ác hữu.

 Họ lại bảo mọi người rằng:các người rất thông minh có thể hiểu rõ nghiã của ta giảng nói. Từ nay về sau nếu có các ác hữu đến nói thế gian quyết không ngã nhơn chúng sanh thọ mạng, mọi người chớ có gần gũi qua lại cúng dường họ.

 Các ác Tỳ kheo ấy đi dụ hóa nửa tháng mõi người đều dụ được đủ số năm trăm nhà về theo tà kiến của họ.

 Bấy giờ có các Tỳ Kheo bực A La Hán lìa hẳn tất cả phiền não cấu uế và là đệ tử chơn thiệt của Thắng Quán Như Lai, Vì đi khất thực nên đến các nhà đã được sự giáo hóa của các ác Tỳ kheo, liền bị người nhà mắng đuổi hạ nhục.Họ nói kệ bảo các Tỳ kheo A La Hán rằng:

 Các thầy chẳng biết được chánh pháp

 Các thầy mê mất đường thánh đạo

 Các thầy rời bỏ nơi tịnh pháp

 Các thầy đều sẽ đọa địa ngục.

 Nói kệ xong, họ lại chê mắng chư Tỳ Kheo A La Hán. Họ lại dùng đủ lời để mắng Phật. Ở trước Phật họ nói kệ:

 Pháp của Phật nói đều hư vọng

 Đó là các hành đều vô thường

 Lại nói các pháp đều vô ngã

 Và nói không hằng không bất biến

 Các hành đều không có kiên thiệt

 Đều là pháp quên mất hư ngụy

 Phật nói không hoa không chỗ có

 Chỉ gạt gẫm được kẻ ngu khờ..

 Các người ấy càng giận Phật hơn nên lại ở trước Phật nói kệ:

 Các pháp của Như Lai đã nói

 Quyết định không ngã không chúng sanh

 Không có thọ mạng không hữu tình

 Cũng không tác giả không thọ giả

 Mà nay hiện thấy các thế gian

 Có người bố thí người lãnh nhận

 Và bao nhiêu là người thọ dụng

 thọ khổ thọ vui chẳng vui khổ

 Nên biết nói đòi quyết không ngã

 Tất cả sẽ đọa vào ác đạo.

 Nầy Xá Lợi Phất!Lúc những người bất thiện đồng thanh nói lời phi pháp như vậy, có sáu mươi tám câu chi nam nữ do các ác

 Tỳ Kheo hóa đạo làm ác nghiệp ấy, sau khi chết ho đồng sanh vào đại địa ngục vô gián, thọ thân to lớn mình cá đầu người, lưỡi dài rộng trải trên mặt đất, khắp lưỡi có đinh sắt đóng xuống như ruộng trồng gừng, trên lưõi lại có nhiều cày sắt thường cày, trên mỗi thân hình ấy lại có một trăm sâu trùng rất ác độc cắn hút, trên hư không lại có những hòn sắt lớn cháy đỏ rực thường tuôn rơi trên thân hình ấy.Do nghiệp ác mà các tội nhân ấy phải chịu nhiều thứ khổ sở như vậy”.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiả ấy mà nói kệ rằng:

 ” Hòn sắt cháy đỏ như chớp giăng

 Vô lượng trăm ngàn thứ đáng sợ

 Nhằm ngay thân họ mà tuôn rơi

 Luôn luôn phải chịu nhiều khổ sở

 Lại trên thân họ khắp các chỗ

 Ngọn lửa hừng hực khó lại gần

 Lửa cháy ngọn cao trăm do tuần

 Lỗ lông khắp thân lửa chảy ra

 Trên lưỡi dài rộng của mỗi người

 Thường bị cày với vô lượng cày

 Nơi nơi trên lưỡi đều rách nát

 Khổ đau như vậy luôn không ngớt

 Do vì gần quen cùng ác hữu

 Cảm thấy quả khổ lớn dường ấy

 Lại do xa rời các thiện hữu

 Đến đổi mau đọa vào ác đạo.

 Nầy Xá Lợi Phất! Sáu Tỳ Kheo ác phi pháp thuở ấy, do sự giáo hóa ác nên sau khi chết họ đều đọa vào đại địa ngục A tỳ, mỗi thân hình rộng dài đều ba mươi do tuần, có ngàn lỗ miệng, mỗi miệng có hai cái lưỡi, mỗi lưỡi rộng dài đều bốn do tuần, trên mỗi lưỡi có năm trăm cày sắt kéo bằng trâu sắt.. Các tội nhân ấy dầu bị đau khổ quá nhiều mà chẳng thể kêu rên được.Trên mỗi đầu của họ đều có muôn ngục tốt tay cầm dao, cưa, mâu, sóc luôn chặt chém. cưa đâm nát đầu mình họ. Họ sống trong đại địa ngục ấy đên muôn ức năm, và xoay dần như vậy mãi lại sanh vào trong các đại địa ngục khác chịu đủ các sự khổ sở lớn. Đó là do tội giận phá thánh giáo của Phật vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thuở ấy có đại trưởng giả giàu có vô lượng tên là An ổn. Nhà ông ấy có đủ bảy báu châu ngọc, lúa gạo kho tàng tôi tớ dẫy đầy. Ông ấy cũng do ác Tỳ kheo giáo hóa mà sanh đoạn kiến. Bà vợ ông ấy tên là Diệm Huệ có nhan dung đẹp được người mến trọng, sanh một con trai thân tướng đoan nghiêm nhìn không biết chán. Người con trai ấy thành tựu dung sắc thanh tịnh viên mãn đệ nhứt, đã từng gieo trồng căn lành nơi vô lượng trăm ngàn na do tha câu chi chư Phật quá khứ. Lúc sơ sanh con trai ấy ba lần mỉm cười phát ngôn rằng:Lạ lùng thay nay ta sanh vào nhà đọan kiến này! bà mẹ quá sợ cả mình nổi ốc bỏ con dắt các tớ gái chạy trốn.

 Bấy giờ các tớ gái muốn xem xét cho rõ nên trở lại chỗ cũ coi trẻ sơ sanh ấy là loài gì? Là Trời, Là Rồng hay Dạ Xoa? Là Càn Thát Bà là A Tu La, là Ca Lâu La, là Khẩn Na La, là Ma Hầu La Già, là Cưu Bàn Trà, là Tất Xá Giá, hay là Nhơn Phi Nhơn?

 Thấy các nữ nhơn ây, trẻ sơ sanh lại phát ngôn rằng: Các chị dầu sợ chạy, nhưng tôi rất an vui. Trẻ ấy vì các nữ nhân mà nói kệ rằng:

 Các người nên thích nơi nghiã lợi

 Với nghiã lợi các người chớ sợ

 Nay tôi sẽ cứu độ các người

 Cho các người thoát khỏi tà đạo

 Các người sẽ an ổn chớ sợ

 Mà phải sợ trốn ác hũu trước

 Nay tôi sẽ cứu độ các người

 Cho các người thoát khỏi tà đạo

 Nghe trẻ ấy phát ngôn như vậy, cha mẹ và mọi người đến bên trẻ ấy.

 Trẻ ấy liền vì cha mẹ mà nói kệ rằng:

 Trong nhà có những thứ

 Tiền gạo rất rộng nhiều

 Mau mang đến cho tôi

 Cúng dường Phật và Tăng

 Chư đại Thanh Văn kia

 Cùng Thắng Quán Như Lai

 Trong khắp cả ba cõi

 Không có ai sánh bằng

 Chư đại Thanh Văn kia

 Cùng Thắng Quán Thế Tôn

 Rộng tuyên dương diệu pháp

 Làm lợi ích chúng sanh

 Chư đại Thanh Văn kia

 Cùng Thắng Quán Đạo Sư

 Thân có đủ Băm hai

 Tướng hảo đại trượng phu

 Phật và Thanh Văn kia

 Dường như hoa ưu đàm

 Hơn ức câu chi kiếp

 Khó được nghe danh hiệu.

 Nghe trẻ ấy nói xong, cha mẹ trẻ ấy liền lấy trong nhà hai mươi câu chi của báu thượng diệu đem đến cho con mà bảo rằng:Của báu này là của cha mẹ cho con, tùy ý con kính tin nơi đâu thì cúng dường.

 Cha mẹ trẻ vì con mà nói kệ rằng:

 Các của báu này là

 Do cha mẹ làm ra

 Tùy ý con kính tin

 Mang đi mà cúng thí

 Nào vàng nào trân bửu

 Nhà ta chứa rất nhiều

 Tùy ý con kính tin

 Mau mang đi cúng dường

 Nào y phục, ghế giường

 Những vòng hoa hương thoa

 Tùy ý con kính tin

 Cứ hoan hỉ thí cúng

 Nơi Phật và Pháp, Tăng

 Những phước điền Vô thượng

 Làm lợi ích quần sanh

 Phải nên dưng cúng dường.

 Trẻ ấy nghe kệ xong lại vì cha mẹ mà nói kệ rằng:

 Nay tôi đến Thắng Quán

 Đấng thế gian nương dựa

 Sắp đặt cúng đường lớn

 Để lợi ích quần sanh

 Những ai muốn mong cầu

 Phước vui người, trên trrời

 Phải cùng tôi đồng đến

 Chỗ Thắng Quán Như Lai.

 Mọi người nghe trẻ ấy nói những lời trên đều kinh ngạc sao trẻ sơ sanh nầy có thể cùng người đối đáp luận bàn và có thể đi đứng được.

 Nghe sự kỳ dị ấy, có tám muôn bốn ngàn người vân tập đến xem trẻ ấy là loài gì? Là trời hay thần?

 Nầy Xá Lợi Phất! Bấy giờ trẻ liền cùng tám muôn bốn ngàn người trước sau vây quanh đồng đi đến chỗ Phật Thắng Quán. Lúc trẻ ấy trên đường đi đến chỗ Phật, do phước đức lực nên có mười ngàn lọng báu tự nhiên hiện ra trên không để che cho khỏi nắng. Khắp con đường ấy, trên không lại giăng màn lưới vàng, mưa hoa đẹp và bột hương mịn hơn cả hương của chư thiên thường dùng để rải, gió mát thổi nhẹ hiệp cùng hương trời rải khắp mọi nơi chẳng dứt. Trên đường chư Thiên đem các thứ nước thơm rưới lên dùng vải lụa báu quí và lưới vàng che trùm. Chư Thiên lại còn mưa hoa trời màu sắc chói sáng khắp đường dầy đến ngang gối. Hai bên đường tự nhiên có vô lượng trăm ngàn ao hồ đầy nước đủ tám đức mát mẻ. Trong các ao hồ mọc nhiều hoa đẹp như sen xanh, sen vàng, sen đỏ, sen trắng. Mặt nước ao hồ có nhiều giống chim lạ đẹp bơi lội, như các chim cưu, nhạn, oang ương. Lề đường có lan can bảy báu và những cây báu hàng liệt trang nghiêm. Giữa đại lộ lại có con đường lót hoa hiện trước mặt trẻ ấy để chờ trẻ ấy đi, vừa để chưn xuống hoa liền vọt lên đỡ chưn vừa cất lên hoa liền ẩn mất. Trẻ ấy đi trên đường hoa giây lát ngó ngoái lại đại chúng và nói kệ rằng:

 Các người chớ đi nơi vô lý

 Ngoài đường ta đây đều phi lý

 Ta thường đi đường chánh lý nầy

 Đến chỗ tối thắng hữu lý

 Qua hơn vô lượng do tha kiếp

 Mới nhờ một phước được thân người

 Mới gặp một Phật hiện ra đời

 Mới siêng tu được tịnh tín huệ

 Trẻ ấy vì đại chúng nói kệ vừa dứt, trên không có tám vạn bốn ngàn đại Thiên Tử đồng thanh khen rằng lành thay lành thay! Rồi nói kệ khen trẻ ấy:

 Lành thay lành thay trí huệ lớn

 Lời ngài vừa nói đúng chánh lý

 Ngài dùng phía sau là vô lý

 Người có chánh lý phải đi trước

 Trẻ ấy nói kệ báo chư Thiên:

 Chư Thiên các Ngài vừa mách bảo

 Chánh ngôn hữu lý cùng vô lý

 Tôi hỏi các Ngài xin giải đáp

 Thiệt nghiã của hữu lý vô lý

 Chư Thiên nói kệ báo trẻ ấy:

 Nếu thích muốn ở nơi của báu

 Chẳng thích ra khỏi chỗ sở hành

 Là hạng phàm phu là vô lý

 Họ đứng trước đường vào địa ngục

 Nếu thích bỏ nhà để xuất gia

 Phải bỏ dục lạc bỏ của báu

 Người nầy hiện đời có chánh lý

 Chẳng lâu mở được cửa giải thoát.

 Trẻ ấy lại nói kệ báo chư Thiên:

 Các ngài vừa nói lý vô lý

 Thấy các Ngài toàn chưa hiểu rõ

 Nghiã hữu lý vô lý như vậy

 Tôi đã chánh khai ngộ rất sâu.

 Nói kệ xong trẻ ấy đi thẳng đến chỗ đại hội của đức Thắng Quán Như Lai Đẳng chánh Giác, đến nơi rồi liền đảnh lễ chưn Phật, đi quanh bên hữu ba vòng, đứng qua một bên hết lòng kính ngưỡng đức Thắng Quán Như Lai mà nói kệ tán thán:

 Thắng Quán Như Lai ban cam lộ

 Thường làm lợi ích các thế gian

 Như đại long tượng đại sư tử

 Do đó nay tôi thường kính lạy

 Soi sáng thế gian rất khó gặp

 Dường như hoa ưu đàm bát la

 Chỗ đời nương cậy làm ánh sáng

 Hình sắc vi diệu rất tròn đủ

 Thế gian nhiều khổ nó bức ngặt

 Chẳng biết rõ được chân thánh đạo

 Nhảy bỏ chánh lộ mà trốn chạy

 Như người sanh manh ở trong đời

 Nguyện tôi đời nầy sẽ thành Phật

 Như đấng Thắng Quán Phật Thế Tôn

 Sẽ cứu chúng sanh thoát các khổ

 Và cứu kẻ bị ba lửa đốt

 Có vô biên trăm ngàn người ấy

 Đều theo tôi đến trước đức Phật

 Cúi xin diễn nói pháp vi diệu

 Cho họ an trụ vô thượng giác.

 Nói kệ xong, trẻ ấy bạch rằng: Nguyện đời sau tại thế gian nầy, tôi sẽ thành Phật tuyên nói diệu pháp cho các chúng sanh như đức Thắng Quán Như Lai hiện nay vì đại chúng tuyên dương pháp vi diệu.

 Bấy giờ trong pháp hội ấy có tám vạn bốn ngàn người bạch đức Phật Thắng Quán rằng chúng tôi cũng nguyện đời sau được thành Phật tuyên nói diệu pháp cho các chúng sanh như đức Thắng Quán Như Lai hiện nay vì đại chúng mà tuyên dương pháp vi diệu.

 Đức Thắng Quán Phật biết rõ ý nguyện tăng thượng của tám vạn bốn ngàn người ấy, đức Phật liền mỉm cười.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật lúc mỉm cười, pháp nhĩ có các thứ tia sáng màu xanh vàng đỏ trắng hồng pha lê tự nhiên từ tai mắt mũi miệng chiếu ra khắp vô lượng vô biên Phật thế giới cao đến trời Phạm Thiên làm luốt ánh sáng của tất cả mặt trời mặt trăng. Làm Phật sự xong, các tia sáng ấy xoay về nhiễu bên hữu đức Thắng Quán Phật trăm ngàn vòng rồi rót vào đỉnh nhục kế của Phật ấy.

 Bấy giờ đức Thắng Quán Phật có một thị giả thấy thần biến ấy liền đứng dậy trịch y vai hữu quì gối hữu chấp tay hướng lên đức Phật Thắng Quán khom mình lễ kính rồi ở trước đức Phật nói kệ hỏi rằng:

 Nay tôi hỏi đức Thắng Quán Phật

 Đoan nghiêm hi hữu khiến người mừng

 Duyên cớ gì mà đức Thiện Thệ

 Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng

 Đấng Lưỡng Túc Tôn hiện mỉm cười

 Chẳng phải không duyên hiện tướng ấy

 Mong nói căn do hiện mỉm cười

 Vì thương xót thế gian xin giải thích

 Nay có trăm ngàn câu chi chúng

 Hiện đang ở trước đức Thế Tôn

 Nhiếp tai chuyên chú thích lắng nghe

 Mong Phật xót thương vì chúng nói

 Phật là mắt của tất cả chúng

 Là nhà là cứu là chỗ về

 hay dứt điều nghi của chúng sanh

 Đấng thương thế gian làm lợi ích

 Đức Phât biết rõ đời quá khứ

 Lại cũng biết rõ đời vị lai

 Biết rõ hiện tại các Phật độ

 Chẳng còn nghi nơi tất cả pháp

 Pháp vương biết khắp luận tự tại

 Như Lai nhiệm mầu hóa tam thế

 Nay tôi kính hỏi đức Thế Tôn

 Có nhân duyên gì hiện mỉm cười

 Phật hay dứt hẳn lưới nghi người

 Tự không còn nghi tất cả pháp

 Phạm âm tuyên dương pháp vi diệu

 Hay nhổ tên độc cho chúng sanh

 Lòng tôi vui sướng khó trình bày

 Hai tay chấp lại lòng cung kính

 Dám hỏi Pháp Vương Đại Thánh Tôn

 Có nhân duyên gì hiện cười mỉm.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đức Thắng Quán Như Lai bảo thị giả:

 Nầy Tỳ kheo! Ông có thấy trẻ ấy đang ở trước Phật chăng?

 Thị giả thưa:

 Bạch đức Thế Tôn! Tôi đã thấy.

 Đức Thắng Quán Như Lai phán:

 Trẻ ấy thuở quá khứ đã từng ở chỗ sáu mươi bốn câu chi na do tha trăm ngàn đức Phật mà cúng dường kính lễ tôn trọng tán thán.Cúng dường những y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các vật dụng cho chư Phật ấy xong, vì muốn xu hướng Vô thượng Bồ đề nên trẻ ấy lại ở nơi chỗ mười na do tha chư Phật quá khứ mà tu phạm hạnh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nầy thị giả! Nay tám muôn bốn ngàn người theo trẻ ấy đến đây đều là cha mẹ của trẻ ấy trong những đời quá khứ. Thuở xa xưa, trẻ ấy từng phát nguyện như vầy: Nguyện tôi đời đời sanh tại xứ nào, bao nhiêu cha mẹ đều khiến an trụ Bồ đề cả. Lại khiến các bà mẹ không còn thọ thân người nữ ở đời thứ hai. Do lời nguyện ấy nên nay đây họ đồng theo trẻ đến chỗ Phật và cùng tu học theo trẻ ấy phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 Thắng Quán Như lai vì thị giả mà nói kệ rằng:

 Tỳ kheo nên quan sát trẻ ấy

 Cùng chúng tùy tùng tám muôn tư

 Lần nọ mừng reo phát lời thiệt

 Nguyện tôi đời sau như Pháp Vương

 Phải biết từng ở đời quá khứ

 Nơi chư Phật số lượng kể trên

 Cung kính cúng dường đấng đạo sư

 Lợi ích trời người cả thế gian

 Ở chỗ mười na do tha Phật

 Theo Phật xuất gia trì chánh pháp

 Thực hành việc làm của Như Lai

 Vì cầu Bồ đề Vô thượng vậy

 Ông xem tám vạn bốn ngàn người

 Hiện nay đều ở trước Như Lai

 Đã từng trong những đời quá khứ

 Đều là cha me của trẻ ấy

 Trẻ ấy thuở xưa từng phát nguyện

 Bao nhiêu cha mẹ trong nhiều đời

 Đều khiến an trụ Vô Thượng Giác

 Chẳng còn lại thọ thân nữ nhân

 Họ đều học theo trẻ ấy cả

 Ở trước Phật phát Bồ đề nguyện

 Nay Phật sẽ đều thọ ký họ

 Đời sau họ sẽ đều thành Phật

 Do nhân duyên ấy Phật mỉm cười

 Thắng hạnh của họ Phật đều biết

 Biết cả công hạnh đời vị lai

 Họ sẽ chứng nhập Vô Thượng Giác

 Chư Thiên Long thần và nhân chúng

 Vô lượng trăm ngàn na do tha

 Nghe lời của Phật thọ ký đây

 Đều rất mừng kính Thắng Quán Phật

 nghe đức Phật Thăng Quán thọ ký xong,

 Trẻ ấy vui mừng vô lượng, vội vàng đến chỗ cha mẹ mà nói kệ rằng

 Tám vạn tư người ấy

 Cha mẹ tôi đời trước

 Đều trụ tại Bồ đề

 Lòng cha mẹ về đâu

 Cha mẹ nói kệ đáp trẻ ấy:

 Như chỗ chí con về

 Lòng cha mẹ cũng vậy

 Sẽ thành nhứt thiết trí

 Đây quyết định không nghi

 Con đã sanh nhà ta

 Sau nầy xin chớ bỏ

 Thường phải nhớ đến ta

 Khiến mau chứng Bồ đề.

 Trẻ ấy lại nói kệ đáp cha mẹ:

 Người được tôi hóa đạo

 Nguyện họ thành Phật trước

 Tối hậu tôi sẽ thành

 Chiếu thế Điều Ngự Sư

 Nầy Xá Lợi Phất! Đứa trẻ ở trong pháp hội đức Thắng Quán Như Lai thuở quá khứ ấy chẳng phải ai lạ, chính là Đại Tự Tại Thiên Tử đây vậy. Từ nay về sau lại trải qua câu chi na do tha kiếp chẳng còn thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Quá số kiếp nầy sẽ sanh vào dòng Chuyển Luân Thánh Vương, Vương phụ tên Danh Xưng như Tịnh Phạn Đại Vương cha của ta đây, vương mẫu hiệu Ly Ám như nay mẹ ta Ma Ha Ma Gia Phu Nhân, con trai tên Vô Ưu như La Hầu La con ta đây, sau khi xuất gia ngộ Bồ đề thành Phật hiệu Đại Bi Như Lai đủ mười đức hiệu, thọ vô lượng trăm ngàn câu chi tuổi, ánh sáng thường của Phật Đại Bi chiếu đều khắp mười do tuần, chỗ Phật Đại Bi thuyết pháp đại hội đầy chật một trăm do tuần. Đại Bi Như Lai trụ thế giáo hóa độ hàng Thanh Văn ba hội thuyết pháp. Hội thứ nhứt có trăm câu chi đệ tử Tỳ kheo. Hội thứ hai độ na do tha câu chi Tỳ Kheo Tăng. Hội thứ ba độ Tỳ Kheo đệ tử đến số trăm ngàn na do tha câu chi. Trong hàng đệ tử ấy có một câu chi đại A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, được tự tại huệ đủ tám giải thoát, thành tựu tam muội và sáu thần thông. Chúng Bồ Tát trong pháp hội của Đại Bi Như Lai cũng đồng số lượng với chúng Thanh Văn đệ tử, đều là cha mẹ quá khứ của đức Phật ấy. Đức Đại Bi Như Lai tuyên nói diệu pháp độ vô số chúng sanh rồi nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế một câu chi năm, Xá lợi lưu bố cúng dường lợi ích chúng sanh như sau khi ta nhập diệt.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát an trụ chánh cần cũng như vậy. Lúc tu hành Tỳ lê gia Ba la mật, vì cầu Vô thượng Bồ đề nên đại Bồ Tát ấy có thể ở nơi kinh nầy tu hành chánh pháp càng thêm phấn chấn phát khởi sức đại tinh tấn dũng mãnh độ thoát vô lượng chúng sanh. Phật gọi người ấy là thiện trượng phu tư duy quán sát chẳng mỏi chẳng lui dũng mãnh tinh tấn lòng luôn sáng suốt.

 Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi?

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc vì chúng sanh mà cầu Vô thượng Bồ đề thì chẳng nên hạn cầu có số lượng. Đại Bồ Tát chẳng nghĩ rằng bao nhiêu kiếp tôi lưu chuyển, bao nhiêu kiếp tôi chẳng lưu chuyển, mà đại Bồ Tát luôn mặc giáp bất tư nghị ở tại sanh tử quan niệm rằng giả sử tôi sẽ chịu khổ ở hậu tế nhiều và lâu hơn ở triền tế, nhưng vì cầu Vô thượng Bồ đề nên tôi không hề giải đãi thôi nghĩ ở giữa chừng.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có đầy đủ hoằng thệ như vậy thì gọi là thành tựu tinh tấn chẳng mỏi.

 Thế nào là đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh?

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử toàn cõi Tam thiên đại Thiên đầy lửa hừng phát lên, vì muốn đến gặp Phật kia, đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy không hề khiếp sợ. Vì cầu nghe pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng, đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh do sức tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn tuyên nói pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, dù gặp lửa cháy như vậy, đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức tinh tấn vẫn đi ngang qua giữa chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn sanh khởi nhân duyên căn lành, đại Bồ Tát tinh tấn dõng mãnh do sức tinh tấn dõng mãnh vẫn đi ngang qua giữa ngọn lửa ấy chẳng hề khiếp sợ thối lui. Vì muốn lợi ích chúng sanh, vì muốn cho người bát Niết-bàn, đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn do sức tinh tấn dầu phải đi ngang qua giữa vùng lửa ấy vẫn không hề khiếp sợ thối lui.

 Đây gọi là tướng dạng tinh tấn dũng mãnh của đại Bồ Tát tu hạnh Tỳ lê gia Ba la mật vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc thật hành Tỳ lê gia Ba la mật phát khởi dũng mãnh tinh tấn chẳng mỏi, do thiện căn kiên cố bất thối dũng mãnh phát khởi và đại bi Vô thượng huân tập nên luôn phát khởi sức dũng mãnh đại tinh tấn, với các chúng sanh thường làm việc giáo hóa khai đạo.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát phát khởi tinh tấn chẳng mỏi ấy, trong tất cả thời gian cất chưn hạ chưn thường chẳng bỏ rời tâm Bồ đề, với Phật, Pháp và Tăng hằng kính trọng nhiếp niệm tại tâm, với tất cả chúng sanh hằng quan sát luôn để làm lợi ích chẳng muốn họ bị thế lực phiền não bức đoạt. Lại đem hết những căn lành vi diệu mà mình đã có đều hồi hướng tất cả về Vô thượng Bồ đề khiến căn lành ấy rốt ráo vô tận. Như đem chút nước đổ vào biển lớn thì không bao giờ mất hết.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi dùng hạnh bình đẳng chứa hợp thiện căn, với chúng sanh phát khởi bình đẳng chứa hợp thiện căn,vì muón dẫn sanh nhứt thiết trí trí nên chứa hợp thiện căn, vì muốn lợi ích các chúng sanh nên chứa hợp thiện căn. Vô lượng các thiện căn lớn ấy đều do đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi chứa hợp phát khởi vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi ấy thường phải tu học pháp như vậy, được khối phước vô lượng vô biên như sau:

 Nầy Xá Lợi Phất! Phật quan sát tất cả chúng sanh có khối phước vô lượng, nhẫn đến tất cả bực hữu học bực vô học, tất cả hàng Độc Giác có khối phước nhiều gấp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Bao nhiêu khối phước trên ấy, giả sử đem nạp vào một lỗ lông của chúng sanh, tất cả lỗ lông trên thân chúng sanh đều nạp khối phước như vậy vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Giả sử tất cả lỗ lông trên tất cả thân của tất cả chúng sanh đều nạp đầy khối phước như trên, đem tất cả khối phước ấy hợp chứa vào trong một ngôi đền thờ pháp lớn không cửa khóa.

 Nầy Xá Lợi Phất! Khối phước chứa trong đền thờ pháp ấy tăng lên trăm lần cảm được một sắc tướng đại trượng phu trên thân Như Lai. Mỗi mỗi tướng đại trượng phu đều do khối phước như vậy cảm thành. Tất cả khối phước cảm thành tất cả tướng đại trượng phu ấy hiệp lại thành một tướng my gian bạch hào. Trăm ngàn khối phước tướng bạch hào hiệp lại cảm thành tướng vô kiến đảnh của Như Lai. Câu chi trăm ngàn khối phước tướng vô kiến đảnh hiệp lại cảm thành tướng đại pháp thương khư loa của Như Lai.

 Nầy Xá Lợi Phất! Do vì tướng đại pháp loa của Như Lai được vô lượng thứ phước đức hợp thành, nên tùy ý muốn đức Như Lai phát âm thanh lớn phổ cáo vô lượng vô biên tất cả thế giới, vì các chúng sanh mà tuyên diệu pháp, đúng như căn tánh của họ, nghe pháp họ liền tin hiểu vui mừng. Đó đều là do sức tinh tấn dũng mãnh tu học không mỏi vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát phải quan niệm rằng: Vô thượng Bồ đề như vậy dầu rất khó được, nhưng tôi chẳng bỏ giáp tinh tấn phát đại dũng mãnh quyết định sẽ mau ngộ Vô thượng Bồ đề, chẳng lấy gì làm khó. Thành Phật rồi tùy ý muốn tôi phát âm thanh lớn từ tướng phát loa phổ cáo vô lượng vô biên tất cả thế giới, vì các chúng sanh tuyên pháp vi diệu, đúng như căn tánh nghe pháp đều tin hiểu vui mừng.

 Đây gọi là tướng đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát dũng mãnh không mỏi tu tập Tỳ lê gia Ba la mật phải thường tinh tấn tu tập như vậy. Do tu học nên thành tựu đầy đủ tất cả trí huệ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử bao nhiêu chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí tùy tín hành cả, dùng tất cả trí tùy tín hành ấy đem so sánh với một trí tùy pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn muôn một phần toán, một phần số, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam Thiên Đại thiên thế giới đều thành tựu trí tùy pháp hành muốn đem so sánh với một trí đệ bát nhẫn thì chẳng bằng một phần trăm cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí đệ bát nhẫn muốn đem so sánh với một trí Tu Đà Hoàn quả thì chẳng bằng một phần trăm cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Giả sử tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới đều thành tựu trí dự lưu quả muốn đem so sánh với một trí Tư Đà Hàm hướng. Như vậy, tất cả trí nhứt lai hướng muốn đem so sánh với một trí Tư Đà Hàm quả, tất cả trí Tư Dà Hàm quả muốn đem so sánh với một trí A Na Hàm hướng, tất cả trí bất hoàn hướng muốn đem so sánh với một trí A Na Hàm quả, tất cả trí A Na Hàm quả muốn đem so sánh với một trí A La Hán hướng, tất cả trí vô sanh hướng muốn đem so sánh với một trí A La Hán quả, tất cả trí A La Hán quả muốn đem so sánh với một trí Độc Giác, tất cả trí Độc Giác muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát tu quá trăm kiếp, tất cả trí Bồ tát tu quá trăm kiếp muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát bất thối chuyển, tất cả trí Bồ tát bất thối chuyển muốn đem so sánh với một trí Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ xứ thì chẳng bằng một phần trăm nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều thành tựu trí Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ muốn đem so sánh với một trí thị xứ phi xứ của Như Lai thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

 Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy do thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên lúc nghe trí huệ thậm thâm của Như Lai như vậy lòng không kinh sợ, với trí huệ ấy sanh lòng thích muốn phát khởi chánh cần chẳng thôi bỏ mà quan niệm rằng: Nay tôi tu hành dũng mãnh tinh tấn, giả sử thân của tôi khô cạn cả máu huyết da thịt gân xương tủy não, nếu chưa được trí thị xứ phi xứ ấy, tôi vẫn tinh tấn dũng mãnh kiên cố trọn không thôi bỏ giữa chừng.

 Đây gọi là tướng dạng Đại Bồ Tát tinh tấn Ba la mật dũng mãnh kiên cố chẳng mỏi,phải nên học như vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật đa nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh chẳng mỏi, thường phải tu học như vậy. Do tu học nên có thể diệt lửa các phiền não của các chúng sanh.

 Nầy Xá Lợi Phất! Giả sử bao nhiêu tâm quá khứ của tất cả chúng sanh đều vào chuyển trong một tâm chúng sanh, như vậy nhẫn đến mỗi mỗi tâm của tất cả chúng sanh đều có đủ số lượng tâm trên phiền tạp khó biết được. Mỗi mỗi tâm sau đây đều có đủ vô lượng tham sâu si phiền não phiền tạp. Đem tất cả phiền não của tất cả chúng sanh đều cho vào chuyển.

 Trong một tâm của một chúng sanh. Giả sử tất cả chúng sanh đều có đủ vô lượng phiền não phiền tạp khó biết như vậy. Đại Bồ Tát suy nghĩ rằng tôi phải cố gắng phát khởi tinh tấn dũng mãnh tìm cầu trí huệ tư lương ấy, tùy tôi phát khởi sức chánh cần, với lửa tham sân si và các nhiệt não khác, tôi phải làm cho diệt dứt không sót, đều làm tan nát mất như tro tàn, khiến chúng sanh mau ở trên đường Niết-bàn. Đây gọi là đại Bồ Tát Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh chẳng mỏi, phải nên học như vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì tu Tỳ lê gia Ba la mật nên an trụ tinh tấn không mỏi thường phải tinh tấn tu học như vậy. Do tu học nên các thiện nghiệp nơi thân nơi khẩu và nơi ý đều không thôi bỏ. Nhẫn đến tất cả tinh tấn đều là phương tiện sách tấn thân khẩu ý của Bồ Tát.

 Nầy Xá Lợi Phất trong đời chỉ nói đến tướng hai nghiệp thân và khẩu của Bồ Tát là tinh tấn đệ nhứt mà chẳng nói đến tướng tâm tinh tấn của Bồ Tát. Tướng tâm tinh tấn của Bồ Tát vô lượng vô biên nay Phật sẽ nói lược.

 Tâm Bồ Tát tu hành chánh cần hoặc tấn hoặc chỉ. Thế nào là chánh cần tấn chỉ?

 Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát tu hành đại tinh tấn vì Vô thượng Bồ đề mà siêng tu tinh tấn. Nói tấn là đối với chúng sanh thì phát khởi đại bi. Nói chi là vô ngã trí. Nói tấn là nhiếp các chúng sanh. Nói chỉ là chẳng chấp lấy pháp. Nói tấn là ở sanh tử không mỏi. Nói chỉ là chẳng thấy có ba cõi. Nói tấn là xả bỏ tất cả. Nói chỉ là bố thí chẳng chán. Nói tấn là nhiếp lấy tịnh giới. Nói chỉ là chẳng nhàm Thi la. Nói tấn là cam chịu các khổ. Nói chỉ là không lòng hủy hoại. Nói tấn là phát khởi pháp lành. Nói chỉ là tâm thường xa lìa. Nói tấn là nhiếp thọ tịnh lự. Nói chỉ là tâm thường tịch diệt. Nói tấn là nghe pháp chẳng chán. Nói chỉ là khéo giỏi như lý. Nói tấn là nghe nói không nhàm. Nói chỉ là không hí luận pháp. Nói tấn là cầu tư lương trí huệ. Nói chỉ là dứt các hí luận. Nói tấn là tăng trưởng tịnh tín. Nói chỉ là chơn trí hành xả. Nói tấn là đủ năm thần thông. Nói chỉ là khắp biết lậu tận. Nói tấn là tu các niệm xứ. Nói chỉ là niệm vô công dụng.Nói tấn là phương tiện chánh cần. Nói chỉ là thiện ác đều xả bỏ. Nói tấn là dẫn phát thần túc. Nói chỉ là nhiệm vận tác dụng, nói tấn là thiện quyền ngũ căn. Nói chỉ là quán chẳng phải căn tánh. Nói tấn là nhiếp thọ ngũ lực. Nói chỉ là trí không chế phục. Nói tấn là sanh bồ đề phần. Nói chỉ là trí giảng trạch pháp. Nói tấn là cầu tư lương chánh đạo. Nói chỉ là không tánh lai vãng. Nói tấn là cầu xa ma tha.Nói chỉ là tâm an trụ tịch chỉ. Nói tấn là tư trợ thắng quán. Nói chỉ là gẩm xét pháp tánh.Nói tấn là liền theo xét xem các nhân. Nói chỉ là biết khắp các nhân. Nói tấn là theo người nghe phát âm. Nói chỉ là đúng như pháp tu hành. Nói tấn là thân trang nghiêm. Nói chỉ là pháp tánh thân. Nói tấn là ngữ trang nghiêm. Nói chỉ là thánh mặc nhiên tánh. Nói tấn là tin môn giải thoát. Nói chỉ là không có phát khởi.Nói tấn là xa rời bốn ma. Nói chỉ là bỏ phiền não tạp khí. Nói tấn là phương tiện thiện xảo. Nói chỉ là quán sát thâm huệ. Nói tấn là quan sát duyên cảnh.Nói chỉ là vô công dụng quán. Nói tánh là quán sát giả danh. Nói chỉ là tỏ thấu thiệt nghiã

 Nầy Xá Lợi Phất! Bao nhiêu tướng tấn và tướng chỉ ấy gọi là đại Bồ Tát duy tâm tinh tấn.

 Nếu như đại Bồ Tát nghe những tướng tâm tinh tấn như vậy phải nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh đầy đủ không mỏi.

 Đây gọi là đại Bồ Tát tu tập tinh tấn Ba la mật thành tụ tướng tinh tấn dũng mãnh không chán mỏi.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi ấy thành tựu năm pháp tăng tấn thì có thể mau ngộ vô thượng Bồ đề. Đó là gặp Phật xuất thế, được gần thiện hữu, được toàn đủ không nạn chướng, tất cả pháp lành đã được tu tấn thì vĩnh viễn không hư mất, theo tu học với đại Bồ Tát an trụ luật nghi. Có được năm điều trên là thành tựu năm pháp tăng tấn, do đó mà đại bồ Tát tinh tấn dũng mãnh không mỏi sẽ mau ngộ Vô thượng Bồ đề ».

 Bấy giờ trưởng lão Xá Lợi Phất bạch đức Phật: << Bạch đức Thế Tôn! vả có Bồ Tát nào cũng giảng năm pháp nầy chăng? >>

 Đức Phật phán: << Có. Nầy Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát có năm pháp sau đây thì có thể tổn giảm. Đó là có Phật xuất thế mà chẳng gặp, chẳng muốn gần thiện hữu, chẳng được không nạn chướng, pháp lành tu tập phần nhiều hư mất, không muốn theo học với Bồ Tát an trụ luật nghi. Do có những pháp tổn giảm ấy nên chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát có năm pháp sau đây thì bị tổn giảm:

 Quốc vương hay đại thần đem sức oai thế khủng bố chúng sanh, đến đổi ai có sự duyên thì cầu thỉnh oai phước, nếu có ai làm xong việc như vậy sẽ trọng tạ. Hàng Bồ tát tại gia vì thấy có lợi nên lòng chẳng chánh trực bèn lãnh làm, phàm nói năng đều vì lợi cả.

 Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát tại gia do làm sự việc ấy mà tổn giảm thiện đạo, tổn giảm vô nạn, vì dưỡng thân mà làm ác hạnh nên chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ nhứt vậy. Lại nầy Xá Lợi Phất! Tại gia Bồ Tát ở nơi thành hư hoại.

 Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chư Phật xuất thế vì các chúng sanh mà chuyển pháp luân thanh tịnh vi diệu. Bấy giờ sẽ có bốn chúng xuất hiện: Đó là những chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di. Lúc ấy chư ni vì bảo hộ giới hạnh mà đến ở trong các thành ấp thôn xóm. Các Bồ Tát tại gia đến chỗ chư ni ở làm nhiễm ô người giữ giới. Do vì hủy giới nên gọi là ở nơi thành hư hoại. Bồ Tát tại gia phạm sự ấy thì chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ hai vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Tại gia Bồ Tát thấy thời kỳ có nhiều người nương theo giới luật diễn nói chánh pháp bèn làm chướng ngại sự nghe pháp tu tập của cha mẹ anh chị em vợ con quyến thuộc và các chúng sanh. Do làm chướng ngại chánh pháp như vậy nên trong thời gian dài, tại gia Bồ Tát ấy thường bị chướng ngại nơi giới luật chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát tổn giảm thứ ba vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Tại gia Bồ Tát nghe trong kinh đức Phật nói khen pháp thiểu dục tri túc xuất gia yên tĩnh ở núi rừng lìa khổ, bèn không tin trở lại hủy báng và cũng bảo người có kiến chấp như vậy. Vì hủy báng pháp thanh tịnh của Như Lai nên tại gia Bồ Tát bất thiện ấy bị sa chìm trong các loài đáng hủy báng đó là địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, hoặc sanh biên địa và trong nhóm ác kiến. Tại gia Bồ Tát ấy chẳng gặp Phật xuất thế nhẫn đến chẳng được mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ tư vậy.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! tại gia Bồ Tát nương theo quốc vương hay đại thần hoặc những người giàu sang có thế lực mà làm điều tệ ác, cậy thế lực chê cợt mắng chửi các chúng sanh.Do đó ngữ ác hạnh ấy nên mau chiêu vời các báo ác đạo mà chẳng gặp Phật xuất thế, chẳng gần thiện hữu, chẳng được không nạn, căn lành hư mất, chẳng theo Bồ Tát gìn luật nghi tu học chánh pháp và chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát có pháp tổn giảm thứ năm vậy>>.

 Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã ấy mà nói kệ rằng:

 « Bồ Tát nếu có năm pháp tổn

 Do đó trí huệ không tăng trưởng

 Đã chẳng gặp được Phật ra đời

 Lại chẳng gần gũi bực thiện hữu

 Hoặc là vua chúa các đại thần

 Khi trá dối gạt các chúng sanh

 Vì có những thứ nghiệp chẳng lành

 Nên chẳng được gặp đấng cứu thế

 Thế lực khủng bố nhiều hữu tình

 Bắt nạp hối lộ hoặc tổn hại

 Gây tạo ác nghiệp như vậy rồi

 Chẳng còn gặp được Phật Thế Tôn

 Chư ni ở tu giới thanh tịnh

 Làm hư giới hạnh sanh buồn khổ

 Sẽ rời vô lượng ức Như Lai

 Chẳng được thành tựu những vô nạn

 Với cha mẹ vợ con quyến thuộc

 Chướng ngăn chẳng cho tu pháp hạnh

 Lại ngăn nghe học Phật chánh pháp

 Sẽ mau cảm quả ngu si ác

 Có người nhàm đời thích xuất gia

 Tìm cách bắt bớ ngăn trở họ

 Sẽ rời vô lượng đấng Thế Tôn

 Chẳng được thành tựu những vô nạn

 Có người nghe học pháp xuất ly

 Thiểu dục tri túc ở vắng vẻ

 Bèn chẳng bằng lòng sanh hờn giận

 Hủy báng chánh pháp sanh tà kiến

 Hủy báng chánh pháp như vậy rồi

 Thường đọa sanh manh báo rất khổ

 Trong tất cả tội nghiệp trọng chướng

 So đây chẳng bằng phần mười sáu

 Sẽ khó gặp được chư Như Lai

 Dầu thấy cũng không lòng tin kính

 Cảm thấy hoàng hôn nữ sanh manh

 Lại đọa lạc đà lừa heo chó

 Đối với chư Phật chư Bồ Tát

 Sanh lòng ân trọng yêu kính mến

 Rời xa tất cả chướng ngại rồi

 Nối tiếp tu học đạo hiền thánh

 Cha mẹ vợ con cùng quyến thuộc

 Thường thích đặt ngồi trong chánh pháp

 Có người nhàm đời cầu xuất gia

 Khen ngợi giúp đở cho toại chí

 Nếu ở trong quyến thuộc chánh pháp

 Sẽ mau sanh lên cõi hiền lành

 Có ai tán trợ người xuất gia

 Sẽ mau tỏ ngộ Vô Thượng Giác.

 Lại nầy Xá Lợi Phất! Lại còn có năm pháp, nếu xuất gia Bồ Tát mà có thì chẳng gặp Phật xuất thế, chẳng gần thiện hữu, chẳng được vô nạn, thiện căn hư hỏng, chẳng theo Bồ Tát giữ giới để tu học chánh pháp, do đó chẳng mau ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Đây là năm pháp: Một là hủy phạm Thi la. Hai là chê bai chánh pháp. Ba là tham trước danh lợi. Bốn là chấp chặt ngã kiến. Năm là ganh ghét người khác.

 Nầy Xá Lợi Phất! Thí như chó đói khổ sở đi dọc theo đường gặp được khúc xương khô màu hơi đỏ, nó cho là hậu vị liền ngoạm đem đến ngã tư chỗ đông người. Vì tham thèm nên nước dãi chảy ra trên xương, nó vọng cho là ngon ngọt, rồi hoặc gặm hoặc liếm hoặc nhai hoặc chép, nó thích thú gặm nhấm mãi chẳng bỏ rời khúc xương ấy. Bấy giờ có hàng Sát Lợi, Bà La Môn và các trưởng giả đều là nhà phú quí đi qua đường ấy. Chó đói thấy họ từ xa đi lại, lòng nó khó chịu cho là các người ấy sẽ cướp món ăn ngon của nó, nên nó giận dữ gào sủa nhe răng lỏ mắt rượt cắn họ.

 Nầy Xá Lợi Phất! Ông nghĩ thế nào? Những người đi đến ấy là vì việc khác hay là muốn tìm lấy khúc xương khô hơi đỏ đó chăng?

 – Bạch đức Thế Tôn! Không phải họ tìm lấy xương khô.

 – Nầy Xá Lợi Phất! Nếu như vậy thì tại sao chó đói ấy lại giận sủa nhe răng rượt cắn họ?

 Bạch đức Thế Tôn! Theo ý tôi hiểu thì chó đói ấy sợ những người đi lại tham đồ ăn ngon tất sẽ cướp mất mỹ vị cam lộ của nó, vì thế mà nó nhe răng sủa cắn họ.

 – Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như lời ông nói. Đời mạt thế sau nầy có các Tỳ Kheo dầu được không nạn mà đối với các nhà thí chủ, do lòng bỏn sẻn mà ghét ganh tham ăn tham uống chẳng tu chánh pháp. Phật choTỳ kheo nầy như chó đói kia vậy. Nay Phật xuất thế vì xót thương cứu độ chúng sanh, nên lo việc ấy mà vì các ác Tỳ Kheo đời mạt thế nói ra thí dụ như vậy.

 Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát vì muốn lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh nên cầu Phật trí mà thật hành Tỳ lê gia Ba Na la mật. Thịt nơi thân của mình, các Bồ Tát ấy còn vui vẻ đem cho, huống lại vọng tưởng thịt xấu mà ganh ghét người khác.

 Nầy Xá Lợi Phất các ác Tỳ Kheo ganh ghét người khác ấy, Phật gọi họ là si trượng phu, là kẻ tham sống, là nô lệ giữ lúa tiền, là kẻ bị trói trong của cải trân ngoạn, là kẻ chỉ biết trọng áo cơm, là kẻ tham ăn mà ganh ghét.

Này Xá Lợi Phất! Phật lại nói chánh pháp như vầy: Các Tỳ kheo đến nhà người thí chủ trước, chẳng nên thấy các Tỳ Kheo khác mà sanh lòng ghen ghét. Nếu có Tỳ Kheo trái lời ta dạy, thấy các Tỳ Kheo khác hoặc nói nhà thí chủ nầy là chỗ quen trước của tôi, thầy ở đâu lại tới đây. Với nhà nầy tôi rất thân mật, thầy ở đâu đến muốn xâm đoạt.

Nầy Xá Lợi Phất! Tại sao các Tỳ Kheo tham lam ấy đối với kẻ đến sau lại sanh lòng ganh ghét?

Nầy Xá Lợi Phất! Vì nhà thí chủ ấy đã hứa cúng cho họ những y phục đồ uống ăn đồ nằm thuốc men và các vật dụng khác. Họ sợ thí chủ đem đồ hứa cúng nầy mà thí cho các Tỳ kheo kia vậy. Như thế, đối với nhà thí chủ họ phát khởi ba lỗi nặng: Một là phát khởi lỗi nơi chỗ ở. Họ thấy các Tỳ kheo khác hoặc nói lời hờn rằng nay tôi sẽ rời chỗ nầy. Hai là với nhà quen thân sẽ bảo: chưa biết nên cho hay chẳng nên. Ba là với nhà chẳng nhứt định họ sẽ vọng sanh các lỗi lầm.

Nầy Xá Lợi Phất! Các Tỳ Kheo tham sẻn ấy đối với người đến sau phát ba ác ngôn: Một là nói nhà thí chủ nhiều việc xấu ác cho các Tỳ Kheo khác bỏ đi. Hai là với cácTỳ

Kheo đến sau có lời thành thật, mà trái lại là nói dối. Ba là trá hiện lành tốt để gần gũi rình tìm chút lỗi nhỏ rồi ra trước chúng cử tội.

Này Xá Lợi Phất các Tỳ kheo ở nhà thí chủ sanh lòng ganh bỏn xẻn thì mau dứt mất tất cả pháp lành đã có.

Này Xá Lợi Phất! Nếu có Tỳ kheo tham ganh bỏn xẻn, Phật gọi họ là người bất thiện, là vứt bỏ Bồ đề tư lương, lại chẳng thể theo Bồ tát giữ luật nghi để tu chánh pháp.

Này Xá Lợi Phất! Thuở quá khứ vô lượng vô số bất tư nghì kiếp, có Phật xuất thế hiệu Thắng Hiện Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, thọ chín mươi câu chi na do tha đều là đại A La Hán.

Này Xá Lợi Phất! Thời kỳ ấy có một Trưởng giả tên Thiện Trạch nhà giàu có lớn. Trưởng giả ấy có hai con trai tên Luật Nghi và Trụ Luật Nghi. Cả hai còn ấu trĩ dung mạo đoan chánh xinh đẹp ai cũng thích nhìn.

Một hôm vào lúc sáng sớm, đức Phật Thắng Hiện Vương đáp y mang bát cùng Tỳ kheo Tăng vì lợi ích chúng sanh mà đi khất thực vào thành của truỡng giả ấy ở. Phật và chúng tăng oai nghi tường tự, các căn vắng lặng, tâm ý điềm bạc, tu nhiếp các căn như đại long tượng, đứng lặng không vẫn đục như nước ao sâu, đức lớn vòi vọi như tòa lầu vàng, thân sắc vững sáng như tòa núi vàng tử kim, lại cũng như biễn cả đầy châu báu, như vua Đế Thích chư Thien vây quanh, như Đại phạm Vương tâm ý tịch tịnh.

Này Xá Lợi Phất! Hai con trai của Trưởng Giả Thiện Trạch ở trên lầu thấy Phật Thăng Hiện Vương từ xa đi lại phát khởi lời khen lòng vui mừng khen chưa từng có. Trụ Luật Nghi thấy Phật trước vui mừng nói với anh rằng: Từ khi sanh ra đến nay anh có thấy vua chúng sanh đoan nghiêm thế ấy chăng? Luật Nghi đáp: Ta từ nào chưa từng thấy vua chúng sanh đoan nghiêm như vậy. Trụ Luật Nghi nói với anh rằng như chỗ tôi nghĩ thì đời sau tôi quyết định sẽ làm vua chúng sanh như vậy.

Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ với anh rằng:

Như anh Luật Nghi nay đã thấy

Đời sau tôi quyết được như vậy

Chúng đại Tỳ Kheo vây quanh tôi

Sẽ lại gấp bội hơn ngảy nay

Vì cầu nhơn duyên Bồ Đề Đạo

Tôi thề chẳng nuốt những uống ăn

Anh đã thích ở trong lao ngục

Ý tôi quyết định sẽ siêu thắng

Đấng vua tất cả chúng sanh ấy

Đồng như vầng trăng giữa tinh tú

Ai được thấy mà chẳng kính tin

Lại thích ở nhà chẳng xuất ly.

Luật Nghi Đồng tử nói kệ đáp lời em:

Vả thôi em chớ nên lớn tiếng

Chẳng phải nói suông mà thành sự

Ta chẳng cần phát ngôn ngữ đời

Thử xem ai thành chánh giác trước.

Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ thưa anh rằng:

Đạo Bồ Đề Vô thượng như vậy

chẳng phải lòng xấu rít mà được

Tôi phải phát tiếng hiền lành lớn

Quyết định thành Phật trên loài người

Luận người xấu rít như thế này

Của cải chẳng muốn cho người biết

Nay tôi đâu cứ nín lặng

Thân mạng còn bỏ huống của báu

Tôi đem của nhà đều bố thí

Để cầu nhơn duyên Bồ Đề Đạo

Luôn phần gia tài của anh có

Cúng phước điền Phật vì rất kính

Ai thấy Thế Tôn đấng Tối Thắng

Đủ ba mươi hai tướng tốt đẹp

Mà chẳng phát nguyện đến Bồ Đè

Chỉ trừ kẻ kiến chấp hạ liệt

Bao nhiêu nhà cửa và của báu

Cha mẹ với tất cả quyến thuộc

Tôi sẽ đều xã ly tất cả

Mau đến chỗ đức Như Lai Phật

Là mặt nhựt sáng đời cậy nương

Từ Tôn soi đời rất khó gặp

Trăm ngàn câu chi do tha kiếp

Thắng tướng như vậy khó được nghe

Tôi thấy Thế Tôn vào Vương Đô

Chúng Đại Tỳ Kheo vây quanh Phật

Như trăng tròn sáng tại trời trong

Rọi ánh sáng soi khắp mặt đất

Tôi thấy Thế Tôn tới ngã tư

Tướng tốt trang nghiêm tất cả chỗ

Khác nào mặt nhựt tia nắng vàng

Đầy cả hư không thường chiếu khắp

Tôi thấy Thế Tôn đi trước chúng

Trang nghiêm hiển phát Tỳ Kheo Tăng

Dường như núi chúa tu di kia

Chói các núi báu đều nghiêm lệ

Oai quang của Phật tất rực rỡ

Soi hết quần sanh ở cõi này

Lưỡng Túc Tôn có đủ tướng tốt

Ánh sáng làm đẹp hàng đại chúng

Như Lai có sức thần thông lớn

Ngự trị Trời Rồng Nhơn Phi Nhơn

Lại khởi vô lượng thứ biến hiện

Vì chúng sanh mà vào vương đô

Ai thấy Pháp Vương thạnh như đây

Ba mươi hai tướng trang nghiêm lớn

Mà lại mong cầu hạ liệt thừa

Chỉ trừ người thấp hèn ngu tối

Nay tôi mừng thấy đức Thế Tôn

Phát sanh lòng tin rất thanh tịnh

Vì độ chúng sanh tu Bồ Đề

Cần phải mau đến chỗ Như Lai.

Luật Nghi đồng Tử lại nói kệ đáp lời em:

Ta đối đường sá chẳng phải lười

Mà chẳng mau đến chỗ Như Lai

Chờ ta xuống tòa lầu này

Sẽ ra phía ngoài suy gẫm kỹ

Phải nên bỏ rời tưởng chấp ngã

Lại chẳng luyến tiếc thân mạng mình

Và cầu trí huệ Phật tối thượng

Rồi mới đi đến chỗ Như Lai

Cha mẹ cửa nhà và của báu

Thứ ấy làm người luyến ái nặng

Nay ta đồng thời đều vứt bỏ

Rồi mới đi đến chỗ Như Lai

Nếu người nguyện muốn sẽ thành Phật

Lại rất mến thích đức Như Lai

Phải mau rời bỏ khối trân bửu

Xa rời tục gia đến phi gia.

Nầy Xá Lợi Phất! Trụ Luật Nghi đồng tử nghe lời anh nói xong liền xuống thang lầu để đến chỗ Thắng Hiện Vương Phật. Luật Nghi đồng tử xuống lầu nhanh chóng chạy đến chỗ Phật kính lễ xong Trụ Luật Nghi mới đến.

Bấy giờ Luật Nghi Đồng Tử đem mười ức y phục báu vô giá dâng lên đức Phật và nói kệ rằng:

Nay tôi chẳng cầu các tướng đẹp

Dâng cúng Như Lai y vô giá

Xin nguyện được báo ở đời sau

Đồng Phật Như Lai đây không khác

Tối thắng trong tất cả hàm linh

Khéo ở trong tất cả diệu pháp

Xin nguyện được báo ở đời sau

Đồng Phật Như Lai đây không khác

Đầy đủ tạng trí huệ vô thượng

Khéo ở chánh cần các oai lực

Ba mươi hai tướng thân có đủ

Nguyện mau được thành Phật Vô thượng

Thành tựu chư Phật mười trí lực

Khéo an trụ bốn vô sở úy

Xin nguyện được báo ở đời sau

Đồng Phật Nhu Lai đây không khác

Như chỗ Phật biết pháp chân tịnh

Chỉ Phật khéo ở soi sáng cả

Xin Phật diễn nói pháp ấy cho

Khiến tôi mau ngộ Vô Thượng Giác

Nay tôi chẳng cầu tướng tốt đẹp

Dâng Phật y vô giá tối thượng

Chỉ mong Bồ đề diệu tịch tĩnh

Để độ chư Thiên và nhân thế

Như Lai đã ở pháp vi diệu

Tất cả dị luận không động được

Nay tôi vì cầu pháp như vậy

Nên dâng y vô giá thắng thượng

Các pháp không sanh không lão bệnh

Cũng không rầu buồn lo khổ than

Xin Phật dạy nói pháp tịch tĩnh

Dắt dìu lợi ích trời người vậy

Nếu pháp không có tham sân si

Cũng không kiêu mạn và khác ái

Xin nói Bồ đề và Phật tánh

Pháp vô vi mát mẻ cam lồ

Những pháp Như Lai đã an trụ

Được hàng Thiên Long đều kính lễ

Hoặc có tư lự hoặc vô tư

Xin Phật dạy nói pháp tịch tĩnh

Phật ở tại đây hay chiếu khắp

Bốn phương vô lượng những Phật độ

Như ngọn lửa hừng trong hang tối

Tôi nguyện chứng được cam lộ nầy

Hoặc tất cả những ái vô ái

Tánh thường chẳng nương nơi dục giới

Sắc vô sắc giới cũng chẳng nương

Xin Phật tuyên nói pháp diệu ấy.

Trụ Luật Nghi nghe anh nói kệ xong bèn đem một bộ guốc báu mới dâng cúng Thắng Hiện Vương Như Lai và nói kệ rằng:

Nguyện tôi sẽ vì các quần sanh

Làm cứu làm về làm nhà ở

Chẳng còn lại đi trên đường tà

Hằng dắt bầy mê nói chánh đạo

Nguyện thường chẳng quen các tham dục

Tham dục là đường kẻ ngu đi

Rời hẳn tất cả pháp hữu vi

Hằng gặp Như Lai Phật xuất thế

Đã gặp được đấng soi sáng đời

Phải nên cúng dường Lưỡng Túc Tôn

Cần cầu Vô thượng Phật Bồ đề

Lợi ích cho các quần sanh vậy

Phải đem vô lượng vòng hoa hương

Tràng phan cao đẹp và lọng báu

Dâng hiến vua rồng trong loài rồng

Lợi ích cho các quần sanh vậy

Lại đem các thứ y phục đẹp

Mền nệm uống ăn những thuốc men

Đều mang đem dâng hiến Phật Thế Tôn

Lợi ích cho các quần sanh vậy

Đánh trống lớn nhỏ thổi ốc loa

Hòa tấu tiêu sáo tiếng ca thanh

Đều đem dâng hiến đấng soi đời

Lợi ích tất cả quần sanh vậy

Món ăn thơm ngon rất bổ dưỡng

Thế gian vi diệu thường ưa chuộng

Đều đem dâng hiến đấng cứu đời

Lợi ích tất cả quần sanh vậy

Cúng dường rộng lớn như vậy rồi

Lợi ích vô lượng các chúng sanh

Bấy giờ tôi liền học xuất gia

Siêng năng tu học các phạm hạnh

Sẽ an trụ nơi bát chánh đạo

Lại an vui lượng ức chúng sanh

Nguyện tôi làm chỗ hữu tình nương

Thường chẳng đi trên đường tà vạy

Chư thánh quở rầy rất hạ liệt

Đó là dâm dục tôi bỏ được

Lại sẽ vứt bỏ các phóng dật

Với chẳng phóng dật luôn tu học

Nguyện tôi chẳng sanh vào các nạn

Thường được sanh vào nhà tịnh tín

Đời đời thường thấy đức Thế Tôn

Thấy được Phật rồi rất tin tưởng

Đã tin tưởng Phật rồi cung kính

Đem vòng hoa đẹp và hương thoa

Các thứ âm nhạc cúng dường rồi

Cần cầu trí huệ sâu của Phật

Rộng sắm đồ cúng Phật như vậy

Trải qua vô lượng câu chi kiếp

Dứt hẳn dục lạc bỏ tại gia

Siêng năng tu học hạnh thanh tịnh.

Trụ Luật Nghi đồng tử nói kệ xong, liền tại chỗ của Phật Thắng Hiện Vương xây dựng đạo tràng bằng xích chiên đàn cao đẹp bốn do tuần ngang rộng trang nghiêm đủ kiểu chạm đẹp. Đã lập đạo tràng trang nghiêm xong, đồng tử Trụ Luật Nghi đem dâng Phật Thế Tôn ấy mà nói kệ rằng:

Đức Phật an trụ bốn thứ trụ

Đấng Tối Thắng xưa thường khen ngợi

Nay tôi mừng cầu trụ như vậy

Xin đấng Thiện Thệ từ mẫn hứa

Nếu có an trụ chỗ trụ ấy

Tâm thường biết rõ vô lượng chúng

Và biết đời quá khứ vị lai

Nay tôi mừng cầu trụ như vậy

Nếu ở chỗ ấy đến cứu cánh

Bốn thứ chánh cần bốn thần túc

Và bốn tối thắng vô ngại biện

 Nay tôi mừng cầu trụ như vậy.

Lúc ấy vì thương đong tử ấy nên Phật Thắng Hiện Vương nhận tòa đạo tràng thắng thượng được hiến dâng.Phật cùng Tỳ Kheo tăng vào ở trong ấy.

Thấy Phật và Tỳ Kheo tăng đã nhận và vào ở tòa đạo tràng của bình dân, đồng tử Trụ Luật Nghi rất vui mừng lại đem các thứ cúng dường Thượng Diệu dâng hiến cung kính tôn trọng khen ngợi gấp bội trọn nửa tháng không ngớt nghỉ. Sau đó, ở trước Phật, đồng tử ấy cạo bỏ râu tóc mặc áo ca sa do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia chuyên chí tinh tấn cầu các pháp lành.

Nầy Xá Lợi Phất!Lúc ấy, hai đồng tử cầu pháp lành rồi tâm trí chơn chánh với Vô thượng Bồ đề đều phát hoằng thệ.

Luật Nghi đồng tử phát thệ rằng nguyện tôi thành Phật trước. Phật ấy hiệu Thế Gian Y Hộ phóng đại quang minh.

Trụ Luật Nghi đồng tử phát thệ nguyện rằng nguyện tôi thành Phật trước. Phật ấy hiệu Đại Đạo Thương Chủ cứu độ trời người.

Luật Nghi đồng tử ở trước đức Phật Thắng Hiện Vương đứng chấp tay đại thệ trang nghiêm nói kệ rằng:

Tôi sẽ chẳng còn ngồi yên nữa

Và cũng chẳng dựa thân nằm ngủ

Chuyên ròng cần cầu đạo Bồ đề

Để lợi ích các chúng sanh vậy

Tôi sẽ chẳng kể thân mạng sống

Thường bỏ giải đãi siêng tinh tấn

Chí cầu Vô thượng Bồ đề đạo

Để làm lợi ích các chúng sanh

Giả sử máu thịt đều cạn khô

Da xương gân mạch đều teo gầy

Phải bỏ giải đãi và thân mạng

Siêng cầu đến Bồ đề Vô thượng

Trụ Luật Nghi đồng tử nghe lời anh phát thệ vui mừng hớn hở liền ở trước anh nói kệ rằng:

Nay phải cùng hiệp đồng hòa hảo

Tu hành Bồ đề Vô thượng hạnh

Phát khởi tinh tấn siêng tối thắng

Để lợi ích tất cả quần sanh

Nay tôi giảm lo cho thân mạng

Mặc cho máu thịt lần khô cạn

Phát khởi tinh tấn học theo anh

Để cầu Vô thượng Bồ đề đạo

Tôi sẻ ở riêng rảnh vắng vẻ

Núi rừng hoang vắng siêng tinh tấn

Thường cầu trí tối thắng Vô thượng

Ở ngôi trang nghiêm đại Pháp Vương

Nầy Xá Lợi Phất!Thuở quá khứ ấy hai đồng tử Luật Nghi đại Bồ Tát và Trụ Luật Nghi đại Bồ Tát ở trong pháp hội của Thắng Hiện Vương Như Lai phát hoằng thệ lớn, vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên siêng năng tu hành chánh đạo.

Nầy Xá Lợi Phất! Lúc hai Bồ Tát ấy thực hành tinh tấn, trong thời gian một ngàn năm chưa hề bị sự ngủ nghỉ xen đoạt chừng khoảng đàn chỉ, trong ngàn năm chưa hề có ý muốn nằm nghỉ, trong ngàn năm chưa hề có ý thích ngồi, trong ngàn năm chưa hề có một lần khom lưng ngồi xổm chỉ trừ lúc tiêu tiểu, nếu lúc muốn ăn thì đứng thẳng. Trong ngàn năm chưa hề ăn hai lần, một ngày chỉ ăn một lần, mỗi lần chỉ ăn một vắt và uống một chén nước. Trong ngàn năm chưa hề có ý thích ăn uống như có ý nghĩ rằng nay tôi đói khát cần phải uống ăn thứ ấy. Trong ngàn năm chưa từng có một lần ăn uống quá lượng. Trong ngàn năm chưa hề có quan niệm ăn uống vừa ý: Thứ nầy mặn, nầy lạt, nầy ngọt, nầy đắng, nầy cay, nầy chua, nầy ngon, nầy đở. Trong ngàn năm mỗi khi đi khất thực thì nhứt tâm chánh niệm, chưa hề nhìn ngó mặt người cúng thí, chưa hề có ý nghĩ ai cho ta, là đàn ông hay đàn bà, nhẫn đến đồng nam đồng nữ cũng chẳng nhìn ngó. Trong ngàn năm ở dưới cội cây mà chưa hề ngước mặt ngó hình cây. Trong ngàn năm chưa hề thay đổi y phục để mặcTrong ngàn năm chưa hề có ý tham ý giận ý hại. Trong ngàn năm chưa hề có ý tưởng nhớ thân quyến, hoặc cha hoặc mẹ hoặc anh chị em và các quyến thuộc khác. Trong ngàn năm chưa hề nhớ nghĩ nhà cũ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ ngước xem màu sắc như nguyệt tinh tú mây ráng hư không. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ đem thân dựa nơi cây nơi vách.Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ dùng tô dầu thoa tay chân. trong ngàn năm chưa hề có quan niệm kinh sợ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ thân tâm mỏi mệt. Trong ngàn năm chưa hề có nghĩ lười biếng phóng dật mà chỉ có ý nghĩ nay ta tu hành lúc nào sẽ chứng Vô thượng Bồ đề. Trong ngàn năm chưa hề có một lần thân tâm đau khổ. Trong ngàn năm chưa hề có ý nghĩ tôi muốn cạo tóc, chỉ trừ Tứ Thiên Vương đế dung thần lực lấy tay xoa

tóc mang về cung trời xây tháp báu cúng dường. Trong ngàn năm dầu có chư Thiên Vương hoặc đến hoặc đi mà hai đồng tử Bồ Tát không hề có ý tưởng đến đi. Trong ngàn năm chẳng hề có quan niệm từ trong bóng râm tối đi đến chỗ ánh sáng, từ chỗ nóng nực đến chỗ mát mẻ. Trong ngàn năm dầu là mùa rét lạnh cũng chưa hề có ý tưởng mặc áo dầy ấm. Trong ngàn năm chưa hề có quan niệm luận bàn việc thế gian vô ích.

Nầy Xá Lợi Phất! Trong ngàn năm hai đồng tử Bồ Tát ấy thực hành tinh tấn kiên cố như vậy. Bấy giờ có ác ma tên Ngu Si Niệm, như ngày nay ta xuất thế có ác ma Ba Tuần vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Lúc ấy ác ma vì muốn làm nhiễu loạn nên ở khắp đường kinh hành của Luật Nghi Bồ Tát, ác ma bố trí đầy dao đưa lưỡi nhọn bén lên. Luật Nghi Bồ Tát thấy đường đầy dao hơi quên chánh niệm, có ý tưởng dao nhọn bén. Vì có ý tưởng ấy liền tự giác ăn năn phát âm thanh lớn hai lần xướng rằng: Quái lạ thay tại sao nay tôi lại phóng dật! Âm thanh ấy vang khắp Tam thiên Đại Thiên thế giới. Trên hư không có sẵn trăm ngàn câu chi đồ đảng. Thiên ma nghe tiếng xướng lên của Bồ Tát liền đồng thanh bảo Bồ Tát rằng: Lời phổ cáo của Ngài rất hay rất hay.

Nầy Xá Lợi Phất! Những âm thanh ấy chỉ riêng Luật Nghi nghe, còn trụ Luật Nghi chẳng nghe, đó là do ma lực vậy.

Nầy Xá Lợi Phất!Nghe lời nói của Thiên ma Luật Nghi Bồ Tát phấn phát đại tinh tấn kiên cố đi kinh hành trên đường ấy nhiếp tâm lại chẳng còn nghĩ tưởng đến dao nhọn, hàng phục ma oán ấy xong. Luật Nghi Bồ Tát an trụ oai nghi như vậy, thật hành diệu hạnh như vậy, tu đạo tích như vậy, khởi đại bi như vậy, phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy chưa hề thôi nghỉ.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Hai bồ Tát ấy ở trong pháp hội Phật Thắng Hiện Vương vì thực hành Tỳ lê gia Ba la mật nên đều thành tựu đại bi dũng mãnh. Lại trong ngàn năm ở rừng vắng rảnh tu tập Phật tùy niệm. Sau thời gian ấy Phật Thắng Hiện Vương nhập Niết-bàn. Chư Thiên đến báo tin ấy với hai Bồ Tát. Hai Bồ Tát ấy liền đến chỗ đức Phật nhập diệt đứng chấp tay chiêm ngưỡng đức Như Lai chẳng rời mặt, lòng rất mến luyến kính trọng và nghĩ rằng: Đức Như Lai xuất thế đại từ bi che chở chúng sanh đồng như nhà ở, sao Phật sớm nhập Niết-bàn khiến chúng tôi không chỗ nương không chỗ nhờ.

Nầy Xá Lợi Phất! Hai Bồ Tát ấy đứng trước đức Phật luyến mến kính ngưỡng trọn bảy ngày bảy dêm chưn chẳng dợi động chẳng xiết cảm thương, liền mạng chung sanh lên cõi Phạm Thiên. Đã được thân Phạm Thiên có sức trí biết đời trước, liền dùng thần thông đến hội Niết-bàn, hai vị ấy vì Xá lợi,của Phật Thắng Hiện Vương mà xây tháp báu cao lớn cực trang nghiêm mãn bốn mươi ngàn năm mới hoàn thành, trên tháp treo nhiều lọng tròn.

Xây tháp xong, hai Bồ Tát ấy rất vui mừng đứng chấp tay chiêm ngưỡng mến kính mãi đến bảy mươi ngàn năm mới cúi đầu đảnh lễ. Do đó hai Bồ Tát mạng chung đều sanh về nhà Chuyển LuânVương ở Thiện Bộ Châu. Lúc sơ sanh hai Bồ Tát nhớ những sự việc quá khứ liền nói rằng:Nay tôi phải an trụ nơi pháp bất phóng dật tối thượng đệ nhứt. Hai bồ Tát ấy lại nói kệ tự răn mình rằng:

Nay tôi sanh nhà vua Chuyển Luân

Của cải rộng lớn đều như ý

Phải nên xả bỏ những phóng dật

Cần cầu Vô thượng Bồ đề đạo

Của báu sắc dục và ngôi vua

Vô thường mau chóng trong giây lát

Người trí chẳng ham thích thứ ấy

Siêng tu Vô thượng Phật Bồ đề

Với của báu nếu chẳng ham ưa

Vì lợi chúng sanh cầu Phật quả

Phải mau rời nhà cầu xuất gia

Tu hành thắng diệu hạnh thanh tịnh

Thuở quá khứ xưa vô lượng kiếp

Đam mê ngũ dục làm phước đức

Hoặc sanh lên trời hoặc nhơn gian

Chưa hề có lòng chán ngũ dục

Phải bỏ ngũ dục và ngôi vua

Cha mẹ quyến thuộc và của báu.

Bỏ cả quốc thành và quan quân

Xuất gia cần cầu chứng Phật quả.

Nầy Xá Lợi Phất! Hai Bồ Tát sơ sanh ấy thân hình đoan chánh bằng đồng tử mười sáu tuổi, liền cạo tóc đắp y ca sa do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia, trọn hai mươi ngàn năm siêng tu phạm hạnh. Sau đó mạng chung lại sanh trời Phạm Thiên. Mãn báo trời lại sanh nhân gian. Thuở ấy ở Thiện Bộ Châu có Phật xuất thế hiệu Diệu Hương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Được gặp Phật, hai bồ Tát liền theo Phật xuất gia mãn câu chi năm tu hành phạm hạnh.

Thứ đệ như vậy có mười ngàn đức Phật xuất thế, Luật nghi Bồ Tát đều được gặp Phật.và đều theo Phật xuất gia tu phạm hạnh trồng các cội lành luôn siêng tinh tấn.

Trụ Luật nghi Bồ Tát đời đời sanh đồng chỗ với anh và đều tu thánh đạo, chỉ trừ chẳng tu phạm hạnh nơi một đức Phật. Do đó Luật Nghi Bồ Tát thành Phật trước xuất hiện ra đời hiệu Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thọ chin mươi câu chi tuổi, đệ tử Thanh Văn có chín mươi na do tha câu hội.

Nầy Xá Lợi Phất! Thuở Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai xuất thế thì Trụ Luật Nghi Bồ Tát làm Chuyển Luân Vương oai thế khắp bốn phương đủ phước đức lớn. Vương rất tin kính đức Phật, sắm những y phục đồ ăn uống thuốc men và nhiều thứ cần dùng trọn ba tháng cúng dường tôn trọng tán thán đức Phật và Tỳ Kheo Tăng. Đức Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai thọ sự cúng dường ấy và vì muốn giác ngộ Chuyển Luân Vương nên nói kệ rằng:

Nếu muốn chứng được các Phật pháp

Tinh tấn dũng mãnh là trên hết

Các loài hàm sanh tham ngũ dục

Có mong cầu chi khó quả toại

Nếu cầu nghĩa lợi nơi ngũ dục

Người trí nên biết không nghiã lợi

Vua nay ở tại không nghĩ lợi

Cầu thắng nghĩa lợi chẳng thể được

Xưa Phật cùng vua là anh em

Đều phát hoằng thệ cầu Bồ đề

Thuở ấy tranh đua cùng ước hẹn

Ai sẽ mau được thành Phật trước

Nay vua thấy Phật chứng Bồ đề

Chuyển thắng pháp luân cho đại chúng

Vua còn ngập chìm nhà ngũ dục

Hoang dâm nữ sắc luôn thủ hộ

Chư Phật quá khứ thường tuyên nói

Người trí chớ nên ham ngũ dục

Nên ta luôn luôn siêng xa rời

Chưa hề theo cầu làm phóng dật

Vua thấy biết sai làm vô nghiã

Nên thường ở lại nghiệp vô nghĩa

Tham dục gây khổ vua mãi mê

Ly dục thanh tịnh được thánh ngợi

Nghe đức Xí Nhiên Tinh Tấn nói kệ xong, Chuyển Luân Vương ấy liền giác ngộ thấy rõ lỗi tham dục cầu mong xuất gia, trọn chẳng giả từ vợ con quyến thuộc đại thần các tiểu vương, cũng chẳng đoái nghĩ quốc gia nhân dân kho tàng châu báu, vua đứng lên đến trước đức Phật nhứt tâm chắp tay nói kệ rằng:

Tôi sẽ bỏ hết nhà lẫn nước

 Cần đến chỗ vắng đến ngày chết

Thà để da thịt đến khô khan

Để làm nhơn duyên Bồ đề Phật

Lại phải tinh tấn đại dũng mãnh

Lợi ích vô lượng các quần sanh

Vứt bỏ tại gia đến phi gia

Sẽ ở vô vi chỗ trống vắng

Chẳng thích đeo theo các ngũ dục

Tệ ác dối gạt kẻ ngu phu

Vì ta sa chìm trong bùn dục

Nên nay bịt mặt mà theo sau

ngũ dục kho báu và ngôi vua

Tất cả đồng thời đều vứt bỏ

Tức thời ở trong thành giáo Phật

Chuyên lo tinh tu đạo Vô thượng

Ai người có trí lại gần dục

Ai học chánh pháp làm hữu vi

Khiến tôi tu hành tinh tấn rồi

Chẳng mau thành Phật tham ngũ dục

Vì thế tôi bỏ các dục lạc

Ngôi vua của báu đều trừ dứt

Cần theo Phật giáo đến phi gia

Làm nhơn duyên Phật Bồ đề vậy

Nói kệ xong, Chuyển Luân Vương ấy ở chỗ đức Phật Xí Nhiên Tinh Tấn cạo bỏ râu tóc mặc ca sa do lòng tin thanh tịnh mà xuất gia rồi đến chỗ vắng vẻ siêng tu phạm hạnh. Lại có sáu mươi câu chi trăm ngàn chúng sanh nghe Chuyển Luân Vương xuất gia học đạo,họ cũng khởi lòng tin thanh tịnh theo vua xuất gia siêng tu phạm hạnh.

Nầy Xá Lợi Phất! đức Xí Nhiên Tinh Tấn Như Lai ở đời giáo hóa lâu sau thì nhập Niết-bàn. Chuyển Luân Vương Tỳ kheo thấy Phật diệt độ thương cảm mến tiếc xây bửu tháp cúng dường Xá lợi, ít lâu sau mạng chung sanh cung trời Đâu Suất rồi lại sanh nhân gian thành Vô thượng Chánh giác hiệu Diệu Hạnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thọ một câu chi tuổi, đệ tử Thanh

Văn có câu chi na do tha hội đều là đại A La Hán, trăm ngàn chúng đại Bồ Tát đều chẳng thối chuyểnVô thượng Bồ đề, giáo hóa vô lượng vô số chúng sanh, việc đáng làm đã làm xong, Đức Diệu Hạnh Như Lai nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế hơn một kiếp, Xá lợi lưu bố lợi ích chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Chư đại Bồ Tát thực hành Tỳ lê gia Ba la Mật an trụ chánh cần hành Bồ Tát đạo, phải nên y theo sự tu học tinh tấn dũng mãnh không mỏi của Luật Nghi đại Bồ Tát, chớ có làm theo chúng sanh tham lam bỏn xẻn mê gặm xương khô kia.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát thích cầu Bồ đề, với nhà thí chủ chớ nên tham lẫn. nếu lúc mất chánh niệm mang lòng tham lẫn phải liền quan sát ba điều đáng sợ. Những gì là ba điều đáng sợ?

Nơi nhà thí chủ thường lai vãng, hoặc nhơn khất thực, hoặc lại đàm thoại triền miên chẳng thôi bèn thành thân hảo. khi thấy Tỳ kheo hiền thiện khác đến, vì tham lẫn nên ganh ghét, hoặc có lúc hay giận hờn. Do cớ ấy phải biết là nhiếp thọ nghiệp đạo khổ ở địa ngục, phải biết là gieo giống sanh manh tại tâm điền, phải biết là nghiệp sanh biên địa.

Nầy Xá Lợi Phất! Nay Phật lại vì ông mà nói tướng dạng ấy.

Bồ Tát tham lẫn ấy thấy Tỳ kheo hiền thiện đến nhà thí chủ mình liền sanh lòng ganh ghét giận hờn. Trong lòng dầu giận mà ngoài mặt giả vui đàm luận, lòng thì bỏn xèn mà thân luôn kề cận hầu tiếp, nhưng lại đứng lỗ khuất lỏ mắt nhìn, hoặc đem sự chẳng thiệt vu cáo hủy báng. Những hành động như vậy phải biết là nghiệp đạo địa ngục, là gieo giống sanh manh vào nội tâm, là nghiệp sanh biên địa chịu khổ sở, bị báo sanh manh hủy nhục ngày đêm cực khổ bị người sai khiến.

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ở nơi nhà thí chủ nếu khởi lòng tham lẫn ganh tị, thì phải suy nghĩ ba diều đáng sợ ấy”.

Trưởng lão Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lạ thay thật chưa từng có. Chư đại Bồ Tát rất là hi hữu mới được gặp đức Như Lai nói phát pháp xuất yếu nơi nhà thí chủ sanh tham lẫn ấy. Lành thay đức Thế Tôn, xin vì hàng Thanh Văn chúng tôi mà nói chánh pháp rời lìa tướng tham lẫn nơi nhà thí chủ. Tại sao? Vì Thanh Văn chúng tôi cũng muốn thoát khỏi báo khổ địa ngục sanh manh và biên địa mà được sanh vào trung quốc loài người. Chúng tôi đều muốn nghe chánh pháp xuất ly tham lẫn nơi nhà thí chủ. Xin đức thế Tôn chẳng bỏ rơi chúng tôi mà tuyên dạy cho”.

Đức Phật phán:” lành thay lành thay, nầy Xá Lợi Phất! rất là hi hữu, nay các ông có thể an trụ nơi không a dua mà thỉnh hỏi đức Như Lai về nghiã như vậy. Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói cho.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sanh muốn theo Phật học Phật pháp đức Phật liền vì họ mà tuyên dạy. Tại sao? Vì những chúng sanh có thể theo Phật tu học, đức Phật chẳng trái ý họ, quyết hiện ra trước họ để thuyết pháp.

Lại nầy Xá Lợi Phất!Nếu có chúng sanh chẳng muốn theo Phật học chánh pháp, nếu đức Phật thuyết pháp cho họ nghe, họ sẽ chẳng chịu tin mà còn gây nên căn bổn tranh đấu.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thành tựu lòng tin thanh tịnh thật hành Tỳ lê gia Ba la mật, ở nơi Phật pháp có lòng tin thanh tịnh lâu ngày thường thích quán sát, vì muốn cứu tế chúng sanh nên đến chỗ Phật ân cần trịnh trọng hỏi nghĩa giải nghi. Đức Phật có nói pháp chỉ đều ưa thích lắng nghe, nghe pháp xong lại phát khởi lòng tin sâu rộng thanh tịnh vui mừng hớn ở càng thêm tinh tấn thọ trì chánh pháp tu hành đúng pháp.

Nầy Xá Lợi Phất đời sau, các đệ tử của ta ít có Tỳ Kheo nào thâm tâm mong cầu pháp Niết-bàn tịch tịnh, phần đông y theo ba sự nghiệp. Một là thường thích theo cầu danh lợi thế gian. Hai là tham ưa bè đảng theo cầu thí chủ qua lại chẳng ngớt. Ba là ưa thích theo cầu nhà cao cửa đẹp chứa cất của tiền vàng bạc châu báu và các thứ đồ dùng. Đây là y chỉ theo cầu ba sự.

Nầy Xá Lợi Phất! Các Tỳ Kheo ấy vì y chỉ ba sự như vậy nên chẳng thoát khỏi ba ác đạo.

Nầy Xá Lợi Phất! Các Tỳ Kheo ấy chẳng muốn thoát khỏi địa ngục, bàng sanh ngạ quỷ, mà họ trở lại thích siêng tu pháp dứt đường sanh cõi trời, họ lại siêng làm những sự tranh luận ly gián chê mắng lần nhau, họ lại ưa gần các ác hữu lòng tin chẳng thanh tịnh bỏ chỗ thanh vắng mà ở nơi náo nhiệt, cùng người tục kết bè đảng. Các nhà tục bảo: Nầy trưởng lão nên thường đến nhà, tôi sẽ cung cấp tứ sự cúng dường. Còn các trưởng giả ở nơi thanh vắng ấy chẳng chịu giao tế với người thế tục, chúng tôi làm sao thăm hỏi được.

Vì thế nên các Tỳ Kheo ấy càng thân cận tại gia, cùng nhau chuyện trò toàn những sự phiền tạp thế tục.

Nầy Xá Lợi Phất! Các ác Tỳ kheo ấy thích ở chung và giao thiệp với hạng người bất lương, tham trước chỗ ở chẳng hề di chuyển. Họ tìm nhiều bè đảng và luôn thăm viếng nhà thí chủ, đích thân đi mừng đi điếu, do đó mà thầm kín thân ái nhau. Khi có khách Tỳ Kheo đến thì không cung cấp lại buông lời chê trách phi pháp. Mà khách Tỳ kheo thiệt là bực Hiền Thánh. Ác Tỳ Kheo ấy cũng chẳng xưng hô ngài là người đa văn giới đức thanh tịnh, cũng chẳng xưng hô ngài là bực Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán.

Nầy Xá Lợi Phất! Các ác Tỳ Kheo ấy ở trong pháp của

Phật mà chẳng tu pháp của Phật. Không có việc gì khác, mà chỉ ưa chê bai mắng nhiếc chẳng thôi. Các người tại gia bè đảng của ác Tỳ Kheo ấy lại nói rằng: Những khách Tỳ Kheo chưa hề ở chung và đến lui thân thiện với chúng tôi cùng kinh lý sự việc với nhau, vì lẽ ấy nên chúng tôi chỉ nên cùng các Tỳ Kheo cựu trụ bao bọc nhau và mượn oai thế nhau.

Nầy Xá Lợi Phất! Vì những lý do ấy nên các ác Tỳ Kheo đối với kinh điển nầy, hoặc hiểu hoặc chẳng hiểu, họ đều luôn luôn hủy báng chẳng tin.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Nếu có người lắng nghe kinh điển được Như Lai diễn nói những pháp môn văn cú sai biệt như vậy, nghe rồi vui thích tin hiểu không nghi lầm thì quyết có thể rời bỏ những kẻ ác như trên và cũng rời bỏ những nghiệp phải đọa ác đạo.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành tinh tấn dũng mãnh không mỏi lắng nghe đức Phật nói những tướng tham rít nghiệp đọa vào ác đạo ấy rồi bèn chẳng tự hành động những sự tham lẫn nơi nhà thí chủ, huống là bảo người khác làm.

Đây gọi là đại Bồ Tát chuyên cần chẳng mỏi tu hành Tỳ lê gia Ba la mật, phải nên học như vậy.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát chuyên cần không mỏi, lúc tu tập Tỳ lê gia Ba la mật, với các chúng sanh tưởng là người bệnh vì họ thường bị ba thứ nhiệt não làm khổ luôn.

Những gì là ba thứ nhiệt não? Đó là tham dục nhiệt não, sân khuể nhiệt não và ngu si nhiệt não.

Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay tôi phải dùng chánh pháp vô thượng thuốc cao vô não nầy thoa cho các chúng sanh nhiệt não. Nhờ chánh pháp Vô thượng, thuốc cao mát mẻ vi diệu nầy, thoa vào thì các chúng sanh ấy sẽ dứt trừ những tham sân si nhiệt não.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành Tỳ lê gia Ba la Mật có vô lượng tướng dạng, nay Phật sẽ lược nói.

Đại Bồ Tát thường nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh đều là những người bệnh, vì thường bị nhiệt não bởi ba độc tham sân si vậy. Những chúng sanh sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là bị tham sân si ấy làm nhiệt não. Những chúng sanh sanh lên trời hay nhơn gian cũng đều bị ba độc ấy đốt khổ. Nếu có chúng sanh thành tựu nghi kiến thì cũng thường bị ba độc đốt khổ.

Nầy Xá Lợi Phất! Các chúng sanh bị bệnh phiền não, chẳng phải các lương y khác và diệu dược thù thắng khác có thể trị lành, có thể làm lửa nóng tham sân si lặng tắt được

Chỉ có đức Như Lai đại y vương Vô thượng thắng diệu và đại Bồ Tát chứng pháp thân dùng sức đại nguyện tự nghiêm trì thân mình làm lương dược rồi mới trừ được bệnh nhiệt não tham sân si cho tất cả chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Theo ý của ông thì chúng sanh giới nhiều hay là địa giới v.v… nhiều?

– Bạch đức Thế Tôn! Theo tôi hiểu diệu nghĩa của đức Phật nói, chúng sanh giới nhiều, chẳng phải địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới có thể so sánh bằng được.

– Nầy Xá Lợi Phất! Đúng như lời ông nói: chúng sanh giới nhiều, chẳng phải địa giới v. v… nhiều. Nay ta lại nói tướng dạng ấy.

Nầy Xá Lợi Phất! Có các chúng sanh thân hình vi tế khó thấy được, mắt thần của các thần tiên cùng thiên nhãn của Thanh Văn, Độc Giác đều chẳng thể thấy, chỉ có thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai là soi rõ được.Tịnh thiên nhãn của Như Lai thấy rõ những chúng sanh vi tế ấy chừng bằng dung lượng của một bánh xe, số ấy vô lượng nhiều hơn số trời và người trong toàn cõi Tam thiên Đại Tthiên thế giới.

Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh giới vô lượng vô biên như vậy, nhẫn đến tất cả chúng sanh trong Tam thiên Đại Thiên thế giới, hoặc noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hoặc có sắc không sắc có tưởng không tưởng, hoặc phi hữu tưởng phi vô tưởng, hoặc khả kiến hoặc bất khả kiến, nhẫn đến bao nhiêu chúng sanh giới giả danh kiến lập, giả sử trong khoảng sát na, tất cả số lượng chúng sanh giới ấy, không trước không sau đồng thời đều được thân người và đều thành lương y cả và đều thọ một kiếp, tất cả đều thông suốt y đạo, giỏi luyện phương thuốc làm đại y sư giỏi trị lành các bệnh tật như thần y Kỳ Bà hiện nay. Các đại y sư ấy chung nhau nghị luận phương dược muốn chữa trị bệnh nhiệt não tham sân si của một chúng sanh. Giả sử mỗi mỗi đại y sư ấy đều mang diệu dược thanh lương lượng bằng núi chúa Tu-di chăm sóc chữa trị thoa đắp cho con bệnh tận y thuật của mình cho đến dùng hết số lượng diệu dược ấy, cũng chẳng chữa lành được bệnh nhiệt não tham sân si của một chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian thấy các chúng sanh bị bệnh phiền não, đức Như Lai chỉ nói một pháp môn bất tịnh quán, Chánh pháp Vô thượng, thuốc cao vô não để thoa đắp, có vô lượng chúng sanh trừ diệt được bệnh nhiệt não tham dục. Thoa đắp trị cho vô lượng trăm chúng sanh, vô lượng ngàn chúng sanh, vô lượng trăm ngàn chúng sanh, vô lượng câu chi chúng sanh, vô lượng trăm câu chi chúng sanh, vô lượng ngàn câu chi chúng sanh, vô lượng trăm ngàn câu chi chúng sanh, vô lượng câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng trăm câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng trăm câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng ngàn câu chi na do tha chúng sanh, vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh, nhẫn đến vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, nhờ pháp bất tịnh quán mà tham dục nhiệt não đồng thời trừ dứt.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chỉ nói một pháp môn từ bi quán, Vô thượng chánh pháp diệu dược thanh lương dùng để thoa đắp. Có vô lượng chúng sanh nhờ pháp dược ấy mà trừ được bệnh sân khuể nhiệt não. Nhẫn đến có vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh nhờ pháp từ bi quán mà sân khuể nhiệt não đồng thời trừ dứt.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Như Lai chỉ nói một pháp môn nhơn duyên quán chánh pháp

Vô thượng diệu dược thanh lương dùng để thoa đắp, có vô lượng chúng sanh, nhẫn đến có vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh dứt trừ được bệnh nhiệt não ngu si.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Như vừa rồi đức Phật nói đại Bồ Tát chứng pháp thân dùng nguyện lực nghiêm trì thân mình mà làm lương dược dùng trừ dứt bệnh nhiệt não tham sân si cho vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh. Nay đức Phật lại nói tướng dạng ấy. Ông nên lắng nghe.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta nhớ quá khứ trước vô số kiếp, có Phật xuất thế hiệu Nhiên Đăng Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Nầy Xá Lợi Phất! Thuở ấy đức Nhiên Đăng Như Lai thọ ký cho ta đời sau quá vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ mười hiệu. Được Phật Nhiên Đăng thọ ký xong, ta chứng pháp thân thành tựu. Sau khi Phật Nhiên Đăng diệt độ, ta làm Đế Thích tên Vi Diệu Nhãn được oai thế tự tại ở trời Đao Lợi, Có thần thông lớn oai đức lớn chư thiên quyến thụôc đông nhiều.

Nầy Xá Lợi Phất! Thuở ấy ở Thiệm Bộ Châu có tám muôn bốn ngàn đại thành và vô lượng thôn ấp thị trấn và vô lượng trăm ngàn câu chi na do tha chúng sanh, nhân vật đông đúc rất hưng thạnh. Bấy giờ có bệnh dịch lớn xuất hiện, nhiều chúng sanh mắc phải bệnh dịch nặng. Có vô lượng y sư dược sư tận lực cứu chữa, nhưng bệnh vẫn không dứt. Các chúng sanh mang bệnh ấy chẳng gặp lương y bị bệnh hành đau khổ, không ai cứu hộ, không chỗ về nương, họ đồng kêu la lên khóc rằng: Nay tôi mắc lấy bệnh khổ nầy, xứ nào có Trời Rồng Dạ Xoa Quỉ Thần lại từ bi trừ bệnh cho tôi. Nếu trừ được bệnh tôi sẽ chẳng tiếc tất cả của cải châu báu, sẽ hậu tạ lương y và thuận theo sự dạy bảo. Lúc ấy ta ở trời Đao Lợi do tịnh thiên nhãn thấy vô lượng chúng sanh bị nhiều bệnh dịch quá đau khổ, và do tịch thiên nhĩ nghe suốt lời khóc than kêu cầu của họ.

Nầy Xá Lợi Phất! Thuở ấy, khi ta thấy và nghe sự việc ở nhân gian như vậy, với các chúng sanh ấy, ta phát khởi đại bi mà nghĩ rằng: Sao mà quá khổ, vô lượng vô biên chúng sanh như vậy mắc phải bệnh nặng không nơi nương cậy, không người cứu hộ, không chỗ nương về, không ai chữa lành. Nay ta quyết định làm nơi nương cậy, làm người cứu hộ, làm chỗ nương về và làm y sư chữa lành bệnh cho họ. Ta liền ẩn thân hình Đế Thích cao lớn mà hóa sanh làm thân chúng sanh to lớn tên Tô Ma nơi Thiệm Bộ Châu cách đại thành Câu Lô chẳng xa. Thọ sanh xong, ta ở hư không nói kệ phổ cáo tất cả chúng sanh ở Thiệm Bộ Châu rằng:

Cách thành Câu Lô chẳng mấy xa

Có thân to lớn tên Tô Ma

Nếu ai ăn được thịt thân ta

Tất cả bịnh khổ đều trừ dứt

Nó không giận hờn không làm hại

Vì làm lương y mà thọ sanh

Mọi người nên mừng chớ kinh nghi

Tùy ý xẻo thịt ăn trừ bịnh

Lúc ấy vô lượng chúng sanh trong tám vạn bốn nghìn đại thành các thôn ấp thị tứ, những kẻ đang mắc bịnh khổ nghe tiếng phổ cáo ấy đồng kéo nhau đến bên thân Tô Ma Bồ Tát đua nhau dùng dao bén cắt xẻo thịt. Đương lúc bị xẻo cắt, nơi thân thịt Tô Ma Bồ Tát phát âm thanh lớn nói kệ rằng

Nếu do đây sẽ chứng Bồ đề

Tạng trí sẽ thành vô tận tạng

Tùy tôi phát nguyện lời chí thành

Cũng nguyện thân thịt thường vô tận.

Nầy Xá Lợi Phất! Lúc ấy tất cả chúng sanh ở Thiệm Bộ Châu vì bị bịnh bức khổ nên họ tranh nhau hoặc xẻo hoặc chặt từng khúc thịt nơi thân Tô Ma Bồ Tát rồi hoặc ăn hoặc gánh đem đi. Dầu bị chặt xẻo nên vì nguyện lực nên cắt xẻo bao nhiêu thì thịt sanh ra bấy nhiêu không hề khuyết giảm.

Nầy Xá Lợi Phất! Các chúng sanh ấy được ăn thịt Tô Ma Bồ Tát rồi tất cả đều lành bịnh, tâm an vui thân thể không biến đổi. Bấy giờ tất cả nhơn dân ở Thiệm Bộ Châu hoặc nam hoặc nữ đã được ăn thịt của Tô Ma Bồ Tát mà lành bịnh đều tự nghĩ rằng Tô Ma nầy có ơn rất lớn đối với chúng ta, trừ bịnh khổ cho ta, ban ta sự an vui, ta phải sắp đặt cúng dường thế nào để đáp ơn ấy.. Họ cùng nhau tụ tập bên thân Tô Ma Bồ Tát ở thành Câu Lô mà nói kệ rằng:

Ngài là nương cậy là cứu hộ

Ngài là lương y là diệu dược

Xin thương mà dạy bảo chúng tôi

Cúng dường thế nào đáp ơn nặng.

Nầy Xá Lợi Phất! Lúc ấy ta thấy chúng sanh được lành bệnh an vui mà mang ơn nặng qui y với ta. Ta liền diệt thân Tô Ma trở lại thân Đế Thích đứng trước họ oai quang sáng rỡ bảo họ rằng: Nếu do thịt nơi thân của ta mà đượchết bịnh khổ, mọi người mang ơn mà muốn báo đền. Ta chẳng phải vì quốc độ ngôi vua thành ấp nhà cửa mà cứu mọi người đem thịt nơi thân mình bố thí, cũng chẳng vì vàng bạc châu báu mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì voi ngựa bò dê các súc vật mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì nam nữ đồng bộc nô tỳ mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì món ăn uống y phục giường nệm thuốc men mà thí thịt thân mình, cũng chẳng vì vườn rừng đất đai ao hồ nhà cửa cùng các đồ cần dùng mà bố thí thịt thân mình. Ta sở dĩ thương mọi người mắc bịnh khổ mà bố thí thịt thân mình để chữa lành đó là vì muốn chúng sanh rời nghiệp bất thiện. Mọi người nếu có thể vì ta mà rời hẳn rời hẳn các nghiệp sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham gian, sân hận và tà kiến thì tức là lợi ích cho ta cũng tức là báo ơn ta vậy.

Đế Thích lại đối đại chúng mà nói kệ rằng:

Ta vốn chẳng vì khối trân bửu

Chẳng vì thành ấp cùng quốc độ

Cũng chẳng phải vì thiên ngọc nữ

Chẳng vì áo cơm giường nệm nằm

Muốn báo Tô Ma Bồ Tát ơn

Chỉ nên tôn trọng đồng hòa hiệp

Đều có từ tâm kính mến nhau

Chuyên tu mười nghiệp lành tịnh diệu

Mọi người phải trì mười nghiệp lành

Luôn luôn hoà hiệp phòng giữ chặt

Đây gọi là pháp cúng dường lớn

Vì Bồ Tát chẳng cầu của cải

Ta chẳng dùng của báu thế gian

Chẳng dùng ăn ngon và mặc đẹp

Chẳng dùng voi ngựa và xe cộ

Chẳng dùng giường nệm đồ trang sức

Mọi người cùng nhau đồng hòa hiệp

Giữ gìn thanh tịnh mười nghiệp lành

Cùng nhau phát khởi đại từ tâm

Mình người đồng tu lòng lợi ích

Nầy Xá Lợi Phất! Nghe ta nói kệ xong, mọi người ở Thiệm Bộ Châu thuở ấy vì cảm ơn đức, nên họ đảnh lễ nơi chưn ta mà cùng thọ trì mười nghiệp đạo lành thanh tịnh vi diệu.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta nhớ rõ tất cả những người ở Thiệm Bộ Châu thuở ấy được ăn thịt Tô Ma Bồ Tát, từ đó đến nay chưa hề có một người bị đọa ác đạo, họ đều sanh lên trời Đao Lợi và vì nghiệp duyên trước nên luôn cùng ta chung sanh. Thuở ấy ta lại vì thiên chúng ấy mà diễn dạy chánh pháp làm cho họ đều được an trụ nơi ba thừa thánh đạo: hoặc Thanh Văn thừa, hoặc Độc Giác thừa, hoặc có người an trụ nhứt thừa Vô thượng Bồ đề. Các chúng ấy hoặc đã nhập Niết-bàn, hoặc sẽ nhập Niết-bàn, hoặc hiện nhập Niết-bàn.

Nầy Xá Lợi Phất! Ta quan sát đại Bồ Tát an trụ pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên thành tựu đại thần thông như vậy, thành tựu đại oai đức như vậy, thành tựu đại thế lực như vậy, mới có thể chỉ xả thí một thân thịt mà thành thục được vô biên chúng sanh đều an trụ nơi ba thừa thánh đạo được chẳng thối chuyển>>.

Trưỡng Lão Xá Lợi Phất bạch rằng: « « Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là tướng dạng của đại Bồ Tát thật hành Tỳ Lê Gia Ba la mật chuyên cần tu tập được pháp thân? Mong đức Thế Tôn dạy cho.

– Này Xá Lợi Phất! Tướng pháp thân của Đại Bồ Tát không sanh không tử kiên cố không hư hoại như chất kim cương chẳng thể nghĩ bàn được. Nhưng vì hóa độ những chúng sanh thân hư hoại mà chư pháp thân đại Bồ Tát hiện thân hư hoại, còn muốn hóa độ hàng thân chẳng hư hoại thì lại hiện thân bất hoại. Nhưng pháp thân ấy viên thành đầy đủ, lửa chẳng cháy được, dao chẳng đứt được, như chất kim cương kiên cố.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát an trụ pháp thân vì thật hành Tỳ lê gia ba la mật nên tinh tấn không mỏi, chẳng phải là có công dụng chỉ dùng thân mình thì có thể thành thục vô lượng chúng sanh chẳng cần phải vọng tâm suy nghĩ phân biệt. Chính Bồ Tát này thân tự có thể hay biết, trọn các thân tướng tùy nhập tự thân chơn như pháp tánh, tự thân chơn như tùy nhập chư Pháp chơn như, chư Pháp chơn như tùy nhập tự thân chơn như, tự thân chơn như tùy nhập chư Phật chơn như, chư Phật chơn như tùy nhập tự thân chơn như, tự thân chơn như tùy nhập khứ lai hiện tại chơn như, khứ lai hiện tại chơn như tùy nhập tự thân chơn như. Lại quá khứ chơn như chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như cũng chẳng trái quá khứ chơn như, quá khứ chơn như chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tạI chơn như cũng chẳng trái quá khứ chơn như. Vị lai chơn như chẳng trái quá khứ chơn như, quá khứ chơn như cũng chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tại chơn như cũng chẳng trái vị lai chơn như. Hiện tạI chơn như chẳng trái quá khứ chơn như, quá khứ chơn như cũng chẳng trái hiện tại chơn như, hiện tại chơn như chẳng trái vị lai chơn như, vị lai chơn như cũng chẳng trái hiện tại chơn như. Lại khứ lai hiện tại chơn như tức là uẩn xứ giới chơn như. Uẩn xứ giới chơn như tức nhiễm ô thanh tịnh chơn như. Lưu chuyển tịch diệt chơn như tức gia hạnh chơn như. Gia hạnh chơn như tức nhứt thiết hạnh chơn như. Nhứt thiết hạnh tức là chơn như, chơn như tức là nhứt thiết hạnh.

Này Xá Lợi Phất! Chơn như tức là thiệt tánh, là như tánh, là phi bất như tánh, là bất viễn ly tánh, là vô pháp động Tánh, là vô nhiễm loạn tánh, là bất tương vi tánh, là vô vi tránh tánh.

Này Xá lợi Phất! Chơn như là không chỗ vi tránh. Do vì không vi tránh mà gọi là chơn như vậy, nhưng chư Như Lai nói là vi tránh.

Này Xá Lợi Phất! Chơn như gọi là tùy thuận nhiếp thọ, tại sao Như Lai lại nói là vi tránh? Vì Như Lai trái với tất cả tránh vậy. Do đó mà Bồ Tát thường hiện tất cả vi tránh. Chư Như Lai vốn không vi tránh cũng chưa hề phát khởi. Tại sao? Vì không vi không tránh nên gọi là Như Lai vậy, nhưng lại thường hiện các sắc tượng vi tránh, chẳng phải Như Lai có động loạn.

Chư đại Bồ Tát dùng trí như thiệt quán thân Như Lai bình đẳng pháp tánh tức tự thân bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự thân bình đẳng pháp tánh quán Như Lai bình đẳng pháp tánh. Lại ở nơi tự thân bình đẳng pháp tánh quán các thân và phi thân, ở nơi tất cả các thân và phi thân quán thân bất tư nghì kia. Đại Bồ tát ở nơi pháp duyên sanh rõ thấu tất cả thân, đã rõ thấu rồi dẫn nhiếp pháp thân.

Đương lúc đại Bồ Tát dẫn nhiếp pháp thân ấy, đức Phật gọi họ chứng được pháp thân. Đã chứng pháp thân thì có thể thị hiện thân uẩn xứ giới. Phải biết thân uẩn xứ giới ấy là do pháp thân hiển hiện vậy?

Vì thế nên, này Xá Lợi Phất! Tất cả chúng sanh nếu có ai được gặp thân ấy, hoặc thấy hoặc nghe đều liền điều phục, lúc chạm xúc thân ấy, có thể khiến chúng sanh làm những pháp lành nghĩa lợi.

Lại này Xá Lợi Phất! Như hiện nay thần y kỳ Bà họp các vị thuốc hòa lại làm hình tượng nữ nhơn đẹp xinh ai thấy cũng thích. Do thần y khéo nắn khéo trang sức nên tượng nữ nhơn ấy dầu không tư lự không phân biệt mà có tác động qua lại đi đứng ngồi nằm. Các nhà hào quí vua quan trưởng giả có bịnh tật đến nhà thần y. Thần y khám bịnh xong, đem tượng nữ nhơn ban cho người bịnh. Người bịnh tạm thời ôm ấp tượng nữ nhơn ấy thì tất cả bịnh tật đều tiêu trừ, thân tâm an lạc. Thần y kỳ Bà có diệu trí trị bịnh thế gian, các y sư trong đời không ai bằng được.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát do pháp thân hiển hiện cũng như vậy. Tất cả chúng sanh hoặc nam hoặc nữ có bịnh nhiệt não, tham sân si đến chỗ Bồ Tát ấy tạm thời chạm xúc thân Bồ Tát ấy thì tất cả bịnh khổ đều được tiêu trừ, cảm thấy thân tâm mình rời khỏi các nhiệt não. tại sao? Do vì chư Đại Bồ Tát trước kia phát nguyện lớn khéo thanh tịnh vậy.

Lại này Xá Lợi Phất! Pháp thân đại Bồ Tát chẳng do ăn uống đoàn thực mà được sống còn, dầu biết rõ tất cả thức uống ăn đều vốn không chỗ có, nhưng vì thương chúng sanh mà hiện ăn uống. Dầu hiện ăn uống mà không tham trước, với thân thể mình chưa hề đoái luyến. Tại sao? Vì thế lực của pháp thân chẳng thối chẳng giảm, thân thể ấy chẳng do ăn uống mà tồn tại.

Nầy Xá Lợi Phất! Pháp thân Bồ Tát đối với sanh tử khó biết rõ được mà lại thị hiện thân có sanh có tử. Tại sao? Vì muốn thành thục các chúng sanh nên thị hiện có sống chết vậy. Dầu thị hiện chết mất mà đại Bồ Tát ấy biết rõ tất cả pháp không dứt mất, dầu thị hiện co sanh mà thị hiện tất cả pháp không khởi tác, dầu thị hiện sanh khởI mà biết rõ tất cả pháp cứu cánh vô sanh. Lại pháp thân ấy dùng pháp làm món ăn, do pháp lực giữ gìn, y chỉ nơi pháp, do vì bổn nguyện nên dầu không công dụng tư lự phân biệt mà thành thực chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Pháp thân Bồ Tát có những tướng dạng như vậy là do tinh tấn không mỏi tu hành Tỳ lê gia Ba la mật mà được chứng nhập.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

« Thân như kim cương chẳng tổn hoại

Biết thời giáo hóa nên hiện sanh

Độc ác dao lửa chẳng hại được

Chúng được giáo hóa thấy thiêu hại

Có bịnh thì thấy là lương dược

Người đói khát thấy là thực phẩm

Bởi tánh các pháp vô phân biệt

Chứng pháp thân không thân nhứt lý

Biết rõ các pháp từ duyên sanh

Không ngã nhơn nam nữ ý sanh

Vì có các duyên nên khổ mãi

Vì không các duyên nên khổ dứt

Biết sắc chẳng bền như đống bọt

Suy gẫm các thọ đồng bóng nước

Tưởng ấm như nóng ánh nắng gợn

Quan sát hành ấm dường bẹ chuối

Như nhà ảo thuật giỏi làm trò

Phút chốc liền hiện các sắc tượng

Biết công dụng thức cũng như vậy

Người trí không cầu nơi ngũ ấm

Biết của đời như tên rời dây

Lại giống chớp nhoáng nước thác đổ

Tạm tụ lại tan tợ mây nổi

Người trí chẳng cầu của trong đời

Các cõi không có một người nào

Chưa từng chẳng hưởng cảnh trời vui

Lại đọa ác đạo bị nghèo khổ

Phật tử biết vậy chẳng cầu trời

Tâm ấy vô y dường hư không

Phi hữu phi vô rời y chỉ

Dầu sanh các cõi không sanh tử

Vì chứng pháp thân không lão tử.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi lúc tu hành Tỳ lê gia Ba la mật phải chánh tâm tu học như vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Thế gian dầu có y sư đầy cả thế giới cũng chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn. Tại sao? Vì họ chẳng giỏi lại vô trí nên họ chẳng biết được ba thứ bịnh hoạn lớn tham sân si. Chẳng những họ chẳng biết ba thứ bịnh hoạn lớn ấy mà họ cũng chẳng biết được ba thứ lương dược đối trị ba thứ bịnh hoạn lớn ấy. Đó là họ chẳng biết bịnh hoạn lớn tham dục và lương dược đối trị là bất tịnh quán, bịnh hoạn lớn sân khuể và lương dược đối trị là từ bi quán, bịnh hoạn lớn ngu si và lương dược đối trị là duyên khởi quán.

Nầy Xá Lợi Phất! Các y sư thế gian ấy chỉ trị được một hai bịnh khác mà không trị được tất cả bịnh của chúng sanh, họ chỉ trị bịnh hết tạm thời mà không thể trị dứt vĩnh viễn.

Đại Bồ Tát nghĩ rằng nay ta thật hành Tỳ lê gia Ba la mật tu Bồ Tát đạo, há lại học theo các y sư ấy, ta phải nương theo chư Phật Thế Tôn là đại y vương khéo thấu rõ các pháp trị dứt cứu cánh tất cả bịnh. Ta theo học với đại y vương Vô thượng ấy, tu học xong, ta sẽ trị khắp tất cả bịnh khổ há lại trị một hai thứ bịnh riêng rẽ, ta sẽ trị dứt cứu cánh gốc các bịnh há lại trị lành tạm thời.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: Ta phải chứa họp chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ khiến tất cả chúng sanh nghe tên thuốc thì những bịnh rất nặng tham sân si tự nhiên tiêu diệt.

Lại nầy Xá Lợi Phất! Trong núi Tuyết có vị thuốc tên Tỳ Già Ma, ai nghe tên thuốc ấy thì các độc nhiệt mãnh liệt ở thế gian đều tiêu diệt. Chỗ thuốc Tỳ Già Ma ấy trong vòng trăm do tuần, vì oai thế thạnh của nó nên làm cho các ác độc đều vô hiệu. Nếu đem thuốc Tỳ Già Ma ấy xoa vào trống lớn loa lớn rồi hoặc đánh trống hoặc thổi loa, các chúng sanh nghe tiếng trống tiếng loa ấy, hoặc kẽ uống độc dược, hoặc bị độc vật cắn đốt, gai độc đâm, vương chất độc, tất cả độc ấy đều tiêu diệt.

Nầy Xá Lợi Phất! Ngoài thần y Kỳ Bà, tất cả y sư thế gian đều không biết thuốc Tỳ Già Ma. Chỉ có thần y Kỳ Bà là biết sắc tánh của thuốc thần ấy.

Nầy Xá Lợi Phất! Cũng như vậy, đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi thật hành Tỳ lê gia Ba la mật chứa họp chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ xoa đắp cho tất cả chúng sanh có bịnh, chẳng cùng chung với pháp Thanh Văn, Độc Giác, chỉ trừ đức Như Lai đại y vương Vô thượng khéo thấu tất cả pháp, dùng chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ xoa khắp ống loa đại pháp. Xoa xong liền thổi loa tiếng vang khắp Tam thiên Đại Thiên thế giới, nhiều chúng sanh nghe tiếng pháp loa ấy tất cả bịnh nặng tham sân si đều trừ diệt, nhẫn đến có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đều được trừ diệt bịnh nặng tham sân si.

Nầy Xá Lợi Phất! Chánh pháp Vô thượng thuốc cao cam lộ ấy từ nơi nào mà đến họp tại đây? Phải biết là từ pháp khí đại Bồ đề mà đến. Pháp khí đại Bồ đề ấy từ chỗ nào đến? Phải biết là từ trong trắp báu Bồ Tát pháp mà đến. Trắp báu Bồ Tát ấy từ đâu đến? Phải biết từ pháp môn đại Bồ Tát tạng mà đến chớ chẳng đâu khác.

Nầy Xá Lợi Phất! Vì thế nên đại Bồ Tát tinh tấn chẳng mỏi vì muốn tu hành Tỳ lê gia Ba la mật nên chí thành cần cầu kinh điển pháp môn đại Bồ Tát tạng, lắng nghe thọ trì, hoặc đọc tụng nghiên cứu nghĩa lý rồi rộng giảng dạy cho các chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Ông lại nên biết thêm tướng dạng ấy, nay Phật sẽ nói để hiển bày thêm những nghĩa ấy. Các đại Bồ Tát nghe ta nói rồi rất chí thành cần cầu kinh điển ấy để nghiên cứu tu học và dạy lại mọi người.

Nầy Xá Lợi Phất! Đời quá khứ vô lượng vô số bất tư nghị kiếp, ở thế giới nầy có Phật xuất thế hiệu Xích Liên Hoa Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Có tám mươi câu chi Thanh Văn đệ tử đều là đại A La Hán. Đức Phật Xích Liên Hoa Thắng thọ tám mươi tuổi thì nhập Niết bàn, chánh pháp trụ thế năm trăm năm, tượng pháp trụ thế cũng năm trăm năm, Xá lợi lưu bố cúng dường như sau khi ta diệt độ.

Nầy Xá Lợi Phất! Sau khi Phật Xích Liên Hoa Thắng nhập Niết bàn sắp mãn một trăm năm, bấy giờ có một Bồ Tát từ thế giới khác chết đến sanh thế giới nầy nơi nhà đại vương. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng: “Lạ thay, nay sanh xứ phi pháp”.Xướng rồi lại nói: ” Nay tôi sẽ thật hành pháp hạnh. Nay tôi sẽ thật hành pháp hạnh “. Mọi người nghi quái đồng gọi trẻ sơ sanh ấy là “Pháp Hạnh “. Đến tuổi hai mươi, Vương tử Pháp Hạnh do lòng tin thanh tịnh xuất gia quy hướng đạo Vô thượng. Xuất gia xong, “Pháp Hạnh” Tỳ Kheo ở riêng nơi rừng vắng trong một tịnh thất.

Lúc ấy trên không có đại Thiên Thần đến bảo rằng: Nầy Tỳ Kheo! Nếu nay ông cầu pháp Vô thượng của Như Lai thì nên cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nếu chưa được thì chớ bỏ tinh tấn, chuyên chí tìm cầu chớ để chẳng được.

Nghe Thiên Thần mách xong, Tỳ Kheo Pháp Hạnh rất vui mừng thân tâm thơ thới liền đi hỏi tìm pháp Bồ Tát tạng. Tự thân đến các thành ấp thôn xóm và các đình quán để tìm cầu, tìm mải không được. Tỳ Kheo ấy lại đến các tăng phường, hoặc thấy Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni liền thưa rằng: Lành thay thưa Ngài nơi nào có pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, Bồ Tát y theo đó tu học xuất sanh vô lượng diệu pháp của chư Phật. Các người ấy đáp rằng: Nầy Tỳ Kheo tôi chưa hề được nghe những gì gọi là pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay nhơn vì ông nói tôi mới được nghe danh tự pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng.

Tỳ Kheo Pháp Hạnh lại tự suy nghĩ: Diệu pháp của chư Phật chẳng lẽ Thiên Thần vọng nói. Nay tôi phảI chẳng bỏ rời dũng mãnh tinh tấn nếu chưa được nghe pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết không bỏ giữa chừng.

Suy nghĩ xong lại hỏi các Tỳ Kheo: Đức Xích Liên Hoa Thắng Như Lai nhập Niết bàn trà tỳ tại chỗ nào? Biết được rồi, Tỳ Kheo Pháp Hạnh liền đến chổ Phật trà tỳ cúi đầu đảnh lễ đi nhiễu vô số vòng rồi ngồi kiết già một phía, nhứt tâm chánh niệm tưởng đối mặt Phật mà phát thệ rằng: Nay tôi ngồi kiết già tại đây nếu chẳng được từ đức Phật Xích Liên Hoa Thắng hiện tiền được nghe pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng thì quyết chẳng xả chưn quyết chẳng rời khỏi chỗ ngồi nầy.

Phát thệ xong, Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn kiên cố ngồi kiết già nhứt tâm chánh niệm quá bảy ngày. Bấy giờ thế giới phương Đông có Phật hiệu Bửu Tạng Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vì Pháp Hạnh nên đến hiện thân trước mặt Ngài mà bảo rằng: Nay ông nên theo tám môn cú pháp trong pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng để tinh tấn tu hành thì các Phật pháp sẽ chẳng khó được. Bảo xong đức Phật Bửu Tạng giảng nói tám môn cú pháp cho Pháp Hạnh Tỳ Kheo.

Được nghe Phật dạy, Pháp Hạnh Tỳ Kheo tinh tấn tu tập tám môn pháp cú, sau đó chẳng lâu được thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị, liền xả chưn rời chỗ ngồi, vì muốn rộng thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên dũng mãnh tinh tấn đến các thành thị thôn ấp, các đình quán, lần lượt tuyên nói hiển thông pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng ấy khắp mọi nơi mãn sáu mươi năm. Lúc đó Bồ Tát Pháp Hạnh giáo hóa chúng trời người mãn số một câu chi đều được an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung Pháp Hạnh Bồ tát phát thệ rằng: Tôi nguyện sannh trở lại trong loài người ở thế giới nầy và sẽ tu pháp hạnh. Do nguyện lực ấy nên sau khi mạng chung sanh trở lại nhà cư sĩ. Vừa sanh ra liền xướng lên rằng: Tôi sẽ tu pháp hạnh, tôi sẽ tu pháp hạnh. Do đó mọi người lại đặt tên cho trẻ ấy là Pháp Hạnh. Lúc sơ sanh mà Pháp hạnh đồng tử thân hình như tám tuổi, dùng lòng tin thanh tịnh xuất gia hướng về đạo Vô thượng. Xuất gia chẳng lâu, do túc tập nên diệu nghĩa của pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra. Tỳ Kheo Pháp Hạnh an trụ trong đại Bồ Tát tạng ấy đủ sáu mươi năm rồi đi khắp nơi giáo hóa pháp ấy trong sáu mươi năm. NgườI được giáo hóa đủ một câu chi đều an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung, Pháp Hạnh Bồ Tát phát nguyện sanh làm người trở lại tại thế giới nầy và cũng tu pháp hạnh. Do nguyện lực ấy nên sau khi mạng chung sanh trong cung vua. Ngày ấy trên hư không Thiên Thần xướng rằng: ” Pháp Thắng Bồ Tát xuất thế, Pháp Thắng Bồ Tát xuất thể”.

Do lời Thiên Thần xướng nên Vương tử sơ sanh ấy được đặt tên là Pháp Thắng. Đến năm hai mươi tuổi Vương tử ấy lòng tin thanh tịnh xuất gia, được mọi người gọi là Pháp Thắng Tỳ Kheo. Do sức đại niệm huệ sẵn có nên Pháp Thắng Tỳ Kheo được pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra rồi tinh tấn tu tập có thể khéo dứt hẳn nghi lầm cho tất cả chúng sanh, sau sáu mươi năm tự thân đi khắp mọi nơi giáo hóa mãn sáu mươi năm được đủ số một câu chi chúng Trời, Người đều an trụ tâm Vô thượng Bồ đề.

Lúc lâm chung, Pháp Thắng Bồ Tát phát nguyện sanh trong nhơn đạo xuất gia tu pháp hạnh. Sau khi mạng chung, do nguyện lực ấy nên sanh nhà trưởng giả giàu lớn. Ngày ầy trên không Thiên Thần xướng rằng:” Nay Đắc Niệm Bồ Tát xuất thế, nay Đắc Niệm Bồ tát xuất thế “. Do đó mọi người đặt tên cho trẻ ấy là Đắc Niệm. Tuổi đủ hai mươi đồng tử xuất gia làm Tỳ Kheo. Vì sức túc tập nên tự nhiên được Đà La Ni bất vong tối thắng Vô thượng bất tư nghị, đầy đủ đa văn, an trụ như vậy sáu mươi năm rồi tự thân đi khắp nơi giáo hóa trọn sáu mươi năm được một câu chi chúng an trụ trong ba thừa. Lúc lâm chung, Đắc Niệm Bồ Tát phát nguyện trở lại nhơn gian xuất gia tu pháp hạnh. Do đó lại sanh vào vương cung. Có Thiên Thần xướng rằng: “Nay Y Pháp Bồ Tát xuất thế, nay Y Pháp Bồ Tát xuất thế “. Mọi người theo lời xướng ấy đặt tên cho trẻ là Y Pháp. Đến tuổi hai mươi, Y Pháp vương tử lòng tin thanh tịnh xuất gia làm Tỳ Kheo, vì sức túc tập nên tự nhiên được niệm lực vô gián và pháp môn Bồ Tát tạng tự nhiên hiện ra. Trong năm mươi năm, Y Pháp Bồ Tát du hành giáo hóa khắp nơi, độ đước bốn câu chi chúng thiên nhơn an trụ trong ba thừa. Sau khi mạng chung, Y Pháp Bồ Tát sanh về thế giới của Phật Bửu Tạng ở Đông phương. Lúc sơ sanh liền thành tựu đa văn Vô thượng bất tư nghị giáo hóa sáu mươi tám câu chi chúng trời người đều an trụ trong ba thừa.

Nầy Xá Lợi Phất! Y Pháp Bồ Tát ở thế giới Đông phương của Phật Bửu Tạng giáo hóa đại chúng xong, mạng chung sanh trở lại trong vương cung tại Thiệm Bộ Châu trong thế giới của Phật Xích Liên Hoa Thắng. Sáu mươi tám câu chi Trời Người được giáo hóa ở phương Đông cũng mạng chung theo Bồ Tát ấy sanh tại quốc độ nầy cùng Bồ Tát ấy làm quyến thuộc.

Bấy giờ ở cõi nầy có Phật xuất thế hiệu Tối Cao Hạnh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, thọ mãn tám mươi câu chi tuổi. Người thuở ấy cũng thọ bằng Phật.

Nầy Xá Lợi Phất! Đức Tối Cao Hạnh Phật thuyết pháp mỗi năm có một đại hội, mỗi đại hội đều có tám mươi câu chi chúng Thanh Văn. Có tất cả tám mươi câu chi đại hội chúng Thanh Văn, đều là đại A La Hán.

Bấy giờ Bồ Tát ấy làm Vương tử tên Dũng Thí, thành tựu đa văn trí huệ sáng suốt cùng quyến thuộc sáu mươi tám câu chi người đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu rồi ngồi một phía.

Đức Tối Cao Hạnh Như Lai biết lòng tin và ý muốn tăng thượng của Dũng Thí Vương tử liền khai thị diệu pháp thù thắng hiệp với bổn hạnh. Được Phật khai thị, Vương tử tỏ ngộ được tâm tin thanh tịnh cùng quyến thuộc đồng xuất gia trọn đời tu phạm hạnh, tinh tấn tu hành Bồ Tát đạo sẽ được chứng Vô thượng Bồ đề.

Đức Tối Cao Hạnh Như Lai ở giữa đại chúng thọ ký cho Dũng Thí Tỳ Kheo đại Bồ Tát kế sau khi Phật diệt độ sẽ thành Vô thượng Bồ đề xuất hiện thế gian hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai, Ư¨ng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Thọ ký xong, Phật Tối Cao Hạnh liền nhập Niết bàn. Dũng Thí Bồ Tát thấy Phật nhập diệt càng thêm luyến mộ, xây dựng tháp miếu khắp nơi cung kính cúng dường xá lợi của Phật cho chúng sanh được lợi ích. Bồ Tát ấy trụ trì chánh pháp khai hóa vô lượng, ít lâu sau thành Phật hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai, thọ nửa kiếp, thuyết pháp có vô lượng đại hội. Mỗi đại hội có mười hai na do tha đệ tử Thanh Văn đều là đạI A La Hán.

Nầy Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tinh tấn không mỏi như vậy vì thật hành Tỳ lê gia Ba la mật nên trịnh trọng ân cần tìm cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, nghe rồi thọ trì đọc tụng tư duy nghiên cứu phân tích nghĩa lý rộng giảng dạy cho các chúng sanh, mãi vậy chẳng thôi nên được thành Phật hiệu Đại Tinh Tấn Như Lai đủ cả mười hiệu như trên đã thuật.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ nơi chánh hạnh vi diệu Đại thừa muốn mau chứng được Vô thượng Bồ đề thì phải phát khởi tinh tấn dũng mãnh trịnh trọng ân cần tìm cầu pháp môn Bồ Tát tạng. Khi được gặp rồi cung kính lắng nghe thọ trì đọc tụng suy tư nghiên cứu nhẫn đến vì mọi người mà rộng giảng dạy. Tại sao? Vì đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn tất do tìm cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng mới được thành tựu viên mãn Tỳ lê gia Ba la mật vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Đây gọi là đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn chuyên tu Tỳ lê gia Ba la mật vì chúng sanh mà thật hành Bồ Tát hạnh.

Nếu các đại Bồ Tát tinh tấn tu hành Bồ Tát hạnh ấy thì tất cả thiên ma chẳng nhiễu loạn được, lại chẳng bị chiết phục bởi các dị đạo và thế luận”.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Kinh Tạng
  • Kinh Lão Nữ Nhân (Kinh Bà Lão Nghèo) – Thích Tâm Nhãn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Vu Lan – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Vợ Trưởng Giả Pháp Chí - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 2 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng