Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh
Quán Sát Chư Pháp Hạnh Kinh
Tùy Xà Na Quật Đa dịch
Bản Việt dịch của Tuệ Khai
***
PHẨM THỨ NHẤT : HẠNH PHƯƠNG TIỆN KHÉO VÔ BIÊN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong gò Thứu Điểu tại thành Vương Xá, cùng với chúng đại Tỳ kheo gồm một ngàn Tỳ kheo, chung với Đại Bồ tát, có đến tám mươi câu trí Đại Bồ tát từ đủ thứ cõi Phật đến tập họp. Những vị ấy đều được Đà la ni, Tam ma địa Nhẫn và Nhất sinh bổ xứ, chứng được trí đạo quá khứ, vị lai, lời nói thanh tịnh, chẳng làm điều thiện dối trá, chẳng tự khen ngợi, không có tham lam, ngoại đạo chẳng thắng, qua khỏi nghiệp ma, được các Phật pháp, thành tựu đủ vô úy, pháp chướng đã qua, nghiệp chướng đã diệt, với bản tính pháp đã được vô ngại, nói câu ca tụng lòng không cùng tận, chẳng thể nghĩ kiếp (nhiều kiếp) trang nghiêm áo giáp nguyện, tươi cười trước khi nói mặt không nhăn nhó rầu rĩ, biện tài chẳng đoạn, đã được Đẳng Nhẫn Tam ma địa Đà la ni, thành tựu đầy đủ vô biên biện tài và vô úy thù thắng, trăm ngàn câu trí nadođa kiếp khéo nói một câu mà tín giải các pháp, giống như huyễn hóa, lửa cháy bùng, trăng đáy nước, bóng trong mơ, tiếng vang.v.v… không lại, không đi, không sinh, không diệt, không, vô tướng, vô nguyện, hiển hiện chẳng thể thủ lấy, không có chướng ngại, giỏi biết vô biên trí tuệ, giỏi giác ngộ hành trí của lòng các chúng sinh, như chúng sinh đó tín giải thì tùy theo sự tín giải ấy mà khéo vì họ nói pháp, dùng cấm giới nhiếp lấy lòng mình, lìa khỏi pháp khát ái, đầy đủ nhẫn không kiêu mạn khéo léo thắng diệu, dùng pháp bản tính Như nhiếp lấy cõi Phật, trang nghiêm công đức, tạo tác nguyện vô biên, giỏi có thể lần lượt đi vô số thế giới, tam muội Niệm Phật luôn hiện tại tiền, khéo khuyến thỉnh các đức Phật, giỏi biết diệt phiền não triền thuận miên, giỏi biết du hý chẳng phải một mà hàng trăm ngàn biển tam muội. Những vị đó là : Từ Thị Đại Bồ tát, Mạn Thù Thi Lợi đồng chơn, Quán Thế Tự tại Đại Bồ tát, Đại Thế Chí Đại Bồ tát, Vân Âm Đại Bồ tát, Thiện Bá Thiên Khai Hoa Trí Đại Bồ tát, Vô Biên Phàm Duyên Xuất Ý Đại Bồ tát, Lôi Trang Nghiêm Minh (Kêu) Âm Vương Đại Bồ tát, Vô Số Câu Trí Kiếp Phổ Sanh Trí Đại Bồ tát, Sư Tử Hống Vương Đại Bồ tát, Đẳng Bất Đẳng Quán Đại Bồ tát, Tịnh Mật Kim Vô Nghi Đại Bồ tát, Tịnh Quán Đại Bồ tát, Trí Vương Đại Bồ tát, Bất Không Kiến Đại Bồ tát, do Hiền Hộ làm đầu mười sáu bậc thiện trượng phu. Tượng Hương Thủ Giả Bồ tát, Vô Biên Bảo Tạng Bồ tát, Trí Tích (chứa) Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Sư Tử Hống Minh (kêu) Âm Vương Bồ tát, Châu Trang Nghiêm Anh Lạc Hạnh Bồ tát, Sư Tử Hành Bộ Bồ tát, Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ tát, Đắc Vô Biên Biện Tài Vô Úy Bồ tát, Danh Xưng Đại Bồ tát, Hỷ Vương Đại Bồ tát những Bồ tát như vậy làm đầu chung với tám mươi câu trí Đại Bồ tát. Như đại vương của ba ngàn đại thiên thế giới này, hoặc Đế thích, hoặc Phạm vương, hoặc Đại Phạm, hoặc Thiên Vương, hoặc Long vương, hoặc chúa Dạ xoa, chúa A tu la, chúa Già lưu trà, chúa Khẩn na la, chúa Ma hầu la già, chúa người, chúa chẳng phải người… họ cùng với quyến thuộc vây quanh, mang theo hoa mạn, hương xoa, áo, táng che, tràng, phan và tấu nhạc đi đến chỗ đức Phật. Đến nơi rồi, họ đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi tùy theo vật họ mang theo như hoa mạn, hương xoa, bột thơm, áo, táng che, tràng, phan, tấu nhạc… ở chỗ đức Thế Tôn đã cúng dường xong, tôn trọng thọ giáo chắp tay mà trụ.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương, đã bảy ngày nhịn ăn xong, hoặc đi kinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, chẳng nằm, chẳng ngủ tinh cần cầu pháp. Những tam muội nào đã khiến cho Đại Bồ tát, ở Vô Thượng Đại Thừa, chuyển lấy Biến Trí, Tài Bảo Trí.v.v… Bồ tát đó tạo tác nhân duyên này rồi liền đứng dậy, một vai sửa áo, gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch rằng :
– Thưa đại đức Thế Tôn ! Con đối với đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, theo phận muốn hỏi ! Nếu đức Thế Tôn cho con “không nhàn” thì như con hỏi rồi ngài liền vì con giải nói !
Bồ tát nói như vậy rồi, đức Phật bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng :
– Này Hỷ Vương ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thường tạo tác không nhàn để giải nói những vấn nạn. Này Hỷ Vương ! Như vậy nếu ông muốn hỏi Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thì ta liền theo từng điều, từng điều hỏi đó của ông mà giải nói đúng như điều đã hỏi, sẽ khiến cho ông hoan hỷ !
Đức Phật nói như vậy rồi, ngài Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Bằng những tam muội nào, Đại Bồ tát thành tựu đầy đủ tam muội ? Đại Bồ tát biết như thật tâm hạnh của các chúng sinh ? Có thể vào ý của các đức Phật Thế Tôn nói ? Điều đã nói không ngược lại mà thuận vào tùy âm thật trí ? Có thể thấy các đức Phật Thế Tôn hiện tại không có chướng ngại, thuận được pháp không sân giận tranh cãi ? Theo đúng như nghe như nghĩ về pháp mà phụng hành, tuy trụ ở trong thế pháp mà chẳng bị tiêm nhiễm thế pháp ? Tuy hành ở trong Biến Trí định mà ở đó tự tại chẳng sinh ? Tuy hành ở trong Niết bàn mà chẳng ở khoản giữa Niết bàn vì chưa mãn các Phật pháp ? Tuy hành thật hạnh trong pháp Thanh văn pháp Độc Giác mà chẳng ở những thừa đó Niết bàn ? Phát vô biên ý niệm mà lòng chẳng quên mất ? Vào cửa đủ thứ cõi của các chúng sinh, cửa vô cùng tận, biến nói nối tiếp nhau, nhiếp lấy vô biên công đức, trang nghiêm cõi Phật ? Ở trong Biệt Trí được Vô dư trí ? Tuy thành thục chúng sinh nhưng chẳng nương vào chúng sinh tưởng mà nói pháp ? Những chúng sinh đó không có kiến trụ mà đem đặt ở Niết bàn, cũng không một pháp có thể muốn Tịch diệt ? Tuy hành Bồ đề mà chẳng nương trụ ? Đại trí thành tựu đầy đủ, lìa bỏ hai bên có và không ? Tuy biết các pháp duyên sanh mà ở trong pháp duyên sanh chẳng chấp trước ? Nhanh chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hàng phục ma la cùng với đồ chúng của nó, với các luận sư khác thì dùng pháp khuất phục, sẽ chuyển bánh xe pháp Vô Thượng, vì trời cùng thế gian tạo tác pháp rống gọi ? Thưa đức Thế Tôn ! Pháp Phật chẳng thể nghĩ ! Pháp Bồ tát chẳng thể nghĩ ! Hạnh Bồ tát chẳng thể nghĩ ! Rất hay, thưa đức Thế Tôn ! Con đã hỏi đức Như Lai, xin đức Thế Tôn dùng vô số chẳng thể nghĩ những thứ Phật trí ưu việt để vì diễn nói. Nếu con ở bên đức Thế Tôn nghe rồi thì theo đúng như thật sẽ tu hành. Theo đúng như thật tu hành rồi thì sẽ được tròn đầy những thứ Phật trí ưu việt.
Đại Bồ tát Hỷ Vương nói lời như vậy rồi, lại dùng lời tụng ca hỏi đức Phật. Bài tụng ca này là :
Con hỏi Luân Sư Nguyệt(vầng trăng thầy chỉ đức Phật)
Gần đời trên mọi người
Như các hạnh Bồ tát
Lần lượt giải nói xuôi.
Nhiều người tụ đến không bờ đến
Chúng người, trời, dạ xoa mà tin
Nghe xong Phật pháp thắng công đức
Đa phần cùng muốn giác tương ưng
Trong Phật thắng đức đã sinh tín
Các bờ công đức con hỏi sang
Tâm con đấng gọi Vô Biên biết
Chứng trừ thắng, người chẳng phải con
Giải tan phân biệt mười lực hạnh
So đức, người đời thèm vui hơn.
Đức hạnh Bồ đề tối vô tỷ
Trăm phương tiện lớn nói trí hành
Như người phá đen gần cọng lực
Như chóng phóng ra trí quang minh
Như động đất ba ngàn sở hữu
Như hạnh Bồ tát nói vì con.
Cây Bà tra thắng giác
Trụ đây, phấn chấn ra
Như phóng quang soi cõi
Câu trí na do tha.
Như đại địa chấn động
Độc chứng trí tối thắng
Hạnh lành với người tu
Như hành sẽ nói ra
Như có sẽ được tướng hoa nở
Như sinh âm trụ trì vô biên
Như được chánh định, mê lưu lai
Như Bồ tát hạnh sẽ biện bàn
Như có tướng hoa nở vô cấu
Như có nghe khéo, ý giữ gìn
Như tợ mê còn, có chẳng động
Đủ trăm công đức như nói hành
Vô Đẳng, Vô Xưng, không siểm trá
Vô ngã, Ứng Cúng, ba bẩn không (vô tam cấu).
Trí được người khen Sa môn thắng
Con nay hỏi hạnh người đó hơn
Ý khéo hành trì lời hoa nở
Lời không bẩn, không lầm, thắng ngôn
Bậc thiện vua trâu trừ hết bẩn
Như chóng làm Phật nói vì con.
Như có nhiều người đến đây họp
Không dị tâm ngày đêm tinh cần
Những người đó đã nghe thắng hạnh
Sẽ trụ hạnh Bồ tát thật chân
Đây nhiều người, trời ưa Phật đức
Ngày đêm chẳng thừa quyết lực cần (siêng)
Kia nghe hạnh này sẽ tuân phụng
Sẽ được mười lực, lực khác tan
Như sẽ đắc được Tam ma địa
Như được biện tài và trí thông.
Như Phật quang soi vô biên hướng
Sẽ hỏi trí tuệ vô biên xưng
Dáng cười Như Như nói như vậy
Như Như trong các pháp biết thông
Như được trí thông trụ trì rộng
Thấy trăm vô cấu Phật mười phương.
Sao gọi sẽ được Vô tỷ trí
Thiện na do đa câu trí kinh
Sẽ khi nói pháp không lầm lộn
Sẽ vì con biện Bồ tát hành
Con chẳng hỏi vui “hữu”
Đường “hữu” bỏ cho xong
Con chẳng hỏi tiểu hạnh
Lìa bỏ cả các hành.
Như được đức tối thắng
Trăm thứ công đức tròn
Vì con nói như vậy
Tươi cười rạng dung nhan
Con nay chẳng hỏi đường vui “hữu”
Con nay chẳng hỏi cảnh giới nương
Bậc Thắng ! Con muốn sanh cam lộ
Sở hạnh mười lực nói thật chân.
Thiện Thệ ! Sao gọi là tịnh thí ?
Sao gọi trì giới chấn bỏ trần ?
Sao gọi Nhẫn từ đều ưa muốn ?
Như có tinh tấn, đó tuyên dương !
Sao gọi ái trí ưa đoạn hoặc ?
Sao gọi trí độ dứt danh ngôn ?
Phải biết biển trí chẳng thể động
Như hạnh Bồ tát nói vì con
Nếu con chẳng được hỏi Thiện Thệ
Trí con ở trong chẳng tận cùng
Được qua Biến Trí bờ công đức
Vì con đều nói đức vô biên.
Bồ tát nói lời kệ như vậy rồi, đức Phật bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng :
– Hay lắm ! Này Hỷ Vương ! Hay lắm ! Này Hỷ Vương ! Ông nay phát khởi hạnh vì lợi ích của nhiều người ! Vì an lạc của nhiều người ! Vì thương xót thế gian đem nghĩa lợi ích, an lạc cho người, trời. Ông cũng vì những Đại Bồ tát bây giờ và vị lai mà chẳng đoạn tính Phật chủng, chẳng đoạn tính Pháp chủng, tính Tăng chủng. Ông đối với Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, hôm nay hỏi ý nghĩa này. Như ông ở bên các đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng đã từng vấn nạn sinh ra giải nói. Này Hỷ Vương ! Ông phải lắng nghe ! Giỏi tác khởi chánh niệm ! Ta sẽ vì ông giảng nói ! Bồ tát nhân vào tam muội gì để được những điều này và các công đức khác ? Biết tâm hạnh của các chúng sinh ?
Đại Bồ tát Hỷ Vương thưa rằng :
– Thưa đức Thế Tôn ! Đúng vậy con ưa nghe !
Đức Phật dạy rằng :
– Này Hỷ Vương ! Có Tam ma địa gọi là Quyết định quan sát các pháp hạnh. Đại Bồ tát nếu nhân vào Tam ma địa này thì được tám mươi bốn ngàn Tam ma địa, được tám mươi bốn ngàn Đà la ni, được tám mươi bốn ngàn Ba la mật, mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi, chuyển bánh xe pháp Vô Thượng, vì đời trời, người.v.v… sẽ tạo tiếng kêu rống. Này Hỷ Vương ! Đó là những gì mà gọi là Quyết định quan sát các pháp hạnh tam ma địa ? Những cái đó là : Như nói Như làm, Như làm như nói, thân tịnh, lời tịnh, tâm tịnh, cầu đến lợi ích, tạo tác tâm bạn bè, chẳng vì cầu dục, chẳng bỏ được bi, chẳng vì thủ lấy pháp (10 điều). Chẳng mất được tín, tự thệ chẳng động, khéo vào chúng sinh, lời nói tạo tác điều thuận, nghiệp thuận thu liễm thân, lìa bỏ lời nói ác, tâm không lừa dối, người khổ khiến cho ân nhuận, người vui dạy tu hành (20). Người phóng dật thì biết xét lại, kẻ phát khởi tinh cần thì khiến cho quyết định hợp pháp, người hối thì khiến tan ra, chẳng trụ pháp tưởng, lìa khỏi chúng sinh tưởng, chẳng phân biệt sự tưởng, bỏ các thủ (lấy) trước (chấp), quan sát biết đến tướng, thủ lấy giới chẳng động (30). Thường cầu đến trí, lìa khỏi lời nói thế gian, cầu lời nói xuất thế, tự tiến chẳng quen, nghĩ thuận với pháp, vào sở tác của Như, làm thuận theo nghi thức, với nghiệp nhất định tin, lìa bỏ chẳng tin (40). Có nhiều tín giải, với Phật tác niệm, có tội nói lên rõ ràng, với phước thì tùy hỷ, khuyến thỉnh với Phật, người đáng lễ thì lễ, không có cao mạn, chẳng chán thiện căn, thường siêng tương ứng, chẳng bỏ cần (siêng) hợp (50). Thông sinh ra câu, tin nhân tác nghiệp mà thọ quả báo ấy với duyên biết xét lại, chẳng chấp trước hư thật. Có sự nói năng (60). Chẳng trụ dục giới, chẳng đồng sắc giới, chẳng đắm trước vô sắc giới, đối với quả nghiệp báo theo đó mà tin, đều cùng vật chia, có tâm bình đẳng, chẳng hại pháp giáo, hợp trong chẳng hợp không có sân nhuế, người khác được trúng lợi cũng chẳng có ganh ghét, thỏa mãn điều mong ấy (70). Qua đến pháp thệ, chẳng bỏ giới tụ (nhóm lại), trừ kiêu mạn, lìa sân giận, cắt hết ngu si, chẳng sinh tham hạnh, theo được tri túc, chẳng cầu quyến thuộc, được lợi chẳng cao, không lợi chẳng thấp (80). Pháp lợi vui lòng chia, chẳng đem tích trữ, lời ác chẳng đáp lại, tự hộ trì lời nói của miệng, hiển sáng Bồ đề, xem xét phát khởi tinh cần hòa hợp, trụ ở A lan noa (90). Đối với công đức đầu đà và cả giảm tỉnh đều có hỷ lạc, tín giải đối với không, chẳng đắm trước các việc, trong tụ họp chẳng nương, trong giới chẳng nghĩ, trong Nhập chẳng thấy, trong cảnh chẳng ái, trừ diệt điên đảo, tâm khiến cho niệm trì, trí huệ phát sinh (100). Hành theo hạnh Thánh, thuận thu liễm tâm, thuận theo đến đất phước điền, trừ bỏ các hành, bố thí chẳng cầu báo, trong giới (cấm) chẳng niệm, chẳng phân biệt nhẫn, chẳng che tinh tấn, chẳng nương định ý, trí biết các pháp (110). Vào đất lục độ, chẳng nghĩ đức của mình, chẳng ghét đức của người khác, chẳng nương các hạnh, chẳng xưng lường hạnh, ở trong Niết bàn không có vin duyên, chạy trốn sự lưu chuyển, ở trong giải thoát không có tư tưởng sợ, ở trong thọ tụ không có tư tưởng người hại, ưa thích diệt độ (120). Trụ ở Nhẫn, dung nhan cười vui, hỏi thăm nói trước, mặt không nhăn buồn, kính già, trẻ, trung niên, tâm ấy tịnh tín, chẳng bức não người khác để làm chủ, diệt tranh cãi, khen nói tịch tịnh, siêng dạy hòa hợp (130). Yêu ghét lòng bình đẳng, cầu Đà la ni, trong các chúng sinh coi như cha, mẹ, anh em, chị em, con cái, thân thuộc, tôn trưởng, bạn bè, thương nghĩ bình đẳng, yêu bậc Thánh như cha, ở trong người thân cận thì yêu kính tôn trọng, ở trong Bồ tát thì ái niệm như Phật, trong pháp ái niệm cũng như tự ngã, ở trong đa văn, không có chán đủ, trong hạnh thì phụng hành, cúng dường Như Lai (140). Tín giải thượng diệu, không có co lại (rụt nhỏ lại), tạo tác giống Tam Bảo, Nhẫn chẳng định nói, trong thân chẳng tiếc, trong mạng chẳng tiếc, sinh sống trong sạch, với hạnh khất thực mà chẳng bỏ ách (dụng cụ mắc vào vai, cổ để kéo), khất thực bình đẳng lấy làm ái mỹ, khéo trụ ở chỗ A lan noa (150). Lìa bỏ tại gia, lòng thường mừng vui, chẳng xen lẫn tục gia, với người xuất gia cũng mừng vui chẳng xen lẫn, chẳng làm thiện dối trá, chẳng tự khen ngợi, nói năng bằng lời ái ngữ, trong Bồ tát thừa giáo hóa chúng sinh, người với phương tiện thường thuận niệm Phật (160). Tư duy với pháp, thường tôn trọng Tăng, cúng dường người trí, gần gũi kẻ giải thoát, thủ hộ người định ý, phò trì người cần hợp, nói đạo Bồ đề, tin vào phước đức, với việc dạy bảo chúng sinh thì dùng thiện căn (170). Ái niệm người tin, tan ra kẻ khổ, trong sạch uy nghi, thẹn mà có sợ, sợ thấy thẹn và hối, lìa khỏi người ác, trụ đúng như pháp hạnh, hướng về trừ diệt, cần đến hạnh Thánh, huân tu niệm xứ (180). Hằng trụ chánh đoạn, được mọi thần túc, thủ lấy các căn; thành tựu được Lực, quán Bồ đề phận, Đạo chẳng điên đảo, vào Chỉ tức (Xá ma tha), xem xét phát khởi Quán (Tỳ bát xá na) với tâm chẳng mừng, trong pháp đều vui (190). Vượt qua vin duyên trong đất mà có thể chẳng trụ chẳng kinh sợ, không thấy, chẳng sinh đọa tưởng, hộ hạnh Bồ tát, ở trong hạnh Phật tác khởi vô lượng tưởng, chán bỏ hạnh ác, bỏ sở tác trước kia, làm sạch nghiệp của mình (200). Bí mật giới cấm của luật tạng và biệt giải thoát, chẳng hủy báng pháp giáo, đúng lúc mà làm, lìa khỏi phi thời, khéo léo vào ra, biết được nguyện lượng, trong việc sinh sống đủ mà chẳng mừng, vào các trí thông, tu tam muội, vào với sở hạnh (210). Vào với diệu bảo, lời đã nói của Như Lai thủ lấy chẳng thể được, người cần hợp thì vui mừng, hiển minh Phật tử, khiến cho hàng Thanh văn nghe hạnh, khiến cho hàng Độc giác thuận biết một đường, tài vật của Bồ tát, chỗ ở của Thanh văn, sở hạnh của bậc trí giả chính là thú hướng của người điều thuận (220). Trọng người nói pháp, quan sát nhiều người tin, thị hiện Phật đạo, cầu của cải là kho tàng, cầu quả báo là ruộng, ba lửa nhiệt não là vườn, được tam muội là ao hoa, sinh ra bạch pháp là mẹ, người chẳng tin thân thì khiến cho dừng ràng buộc duyên với tướng (230). Bố trí các việc tốt, bình đẳng trụ ở cõi Phật, được Đà la ni, phát ra đủ thứ trí, huân tu cần hợp, vượt cảnh giới ma, mạnh mẽ chiến đấu cắt đứt phiền não, tiêu diệt việc bất thiện, phất triển mạnh điều thiện (240). Siêng tác nguyện là chuỗi ngọc, Ma chẳng thể phá, lời nói không tận cùng, thế gian chẳng ngang bằng, ngoại đạo chẳng biết, đã qua trong pháp Thanh văn, đã ra khỏi Độc giác, an trụ trong Biến trí, con đường đến của chúng sinh vào đạo, lời nói của thiện bằng hữu (250). Như thật biết xem xét đối với người, thọ báo đó là đẳng hỷ, người muốn uống là vị, người muốn mừng vui là vòng hoa cài tóc, người hướng về Niết bàn là xe chở, người đi qua bờ là thuyền, người muốn độ là bè, người sống mù là đèn, người muốn thấy là mắt, người nói pháp là đuốc (260). Đối với người chẳng hư rỗng là lời thề, người muốn bố thí là của cải, người muốn giải thoát là phương tiện, người cầu đùa vui là niềm hỷ lạc, người đẳng hỷ là tịnh tín, người hoan hỷ là yêu thương, người cầu nghe là tình xứ, người được tam muội là mê lưu (còn lại), người mong được mắt là Đế Thích, người vào đấu chiến là dũng mãnh, người muốn trụ là hang động, người tự tâm hành là Phạm tâm, người cầu hợp là hỷ lạc (270). Đối với người chẳng thoái chuyển là chỗ ở, người được Vô sinh pháp nhẫn là tịnh tâm, người trí hạnh là niệm, người sơ nghiệp (đầu tiên tạo nghiệp) là phương tiện, kẻ trượng phu trí là lẩy nỏ, người tam muội là cung, người nói Vô ngã là Đại thừa; người biến trí là đạo, khiến cho người giải thoát sinh bình đẳng trí, chỗ chư thiên lễ bái (280). Các rồng dâng hoa, mọi người cúng dường, nạn của người học, người tạo tác vô học hướng về lễ bái, Bồ tát khen ngợi, pháp chủ nhớ nghĩ, đối với người che dấu căn là thành quách, người phương tiện khéo là đạo, người cần hợp là lợi, người nghi ngờ là tan biến (290). Người dục khiến cho đoạn, kẻ phiền não thì ói ra, người muốn độ thì khiến cho nổi lên, đối với người bệnh là thuốc hay, người chẳng thấy điên đảo là trị, người bị tên là rút ra, người muốn làm sạch thì tự tại, người muốn tạo tiếng rống là tướng không sợ, thú hướng của người muốn nghe (300). Đối với người Niết bàn là đạo, kẻ đi đường ác là xa lìa, người cõi Dục cõi Sắc, cõi Vô Sắc là vượt qua, người trang nghiêm cõi Phật là chuỗi ngọc, người tam muội Kim cương dụ thì sinh Nhân, người sinh lần sau cùng thì ngồi tòa sư tử, khiến cho người phước đức chẳng mất, người cầu khiến cho lấy được, người đi thì sách tấn (khuyến khích tiến lên), người rơi xuống thì khiến đứng dậy, kẻ lười biếng thì khiến cho phát khởi lực (310). Đối với người phát khởi việc là kiến lập, kẻ phát khởi việc quá thì khiến cho dừng lại ở Định, khiến cho vào các việc, khiến cho bỏ, lấy, kẻ đấu tranh thì khiến cho họ trừ bỏ, người biết khiến cho họ thỏa mãn, được sinh vô biên cửa, người nói thắng nghĩa thì khiến cho họ chẳng mật, khiến cho người nói “không” rốt ráo tịch tịnh, người tin Vô tướng thì khiến cho diệt phân biệt, người tin Vô nguyện thì đoạn dừng việc gấp (320). Khiến cho người tin xả vượt qua ba đời, thuận đến các xứ, trong phương tiện khéo thì đối với giác là đèn, đối với chưa học lòng chẳng khinh miệt, đối với người nói pháp thì không có sở cầu, trong pháp lầm lẫn của người nói ấy chẳng sinh sân nhuế, đối với kẻ cùng một thừa không có hủy báng, chẳng mong đồ vật ấy mà vì nói pháp, đối với người nói pháp là những sự cúng dường, ở trong việc nghe pháp thì lòng chẳng tán loạn (330). Ở chỗ đồ chúng không có ý niệm lừa dối, ở trong pháp thí không có đoạn tuyệt, đối với kẻ thuần trực (thẳng) thì khó có thể hỏi gì, đối với người sân giận thì trụ ở Nhẫn tâm, kẻ hối thì khiến cho tan biến, đối với đạo chẳng dứt cầu đến với trí tụ, khiến cho người nương vào thủ (lấy) mà được giải thoát, kẻ ác khiến cho điều phục, người không trụ xứ thì khiến cho xả bỏ (340). Người muốn thuận niệm thì khiến cho họ chánh niệm, phát khởi Bồ tát, hiển thị các đức Phật khiến cho bốn chúng vui mừng, đối với thắng vị là vị ngon, với kẻ muốn đùa cợt là sấm, đối với cam lộ là cửa, thú hướng của người Niết bàn hạnh thì khiến cho ham muốn, người được chẳng sợ thì có mát không nóng, chính là người đắc đạo giải thoát ràng buộc (350). Đối với sự thỉnh mời cùng lợi ích của tâm vui thì tâm ấy buông dứt niềm vui của ý, niềm vui của thân, kẻ trí đã thủ lấy thì thọ nhận chắc chắn chẳng bỏ, chẳng chuyển đạo hạnh phương tiện của Như Lai, huân tập các thiện căn, phá hoại các căn chẳng lành, đó là sở học của bậc vô trí, là sự thành tựu vào trong phương tiện, chẳng dối trá là tướng, sở hạnh của người thuận lời dạy của Phật, kẻ trí tụ là ánh sáng, lễ bái hàng câu trí (đơn vị đo lường) các đức Phật, có thể tạo ra hàng câu trí vấn nạn, đoạn dứt sự nghi ngờ ấy, sinh trưởng các pháp bạch tịnh, xả bỏ sự trợ giúp đen tối, chẳng mất các phước hỷ, phước thì ái sinh, hỷ lạc thì dũng kiện, người muốn nói là biện tài, người nói pháp là hộ trì, khiến cho các nhân sinh ra ái, ở trong các pháp mà có thiện xảo, biết ở với sinh diệt mà thị hiện Như Như, ở trong đồ chúng tâm minh điều phục, người hợp phương tiện thì khiến cho mừng, kẻ kiêu mạn thì khiến cho tan biến, người phương tiện thành tựu ngồi khiến cho kẻ tư duy quan sát no đủ (400). Nhìn xem không ác, bậc pháp chủ thì danh xưng như sấm, bậc trượng phu bước dũng mãnh, kẻ bẩn phiền não thì khiến dừng lại, người hành theo các kiến thì khiến cho hại tan, người nghe thì khiến cho trì, tổng trì với pháp, khiến cho người nói pháp không có lầm lẫn, chẳng chuyển Bồ đề, giỏi vào các cửa, căn lành gom lại, chẳng đoạn Phật nhãn, rực sáng pháp nhãn, nhiếp lấy Thánh chúng, hàng phục luận sư khác, khéo nói pháp ngữ, sở hạnh của Bồ tát với người, lòng bình đẳng là vầng trăng, với kẻ cầu nghiệp là mặt trời, với người muốn học là thầy, với các kinh là hộ trì, với kẻ trí là người dẫn đường, hạt giống bạch pháp, quả chín cam lộ, thuận niệm với sinh mà chẳng nhiễm lưu chuyển, kẻ si mê nghiệp phàm thì khiến chán bỏ, công đức Như Lai là chân thật, người khen ngợi được quả báo vô biên, người thọ trì thì nhân biến trí đến, người đọc tụng thì lợi được thú hướng (430). Người chép thành sách thì vào vô biên công đức trí, người nói thì vô lượng phước đức, đó là bậc “Bất lai” qua bến, đó là bậc Bất động trụ xứ, với những người thọ thế dục thì vì họ nói, chư Phật đã nói lời xưng dương, chúng của Phật quá khứ thỏa mãn, sở vọng của Phật vị lai, là trí tạng của Phật hiện tại, hạnh của các chúng sinh nhập môn, với người của thừa Thanh văn là đèn, với người của thừa Độc giác là đuốc sáng, với người của Phật thừa là hộ trì, những người sinh ra chẳng mất, thị hiện tay Phật là Ấn, với kẻ chẳng che giấu là Thật, với kẻ được trí mau chóng là Chuyển sinh, có thể khiến hỏi công đức của Phật, khiến cho người muốn làm chẳng chán, khiến cho lửa phiền não tịch diệt (450). Được trí phương tiện, khiến cho giải địa giới, khiến cho vào thủy giới, bình đẳng vào hỏa giới, chẳng trụ ở phong giới, sinh ra giải thoát hư không giới, thanh tịnh trí giới, thuận vào pháp giới, chán bỏ các hạnh, ngăn đoạn thuận miên (ngủ, hôn trầm), tiêu tan sân si, trừ bỏ yêu ghét, hạnh của mình khéo léo, hạnh người khác khéo léo, khiến cho người muốn nói có biện tài vô tận, trong những sự sinh ra khiến cho chẳng vào chấp trước, khiến cho kẻ tương ứng chẳng thể ngôn thuyết, bỏ đi ngã tướng, trừ đi tướng ngã sở, lìa xa sự chấp trước (470). Lòng thấp mà “Như” lớn, tối diệu nhập môn, khéo ràng buộc với Định, với kẻ thiếu thốn là bóng che, khiến cho qua khỏi dòng, kẻ ngoại luận chẳng thể phá, với người thuần trực chẳng thể nói xấu (ác), xa lìa thùy miên, gần gũi người nói pháp, vượt qua trạo cử hối hận, trừ diệt hết si, tiêu tan tham dục, xa lìa biếng nhác, chẳng thấy nơi ngã, hiển sáng vô ngã, chẳng kiến lập mạng, trong pháp chẳng chạm xúc, trong lời nói chẳng tranh cãi, đã biện luận là hợp lý, giỏi suy nghĩ, chẳng tạo tác hạnh, có thân thể điều thuận, có chẳng khiếp nhược, rốt ráo tín giải, vào chúng chẳng co lại, đức của mình chẳng lấy làm vinh dự, đức của người khác chẳng ganh ghét, tâm ấy thường hành Biến trí, chẳng thủ lấy chỗ ở (500). Lìa chẳng hợp ngôn, thường sạch đều hạnh, chẳng yêu thân ấy, nhiếp liễm lòng ấy, với hạnh khéo léo, suy nghĩ thuận niệm, chẳng hủy báng, chẳng kiêu mạn, cầu với giải thoát, muốn được không nghi, niệm tu phạm hạnh, với từ thì lòng bình đẳng, với bi thì thuận nhiếp lấy, với hỷ thì luôn nghĩ đến, với xả thì diệt yêu ghét, với Giới thì thuận nhiếp lấy, với Định thì đều sinh ra, với tuệ thì đều hiểu biết, đã sinh ra chữ, lời nói khéo léo (520). Vào các âm thanh lời nói, chẳng vì tài lợi, diễn nói pháp rộng rãi, chẳng mừng chung chúng, một đêm dời hạnh, đã chẳng nâng lấy, cũng chẳng đặt xuống, trong ấy hiểu biết, chẳng chấp trước các pháp, hiểu rõ được Như, chẳng lừa dối các chúng sinh, chẳng đoạn chủng tính Tam Bảo, với pháp thì nhiếp lấy (530). Thỏa mãn nguyện bền chắc chẳng ham muốn Tiểu thừa, cùng định tương ứng, ngày đêm chẳng xả, đầy những lòng thanh tịnh, trí tuệ công đức. (Nương vào bản chữ Phạm hợp lại có 535 câu, trong đó phân câu dài ngắn, ly hợp không nhất định chuẩn, ngắn nhất thậm chí hai chữ làm một câu, dài nhất cho đến năm chữ mới thành một câu. Đây mới theo nghĩa phân câu nên chẳng thể ở sau mỗi một mà ghi số. Xin tùy nghi mà tường lãm tốt vậy (ghi chú nguyên bản). Khi dịch ra việt văn câu chữ nhiều hơn và dài hơn, xin chư vị lấy ý hơn là lấy văn (ghi chú của dịch giả).
Này Hỷ Vương ! Đây gọi tên là Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh Tam ma địa, chính là cảnh giới của Đại Bồ tát vào chúng sinh hạnh, thủ lấy trí Biến Tri.
Trong khi đức Phật nói pháp bổn này thì chín mươi hai na do đa Bồ tát ở trong pháp vô sinh phát sinh nhẫn. Năm ngàn chúng sinh trước đây chưa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì đến hôm nay đều phát sinh. Ba mươi na do đa trời và người rốt ráo tịnh tâm, ở trong phiền não sinh ra xa trần lìa cấu, ở trong các pháp sinh ra pháp nhãn. Mười trăm ngàn Tỳ kheo chẳng thọ nên lòng vô lầu giải thoát. Ba ngàn đại thiên thế giới này sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn soi khắp thế gian. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại muốn khiến cho ý nghĩa này hiển sáng không lường nên liền nói lời tụng ca rằng :
Sở hạnh thanh tịnh là đạo Thánh
Lòng ấy giải thoát pháp thuận tùng
Mắt Bồ đề phận trong pháp biện (luận)
Tam muội này là Thiện Thệ hành
Hàng phục ma la, xa lìa bẩn
Đoạn hữu ái, trừ chướng sân
Danh xưng và Trí thiện đủ đức
Tam muội này là đức trí tràng
Ở trí là đất và đường thiện
Họ các thánh giả, phá ma quân
Giải thoát được Hữu, Thiện Thệ khen
Tam muội này của cải đức trí.
Khéo vào pháp hạnh các tế môn (cửa các cõi)
Thuận biết lỗi ác đã đoạn dứt
Diệt trừ khổ, vào vui thắng hơn
Tam muội này là hạnh Thiện Thệ.
Đây là hoa Giác niệm, Giác phận.
Tàm quí đầy đủ, nhiếp lấy thiện
Đường Thiện Thệ, man (vòng cài tóc) Bồ đề phận
Thắng tam muội, đây đã nói rồi.
Trường (chỗ đất rộng) Bồ đề phận, Giải thoát soi
Sáng hơn ánh sáng của tinh tú
Tạo ra ánh sáng vượt tam hữu (ba cõi)
Khen pháp đó như vậy hơn trăng.
Ba thứ phương tiện mong sạch trong
Gần gũi vua tối thắng Giải thoát
Bỏ trá thiện và lợi tri thức.
Nên thành tựu Tam ma địa này.
Hủy nhục người khác phải viễn ly
Chớ tự khen ngợi nhân tri thức
Chỉ ba y, thường đi khất thực
Không tích trữ cùng đây hợp chung
Mong được các Thánh, giới phân bằng (giới cấm)
Thường nên cung kính hỏi người trí
Như thật tu hành theo điều hỏi
Thì sẽ được định Tịch tịnh liền
Nếu có giới (cấm) làm đẹp thế gian
Vua xá ma tha, xa mọi dục
Không kiêu mạn, chớ thiện dối gạt
Thì sẽ được thắng định nhanh hơn.
Thường cung kính với bậc sư tôn
Hoặc già, hoặc lớn, như người trẻ
Thường thọ giáo những chỗ như thế
Của cải Thiện Thệ muốn cầu xin.
Chớ làm mặt giận, không thẹn thùng
Thấy những người đời thường chung nói
Chớ cống cao kiêu mạn tự tại
Thì sẽ được định Tịch tịnh liền
Chớ thương tiếc hãy nên xả thân
Chớ có lười biếng, nhiều ngủ nghỉ
Tương ứng ngày đêm tu niệm ý
Thì sẽ được thắng định tức thì
Đẳng tâm với đời, Từ làm vui
Dùng Bi ý hành Bồ đề hạnh
Hỷ Xả bình đẳng ý xưng lượng
Thì sẽ được thắng định ấy liền.
Của mười lực nên thường giữ gìn
Đến khi pháp phá tan đời khổ
Của cải pháp nếu thường thủ hộ
Thì sẽ được định Tịch tịnh này.
Ba cõi ý thường chẳng đắm say
Thuận theo nhớ nghĩ khổ lưu chuyển
Muốn cầu Niết bàn, nơi yên ổn
Chóng được tối thắng vô tỷ thân.
Thuận theo nhớ nghĩ, vô ngã, không
Ở trong các tướng xa lìa hết
Cũng lìa ba cõi nguyện sở tác
Thì tức tốc đại bi được thành
Bố thí tự giữ hoặc điều hành
Trì giới và nhẫn tinh tấn nữa
Thường vui với Định và trí tuệ
Thì tam muội này mau được thành.
Như ta, trăm kiếp xưa, tu hành
Như ta nói hạnh Bồ đề ấy
Như ta được giác Tịch tịnh vậy
Những hạnh như vậy mau chạm (xúc) xong
Ta là Biến Trí, Thiện Ngưu Vương
Học ta các thắng hạnh sở hữu
Nếu làm như ta làm trước đó
Thì sẽ được Phật, hơn mọi người.
Ăn vị giải thoát, mặc hổ ngươi (mặc áo xấu)
Lòng vui không nhàn, tin ở định
Yêu vô ngã thường làm ca vịnh
Thì sao trí người, sẽ vui riêng ?
( Vân hà tha trí đương độc lạc)
Gánh lời mắng chửi, chịu nhịn nhường
Chớ ôm oán hận, chẳng cung dưỡng
Ứng với nghiệp báo phải tin tưởng
Thì kia sẽ được Thắng định liền.
Xa lìa ác đạo và hữu kiến.
Phải thân cận đường Thánh rỗng không
Ngày đêm lực tinh tấn khởi lên
Thì định này người đó sẽ được.
Chẳng ái đạo, xa lìa nhị biên
Gần đạo bình đẳng hay đường thật
Tu hành như đây, được Phật thương
Như quán chẳng sinh, chẳng tác pháp
Tối Thắng chẳng cầu diệu hoa hương
Diệu y và tràng phan bảo cái…
Như thuận theo hành với pháp “không”
Đây là tối thắng đệ nhất cúng.
***
PHẨM THỨ HAI : CẦN (SIÊNG) ĐỜI TRƯỚC TƯƠNG ỨNG
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng :
– Này Hỷ Vương ! Lại nữa, Bồ tát biết các pháp chẳng nương (y); nên biết các pháp chẳng xuất, chẳng diệt, chẳng tác, chẳng sinh; xa lìa nhẹ rỗng (khinh hư) tự không chẳng chắc, chẳng lấy, chẳng bỏ; nên biết các pháp vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh; nên biết các pháp không, vô tướng, vô nguyện, nên biết các pháp vô ngã, vô chúng sinh, vô mạng, vô phú già la (20). Nên biết các pháp chẳng hợp, chẳng nên làm, không tự thể, không tướng, không có; nên biết các pháp lìa nhiễm chẳng hành, lìa hý luận chẳng hành, đến tối thắng chẳng đủ thứ (30). Không hí luận, lìa hí luận, chẳng thể lấy, chẳng giữ, không trú xứ, chẳng lại, chẳng đi, chẳng trụ, không chữ, chẳng thể nói (40). Các pháp chẳng thể nói, chẳng thể đem lại, không nghiệp, không báo; nên biết các pháp chẳng phân biệt, không đủ thứ phân biệt, đoạn hết phân biệt, các tưởng và niệm đều đã đoạn trừ, phá trời bằng đời được qua năm đường, qua khỏi chúng sinh, thắng chúng ma la, vượt qua ma la phiền não, ra khỏi ma la tụ họp, đoạn dứt ma chết, đầy trí vô trước, nhiếp lấy thắng sắc ba đời, được sự yêu thích của các chúng sinh, được sự cúng dường của người trí, có thể ở các pháp thấy được pháp thể ấy, được nhục nhãn tịnh đến thiên nhãn sáng đến trí nhãn hành chẳng động pháp nhãn, đầy đủ Phật nhãn như trăng hiển chiếu, biết tâm của các chúng sinh, người chẳng cần hợp (siêng hợp) phải tạo sự xét biết, bỏ những cái đã thủ lấy (50). Ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, vì những trời người tạo tác chi thể, đế tướng thuận theo, được tịnh hạnh địa, thông cõi vô ngã, biết đến cõi phát xuất, chỗ của các chúng sinh, phải tạo tác gần gũi tôn trọng, lìa tăng thượng mạn, có được sức nhẫn vượt qua năm chướng ngại, có thể với danh sắc biết bản tánh ấy, giác ngộ thuận theo ngôn từ mà các đức Phật đã nói, thuận giác ba mươi tướng (60). Với được, chẳng được lòng có sở thủ (lấy) đều đã vượt qua cái được của thế gian mà được thế pháp chẳng nhiễm, với các chúng sinh sẽ vì họ làm nhà, mở cửa Niết bàn, khiến cho các chúng sinh vào được thành Vô úy, cho vị cam lộ, diễn nói đến pháp, tỉnh ngủ phiền não, tan nóng của chúng sinh, đoạn dứt sự chấp trước, các kiến trói buộc.v.v… của họ; sáu căn chẳng nhiễm mà vì chúng sinh nói pháp, được mười sáu chữ, cửa đã phát xuất Đà la ni. Cái gì là mười sáu thứ Đà la ni đó ? Đó là chữ A là nghĩa chẳng sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng, chữ Già là nghĩa bốn thật, chữ Na là nghĩa biết danh sắc sinh, chữ Đà là nghĩa điều phục, chữ Sa là nghĩa vượt qua chấp trước, chữ Ca là nghĩa chẳng mất nghiệp báo, chữ Ta là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thế lực, chữ Xà là nghĩa vượt qua sinh lão tử, chữXa là nghĩa đoạn phiền não không còn, chữ Tha (Sa) là nghĩa xuất phát cao, chữ Sá là nghĩa trụ, chữ Trà là nghĩa giáo hóa Di lê xa ở biên địa (bản chữ Phạm cũng thiếu một chữ). Này thiện gia tử ! Đây là được mười sáu chữ đã phát ra Đà la ni. Gọi là được Đà la ni là chỗ sinh ra trí khéo léo giải biết các pháp vốn tự rỗng không, khéo sinh ra trí tự âm (chữ âm thanh) giải biết được không, ưa giải thoát của Phật; bỏ ái, chẳng ái mà không nuối tiếc, với lập luận khác của các ngoại đạo thì đúng như pháp mà hàng phục; nói tiếng rống sư tử, đắc được Phật trí, hưng khởi Pháp thí, vứt bỏ các phiền não, phá nghĩa oán ác, tin pháp luân của chư Phật chuyển, thông đạt được Như cho đến biết pháp, sân hận kiêu mạn đã lìa, bùn dục chẳng nhiễm, điều ngự chúng sinh, trừ khử dơ bẩn, có thể dùng nước bị gột rửa chúng sinh, thống lĩnh đồ chúng, thuận được thế lực, vượt qua già chết, nghĩ ngàn số kiếp, tổng trì pháp tạng, thông đạt cõi tịch tịnh, được “không đẳng” trí, thuận giác hết pháp, các chúng sinh.v.v… đã ứng lời khen ngợi, đầy vô chướng trí, được không nhiệt não, huân tập thuận hạnh, tiêu diệt quân ma, bóng che ba ngàn đại thiên thế giới, thuận niệm đời trước, chiêu tập Niết bàn địa, tạo tác thú hướng y chỉ, người tại gia ấy đều che hộ hết; biết chỗ và chẳng phải chỗ, chẳng bỏ lời thề trước; với các chúng sinh đem “từ” đầy khắp, biết gom sở niệm của chúng sinh, nghe ý sẽ tạo tác chánh chơn, được giới hương Chiên đàn na, được đường sinh tử, thuận được Niết bàn, biết các pháp như chữ Na chạm xúc trụ. Này Hỷ Vương ! Đó là chữ Na trở lên không chữ. Đó cũng không tên, cũng chẳng thể nói, cũng không có tiếng, chẳng thi thiết (thi hành thiết lập) tên, chẳng biết tên gọi. Trong ngôn từ các tiếng đó chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Các đức Phật đó chẳng đã nói, chẳng nay nói, chẳng sẽ nói, chẳng sinh, chẳng xuất. Các pháp tướng như vậy.v.v… Bồ tát phải biết. Này Hỷ Vương ! Lại có mười sáu chữ nhập môn Đà la ni. Cái gọi là giác ngộ hành tướng của chữ là nói Pháp thắng nghĩa, qua khỏi bốn dòng (tứ lưu), nói pháp không có danh sắc, khéo léo bố thí, tự thủ (giữ) ở Nhẫn, chẳng cậy sáu căn, hành theo lục độ, khiến diệt phiền não dục mà vì chúng sinh nói pháp, khéo biết các pháp sai biệt, không được nghi ngờ sâu, nói xứ chẳng phải xứ, biết sở hạnh của các chúng sinh, nhịn lời thô ác, xả bỏ da thịt tủy, biết hạnh niệm ý, an trụ pháp giới, giải biết chữ Na vào hết các pháp. Này Hỷ Vương ! Đây là mười sáu thứ chữ nhập môn Đà la ni. Này Hỷ Vương ! Nếu Đại Bồ tát hiểu đúng mười sáu thứ chữ nhập môn Đà la ni đó như chữ A là nghĩa vô sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng chữ Già là nghĩa độ bốn dòng, chữ Na là nghĩa nói danh sắc, chữ Đà là nghĩa bố thí tự giữ hòa hợp, chữ Sa là nghĩa trí lục thông, chữ Ca là nghĩa chẳng thấy nghiệp báo, chữ Sà (?) là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thị hiện thế lực, chữ Xà là nghĩa thị hiện sinh tử, chữ Xoa là nghĩa thị hiện sức nhẫn, chữ Xa là nghĩa vứt bỏ phiền não cực ác, chữ Ta Ma là nghĩa tự đại chứng giác, chữ Ta Tha là nghĩa nói xứ chẳng phải xứ, chữ Đa là nghĩa nói tận biên… thì những Bồ tát đó được những điều này gọi tên là Quyết Định Quan Sát các pháp hạnh Tam ma địa. Nhân mười sáu thứ chữ Đà la ni này, các Đại Bồ tát chẳng bị sự quở trách của người trí, bỏ tham dục, sân hận, ngu si, diễn nói đạo “đến bờ kia”, được bốn vô úy, thọ thân lực sĩ, cắt đứt cành dục, được sức mười lực, gặp được diệu âm, được diệt nhiệt não, trao ký cho Thanh văn, Độc giác, xa lìa tả đạo, được Như Lai địa, lời nói của Như, tạo tác của Như liền được, chúng sinh cao mạn sẽ khiến cho giải thoát, làm sự nghiệp của Phật, thuận được tụ trí, chúng sinh bị nghi thì đoạn sự nghi hoặc ấy, do sự có hòa thiện nên chung trụ yên vui, tràn đầy đại bi, vượt cảnh giới ma, tràn đầy tiếng hay, trừ kiêu mạn phóng dật mà được với Nhẫn, giỏi Định sâu, khiến qua các đường mà vì nói pháp, ở trong các pháp khiến cho được chỗ nông (cạn ?) vì trụ bờ kia khiến đến chỗ đất, biết sở hạnh của các chúng sinh, biết phương tiện hạnh của các pháp, nhớ vô số kiếp giữ các pháp thể, tịch diệt các ác, thanh tịnh các nghi, được không đẳng trí, thuận đến chỗ diệt phiền não, chóng đạp lên Giác trường, trời rồng phải khen ngợi, thuận giác các trí, khéo diệt cháy nóng, nói tự thể của các chúng sinh, ăn món ăn cam lộ, đoạn các nghi thụy (nghi hoặc, thụy miên), lìa bỏ theo chấp trước tập khí sở hữu, dùng đại bi ấy che chở các chúng sinh, nghĩ trước đời trước, thấy công đức ở Niết bàn, thuận hiểu sở hạnh của phàm phu, được đại trí mật hủy hoại các niệm khác, kêu với loa pháp, khiến trụ Phật trí, vượt chủng loại tướng, thuận hiểu sinh ra, biết chỗ chúng sinh, có thể khiến cõi Phật phong mãn, không cháy rực kia, lìa khỏi già bệnh, chóng có thể thuận hiểu mật ngữ phương tiện, đoạn đường sinh tử, thuận đến Niết bàn yên ổn, với bọn ác ma chóng có thể hàng phục, ở trong vô lượng thế giới thấy Phật Thế Tôn, ly dục rồi mà nghe pháp, cũng chẳng quên trí, như đã hy vọng thủ lấy cõi Phật, khéo biết du hý, sinh ra các Tam ma địa. Này Hỷ Vương ! Đại Bồ tát nếu được Thuyết quyết định quan sát chư pháp hạnh Tam ma địa này thì phải biết cũng được Nhất thiết trí. Vì sao vậy ? Nhưng lúc nào thì Bồ tát đó muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ? Hoặc một đời, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc mười, hoặc hai mươi, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp… cho đến muốn vào thời gian lâu thì Bồ tát đó cũng lâu mới chứng giác. Dùng nguyện tự tại, ở trong lưu chuyển, đến tận bờ cõi kiếp sau cùng. Vì sao vậy ? Nhưng về sau, ở trong các pháp tự tại.
Khi đức Phật nói bản pháp phẩm Đà la ni tự môn này thì ba mươi hai ngàn Bồ tát được Nhẫn. Lúc đó ba ngàn đại thiên thế giới này sáu thứ chấn động. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài tụng ca này rằng :
Không lẫn không đục không uế tạp
Lìa phi thú (chẳng phải đường) đi đến cam lồ
Ứng trời đất cúng, không ai so (Vô Đẳng)
Trì phương tiện này, hành mười lực
Vui làm ly oan, hoang trần diệt
Mặt như hoa nở, người trời vui
Bậc Ứng Thắng, đức độ “hữu lưu” (dòng hữu = chỉ thế gian)
Trì phương tiện này hành mười lực.
Trừ diệt chúng khác, khéo hạnh khác
Người trời ái trọng, ý khác tan
Phân biệt hạnh khác ý khéo khôn
Trong đạo này hành hạnh mười lực.
Hữu, thủ, bất Như hạnh bỏ hết
Xét hiểu người trời, ý quyết Như
Hạnh hiển như trăng trong cõi hư (không)
Bậc Hữu nhãn hạnh hành kẻ trí.
Người trời thương yêu người ý đó
Chẳng ưa cảnh “hữu thú”, không lầm
Phân nói trong chúng, hạnh hàng trăm
Hạnh bậc trí này soi các hướng.
Được mười, hai mươi… có hai khoảng (phục hữu nhị ?)
Người trời phụng các tướng đẹp tươi
Được, mất chẳng trước, lìa cả hai
Kia được hạnh này soi mọi hướng
Thí chủ cam lồ hành thí thiện (giỏi, khéo)
Thường cùng thắng trì thế ngưu vương
Sức lớn mười lực, lực khác hàng (qui phục)
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Phân biệt nhiều đức, thắng niệm ý
Tịch diệt nhiều khổ cùng nhiều vui
Nhiều người tôn trọng, khéo phụng thờ
Học đây, vui công đức trí Phật.
Như vua trâu, chẳng lâu hàng phục
Diệt trăm nhiệt não, các nhiệt (nóng) lìa
Bay đường hư không, trăm cõi qua
Hành phương tiện này soi các hướng.
Chỗ tin khéo léo các thế tín
Tin ý thẹn (tàm) trụ niệm không (ai) bằng (vô đẳng)
Chấn khử trăm phước (đắm trước) tạo thế hương (hương đời)
Trì phương tiện này, trăm đức tụ (gom)
Phân biệt nhiều đức, trừ ba cấu
Đó có lời mỹ diệu trơn thuần
Giỏi nói trong trời đất trăm phần
Trì đức này tài (của) thắng vô tỷ (không ai bằng).
Độ người trời, trụ thành vô úy
Lời nói Như, thôi bỏ ám trần
Như hành, vô não hành Như hành (?)
Trì phương tiện này, hạnh mười lực.
Của cam lồ thắng danh nghe được
Thắng đức vô đẳng được hành Như
Ý Như, người trời, lời nói Như (?)
Người trí học đạo cam lộ ấy.
Vô trần soi khắp mười phương cõi
Thoát mạn, chúng sinh thẳng không co
Đến thành vô úy, lìa mạn kiêu
Trì phương tiện này, hạnh mười lực.
Hợp hóa người trời bằng ngôn thuyết
Chẳng vui thích dục, thích pháp chơn
Nói làm, người làm, nói trăm hành (động)
Học phương tiện này, bậc thiện ý.
Tịnh chúng sinh đẳng hạnh, đẳng ý
Nói thiện hợp, thiện mỹ, thiện hành
Trong các pháp khéo thường vui cùng
Hành phương tiện này ưa móc ngọt (cam lộ)
Lực ác ma, chẳng lâu hàng phục
Trừ bỏ hoang cấu, ba cấu tan
Hành ở đất này của cải thêm
Trì phương tiện ấy, hạnh mười lực
Hành thắng thú (đường), vượt qua đường ác
Chúa thú (vật) voi ngựa, hành giả đùa ( giỡn)
Khen đức, trì đức, trăm đức thừa (đầy tràn)
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Hành xử khéo léo, chẳng trụ “hữu”
Thị hiện thế lực quyết định hơn (thắng lực)
Đến đất, trụ nước cấu bẩn tan
Như học hạnh này, mười lực hạnh.
Bỏ thành cùng đất đai thôn xóm
Bỏ ái, chẳng ái, cảnh chẳng yêu
Bỏ thắng thọ (cây), bỏ người oán thù
Người trí học đây, lực quyết tiến.
Nhiều trăm kiếp quá khứ ức niệm
Nhớ chết và sinh trong các đời
Và nhớ pháp thuở trước nghe rồi
Trì tịch tịnh này, thắng định ý
Đuốc pháp cháy rực, thường khiến “Hữu”
Vui pháp, tài pháp kia thí ban
Và sở hạnh mười lực giữ gìn
Trì tịch tịnh này thắng định ý.
Trụ Xá ma tha có từ ý
Tịch tịnh chỉ ý tịch tịnh căn
Tịnh giới, tiếng ái ngữ ngọt ngon
Trì Tam ma địa này phải có
Như tê giác đi, không ngã sở
Được đến phương nhàn cùng đạo nhàn
Theo chỗ trụ, lìa tám chẳng nhàn.
Trì tịch tịnh này, thắng ý định.
Với niệm giác, biết hạnh tự tính
Cũng sẽ biết tận pháp hoàn toàn
Lực kham nhẫn tối thắng hiện lên
Ở trong này học hạnh nghĩa thắng
Nên được các thế gian tán thán
Được hàng trăm trời sẽ ngợi khen
Chỗ làm, người làm làm lặng yên ( tịch tịnh)
Ở biến trí này trụ thân cận.
Dấu chân chim bay sẽ hành thuận
Dược tịch diệt với các não phiền
Phương tiện đó, ma la chẳng làm
Tịnh này khó thấy, siêng tương ứng
Nói quyết định giác, Thiện Thệ hạnh
Tạo vô hữu, bứng hữu ái lên
Được người trong đời cung phụng luôn
Trì tịch tịnh này, thắng định ý.
Người đoạn đã hợp với tịnh ấy
Đoạn xong phiền não, ba cõi soi
Tạo tác bóng che khắp mọi nơi
Nếu trì Thắng tam muội này được
Nghĩ sở hạnh mình và người khác
Nghĩ rồi vì (họ) nói như thuận hành
Hạnh bậc thể thắng không mạn hành
Trì Tịch tịnh này thắng định ý.
Có thí xả rồi, điều phục ý
Thú hướng Thiện Thệ đi đến mau
Nói vô úy, ban vô úy cho
Định thượng thắng này thì liền được.
Ở trong các đời sẽ thân thích
Lầm lẫn khỏi rồi lại hiểu thông
Họp chung nói bàn thật khéo khôn
Nếu người tu hành tam muội ấy.
Thân bằng kim cương hợp nhất lại
Mau chóng phá tan quân ma la
Thuần bạch tịnh soi không bợn dơ
Trì tịch tịnh này Thắng định ý.
Phải chỗ mà trụ, phù hợp chỗ
Ở chỗ chẳng trụ được ý trên
Ở chỗ phi xứ có khéo khôn
Nếu người định ý này giữ gìn được.
Không trước (chấp) biện nói Phật công đức
Sinh ra câu trí giác giải nhiều (câu trí : đơn vị tính số lượng)
Kia chẳng chính ý không nghi ngờ
Thắng định ý này có thể giữ.
Chóng có thể tin cam lộ đó
Cũng thường tin cùng với người vui
Hộ đời khác khi được quả rồi
Thắng định ý này có thể giữ.
Tự biết rỗng không đối với tụ (sự vật gom lại)
Kia không lẫn lộn không mê lầm
Đến trong ba “hữu” các hạnh lành
Tam muội này, nếu người gìn giữ.
Sẽ được xa lìa lão bệnh tử
Khéo thẳng ngay chẳng bị người hàng (phục)
Tâm ấy trì giới luôn vui mừng
Định ý này nếu người gìn giữ.
Cắt đứt cây sinh (sinh thọ) là Thánh đạo
Mau chạm đến tịch tịnh Niết bàn
Đất “Di lê xa” (?) chẳng nhiều thêm
Tam muội này nếu người gìn giữ.
Chẳng tự tán dương, lời xảo diệu,
Trên mọi đức, công đức lừng vang
Vào chúng, đoan chính hiện rõ ràng
Như sao Mão, trời, trăng sạch rỗng (trống không
Chúng quyến thuộc, nhà đủ danh tánh
Bà con Thiện Thệ người đó gần
Tài biện (luận) người đó như Thủy vương (vua nước)
Là tam muội này phải gìn giữ.
Tự tính pháp, hạnh tướng vô ngã
Ở trong các đời thuận giác xong
Mau làm chúa dũng kiện ba ngàn
Hạnh bình đẳng Kinh này hiếm có.
Cho đến rừng trong ba ngàn cõi
(Họ) Tính người, ba loại hạnh chúng sinh
Với thắng thượng đó được trí môn
Cần (siêng) này tương ưng chạm cam lộ,
Dao độc và lửa chẳng vào đó
Chẳng sợ cùm trói các não phiền
Dạ xoa, la sát chẳng hại tan
Tương ưng này nếu lòng tịnh tín.
Của không mất, của chẳng ly tán
Không nghiệp báo, không bệnh, không lo
Chẳng câm, chẳng chột cũng chẳng mù
Trì bốn câu này (?) như vậy đó.
Trên hai chân sáu mươi ba ức (?)
Khắp nghĩ đến sự tương ứng này
Chỗ đó nếu cùng tạng Tổng trì
Tịch này khó thấy đã tương ứng.
Nếu Bồ-đề muốn mau chạm đến
Nếu muốn lấy đức yên ổn hơn
Nên khiến hành Thắng kinh này liền
Thì các hy vọng đều đầy đủ.
Kia đã nghe niềm vui thiện hỷ
Nếu người ở trong cầu Bồ-đề
Siêng năng tương ứng bốn ngày qua
Thì kia sẽ được Thắng Tịch định.
Tám mươi câu trí trên hai cẳng (chân) (?)
Còn hơn sáu mươi na do đa (?)
Đều nghĩ cùng với tương ứng này
Tam ma địa này chuyển tụng tác.
Nếu nghe thiện này, lợi ích được
Nghe rồi nếu có tín giải liền
Trong công đức Phật, không nghi nan
Như đến Bồ-đề , trì như vậy.
Thật hạnh này, kia đã nghe nói
Không được không đức vui chay lười
Các phước nhất định đến trong tay
Nếu trì kinh này hoặc ghi chép.
Ta nhớ trước đây vô số kiếp
Có bậc tối thắng tên Biện Tràng
Thắng tam muội này, ngài tuyên dương
Vương tử Nguyệt Diệu nghe điều đó
Mà xuất gia, vương vị chóng bỏ.
Ông ấy nghe một đêm một ngày
Đến lúc chết, trong phần sau này
Lại được sinh đến những cõi khác
Nhiều như cát, kinh đó nghe được
Thấy rồi, lại thấy, thắng vô biên
Các chỗ nghe tam muội này xong
Thì trong ba kiếp, Thắng Giác chứng
Gọi là bậc Bảo Viêm Tối Thắng
Được Phật Nhiên Đăng thọ ký cho.
Nghe kinh này, như vậy lợi to
Nên đã nghe rồi chớ lười biếng.
Ta nay muốn bảo với đại chúng,
Tốt đẹp sở hữu của trời người
Ta ở trong này mở kho báu
Của cải mười lực ông lấy đi !
Lại này Hỷ Vương ! Đời quá khứ trước kia, chẳng sao tính được kiếp, qua chẳng thể tính được sự xa rộng, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào thời tiết đó, có đức Phật tên là Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri xuất thế Minh Hành Cụ Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Giáo Sư Phật Bà Già Bà (Thế Tôn). Đất nước của đức Phật ấy tên là Vô Biên Bảo Công Đức Trang Nghiêm, thế giới tên là Vô Cấu, kiếp tên là Ái Kiến. Lại này Hỷ Vương ! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm đó có vô lượng Thanh văn, có bảy mươi hai câu trí Đại Bồ tát. Những vị ấy đều được Nhẫn, đạt đến Quán Đảnh địa. Lại này Hỷ Vương ! Ở trong chúng Bồ tát đó, có vị Bồ tát nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hí Minh Âm. Vị Bồ tát đó có quá hơn số lượng niệm hành biện tài tàm quí. Ở trong Đà la ni, ngài dạo bước đến tận cùng, được trí ngũ thông. Vị Bồ tát đó bạch đức Phật kia, xin đức Phật ấy quan sát xong mà vì bốn bộ chúng nói rộng rãi Thuyết Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh Tam Ma Địa này. Lại này Hỷ Vương ! Vào lúc đó, có vương tử tên là Phước Báo Thanh Tịnh Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại mà hình ảnh đẹp, đoan chính của vương tử đó có thật đáng quan sát, tịnh sắc tối thắng, thành tựu mỹ mãn đầy đủ. Ở trong Vô Thượng Chánh Giác ngài đã phát khởi hạnh từ lâu. Này Hỷ Vương ! Vương tử Phước Báo Thanh Tịnh Đa Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại đã nghe Bồ tát Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hí Minh Âm nói pháp. Pháp nói này tên là Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh Tam Ma Địa. Nếu Bồ tát vào trong thôn, thành, tụ, ấp, kinh đô vua mà nói thì vương tử đó luôn ở bên vị nói pháp đó để nghe Tam ma địa này. Nghe rồi, vương tử đó vui mừng nhảy nhót, yêu thích thỏa lòng, thiện ý lại sinh đi đến chỗ vị Đại Bồ tát, người nói pháp đó. Đến rồi, vương tử đảnh lễ dưới chân của người nói pháp đó, tôn trọng, kính yêu chắp tay mà trụ ở trong Tam ma địa này. Vương tử ấy lại vui mừng nhiều hơn nữa, muốn nghe Tam ma địa này, người nói pháp đó lại biết vương tử kia đã tịnh tín nhiều hơn, lúc đó lại nói rộng rãi Tam ma địa này. Này Hỷ Vương ! Như vậy, vị vương tử đó ở bên người nói pháp kia nghe Tam ma địa này xong lại vô cùng hoan hỷ, nhảy nhót, yêu thích thỏa lòng, rồi thiện ý lại sinh, theo chỗ áo mặc mà đem dâng che, nói lời như vầy : “Ngài khiến cho chúng sinh được báu Tam ma địa này”. Vương tử đó do sự xả thí thiện căn của người nói pháp kia, ở trong hiện pháp vưng thờ tám mươi lần cát sông Hằng những đức Phật Thế Tôn, ở bên các đức Phật Thế Tôn đó, nghe được Tam ma địa này, ở chỗ các đức Phật Thế Tôn đó, đều tạo sự cúng dường tối thắng, ở trong giáo pháp của các đức Phật Thế Tôn đó, xuất gia nhiếp thọ chính pháp, ở các chỗ chẳng nghe trăm ngàn câu chi kinh điển mà có thể biện nói, sinh ra ý niệm luôn tròn đầy, thọ sinh biến hóa được trí ngũ thông, được Đà la ni, biện tài vô trước. Vương tử đó thuận theo thứ lớp hành các pháp trợ Bồ-đề . Mãn rồi, vương tử đó, ở trong cõi Phật Vô Biên Công Đức Bảo Trang Nghiêm, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sống lâu không lường, chúng Thanh văn không lường, chúng Bồ tát không lường, ánh sáng không lường, nguyện công đức trang nghiêm không lường. Lại này Hỷ Vương ! Trong thời tiết đó, người nói pháp có tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hí Minh Âm, ý ông chớ tác khởi dị kiến, vì sao vậy ? Này Hỷ Vương ! Vì đó là Đại Nhãn Như Lai vậy. Ngài đã được đức Như Lai Bất Động thọ ký Bồ-đề . Lại vương tử tên là Phước Báo Thanh tịnh Đa Nhân Sở Ái Minh Thanh Tự Tại kia thì đức Như Lai Vô Lượng Thọ kia tức là Vương tử lúc đó vậy. Lại này Hỷ Vương ! Vương tử đó nghe Tam ma địa này xong thì nghiệp chướng của bảy mươi ngàn kiếp đều diệt hết, liền được Phân Biệt Chư Pháp Cú Phẩm Xuất Vô Biên Môn gọi là Đà la ni và chẳng xa lìa Tam ma địa cho đến Bồ-đề trường. Này Hỷ Vương ! Nhân duyên đó như vậy nên ông phải biết, Tam ma địa này ở chỗ các Đại Bồ tát như vậy tạo nhiều thanh tịnh chuyển các nghiệp chướng trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh chuyển công đức, mau tròn đầy chuyển Phật pháp. Lại này Hỷ Vương ! Đời quá khứ trước kia, chẳng thể tính được kiếp, qua chẳng thể tính được xa rộng, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào lúc đó, có đức Phật hiệu là Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Xuất Thế Minh Hành Cụ Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Giáo Sư Phật Bà Già Bà (Thế Tôn). Lại này Hỷ Vương ! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng đó đã sở hữu một cõi Phật công đức trang nghiêm mà ta hôm nay chẳng thể ở trong một kiếp, rộng nói hết được vô lượng công đức như vậy tụ tập trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh. Chúng Đại Bồ tát, ở trong Phật pháp đều đã quyết định hết. Này Hỷ Vương ! Vào lúc đó có con ông trưởng giả tên là Hiển Diệu Quảng Than. Ông đó đi đến chỗ đức Như Lai Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng. Đến rồi, ông đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn đó, rồi đem vô lượng chuỗi ngọc báu Ma Ni hàng trăm ngàn xen lẫn phụng che đức Phật đó mà đứng trước mặt đức Phật vì muốn được pháp. Đức Như Lai đó biết ông ấy đã tịnh tín nên với Tam ma địa này, ngài rộng nói lúc đầu, đoạn giữa và về sau. Này Hỷ Vương ! Như vậy con ông trưởng giả đó ở bên đức Phật kia nghe Tam ma địa này xong vui mừng, nhảy nhót, yêu thích, thỏa lòng rồi thiện ý phát sinh, được đại pháp lực. Được pháp lực rồi mà chẳng dùng để cầu trong trời người, ông ấy xả bỏ bảy mươi ngàn phụ nữ, xả bỏ một dũ xà na bốn kho tàng lớn, xả bỏ tám trăm vườn rừng, xả bỏ mọi đồ thọ dụng của mình, ở trong giáo hội của đức Thế Tôn đó, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, dùng niềm tin xuất gia chẳng phải nhà mà tu hành. Lại này Hỷ Vương ! Con ông trưởng giả đó, khi trước ở nhà, đất chẳng trải áo thì chẳng từng đạp chân xuống. Khi đã xuất gia rồi, trong mười ngàn năm, vẫn chẳng trải áo, chân chẳng đạp đất, chẳng ngồi, chẳng nằm, chỉ trừ khi thọ dụng bữa ăn. Trong mười ngàn năm, ông ngủ nghỉ chẳng lâu, cho đến trong khoảnh khắc gảy ngón tay cũng chẳng từng phân biệt dục, phân biệt sân, phân biệt hại. Trong mười ngàn năm ông chẳng sinh dị tâm (lòng khác) mà chỉ đối với biến trí tương ứng phát khởi tu hành tinh tấn, được Đà la ni Chư Từ Thanh Nhiếp Chư Phật Ngữ Danh, thành tựu Đà la ni Phổ Âm Nhập Môn Danh. Ông ấy mạnh mẽ tinh tấn đầy đủ như vậy nên mới có sáu mươi nadođa chư thiên ở chỗ vị Bồ tát đó siêng làm cung cấp, hầu hạ, khởi tác tương ứng, khiến cho thân tâm Bồ tát ấy an vui, đủ khả năng tinh tấn. Con ông trưởng giả đó đi xuất gia rồi, tinh tấn mạnh mẽ như vậy, nghe Tam ma địa này nên chín mươi chín câu trí trăm ngàn kiếp lưu chuyển đều quay lưng bỏ hết, hiện tại gặp được bảy mươi ngàn đức Phật. Có những chỗ, trong đó đi xuất gia rồi, ông ấy thọ trì, đọc tụng, tư duy Tam ma địa này, vì người khác giảng nói rộng rãi. Ông ấy phát khởi tu hành tinh tấn chẳng hành động phóng dật, thành tựu được Tam ma địa này, ở trong tám kiếp chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạt được tướng trang nghiêm công đức của cõi Phật như vậy mà trụ như cõi Phật sở hữu của đức Thế Tôn Tịnh Diệu Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai đó. Ta nay thấy ông ấy ở trong địa phận phương Nam, qua khỏi đây bốn mươi bốn trăm ngàn cõi Phật, tên là thế giới Đại Trang Nghiêm. Ông ấy ở trong cõi đó làm Phật hiệu là Thiện Ý Hy Lạc Như Lai, ngài đang nói pháp cho vô lượng chúng Đại Bồ tát tụ tập tính chẳng thể hết. Này Hỷ Vương ! Những vị Đại Bồ tát đó nếu muốn mau chóng đối với các pháp thuận theo được tự tại thì phải nghe, phải trì, phải nói, phải nghĩ Tam ma địa này.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại muốn khen ngợi công đức của Tam ma địa này nhiều hơn nữa nên liền nói lời tụng ca rằng :
Ta nhớ đời trước vô biên kiếp
Giống như cát sông Hằng không lường
Có bậc trí dẫn đường thế gian
Các phương nghe biện tài vang tiếng
Có Tỳ kheo trong giáo tối thắng
Trì pháp, nói pháp bậc trí nhân
Định tịch tịnh này kia nói xong
Bên ngài Vương tử đã thính thọ
Liền đem áo mình mà phụng phú (che)
Hồi hướng đạo Tối Thắng Bồ-đề
Lại thấy vô biên những đạo sư
Được đạo, hiệu Vô Lượng Mạng đó
Trước kia tuệ tác nghiệp sở hữu
Đều hết không còn, nghiệp báo không (có)
Nghe tam muội đại diệu này xong
Người có biện tại đủ công đức
Kia về sau trung lúc
Đạo, nếu có muốn cầu
Định này phải nghe mau
Tự sẽ trừ các ác.
Lại Phật Vô Cấu Nguyệt
Nói Tam ma địa này
Con trưởng giả nghe rồi
Hành xuất gia chọn lấy.
Mười ngàn năm ông ấy
Tư duy tam muội này
Chân chẳng đạp không y (áo)
Cũng chẳng vào ngủ nghỉ
Đây được Bồ-đề ấy
Chỉ có cùng chung nghe
Chẳng ưa ở trong nhà
Cũng không muốn tài vật.
Kia đến các cõi Phật
Ở đó đều nghe xong
Các hạnh đã nhập môn
Chẳng lâu đã thuận giác.
Tâm ấy, kia thỏa trước
Cũng đầy xe ý kia (ý xa)
Kia chóng được Bồ-đề
Đây sao chẳng cần tác (siêng làm) ?
Đời đương lai trong lúc
Nhiều người cầu Bồ-đề
Không tư tài, không vui (lạc)
Hành xuất gia chẳng dục (ham muốn)
Giận mắng mà kêu trách
Hủy nhục nói ác ngôn
Mỗi mỗi đều nghe xong
Mà nói sẽ làm Phật.
Khổ hàng ngàn phi nhất(chẳng phải một)
Nhịn chịu vì dục thôi
Vì ái dục làm tôi (tôi tớ)
Mà nói sẽ làm Phật.
Trong mơ đã thấy Phật
Kia tạm được hồi sinh
Với người thường khi nhờn
Bồ-đề ta chẳng ngợ (nghi ngờ)
Đã nghe xong Kinh đó
Tiếng nói, nghĩa chẳng thông
Mà sống lại trong lòng
Chẳng lâu sẽ làm Phật
Những người nghe Kinh Phật
Nếu đã nghe đây xong
Thì họ sở trước không (có)
Như không trung gió thổi
Có người nhà ra khỏi
Cầu Bồ-đề nhiều hơn
Vì tri thức nên sân
Mỗi mỗi mà sinh khởi
Kia nghèo cùng phước thiếu
Nghe ít (hạn chế) liền vui mừng
Với người có khi tâm(lòng lừa dối)
Bờ Bồ-đề ta tới
Đã thấy (ánh) sáng được cõi
Chúng sinh mà cúng dường
Do đây thiếu vui mừng (đẳng hỉ ?)
Biết Bồ-đề sẽ đến.
Bồ-đề đó xa lắm
Nếu dua nịnh ghét ghen
Ta đạt trí đôi lần
Thì càng xa tối thắng.
Đã nghe diệu Kinh điển (này)
Biết sẽ được Bồ-đề
Thấy cõi Phật Di Đà(Vô Lượng Thọ)
Sẽ chẳng lâu làm Phật.
Bồ-đề đó xa lắc
Có được thấy chỗ nương (y chỉ)
Mà lòng chẳng tương ưng
Thì ta chẳng thọ ký.
Và trưởng giả tử ấy
Của cải đã bỏ lìa
Về sau đã xuất gia
Làm người đi khất thực.
Như Tam muội này được
Ở chỗ Phật Nhiên Đăng.
Nếu nghe khéo tu hành
Chẳng lại sinh ái dục.
Kia xuất gia cạo tóc
Lợi tri thức buộc ràng
Trong biển chọn (lấy) ma đam (ý chọn lấy điều không tốt)
Mà xả bỏ trân bảo.
Trong nghe chẳng sạch ráo
Không giới chẳng xuất gia
Tu hành đạo Bồ-đề
Kia chớ nên buông thả.
Sau này nếu có chỗ
Nói pháp phải lắng nghe
Người kia vì bạn bè (tri thức)
Lại làm chẳng khen nói.
Ở trước phải lễ bái
Và phải xưng điều lành
Vậy tung áo cúng dường
Lại làm chẳng khen nói.
Khóc nước mắt vung vẩy
Phụng thí với tự thân
Tại chúng, kia ở trong
Mà nói ác hạnh ấy.
A xà (già) lê, chẳng ái (yêu thương)
Người cận tụng, khinh khi
Vì thiếu mà phá nhau
Do nhà mà ganh ghét.
Chỉ tin phước người khác
Đức mình chẳng nghĩ suy
Độc ác sẽ sinh sôi
Biết người khác giàu cúng (dường)
Hương hoa, bột thơm lựng
Tràng, cái, phan, man hoa (vòng hoa cài tóc)
Tấu nhạc… cúng dường
Ta Rằng : Bồ-đề sẽ được
Đây, ta cúng dường thật
Nghe thắng định này rồi
Lợi tri thức bỏ rơi
Tu hành thì tương ứng
Sao cúng dường thân mạng
Các tụ ta bỏ xong
Nên cúng dường pháp thân
Cũng như cúng thiện thật.
Ái mạng đã bỏ hết
A lan nhã qua đêm
Kinh này tụng niệm luôn
Đến hết mạng tận thế.
Này Hỷ Vương ta bảo
Tu theo điều nghe này
Không chung bọn dưới đây :
Dua nịnh làm phe đảng
Ở trong ta chẳng tán (khen)
Trong chúng phải nói rằng :
Đây thật ! Đây chẳng chân !
Ở trong chớ dục tín (muốn tin)
Chẳng ở chỗ cảnh hiện
Có muốn Phật Bồ-đề
Sở hữu các hạnh kia
Thì Bồ-đề xa lắm.
Thần thông ta đã chứng
Sức đại thể thấy đây
Cấm giới các hữu này
Tu hành ta đã được.
Ái giới (yêu thích giới cấm) mà phân biệt
Trong chúng tợ thú hoang (dã thú)
Lợi tri thức bỏ xong
Riêng ngụ A lan nhã.
Ta không có chỗ đó
Lời ta nói thật đây
Đời mạt thế sau này
Phú chúc ông Kinh ấy.
Vô Lượng Thọ phóng quang
Và Bất Động Pháp Vương
Sáu mươi ba ức Phật
Chúng hội đã thấy hết
Giáo sư (đức Phật) phú chúc cho
Khiến hộ pháp về sau.
Như Kinh này trí ấn
Ta khắp trì ở sau
Ba ngàn (cõi) liền chấn động
Chư thiên xưng lời lành
Có nhiều hoa mưa xuống
Khi nghe phú chúc này.
***
PHẨM THỨ HAI: TIÊN THẾ CẦN TƯƠNG ỨNG
II- Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương cùng ba mươi ngàn vị Bồ tát nghe những sự phá diệt của chánh pháp lâu sau năm mươi năm đời mạt thế như trên đây thì trào nước mắt, thân thể rúng động, nổi da gà, toát mồ hôi, liền đứng dậy, chỉnh lý một vai áo, gối phải quì xuống đất, hướng về đức Phật chắp tay, cùng nghẹn ngào mà bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con về sau năm mươi năm đời mạt thế, lúc chánh pháp tiêu mất, lúc trong đó đại ách đến, lúc mỗi mỗi đều tan nát, lúc người nói pháp bị bức thiết, lúc biến trí diệt, lúc bạch pháp tan, lúc rỗng không vô mạng, lúc chánh pháp giáo phá diệt, lúc bài báng chính pháp, lúc ngôn ngữ thiếu trí hiện lên, lúc tạp thoại chung ở dẫy đầy, lúc dùng việc ác tìm sự sống, lúc mỗi mỗi hành động chẳng khen ngợi, lúc nghiêm trượng (nghi thức trang nghiêm) của ma xí thạnh, lúc trong đó chuyển bức não lớn… Thưa đức Thế Tôn! Chúng con bỏ thân mạng mình và bỏ những niềm vui tri thức, như con tê ngưu (loài tê giác) ra đi, hoặc trong rừng, hoặc trong rừng nhỏ, lìa khỏi các ái trước. Chúng con ở chỗ những kinh như thế này, chọn lấy trí Như Lai, đạt đến trí đại pháp thể, tàng chứa chủng tính, chẳng làm điên đảo hạnh sở ấn, nhiếp lấy vô lượng căn lành và Kinh Đà la ni đã được ấn khả, đả phá các luận ngoại đạo, thuận giác Biến trí, nhiếp lấy chánh pháp, thị hiện những niềm vui của chúng sinh. Chúng con đều sẽ ghi chép, đọc tụng, thọ trì, giảng nói Kinh này. Thưa đức Thế Tôn! Chúng con chấp nhận chịu trụ ở Nê La Gia vì Kinh báu Tam Ma Địa này! Chúng con cũng lại chẳng bỏ Như Lai, Pháp, Tăng và chẳng bỏ Vô Thượng Chánh Giác.
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ tát mà ngài Hỷ Vương đứng đầu đó, đồng thanh một lòng ở trước đức Phật và chư thiên cùng thế gian, nói lên tiếng rống sư tử Đại pháp Vô Thượng xong, liền nói bài tụng ca này:
Ứng biết lòng chúng con
Như con muốn cầu Giác
Không có đèn sáng khác
Chỉ trừ đấng trượng phu
Lòng chúng con tự nhiên biết làu
Như con muốn cầu trí thắng Phật
Con trong ba hữu không chứng khác
Như người thắng mọi đức đến bờ.
Thân mạng đã bỏ đi
Không còn trên lưỡng túc (hai chân)
Trì tam muội này tốt
Về sau lúc hãi kinh (sợ)
Với thân chẳng yên, lìa mạng mình
Lợi lạc thân gần đều bỏ hết
Hành tam muội vô trần này được
Thì sau này khó có ác to.
Hoặc chẳng thể lường kiếp không bờ
Trụ Nê La Gia sợ ác khổ
Thọ trì vô trần Tam ma địa
Con sẽ chịu đựng trong mọi thời.
Khổ não như vậy không có bờ
Trụ Ta Bà, khốn không người hộ
Tam muội vô trần này trì thọ
Khổ ác hại con cam chịu cho.
Ở trong con kham nhẫn
Chẳng động bền tinh tấn
Con mời các chúng sinh
Pháp thí vật (chất) chẳng xin
Mình lợi, chúng sinh lợi
Đồ cúng các của cải
Danh văn và khen chê
Con đã nhịn xả lìa,
Con thỉnh các sinh chúng
Thật pháp, vật chẳng cầu
Con sẽ rộng nói pháp
Chúng sinh pháp đủ no.
Đã có rồi thanh tịnh
Sẽ làm hạnh Bồ đề
Sẽ tạo nghĩa lợi rộng
Vì xót thương sinh chúng.
Da, thịt và cả xương
Tủy, máu đều khô khan
Con sẽ chẳng lười biếng
Vì thấy khổ sinh chúng.
Da thịt và bạc bì (da mỏng)
Và máu, con khiến khô
Con nay thân phá tán
Chẳng sinh tiểu (nhỏ) tinh tấn
Thấy khổ chúng sinh này
Phải bệnh trong lo sợ
Sẽ khiến qua biển khổ
Không sợ trên đất yên.
Con trụ A lan nhã
Các ái đã lìa bỏ
Từ tưởng đã khắp đầy
Khiến không nóng, ban vui
Rừng nhàn A lan nhã
Ít tiếng (ồn) con dừng trụ
Xa lìa các tạp ngôn(lời nói tạp)
Kia vì ái, chẳng chung.
Con sẽ có ý từ (ý lành)
Cho chúng sinh vui vẻ
Cam lộ thắng dược ban (cho)
Được dược tính (vui), bệnh tan.
Kia đã chẳng thuận học
Như đó lìa lời thật
Con sẽ trụ tu hành
Theo lời nói trong Kinh (này).
Chúng con chẳng theo họ
Thuận học sở hạnh đó.
Nếu chẳng phải hạnh phàm (phu)
Chẳng thật lìa đạo chân
Chúng con sẽ luôn trụ
Trong tự cảnh thật ngữ.
Như Kinh này nói ra
Con sẽ có ý kia
Con sẽ chẳng phóng dật
Như điều biết đức Phật.
Chúng sinh, sức ban cho
Ở trong con đi trước.
Con sẽ thường có chẳng phóng dật
Như Thắng giả biết Biến Trí nhìn (thấy)
Trong các chúng sinh, con cho lực
Con sẽ đi trước trong trí Phật.
Đám cháy con rơi vào
Nếu ăn đồ ăn độc
Chẳng cúng dường tri thức
Chẳng nói Phật Bồ đề.
Con vì pháp nên đọa trong lửa
Ăn đồ ăn độc con vào khổ
Lợi tri thức chẳng lại buộc ràng
Vô thượng Bồ đề chẳng tuyên dương
Ma la nhiều vô lượng
Tác ngại ở bên con
Các ma la đã bỏ
Sẽ làm vua thế gian (thế chi đế)
Ma la trăm ngàn chẳng thể lường
Ở trong, chúng vì con tác ngại
Không não phiền, con đều lìa xong.
Đời sẽ sinh nhánh vua Vô Thượng.
Lại nữa, trong khi Đại Bồ tát Hỷ Vương dùng tiếng rống sư tử để nói thì ba ngàn đại thiên thế giới này, sáu thứ chấn động, ánh sáng lớn soi khắp thế gian, các chúng sinh đều dùng hoa tung lên trong hư không nhiều chẳng phải một lần. Chư thiên có đến câu trí na do đa trăm ngàn người, phát ra tiếng khen lành, lại tấu lên vô lượng vô số cấu trí na do đa trăm ngàn âm nhạc và nói lên lời như vầy: “Vị Đại Bồ tát Hỷ Vương này, chẳng bao lâu nữa sẽ hướng về Bồ đề đạo tràng, sẽ tạo được lời nói sư tử hống của Như Lai đúng như tiếng rống của Như Lai trước chư thiên và người đời”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, ở chỗ của Đại Bồ tát Hỷ Vương, ban lời khen lành rằng:
– Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông có khả năng nhiếp lấy chánh pháp, nói lời rống đại sư tử Vô thượng này! Như ông đã ở bên những đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, nói tiếng rống sư tử như vậy. Này Hỷ Vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm tác khởi ý! Ta sẽ vì ông nói về Đại Bồ tát sở hữu nhiếp lấy chánh pháp đã sinh ra phước tụ. Này Hỷ Vương! Ta nay vì ông đưa ra thí dụ. Ở trong thí dụ này có một bậc trượng phu trí giả biết được ý nghĩa của điều nói ra. Này Hỷ Vương! Như trong phần phương Đông kia có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng, như vậy trong phần Nam phương, Tây phương, Bắc phương và thượng phương, hạ phương, như vậy trong mười phương và trong chẳng chính phương đều có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Những cõi đó đều làm một vòng tường thành vây quanh. Nhưng tường ấy đo lường đến bờ đỉnh mọi người đều cho là lớn. Dọc ngang trên đại thành báu đầy cây dây leo chằng chịt, đầu nhọn buộc vào trụ vững, chẳng gạt mà khiến cho bằng phẳng. Có một vị trượng phu khác sinh ra để phân chia riêng biệt cây dây leo ấy. Nếu vị đó, tay phải nắm lấy những hạt cây dây leo, ném lên không. Những hạt ném ấy không rời ra mà chúng tụ lại thành một đám hạt dây leo lớn. Cho đến khi có một ngọn gió thổi đến, như vậy đám hạt dây leo lớn đó bị xao động tan rã, văng đến trong mỗi một cõi Phật khắp mười phương. Nhưng mỗi cõi Phật chỉ rơi xuống một hạt dây leo, nhất định không có hai. Đám hạt dây leo lớn sở hữu nói trên rơi hết vào các cõi Pmà mỗi một cõi chỉ rơi xuống một hạt. Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Số cõi Phật đó có thể dùng phương tiện để biết được bờ cõi không?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chẳng thể được vậy! Thưa đấng Tu Già Đa! Chẳng thể được vậy! Chỉ có đức Như Lai mới đạt được sự hiểu biết như vậy!
Đức Phật dạy rằng:
– Này Hỷ Vương! Nếu lại có vị Bồ tát tín giải bố thí, ở những cõi Phật nhiều vô lượng vô số, lại chẳng thể tính được, đem bảy báu chất đầy trong đó rồi dùng để ban cho. Nếu có bất kỳ Bồ tát tôn trọng chánh pháp nào mà nhiếp thọ chánh pháp, thậm chí chỉ trong một ngày đêm kham nhẫn vì khiến cho chính pháp trụ thế lâu dài. Như vậy thì vị này phát sinh nhiều phước hơn vị ở trên kia. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương! Vì vị ấy ở chỗ một đức Như Lai nhiếp lấy chính pháp rồi thì tức là đã ở chỗ những đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại mà được nhiếp thọ chánh pháp. Này Hỷ Vương! Khi các báu xả (bỏ) thì chung lậu chung thủ (lấy). Này Hỷ Vương! Lại khi pháp thí thì vô lậu vô thủ, các khổ trở nên tiêu diệt. Này Hỷ Vương! Do đó nên các ông phải tín giải pháp thí, chớ tín giải của cải thế gian. Các ông nên dùng pháp cúng dường để cúng dường cho ta, chớ dùng của cải thế gian để cúng dường, dùng pháp cung kính để cung kính ta, chớ dùng tài vật để cung kính. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương! Vì Bồ đề của các đức Phật Thế Tôn từ pháp mà ra, chẳng do của cải mà ra.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tôn trọng chánh pháp, chẳng tôn trọng tài vật. Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Vì nhất định do pháp nên Đại Bồ tát chứng giác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứ chẳng phải do tài vật. Lại nữa, tài vật khiến cho phiền não dài thêm, pháp khiến cho phiền não tận diệt mà chuyển biến.
Đức Phật ở chỗ Đại Bồ tát Hỷ Vương ban lời khen tốt rằng:
– Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông khéo nói lời nói này! Pháp khiến cho phiền não tận diệt mà chuyển biến! Lại này Hỷ Vương! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm mà tác khởi ý! Ta sẽ vì ông giảng nói! Như Đại Bồ tát trước nhiếp lấy chánh pháp, siêng cùng tương ứng, chẳng tiếc thân mạng, lìa bỏ các niềm vui và dùng tài lợi tri thức để cung kính mà đối với chánh pháp nhiếp lấy.
Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
– Như vậy, thưa đức Thế Tôn! Con rất ưa thích nghe!
Đức Phật dạy rằng:
– Này Hỷ Vương! Khi trước, ở đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại qua vô số vô lượng, rộng chẳng thể lường, chẳng thể suy nghĩ được, vào thời gian đó, có đức Phật hiệu là Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương Như Lai ra đời, Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Giáo Sư Phật Bà Già Bà (Thế Tôn). Lại này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương thọ mạng không lường và có cõi Phật trang nghiêm vô biên công đức và có bảy mươi câu trí trăm ngàn quyến thuộc Thanh văn vây quanh cùng với vô lượng chúng Bồ tát. Hết thảy đã phát ra vô biên hạnh thuận vào pháp giới. Này Hỷ Vương! Như vậy đức Như Lai Thế Tôn Quảng Tịnh Hậu Kim (vàng dày) Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương đó qua đi, diệt rồi. Lâu về sau, khi chính pháp mất đi, có người nói pháp tên là Vô Biên Bảo Chấn Thanh (tiếng) Tinh Hạnh Tụ. Người nói pháp ấy đến hết chỗ hạnh (tu hành hết các hạnh), được trí năm thông, Tổng trì tự tại, chẳng đoạn biện tài, thuận vào pháp hạnh. Người đó đi vào thôn, thành, phường ấp, kinh đô vua… mà vì chúng sinh nói pháp. Điều ngài nói ra cũng là nói Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh Tam ma địa này, lấy đó làm phát khởi. Vị đó theo thứ lớp đã kiến lập được sáu mươi câu trí nadođa trăm ngàn chúng sinh ở đạo Vô Thượng Chánh Giác. Trong lúc đó, có nhiều Tỳ kheo xem ra giống như người nhập đạo (ý nói ngoại đạo) mặc Phú Già La. Nhưng những người đó chẳng sử dụng Tam ma địa này, cũng chẳng thể nhẫn. Họ bị sự trói buộc của tật đố san tham nên ở chỗ vị Tỳ kheo nói pháp kia, bảo cho những người trong lãnh thổ cai trị của vua, những thôn, thành, phường ấp, vương đô chẳng nghe biết, chẳng lệnh cho vào, chẳng chung lời nói, chẳng sánh số lượng… Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, người nói pháp kia bị đuổi ra khỏi thôn, nhưng lòng không khiếp sợ lẩn tránh, lòng không yếu hèn, lòng không sân động, lòng không vẩn đục, lòng không ô tạp… mà chỉ đối với chính pháp như vậy thuận hộ, chẳng tiếc thân mạng, xả bỏ các tài lợi cung kính thôi. Có vị vua rừng lớn tên là Nhị Sinh (Nhị Sinh là chim vậy. Đầu tiên sinh trứng là một lần sinh, ra khỏi vỏ trứng là hai lần sinh. Phàm loài noãn sinh thì đều ứng với hai lần sinh. Vì chim phần nhiều là noãn sinh nên riêng một mình nên riêng một mình được hiệu là Nhị sinh) lên tiếng, tung hoa mà đi đến chỗ người nói pháp đó. Đến rồi, vua Nhị sanh vào ngồi chung với ba mươi ngàn câu trí Bồ tát. Cùng du hành với vua rừng có tứ đại thiên vương… cho đến trời Sắc cứu cánh. Vì nghe pháp nên họ đi đến chỗ ấy. Vị nói pháp đó, ở trong chúng đại thiên mà nói pháp. Bên vị nói pháp đó đầy ắp ba dũ xà na trăm ngàn trời người hiển hiện. Vị ấy ở trong chỗ vua rừng đó vì chúng bốn đại thiên vương mà nói pháp như vầy, như vầy… khiến cho trăm ngàn trời của chín mươi chín từng trời chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và vô lượng trăm ngàn thiên tử chứng được trí kiến đạo (thấy đạo). Ở chỗ đó, bốn đại thiên vương, chúa của ba mươi ba tầng trời và Phạm thiên, chúa của cõi Ta Bà… siêng đến cung cấp hầu hạ tùy theo sự cần thiết của vị nói pháp đó. Như cung cấp hầu hạ vị nói pháp đó cũng có ba mươi ngàn câu trí Bồ tát. Này Hỷ Vương! Vào lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm xuất hiện ở châu Diêm Phù. Pháp vương dùng pháp, ở trong bốn châu, tự tại chuyển luân, bảy báu đầy đủ. Này Hỷ Vương! Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó đầy đủ một ngàn người con trai. Nhưng tất cả đều hóa sinh ra từ Già Pha, chánh niệm chẳng mất. Tám mươi bốn ngàn phụ nữ trong cung đều có phạm hạnh. Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó thường thuận phạm hạnh, thường vào chánh định. Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, vị nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chân Thanh Tịnh Hạnh Tụ biết lòng vị vua đó đã ở đời trước tướng ứng thành tựu, quyết định phát tâm tu hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị vua đó ở trong đêm tịch tịnh, biến hóa thân mình làm voi Ma Na Bà vào trong vầng trăng. Vị vua đó ở trên điện với các người trong cung vây quanh. Rồi từ vua rừng đó, ông bay lên trong hư không giống như chúa chim ưng mà không sở trước, đi đến chỗ vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Đến nơi, ông ra khỏi vầng trăng (Nguyệt luân) hóa làm sắc tượng Phạm thiên, trụ ở trước mặt vị vua đó, tại không trung. Phát ra ánh sáng soi cùng khắp cung điện xong, liền vì vị vua kia mà nói bài tụng ca rằng:
Chủ đất người chớ phi pháp hạnh
Vang danh khen ngợi ắt chẳng tăng
Dùng hạnh phi pháp chẳng vui lòng
Chúa loài người không vui hiện tại.
Chúa đất, trước cũng pháp hạnh ấy
Nay được lợi tự tại bốn châu
Không đoạn chúng tánh hộ pháp mầu
Với pháp hạnh chúa người thuận hộ
Với mắt chánh pháp ứng thuận hộ
Chánh pháp hộ xong rất vui mừng.
Có nhiều Tỳ kheo, cấm hạnh không
Bài báng Bồ đề và Thiện Thệ
Tu Phật Bồ đề, chúng tôi khởi
Như vậy “kiến xả” và chúng sinh
Nếu vì những hạnh này, khi hành
Như vậy chúng sinh rơi đường ác.
Châu Diêm phù có Tỳ kheo xuất (hiện)
Hiệu Vô Biên Tụ Địa Chấn Thanh
Quan sát nghĩa, nói chánh định rành
Phú Già La, vô ngã, vô mạng
Ngài nói Tam ma địa tịch tịnh
Mà Tỳ kheo bị đời đuổi đi
Trong vua rừng Chấn Thanh diệu vi
Tá túc trong đó khéo hộ pháp.
Kia trụ rừng đó mừng vui khắp
Trời Sắc Cứu Cánh đều đến nơi
Để nghe Ngài nói tam muội này.
Nhiêu câu trí trời phát hạnh đạo.
Vua voi, ông muốn đi đâu đó
Nghe biển công đức Tam ma địa?
Và vì chúng sinh làm lợi nhiều?
Nay nên đến người nói pháp kia.
Như Lai sinh ra rất khó được
Bạn nói pháp lại khó gặp
Chúng sinh cầu pháp càng khó hơn
Gặp người hộ pháp rất khó khăn
Châu Diêm phù này, ông tự tại
Vì chánh pháp ông nên nhiếp lấy
Người nói pháp, vô úy thường cho
Như vậy trong thành nói pháp đến.
Nếu lời tôi nói vua thực hiện
Đương lai nhiều lợi ắt được luôn
Và vì chúng sinh làm lợi hơn
Thì sẽ được nhiếp Bồ đề Phật.
Này Hỷ Vương! Như vậy người nói pháp kia ở chỗ vua đó giác ngộ, quan sát xong, như vậy trở lại đường hư không vào với nguyệt luân, lại đi đến chỗ Lâm vương kia. Vị vua đó nghe sự giác sát này rồi vui mừng, nhảy nhót, yêu thích, thỏa lòng thì thiện ý lại phát sinh. Đêm đó qua rồi, nhà vua cùng với một ngàn người con và bốn binh chúng cùng rất nhiều chúng nhân khác đi đến chỗ vua rừng lớn Nhị Sanh Chấn Thanh Tán Hoa đó. Đến rồi, nhà vua hướng về chỗ người nói pháp kia. Vào lúc đó người nói pháp đang vì chúng đại thiên và Đại Bồ tát rộng nói Tam ma địa này. Lúc bấy giờ, vị vua đó và các con cùng những người vây quanh đều thấy người nói pháp đó và các vị Đại Bồ tát thì liền được niềm vui mừng đại ái tịnh tín. Những người đó đem lòng tịnh tín đảnh lễ dưới chân người nói pháp đó và đảnh lễ dưới chân những vị Đại Bồ tát kia xong, ngồi về một bên. Những người theo nhà vua đã ngồi xong, người nói pháp kia vì họ nói giảng Tam ma địa này. Những người kia nghe Tam ma địa này xong được niềm tịnh tín yêu thích mừng rỡ. Lúc bấy giờ, vị vua đó đắc được Tam ma địa này. Và trong số người rất nhiều đó có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Và một ngàn người con đó đều cùng thuận được Bất Đoạn Biện Tài. Này Hỷ Vương! Như vậy, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm vui mừng hớn hở tràn đầy trong lòng, liền đứng dậy, đem hai chiếc áo vô giác dâng lên che vị Tỳ kheo nói pháp đó. Các thứ sở hữu của nhà vua đều đem ban cho và bố thí vô úy tô tức (?)…. cho đến cung cấp, hầu hạ trọn đời (tận thọ), tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà dâng cho ăn, mặc và nói như vầy: “Thưa Tỳ kheo! Ngài nên hạ cố đi vào thôn, thành, phường, ấp, vương tôi xin làm thị giả, khiến cho các chúng sinh sẽ được trí này”. Này Hỷ Vương! Nhà vua kia nói lời như vậy rồi đảnh lễ dưới chân người nói pháp đó và quyến thuộc xong, đi ra trở về bổn cung. Này Hỷ Vương! Lúc bấy giờ, người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ từ trong vua rừng đó đứng dậy đi ra, rồi vào trong thôn, thành, phường, ấp, vương đô phát khởi việc nói pháp vì chúng sinh. Nhà vua đó ở những chỗ có người đều ban lời tuyên dạy rằng: “Không một người nào đối với vị Tỳ kheo mà chẳng ái niệm, chẳng vui lòng, chẳng kính trọng, chẳng so sánh”. Một ngàn người con trai của vị vua đó đi theo sau vị nói pháp kia, tiếp nối nhau ủng hộ vì pháp lợi. Và ba mươi ngàn người bà con vương tử khác cũng vì Đại Bồ tát kia mà làm người hầu hạ sai bảo. Tùy theo việc làm của vị ấy mà họ làm cho người được những hạnh vui. Này Hỷ Vương! Người nói pháp đó vì thành tựu chúng sinh nên tự lượng thân mạng trì Kinh nửa kiếp. Vị Tỳ kheo đó khiến cho vô lượng chúng sinh ở trong ba thừa đều đã thành thục. Nhà vua đó và các con cùng mọi quyến thuộc, hoặc là cấp sư (người cung cấp sai bảo) của các vương tử kia hay làm người cấp sứ của Bồ tát đó, ở trong số ấy đều đã phát tâm Bồ đề. Bọn họ do nghe Tam ma địa này và hạnh căn lành đời trước nên đều chung cùng ở trong tám mươi kiếp, thừa sự sáu mươi tần bà la các đức Phật Thế Tôn. Các xứ đều nghe Tam ma địa này đúng như sở dục của họ mà nhiếp lấy cõi Phật, ở trong ấy, hoặc có người đạt đến Bồ đề, hoặc có người hiện hành hạnh Bồ tát vì thành thục chúng sinh. Này Hỷ Vương! Như trong lúc đó, có người nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Ý ông nghi là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì chính đức Như Lai Vô Lượng Thọ là người nói pháp trong lúc đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Trong lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Ông cho là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì chính là đức Như Lai Bất Động đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Một ngàn người con của vị vua kia trong lúc đó, ông cho là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì là những Đại Bồ tát trong kiếp Hiền này hay là một ngàn vị Phật sẽ ra đời trong đại kiếp Hiền đó vậy. Lại này Hỷ Vương! Người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ, trong lúc đó, sở hữu ba mươi ngàn Bồ tát bằng hữu theo sau nối nhau vây quanh. Ý ông nghi họ là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao vậy? Vì những Đại Bồ tát đó, ở trong một kiếp, chứng giác đạo Vô Thượng Chánh Giác. Này Hỷ Vương! Như vậy nhiếp lấy chính pháp siêng cùng tương ứng với Đại Bồ tát, vì vô lượng vô số chúng sinh mà tạo tác nghĩa lợi và mau chóng được Tam ma địa này. Này Hỷ Vương! Do đó nên hoặc ta hiện tiền, hoặc ta diệt độ thì Tam ma địa này phải nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói, tư duy, vì người khác diễn nói rộng rãi, mau chóng phá được ma quân.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn làm cho ý nghĩa này vượt cao hơn nữa nên liền nói bài tụng ca này:
Với các chúng sinh nếu cho lạc (vui)
Ngàn na do tha chẳng nghĩ năm (nhiều)
Phước này chẳng lường bằng ví dụ
Nếu lòng này sinh Bồ đề nhân.
Chúng sinh sở hữu trong mười phương
Họ đều thành tựu hơn Độc Giác (Duyên Giác)
Cúng dường họ ngàn câu chi kiếp
Tâm tịnh đem vui thường ban cho.
Nếu Bồ đề này, sinh dục ra
Rằng: “Ta sẽ được trên hai cẳng” (nhị túc thượng)
Tam ma địa này trì một tụng (tụng ca)
Đâyvới đó phước thắng có thừa.
Các chúng sinh gặp đời có Phật
Ngàn câu đê kiếp cúng dường Phật
Họ cũng chẳng được ví phước này
Nếu một lòng phát Bồ đề ngay
Hợc đối với Phật pháp thủ hộ
Tam ma địa này bốn câu kệ
Phước như vậy phi tân Bồ đề
Như người thủ hộ chánh pháp kia.
Chúng sinh trong thế giới Ta Bà
Hoặc dùng Bồ đề hóa độ họ
Nghe xong, với người chẳng thọ đạo
Thì chẳng sinh ra sợ phước này.
Nếu có Bồ tát bố thí tài (của cải)
Trải hằng hà sa câu trí kiếp
Dùng trân bảo ở cõi đầy ắp
Cũng chẳng nghe Tam ma địa này
Như vậy nếu có người trí trì
Bốn câu kệ tụng của định ấy
Thì phước đức tụ nhiều lắm vậy
Chẳng cần nhiều ức kiếp thí cho.
Nếu bậc Thắng giả hộ Bồ đề
Được định Vô Trần chẳng thể nghĩ (bàn)
Chẳng thể dùng lời mà nói đủ
Như người có phước nhiếp lấy kia
Ở trong sinh tử thấy Phật nhiều
Ý niệm đó chưa từng quên mất.
Ở trong đất nước hạnh sở dục
Tam muội này nên chép giữ gìn
Niềm vui của thân như của lòng
Được sinh lên trời gặp bậc Thánh Đương lai, khổ não chưa từng gánh.
Vua Tam ma địa vui mừng theo (tùy hỷ)
Ngàn na do đa cái cửa vào
Bậc ánh sáng vô biên hứa cho
Ta trụ thắng lực mà nói ra
Cốt do định này Bồ đề được
Như Tổng trì môn được biện tại
Được Tam ma địa như thần túc
Thánh vô lưu người trí sở đắc
Nếu diễn nói Tam ma địa này
Trong các cõi người trí ra đời
Họ sẽ hiện tiền thấy chư Phật
Nghe được pháp Phật thọ trì hết
Tụng, tập, chuyển đều do định này
Nếu được đoan chính, căn đủ đầy
Ba mươi hai thứ tướng trăm phước
Chúng sinh thấy rồi vui nhảy nhót
Tụng tập, chuyển đều do định này.
Người trí tiếng đẹp lời ý hay
Đủ sáu mươi phần âm ngạn (bờ tiếng) đến
Nhiếp lấy Phật âm tịnh sinh chúng
Do nghe định này khen nói lành.
Họ sẽ được tuệ mà khôn lanh
Họ cũng được trí mà không đục (bẩn)
Lòng các chúng sinh, họ cũng biết
Nếu trì Tịch Tam ma địa này.
Cửa sở nhập không một tiếng lay
Kia ở trong ấy chẳng sinh biện (luận)
Mà trong các tiếng được xảo thiện
Do tụng Tam ma địa vô trần
Được lòng chẳng nhỏ, chẳng thẹn thùng
Lại được hoan hỷ sinh nhảy nhót
Hỷ lạc đó chưa từng giảm bớt
Do rộng nói Tam ma địa này.
Việc thấy ta nay như đến tay
Các ông nên chính tâm khởi dậy
Các ông là con, thuận ta dạy
Phát tu định này sẽ được thành.
Đây có ông hứa, ta nói lên
Các ông tịnh tâm làm tương ứng
Đến nay ta trụ nên siêng làm
Chớ để về sau phải nhiệt não.
***
PHẨM THỨ BA: THỌ KÝ
I- Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng:
– Hy hữu quá, thưa đức Thế Tôn! Rất là hy hữu Tu Già Đa! Thậm chí đức Như Lai cũng xưng nói khen ngợi công đức sở hữu của Đại Bồ tát nhiếp thọ chánh pháp này. Thưa đức Thế Tôn! Pháp nào mà Bồ tát phải đầy đủ để được Tam ma địa này?
Đức Phật dạy rằng:
– Này Hỷ Vương! Một pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Cái gì là một? Này Hỷ Vương! Ở trong Bồ tát bền chắc thệ nguyện trụ trong Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỗ đó, hoặc có phá hoại, hoặc đối trước đùa giỡn, hoặc hướng về người khác hủy báng, hoặc tranh trái quấy, hoặc sân mắng, hoặc quở trách. Người kia ở trong hoàn cảnh ấy không phẩn hận, không tỵ hiềm, không sinh kết hận, mà trụ ở trên sự quan sát tâm mình. Khi ta phát tâm Bồ đề không người thỉnh ta, hoặc trời, rồng, hoặc Dạ xoa, A tu la, Già lưu trà, Kiền thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già và phi nhân, chẳng phải phi nhân, cũng chẳng có một người thế gian khác thỉnh ta. Chỉ tự tâm của ta suy nghĩ mà sinh tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng khi tâm đó của ta sinh ra thì các đức Phật đều biết. Ta nay chẳng nên như thế này: Như ta vì người khác phá vỡ tự tại, như đối trước người khác đùa chơi, như giận mắng, như quở trách, như khinh khi, như giỡn học, như nói hại, như đánh… muốn khiến cho họ sợ hãi xả bỏ Bồ đề hay xả bỏ chúng sinh. Như ta lại tác khởi ý nhỏ nhoi, hoặc sinh ra tâm Thanh văn hoặc tâm Độc giác… thì ta đã lừa dối các đức Phật Thế Tôn. Nếu tâm này sinh ra Bồ đề thì ta nay cần phải trụ chắc chắn ở thệ nguyện. Khi tâm đó sinh thì nhất định chẳng buông bỏ cho đến khi chưa ngồi Bồ đề đạo tràng. Này Hỷ Vương! Đây là một pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn cho ý nghĩa này sáng tỏ hơn nữa nên liền nói lời tụng ca này:
Người trí thường sinh thề bền chắc
Vì cầu Vô Thượng Đại Bồ đề
Ta ở trung gian chẳng mỏi mệt
Dùng tâm chẳng mệt hành Bồ đề.
Nếu bị đùa chơi và tranh cãi
Giận mắng, quở trách, chẳng cúng dường
Tự tâm như vậy thuận an ủi
Ở trong không có giận phá sinh (ra)
Như ta khi tâm Bồ đề sinh
Chẳng phải trời rồng… thỉnh ta vậy
Trong các chúng sinh ta sinh bi (từ bi)
Sinh tâm duyên với đạo Bồ đề.
Nếu lại ta nay khởi ý nhỏ
Thì ta lừa dối các Thế Tôn
Ta bền tinh tấn chẳng mỏi mệt
Thủ hộ thệ nguyện mà làm Phật.
Hành giả như vậy đại danh xưng
Tam ma địa này có hiện tiền
Tâm Bồ đề căn bản đứng vững
Hành pháp Bồ đề chẳng khó khăn.
Này Hỷ Vương! Lại có hai pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là hai? Như ngôn như tác, các hạnh Bạch pháp chọn lấy mà chẳng chán. Này Hỷ Vương! Ở trong, cái gì là như ngôn như tác? – Bồ tát này nghe nói có hạnh Bồ tát, nghe có Phật pháp đầy khắp thì Bồ tát đó chọn lấy những điều này mà làm. Ta cũng tu hành những điều này. Bồ tát hành rồi, nhân đây sẽ giác ngộ Phật pháp vô thượng. Bồ tát đó làm đúng như lời nói tức là chọn lấy mà làm. Như hành thành tựu, hành động thanh tịnh thì đây là như ngôn như tác. Sao gọi là trong các thiện hạnh chẳng chán? – Bồ tát này tác khởi ý niệm này: “Biến Trí không lường, như vậy chúng sinh không lường, ta làm lợi nghĩa, họ chẳng thể do thiếu căn lành, thiếu hạnh. Đối với vô lượng Biến trí mà được đầy khắp, vì vô lượng chúng sinh mà làm lợi nghĩa”. Bồ tát đó nếu khi phát khởi ý thiện như vậy mà đem hồi hướng hết những hồi hướng không lường đó thì sẽ như biển lớn cầu nghe chẳng chán. Này Hỷ Vương! Đây là hai pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Như nói tức Như làm
Đó không chẳng Như nói
Đó cũng chẳng nói năng
Biệt dị này nếu có
Bồ tát đó là Như nói năng (ngôn thuyết)
Như vậy hạnh tướng nghe đã hành
Người trí như nói tức như tác
Đó được định này Phật công đức
Bạch pháp chẳng đủ, nhàm
Những vị đó không chán
Bồ đề kia không lường
Vô lượng tánh công đức
Với bạch pháp lại chẳng đủ, nhàm
Ý thường chẳng đủ giống như biển
Vô lượng vô biên cõi chúng sinh,
Chẳng thể ý nhỏ mà đủ, chán
Lời nói của Như tức Như làm (như tác)
Lai với pháp cầu chẳng chán pháp
Với hai pháp này thuận học hành
Kia được định này Phật công đức.
Này Hỷ Vương! Lại có ba pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là ba? – Bồ tát này có ba thứ cấm giới thành tựu. Những gì là ba? – Đó là thân giới, ngữ giới và ý giới; lại không có ba thứ phiền não đốt nóng. Những gì là ba? – Đó là tham dục đốt nóng, sân ác đốt nóng, ngu si đốt nóng và trong ba cõi chẳng nương mà tu hành Phạm hạnh. Có ba pháp cụ túc này Bồ tát được Tam ma địa này. Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Cấm ngăn ba thứ chỗ
Thân, miệng và ý lòng
Đã tịch ba phiền não
Trong ba cõi chẳng nương
Cấm ngăn thân, ngữ và cả ý
Ba thứ phiền não lại lặng lòng
Và trong ba cõi chẳng nương cậy
Nên Tam ma địa được mau thành.
Này Hỷ Vương! Lại có bốn pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là bốn? – Đó là biết nhân sinh ra pháp, biết nhân đó rồi và biết nhân sinh ra pháp rồi liền xả bỏ cái nhân ấy và chẳng chấp trước nhân sinh ra pháp. Bồ tát đó biết đầy đủ như vậy thì Bồ tát chẳng thấy có một pháp nào mà chẳng phải do nhân sinh ra. Bồ tát đó nghĩ như vầy: “Nếu pháp đó nhân duyên sinh thì bản tính “không” kia chẳng sinh. Lại nữa, Bồ tát đó có trí cụ túc như vậy rồi thì chẳng khởi vô minh và khiến cho vô minh diệt nên vì chúng sinh mà nói pháp. Bồ tát đó chẳng khởi các hành và khiến cho biết các hành nên vì chúng sinh mà nói pháp… cho đến chẳng khởi lão tử và khiến vượt qua lão tử nên vì chúng sinh mà nói pháp. Này Hỷ Vương! Đây là bốn pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Đã biết ở nhân duyên
Nhân sinh ra cũng biết
Thì đó không nhận thức
Như đoạn và cả thường
Và nhân cũng biết cùng (khắp)
Hoặc tướng, hoặc tự thể
Hoặc pháp thuộc về nhân
Ở trong, trí chẳng trước (chấp)
Sự sinh của nhân duyên
Là không, nếu có thật
Nếu trí chuyển bên trong
Thì được Tam ma địa
Khắp biết vô minh xong
Thì các hành chẳng sinh
Như biết cũng Như nói
Lợi ích cho chúng sinh.
Bốn pháp này nếu có
Bồ tát, các Thắng giả
Thì chẳng khó được thành
Tam muội Phật khen ấy.
Này Hỷ Vương! Lại có năm pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là năm? Này Hỷ Vương! Đó là Bồ tát biết Tác biết Hợp, biết Cửa, biết Hạnh, biết Đạo. Ở trong, sao gọi là Tác? Sở dĩ nói Tác là nếu ở trong chúng sinh mà lòng bình đẳng, xả bỏ mọi thứ tưởng, trong các chúng sinh chỉ dùng một vị Từ (bi). Đây gọi là Tác. Ở trong, sao gọi là Hợp? Nếu biết quả báo chín muồi trong thân, thiện nghiệp đã làm hồi hướng về đạo Bồ đề, ở trong chẳng chạm đến. Đây gọi là Hợp. Ở trong sao gọi là Môn (cửa)? Cái gọi là môn chính là không môn hay cam lộ môn (y vào Phạm bản thì gọi là Bất tử. Từ xưa đến nay theo nghĩa gọi là cam lộ), ở trong cũng chẳng do cái gì khác. Đây gọi là Môn. Ở trong sao gọi là Hạnh? Đó là không hạnh, độc hạnh, như hạnh. Hạnh của các pháp bản tính đều tịnh. Đây gọi là Hạnh. Ở trong, sao gọi là Đạo? Cái gọi là lìa khỏi ngã tác và ngã sở tác (ta làm và cái ta làm) là chánh kiến của bậc Thánh. Đây gọi là Đạo. Này Hỷ Vương! Đây là năm pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Đẳng tâm trong chúng sinh
Những bậc đó làm vậy
Nghiệp báo thục (chín) cũng tin
Thì hợp này Vô Thượng
Đạo phi, pháp tiểu đều lìa xong
Cầu đến pháp lành chẳng ngưng bỏ
Đều đem hồi hướng Bồ đề đạo
Mà với Bồ đề, chạm đến không. ( không chạm đến Bồ đề)
Biết được cửa giải thoát
Là vô tướng và không
Cũng chẳng làm với nguyện
Đây là Vô thượng môn.
Ở trong các pháp có thiện xảo
Ở trong các pháp thường chẳng nương
Riêng tự hợp với Vô sinh cảnh (cảnh giới vô sinh)
Ngã và ngã sở, đó chẳng sinh.
Việc làm kẻ trí hợp với hạnh
Và trong bốn đạo trụ ở luôn
Là Hợp Bồ đề chẳng khó được
Huống chi Tịch tam muội này thành.
Này Hỷ Vương! Lại có sáu pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là sáu? Đó là biết Nhãn (mắt) và biết tự tánh của Nhãn. Kia biết Nhãn rồi và biết tự tánh của Nhãn rồi, ở trong ý sáng Sắc, chẳng ý sáng sắc không có chấp trước ngăn ngại đạt đến lượng ngang bằng. Sắc này Nhãn căn (cơ quan của mắt) chẳng đốt cháy. Như vậy biết Nhĩ, Tỷ, Thiệc, Thân, Ý và biết… tự tính của Ý… kia biết ý rồi, biết tự tánh của ý rồi, ở trong ý sáng pháp và chẳng ý sáng pháp không có chấp trước ngăn ngại, đạt đến lượng ngang bằng. Pháp này ý căn chẳng đốt cháy. Này Hỷ Vương! Đây là sáu pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Biết đến tự tánh Nhãn
Phi tự tánh, tự tánh
Kia trong Sắc chẳng ngăn(ngại)
Hoặc không hoặc bất tịnh
Trong sắc đến ngang bằng
Kia không có dục nhiễm
Biết bản tính thể xong
Kia không có đốt cháy.
Như vậy Nhĩ, Tỵ cùng
Thiệc, Thân và cả Ý
Biết tự tánh kia xong
Trong các pháp chẳng trước (chấp)
Sáu cảnh giới giam cầm
Khiến bên ngoài chẳng chạy
Trí tự tánh đủ thành
Phi dục, phi ly dục
Trí như vậy tối tôn
Là bậc thắng Bồ tát
Người đó chẳng khó khăn
Được Phật Tán Tam muội.
Này Hỷ Vương! Lại có bảy pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là bảy? – Đó là chẳng Siểm (dua nịnh), Thuần trực, dục pháp, cầu pháp, quan sát pháp, khai pháp, hành pháp. Này Hỷ Vương! Nhờ bảy pháp cụ túc này, Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Không có siểm khúc luôn luôn thẳng
Và khác lời ý khác đều không
Sở niệm của ý như lời nói
Người trí tự vui kẻ khác cùng (với)
Trụ ở trong Thuận pháp, hành pháp
Dùng tiếng làm Tối Thắng chưa từng.
Như vậy siêng hợp thì được định
Mau chạm đại Bồ đề không trên (vô thượng).
Đó có dục pháp vang tiếng cả (lớn)
Có chán đủ cầu nghe chưa từng
Như nghe chánh niệm mà quan sát
Vì người nghe (người) đó lại tuyên dương.
Này Hỷ Vương! Lại có tám pháp cụ túc khác để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là tám? Đó là: Giới tụ đều tịnh, các ái trước xa lìa, lòng thường xuất gia, ưa trụ chỗ tịch tịnh, chẳng vì các lợi dưỡng, lòng chẳng tiếc thân, tín giải cao đạo, đối với ái, chẳng ái lòng bình đẳng. Này Hỷ Vương! Đầy đủ tám pháp này Bồ tát được Tam ma địa này.
Ở trong đức Phật lại nói lời này:
Khắp tịnh với giới tụ
Trong thiện tịnh trụ dừng
Đã lìa các ái trước
Trong Thắng giáo xuất gia
Thiện Thệ dạy Tỳ kheo
Nên xả bỏ lợi dưỡng
Mà cầu trụ Tịch này
Định này rất khó thấy
Hành tối thượng này nếu tu hành
Trong ái, chẳng ái không có khác
Nhiếp lấy tám pháp mà chuyển hành
Thượng Tam ma địa này ắt được.
Này Hỷ Vương! Lại có chín pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là chín? Này Hỷ Vương! Đó là Bồ tát này xả bỏ chín việc sân, vượt khỏi chín chỗ chúng sinh trụ (ở), thành tựu chín lớp định, qua khỏi tám tà đão (tà kiến điên đảo), vào trong tám chánh, lìa khỏi tám chẳng nhàn, chứng tám giải thoát, biết bảy thức trụ, tu bảy giác phận. Này Hỷ Vương! Đầy đủ chín pháp này, Bồ tát được Tam ma địa ấy.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Chín trú xứ sinh chúng
Ở trong chúng sinh nương
Đoạn lìa khỏi các kiến
Kia không có hỏi nương (y vấn)
Đoạn lìa tám chẳng nhàn
Đã chạm tám giải thoát
Ở chỗ trụ bảy thức
Dùng chánh niệm biết cùng (khắp)
Người trí tu niệm bảy giác phận
Đoạn các phân biệt, bứng não phiền
Như vậy siêng hợp thì được định
Thắng Bồ đề cũng lại chạm liền.
Này Hỷ Vương! Lại có mười pháp cụ túc để Bồ tát được Tam ma địa này. Những gì là mười? Đó là: Bỏ các sở hữu, kham nhẫn thuần trực nhiếp lấy lưu chuyển không lường, đầy đủ trí xuất thế, chẳng được các chúng sinh mà Đại từ, trì giữ những điều đã nghe do đa văn, vượt các cuộc bố thí mà Đại Bi, chẳng dùng các phương tiện vui khéo léo, niệm khắp các đức Phật, mười nghiệp đạo thiện này, thậm chí trong mơ cũng chẳng quên mất, nói pháp nương vào tâm Bồ đề, chẳng tham muốn thừa khác. Này Hỷ Vương! Đầy đủ mười pháp này thì Bồ tát được Tam ma địa ấy.
Ở trong, đức Phật lại nói lời này:
Bỏ các sở hữu mà vui mừng
Cũng có lời nhẫn, tâm thuần trực
Câu trí kiếp, hạnh thiếu thốn không
Tam muội này, người đó mau được.
Người có trí tuệ không não phiền
Kẻ có lòng từ không hy vọng
Nhiếu thọ điều nghe chẳng mất quên
Tịch tam muội này người đó được.
Bi các chúng sinh, chẳng đùa bàn (hí luận)
Các xảo phương tiện chẳng ưa thích
Chánh niệm là niệm các Thế Tôn
Tịch tam muội này, người đó được
Hộ những mười thiện đều sạch trong
Thậm chí trong mơ chẳng từng mất
Lòng nghĩ đến hạnh Bồ đề luôn
Trong tiểu thừa chưa từng hâm mộ.
Như tối thắng pháp này nếu có
Thì được Phật pháp chẳng khó khăn
Quân chúng Ma la (ma) chóng phá được
Sẽ chạm Tịnh Bồ đề tối tôn.
Lại nữa, khi đức Thế Tôn nói pháp bản này thì bảy mươi ngàn chúng sinh xa trần lìa cấu, ở trong pháp được pháp nhãn tịnh, bảy ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác, đều được thọ ký Bất thoái chuyển, ba mươi ngàn Bồ tát trong pháp Vô sanh được Nhẫn mà về sau muốn hộ trì thành lũy pháp, vô lượng chúng sinh thành tựu căn lành. Ba ngàn đại thiên thế giới này, sáu thứ chấn động, đại quang soi khắp thế gian, ba đường ác lặng dừng, trước mặt các chúng sinh, họ đều thấy đức Như Lai. Đức Thế Tôn, từ thân lại phóng ra ánh sáng. Nhờ ánh sáng này nên vô lượng vô số thế giới tràn đầy ánh sáng. Chúng sinh ở những nơi đó mà ánh sáng chạm đến thân rồi thì họ đều đối với đức Phật, chánh niệm thuận theo, cùng vui tương ứng, lìa bỏ nhiệt não. Ánh sáng Thế Tôn đó, ở trong mười phương, vô biên trân bảo trang nghiêm, chẳng phải một trăm ngàn thứ màu sắc. Có câu trí na do đa hoa sen trăm ngàn cánh mọc ra khắp các chỗ. Trong hoa sen có hình tượng giống như đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Nhưng hình tương tợ Như Lai đó, ở trong hoa sen kia, ngồi ngay thẳng hiển hiện. Trong những chỗ hoa sen đó, trên đài hoa sen có vị tương tợ Hỷ Vương Đại Bồ tát, gối phải trụ ở đài hoa sen rồi, cũng hỏi Tam ma địa này như vậy. Mỗi một vị Như Lai đó giác ngộ, thành thục vô lượng câu trí na do đa trăm ngàn chúng sinh. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng:
– Này Hỷ Vương! Ông có thấy trong khắp mười phương vô lượng vô số vị Như Lai tương tợ ta ngồi trong hoa sen và những Đại Bồ tát tương tợ Hỷ Vương như vậy chăng?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
– Con thấy, thưa đức Thế Tôn! Con thấy, thưa Tu Già Đa! Nhưng mà con chẳng biết số lượng.
Đức Phật dạy:
– Này Hỷ Vương! Có thể thủ lấy hết số lượng cát sông Hằng mà chẳng thể biết số lượng của những đức Phật Thế Tôn đó. Như vậy các đức Phật Thế Tôn sở hữu ông đã thấy vậy. Như vậy số Đại Bồ tát tương tợ ông kia cũng lại chẳng thể biết số lượng của họ.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn thu nhiếp lại thần lực hy hữu xong liền bảo Đại Bồ tát Hỷ Vương rằng:
– Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Như Lai từ cõi Phật này có chỗ ra đi sao? Ngồi mà động sao? Ông cũng có chỗ ra đi sao?
Ngài Hỷ Vương đáp rằng:
– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn! Chẳng vậy, thưa Tu Già Đa!
Đức Phật dạy rằng:
– Này Hỷ Vương! Do chính nhân duyên! Ông nên biết rằng, các pháp đều Như, sinh tướng tác trụ, khởi ra phân biệt, không lai không khứ, sở dục Như, sở tác Như vì không ai chủ vậy. Ông nên biết, những cái đó đều rỗng không, chia lìa. Này Hỷ Vương! Vậy nên ông đối với các pháp nên phải tín giải, thấy chúng như lửa hừng, như mộng mơ, như bóng dáng, như tiếng vang, như trăng đáy nước, như điện chớp, như bọt nước… Các ông nên học như vậy. Vì sao vậy? Vì Bồ tát tín giải sâu sắc sẽ được Tam ma địa này.
***
PHẨM THỨ BA : THỌ KÝ
II- Ở trong, đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ tát Hỷ vương rằng :
– Này Hỷ Vương ! Nếu lại có Bồ tát nương vào chúng sinh của ta, qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, mà thí cho, hộ giới, niệm Nhẫn, phát khởi tinh tấn, vào thiền định, tu trí tuệ. Nếu lại có Bồ tát tín giải các pháp vô ngã thì vị này hơn vị kia về phước đức tụ sinh ra và mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Giác. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương ! Thuở xưa, đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại quá không tính toán, chẳng thể lường, vô lượng chẳng thể nghĩ ca la đó (bất động) tam ma gia đó (bình đẳng) có đức Như Lai ra đời hiệu là Bảo Quang Uy Luân Vương Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Cụ Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, thế giới tên là Hữu Bảo; kiếp tên là Ứng Vãng. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai đó có Hữu Bảo thế giới giàu có phong túc rất là vui sướng, nhiều người chen nhau huyên náo, đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có sành sõi, thừa thải vàng bạc, như sờ vào áo Cơ chơn lâu nê ca, tám con đường nối liền nghiêm sức thuần màu xanh dạ lưu ly. Và có hoa sen vàng Diêm phù na đa (Diêm phù đàn kim) tự nhiên sinh ra trong phần lớn đất đai. Hoa lớn như bánh xe, hương sắc đẹp đẽ thơm lừng. Thế giới đó rộng rãi có đến sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn châu. Trong mỗi một bốn châu có sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn thành. Những thành lớn đó đều rộng ba mươi hai dũ xà na, đều có tường vách bằng bảy báu và có nhiều câu trí na do đa trăm ngàn chúng sinh trụ ở. Mỗi một thành lớn có mười hai ngàn thôn, thành, phường, ấp vây quanh. Những đại thành đó nhất nhất đều có năm trăm ngôi vườn thọ dụng với đủ thứ những cây báu đầy hoa trái hương thơm vây quanh trang nghiêm. Trong những vườn đó nhất nhất đều có ba mươi hai ao hoa (hoa trì), trong ao ấy đầy tràn nước tám phần cụ túc (nước tám công đức). Cát vàng (kim sa) trải khắp, lan can báu vây quanh xen lẫn những thanh dạ lưu ly. Và có hoa báu Ưu ba la, ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi (Phân đà lợi)… sinh ra trong vườn ấy. Những loài chim như ngỗng, nhạn, giao thanh, khổng tướng, uyên ương, Ca la tần già, mạng mạng (cộng mạng) trụ ở trong những hoa Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi đó, mỗi mỗi đều phát ra âm thanh. Này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai có khu vườn tên là Ái Kiến mà đức Thế Tôn đã ở trong đó. Đức vua cai trị xứ tên là Hữu Nguyệt y chỉ mà trụ chung với bảy mươi hai câu trí Thanh văn và tám mươi bốn câu trí Bồ tát đều chẳng thoái chuyển. Này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, có bảy bảy mươi hai câu trí trụ ở. Trong các xứ đó có tám đường thông nhau. Lại này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, rộng sáu mươi bốn dũ xà na với tường vách bằng bảy báu, lan can bảy báu, đủ thứ các trụ cửa báu và cây Đa la hàng lối la liệt đều mắc lưới gắn chuông nhỏ. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, trong đó có Nguyệt Vương cai trị xứ, có vua tên là Bảo Nguyệt, ở trong bốn ngàn châu, chuyển luân tự tại, vì pháp thi hành vương pháp. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó với vua hữu Nguyệt kia, chỗ cai trị đều tạo lập cung điện, nhà cửa bằng bảy báu, đều rộng bốn dũ xà na với bảy lớp tường ngăn… cho đến lưới gắn chuông thất bảo giăng mắc vây quanh và lưới bằng ngọc Ma ni che bên trên những thứ ấy. Trong cung điện nhà cửa đó, bốn phương có bốn ngôi vườn lớn, một tên là Tạp Họa (vẽ) Xa, hai tên là Thường Khai Hoa, ba tên là Hy Kiến, bốn tên là Chánh Hạnh Lạc. Trong vườn lớn đó có đủ thứ cây sinh ra. Đó là cây báu, cây cho hoa, cây cho mùi thơm, cây cho quả, cây anh lạc (cho chuỗi ngọc), cây cho áo, cây âm nhạc, cây phú sa (cát giàu), cây nguyệt thượng, cây nhật thượng viêm. Trong vườn lớn đó nhất nhất đều có bốn ao hoa lớn đầy ắp nước Chiên đàn na với lan can báu giáp vòng, đáy ao trải cát vàng Diêm phù na đa. Các hoa báu Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi che bên trên ao ấy. Chim uyên ương hòa kêu. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có bốn mươi hai ngàn phụ nữ đứng vào hàng các thiên đồng nữ. Trong số đó có một thiên phụ (phụ nữ trời) rất lớn tên là Hữu Phước. Nhan sắc người ấy minh hiển hơn hẳn các trời. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có mười hai ngàn người con, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu. Người con tối thượng tịnh sắc viên mãn cụ túc, có hai mươi tám tướng đại trượng phu trang nghiêm khắp thân. Này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt xuất cung, đến trong vườn Ý Hỷ Kiến dạo chơi, hành lạc. Tối đại thiên phụ tên là Hữu Phước, trong lòng bỗng có một đứa trẻ hóa sinh trụ trên mu bàn chân, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu, có hai mươi tám tướng đại trượng phu đầy đủ. Đứa trẻ đó, vào lúc sinh ra nói lời như vầy : “Các hạnh vô thường, vô trụ không có dừng yên, điên đảo hướng về pháp”. Đứa trẻ đó thuận nối nhau, nói kệ này :
Các hạnh vô thường không dừng yên
Không trụ, không bền đão hướng pháp
Phàm tiểu niệm, đây là thường an
Vì dục buông lung không chánh niệm
Theo “hữu dục” người và chư thiên
Đều là vô thường, tận pháp thể
Với dục chán đủ chưa có từng
Không chắc khổ dục là căn khổ.
Có Thế Tôn hiệu là Bảo Quang
Ngài nói vô cấu vô vi pháp
Các căn ở trong tịch không còn
Và thánh lạc Bồ đề vô lậu
Lời này Ngài nghe con trình lên :
Như Lai ra đời khó gặp được
Nên cùng đi đến bên Thế Tôn (Thiện Thệ)
Trời hơn cả trời, quang minh hạnh.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo hướng về đồng tử kia lại nói kệ rằng :
Ông là trời, rồng, Dạ xoa, thần
Đồng tử vì ta nói nghĩa ấy
Ông sinh nói lời như vậy liền
Với Phật pháp nói lời khen ngợi
Ông chết ở đâu, đến thế gian?
Ông tên là gì? Hướng ta nói !
Ánh sáng đều soi khắp trong vườn
Thắng đức uy thần, ông hiển chiếu.
Đồng tử đáp lại rằng :
Có đấng trượng phu ở phương Đông
Tên đạo sư Tu Mê Lưu Tụ
Con chết ở đó đến thế gian
Pháp Vương Bảo Quang, con muốn thấy
Như vậy Pháp Thượng là tên con
Con nay phát nguyện tu Phật trí
Ngài nếu muốn nghe tối tôn
Nên cùng đi đến bên Thiện Thệ.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo cùng với đồng tử Pháp Thượng và các phụ nữ, các vương tử và rất nhiều người vây quanh khóc đi đến vườn Ái Kiến, hướng về chỗ của đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đến rồi, nhà vua đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về trụ ở một bên. Số rất đông người đi theo vua ấy cũng đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương rồi lui về trụ ở một bên. Đồng tử Pháp Thượng làm lễ dưới chân đức Thế Tôn đó rồi, miệng kêu ở dưới chân Ngài mà nói lời như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai Tu Mê Lưu Tụ gởi lời hỏi thăm đức Thế Tôn là ngài có được ít bệnh ít não, đi ở nhẹ nhàng, khí lực hành động thoải mái chăng?” Đồng tử nói rồi, đứng trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai và hướng về đức Thế Tôn đó mà nói kệ rằng :
Đấng Vô Thượng Tư Nghị Cúng Dường
Tối Thắng diễn nói hạnh Vô Tránh
Độ thoát chúng sinh nhiều không lường
Nhân Chúa tại tòa, nay con lễ
Ba ngàn cõi này làm Giáo Vương
Thế Tôn hay dùng Pháp bảo thí
Vì người rộng nói báu pháp tàng
Phá vua Ma la, quân La sát
Trong chúng như trăng soi khắp cùng
Nói đạo đi qua bờ giải thoát
Giáo sư năm lực và năm căn
Ngũ nhãn Thiện Thệ, con qui mạng
Giáo Sư lìa hết các não phiền
Hành trong đất này, vua Chuyển Luân
Trừ bỏ ba cấu giống như mắt.
Mắt thanh tịnh ly cấu thế gian
Ma hầu la già, người, sinh chúng…
Không ai chẳng hướng về người trên
Tối Thắng không cao cũng không thấp
Con nay kính lễ các Thế Thân (thân cận với đời)
Được cùng chẳng được, hạnh bình đẳng
Các tướng hoa nở, trượng phu trăng (trượng phu nguyệt?)
Như hoa sen, chẳng nhiễm thế pháp
Thế thân hay khiến cành ái tan (đoạn)
Khéo điều (phục) đầy đủ, lòng đã phục
Bình đẳng Thí, giới, lòng không sân.
Chúng sinh khó phục, đã điều phục
Trăng trong người Thiện Thệ phục lòng (?)
Ngôn ngữ dịu dàng khéo thuận ý
Khi nói hay động đến ba ngàn (thế giới)
Trời rồng tu la và người nữa
Họ nghĩ đây là con nói lên
Đây là không, không chúng sinh tính
Không có tướng, nguyện cũng lìa tan.
Ngài nói trong này “vô xứ khứ”
Cũng không có lại, chết cũng không
Pháp giới chẳng động, không trú xứ
Đời trước, đời sau chẳng đắm tham (trước)
Ở trong khoảng ấy như hư rỗng
Ngài nói pháp này, nghĩ ngợi không,
Thế Tôn thường nói đến thật tế
Trong này, các đời chuyển mê loàn (loạn)
Như mù, đầy phiền não, sân nhuế
Họ tác khởi niệm ngã và nhân
Pháp này tợ như mây cùng huyễn
Điều mắt thấy chẳng động rỗng không.
Nhẫn thắng diệu này nếu có được
Bọn đó Giáo sư đuổi theo luôn
Giống như vẽ hư không đủ thứ
Không chỗ, không có một chỗ dừng (trụ)
Như vậy chỗ trụ tự nhiên biết
Nên kia không có một chỗ dừng (trụ)
Các tiếng khi nghe không có thật
Cũng chẳng thể thấy trú xứ không (có)
Hoặc nghe, hoặc nói cũng lại vậy
Bản tính chúng chẳng động rỗng không.
Pháp Thắng Giả, thể tướng cũng không
Sẽ thấy sự thị hiện như huyễn
Nếu thấy như thể không biệt phân
Sẽ thấy Thiện Thệ cũng như vậy.
Cõi, chẳng cõi, các cõi ngang bằng (bình đẳng)
Chư Phật bình đẳng công đức Phật
Các pháp bình đẳng pháp tịch không
Các chúng sinh bằng không chúng sinh
Bất tận mất hết ở trong tận
Bất tận mất hết không trong tận
Tận ấy chẳng tận, tận chẳng tận
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Phân biệt, phân biệt khởi phân biệt
Các pháp cũng không chỗ khởi lên
Nếu đã khởi thì thường chẳng khởi
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Thấy kiến (thấy) thường không có kiến thể
Hoặc thấy chẳng như quán như thế
Hoặc thấy những pháp này rỗng không
Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
Chưa từng có thể biết đời trước
Tối thắng thật tế do chẳng biết
Tế thường không tế, nếu biết thông
Thì tiền tế (đời trước) đó theo đoạn dứt.
Ở trong biên, vô biên chẳng nương
Bờ này, bờ kia thường chẳng trụ
Nếu trong ba cõi (hữu) không trú xứ
Thì kia, thật tế trụ ở trong
Nếu kia trụ ở trong thật tế
Thì trong ba cõi, trú xứ không,
Nếu trong ba cõi không trú xứ
Thì kia thường trụ trong thật tế.
Nếu sắc tợ như bọt nước gom
Biết Thọ cũng như bọt nước nổi
Tưởng niệm giống như lửa sáng hừng
Nếu biết thì trụ trong thật tế.
Các tụ là hữu vi, không bền
Nếu biệt tợ như là cây chuối
Biết ý cùng huyễn kia tương đồng
Thì tụ tan đó đã tiêu diệt.
Nếu với từ bi khéo tu hành
Ở mình và người không y chỉ
Tu niệm hạnh tối thượng sạch trong
Thì sẽ làm Phật như trời Tịnh
Nếu lìa rộng khắp các não phiền
Thì kia chưa từng có thủ trước
Bỏ các sở hữu, bỏ sạch trơn
Bố thí đó được Phật ngợi khen.
Nếu thân giống như trăng đáy nước
Biết lời nói ra như tiếng vang
Biết lòng như ánh chớp trong không
Giới kia thù thắng trong ba cõi
Đến bờ kia nếu Nhẫn điều xong
Ý đó việc ngoài chẳng tổn hại
Hay biết sáu căn như thôn không (xóm trống không)
Nhẫn đó được Thiện Thệ tán thán.
Không sở úy nếu ưa nhàn riêng
Minh trí đôi lần hành cảnh giới
Thân tâm tịch tịnh, hạnh trực, thuần
(Tinh) Tấn đó thù thắng trong ba cõi.
Nếu người diệt bản tính não phiền
Rỗng không phân biệt người tịch trí
Nếu tưởng chẳng chuyển trong ba cõi
Thì định kia Thiện Thệ ngợi khen.
Nếu biết trong này người không có
Thì với Thượng trí, kia được liền
Nên lìa hí luận mà tịch tịnh
Trong ba cõi trí đó thắng hơn
Nếu ở trong “hữu” không mệt mỏi
Trong câu trí kiếp lúc hành khổ
Chưa từng ham mộ thừa thấp hèn
Bọn Ma la kia đều kinh hồn
Như ở trong biển lấy giọt nước
Con nói Tối Thắng, công đức trên
Phật pháp rộng rãi không có biên
Chưa từng được ở bờ cõi đó.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng ở trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai, khi nói bài kệ này thì khắp cùng những ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trăm ngàn câu trí na do đa âm nhạc đồng thời tấu lên và mưa xuống các hương thơm, vòng hoa cài tóc, hương xoa, hương bột. Tám ngàn vị Bồ tát đều sinh ra nhẫn ở trong pháp Vô sinh. Vua bảo Nguyệt ấy cùng các phụ nữ và các đồng tử với đại chúng đó đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng hướng về đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai bạch như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Những Tam ma địa nào khiến cho Đại Bồ tát sẽ được nhiếp lấy các pháp? Sẽ được nhiếp lấy cõi Phật công đức trang nghiêm? Sẽ được đủ đầy chúng Thanh văn, Bồ tát? Sẽ được của cải thọ dụng vô thượng? Sẽ được vượt qua các ma la, các phiền não ác? Sẽ được đủ đầy chánh niệm, chánh ý, chánh thú, tàm quí, trụ trì trí tuệ? Sẽ được nhiếp thọ các điều đã nghe? Sẽ được đủ đầy ngũ thông thắng trí? Sẽ được vô trước ưa nói tổng trì? Sẽ được đủ đầy biện tài? Sẽ được đủ đầy sáu Ba la mật? Sẽ được đủ đầy sinh vào gia đình dòng họ hình sắc thọ dụng? Sẽ được vui lòng tiếng nói tác nghiệp? Sẽ được đủ đầy các công đức? Sẽ được giỏi biết vào, ra các định giải thoát Tam ma địa? Sẽ được đủ đầy các thứ trí công đức, chưa được Phổ trí mà luôn làm Phật sự vì chúng sinh?”. Đồng tử ở trước đức Phật ấy nói như vậy xong thì đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai hướng về đồng tử Pháp Thượng bảo như vầy : “Này đồng tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo dấy lòng suy nghĩ ! ta sẽ vì ngươi diễn nói ! Nếu đầy đủ Tam ma địa thì Đại Bồ tát sẽ được những điều này và vô lượng vô số chẳng thể lường thắng công đức khác nữa, cũng sẽ mau chóng hướng về đạo tràng Bồ đề. Này đồng tử ! Có Tam ma địa tên là Quyết Định Quan Sát Các Pháp Hạnh. Nếu được Tam ma địa rồi thì Đại Bồ tát vượt qua các cảnh giới ma la, sẽ mau chóng chứng giác đạo Vô Thượng Chánh Giác”. Đức Như Lai đó vì đồng tử kia dùng lời kệ rộng nói Tam ma địa này :
Như nói như việc làm
Làm rồi chẳng nói dối
Thân, miệng, ý sạch trong
Có từ tâm ích lợi
Với bi chẳng mất quên
Và chán các dục hạnh
Vì pháp vui cầu luôn
Thệ trí cũng chẳng bỏ
Khéo léo trong từ ngôn (lời nói)
Xuống vào chúng sinh trí
Chẳng tiếc với nghiệp thân
Trong thân chẳng tham muốn
Phải lìa lời ác liền
Với lòng chẳng hý luận
Cứu giúp khổ chúng sinh
Giác ngộ kẻ phóng dật
Người siêng dạy tương ưng
Kẻ hối khiến ra khỏi
Chẳng trụ tưởng chúng sinh
(Bản Phạm văn thiếu một câu)
Tưởng việc chẳng phân biệt
Xa lìa khói lấy nâng
Các tướng cũng sẽ diệt
Chẳng động trong thọ dùng
Thường phải cầu trí tuệ
Xa lìa lời thế gian
Phải cầu được xuất thế
Chánh niệm chẳng mất quên.
Thuận niệm với các pháp
Như vậy sẽ khéo khôn
Việc làm làm đầy đủ
Và thuận hạnh thế gian.
Nên phải tin nghiệp báo
Xa lìa lòng chẳng tin
Nên phải tin chư Phật
Đó nên thuận niệm luôn.
Thường nên nói tội lỗi
Phước tụ phải theo mừng
Và khuyến thỉnh chư Phật
Lễ bái, hướng Thế Tôn
Thường hàng phục kiêu mạn
Làm thiện không chán nhàm
Cũng thường siêng tương ứng
Toan làm chớ bỏ buông
Thành tựu hạnh tu chính
Phải biết sự tạo nhân
Chớ theo danh thí thiết
Bị trách chớ nổi sân.
Chớ chấp trước ngôn ngữ
Chớ nghĩ đây thật chân
Chẳng cần trụ Dục giới
Sắc, Vô sắc các dòng (giống).
Như nghiệp đã chịu báo
Quả đó phải nên tin
Chia cho vật sở dụng
Dạy bảo chẳng hủy thương.
Bình đẳng với chúng sinh
Một người cũng chẳng hại
Siêng, lười đều chẳng sân
Không ghét người sở đắc.
Sở dục phải đầy lòng
Như pháp hộ thệ nguyện
Với giới không lìa tan
Kiêu mạn phải trừ diệt.
Chuyển đổi lỗi hận sân
Ngu si cũng bứng đứt
Tham dục chẳng phát hành
Theo được liền biết đủ.
Lìa bỏ các thân quen
Không lợi lòng chẳng thấp
Được lợi chẳng cao hơn
Chỉ mừng được pháp lợi.
Thường làm bình đẳng phân
Phải lìa khỏi tích trữ
Nghe được lời ác ngôn
Nhịn nên hay nín chịu
Thường hộ trì ngữ ngôn
Bồ đề thừa phải nói
Thường khuyên siêng tương ưng
Người tinh cần kề cận
Kẻ trí luôn hỏi han
Tăng tu kỹ chánh định
Chớ bỏ ngụ không nhàn
Trụ Đầu Đà thiểu dục
Nên phải tin giải không
Với việc không đắm trước
Tụ lạc chẳng nương dừng (y chỉ)
Trong cõi chẳng tham dục.
Chẳng thấy ta bên trong
Chẳng ái trước cảnh giới
Diệt các ý đảo điên
Với lòng luôn gìn giữ.
Trí tuệ nên phải sinh
Thường hành nghiệp chánh hạnh
Lòng ấy chẳng khiếp hèn
Phải niệm ruộng phước tịnh.
Các hành phải bỏ buông
Thí rồi không cầu mong
Cũng chẳng niệm trì giới
Với Nhẫn không biệt phân,
Chẳng phát khởi tinh tấn
Trong định cũng chẳng nương
Chẳng quên mất các pháp
Trí tuệ nên giác thông.
Nên phải vào các Ba la mật
Trong công đức minh, nghĩ chưa từng,
Nghe công đức người chẳng giận ghét
Hữu vi, vô vi lòng ngang bằng (bình đẳng)
Niết bàn lúc nào cũng vin níu
Với Hữu vi phải xa lìa luôn
Giải thoát yên ổn luôn luôn biết
Trong xóm tưởng như kẻ sát nhân
Với chỗ Niết bàn thường sinh ái
Hòa nhẫn luôn luôn trụ ở trong.
Mặt vui không làm vẻ nhăn nhó
Thấy người khác thì trước hỏi han
Ở với người già từ (bi) tôn trọng
Và tâm trí tuệ khéo nối liền.
Với người khác chưa từng trách phạt
Nếu có đấu tranh khiến lặng yên
Với chỗ tịch tịnh thường khen ngợi
Thường dạy hợp, chúng sinh hòa đồng.
Ái, chẳng ái, lòng thường bình đẳng
Thường phải cầu đến Tổng Trì Môn
Như mẹ yêu thương các sinh chúng
Như cha yêu thương các thánh nhân
Yêu thương tôn trọng như thân cận
Yêu Bồ tát như Phật Thế Tôn
Yêu pháp cũng như yêu tự thân
Và cầu điều nghe không chán đủ.
Đã nghe pháp xong chánh tu hành
Với Như Lai cũng thường cúng dường
Với pháp thắng thượng phải tín giải
Không tâm khiếp nhược, không giải đãi.
Với Tam Bảo luôn phải cúng dường
Thường phải nhịn chịu lời bất chánh
Thường chẳng luyến ái với tự thân
Thọ mạng cũng lại chẳng tham tiếc.
Sống đời thanh tịnh, thường xin ăn
Chẳng bỏ Đầu Đà, theo thứ lớp
Chưa từng lìa chỗ ngụ không nhàn
Xa, xa nữa, phải bỏ đồ chúng.
Kẻ tại gia chớ ưa ở chung
Với người xuất gia chớ làm loạn
Chớ yêu, chớ trá, trước lời lành
Dạy hóa nhiều người vào Phật trí.
Khi nói pháp, lòng không khiếp hèn
Phương tiện giỏi xem biết người khác.
Với Phật luôn luôn khởi trong lòng
Và thường nghĩ pháp chẳng phóng dật
Cũng ở chỗ Tăng tôn trọng luôn.
Và thường cúng dường với người trí
Phương tiện khéo trí cũng thường gần
Thường tác vô tránh với người định
Với kẻ tinh cần giúp hảo tâm
Cũng niệm tu pháp tin việc phước.
Giáo hóa chúng sinh khiến làm lành
Người tin phải yêu, lòng ngay thẳng.
Nếu chạm việc khổ hay mở tan
Thường nương thời hành, phi thời bỏ
Thường hành khủng úy và thẹn thùng
Trong tội ác đó sinh thẹn sợ.
Các hạnh bất chánh xa lìa xong
Được người chánh hạnh, luôn thân cận
Vì giải thoát, với giới giữ gìn
Cũng lại phải cầu đến hạnh Thánh.
Bốn niệm xứ luôn nghĩ tu hành
Cũng thường thân cận bốn chánh đoạn
Và bốn như ý túc sẽ thành
Với các căn cũng sẽ xuất sanh.
Nên phải cầu lực cũng như định
Với bảy giác phận luôn xét xem
Thường phải tu hành tám phận đạo
Xá ma tha cũng cầu nhóm gom
Tỳ phát xá na luôn sinh Đế
Tâm đã tùy hỷ mà xét xem
Trong pháp tùy hỷ lại sinh hỷ
Cũng sẽ siêu việt các phàn duyên (duyên vin vào)
Nghe không trú xứ chẳng kinh sợ
Chỗ chẳng thể được, chớ buông lung
Thường phải cầu mong Bồ đề hạnh.
Hạnh Phật sẽ làm, tin xưng lường
Nên phải chán bỏ hạnh cảnh giới
Cũng phải bỏ những hạnh trước làm
Nghiệp mình tịnh, không nói người khác
Luật hạnh chẳng phá, hằng thời làm
Giỏi học cấm giới biệt giải thoát
Bỏ phi thời, thường nương thời hành.
Khéo hai trù liệu nên đi, lại
Vật tốt biết lường tự cấm dừng
Và ở dòng thánh đều biết đủ
Cũng lại cầu vào Thắng trí thông.
Trong Tam ma địa phải vin níu
Và với định hạnh, biết vào trong
Phải vào sở dục, lòng sinh chúng
Theo đúng lời nói thầy dẫn đường
Cũng nên nhiếp lấy thuyết vô ngã
Nếu kẻ siêng hợp khiến vui mừng
Niệm tu hành như Tối thắng thể
Tam ma địa này phải niệm luôn.
Nghe đã tin Thanh văn chánh hạnh
Đạo Duyên Giác phải học thuận tùng
Chủng tánh chư Phật phá ma đạo
Tam ma địa này phải cầu luôn
Phát hành Thắng Giác do ở Thí
Người chẳng thoái chuyển hạnh Thế Tôn
Nhiều câu trí kiếp hạnh kẻ trí
Chính biển nghe là chỗ pháp hành
Trong cảnh giới này, pháp tôn trọng
Nếu tín giải là cửa thật chân
Thị hiện này, trú xứ của Phật
Ở pháp tạng này cầu báu trân
Ở trong ruộng này cầu quả đó
Phiền não nhiệt là trong hy viên (vườn vui lòng)
Ưa trì pháp, đây là vườn tược
Ái kiến đó là Tam ma địa
Muốn cầu Bạch pháp, mẹ này sinh
Người có sở dục được không nương
Các tướng thắng diệu sẽ buộc lấy
Các đẹp theo tướng cũng hiện lên.
Đất nước trang nghiêm đây an trụ
Đây cũng được nghe và giữ gìn
Sinh ra đủ thứ, đây thuận giác
Lời thanh tịnh, tiếng nói thật chân.
Cũng hay vượt qua Ma la cảnh (cảnh giới ma)
Nhiếp lấy xa xăm, mặc giáp đồng
Giết hại phiền não, nương điều phục
Đây cũng phá tan các chẳng lành (bất thiện)
Muốn cho các thiện được xí thạnh
Muốn được cầu nguyện làm trang nghiêm
Nhiều chúng mà ma chẳng phá được
Đây, lúc nói cũng không tận cùng.
Đây cầu cùng thế gian bình đẳng
Luận sư ngoại đạo chẳng chánh chân
Đây hay qua khỏi Thanh văn pháp
Bậc Độc giác thắng, đây là duyên
Trí nhất thiết trí, đây gìn giữ
Sở thú chúng sinh đây cũng trụ
Đây hay giáo hối người thật chân.
Trong lúc đây chọn lời bạn lành
Bậc căn vô cấu, đây thiên nhãn
Và với pháp nhãn muốn cầu tìm
Cầu người nói pháp đây thắp đuốc
Cầu lời chân thệ, đây thật thành
Cầu người tài thí, đây là xả
Cầu giải thoát kiến, đây hợp cần
Cầu người vui định, đây tịnh tín
Muốn nghe biển pháp, đây chánh hành
Câu mê lưu định, đây là lực
Muốn cầu pháp đạo, chủ ngang bằng
Vì muốn sự tịnh diệu trang nghiêm
Tự tâm điều phục, đó là Phạm
Phương tiện cầu pháp, đây hỷ tâm
Và bất thoái chuyển, đây sở hạnh
Đây là thú hướng hạnh nói năng
Thường nghĩ người trí tuệ lợi căn.
Đây là việc phương tiện đầu nghiệp (nghiệp bắt đầu)
Trượng phu vua trâu, đó trí tràng
Muốn cầu thắng thì đó bằng cung (tên)
Cầu vô ngã là na la dạ (?)
Nếu hướng Phổ trí, đây là đường
Cầu thiện thoát là giới bình đẳng
Đây là chỗ trời… lễ bái luôn
Đây là chỗ rồng… tung hoa mãi
Và là người đều dâng cúng dường
Dạ xoa hy hữu khen ngợi tốt
Hàng trăm La hán cũng lễ mừng
Bồ đề Thắng Thiên cũng xưng tán
Nếu Như Lai đều niệm của mình
Muốn hộ căn thì đó nang thành (quách)
Như pháp trụ là hợp phương tiện
Định y chỉ, đó được ngang bằng
Các hữu nghi thì khiến phá tán
Hữu mê hoặc thì đều khiến đoạn
Cao mạn phiền não khiến diệt tan
Muốn qua bờ kia, hay khiến độ
Bệnh ràng buộc, đây là thuốc lành
Người có bệnh, đây là trị thật
Tên độc phiền não hay nhổ lên
Muốn hợp lý là tạo suy nghĩ
Trong chúng, sư tử rống không kinh (hải)
Ở chỗ Thiện Thệ cầu nghe pháp
Và thường đường này là Niết bàn
Hay đoạn các đường ác sở hữu
Ở chỗ ba cõi đều vượt lên
Cầu cõi công đức, đây trang nghiêm
Kim cương dụ định đây với đó
Sinh tòa sư tử lần sau cùng.
Việc cầu phước đức, đây chẳng mất
Các việc muốn cầu, đây nhiếp hết
Thường thiếu mệt thì khiến ngưỡng mong
Chưa có tinh tấn, đây phát dục
Nương níu duyên thì khiến lập yên
Pháp hạnh khác biệt, che khiến trụ
Có bình đẳng thể, đây thành tựu
Nương vật kiêu, dật, đây trừ tan
Lấy vật ngang ngược, đây buông bỏ
Biết hết các thứ trí khắp cùng (châu biển)
Cầu trí tuệ thì đây sinh xuất
Cầu phước thiết hội (lập hội) đây chẳng mất
Nương ba hữu (cõi) thì đây dứt nguyền
Cầu Bồ đề, thường không có tướng.
Ba đời các pháp không
Biết rồi mà chẳng xả
Thời thời phương tiện trí
Làm vì các thế gian
Chủng tính Phật thở than
Trí Phật là từ đó
Chớ cầu đến lỗi lầm
Ở người nói pháp đó
Cũng lại chớ khi khinh
Sở kiến kia chưa học.
Người nói pháp, chớ sân
Phải ở gần tôn trọng
Nghe thật phải biết chân (thật)
Chớ huỷ báng kẻ trí
Thí pháp, vật chớ mong
Nói pháp chớ dè xẻn
Nghe pháp tôn trọng chung
Tâm ý chớ tán loạn
Vì nói pháp hết lòng
Nếu thấy người ưa dục
Thí pháp chớ đoạn dừng
Chớ duyên vào việc khác
Kham nhẫn hỏi thẳng thừng
Hoặc hỏi vì giải thoát
Hoặc kẻ có ác tâm,
Trong đó Nhẫn tạo tác.
Hối và cả nghi hoặc
Đó đều đoạn vì ông
Nếu thấy chưa được đạo
Đem đạo vì tuyên dương.
Khi định này suy nghĩ
Dễ được trí Thế Tôn (Phật)
Các sở tác, các cúng (dường)
Người nói pháp ở bên
Cầu tám phận thắng đạo
Với việc khác chớ duyên
Nếu tâm ác tranh cạnh
Khó phục khiến phục hàng
Không nương “ đẳng túc” đó
Thần túc nên cầu mong
Niệm tuệ và hành xứ
Những người cầu pháp đó
Phát khởi đều nói rằng :
Hành Bồ đề nếu phát
Thị hiện câu trí Phật
Đều cõi đó trụ yên
Nói hóa độ chúng sinh
Nếu người thuyết pháp đó (nói)
Vị này là rất ngon
Nếu kia hành Lan nhã
Và cầu du hí thông (thần thông)
Mà rống tiếng sư tử.
Hạnh những trí giả đó
Với tịch diệt ngợi khen.
Đoạn nhiệt có thanh lương
Đây là câu “bất đọa”.
Nói lợi ích mở trói
Hỷ lạc phát ở thân
Lòng ấy cũng kinh (sợ) hỷ (mừng)
Người trí du hý trí
Kia cầu trí khắp cùng (châu biến)
Tịnh tín những pháp đó,
Trụ Phật trí chẳng thoái
Quyết định vì Bồ đề
Bạch pháp thuận huân tập
Các ác đều bỏ đi
Với hắc trợ giết hại
Bạch pháp liền tự lại (đến)
Những người học giới kia
Nếu muốn cầu phước đức
Những người đó thành được.
Nếu cầu thì tương ưng
Những người đó đến được
Tướng đoan nghiêm trong thân
Hạnh này Phật thuận biết
Các thánh thân cận xong
Trí sáng soi trong trí
Phổ trí Phật trí thành
Trụ đây rồi sẽ thấy
Câu trí bậc đoan nghiêm
Trong này, đó đại lực
Kẻ trí hỏi nghi nan
Đoạn trừ các nghi ấy
Các hoặc đều diệt tan
Trong này sinh Phật pháp
Được người Thắng ngợi khen.
Lìa bỏ các đời ác
Và sở hữu não phiền
Chẳng mất các phước đức
Với phước nếu cầu mong
Thì họ duyên kẻ trí
Ái pháp là tột cùng
Và vui mừng mắt pháp
Người dũng kiện thân gần.
Biện luận pháp suối chảy(trôi chảy)
Muốn cầu khéo ngữ ngôn
Đã nói thì họ hộ
Người nói pháp sở hữu
Và biết các nhân duyên
Ưa gặp người nương cậy.
Trong các pháp khéo ưng
Hòa hợp chẳng hòa hợp
Trí thể, phương tiện phân
Nói đến các pháp xong.
Như vậy hiện các pháp
Trí tư duy thật chân
Ở trong đoạn lưới khát
Phải bỏ các ái trước
Vô minh ở trong tan
Sẽ được hiện tiền sáng
Khắp biết tính (sổ) ở trong
Chỗ đó nói vô trước.
Biết ý đủ thứ lòng
Ở đây rộng nói xong
Sắc cùng danh nhiếp lấy
Những đó nói ở trong.
Chỗ sáu căn quan sát
Như thấy làng trống không
Với xúc bên ngoài biết
Sẽ được thấy trí Phật
Nếu lìa ba thứ ngôn (nói)
Thì họ thủ ở trong
Và diệt ba thứ ái
Thị họ nói ở trong
Nói ở trong xả bỏ
Nếu chỗ sở sinh đó
Với hữu họ đoạn tan
Ở trong định này nói
Bệnh hợp dứt hẳn sinh
Và lìa tên độc chết
Các khổ tịch ở trong
Thì các dòng phân biệt
Các lo khiến vui mừng
Ý ác khiến giải tán
Thành phương tiện sạch trong
Nếu người hành pháp đó
Đầy đủ sự xét xem
Nếu có sự cầu thắng
Tạo sáng trong ác sân
Nếu sở hữu mê nhãn (mắt mê)
Trong nay sấm Phật vang
Khi chuyển bánh xe pháp
Hạnh mạnh, đây xưng dương
Nếu trí thế gian đó
Trong này khắp trừ tan
Nếu trược loạn não phiền
Trong này hại các kiến
Nếu sở hữu ta nương
Thọ lấy và cho giữ (trì)
Trong này đều nói xong
Chẳng lẫn trong trí Phật
Như vậy sẽ được hơn (thắng)
Các pháp tăng trưởng luôn
Đây là đạo trí khéo
Bạch pháp tịch tụ luôn
Xa lìa các nghiệp ác.
Pháp Phật tu niệm luôn
Nói sẽ không san lậu
Chẳng đoạn giống Thế Tôn(Phật)
Phải trụ ở trong đó
Chủng tính pháp sáng lên
Thánh chúng đều nhiếp lấy.
Ứng phục thầy luận bàn(luận sư)
Ngoại đạo muốn khởi dậy
Nói pháp xưng rằng : lành
Bọn họ sẽ hưng tán (khen ngợi)
Hạnh Bồ đề thường hành
Ở đó không tâm niệm.
Như trăng, các chúng sinh
Thường tạo ý bằng hữu
Các pháp, như vầng dương (như nhật)
Luôn giữ suy nghĩ chính
Giáo sư tưởng khởi luôn
Ở trong nghĩ định ấy.
Định này giống như vương (vua)
Vì chúng sinh rộng nói
Vì người trí dẫn đường
Bạch pháp lòng chánh tín.
Quả cam lộ chín thành
Khiến niệm trụ đời trước
Thọ thai, nhiễm bẩn không
Phép si nhi chán bỏ
Công đức Phật đại tiên
Khi khen không bờ bến
Khi trì tuệ Thế Tôn (Phật)
Thiện Thệ khi đã nói
Và trí khi chép thành
Khi nói sẽ được phước.
Xa lìa ngoại đạo xong
Đây là chỗ bất động.
Lời nói thọ thế gian
Lời nói của chư Phật
Công đức quá khứ Phật
Ở đời sau cầu mong
Hiện tại trụ chư Phật
Đây là các bảo tàng.
Khiến chúng sinh vào hạnh
Vì nói thừa Thanh văn
Với trí chẳng quên mất
Phật pháp, đây là in (Ấn)
Đây ra đó mạnh mẽ
Đây, báu không biến đổi
Và các trí mau thành
Muốn hỏi công đức Phật
Ham pháp không chán nhàm
Tan các lửa phiền não
Trí phương tiện sẽ thành
Địa giới riêng suy nghĩ
Thủy giới sẽ vào trong
Vào với định Hỏa Giới
Phong Giới, trú xứ không (có)
Không giới chẳng mê hoặc
Trong trí giới hiện lên
Khiến vào với Pháp giới
Chán lìa khỏi các hành
Khiến tan các ái nhiễm
Các biển “hữu” ghét thêm
Trừ diệt các hoạn nạn
Hạnh khác cũng biết rành
Muốn nói không có hết.
Trong phương tiện sạch trong (vô trược)
Chỗ ra sẽ thuận biết
Ngã kiến phải bỏ xong
Cũng xa lìa Ngã sở
Nhiễm trước phải trừ tan
Kiêu mạn nên điều phục
Như chó hành vì ăn
Không tham trong bố thí
Đã ăn nên no tràn
Ăn rồi phải biết lạc (vui)
Tại ấm không thiếu được
Nước lớn phải qua nhanh
Các luận chẳng thể phá
Thuần trực không vin duyên
Xa lìa khỏi thụy miên
Thân cận người nói pháp
Trạo hí vượt qua liền
Cũng nên diệt nghi hoặc
Và các dục khiến tan
Cũng lìa xa lười nhác
Chỗ Ngã chẳng thấy được
Vô ngã khiến hiển minh
Chẳng trụ ở với mạng
Chạm pháp cũng chẳng nên
Chẳng đấu tranh trong pháp
Nói hợp nghĩa ngang bằng
Dùng lòng giỏi suy nghĩ
Các hạnh sở hữu không
Phải gần gũi người trí
Các nơi, khiếp nhược không.
Trong đó phải tín giải
Tại chúng chớ kinh hoàng.
Nói công đức người khác
Chớ nâng cao thân mình
Chỗ sở hạnh Biến trí
Luôn luôn cần phải hành
Không ái trước trú xứ
Như chim bay mất tăm.
Chớ hành vì lợi dưỡng
Cũng chẳng kể thân mình
Tâm cũng chẳng giảm kém
Khéo biết chỗ kinh hành
Phải thuận theo tu niệm
Chớ nghĩ, chớ nhớ mong
Cũng sẽ cầu giải thoát
Luôn ở chỗ lặng yên.
Thường niệm tu phạm hạnh
Với định sẽ được nhanh.
Từ ở lòng bình đẳng
Bi là nhiếp thuận tùng
Dùng Hỷ làm lạc pháp
Chỗ Xả phải bỏ luôn
Dùng Giới thương người khác
Do định sẽ giác pháp
Do trí làm nên làm
Về sau không hối não.
Phải xuất trí không cùng(vô tận trí)
Cũng nên lời khéo léo
Nói Ngã vào ngữ ngôn
Chỗ nói không cầu lợi
Không ưa lời tạp ngôn
Là trụ không mệt thiếu
Chẳng bỏ chẳng lấy thêm
Các pháp là Bồ tát
Chớ hoại các pháp tan
Như vậy nói minh hiển
Chẳng lừa dối chúng sinh
Phải qui y Tam Bảo
Chính pháp nhiếp lấy tròn
Tạo nguyện phải bền chắc
Vói tiểu thừa không ham
Ngày đêm nên siêng hợp.
Vì cầu các pháp nên
Biến Trí từ đó lại
Chư Phật, đây kho tàng
Tam ma địa như biển.
Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đức Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai vì đồng tử Pháp Thượng đó, dùng kệ tụng, rộng nói “Chư Pháp Hạnh Quyết Định Quan Sát Thuyết Tam Ma Địa” này. Khi Ngài nói Tam ma địa này thì vua Bảo Nguyệt và các con, quyến thuộc được chẳng thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Giác. Đầy đủ một ngàn chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Học địa của vô lượng chúng sinh tăng trưởng. Này Hỷ Vương ! Ý ông thế nào về Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử? Là ai khác ư? – Ông chớ có thấy người khác như vậy? Vì sao vậy? Này thiện gia tử ! Vì ông tức là Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử vậy. Này thiện gia tử ! Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt vương thì Đại Bồ tát Từ Thị hôm nay tức là Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt Vương vậy. Như các con của vua đó lại tức là chúng Đại Bồ tát này tập hội ngồi đó vậy. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ Đại Bồ tát Pháp Thượng cùng với cha, mẹ, tôn trưởng và bạn bè tri thức, đầy đủ ba mươi sáu ngàn câu trí chúng sinh cùng chung ở trong giáo pháp của đức Như Lai Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương mà bỏ nhà xuất gia. Này Hỷ Vương ! Họ yêu thích giáo pháp của đức Thế Tôn đó, làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu Bà Ta Ca, Ưu Ba Tư Ca rất nhiều.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã biết ý nghĩa này rồi, lại muốn hiển minh thêm nữa, lúc này ngài liền nói bài kệ tụng sau đây :
Ta nhớ xưa nhiều câu trí kiếp
Có đấng Tối Thắng hiệu Bảo Quang
Ngài có Tăng chúng cũng nhiều lắm
Và các Bồ tát lậu tận xong.
Nước Phật đó khả ái thanh tịnh
Trang nghiêm tự nhiên như thiên cung
Trang hoàng, vườn, tụ lạc, thành ấp
Bằng hoa trải như bàn tay bằng.
Trong đó có vua tên Bảo Nguyệt
Với hàng ngàn châu, tự tại vương
Phước tuệ đầy đủ là bậc trí
Rộng thần túc, vô biên kho tàng
Vua ở vườn rừng vui du hí
Thiên phụ có mang, đồng tử sinh
Tên là Pháp Thượng đáng chiêm ngưỡng
Thắng tướng trang sức rực sắc vàng.
Đồng tử vừa sinh nói diệu ngữ (lời vi diệu)
Nói về pháp Phật mà ngợi khen
Nói tại gia ác, không nhàn đức
Các tội lỗi dục cũng nói lên
Hóa độ mẹ cha và thân thuộc
Trí giả nghĩ khiến tin sạch trong (tịnh tín)
Vua đó vui mừng mà nhảy nhót
Hướng về bên Tối thắng Đại Tiên.
Đồng tử chẳng lại vào gia nội
Liền cùng cha mình ở trong vườn
Chung với thân thuộc và đại chúng
Ba mươi sáu ức bên Thế Tôn
Vua Đại Tượng đó đã đi đến
Đó đã thấy Bảo Quang Pháp Vương
Lòng thêm hớn hở, ái đệ nhất
Lễ dưới chân rồi ngồi một bên
Pháp Thượng cũng lễ chân Tối Thắng
Rồi chắp tay mà hầu Thế Tôn
Đã kính trọng Phật đó như vậy
Đồng tử ca tụng bằng kệ khen
Với Tối thắng, ông nhiều khen ngợi
Pháp thể thật đức thầy dẫn đường
Vua và các con cùng đồ chúng
Duyên theo Bồ đề mà phát lòng
Pháp Thượng hỏi han với đức Phật
Nói định này, Tịch Tịnh ly trần;
Mạnh mẽ trụ Tam ma địa ấy
Bồ đề chứng giác, ma phục hàng.
Đấng Lưỡng Túc Tôn nhận lời thỉnh
Biết tâm đồng tử đã tịnh tin
Liền vì ông nói định khó thấy
Uy đức lớn thì dùng kệ khen
Tam ma địa này Phật đó nói
Chư Phật Bồ đề tịch ly trần
Vua và các con cùng thần dân
Liền trụ Phật trí chẳng thoái chuyển.
Học, vô học, chỗ đó người đông
Đã nghe được tịch định như vậy
Lại còn nhiều câu trí chúng sinh
Duyên với Bồ đề mà phát tâm
Vua và các con cùng đồ chúng
Phước ngũ dục đều khiến lìa, nhàm
Lúc đó đồng tử là thượng thủ
Ở đây bỏ nhà xuất gia liền
Sở hữu yêu thích với thầy dạy
Khắp nơi đầy người và chư thiên
Đồ chúng Thiện Thệ đó nhiều lắm
Ở trong, chẳng dễ được số lường
Hỷ Vương ! Ông ở thuở xưa đó
Chính là đồng tử Pháp Thượng xưng !
Người ở trong đó làm phụ vương
Nay là Bồ tát Từ Thị đó !
Các vương tử sở hữu lúc đó
Tức là các chúng hội ngồi đây !
Chúng sinh tại cõi tương tục này
Biết rồi khiến trong hạnh hành tịnh
Vậy nên đã nghe xong Tịch định
Nên phải thọ lấy, tịnh tín luôn
Thường vì người nói không sẻn tiếc
Sẽ có Phật trí chẳng khó khăn
Số lượng phước đó chẳng dễ được
Thời gian nói, nhiều kiếp không lường
Định Thắng Thượng này nếu hay giữ
Vì chúng sẽ nói chớ buông lung.
Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng :
– Hy hữu ! Thưa đức Thế Tôn ! Tam ma địa này tạo ra nhiều lợi ích mới có thể cho các Bồ tát các công đức pháp, khiến cho các vị ấy chuyển sanh. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát được Tam ma địa này thì nên phải thân cận, nên phải tu niệm, nên phải làm nhiều những pháp gì? Nên phải chẳng thân cận, nên phải chẳng tu niệm, nên phải chẳng làm nhiều những pháp nào? Rất hay ! Thưa đức Thế Tôn ! Có những pháp nào? Không có những pháp nào? Thưa đức Thế Tôn ! Xin nguyện vì con rộng nói ! Thưa Tu Ca Đa ! Xin nguyện vì con phân biệt ! Bồ tát pháp nào có? Pháp nào không?
Đức Phật dạy rằng :
– Này Hỷ Vương ! Bồ tát, ở trong lưu chuyển, không có mỏi mệt. Bồ tát, ở trong chúng sinh, không có sai biệt. Bồ tát, ở trong của cải, không có thọ lấy. Bồ tát đối với thí không bất bình đẳng. Bồ tát đối với học không chẳng kính trọng, trì giới không có chỗ sinh, lòng không nhiệt não, lòng không khiếp nhược, không có tà giác, không chẳng suy nghĩ mà có sở đắc. Bồ tát, ở trong chúng sinh không có giết hại, ở trong của cải người không có trộm cắp, đối với vợ người không có ái trước, không nói nghiệp ác, không lời phá hoại, không có ác khẩu, không có nói thêu dệt, chẳng tham của người khác, không theo sân nhuế, không có thấy rừng hạnh nhiều, không có qua khỏi Bồ đề ái, chẳng hủy báng pháp, chẳng khi mạn Tăng, đối với những bậc đáng tôn không ai chẳng kính trọng, ở cửa giải thoát không có kinh sợ, ở trong việc làm người khác không có mệt mỏi, chẳng tự ngợi khen, chẳng hoại kẻ khác, trong hành động lưu chuyển không có tùy thuận, trong hành động phi lưu chuyển không gì chẳng thuận theo, đã phát lời thề thì nhất định chẳng thay đổi, đối với việc đã làm nhất định chẳng trùng hủy, việc làm của người khác thì biết ơn, việc làm của mình thì không mong cầu, đối với vô lực không có khinh khi, đối với người chưa học không có chê hèn, chẳng lưu luyến vợ con, không có yêu ghét, đối với giáo sư không có bí mật riêng, trong pháp làm thầy không có giấu giếm, ở trong các pháp không có tư tưởng phá hại, ở trong pháp thí không có mệt mỏi, ở trong cầu pháp không có lười chán, chẳng do lợi ràng buộc mà có điều giảng nói, chẳng do bố thí mà làm bạn bè, chẳng dua nịnh thừa sự, không có hai lưỡi, chẳng vì huyễn hoặc mà gần gũi thừa sự, chẳng ghét đối với pháp, không ngã, ngã sở, chẳng luyến đối với thân, chẳng ái đối với mạng, không có ngã kiến, không có tạo oán, trong thật, chẳng thật không có hủy báng, ở trong đọa pháp không sân phát giác, chẳng phải thiếu thời ái, chẳng phụ bạn bè, đối với chỗ gần gũi cận kề không có dối lừa, trong thật và chẳng thật chẳng phạm nâng lên, thả xuống, chẳng làm lừa dối; chẳng điều khiển phi thời, ở trong chúng sinh khác không tư tưởng cạnh tranh, ở trong phát sự không có giải đãi, chẳng tổn đến Nhẫn, chẳng đáp lại lời ác, chẳng ràng buộc với oán, chẳng khi thấp hèn, theo tiếng nói đùa không có ham mộ, ở trong tinh diệu không có chẳng xả, ở trong ăn uống không có chẳng phân chia, khi bố thí chẳng dùng vật xấu, ở chỗ phụ nữ không có phi hạnh, ở chỗ trượng phu không có nhiễm ô, chánh tín chẳng bỏ, học giới chẳng thông thả, không gì chẳng tàm quí, không gì chẳng tu sĩ (xấu hổ), không có thiếu phước, không có thiếu nghe, thí rồi chẳng hối, với trí chẳng lầm lẫn, ở trong Tam Bảo không gì chẳng kính trọng, ở trong thế đế chẳng là bền chắc, ở trong thắng nghĩa không có vào nhiễm trước, không có thấy rừng hạnh rậm rạp, không có ngã thủ, chẳng quên chánh niệm, ở trong chánh đoạn không có làm khác, ở trong thần túc không có vị say, trong căn chẳng mềm, trong lực chẳng yếu, ở trong giác phận không có chẳng biết, với đạo không chao đão, trong Tam ma địa không có trước tướng, trong Xa ma tha không có trụ chắc chắn, đối với Tỳ phát xá na không có phân biệt, với minh giải thoát không có độc chứng, ở trong các đế không có chướng ngại, trong “qua bờ kia” không chẳng phát khởi, trong tụ (nhóm) chẳng đắm trước, trong giới chẳng nương nhờ, chẳng phải thời chẳng được, ở trong Thanh văn không có thấy chứng (100). Đối với các Bồ tát không chẳng phải giáo sư, ở trong các Nhập không có ý niệm, ở các cảnh giới không có y chỉ, chẳng do tự nghiệp mà sinh đường ác, trụ ở trong thai không có khổ não, ở trong lưu chuyển không có hỷ lạc, ở trong lưu chuyển không có khổ tưởng, ở trong những chỗ sinh ra không có kinh sợ, đối với các chúng sinh không chẳng phải là ruộng, không thiếu hạt giống, ở chỗ gieo trồng trọn chẳng hy vọng, ở các ruộng phước người thọ không có trống khuyết, ở trong bố thí chẳng ràng buộc hạn lượng, ở trong trì giới chẳng ràng buộc hạn lượng, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, lưu chuyển cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, Từ chẳng chia cắt, đại Bi không thiên lệch, không có Gia (nhà) mạn, không tư tài (của cải) mạn, không có sắc mạn, không tự tại mạn, không quyến thuộc mạn, không đa văn mạn, không trì giới mạn, không có trụ không nhàn mạn, không có kiêu mạn Đầu Đà công đức thiểu dục, không có mạn mạn, không có sân si, không có tùy miên ái, ở trong điên đảo không lấy làm thật, ở trong tịnh và bất tịnh chẳng lấy làm hai, chẳng ham sinh lên trời, chẳng ưa thích Dục, chẳng phải người đồng nghiệp nhất định chẳng thân cận, không chẳng cần (siêng) hợp, chẳng trì thế luận (biện luận của đời), ở trong ngoại đạo không chẳng thương xót, ở trong sự vật không có ràng buộc tư tưởng, đối với tự thân ấy chẳng muốn cầu vui, không có yêu giả trá, chẳng nương cậy ma la. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát đã phát lời thề thì nhất định chẳng dời đổi cho đến Bồ đề trường rốt cùng (150). Này Hỷ Vương ! Các vị Đại Bồ tát, những vị này đều không, sở hữu khác của mình chẳng được làm thì nên phải chớ làm. Ở trong, người nào có thể tác pháp? Này Hỷ Vương ! Các Bồ tát phải chẳng hủy báng. Bồ tát chẳng hủy báng người khác thì tự được an định. Trong các việc làm chẳng động, chẳng hoãn (thông thả), phải gánh vác gánh nặng. Ở trong việc đen (hắc sự) phải chẳng làm theo. Ở trong việc trắng (bạch sự) phải làm lợi ích. Trong phần ít hạnh phải làm vượt qua. Trong vô lượng hạnh cũng phải đã vào. Trong việc thấm nhuần yêu thương phải làm xa lìa. Ở trong pháp lượng sẽ chẳng xa lìa. Đối với khổ sinh tử sẽ được giải thoát. Ở trong cuộc sống suy nghĩ, đã sinh ra thì sẽ chẳng giải thoát. Trong nghiệp bất thiện phải chẳng nhiếp lấy. Đối với các căn phải làm nhiếp lấy. Trong phiền não thí Bồ tát phải bỏn xẻn. Ở trong pháp thí Bồ tát phải chẳng xẻn lậu. Trong ngoại đao học phải chẳng tu học. Trong các chỗ Phật cho học phải giỏi tu học. Trong chẳng bình đẳng thấy nhẫn phải làm bất nhẫn. Trong chánh kiến nhẫn phải đầy đủ nhẫn. Trong ác tác nghiệp, phải làm giải đãi. Trong thiện tác nghiệp phải phát tinh tấn. Ở trong phi tưởng, phi phi tưởng sinh thì phải quên nhớ nghĩ. Ở trong năm thông dong chơi phải có mùi vị định. Ở trong chú thuật đáng sợ, đạo dùng độc, dựng dậy thay chết phải làm vô trí. Trong trí xuất thế phải làm trí tuệ. Phải như vầng trăng đối với các chúng sinh lòng bình đẳng, bạch pháp tăng trưởng. Phải như mặt trời xa lìa tối đen, tạo tác trí quang minh. Phải như đất xa lìa cả hai, đối với các chúng sinh lòng bình đẳng. Phải như nước sạch cùng với chẳng sạch, các cặn không ghét. Phải như lửa, các phiền não thiêu cháy. Phải như gió, đối với các pháp không sở trước. Phải như hư không, vô lượng trí. Phải như biển, cầu thiện căn không chán đủ. Phải như núi Mê lưu (?), các luận sự khác chẳng thể hàng phục. Phải như hoa sen, tám tháp thế gian chẳng nhiễm trước. Phải như cây cối, không phân biệt, phải như chủng tính, pháp vô tận, các phiền não chẳng thể dày xéo. Trong hạnh chúng sinh phải thú hướng, chẳng chấp trước các thú hướng, phải hướng vào trong Niết bàn. Phải tạo tác ruộng thiện, trừ khử gai nhọn ác sân hận. Phải khéo chọn lựa niềm tin làm hạnh ban đầu. Phải được quả lớn, nói bốn đế. Phải được lợi lớn ở trong Phật pháp. Phải được vô chướng ở trong Trí giải thoát Tam ma địa tam ma phát đế. Phải được hoan hỷ bằng pháp hỷ. Phải được đã qua ở trong bùn khổ sinh tử. Phải rơi vào tương ứng, phương tiện khéo léo. Phải tạo tác nghiệp thiện, thoát ly chẳng tương ứng. Phải quan sát thiện nhẫn ở trong chứng. Phải tạo tác ái ngữ bằng tịnh tín bên trong. Phải tạo tác bạn bè bền chặc cho đến Niết bàn, bạn bè tối thắng vậy. Phải tạo tác thuần hậu, không huyễn hoặc. Phải tạo tác chất trực, không dua nịnh quanh co. Phải tạo tác nhu nhuyến, dễ ở chung, Phải tạo tác khả lạc, tin nhuần bên trong. Phải đến các nơi, tùy thuận di chuyển. Phải tạo tác nhuận trạch (thấm nhuần) bằng Đại Bi. Phải tạo tác khát ngưỡng đối với Bồ đề trường. Phải tạo sự chẳng thèm khát ở trong các dục. Phải khiến no đủ đối với các Thanh Văn. Phải tạo sự giáo hóa đối với các Duyên Giác; Phải tạo nhớ nghĩ đối với các căn lành. Phải tạo sự phát giác ở trong bất thiện. Phải tạo tác thủ hộ đối với chánh pháp. Phải tạo tác sự chẳng đoạn dứt đối với Tam Bảo Chủng. Phải tạo sự rực cháy đối với các pháp thiện. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát phải tịch diệt các nghiệp ác. Này Hỷ Vương ! Ta lược nói pháp bất thiện mà các Bồ tát không có vậy. Các hành động, các thiện pháp nên phải, ta nói có vậy. Như thế, các ông phải học ! Ta nói lời dạy bảo như vậy !
Khi đức Phật nói kinh này thì Đại Bồ tát Hỷ Vương vui mừng và những Đại Bồ tát từ các phương khác đến tập họp, cùng các đại chúng trời, người, A tu la, Càn thát bà.v.v… nghe lời đức Phật nói không ai chẳng tùy hỷ, vui mừng, nhảy nhót, chẳng thể tự kềm chế, siêng làm cúng dường. Đối với lời đức Phật nói họ đều rất vui mừng.