1
2
3
4

Kinh Tôn Giả Hộ Quốc Hỏi Về Đại Thừa

Tống Thi Hộ dịch

Bản Việt dịch của Thích Nguyên Xuân

***

QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trong núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá, cùng đông đủ đại chúng Bí sô một ngàn hai trăm năm mươi vị; lại có chúng đại Bồ-tát gồm năm ngàn vị, đều đắc đại nhẫn nhục, biện tài vô ngại, hàng phục ma oán, chế phục các ngoại đạo, phát tâm đại đạo, được tam ma địa, thông thạo tổng trì, đủ bốn trí vô ngại, thông đạt bốn nhiếp và ba la mật đa sâu xa tối thượng… cho đến tất cả Phật pháp, có vô lượng vô biên các thiện công đức; tên các vị ấy là: Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Phổ Quán, Bồ-tát Phổ Quang, Bồ-tát Phổ Chiếu, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Vô Biên Ý, Bồ-tát Quảng Ý, Bồ-tát Vô Tận Ý, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Thế Thượng, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Tối Thượng Ý, Bồ-tát Tổng Trì Tự Tại Vương, Đại Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi,.v.v… Lại có chúng của đại Bồ-tát Hiền Hộ gồm mười sáu vị, lại có đại Phạm Thiên Vương chủ Thế giới Ta bà, vua trời Đế Thích và bốn đại Thiên Vương Hộ Thế, lại có Thiên Tử Tô Thi Di, Thiên tử An Ý và các Thiên Vương, Long Vương, Khẩn Na La Vương, Hy Đà Lý Phược Vương, Dược Xoa Vương, Nga Lỗ Noa Vương… mỗi vị cùng với biết bao trăm ngàn quyến thuộc đều đến phó hội.

Bấy giờ, đức Thế Tôn với bốn chúng quay quanh, ngồi kiết già trên tòa Sư tử cao hơn núi Tu Di, hào quang rực rỡ giống như vầng nhựt nguyệt, chiếu khắp thế gian, oai nghi đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, giống như trời Đế thích oai nghi tối thắng trong chúng Chư thiên, cũng như Luân Vương đầy đủ bảy báu, lìa các sợ hãi; như sư tử chúa, khéo giảng nói nghĩa không của các pháp; như ngọn lửa lớn phá các tối tăm; như ngọc báu ma ni chiếu khắp tất cả cũng như vậy, hào quang đức Phật chiếu khắp tất cả ba ngàn đại thiên thế giới; trong hào quang ấy, phát ra âm thanh vi diệu, bảo với các chúng sanh: ” Nay ta đã đạt được tất cả các pháp ba la mật tối thượng nên sẽ nói nghĩa chân thật, đầu giữa sau đều thiện, văn nghĩa thù thắng thuận bạch viên mãn, phạm hạnh thanh tịnh thuần nhất không xen tạp.

Khi ấy, đại Bồ-tát Hỷ Vương ngồi an ổn trong đại chúng chiêm ngưỡng Thế Tôn ở trên tòa sư tử phóng đại quang minh như một ngàn mặt trời chiếu sáng tất cả, tâm vui mừng cung kính tin tưởng sâu xa, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, dùng kệ khen rằng:

Thân Phật sáng rỡ như núi vàng

Lợi ích thời gian rất hy hữu

Tăng Bồ-tát Thanh văn, Duyên giác

Trời rồng tám bộ đều vây quanh

Như núi Tu Di chư Thiên ngụ

Mọc từ biển lớn cao vời vợi

Thương xót chúng sanh thị hiện thân

Phóng trăm ngàn ánh sáng rực rỡ

Hành hạnh Phạm thiên tức Phạm thiên

Là vua trong chúng Phạm thiên ấy

Hành thiền giải thoát, tam ma địa

Hào quang vượt hẳn hàng Bồ-tát

Cũng như Đế thích chúa cõi trời

Oai đức dung nghi các tướng đẹp

Hào quang Mâu-ni chiếu thời gian

Công đức khó sánh tướng trang nghiêm

Tự tại bốn châu như Thiên Vương

Hay khéo điều phục các hữu tình

Dẫn dắt chúng sanh thoát vòng khổ

Đức Phật từ bi cũng như vậy.

Có hào quang như ngọc ma ni

Ánh sáng nhựt nguyệt, các ánh sáng

Trăm ngàn ánh sáng thái dương ấy

Không bằng Phật nhật thường chiếu sáng

Như trăng nửa đêm tỏa ánh sáng

Chiếu khắp thế gian đều thanh tịnh

Mặt Phật trang nghiêm như trăng tròn

Sáng làm mờ tất cả ánh sáng

Như ngọn lửa lớn trên núi cao

Phá tan đêm tối soi các hướng

Ánh sáng trí tuệ bậc đại tiên

Phá hết vô minh lìa các cõi

Như tiếng sư tử giữa đồng vắng

Các loài thú nghe đều kinh sợ

Phật thuyết pháp nghĩa không, vô ngã

Các ma nghe cũng lại như vậy

Ngọc báu ma ni tỏa ánh sáng

Các ma ni khác bị lu mờ

Thân Phật sáng rỡ như vàng ròng

Che tất cả ánh sáng thế gian

Tất cả thánh hiền trong thế gian

Không ai cao cả bằng đức Phật

Đủ phước tinh tấn trí phương tiện

Tất cả công đức không thể lường

Chiêm ngưỡng đại sư biển công đức

Oai quang chiếu khắp các quần sinh

Hết lòng kính mến mộ tôn nhan

Vì thế con nay xin đảnh lễ

Tâm qui kính khen Phật của con

Công đức thế gian không sánh bằng

Đem hết hồi hướng trong pháp giới

Tất cả Thế gian* thành Phật đạo.

Khi ấy, đại Bồ-tát Hỷ Vương khen ngợi Phật rồi, chắp tay hướng về Phật, chiêm ngưỡng dung nhan mắt không tạm rời, tâm quán pháp giới, nghĩa ấy sâu xa khó biết khó thấy, xa lìa ngôn ngữ phân biệt, dứt các hý luận, vi diệu khó hiểu, không thể nghĩ bàn. Ngài quán tưởng tất cả pháp giới như vậy, chỉ có trí quán của đức Như Lai mới tóm thâu và chứng biết như thật; cảnh giới của Phật không có gì sánh bằng. Quán sát như vậy Ngài thấy cảnh giới phương tiện chẳng thể nghĩ bàn của đức Như Lai, đều gom về một tướng trong tánh của pháp giới. Ví như hư không không có trụ xứ tức là cảnh giới chúng sanh cũng như tự tánh… tất cả các pháp cũng lại như vậy, đều không chướng ngại, giải thoát, rốt ráo vắng lặng. Các đức Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo hiện thân ở trước mặt chúng sanh khắp các cõi Phật, các thân Như Lai trải qua vô số kiếp nhưng không thể nắm bắt được. Lúc ấy, quán công đức của Phật rồi, đại Bồ-tát Hỷ Vương đứng yên lặng.

Bấy giờ, có tôn giả tên là Hộ Quốc an cư ba tháng ở thành lớn Xá Vệ. An cư xong, vị ấy đắp y mang bát cùng với các Bí-sô, các vị mới xuất gia và người mới phát tâm rời nước Xá Vệ đến núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá. Sau khi đến, tôn giả Hộ Quốc liền đến chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật nhiễu quanh bên phải ba vòng, đứng qua một bên chắp tay cung kính đọc kệ khen ngợi Phật:

Kính lạy Phật quang minh tối thượng

Lạy ý vô ngại như hư không

Lạy đấng đoạn trừ các trói buộc

Lạy bậc vượt ngoài biển ba cõi

Chân sắc tướng vô biên của Phật

Hóa hiện khắp trong vô số cõi

Bồ-tát nghe rồi hoan hỷ đến

Cung kính cúng dường công đức Phật

Làm việc cúng dường tối thượng xong

Nghe pháp Mâu ni lìa trần cấu

Tất cả hoan hỷ về bổn xứ

Khen ngợi chánh pháp Thế Tôn nói

Trải qua vô lượng vô số kiếp

Lợi lạc tất cả các hữu tình

Thân tâm chưa từng thấy mệt mỏi

Vì cầu vô thượng Bồ đề Phật

Thường hành bố thí trì giới hạnh

Môn nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định

Phương tiện trí tuệ đạt Niết Bàn

Vì thế con lạy đại giác tôn

Thành tựu sáu thông bốn thần túc

Các căn mười lực môn giải thoát

Dùng hạnh này đến với chúng sanh

Con nay lạy Phật trí vô đẳng

Hay biết tất cả tâm thế gian

Việc làm tạo tác và thành nghiệp

Của thân của miệng và lời nói

Vô thượng Thế Tôn thấy tất cả

Tội lỗi tham si không thể đoạn

Chúng sanh vì thế đọa ba cõi

Nhờ Phật thành tựu nghiệp Thiện thệ

Mới biết thiện ác của thế gian

Việc của chư Phật ở quá khứ

Và bậc thầy trời người hiện tại

Cho đến vị lai biển công đức

Tất cả các pháp thảy đều biết

Cõi nước thanh tịnh chúng vây quanh

Bồ-tát Duyên giác cùng Thanh văn

Cho đến số lượng thọ mạng Phật

Đức Phật của con thảy đều biết

Có bao nhiêu pháp sanh và diệt

Với việc cúng dường làm Phật sự

Có thọ trì pháp của pháp tạng

Đức Phật của con đều biết hết

Phật có mười lực trí vô ngại

Hiện tại thường ở trong ba đời

Như vậy tất cả pháp phương tiện

Con lạy biển trí của Thế Tôn

Đại giác Thế Tôn không ai bằng

Tướng đẹp trang nghiêm đại kiết tường

Như sao trên không trong đêm tối

Con lạy Mâu ni đấng tối thượng

Dung mạo trang nghiêm không người sánh

Chiếu sáng chư Thiên và thế gian

Đế Thích Phạm Vương, trời Cứu Cánh

Họ ở trước Phật đều mờ nhạt

Trong sạch bất động, như núi vàng

Búi tóc xanh biếc xoay bên phải

Đảnh Phật cao vợi như núi báu

Hào quang chiếu xa các phước sanh

Vô số ánh sáng chiếu khắp nơi

Tướng lông trắng hiện giữa chặn mày

Mắt như sen xanh thường tươi vui

Vận lòng từ quán chiếu thế gian

Vầng trăng trong sáng ở không trung

Mặt Phật sáng tròn cũng như vậy

Hữu tình nhìn mãi không biết chán

Con lạy Như Lai tướng viên mãn

Đi như ngỗng chúa như nai chúa

Cũng như trâu chúa bước an ổn

Chấn động đại địa không tạm dừng

Con lạy Như Lai sức kiên cố

Ngón tay thon dài có màng mỏng

Móng tay trong sạch màu đồng đỏ

Đứng thẳng duỗi tay dài quá gối

Con lạy thân vàng đấng Đại giác

Phật bước trên đất hiện tướng lành

Hiển bày đầy đủ dấu thiên bức

Chân phóng hào quang chiếu quần sanh

Nhờ ánh hào quang họ sanh thiên

Đại thánh vua pháp ban bảy tài (thánh tài)

Là bậc thí chủ tâm bình đẳng

Điều phục thế gian nương pháp hành

Con lạy Pháp vương vô thượng giác

Niệm pháp từ bi tâm làm kiếm

Trì giới phương tiện, cung trí tuệ

Đoạn trừ phiền não các chúng giặc

Luân hồi sanh diệt không có tăng

Viên mãn tự lợi lại lợi tha

Làm cho chúng sanh cùng giải thoát

Rốt ráo an vui khỏi trần lao

Được vào tông vắng lặng Thiện Thệ

Không sanh không diệt hết các khổ

Cũng không sanh, lão, ái, biệt ly

Đó là vô vi tối thượng thừa

Vì thương chúng sanh Phật giảng nói

Con khen ngợi Mâu ni tối thượng

Gom hết tất cả pháp chư Phật

Như vậy có được bao công đức

Nguyện cho chúng sanh chứng Bồ đề

Khi ấy, tôn giả Hộ Quốc đọc kệ khen ngợi Phật rồi, để bày vai hữu quỳ gối sát đất, chấp tay hướng về Phật, đảnh lễ cung kính bạch Phật:

Bạch đức Thế Tôn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng giác! Con có điều thưa hỏi, cúi xin Thế Tôn từ bi cho phép.

Thế Tôn bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Theo điều ông hỏi tôi sẽ giảng giải đầy đủ khiến ông được vui vẻ. Nghe lời ấy rồi, thân tâm vui thích, Tôn giả Hộ Quốc thưa:

– Bạch Thế Tôn! Những pháp nào là bốn pháp làm cho Bồ-tát thực hành đầy đủ, có thể đạt được tất cả công đức tối thượng, đạt trí vô ngại, biện tài quyết định hiểu rõ tánh tướng, nhập vào nhất thiết trí, giáo hóa chúng sanh, đoạn trừ vô minh vọng tưởng phiền não quyết định thật sự vào nhất thiết trí, nói lời chân thật làm cho hữu tình nương vào lời nói để thực hành lìa các sự ngu tối mà nghĩ đến phương tiện của Phật, ưa thích nghe tất cả nghĩa thanh tịnh sâu xa, thọ trì các pháp, mau chóng chứng đắc chánh trí vô thượng.

Lúc ấy, ở trước Phật, tôn giả Hộ Quốc nói kệ:

Bồ-tát thực hành hạnh quyết định

Hạnh ấy ắt có pháp chơn thật

Pháp chơn thật từ biển Trí sanh

Như Lai tối thượng vì con nói

Thân Phật sáng rỡ tướng vàng ròng

Khối phước lớn vô biên tối thượng

Cứu độ chúng sanh trong sáu nẻo

Nói hạnh trong sạch của Bồ-tát

Sao được trí Đại giác vô tận

Cam lồ tổng trì sanh giác ngộ

Sao được biển trí tuệ thanh tịnh

Tuệ ấy đoạn nghi cho chúng sanh

Khổ luân hồi trong vô số kiếp

Chúng sanh mê đắm không nhàm chán

Thấy họ si mê bị khổ não

Vì họ nói cách tu thập thiện

Cõi nước thanh tịnh chúng hội đông

Cõi báu vô biên sống rất lâu

Thường vì chúng giảng lời vi diệu

Xin nói Bồ đề hạnh thanh tịnh

Hàng phục ma tà sanh chánh kiến

Sông ái khô cạn chứng giải thoát

Pháp nhãn thanh tịnh chiếu ngu tối

Làm cho hữu tình hành thượng hạnh

Giàu sang đẹp đẽ biện tài giỏi

Nói lời hòa nhã nghe hoan hỷ

Như Cam lồ thấm nhuần thế gian

Xin nói pháp thậm thâm vi diệu

Phạm âm vi diệu trừ các ác

Âm thanh hòa nhã như Tần già

Chúng cần nghe pháp đã nhóm họp

Xin nói Cam lồ cứu quần sanh

Người có căn Bồ đề tối thượng

Hay tánh Thanh văn hoặc Duyên giác

Tùy cơ xin Phật phương tiện nói

Gặp đúng lúc Thầy ban chánh pháp

Nay con thích nghe thừa tối thượng

Chỉ Phật biết rõ tánh giác con

Không thích mong cầu pháp tiểu thừa

Xin nói pháp Như Lai bậc nhất.

Khi tôn giả Hộ Quốc nói kệ xong, Phật bảo:

– Lành thay, lành thay! Ông có thể hỏi Như Lai nghĩa tối thượng, làm cho nhiều người được lợi ích an lạc, nhiếp thọ các đại Bồ-tát ở đời vị lai. Vậy ông hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho ông.

Tôn giả Hộ Quốc bạch Phật:

– Hay thay, hay thay! Nay con lắng nghe. Xin Ngài nói cho!

Khi ấy, Thế Tôn bảo giả Hộ Quốc:

– Có bốn pháp hoàn toàn thanh tịnh thì gọi đó là đại Bồ-tát. Bốn pháp đó là gì?

Một- Là trong, hai- Là ngoài, ba- Là tâm, bốn- Là ý.

Bốn pháp như thế xứng với lý chân thật. Thấy các chúng sanh tâm họ bình đẳng như hư không, không có sự phân biệt, theo lời nói mà làm, đó là bốn pháp đạt được thanh tịnh của đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ:

Trong ngoài tâm, ý thường thanh tịnh

Tâm chánh đạo bất thối Bồ đề

Thực hành điều thiện không vô ích

Được trí vô biên của Bồ-tát

Quán sát chúng sanh khổ, vô ngã

Sanh, già, bệnh, chết đến bức bách

Như vậy trong biển lớn ba cõi

Rộng dùng thuyền pháp cứu các loài

Thấy các chúng sanh tâm bình đẳng

Quán thế gian kia như con một

Nguyện cho tất cả đều giải thoát

Đều hướng Bồ đề tâm bất thối

Thường nói nghĩa không nương hạnh không

Cũng không nhân, ngã, không chúng sanh

Ví như mộng huyễn đều không thật

Làm cho người ngu sanh trí tuệ

Như Đại giác trí đã giảng nói

Nương trí thi hành làm các việc

Điều phục tội lỗi tâm vắng lặng

Là Phật tử cầu chứng Bồ đề.

Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp làm cho tâm các Bồ-tát an ổn. Bốn pháp đó là gì?

1. Là đối với pháp môn tổng trì mong muốn tu học.

2. Thường gần bạn lành, oai nghi không khiếm khuyết.

3. Cần chứng vô-sanh-pháp-nhẫn sâu xa.

4. Là chuyên cần tu hành giữ giới thanh tịnh.

Bốn pháp như thế làm cho tâm Bồ-tát an ổn tiến tu không lùi. Phật lại nói kệ:

Nếu người ái kính pháp tổng trì

Danh tiếng đồn xa người qui tụ

Trì pháp môn nhiệm mầu vô thượng

Tất cả Như Lai đồng nói đến

Trí tuệ thêm sáng không quên mất

Như vậy chóng được trí vô ngại

Thông đạt tất cả pháp tối thượng

Thành tựu môn giải thoát vô vi

Chứng Bồ đề đều nhờ bạn lành

Phát triển bảy giác hay tu đoạn

Tăng trưởng tám chánh làm việc Phật

Xa lìa bạn ác như sợ lửa

Nghe pháp sâu xa chứng vô sanh

Hiểu rõ các pháp rốt ráo không

Không ngã, không nhơn, không chúng sanh

Như vậy mong lìa tất cả kiến

Luật nghi là gốc sanh các thiện

Kiên trì giữ gìn lìa hủy phạm

Hành được thanh tịnh tâm vắng lặng

Phật thương chúng sanh nên giảng nói.

Thế Tôn nói kệ rồi bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp làm cho các Bồ-tát ở trong luân hồi tâm vui thích. Bốn pháp đó là gì?

1- Là khiến cho các Bồ-tát vui thích gặp Phật.

2- Là khiến cho các Bồ-tát vui thích nói pháp.

3- Là khiến cho các Bồ-tát vui thích xả bỏ tất cả sở hữu.

4- Là khiến cho các Bồ-tát thọ nhận pháp vô tướng sâu xa.

Bốn pháp như vậy làm cho các Bồ-tát ở trong luân hồi sanh vui thích sâu xa. Phật lại nói kệ:

Bồ-tát được thấy Lưỡng túc tôn

Trong tất cả đời hành chánh hạnh

Hay khéo điều phục các thế gian

Hào quang chiếu khắp trừ ngu tối

Như vậy cúng dường Nhơn trung tôn

Ưa thích sâu xa thường tôn trọng

Cứu độ tất cả các chúng sanh

Khiến nhập đạo Bồ đề vô thượng

Nếu nghe các Phật giảng nói pháp

Thân tâm vắng lặng sanh vui thích

Như vậy tâm kiên cố không lùi

Hành theo mau chứng Bồ đề Phật

Hay bỏ tất cả tâm không tiếc

Thấy người đến xin tâm vui vẻ

Nước, thành, vợ con và thân mạng

Ban cho chúng sanh tạo nhân Phật

Nếu nghe pháp thậm thâm vô tướng

Tánh lìa phân biệt xưa nay không

Không ngã, không nhơn, không chúng sanh

Như vậy, ưa thích những việc ấy.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp Bồ-tát không được ưa thích. Bốn pháp đó là gì?

1. Là không được ưa thích người tại gia.

2. Là đã xuất gia rồi không được ưa thích lợi dưỡng.

3. Là không được ưa thích sanh trong giòng họ cao quý.

4. Là không được ưa thích hàng tiểu thừa.

Bốn pháp như vậy các Bồ-tát không được ưa thích. Lại nói tụng;

Tại gia tội lỗi nhiều vô biên

Xa lìa khiến tâm không vướng mắc

Thường vui sơn dã tịch các căn

Dũng mãnh siêng tu đức đại trí

Độc hành thanh tịnh như kiếm bén

Chặt đứt ngu si các cấu nhiễm

Đối với mọi thứ lợi dưỡng lớn

Thường ưa xa lìa không đắm trước

Xả bỏ cao quý dòng tộc sang

Quán như huyễn hóa như bóng nắng…

Vì khắp quần sanh hành bố thí

Trì giới, nhẫn nhục… và các hạnh

Không tiếc thân mạng và quyến thuộc

Chí cầu chánh giác đến bờ kia

Không đắm trước vào pháp tiểu thừa

Đối pháp thượng thừa tâm hằng vững

Cho đến thân thể bị cắt xẻo

Tâm kia không hoại, như kim cang.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rồi bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp đối với các Bồ-tát có sự tổn hại. Bốn pháp đó là gì?

1- Là phá giới, phạm luật.

2- Là không ở nơi sơn dã để hướng đến thanh tịnh.

3- Là không nương giáo lý bốn thừa, tìm cầu tà vạy.

4- Là tuy thích đa văn nhưng hoàn toàn chẳng được gì.

Bốn pháp như thế đối với các Bồ-tát có sự tổn hại. Lại nói tụng:

Giới tướng thanh tịnh như ma-ni

Hay dắt chúng sanh đến bờ giác

Bồ-tát phá giới luật nghi này

Đắm chìm không thành Vô thượng giác

Ở chốn sơn dã nơi vắng lặng

Phân biệt nhơn, ngã tự nhiên trừ

Quyến thuộc nam, nữ và thân ta

Quán như cỏ cây không yêu thích

Giáo lý bốn thừa không hư dối

Nhất tâm thanh tịnh phụng hành theo

Chắc chắn đầy đủ các công đức

Thành tựu trí Phật đại trượng phu

Quán các hữu tình trong luân hồi

Thường ở sanh tử khổ, sầu bi

Luôn dùng thuyền pháp tối thượng diệu

Đưa hữu tình kia khỏi biển khổ

Nếu không cứu độ chúng sanh ấy

Mê đắm, trầm luân không lúc dừng

Vì thế tiểu thừa chẳng rốt ráo

Nên vì chúng sanh phát Bồ đề.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rồi bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp đối với các Bồ-tát nên hiểu rõ để tu tập. Bốn pháp đó là gì?

1- Là phát sanh tâm bình đẳng của chư Phật để cầu Thiện Thệ.

2- Là phụng sự pháp sư tôn trọng cúng dường ngọa cụ… mà không chấp trước.

3- Là không ham lợi dưỡng cũng không mong cầu.

4- Là đối với pháp nhẫn sâu xa thành tựu đầy đủ.

Bốn pháp như thế Bồ-tát nên hiểu rõ tu tập. Lại nói kệ:

Có bậc Thiện Thệ đại trượng phu

Thiên thượng nhơn gian không ai bằng

Bình đẳng dẫn đường các quần sanh

Tu tập hành thập thiện như vậy

Tôn trọng cung phụng vị pháp sư

Nương thầy giáo thọ mà tu học

Hết lòng cúng dường cầu trí Phật

Vô biên chư Phật từ đây sanh

Thường ở núi sâu không sợ hãi

Đối với lợi dưỡng không ham thích

Khéo hay thành tựu trí vô ngại

Thông đạt pháp sâu lìa các trần

Nghe công đức Phật càng hoan hỷ

Hành pháp như vậy tu kiên cố

Chứng vô sanh nhẫn tịch tịnh kia

Rộng độ vô lượng khổ chúng sanh.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp để hành pháp thanh tịnh đối với các Bồ-tát. Bốn pháp đó là gì?

1- Là thân tâm quyết định chí cầu Bồ đề để hành pháp thanh tịnh.

2- Là lìa các hư vọng, ưa ở núi sâu để hành pháp thanh tịnh.

3- Là xả bỏ tất cả không cầu quả báo để hành pháp thanh tịnh.

4- Là thường theo pháp sư, ngày đêm cầu pháp để hành pháp thanh tịnh.

Bốn pháp như thế, các Bồ-tát theo đó hành pháp thanh tịnh. Lại nói kệ:

Tâm bẩn tham, sân, si đều dứt

Biếng nhác hư vọng cũng lại không

Tất cả tội lỗi khiến không sanh

Quyết định cầu chứng đạo Bồ đề

Chán lìa nhà cửa đoạn gốc lo

Xả bỏ trần tục cầu xuất gia

Chẳng nên gặp gỡ bằng hữu xấu

Sống ở núi sâu hướng giải thoát

Ở trong núi kia tu tịnh hạnh

Thân mạng tài vật không đắm trước

Tự tại vô úy như sư tử

Thấy loài hữu tình sanh hoan hỷ

Như chim nhóm họp rồi ly tán

Quán thế gian này chẳng bền chắc

Như vậy cầu đạo đại Bồ đề

Thân tâm thanh tịnh như hư không

Xả bỏ tất cả không kinh sợ

Đối với lợi dưỡng không đắm trước

Như nai kinh sợ không đứng vững

Thế gian luôn ở nguy hiểm lớn

Khó phát thân tâm cầu giải thoát

Thấy đây hư vọng không chơn thật

Vì thế ta hành hạnh tịch tịnh

Dùng lời hòa nhã dạy quần sanh

Oán thân bình đẳng không phân biệt

Không trước, không trụ cũng như gió

Là cầu Bồ-tát hạnh tối thượng

Vô tướng, giải thoát, không, vô nguyện

Hiểu rõ hữu vi như huyễn hóa

Thường hành thanh tịnh tâm quảng đại

Uống vị Cam lồ thường hoan hỷ

Chí cầu đạo pháp nương thầy học

Người ấy năm uẩn thường thanh tịnh

Các khổ bức bách không mệt mỏi

Như thế chứng nhập môn tổng trì

Hiểu rõ việc tu Bồ-tát hạnh

Thành tựu sở cầu khiến người vui

Nếu đối Bồ đề không mong cầu

Kẻ ấy thiếu trí trăm đời mất.

Lúc ấy, Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp đối với các Bồ-tát là pháp nạn. Bốn pháp đó là gì?

1- Là tâm không tôn trọng, nhiều hành động khinh mạn.

2- Là tâm không hiếu hạnh, biếng nhác chống đối.

3- Là tâm ham lợi dưỡng, ít tri túc.

4- Là tâm ưa hư vọng, cầu tài lợi.

Bốn pháp như thế là pháp nạn của Bồ-tát. Lại nói kệ:

Phật pháp bổn sư và cha mẹ

Không tin kính trọng, nhiều khinh mạn

Không hành hiếu kính, tâm biếng nhác

Thường bị ngu si làm tán loạn

Tâm tham chỉ nghiêng về lợi dưỡng

Lại hành hư vọng vì tà lợi

Khen đức nghiệp mình chê người khác

Ta giữ gìn giới và tu hành

Đôi bên tranh đấu không lòng thương

Che dấu lỗi mình nhìn lỗi người

Lại làm nghề nông và kinh doanh

Sa môn như vậy không công đức

Thời mạt pháp lòng người tán loạn

Đấu tranh hại nhau tâm tật đố

Sa môn ngầm diệt pháp Như Lai

Các thiện Bí sô đều xa lìa

Bồ đề diệu đạo mãi không gặp

Năm nẻo luân hồi không cùng tận.

Khi ấy Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp các Bồ-tát cần phải xa lìa. Bốn pháp đó là gì?

1- Là biếng nhác.

2- Là bất tín.

3- Là tật đố.

4- Là ghét người khác.

Bốn pháp như thế cần phải xa lìa. Lại nói kệ:

Biếng nhác không tin tâm mê muội

Tâm ôm tật đố thường sân nhuế

Thấy có sa môn hành nhẫn nhục

Liền đuổi họ ra khỏi già lam

Với người sang hèn ở thế gian

Đều không phân biệt việc thiện ác

Chuyên môn chỉ theo việc phải trái

Như vậy tội lỗi đều do sân

Xa lìa Phật pháp các công đức

Rơi vào nẻo ác hầm lửa lớn

Hạnh ác thú đã hành như vậy

Không nương giáo pháp chuốc khổ kia

Vì thế thường hành đạo Bồ đề

Không cho chìm đắm, sanh nẻo ác

Đại kim tiên lợi ích hữu tình

Trải nhiều ức kiếp mới xuất thế

Nay mới được gặp bậc Mâu-ni

Chóng bỏ các lỗi cầu giải thoát.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Lại có bốn pháp đối với các Bồ-tát không nên hành. Bốn pháp đó là gì?

1- Là không nên theo bạn ác.

2- Là không nên theo người có kiến chấp.

3- Là không nên theo người bỏ tất cả thiện pháp.

4- Là không nên theo người mê đắm tài lợi.

Bốn pháp Bố-đặc-già-la như thế không nên theo. Lại nói kệ:

Nếu người xa lìa các bạn ác

Thường được bạn lành đến thân cận

Như đêm, trăng tròn hiện không trung

Trừ tối, sáng rỡ đạo Bồ đề

Phàm có hiểu biết thường không dứt

Với thân mạng mình luôn nuôi dưỡng

Như vậy độc khí có thể lìa

Người ấy thành đại trí tuệ Phật

Nếu bỏ pháp vi diệu tối thượng

Không thích vắng lặng vị Cam lồ

Như vậy gọi là đồ bất tịnh

Xa lìa cầu chứng đại Bồ đề

Tham cầu tài lợi và y bát

Cùng người tại gia làm kinh doanh

Như vậy xa lìa hố lửa này

Có thể thành tựu đạo tối thượng

Thường ưa hàng phục các ma oán

Thường chuyển pháp luân độ các loài

Như vậy rộng làm lợi ích lớn

Thường gặp bạn lành được Bồ đề

Thân sơ khen chê thường bình đẳng

Lợi dưỡng tật đố cũng như vậy

Như thế trí các Phật vô thượng

Người ấy không lâu ắt thành tựu.

Lúc ấy, Thế Tôn nói kệ rồi, bảo tôn giả Hộ Quốc:

– lại có bốn pháp đối với các Bồ-tát là pháp khổ báo. Bốn pháp đó là gì?

1- Là khinh mạn giáo pháp.

2- Là chấp trước ngã nhơn.

3- Là tâm không tin hiểu.

4- Là đối với cảnh bất tịnh ghi nhớ trọn vẹn.

Bốn pháp như thế là pháp khổ báo của Bồ-tát. Lại nói kệ:

Nếu có thọ trì pháp vi diệu

Mới có thể nhận thế gian cúng

Kẻ khinh mạn không có trí lớn

Sẽ nhận vô biên các khổ ác

Với Phật bổn sư và cha mẹ

Thường ôm nhơn ngã không cung kính

Phước lớn như vậy tâm không cầu

Sẽ đọa chỗ bất tịnh vô tri

Tam bảo tối cao ruộng phước lành

Mà không tin hiểu và qui kính

Dùng hư dối mê hoặc thế gian

Như thế sẽ mắc tội khổ ác

Người nữ tức là cửa ngã ác

Trôi dạt sanh tử không cùng tận

Người ngu vô trí tạo nghiệp ấy

Mãi đắm địa ngục và súc sanh

Nếu người tôn trọng hướng về Phật

Hay diệt các khổ được vô úy

Lại đóng tất cả cửa ác thú

Dẫn lối chúng sanh đắc Phật đạo.

    Xem thêm:

  • Kinh Năm Giới Tướng Của Ưu Bà Tắc - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Giác Quả dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Tội Nghiệp Báo Ứng Giáo Hóa Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Kinh Thắng Quân Hóa Thế Bách Luận Già Tha - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Lí Thú Lục Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Kinh Hải Long Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Nhật Tử Vương Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Tu Đại Noa - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 30 – Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Kinh Mục Kiền Liên Hỏi Năm Trăm Tội Khinh Trọng Trong Giới Luật - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Vạn Phật Thánh Thành dịch - Kinh Tạng