1
2
3
4

QUYỂN 2

Bấy giờ, Thế Tôn bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Có bốn pháp đối với các Bồ-tát là pháp trói buộc. Bốn pháp đó là gì?

1- Là khinh mạn người khác.

2- Là đối với việc thế gian phương tiện tìm cầu

3- Là dụng tâm tán loạn như đi đường nguy hiểm

4- Là đối với quyến thuộc lòng sanh tham trước.

Bốn pháp như thế là pháp trói buộc của Bồ-tát. Lại nói kệ:

Nếu hành khinh mạn với người khác

Phương tiện chỉ cầu việc thế gian

Tán loạn như đi trong đường hiểm

Như voi thân lún giữa đầm lầy

Đối với người thân sanh yêu mến

Thường ôm tham luyến như say rượu

Như vậy mỗi mỗi bị trói buộc

Tăng trưởng ngu si che trí lớn

Nếu người sợ khổ chán sanh tử

Mong khỏi chìm đắm hướng giải thoát

Xả bỏ khinh mạn… việc thế gian

Đó là Bồ-tát thực hành đạo

Diệt hết vô biên các khổ rồi

Và các quyến thuộc phiền não kia

Rốt ráo an vui không mong cầu

Viên mãn Bồ đề đạo vắng lặng

Thực hành sáu pháp ba la mật

Ba thân năm trí… và mười lực

Tất cả công đức đều trọn đủ

Như vậy lìa hẳn vô biên khổ

Quá khứ tu hành vô lượng kiếp

Vì chúng sanh nên cầu Bồ đề

Tất cả các thiện thảy đều tu

Xa lìa các ác… và quyến thuộc

Thường vui núi sâu chỗ yên tĩnh

Xa lìa thanh sắc, tưởng chơn không

Tinh tấn tu hành không gián đoạn

Đắc tuệ viên mãn đại trượng phu

Thấy nghiệp chúng sanh thế gian kia

Năm nẻo xoay vần không cùng tận

Ta đời quá khứ phát tâm từ

Tự bỏ thân mạng và vợ con

Kinh thành đất nước và trân bảo

Cầu Phật như vậy vô số kiếp

Ta xưa ở núi hành nhẫn nhục

Hoa quả ao khe thảy thanh tịnh

Vua Ca lợi đến chặt chân tay

Tâm sanh thương xót, nhẫn không giận

Xưa ở núi sâu tên Xà Ma

Ta là tiên tên Ba la đa

Khi ấy thiên tử bắn thân ta

Cũng không sân hận sanh tâm ác

Không tiếc thân mạng xem như đá

Chí cầu Bồ đề tâm không lùi

Thuở xưa Ta tên là Tát Đỏa

Gặp hổ đói muốn ăn thịt con

Gieo mình xuống vực cứu hổ kia

Trời người khen ngợi đại tinh tấn

Thường ưa bố thí cứu chúng sanh

Không tiếc thân mạng và tài bảo

Xưa Ta tên là Ma Nẳng Phược

Rộng hành bố thí hết bảy báu

Cho đại ma ni để người giàu

Như vậy cầu chứng quả Bồ đề

Thuở xưa làm vua Đại Tô Ma

Ta tu hành tiếng tăm vang khắp

Bấy giờ ta chịu trói thay người

Để trăm vua kia được giải thoát

Xưa ta làm vua hiệu Năng Xả

Ai mong cầu gì đều thỏa mãn

Cho đến thân mạng và châu báu

Khiến người giàu sang khỏi nghèo khổ

Xưa có chim câu bay đến Ta

Cắt thịt thân ta cứu mạng nó

Khi cầm dao cắt thịt như vậy

Không kinh, không sợ tâm an ổn

Cũng thời quá khứ bỏ ngôi vua

Trọn đời hành pháp ba la mật

Lại tự hóa thân làm thuốc hay

Bỏ thân mạng mình cứu quần sinh

Xưa kia Ta là sư tử chúa

Thường làm lợi lạc cho thế gian

Xả bỏ ngôi vua và quyến thuộc

Một lòng mong cầu đạo vô thượng

Lại xưa Ta là vua Diệu Nha

Thời ấy tuổi thọ một ngàn năm

Tám mươi bốn năm tu khổ hạnh

Phát đại tinh tấn thí của báu

Ở trước tháp Phật đốt thân mình

Hết lòng cung kính để cúng dường

Xưa Ta là vua tên Vô Cấu

Có Bà-la-môn tên Ác nhãn

Đi đến thâm cung xin đầu Ta

Ta liền đem đầu mà ban cho

Thuở xưa Ta là vua Nguyệt Quang

Cứu khắp chúng sanh làm lợi ích

Trong tất cả thành ấp xóm thôn

Ngã tư đường bố thí thuốc hay

Ngàn thể nữ đoan nghiêm tướng đẹp

Châu báu vàng ròng khắp trang nghiêm

Bỏ ngàn thể nữ để tu hành

Việc làm ấy phước không ai sánh

Thuở xưa Ta là vua Du Bà

Đội mão quí báu đời hiếm có

Hoa hương các báu cùng trang nghiêm

Bố thí cho người không luyến tiếc

Xưa Ta là vua tên Bảo Kế

Tay chân mềm mại như bông, tơ

Nhãn láng vi diệu sắc như sen

Tự bỏ tay chân lợi chúng sanh

Thuở xưa Ta là vua An Ý

Có thương nhân tên là Tinh Hạ

Dẫn các thương khách vào trong biển

Bỗng nhiên trôi vào nước La Sát

Nước ấy trăm ngàn nữ Dạ xoa

Không thẹn, tàn ác ăn thịt người

Thương khách không biết nữ Dạ xoa

Thấy họ đẹp đẽ sanh lòng mến

Năm trăm thương khách sắp bị hại

Ta thương cứu họ đều thoát nạn

Thuở xưa Ta là vua Diệu Nhãn

Bốn triệu thể nữ thường vây quanh

Đoan chánh tuyệt đẹp như thiên nữ

Bỏ họ xuất gia cầu Phật đạo

Xưa kia Ta là vua Phước Quang

Sạch sẽ thanh tịnh sắc vàng ròng

Ngón tay thon dài đời hiếm có

Xả bỏ tay này lợi chúng sanh

Thuở xưa Ta là vua Pháp Tài

Mắt biếc sáng trong như sen xanh

Với thân đáng yêu rất khó bỏ

Người đến cầu xin cũng ban cho

Xưa kia Ta là vua Liên Mục

Thấy thương chúng sanh trong khổ não

Có người nữ mang bệnh ưu sầu

Ta hành bi mẫn khiến được khỏi

Thuở xưa Ta là vua Đại Ý

Thường cứu bệnh khổ cho chúng sanh

Hoặc thân ra máu và tủy não

Cứu liệu bệnh tật khiến được trừ

Tâm tinh tấn dõng mãnh như vậy

Chưa từng xả bỏ loài hữu tình

Thuở xưa Ta là vua Thành Lợi

Đem mắt yêu quí đẹp như sen

Cho các chúng sanh trị bệnh tật

Một lòng vì cầu đạo vô thượng

Ta xưa là vua tên Phổ Hiện

Thương xót hữu tình nên cứu độ

Khi ấy xả bỏ bốn châu lớn

Cõi nước nhân dân và các báu

Thậm chí cắt thân lấy máu thịt

Thí cho chúng sanh tâm hoan hỷ

Lại làm nữ vương tên Đại Trí

Thân đoan nghiêm sắc vàng mềm mại

Khi ấy người nữ tên Sắc Tướng

Là thương nhơn sanh một cháu gái

Đói gầy khốn khổ không lượng thực

Ta bỏ hai vú để cứu họ

Xưa Ta là vua hiệu Đa Văn

Có đủ trân châu y phục đẹp

Voi ngựa xe cộ… và tơ lụa

Bố thí như vậy vô số kể

Lại thấy thương nhơn trôi trên biển

Ta vào trong biển để cứu họ

Người ấy vong ơn xin mắt Ta

Ta cũng ban cho không sân hận

Xả bỏ đất đai và quyến thuộc

Quán họ, không chấp, như kiến nhỏ

Thuở xưa cứu quần sanh như vậy

Tâm không thối chuyển không mệt khổ

Thấy người già đơn độc bần cùng

Giúp đỡ cung cấp vật cần dùng

Thường hành yêu kính không khinh mạn

Cũng không xấu hổ không nhơn ngã

Xưa Ta từng làm thân Di Hầu

Cùng với đồng loại kia dạo chơi

Khi ấy thợ săn bắt trói chúng

Ta liền thay thế cứu chúng thoát

Thợ săn đem Ta dâng quốc vương

Vua sai buộc Ta sau hậu cung

Nghĩ đến cha mẹ già côi cút

Thức ăn uống ngon Ta chẳng màng

Chịu khổ như vậy giữ lòng hiếu

Nhờ thế được thoát khổ vương cung

Xưa Ta từng làm thân gấu lớn

Thường vào núi sâu hành từ nhẫn

Bỗng thấy tiều phu gặp mưa lớn

Dẫn vào hang núi để lánh mưa

Trải qua bảy ngày trời quang đãng

Dặn tiều phu ấy đừng chỉ chỗ

Khi ấy tiều phu yên ổn về

Chỉ dẫn thợ săn đến giết hại

Vong ân như vậy giết thân Ta

Ta không sân hận sanh từ nhẫn

Thuở xưa Ta là voi trắng chúa

Cầu Bồ đề Phật hành thập thiện

Khi ấy thợ săn bắn thân Ta

Ta xả bỏ ngà tâm hoan hỷ

Xưa có người ác Đế Lý Tử

Dùng lửa thiêu đốt ngọn núi lớn

Ta thấy lửa này khởi lòng thương

Trời mưa hoa hương lửa tự tắt

Xưa Ta từng làm chúa loài nai

Vàng báu trang nghiêm thân tuyệt đẹp

Lội xuống sông nọ cứu người chìm

Khiến người an ổn, toàn mạng sống

Bảo chớ nói Ta ở núi này

Vì sợ kẻ ác đến săn Ta

Khi ấy người kia quên ơn này

Chỉ cho quốc vương đến vây bắt

Chỉ rồi hai tay người ấy rụng

Khi ấy Ta không chút sân hận

Xưa đoàn thương nhân năm trăm người

Vì tìm châu báu vào trong biển

Thương chủ hết thức ăn nước uống

Thương chúng ốm gầy không lương thực

Lúc ấy Ta là rùa chúa lớn

Đem thân cứu mạng chúng thương nhơn

Với tâm từ làm lợi ích người

Họ đều bình an đến bờ biển

Xưa Ta hóa thân làm trùng thuốc

Trùng này tên là Câu tô ma

Ăn thân Ta trừ tất cả bệnh

Đều được an ổn hết các hoạn

Xưa Ta lại làm sư tử chúa

Đại lực vô úy hành từ mẫn

Có thợ săn giỏi, bắn thân Ta

Ta không sân hận không phẫn nộ

Ta xưa cũng làm ngựa trắng chúa

Thường hành hạnh Bồ-tát từ bi

Cứu thương nhân gặp nạn la sát

Chở mọi người ra khỏi biển nguy

Xưa làm loài chim Quân nô la

Xa lìa sắc dục không tán loạn

Khiến cho đồng loại các phi cầm

Cũng lại thực hành hạnh thanh tịnh

Ta xưa trong lúc làm thỏ chúa

Cùng các bầy thỏ nói pháp hạnh

Thấy vị tiên đói không thức ăn

Ta bỏ thân mạng cứu vị ấy

Xưa ta từng làm chim anh võ

Thường sống trong rừng cây hoa quả

Có kẻ ác thiêu hủy rừng này

Nhờ sức của Ta rừng xanh lại

Thuở xưa Ta làm Di Hầu chúa

Cùng đàn Di Hầu đi dạo chơi

Khi ấy quốc vương đến vây bắt

Ta vì cứu đàn đến trước vua

Xưa Ta lại làm chim Anh Võ

Cha mẹ già yếu không bay được

Ta vào trong ruộng gắp lúa thơm

Dưỡng nuôi song thân hành hiếu kính

Chủ ruộng lúa ấy lòng giận tức

Đuổi bắt Anh Võ và quở trách

Tại sao ngươi lại trộm lúa ta?

Bây giờ Ta bắt ngươi bỏ mạng

Anh Võ bảo với chủ ruộng rằng:

Ông trồng ruộng lúa cứu hữu tình

Tôi lấy ít lúa cúng mẹ cha

Sao ông nói tôi là kẻ trộm?

Lúc đó chủ ruộng nghe lời ấy

Cho lúa gấp bội hoan hỷ nói:

Ta là cầm thú ngươi là người

Hiếu dưỡng như vậy thật hiếm có

Thuở xưa Ta hành hạnh Bồ-tát

Trải qua số kiếp như vi trần

Cầu đạt quả Phật đại Bồ đề

Chưa có lúc nào sanh mỏi mệt

Như vậy xả bỏ nội ngoại tài

Nước thành vợ con và châu báu

Đầu mắt tủy não và thân mạng

Giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền

Trí tuệ phương tiện… và nguyện lực

Các độ như vậy rộng tu tập

Chưa từng xả bỏ hạnh Bồ-tát

Tất cả điều thiện không thiếu sót

Như Phật nói về hạnh đầu đà

Hạnh ấy cũng là nhân hướng Phật

Như vậy mỗi hạnh đều tu tập

Tinh tấn tu tập không khuyết phạm

Đối với các chúng sanh đời sau

Tuy làm Bí sô mà vô hạnh

Thường sanh ngã mạn tâm biếng nhác

Tham đắm thanh sắc và tài lợi

Nghe hạnh lớn này nhân thắng diệu

Nhưng không tin nhận lại phỉ báng

Khinh khi cười cợt bảo mọi người :

Lời nói này chẳng phải Phật dạy.

Ta nghe quá khứ có một người

Học rộng hiểu nhiều tiếng vang khắp

Nhưng nghe Phật nói không tin nhận

Đem lời pháp ấy hỏi thầy mình

Vị thầy tuy già nhưng học rộng

Đối với lời Phật cũng không tin

Tuần tự như vậy bảo mọi người:

Pháp này chẳng phải lời chân thật

Cầu xuất ly nhọc công vô ích

Bày vẽ trì giới học oai nghi

Tu tập như vậy để làm gì?

Đã không chúng sanh không nhơn ngã

Thân tộc cha mẹ thảy đều không

Đó là tà kiến lời ngoại đạo

Chẳng phải pháp giải thoát chân thật

Lại nữa đời sau các Bí sô

Gây ra tội lỗi không hổ thẹn

Ngã mạn cống cao tâm tán loạn

Ganh ghét tham ái như lửa thiêu

Không sửa ba y thỏng tay bước

Kéo lếch ca sa vào thôn xóm

Mặc tình phóng túng mà uống rượu

Làm đủ các việc làm thô ác

Mặc pháp phục làm sứ giả Phật

Không nương giới luật, gần vua quan

Mang thư tin dong ruổi bốn phương

Cậy thế lực quan tìm tài lợi

Bỏ mất rừng công đức Như Lai

Rơi vào tam đồ các nẻo ác

Hoặc là kinh doanh ở chợ búa

Hoặc là cày cấy ở nông thôn

Phật nói đó chẳng phải sa môn

Bí sô thanh tịnh không như vậy

Tài vật cúng dường của thường trụ

Sử dụng phi pháp như của mình

Thấy có Bí sô đủ giới đức

Sanh tâm khinh mạn và phỉ báng

Bôi nhọ Hiền thiện phá luật nghi

Thân cận thế tục nhiễm hạnh tà

Nuôi dưỡng vợ con làm các việc…

Buông lung thô ác như thế tục

Như vậy tạo nhiều nhân ác nghiệp

Chẳng phải sa môn hạnh xuất gia

Sẽ đọa trong nẻo ác tam đồ

Nhiều kiếp trầm luân chịu các khổ

Đối với các căn không điều phục

Tham đắm ăn uống và sắc dục

Chắc chắn mọi người sẽ khinh chê

Việc dạy đệ tử cũng như vậy

Chưa từng chỉ bày pháp tu hành

Cũng không truyền dạy tâm cung kính

Nói mình Từ Bi trước mọi người

Chẳng cần đệ tử để kế thừa

Người bệnh phong điên hoặc bệnh hủi

Sáu căn không đủ kẻ xấu ác

Nhận người như vậy cho xuất gia

Chẳng phải sa môn đệ tử Phật

Không giới không hạnh không đạo đức

Hạng ấy phi tục phi sa môn

Ví như chất củi thiêu thây thúi

Những người thanh tịnh nên lánh xa

Tánh vốn kiêu căng nhiều tán loạn

Cũng như voi điên không thuần phục

Dù ở núi sâu tâm không an

Lửa tham thiêu đốt không tạm dừng

Quên mất tất cả công đức Phật

Phương tiện trí tuệ hạnh Đầu Đà

Các thiện như vậy không thực hành

Đọa vào A Tỳ không ngày thoát

Thường bàn việc nước nơi thôn ấp

Việc quan việc giặc và quyến thuộc

Ngày đêm suy nghĩ việc như vậy

Chưa từng giây lát hành chánh định

Đối với chùa chiền sanh tâm tham

Sửa sang tự viện và phòng ốc

Không có trì tụng và tu tập

Chỉ vì quyến thuộc và đệ tử

Nếu Bí sô nào nương tựa ta

Ta sẽ cho họ cùng sống chung

Ai muốn trì giới phụng hành luật

Chẳng phải việc ta phải xa lìa

Có ngọa cụ giường nằm các vật

Đồ vật thường dùng thức ăn uống

Cất giấu phòng kín hoặc che khuất

Nói rằng không có khiến người đi

Đời mạt pháp người ngu như vậy

Làm cho giáo pháp Phật sớm diệt

Tham cầu lợi dưỡng đoạn gốc thiện

Hạng Bí sô này nhiều không kể

Nếu người thanh tịnh có trí tuệ

Xa lìa tất cả ở núi sâu

Mạt pháp Bí sô không giới đức

Không ưa ở núi sâu yên tịnh

Thường ở thị thành và thôn xóm

Chỉ lo toan phải trái đấu tranh

Trái với pháp luật của quốc gia

Biển công đức giáo pháp chư Phật

Do phá giới nên đều khô cạn

Ví như biển báu nước lắng trong

Do bị bùn nhơ làm vẩn đục

Cũng như hoa sen nở khắp ao

Bị trận cuồng phong làm tơi tả.

Vào đời mạt pháp người phá giới

Làm tổn hại pháp Phật cũng vậy.

Nếu có người tịnh tu phạm hạnh

Gặp bạn ác này phải xa lánh

Người ấy mạng dứt, đọa A Tỳ

Chịu khổ trăm ngàn… vô số kiếp

Ở địa ngục này chịu tội rồi

Sanh vào súc sanh hoặc làm người

Bần cùng hạ tiện và câm điếc

Mắt chột lưng còm nhiều bệnh tật

Tay chân các căn không đầy đủ

Ai thấy cũng đều sanh kinh sợ

Không tín không hạnh không căn lành

Ngày đêm đói lạnh thường sầu khổ

Lại bị mọi người sanh sân hận

Họ dùng ngói đá để đánh ném

Ba khổ như vậy thường trói buộc

Tất cả tội nghiệp phải xa lìa

Thường nên gần gũi Phật Pháp Tăng

Trì giới thanh tịnh hạnh Đầu Đà

Như vậy lợi danh và quyến thuộc

Như huyễn như hóa như bóng hình

Pháp hữu vi có trong chốc lát

Không lâu chống nhau liền tan hoại

Chỉ có Bồ đề Phật vô thượng

Diệu địa mười lực ba la mật

Kiên cố tu tập chớ sanh nghi

Vị lai rốt ráo an vui lớn.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ rồi bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Nếu có người đối với Bồ-tát thừa không nương pháp thực hành thì người có lỗi ấy sẽ được người không nương pháp kính mến; người biếng nhác được người biếng nhác kính mến; người vô trí được người vô trí kính mến, như vậy họ kính mến lẫn nhau, tham đắm lợi dưỡng, ganh ghét quí tộc, biếng nhác cuồng loạn, thêu dệt hai lưỡi, nịnh hót người khác, dối trá cha mẹ và sư trưởng, hoặc vào thị thành các thôn xóm, không vì lợi ích chúng sanh để giáo hóa mà chỉ nói dối ta là đại trí nghe nhiều hiểu rộng để mê hoặc hữu tình, chỉ cầu tài lợi, khinh bỏ pháp thiện nên chẳng được gì; như đồ đựng bị vỡ nên không thể dùng cất chứa, oán ghét mọi người, nghe tin lời tà, dối trá quá đổi, phải nói là trái, trái nói là phải, đối với chánh pháp của Phật tâm không ưa thích, sanh vào nhà bần tiện dòng họ thấp kém, vì thấy chút lợi nên mới đầu Phật để cầu xuất gia và được làm Tăng, hành phi phạm hạnh, ở trong giáo pháp Phật hoàn toàn không có sự thành tựu, huống chi là trí lớn. Phật bảo tôn giả Hộ Quốc: Hạng người như vậy không nên nói pháp, vì việc thiện của trời người họ còn không thể tiếp nối, thì đối với Bồ đề làm sao thành tựu được.

Khi ấy, Thế Tôn lại bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Có tám hạng người xa lìa Bồ đề không được nói pháp thù thắng vi diệu cho họ.

Hộ Quốc bạch:

– Tám hạng đó là những ai? Xin Thế Tôn giảng nói.

Phật bảo:

1- Là hạng người sanh ở biên địa.

2- Là hạng người sanh trong nhà bần cùng.

3- Là hạng người sanh trong nhà hạ tiện.

4- Là hạng người xấu xí ngu si.

5- Là hạng người đủ mọi trói buộc thân tâm sầu lo.

6- Là hạng người bỏ người hiền gần gũi bạn ác.

7- Là hạng người luôn tật bệnh thân thể yếu đuối.

8- Là hạng người bị các khổ bức bách.

Tám hạng người như vậy xa lìa Bồ đề không nên nói pháp cho họ.

Lúc ấy, Hộ Quốc lại bạch Phật:

– Không nên nói pháp còn nghĩa gì chăng?

Phật bảo Hộ Quốc:

– Nếu có người không quyết định thì Ta không nói Bồ đề; với người hư vọng Ta không nói hạnh thanh tịnh; với người biếng nhác Ta không nói hạnh Bồ-tát; với người keo kiệt Ta không nói hạnh cúng Phật; với người ngã mạn Ta không nói ba la mật thanh tịnh; với người vô trí Ta không nói pháp đoạn nghi; với người ganh tỵ Ta không nói tâm thanh tịnh; với người không lòng tin Ta không nói pháp tổng trì; với người không có đức Ta không nói pháp Thiện Thệ; đối với người tham ái Ta không nói thân thanh tịnh; với người không rành luật nghi Ta không nói pháp hủy báng Phật có lỗi; với người nói láo Ta không nói lời thanh tịnh; với người ngã mạn Ta không nói pháp cung kính; với người không hiểu biết Ta không nói pháp Tu học; với người trọng thân mạng Ta không nói pháp cầu đạo; những hạng người như vậy không nên nói pháp.

Khi ấy Hộ Quốc bạch:

– Ý đó thế nào?

Phật bảo Hộ Quốc:

– Vì hữu tình này ngu si mê muội, tâm thức điên đảo, hư vọng phân biệt, không nương giáo pháp, thậm chí (pháp) trời người cũng không nên nói cho kẻ ấy.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Các hữu tình bất định

Và các chúng sanh khác

Ngã mạn tự cống cao

Lại tham đắm lợi dưỡng

Thường làm trái luật nghi

Đắm sâu trong ngũ dục

Tăng thêm các phiền não

Xa lìa Bồ đề Phật

Đối thiện pháp thối lui

Biếng nhác không tu tập

Do dự nhiều tán loạn

Lời dạy của giới pháp

Mà không sanh lòng tin

Bởi nghèo cùng bức bách

Mới tìm cách xuất gia

Dù được làm Bí sô

Cũng khinh bỏ đạo pháp

Như vất bỏ gánh vàng

Mà chọn lấy gánh gai

Tuy muốn vào núi sâu

Đến ở nơi vắng lặng

Ý không thích tu thiền

Nghĩ tà thêm tán loạn

Chướng ngại các biện tài

Trí tuệ lớn chìm mất

Rơi vào trong nẻo ác

Dù có được thân người

Xấu xí không toàn vẹn

Tánh biếng nhác ngu si

Không hành các pháp thiện

Các căn thường ám độn

Rơi vào hiểm nạn lớn

Trải qua vô số kiếp

Chìm đắm không giải thoát

Nếu hành tà có lợi

Là chứng được Phật quả

Điều đạt không chánh tri

Đáng lẽ thành Thiện Thệ

Nếu người tham lợi dưỡng

Rơi vào trong chúng sanh

Như cuồng phong trên không

Làm rơi các loài chim

Phước tà khi đã hết

Nghĩa ấy cũng như vậy

Người không tin, phá giới

Thấy thiện như người mù

Ví như thiêu thây chết

Không lành người ghét bỏ

Tuy đã phát thiện tâm

Không có trí rộng lớn

Chê pháp bởi không tin

Giải thoát chẳng rốt ráo

Như vẽ tranh không keo

Màu sắc tranh không bền

Ngã mạn tự cống cao

Nghĩa ấy, cũng như vậy

Nếu cầu Bồ đề Phật

Thì không tiếc thân mạng

Với lời pháp sâu xa

Dõng mãnh siêng tu học

Bỏ thiện hành phi pháp

Hành động ấy thêm tội

Rơi vào hầm lửa lớn

Ai nghe pháp như vậy

Nương pháp để hành trì

Đoạn trừ tâm tham ái

Tu trồng cội công đức

Thậm chí đối một câu

Thông suốt hiểu trọn vẹn

Tích công đức như vậy

Thành tựu đạo tối thượng

Mãi mãi lìa ngu tối.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rồi bảo tôn giả Hộ Quốc:

– Ta ở vô lượng vô biên không thể nói, không thể nói A tăng kỳ kiếp trong quá khứ. Lúc ấy, có Phật ra đời hiệu là Thành Nghĩa Ý Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Bấy giờ, có vua nước lớn tên là Phát Quang, chủ Diêm Phù Đề, đất đai rộng lớn một vạn sáu ngàn do tuần, trong đó có hai mươi vạn châu thành. Thành ấp vua Phát Quang ở tên là Bảo Quang. Thành ấy đông tây dài mười hai do tuần, nam bắc rộng bảy do tuần, có bảy lớp thành bằng bảy báu. Vua ấy khéo thực hành tám chánh đạo có một ngàn ức dòng họ giàu mạnh, nhân dân nước ấy thọ mười ức tuổi. Vua có Thái tử tên là Phước Quang, các căn đầy đủ, dung mạo đoan nghiêm, đẹp đẽ đệ nhất. Khi Thái tử sanh có một ngàn kho báu từ đất nổi lên, trong đó có một kho báu hiện trước điện vua, bên trong đầy bảy báu, cao bằng bảy người, lại khiến cho việc làm của tất cả chúng sanh được như ý… cho đến người bị giam cầm đều được phóng thích. Thái tử ấy sanh được bảy ngày thì thông thạo tất cả kỹ nghệ, công xảo, toán thuật, thậm chí tất cả nghề nghiệp, sự việc thế gian và xuất thế gian, không việc gì không thông suốt. Vào nửa đêm có Thiên tử Tịnh Quang đến thuyết pháp, bảo với Thái tử:

– Phước Quang hãy lắng nghe! Ông phải dừng tâm không nên tán loạn, thường phải xa lìa các trần cảnh, ngày đêm tư duy pháp hữu vi, thường quán vô thường, khi tuổi thọ hết ai người cứu ta, đối với phi pháp nên sanh sợ hãi.

    Xem thêm:

  • Kinh Năm Giới Tướng Của Ưu Bà Tắc - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Giác Quả dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Tội Nghiệp Báo Ứng Giáo Hóa Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Căn Bổn Đại Giáo Vương Kinh Kim Sí Điểu Vương Phẩm - Kinh Tạng
  • Kinh Thắng Quân Hóa Thế Bách Luận Già Tha - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Lí Thú Lục Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ - Kinh Tạng
  • Kinh Hải Long Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Diệt Tội Và Thần Chú Bảo Hộ Các Em Bé - Kinh Tạng
  • Giải Thích Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Đức Quang - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Nhật Tử Vương Sở Vấn - Kinh Tạng
  • Kinh Thái Tử Tu Đại Noa - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 30 – Địa Ngục - Kinh Tạng
  • Kinh Mục Kiền Liên Hỏi Năm Trăm Tội Khinh Trọng Trong Giới Luật - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Vạn Phật Thánh Thành dịch - Kinh Tạng