Kinh Tối Thắng Hỏi Về Việc Trừ Cấu Đoạn Kết Của Bồ Tát Thập Trụ
Dao Tần Trúc Phật Niệm dịch
Bản Việt dịch của Thích Tâm Khanh
***
***
Phẩm 1: ĐẠO DẪN
Nghe như vầy:
Một thuở nọ Đức Phật ngự tại khu Lâm viên Nại Thị thuộc thành Tỳ-xá-ly, cùng với tám vạn bốn ngàn vị đại Tỳ-kheo, mười vạn bốn ngàn vị Bồ-tát. Tất cả các vị này đều là bậc đã thông đạt tạng pháp sâu kín, đắc pháp tổng trì, biện tài vô ngại, luôn trụ trong chánh định, có trí tuệ vô úy, giải thoát hoàn toàn các trói buộc căn gốc của mười hai hành, đã đạt Bất khởi pháp nhẫn thâm yếu, dạo trong năm đường quán sát chỉ dạy, dùng trí rộng lớn của Phật trùm khắp chúng sanh, theo căn tánh của mỗi người mà cứu tế họ, giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết. Tên của các vị ấy là Bồ-tát Thường Tịnh, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Sĩ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Thủ Ý, Bồ-tát Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Trừ Ấm Cái, Bồ-tát Thí Liên Hoa Hạnh, Bồ-tát Sư Tử, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Kiến Chánh Phản Tà, Bồ-tát Bất Trí Viễn, Bồ-tát Vô Tổn Chí, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Trì Ma, Bồ-tát Tạo Hóa, Bồ-tát Thủy Quang, Bồ-tát Thí Tướng, Bồ-tát Ứng Thanh, Bồ-tát Kim Anh, Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Nhu Thủ…, gồm có mười vạn bốn ngàn vị.
Khi ấy bốn vị đại Thiên vương chủ cõi địa giới, Thích Đề Hoàn Nhân cùng chư Thiên các cõi Đao Lợi thiên, Diễm thiên, Đâu Thuật thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên, đệ nhất Phạm Thiên vương và chư Thiên cõi Phạm cùng nhau đi đến chỗ Phật. Chư Thiên, Long, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chơn-đà-la, Ma-hưu-lặc, Nhân và Phi nhân đều đi đến đạo tràng.
Bấy giờ Đức Như Lai nói pháp cho vô ương vô số ức ngàn vị đệ tử đang vây quanh trong hội. Tệ ma Ba Tuần ngồi trên tòa không an, bèn truyền thuộc hạ vây quanh sau trước, đi đến nơi Đức Phật ngự, cúi đầu lạy sát đất rồi đứng sang một bên. Tất cả các bậc Đại thánh trong Hiền kiếp, các Bồ tát đều tụ hội đến.
Lúc ấy Đức Như Lai hiện tướng lưỡi, ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên cõi nước. Những người thấy ánh sáng ấy đều nói với nhau: “Hôm nay Đức Thích Ca Văn Phật ở cõi Nhẫn phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương. Các bậc Bồ tát cao hạnh ở trong ánh sáng ấy diễn nói, phát ra thanh âm này: “Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác ở quốc độ Sa-ha phóng ánh sáng vi diệu, vì đại chúng giảng nói mười ngàn loại tam muội chánh định, chẳng phải là pháp tu tập của hàng Thanh văn, Duyên giác. Chúng ta hãy cùng nhau chuẩn bị phẩm vật cúng dường, đến cõi Nhẫn kia kính lễ, vâng lãnh giáo pháp thực hành”.
Lúc đó, cách chín vạn hai ngàn cõi Phật về phương Đông có cõi nước tên là Thạnh Diệu, Đức Phật hiệu là Thù Thắng Như Lai. Theo hầu gần gũi Đức Phật là vị Bồ tát tên Chấp Chí, là bậc Đại sĩ thông tuệ, đã trụ bất thoái chuyển. Được ánh sáng chiếu đến thân khuyến tấn, vị ấy liền tự đi đến chỗ Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác ở cõi nước Thạnh Diệu, cúi đầu, quỳ thẳng bạch Đức Phật:
– Kính bạch Bậc Đại Thánh, con muốn đến cõi Nhẫn để chiêm bái Đức Thích Ca Văn Phật Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, cúi đầu tham vấn, học hỏi những điều chưa biết.
Đức Phật bảo:
– Ông nên biết thời để đi, chớ có nghi ngờ.
Đức Phật lại dạy Bồ tát Chấp Chí:
– Khi ông đến cõi Nhẫn thì phải vâng giữ thực hành năm mươi lăm pháp, luôn ghi nhớ trong tâm, chớ để thiếu sót. Năm mươi lăm pháp đó là gì? Phải biết bố thí và không bố thí là bình đẳng, giữ giới và phạm giới là bình đẳng, nhẫn nhục và không nhẫn là bình đẳng, tinh tấn và giải đãi là bình đẳng, loạn tâm và thiền định là bình đẳng, trí tuệ thông suốt và ngu si mê mờ là bình đẳng, oan gia và thân gia là bình đẳng, gặp lời mắng chửi tâm bình đẳng như hư không, với ba thừa không phân biệt cao thấp cũng không có vô số tưởng, không thấy thiện cũng không thấy bất thiện, không thấy cõi Phật tịnh cũng không thấy cõi Phật bất tịnh. Nếu thấy chúng sanh sinh ác thú không sanh tâm sợ hãi, thấy các bậc Thượng sĩ phải quán như thấy bậc Chúng hựu, không có tâm phân biệt, luôn giữ nhất tâm. Nếu thấy sát, đạo, dâm, vọng ngôn, ỷ ngữ, uống rượu; tâm mê loạn, tật đố, ganh ghét, giận dữ, đấu tranh, kiện tụng; hoặc gặp kẻ có tâm chấp tà kiến: vô thường cho là thường,… thì đều phải sanh tâm bình đẳng không tăng giảm. Chớ cho rằng giữ giới đầy đủ được phước lớn, bố thí thì được phước lớn, cũng không nên nghĩ rằng ta nay giữ giới sát sẽ được quả báo thọ mạng vô lượng, cũng chớ khen mình chê người rằng ta nay đem giới pháp thù thắng tốt đẹp dạy cho kẻ phàm phu thấp hèn, ti tiện. Trừ hết bảy tâm mạn, mười hai tâm vô ký. Đó là năm mươi lăm pháp, cần phải nhớ tu hành.
Đức Phật bảo ngài Chấp Chí:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ tâm ý chánh trực, trụ tâm ý chánh định thì có thể đến cõi đó. Giả sử có người trong trăm ngàn kiếp ở cõi của Ta thành tựu phạm hạnh thì không bằng người ở cõi Nhẫn giữ tâm ý không phân biệt cao thấp trong khoảnh khắc khảy móng tay. Người này thù thắng hơn người kia gấp bội ngàn vạn lần.
Lúc ấy có năm vạn vị Bồ tát ở cõi Phật đó, mỗi vị đều phát thệ nguyện: “Con sẽ đem hết tâm ý thanh tịnh hầu hạ, bảo hộ Bồ tát Chấp Chí đến chỗ Đức Năng Nhân Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác”. Bồ tát Chấp Chí liền cùng năm vạn vị Bồ tát trong khoảnh khắc ví như khoảng thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi thế giới của Đức Phật kia, đến thế giới Nhẫn chiêm ngưỡng Đức Năng Nhân, cúi đầu lễ bái xong lui đứng sang một bên.
Bấy giờ Thế Tôn thấy chúng hội đã an tọa xong liền bảo bốn bộ chúng:
– Các vị có thấy vị Bồ tát Chấp Chí kia không?
Bốn bộ chúng thưa:
– Vâng, đã thấy.
Đức Phật dạy:
– Này các tộc tánh tử, vị Đại sĩ ấy đã vượt qua tam hữu, phân biệt được nghĩa lý ẩn tàng sâu kín, biện tài thông đạt, có tâm Từ thương xót muôn loài, sức thần túc biến hóa dẫn đạo khuyến tấn chúng sanh. Nơi nào có vị đó cư ngụ, nơi đó đạt được nhiều lợi ích.
Lúc ấy, ở trên tòa có một vị Bồ tát tên Tối Thắng nương sức oai thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lạy sát chân Đức Phật, bạch:
– Bạch Đức Thế Tôn, trí tánh con ngu muội không rõ ràng, nay có điều muốn thưa hỏi. Nếu Thế Tôn chấp thuận, con mới dám thưa trình.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Cho phép ông hỏi, Như Lai sẽ vì ông giải thích.
Lúc đó Bồ tát Tối Thắng nghe Đức Phật dạy như thế liền bạch Phật:
– Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai Chí Chơn vào trong tam muội gì mà phóng ánh sáng lớn chói rực hơn cả mặt trời, mặt trăng? Nếu có chúng sanh thấy được ánh sáng của Như Lai thì chắc chắn đạt được điều mong cầu, không mất căn tánh con người. Đó là pháp biến hóa gì mà có sức thần diệu như thế?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Hay thay! Câu ông hỏi là muốn thỉnh Như Lai nói về oai lực của ánh Phật quang, để tiếp độ nhiều chúng sanh nghe xong được khai hóa. Như Lai tùy nghi nhập ức, trăm, ngàn các tam muội chánh định, đến vô lượng hằng sa cõi Phật và vô số cai hướng tánh hạnh của chúng sanh. Người có tánh dâm, nộ, si, cang cường, ngã mạn, cống cao, phóng dật, Như Lai quán sát đều phân biệt rõ.
Bấy giờ ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Thế nào là Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, từ địa thứ nhất, địa thứ hai cho đến địa thứ mười? Đoạn trừ bao nhiêu kết, tiêu trừ bao nhiêu cấu? Thế nào là Bồ tát ngộ rõ pháp trong, ngoài của tự thân đều vô sanh? Thế nào là Bồ tát tự xưng bố thí rộng rãi không bao giờ dứt? Thế nào là Bồ tát tu tập giới đầy đủ, trọn đời không phạm cũng không hủy giới, lui thoái Bồ tát vị? Thế nào là Bồ tát nhẫn nhục mà không khởi thoái chuyển tâm nhẫn, trở lại hạnh phàm phu? Thế nào là Bồ tát tinh cần không giải đãi, lại có tâm ngã mạn, biếng lười do nghiệp thuở xưa kết tụ? Thế nào là Bồ tát có thể nhập pháp định ý, trời nổi sấm chấn động tâm vẫn không tán loạn? Vì sao Bồ tát sơ phát tâm tu tập vẫn không thể đoạn được (tâm tán loạn)? Vì sao ý thức của Bồ tát đã an ổn vẫn không thể lìa bỏ (tâm tán loạn)? Vì sao nói tâm đó của Bồ tát là độc tôn, khác xa hẳn các tâm khác? Vì sao Bồ tát đã tu tập các pháp của tâm mà không biết tâm ý?
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới hỏi được nghĩa này, đem lại nhiều lợi ích và thành tựu cho chúng sanh. Nay Ta sẽ vì ông mà tuyên giảng nghĩa ấy. Đó là những hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ tát mà dù có trí tuệ vô biên, vô hạn lượng cũng không thể so lường được. Chính ông mới có thể khởi tâm ở trước Đức Như Lai mà rống tiếng sư tử. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy tư ghi nhớ pháp này.
Ngài Tối Thắng thưa:
– Con xin lắng nghe.
Đức Phật dạy:
– Bồ tát phát tâm cầu đạo Vô thượng trước tiên đoạn trừ vọng kiến về thân, tà giới, trộm cắp, trí phân biệt khổ, lập chí nguyện giữ đầy đủ cấm giới, mỗi ngày tự suy nghĩ về việc làm của mình, ưa muốn xa lìa pháp phàm tục. Do tánh năm ấm bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Huống gì ở trong pháp ngoại đạo mà nương vào sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức cầu mong độ chúng sanh.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát cũng không quán hành của năm ấm, cũng không quán hành của chúng sanh, cũng không thấy có người có thể độ. Giáo pháp vô ngôn chẳng phải là pháp hàng La hán, Bích chi Phật có thể lãnh hội được.
Lúc ấy Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, không từ vô quán hành của năm ấm mà đắc đạo, không từ vô quán hành của chúng sanh mà đắc đạo, vậy có thể từ bốn pháp cấm mà đắc đạo được chăng?
Đức Phật dạy:
– Chẳng được.
Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:
– Nếu không từ bốn pháp đó mà đắc đạo thì có thể từ Không mà đắc đạo chăng?
Đức Phật đáp:
– Chẳng được.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:
– Chẳng từ Không, chẳng từ bốn pháp mà đắc đạo thì phải chăng hôm nay Đức Như Lai và chúng hội không thành tựu đạo Vô thượng, cũng không được quả báo?
Đức Phật dạy:
– Ta đã thành tựu đạo Vô thượng nhưng chỉ không trụ nơi tánh hữu, không trụ nơi tánh vô mà thành tựu Đẳng Chánh Giác.
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Thế nào là sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức và pháp nội ngoại, pháp thiện ác, pháp hữu lậu, vô lậu; pháp hữu vi, vô vi: pháp danh hiệu mà Như Lai đã thuyết? Thế nào là dùng thể tánh của tên gọi, tư tưởng, văn tự truyền dạy cho tất cả chúng sanh?
Đức Phật dạy:
– Hành cũng vô danh lại không có niệm tưởng, không thấy vào ra hai chiều qua lại tuần hoàn cho nên có hiệu là Nhất thiết trí. Bồ tát thường phải dùng mười pháp để liễu tri Thập địa sự. Thế nào là pháp liễu tri Thập địa sự? Đó là dùng nghĩa của Khổ, Tập và nghĩa của Tập, Đạo, diệt tận không sanh tất cả biến nghĩa; tự biết nghĩa của thân mình và thân người; đối với sáu gốc tà và sáu mươi hai kiến đều biết là không, là vô nghĩa. Khi thực hành, Bồ tát phải trừ bỏ hữu tích và vô tích. Thế nào là trừ bỏ hữu tích và vô tích? Đạo là hữu tích, phi đạo là vô tích. Qua lại là hữu tích, không qua lại là vô tích. Bồ tát phải nhớ nghĩ tu tập các pháp trụ địa, phải tu tập nghĩa khổ, đoạn trừ lửa dâm dục, thuốc độc sân hận và gai ngu si; tâm từ bi trải rộng khắp bốn phương. Tuy có ý hướng thương xót nhưng không có tưởng cho rằng đã nhân từ bố thí. Hoàn toàn không vì bản thân mình mà bố thí cho tất cả chúng sanh, cũng không có tâm hối tiếc. Bố thí mà không thấy bố thí, không thấy có người nhận thí và vật thí. Bồ tát luôn khởi niệm lành tiếp độ tất cả chúng sanh, thường phải giữ tâm khiêm hạ, không sanh tâm cống cao. Khi nói pháp, Bồ tát không thấy có pháp mà khởi sanh trụ pháp, không có niệm tưởng pháp. Ngày xuất gia lìa xa ái dục, Bồ tát dùng pháp Không vô để đoạn trừ tâm luyến ái. Cầu mong thành tựu Phật đạo mà không chấp vào tướng tốt, cũng không nghĩ rằng ta thành đạo trước, người kia ở sau ta. Nếu muốn giảng dạy giáo pháp thì hoàn toàn không làm sai lệch giáo pháp, không hủy phá giáo pháp, tinh tấn hướng đến quả chứng, không bị trần dục lôi kéo, tâm luôn nhớ nghĩ diệt trừ ý cống cao. Bồ tát tự thân không cầu quả báo pháp và tài vật quý giá, truyền pháp giảng dạy nhưng không nghĩ rằng có ngôn giáo, quán thân là Không như hư không, không có niệm tưởng. Đó là Bồ tát dùng Khổ trí để thành tựu địa tích thanh tịnh thứ nhất.
Lại nữa, Bồ tát lại theo nghĩa của Khổ, nghĩa của Tập mà tu tập trăm ngàn loại định. Nếu muốn đạt được Phật tâm định ý tam muội thì không dùng sắc tưởng, cũng không dùng các tướng tốt, cũng không dùng túc hạnh của mình để đạt trụ địa thứ nhất, cũng không mong cầu làm điều này để đạt điều kia, không trụ cũng không đắc cho là thường trụ. Trí đó không nhớ nghĩ quá khứ, không chấp trước tương lai, cũng không niệm tưởng đường sanh tử của thế gian hiện tại, không từ năm ấm, sáu suy mà chế phục các pháp đó, cũng không lìa năm ấm, sáu suy mà phải tư duy sáu pháp Không căn bổn. Sáu pháp Không căn bổn là mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Từ đó khởi sanh, từ đó khởi diệt. Lại phải phân biệt sự hưng khởi của sáu suy, quán sát liễu tri pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc trơn láng; cũng không dùng kiến văn để suy tư biết pháp tâm, ý, thức thì đạt Nhất trụ địa thanh tịnh. Không theo pháp sanh diệt hư dối mà có tưởng hữu thường thì địa thứ nhất thanh tịnh. Không chánh, không tà, không tạo tác; tâm ý bình đẳng không có mong cầu, không phải là đúng cũng không phải là chẳng sai mà thanh tịnh trụ địa. Không theo một, hai, ba, bốn cho đến trăm ngàn loại định, cũng không lìa trăm ngàn loại định ý mà trụ địa thanh tịnh. Không do tâm ý mà thấy rõ các niệm trong ngoài, vọng tưởng về các việc phải trái, cũng không nương sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức mà trụ địa thanh tịnh; cũng không dùng giới, văn, định ý, trí tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, pháp Thập phương vô sở hộ, Từ vô sở úy, mười tám pháp bổn trân quý của chư Phật; không thể dùng ý tưởng, tri kiến ngã tưởng hay vô ngã tưởng; không dùng pháp năm ấm, sáu suy, nơi chốn sanh diệt. Vô sở trụ cũng không phải không trụ. Đó gọi là Bồ tát trụ địa thanh tịnh thứ nhất. Bồ tát cũng không trụ trong ngôi nhà sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; lại cũng chẳng trụ ở pháp phát sanh do mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm vật trơn láng sanh ra. Vì sao? Vì không thể dùng mắt thấy để thấy các tướng, ngộ rõ pháp không khởi, không diệt, không có đầu mối, không có kết thúc. Đó gọi là Bồ tát sơ địa thanh tịnh địa trụ của mình. Bồ tát đều đã thành tựu đầy đủ đạo tuệ, viên mãn các pháp mà Như Lai đã ban bố không có khác biệt. Có bao nhiêu pháp ghi nhớ được đều có thể diễn giải, cũng có thể truyền trao, tụng đọc cho người khác; có thể gồm thâu tất cả tạng pháp thâm sâu của chư Phật.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát lại phải đầy đủ sáu pháp Ba la mật. Tâm xả ly hình sắc, không mong cầu, không sanh niệm chấp nhiễm ba pháp thì gọi là Thí ba la mật. Muốn biết nguyên nhân vì sao không niệm Phật thân mà đạt đến Bổn vô thì phải biết tu tập Giới ba la mật. Không tự nghĩ rằng ta được thành tựu ba mươi hai tướng, so sánh câu chữ giả hiệu của các pháp, tướng mạo không cùng tận, trụ bất khởi pháp nên gọi pháp đó là Nhẫn ba la mật. Tất cả các pháp thảy đều không quán hạnh, cũng không thấy, nghe, thực hành pháp của đạo sĩ. Thấy thiện không vui, gặp ác không buồn, ý không ràng buộc bởi bất cứ điều gì nên gọi là Tấn ba la mật. Tâm không khởi niệm, khởi lên thì loạn tưởng, tự giữ ý thức trong tịch tĩnh, vĩnh viễn ở trong định nên gọi là Thiền ba la mật. Hiểu rõ sắc tướng vốn Không; cũng không tự cao, tự ti hay tự đại, thông đạt tướng của các pháp vốn là một, cũng chẳng có một nên gọi là Trí ba la mật. Bồ tát lại dùng pháp phương tiện thích hợp với chúng sanh, tùy duyên dẹp trừ kiết sử phiền não. Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát phát tâm dùng Khổ thánh trí trụ hạnh sơ địa thì có thể đầy đủ các môn tam muội, các môn đà la ni, trí tuệ tự tại.
Lại nữa, Bồ tát còn đạt được mười ngàn tam muội trụ ở Dục giới, phải dùng quả Khổ trí, Đẳng trí phân biệt mười pháp: dục, hại, mạn, si, nghi ngờ, thân kiến, tà kiến, nội kiến, giới kiến, dâm kiến. Đã biết rõ rồi, Bồ tát không trừ, không tận, cũng không để cho chúng khởi sanh. Bồ tát lại dùng Khổ trí, Đẳng trí ở cõi hữu hình, vô hình quán chiếu rõ mười tám loại gốc kiết sử. Tuy phân biệt kiết sử nhưng không tận trừ.
Này Tối Thắng, ông nên biết bậc Bồ tát sơ học phát tâm lại dùng Tập nghĩa, Đẳng nghĩa, ở trong chánh định trụ ở Dục giới, cõi hữu hình hay vô hình, tư duy về tai họa, bệnh tật đau đớn của mười chín pháp oán đối, và các ý nghĩa của phiền não, lậu hoặc cần đoạn dứt. Bồ tát lại ở trong ba cõi quán sát mười chín pháp mê mờ sai lạc, đọa ở tam xứ có hai mươi hai pháp, cũng phải tư duy ba mươi bốn pháp vô lậu, Phật tâm cùng các công đức đều được thành tựu. Quán vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) đều biết rõ là bất nhị. Đó chính là Bồ tát trụ ở Nhất địa thanh tịnh hạnh của mình.
***
Phẩm 2: LƯU HÓA
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật, thưa:
– Bồ tát ở nhị địa phải như thế nào mới đầy đủ công hạnh, quả đạt được đều đúng như nguyện không sai lạc?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát ở nhị địa luôn phải tư duy, nhớ giữ giới thanh tịnh của mình, suy tư về ân nặng đó, siêng năng tu tập nhẫn nhục, khiêm cung với kẻ dưới, luôn giữ tâm hoan hỷ, cười trước nói sau, thực hành tâm đại từ bi, hiếu thuận với sư trưởng, trọn lòng tin Tam bảo, tôn sùng trau dồi diệu tuệ, không sanh nhiễm trước chấp có thường còn. Kẻ chấp thường thì cho rằng nghiệp sanh tử vốn là lẽ thường của đạo. Thường đạo thì chẳng phải là tôn quý. Nếu tôn quý thì phải hiện ra những việc phi thường, đó mới gọi là tôn quý. Tôn quý đã chẳng phải là tôn quý thì làm sao gọi là đạo tôn quý? Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát hiểu rõ đạo thì không thấy có tôn quý hay thấp hèn, cũng không thấy có hình tướng. Hư không do thường còn nên nói là có hình chất. Danh hiệu chơn đạo không thể nhìn thấy được. Tâm ấy thản nhiên không gì trói buộc, công đức nghiệp đã tu tập không xa lìa chư Phật, không hề ở trong đạo mà bị đoạn tuyệt. Tất cả các ác đều trừ sạch. Tâm Bồ tát luôn ở trong chánh định, không hề chuyển động, chí như kim cương, không có bạn lữ. Bồ tát biết căn bổn của tất cả pháp, đã trừ các cấu nhiễm, tiêu diệt ám chướng, không pháp giải thoát nào mà không thấu tỏ. Tâm ý luôn chất trực, không hề siểm nịnh, tánh hạnh bình đẳng không có ý tranh hơn thua. Đã phát tâm rồi thì luôn nhớ mãi, do vốn thanh tịnh nên được rời xa các cấu uế, tắm gội trong nước mát chốn vực sâu, gột trừ các uế trược. Đức tin kiên cố, không gì có thể làm xao động. Tâm thí rộng lớn vô hạn lượng, tâm như hư không không có chỗ tận cùng, thâu nhận đến hàng hạ liệt, nuôi dưỡng, độ thoát cho họ. Cho nên bậc có tâm như vậy thì trí tuệ thuần thục, không gì có thể làm chướng ngại. Chỗ quy về của tâm, không chỗ nào là không rõ. Đức đại bi vô cùng là kho chứa vô tận. Bồ tát có thức biện tài nhưng luôn giữ tâm xấu hổ, kiên trì tu tập, tâm không xao động. Có năng lực giác ngộ đạo pháp, không pháp nào không thể thâm nhập. Biện tài vượt chúng, không ai không kính ngưỡng, được các pháp Tổng trì mà không quên mất. Lúc đầu không vội thuyết pháp mà trụ tâm trong trăm, ngàn loại định, xuất định không còn nghi ngờ, nghe pháp thiện ác không nghĩ đến buồn vui, không cống cao tự kiêu mà cũng không tự ti. Đi đứng nghiêm trang không mất oai nghi. Hiểu rõ mười hai hành và năm ấm bị sự tác động của sáu suy. Dùng Khổ, Tập, Tận, Đạo phân biệt mười hai duyên khởi, biết rõ vô minh (si), hành… đều là không thật, quán sát năm căn suy lường quán triệt, không còn qua lại chốn sanh tử dơ uế. Do vậy Bồ tát dùng tám mươi bổn môn trí tuệ tiêu diệt các lậu, phát thệ nguyện lưu hóa thân một kiếp để giáo hóa. Như thân của Ta hiện nay sắp nhập Niết bàn Vô dư nhưng không phải vĩnh viễn diệt độ mà lưu lại hóa thân, có vô số bậc Hiền trí vây quanh để nghe pháp vi diệu.
Tối Thắng nên biết, trong Hiền kiếp, cách đây mười ba ức hằng hà sa Phật độ về phương Bắc, có thế giới tên là Bất Động Chuyển, Đức Phật hiệu là Chiếu Ý Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác hiện nay đang nói pháp Bất động chuyển giới. Thế giới đó không có tên Thanh văn, Duyên giác, chỉ thuần là các bậc lên đến địa vị hành giả Đại thừa bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, dùng trí tuệ thần thông để tự vui, trí tuệ vô vực thông đạt toàn thân, tùy thời phân biệt chương cú diệu pháp; tâm từ, bi, hỷ, nộ (xả) bình đẳng như hư không, quán chúng sanh biết trước chí tánh của họ, tuôn mưa cam lộ có vô lượng pháp vị, người nào uống rồi không còn giận hờn. Thực hành ba môn tam muội: không, vô tướng, vô nguyện, đứng trên bờ giải thoát dẹp trừ sanh tử, quét sạch bụi ma oán độc trong tâm. Thần lực của Đức Phật ấy cảm ứng hóa hiện khắp vô lượng cõi Phật. Người nghe lời dạy không biết là hóa thân Phật đều cho là chơn thân của Phật.
Trong quá khứ, hằng hà sa các Đức Phật Thế Tôn đều lưu lại hóa thân tiếp độ chúng sanh để họ được giải thoát. Do vậy, hình tướng biến hóa ẩn hiện của Như Lai là không thể nghĩ bàn. Các Đức Phật trong tương lai như Đức Từ Thị, mỗi vị cũng có hóa thân Phật để khai đạo chúng sanh. Ta tuy diệt độ nhưng hóa thân Phật của Ta không hề diệt độ. Cho nên, này Tối Thắng, hóa cũng là không hóa, Phật cũng là không Phật, hiểu rõ như vậy là giác ngộ không tịch. Lại nữa, cũng không có hai, ba hay vô số tướng. Hàng nhị địa Bồ tát phải luôn tu tập pháp ảo hóa, quán chiếu thật rõ thang bậc trí tuệ, thang bậc tín tâm, thấy địa vị liền dẹp trừ địa vị thì thành tựu địa vị rốt ráo. Địa vị của hàng Thanh văn, Duyên giác tuy trị được bệnh nhưng không chấp thủ địa vị ấy.
Này Tối Thắng, giả sử hàng nhị trụ Bồ tát muốn đạt được quả vị chứng đắc của Thanh văn, Duyên giác thì thật không khó. Ví như có người tay cầm vòng hoa và hạt ngọc minh nguyệt ném lên hư không thì khi chúng chưa rơi xuống đất, trong khoảng thời gian đó, Bồ tát đoạn kết trừ cấu, diệt hoàn toàn các lậu, không còn nỗi khổ sanh, già, chết, sầu lo. Tuy Bồ tát biết đã đoạn trừ mọi trói buộc nhưng vẫn không chấp thủ quả chứng đắc. Cho nên những bậc như thế chưa quán sát tâm bậc thượng, trung, hạ của chúng sanh thì giữ tâm kiên cố luôn trụ nơi cứu cánh mà là hưng khởi mây giải thoát, giáo trí tuệ; nổi lên sấm sét, tuôn mưa thuốc cam lộ, tuyên nói Pháp bảo chơn đế, không đoạn ba nghiệp, ý niệm vắng lặng như nước trong sạch, luôn dùng cấm giới để tự trang nghiêm, lại dùng các đức hạnh để trang điểm cho tân, tôn thờ đạo giác ngộ vi diệu của chư Hiền Thánh đến tận lúc tối hậu thân nhất sanh bổ xứ. Bồ tát hiểu rõ bổn nghiệp đã tạo của chư Phật hiện tại, hiểu rõ các pháp Tổng trì đều không chỗ nương thì trước khởi ý niệm làm nghiêm tịnh đạo tràng, lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm An ban. Ở trong chúng khó điều phục thì điều phục không sợ hãi, tâm dũng mãnh nên được tự tại, phát tâm chí thành thật đáng kính. Vì các chúng sanh mà nói pháp hỷ lạc, tâm ấy đáng tôn kính, siêu việt mọi loài. Nếu có thể ngộ rõ tướng của Không vô thì kỹ thuật của ngoại đạo nào có thể vượt qua. Đó là điều hàng Thanh văn, Duyên giác luôn tôn kính.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Hàng nhị địa Bồ tát biết được bổn vô thì xa lìa được thân hành, bỏ lỗi lầm của miệng, trừ loạn niệm của ý, tiêu diệt tam uế, ngăn chặn tam tai, phủ che năm ấm lạnh lẽo, tìm kiếm gốc si hành của mười hai (nhân duyên) và năm kiết sử thượng phần và hạ phần phân ra khắp ba cõi. Do dần trừ bỏ nên khiến chúng không còn tăng thêm. Tư duy về mười một loại bệnh khổ não, trừ bỏ các bệnh chấp trước nặng nề của bốn đại, phân biệt vật chất là pháp ác, phải tránh xa gia nghiệp, rời bỏ tập quán thế gian, đoạn trừ ái dục, sân hận, tham cấu. Các căn của Bồ tát thanh tịnh không bị kiết sử lôi cuốn, thường nhớ nghĩ tư duy vô ngã tưởng, giữ tứ tín kiên cố, trụ bốn ý chỉ, thành tựu bốn ý đoạn, tuyên bố năm căn, bày rõ năm lực, chí không khuyết giảm; hiểu rõ bảy giác chi, kho tàng của các báu; tu hành tám chánh đạo của Hiền thánh, không hề buông bỏ tám điều của bậc đại nhân. Như thế, này Tối Thắng, hàng nhị địa Bồ tát giữ gìn tâm, điều phục ý, không biết bao nhiêu niệm đều giác ngộ là Không, không phải chơn thật cho đến đạt được địa vị ở trên, nhận thọ ký Bồ tát vị vẫn tinh tấn tu tập bất động, cũng không lìa bỏ việc tu hành. Học đạt đến bậc thượng trí, tuy tôn quý nhưng ý không hề sanh cống cao, quán sát biết rõ các pháp, thấy một pháp không sanh tưởng chấp có hai, ba pháp; cũng không khởi tưởng vô ích, không có tưởng hữu biên, tưởng vô biên, tưởng hữu biên vô biên, hiểu rõ tưởng vô biên mà không trụ vô, tư duy chánh giác thanh tịnh thì chư Phật cũng thanh tịnh, khéo điều tâm chánh trụ không tà. Đối với thiện ác đều bình đẳng, biết rõ đều là Không. Không đó không nghi ngại, cũng không thấy có tranh hay không tranh, có quán hay không quán. Bổn vô là một, cũng không thấy một, biết một trừ một, không trụ ở một, lại không theo một mà khởi các tưởng. Bình đẳng với Tập và vô Tập, ý vượt hữu hạn, cũng không thấy có pháp hữu hạn, có vượt qua, có nương tựa; không thấy tâm tán loạn vượt ra khỏi nội ngoại pháp. Khéo phòng giữ thức trong định không động. Tuy ở trong tam hữu mà không chấp trước tam hữu. Quán sát thật kỹ các tánh, hiểu rõ chúng không có nguồn gốc. Bồ tát biết được vô căn nên được gọi là Bồ tát trụ nhị địa thanh tịnh. Bồ tát tự kiểm tâm, quán nguồn cội các pháp đều là vô thường. Khi vô thường đến thì không thấy xuất sanh, không có thiện hay bất thiện và các danh từ tốt hay xấu như lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Điều phục tâm không còn ưu não, ở ngay tâm ấy khai mở đại pháp tạng, đi vào đại pháp hải, nghĩ cầu thật tuệ, ngâm nấu tam ái, khéo chế phục tứ lưu, tu lục trọng pháp, thành tựu quả chứng.
Này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ đầy đủ các pháp như vậy rồi, biết không hình mạo nên không thể thấy. Đó gọi là bậc nhị địa tu học thanh tịnh.
***
Phẩm 3: QUÁN KHÔNG
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Bồ tát ở bậc tam địa phải thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?
Đức Thế Tôn dạy:
– Bậc Bồ tát tinh tấn học tập mà không có xuất nhập niệm. Tuy học nhiều nhưng việc tham vấn không bao giờ cho là đủ, không ham muốn học hỏi thể văn câu cú, từ ngữ hoa mỹ; truyền bá giáo pháp nhưng với mọi người luôn luôn khiêm hạ, quản lý chăm lo việc nước nhưng không bị niệm tưởng về việc nước buộc ràng, làm các nghiệp thiện mà không cống cao, giữ gìn niệm tâm phát khởi đầu tiên khiến cho không để dứt mất, thành tựu đức nguyện, chí như núi An minh, quán sát chúng sanh, nói pháp hỷ lạc. Bồ tát từ lúc mới phát tâm đã vì gốc đạo, do vậy nên đạt được đạo quả mãi mãi vắng lặng, tâm niệm bố thí rộng rãi trải khắp nơi, phát nguyện lập chí giữ giới trọn vẹn, phát tâm tinh cần tu tập không lười biếng, không lấy gì làm hỷ lạc, chỉ lấy đạo là nhiệm vụ phải tu tập. Với người không có chỗ nương tựa thì chỉ đường cho họ. Do phân biệt pháp đại trí nên từ khi mới phát tâm vĩnh viễn không chỗ trụ. Do dùng tâm đại bi nên không thể thấy. Mong nhổ tận gốc (phiền não), lập chí hạnh Đại thừa nên khởi tâm thương xót người chưa được độ. Khi thấy người đã được độ thì phải vui mừng, giữ tâm bình đẳng đối với chúng sanh. Dù gặp khổ hay vui cũng không dao động, tương trợ tất cả dẫn họ vào cửa đạo. Được các Đức Như Lai hiện thân phò trì, nhớ nghĩ thuận theo lời dạy của mười phương chư Phật, phải độ tất cả nạn của năm đường, làm phát triển đạo, không làm tổn hại Tam bảo, không trái nghịch thì thành tựu đạo quả. Thuận theo cấm giới làm bậc mô phạm cho chúng sanh, tuyên dương trí tuệ Pháp bảo vô tận. Giống như hư không không có chỗ tận cùng, Nhất thiết trí kia cũng không tận cùng. Tâm thức của Như Lai cũng như vậy, không có sanh diệt, sự ràng buộc của sanh và diệt đều đã đoạn trừ, định tâm tam muội trí tuệ giải thoát, vượt qua tri kiến về thân vô hữu, gần xa đều không thể thấy.
Tối Thắng nên biết, tất cả pháp yếu thậm thâm của chư Phật cũng không thể tận, không có đầu mối, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai hợp tan không gì có thể thấy có sự tập hợp, có sự tác thành rồi lại tan mất, biến đổi khác hẳn, đều chẳng phải do bốn đại tạo ra. Đất, nước, gió, lửa cũng không có đối tượng và cũng không thể thấy. Dùng trí tuệ phân biệt rõ tâm hành của chúng sanh, chẳng đoạn bốn nguyện bất khả tư nghị, tất cả đều không có chỗ sanh cũng không phải lờ mờ không rõ. Tất cả các pháp tìm hiểu đều không thể biết. Do đó mà nói không có chỗ sanh, lại cũng chẳng có pháp nào có thể có sanh. Sanh đã vô sanh thì pháp nào gọi là sanh. Do vậy, này Tối Thắng, phát Bồ đề tâm không có chỗ tận cùng, không khởi tâm tưởng hình tướng các pháp, cũng không dối trá vọng tưởng các pháp. Tâm Bồ tát chánh trực, là đặc thù trong các tâm. Pháp tu tư duy tâm chính là pháp tự quán thân mình, quán thân người khác đều là không tịch, không sanh niệm tưởng. Quán thân vô nhiễm nên bất khả đắc, cũng không trao nhận, phân biệt là một. Đi, đứng luôn quán sát các loại hình thể đã thọ của ba cõi đều do si nên mới nhận lãnh các khổ não. Liễu tri pháp bất nhị nên bất khả đắc, tâm niệm khổ não, thực hành pháp thấy bên trong, bên ngoài đều là không tịch, không có sanh diệt.
Lại nữa, này Tối Thắng, bậc tinh tấn học đạo Bồ tát quán niệm hơi thở ra vào dài ngắn, nhanh chậm. Các lỗ chân lông trên thân khi hơi thở thổi qua mà không hiểu rõ như thế nào. Hơi thở ra ấm mà hít vào lạnh thì biết sự tịch tĩnh đó đều là không chơn thật. Bồ tát quán thân, phân biệt thức cũng không có xứ sở vì tâm thanh tịnh, chánh định không tà niệm. Tâm ấy nhu nhuyến, không gợn niệm trần, trọn tin pháp yếu giải thoát chưa từng thay đổi, chí luôn kiên cố không động chuyển thì không thể do yêu ghét mà sanh tâm nhiễu hại. Vì sao? Theo hạnh đó thì không thể có tâm thành tựu. Nếu đã thành tựu thì không phỉ báng, lấy gì để nói là không nguồn gốc, không tội lỗi. Tâm cấu đã hết, nguyện cho pháp luân thường chuyển ở thế gian, khiến mọi người đều được trí tuệ vi diệu, soi sáng chốn tối tăm như mặt trời hiện mây tan. Lập đạo vốn phải tự quán vô ngã, không có chỗ sanh. Các pháp trong ngoài đều như vậy, cũng không thấy pháp khởi diệt của các đường sanh tử, cho đến La hán, Duyên giác và Phật vị đều không thấy nghe. Người có hữu tưởng kiến là phi kiến (nhận thức sai lầm), không có đối tượng sở kiến thì tất cả (cái thấy) đều thanh tịnh, không dừng trụ tâm ở niệm tưởng tịnh thì chính là phi tưởng. Đó là không kiến, là vô sở kiến.
Lại nữa, này Tối Thắng, tâm không ở trong cũng không ở ngoài, không ở trong đạo pháp cũng không trụ ở thế gian, không trụ ở hữu cũng không trụ ở vô, không thấy chỗ dao động sanh diệt. Tâm không bờ vách, khoảng khoát không đáy, cũng không có mảy may âm hưởng. Như vậy, này Tối Thắng, cần phải quán niệm về pháp quán niệm mà không có đối tượng quán như thế, cần phải thấy về cái thấy mà không có đối tượng của sự thấy như thế thì tu tập hạnh Bồ tát là Không, là diệt, là vô sở hữu. Bậc Bồ tát trụ tam địa dùng các pháp định khiến tâm ý chuyên cần, kiểm soát niệm thành thanh tịnh. Tu tập kiểm soát tâm như vậy là hợp với Niết bàn, tương ưng với vô sở sanh. Pháp đó chẳng phải là pháp vô, cũng chẳng phải là pháp chẳng phải vô. Do danh tự mà tạm gọi là Pháp tánh. Giác ngộ pháp tánh thì không thì không còn theo nhân duyên quá khứ, ý thông tỏ rõ ràng, tu tập dứt trừ pháp bi thương của thế gian. Pháp ác chưa sanh thì tinh tấn điều phục, chế ngự khiến chúng không khởi lên. Pháp ác đã sanh thì điều phục ý khiến đoạn dứt. Pháp thiện chưa sanh thì tinh tấn làm cho phát sanh. Pháp thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng, không để mất.
Bậc Bồ tát tam trụ tu tập định thần túc được sự hỷ lạc từ quá trình tu tập định chỉ. Thần túc ấy luôn giữ gìn cho thân và tâm ý. Bồ tát dùng tinh tấn định trừ bỏ các việc ác đã làm. Thần túc lại cũng thường giữ gìn thân tâm. Bồ tát dùng định ý trừ diệt các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc giữ gìn thân tâm. Bồ tát dùng trí tuệ trừ bỏ các nghiệp đã làm, thâu nhiếp thần túc đó cũng để giữ gìn thân tâm. Bồ tát dần dần tu tập tín căn, tinh tấn căn, ý căn, niệm căn, định căn, tuệ căn liền được thể nhập pháp yếu. Phật pháp không tận cùng, không người, không ta, không có nhân duyên cũng không triền phược. Người yêu thích sự hiện hữu thường chấp cho rằng phải đoạn trừ nỗi khổ sanh tử. Tất cả đều không dấu tích mà nhiều người lại nương tựa, đặt ra tên gọi ở vô số đời. Hành lại tích tập, ưu não theo đó phát sinh như bóng theo hình không khi nào dứt. Như vết bánh xe phụ thuộc theo bánh xe, chẳng biết khi nào cong, khi nào thẳng, tu tập định cũng không nương tựa, chánh quán về pháp vô chấp. Tham đã tận, tưởng đã diệt, kết đã mở thì được thanh tịnh. Với hành không cảm, ý không ưu loạn, đoạn trừ già bệnh không còn qua lại. Mắt tuệ sáng tỏ chiếu khắp thế nhân, phá bỏ mười hai nhân duyên, không điểm nào trí tuệ còn mê mờ.
Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ tát lại phải tu tập công đức thần lực. Người có thần lực là bậc chẳng thể nào sức oai thần của thiên ma, ngoại đạo phá hoại, xâm hại. Tín lực, tinh tấn lực, ý lực, định lực và tuệ lực là mẹ của bậc tu hành Bồ tát hạnh. Sau đó phải dần dần tinh cần, tu tập Thất giác ý hoa. Dùng Giác ý hoa tu tập mười lăm tâm, đoạn trừ tâm bỏn sẻn, xan lận che lấp dấu tích Bồ tát đạo, thành tựu trí tuệ thâm diệu không thối chuyển. Pháp Giác ý hoa vô vi, vô tác trừ bỏ hạnh ác, bất thiện cùng Tinh tấn giác hoa hợp thành giới ngăn chặn giải đãi; khi có phóng dật thì ngăn chặn để nó không khởi lên. Hoan duyệt giác hoa ứng với bậc tam thiền, nhiếp các loạn tưởng, tịch tĩnh vô vi. Do Tín giác hoa nên không bị tham trước, quán rõ các pháp không sở tập. Do Tín giác hoa nên tâm chí vị ấy kiên cố, lời nói nhã nhặn, rõ ràng thông suốt, không có hối hận, e dè. Bồ tát cũng phải tư duy về Vô trước giác hoa, dứt trừ một trăm lẻ tám tâm nhiễm trước lầm lỗi. Bồ tát lại phải tu tập Bát Hiền thánh đạo là đẳng niệm, đẳng định, đẳng ngữ, đẳng hành, đẳng nghiệp tập, đẳng ý, đẳng định; vượt qua tám nạn và sáu suy. Bồ tát lại phân biệt pháp Tam tam muội. Tu tập đầy đủ các hạnh đó thì được gọi là Tam ma địa thanh tịnh.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ tu tập Tuệ môn, tư duy về Không, chẳng có gì không thể thấy được, không có tưởng về hình tướng thì có tướng cũng như không tướng. Khi nói pháp cho người thì luôn dùng lời chơn chánh, trung thực, chí thành; tuyệt đối không nói lời sai lạc khiến người sanh nghi ngờ, thất vọng. Bồ tát không mong cầu danh xưng nên được mọi người khen ngợi, cùng nhau đến tôn phụng cúng dường. Nếu Bồ tát có làm việc gì thì đều không vì mình, trước tiên mong cầu người khác bình an, sau đó mới lo cho mình. Do vậy nên tự thân đạt đến chỗ an ổn. Công đức tu thí đã làm không bao giờ nghĩ nhàm chán. Khi bố thí cho người khốn khổ, không bao giờ cho là đủ, vì để cải hóa tất cả chúng sanh vậy. Bồ tát dùng tâm đại từ trừ sạch già chết, làm cho kẻ biếng lười khởi tâm tinh tấn. Bồ tát muốn nuôi dưỡng các loại chúng sanh thì luôn phải tự nghĩ: “Ta nhờ chúng sanh nên mới đạt được đạo quả, các công đức nghiệp cũng được đầy đủ. Ta phải dốc hết sức lực vì chúng sanh mà không mong cầu quả báo”. Những bậc như vậy do tâm thanh tịnh đã thấm nhuần mưa pháp nên không mong cầu gì ở người đời. Nếu có mong cầu thì cũng không vì lợi dưỡng. Dùng tuệ lực đó, Bồ tát đạt được tất cả pháp, nguyện khiến cho chúng sanh, mỗi người nơi chỗ mình ở đều được an ổn; làm cho ba cõi thượng, trung, hạ đều không còn oán hận. Việc làm của các vị ấy đều để làm cho chúng sanh an ổn, thấu tỏ chơn lý. Cho nên Bồ tát là bậc không ai có thể chế ngự, là bậc không ai có thể làm ngưng đoạn.
Như vậy, này Tối Thắng, thệ nguyện rộng lớn thuở xưa của Bồ tát thật khó lường. Trí tuệ vô biên của các vị ấy không cùng tận. Như vàng cõi trời không có tạp chất; cũng vậy, dụng hạnh của các Bồ tát không có chỗ cấu uế, dứt trừ phiền não trần lao, vĩnh viễn không tham dục, không thể nào có ác tâm trỗi dậy làm loạn. Lại nữa, tâm ý Bồ tát dõng mãnh không bị niệm ác bao phủ khiến ôm ấp niệm tà, cũng không phát sinh tâm sân hại, ngu si và tâm tham chấp sở hữu, vượt qua năm dục cống cao tự đại, những gì không nên làm đều đã tận trừ. Bậc Bồ tát tam trụ thường đạt được tâm ấy, quán chiếu nội pháp nhưng không thấy có đối tượng để thấy, cũng không có hình tướng. Nếu có tướng thì tức là hủy hoại pháp tánh. Bồ tát buông bỏ gánh nặng các cấu trược, phải kiên trì giữ tâm đó không được giải đãi, suy tầm tâm ấy, tất cả đều không nương trụ nơi nào mà cũng không thấy có vô số niệm tưởng. Với kẻ có tâm rối loạn thì khiến tâm họ định tĩnh. Với người không trí tuệ thì bồi dưỡng để họ có trí tuệ. Tóm lại, với chúng hữu tình phải thọ nhận thân này hoặc có công đức, hoặc không có công đức, Bồ tát đều muốn độ họ được giải thoát đến với đạo Đại thừa, suy tư theo Đại thừa cũng không chấp trước suy tư đó. Bồ tát giáo huấn chúng sanh thực hành pháp đó khiến tất cả họ có chí kiên cố, rồi trụ tam địa thanh tịnh, thành tựu đạo quả. Bồ tát ở chỗ nguy nan đều thành tựu công đức vô cực (Ba la mật). Dù đạt được trí tuệ biết được báo ứng vô sở hữu, tâm Bồ tát vẫn như vậy, vĩnh viễn không thể thấy. Cho nên những bậc áy có thể dùng trí tuệ quán biết không có quá khứ, vị lai, hiện tại.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát thường học tập tâm đại từ, nếu có khổ nạn tự mình gánh chịu để mong cứu độ, bảo toàn thân mạng cho chúng sanh, thà táng thân mất mạng cũng nguyện nhận lãnh khổ não, cấp thiết độ người không quên lời trọng nguyện. Bồ tát thực hành tâm từ bình đẳng như thế. Nếu có lợi ích không vì thế mà vui mừng, bị chửi mắng không có tâm sầu não. Đó chính là Bồ tát tùy thời mà thực hành tâm từ. Người tu tập tâm từ luôn vì thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý; trọn đời không truyền bá điều ác cũng không suy nghĩ tà quấy. Dù một mình ở giữa cõi trần lai ngu si cũng không sợ hãi, không tự đại; không quên bỏ pháp đã học. Trí tuệ vi diệu thông đạt tất cả pháp của chư Phật. Theo nguyện cầu của người, không trái nghịch với tâm của họ.
Bấy giờ Thế Tôn lại bảo ngài Tối Thắng:
– Xưa kia, Ta đến các nơi tham học, trụ tam địa thanh tịnh các cấu uế, công đức viên mãn. Chúng cùng theo học đông không kể xiết. Trong số đó, những người theo sau Ta tâm thối chuyển không thể nói cho hết. Ta từ nhất trụ địa đến tam trụ địa phát khởi tâm hoằng thệ không thay đổi. Ở trong pháp đó, công đức đã tạo cũng không thể lường. Ta đã xả bỏ tất cả châu báu quý hiếm, quốc gia, tài sản, vợ con không thể kể xiết, chỉ để nguyện bố thí cho những người cần chúng, như bố thí chín ngàn chín trăm chín mươi chín cái đầu. Cuối cùng Ta gặp một con cọp gầy ốm đang kiệt lực. Trong cơn đói khát nguy cấp, nó muốn bắt con vật khác để ăn nhưng không thể nào làm được nên muốn ăn thịt con mình để bảo toàn mạng sống. Nó gượng sức giương vuốt toan vồ đứa con. Ta cùng Từ Thị và Nhu Thuận là bạn. Ta nhìn hai vị ấy, bảo: “Nay đã đúng lúc, ai có tâm kiên cố dũng mãnh tự dùng thân bố thí cho cọp ăn?”. Cả hai, mỗi người tự quay lại nhìn nhau, miệng tuy không nói mà tâm đã thoái chuyển. Ta quán sát biết họ có tâm lui thoái nên ở trên đỉnh núi lao mình xuống hang sâu. Trời Thủ Đà Hội hiện thân xuống nâng đỡ, hóa làm chiếc giường cam lộ để thân Ta nằm. Con cọp đói cũng được no đủ, mẹ con đều bình an. Ta cũng không bị thương tổn. Tính luôn thân đó là đủ một vạn cái đầu. Do vậy, này Tối Thắng, Bồ tát tinh tấn tu học thành tựu Tam ma địa phải không có tâm thoái chuyển, không kiên cố. Giả sử thân Ta rơi vào miệng cọp, cọp cũng không ăn, cũng không đến gần. Vì sao? Bởi vì Ta đã lập công đức sâu dày nên có được thần lực tự tại với tất cả pháp, tu tập sám hối chưa từng có tâm che giấu, dùng vô lượng việc bố thí để khuyến trợ công đức. Bồ tát tu học, truyền giảng đạo nghĩa, thuận theo pháp tu tập khuyên chúng sanh học đạo theo pháp của bậc Đại sĩ. Tâm của Bồ tát kiên cố, không rời hoằng thệ, công đức đạt đến vô cực, dùng đó để tự trang nghiêm.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc tấn học Bồ tát tu tập tam địa luôn phải chuyên tâm không để thay đổi, không lấy sở kiến làm động tâm chúng sanh. Với các trần lao phiền não luôn biết tránh xa. Với bản thân thì biết đủ, không cầu lợi dưỡng, tâm vướng mắc chấp trước; không cầu địa vị cao sang quyền quý giàu có, làm cho tất cả mọi người tu tập pháp chơn thật, mở bày trí tuệ tối thượng khiến cho mọi chúng sanh đều đạt được cái thấy căn bản: người và ta không phải một nhưng vốn không khác biệt. Bồ tát tùy theo nhân duyên mà hiển bày ý đó, không dùng pháp sanh, pháp chẳng phải không có sanh, pháp vô sanh, pháp bất sanh để thanh tịnh địa của mình cho nên không có Hoặc, rốt ráo không có Hoặc. Hoặc phát sinh trần lao nên gọi là Hoặc. Với Hoặc không thấy Hoặc, không có Hoặc, chẳng có Hoặc, biết rõ ràng sâu sắc đến vi tế hoặc thì chính là ứng hợp với chơn không.
Như vậy, này Tối Thắng, con đường tu tập của Bồ tát là phân biệt lý Không vô đưa đến nhập pháp, độ cho tất cả chúng sanh loại khổ đau đến an lạc. Này Tối Thắng, đó gọi là bậc Tấn học Bồ tát trụ tam địa thanh tịnh hạnh của mình.
***
Phẩm 4: SẮC NHẬP
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật, thưa:
– Thế nào là bậc Sanh quý Bồ tát ở tứ địa thanh tịnh hạnh của mình?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Sanh quý Bồ tát ở tứ địa luôn phải không bao giờ rời bỏ việc thọ trì pháp của bậc chơn nhân, giữ tâm ý tri túc cũng không tham trước, không rời bỏ mười hai pháp yếu khổ hạnh, giữ gìn giới cấm như phòng rắn độc, thấy ái dục nhơ uế như bị lửa đốt thiêu, trừ bỏ tâm ái dục cũng không để nó phát sinh. Khi dạy chúng phải khởi tâm quán tưởng như Niết bàn, giảng giải những điều mình thông tỏ, không tiếc thân mạng. Không khởi tâm khinh mạn, cống cao, tự đại đối với chúng, không mê thích sở hữu cũng không có tam ngại, tu hành pháp tâm thức của bậc Khai sĩ. Ở trong đại chúng suy nghĩ thực hành pháp thí, dạy bảo chúng sanh không khác với sở nguyện của mình. Bồ tát tích công bồi đức là vô thượng đạo, một mình tu tập ở chốn rừng sâu nhàn tịnh, vật sở hữu chẳng có gì chỉ cầu biết đủ mà thôi, thực hành các công đức mà không chán đủ, học rộng hiểu nhiều mà không khi nào cảm thấy mỏi mệt, dùng trí tuệ diễn giảng không cho là mệt nhọc, quán sát trong thân, tư duy gốc ngọn, trí tuệ thẩm suy thông đạt đầy đủ các niệm, xa lìa các điều ác, tu hành giải thoát môn; môn giải thoát đó là để dạy Bồ tát. Thông suốt các pháp bổn, suy tư pháp vi diệu, phải phân biệt tướng thành bại của năm ấm, quán tri bốn đại: đất, nước, lửa, gió; thấu tỏ những pháp căn bản làm khởi lên sáu suy. Mười hai nhân duyên rộng không bờ mé, sanh tử biến đổi không thể tận cùng, giảng nói về nỗi khổ để can ngăn chúng sanh, khuyên họ ghi nhớ không quên, không tính toán thọ mạng của ta hay người dài ngắn, yên lặng vô vi tu tập phi thường nghiệp, giải ngộ tất cả đều là hư giả không thật.
Lại nữa, này Tối Thắng, bậc tứ trụ Bồ tát phải bảo hộ cho người theo Phật, với tâm phân biệt đạo tục thì đều không thể thấy. Trí hạnh của Bồ tát không thể tận, làm tất cả việc công đức, chỉnh đốn dạy bảo cho người trong nước, tùy theo thứ lớp mà có chỗ thành tựu. Biển tuệ không bờ, cảm thọ không chán dành hết để cứu độ tất cả chúng sanh. Công đức tu hành của Bồ tát luôn đứng đầu, tối tôn tối thượng không ai có thể theo kịp, niệm pháp Tổng trì nhớ mãi không quên, làm cho mỗi chúng sanh đều đạt được gốc thiện không khuyết giảm. Vì sao như vậy? Do Bồ tát dùng pháp tôn quý nên được xa lìa duyên trói buộc. Do thọ pháp như thế nên Bồ tát quyết định đi vào địa vị của bậc Chánh sĩ, cũng do tâm ý chuyên cần không thoái chuyển nên Bồ tát tự đạt được đầy đủ thánh nghiệp vô thượng, thành tựu sở nguyện nhưng cũng chẳng thấy có thành tựu. Nếu thấy có thành tựu tức là chẳng thành tựu. Việc tu hành của Bồ tát mãi mãi không thể thấy. Tu tập tâm định đó thâu nhiếp, thông tỏ các pháp; các hạnh đã làm không để lui sụt. Điều phục tâm ý là đạo nghiệp của Bồ tát, tu hành tự giữ gìn vô số tưởng. Vì sao như vậy? Chính là lìa các ác, không làm theo, tinh cần thực hành bố thí phước điền an lạc. Bồ tát phát tâm đối với tất cả chúng sanh không dùng thân tâm có tham ái, chỉ dùng thuần nhất tâm thương yêu tăng thượng vô cùng vi diệu. Bồ tát chuyên chú tinh cần vâng giữ giới pháp như giữ đôi mắt, dạy người phạm giới khiến họ không làm ác. Bồ tát cũng phải tinh cần tu hành nhẫn nhục; thường thì tu hạnh nhẫn rất khó. Bồ tát tuy ở địa vị tôn quý giàu có an vui nhưng không khinh người nghèo đói.
Như vậy, này Tối Thắng, nhẫn nhục là khó. Tu tập tinh tấn cũng khó đạt thành. Ngồi dưới cội Phật thọ, thân thẳng tâm chánh, ngồi kiết già không lay động. Nếu có người đi lại nói: “Tránh khỏi chỗ của ta. Ta muốn ngồi đây”, thì phải kiên trì chớ để bị y hàng phục. Trước tiên giữ Phật đạo, quán tưởng đu các tướng tốt, hàng phục ma quỷ rồi mới xả quán xứ đó. Đó gọi là tinh tấn thì khó có thể được.
Chuyên tâm định ý cũng khó có thể đạt được. Khi bậc Sanh quý Bồ tát tu tập tâm định, trời mưa tuyết tuôn ào ạt, hàng vạn âm thanh đồng vang lên chấn động muốn làm loạn tâm Bồ tát, tâm Bồ tát không được dao động dù chỉ mảy may. Này Tối Thắng, đó gọi là tâm định của Bồ tát, vì thế nên gọi là khó. Bồ tát dùng trí tuệ tu các công đức, đối với chúng sanh không bao giờ nghĩ đến việc khổ khó, đi đứng ra vào hòa nhã trang nghiêm, oai nghi đầy đủ, pháp phục chỉnh tề. Đó gọi là Bồ tát tu tập công đức trí tuệ kiên cố, không ai có thể làm hại được. Sự hiểu biết của Bồ tát không bị chướng ngại, đạt đến chỗ cao thâm, thông tỏ sâu sắc đến từng chi tiết nhỏ một cách rõ ràng, không có chi tiết nào là không biết. Bồ tát luôn giữ tâm chuyên nhất không buông lung, thường ghi nhớ không chấp vào tất cả đối tượng nhưng vì phương tiện mà phải nương vào. Với kẻ mù lòa, Bồ tát độ cho khiến thấy được ánh sáng. Người không hợp quy y thì không cho quy y. Kết bạn trong chốn tôi tớ thấp hèn. Với kẻ dối gian xảo trá thì dạy cho họ tu tập hạnh chơn thật, trung thực. Gặp kẻ cướp hung bạo thì thị hiện nhẫn nhục. Ở trong cảnh đẹp nhưng không bị nó buộc ràng, gặp kẻ phản phúc vong ân thì dạy bảo khiến họ biết báo ân. Ở cung trời thì dạy bảo để chư Thiên tu tập thiện. Gần gũi kẻ có tâm lười biếng thì siêng năng tu tập đức nghiệp. Nếu gặp kẻ cống cao thì không có tâm tự đại, có cầu điều gì thì không nên gián đoạn, không nghĩ đến việc ác, không nói lời khuyết lậu. Nếu có kẻ ở chỗ làm những việc tà quấy thì giúp cho họ đến được nơi an ổn. Khi có nhiều loài chúng sanh đến chỗ mình thì vui vẻ tiếp đón, không sanh tâm giận dữ không vui, dùng lời khuyến dụ nói pháp có tấn có thoái: “Việc ấy nên như thế này! Việc ấy không phải như thế này!”. Tâm an định bình thản không tăng, không giảm, trọn tin vào tội phước, biết có báo ứng. Nếu Bồ tát ở chốn thị thành gần gũi dân chúng thì cũng quán như ở chốn núi sâu khoảng khoát không có gì khác biệt, không tham lợi dưỡng, không tiếc thân mạng, tâm niệm thanh tịnh không có tâm thị phi, luôn phòng hộ lỗi của miệng, lời nói không bỉ thử; không cầu người cúng dường hay mong người tôn kính, biết tri túc chỉ cần vừa đủ mà thôi. Tâm Bồ tát luôn nhu hòa, không bị niệm xấu chi phối, vượt qua sanh tử, làm an ổn nơi khổ họa, do đó thường thành tựu trên con đường tu tập Đại thừa. Tâm, tuệ Bồ tát cũng không thể thấy được, với sanh tử luân hồi cũng không sở hữu, dùng quyền phương tiện giảng dạy rõ ràng sáng tỏ, lúc nào cũng tùy thời giáo hóa đoạn trừ phiền não, thỉ chung không đến cũng không đi, thông tỏ hoàn toàn pháp Không nên không trụ nơi nào. Bồ tát nếu suy niệm về hữu thì bị chấp trước về hữu; trong khi bố thí cũng suy niệm về vô hữu, cũng suy niệm về vô sở hữu là không thể thấy được. Vì sao như vậy? Sáu độ vô cực (Ba la mật) là không thể thấy, là không sở hữu.
Như vậy, này Tối Thắng, bố thí của Bồ tát không có suy lường, tính toán. Có suy lường, tính toán thì chẳng phải là chơn bố thí. Nếu đang bố thí mà có tâm so sánh chọn lựa thì không nên bố thí. Có ý phân biệt cao thấp thì sanh ra thị phi, bố thí mà không bình đẳng mọi loài thì không nên bố thí. Nếu có thể với tuệ bố thí không sanh tâm chấp nhiễm, không có các loại niệm thì mới được gọi là bố thí. Người nhận bố thí được toàn thân mạng thì mới có thể ngồi an ổn để tụng kinh tu tập, thân thể an định, khí lực mạnh mẽ. Bồ tát dạo trong sanh tử thường không khát ái, ngay tại chỗ xuất sanh dùng thần túc bay đi. Ở nơi đến được mọi người tôn kính, được mắt thần thông thấy mười phương, tai nghe xa và nghe được vô số âm thanh. Cho đến các loại hương vi diệu: giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương, Bồ tát được các loại hương đó xông ướp nên mùi hương trên thân luôn tinh khiết, không ai là không vui thích. Bồ tát luôn được thưởng thức các vị ngon ngọt. Do phước đức thuở xưa đã tạo nên Bồ tát mới được các tướng đặc thù, thanh tịnh vô cấu, được mọi người ủng hộ, tùy theo chỗ thiếu thốn mà được cúng dường chu cấp. Thân Bồ tát thường không bệnh, không sanh, không già, không có các tai họa, luôn được an ổn đầy đủ tất cả, chắc chắn sẽ thành tựu ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, được tám mươi vẻ đẹp trên thân. Bồ tát khai giảng pháp tạng không sanh tham dục, truyền bá đạo tuệ không thiếu sót. Có người đến cầu học thì không sẻn pháp, hết lòng giảng dạy để họ đạt được Nhất thiết trí. Bồ tát có các thánh trí quảng bác vô tận, hiểu kinh điển một cách sâu sắc, hưởng được niềm vui của pháp lạc. Bồ tát ngồi dưới cội bồ đề hàng phục quân ma và quyến thuộc của chúng. Bồ tát vì không vướng sắc nên nếu có gặp sắc thì biết sắc là Không, bản chất của sắc tự thể là Không, sắc không thể tự biết (sắc) cho nên mới biết sắc chính là Không.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát ngộ được tánh của sắc là Không; là pháp đứng dầu trong tất cả pháp nên thành tựu pháp nhãn, là bậc Nhất thiết đạo ba đời tôn kính, là bậc độc hành không bạn lữ vì Bồ tát đã có đầy đủ các loại thông tuệ.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Sanh quý Bồ tát không tin vào tà pháp điên đảo. Nếu được chúng sanh, mỗi người đều phụng thờ cúng bái để cầu phước, tâm Bồ tát vẫn không lay động. Thấy có loại người hướng khẩu thực, Bồ tát vẫn kiên định tu tập theo pháp vô thượng tối tôn, trọn không lay động bỏ đạo vô thượng theo tiểu đạo, biết rõ pháp của Phật sâu xa không có pháp nào sánh bằng, tâm ý tinh cần cũng không khởi ý tưởng khác. Tuy Bồ tát lưu tâm tìm hiểu nhưng trọn không chuyển theo đạo khác. Gặp lúc có Phật xuất thế và bát Niết bàn, giáo pháp để lại cũng không còn, thánh chúng du hóa lại điên đảo tản mác, dù không có Tam bảo nhưng tâm Bồ tát không theo tà niệm, luôn tụng đọc, tu tập thuần thục vô lượng kinh văn, dùng mười hai bộ kinh mà thông suốt tất cả, khéo dùng phương tiện quyền xảo, không pháp nào là không thể xâm nhập. Bồ tát không tham danh lợi, hiện thân biến hóa nhưng không tự xưng danh. Như thế, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát tuân theo chánh kiến, biết Không chẳng phải là chơn thật, không có gì gọi là chánh hay không chánh mới chính thật là vô sở hữu. Hiểu rõ điều đó thì gọi là chánh đạo.
Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ tu tập trí tuệ, phân biệt hữu vô, ngộ lý chơn không cũng không chấp trước vào đó. Bồ tát lại phải tu hành các tuệ cú nghĩa nhưng không chấp trước vào chúng. Bồ tát thực chứng Khổ đế, đã đoạn trừ diệt tận các nguyên nhân tích tập khổ, đã tu tập đạo đoạn tận ái, dùng Đẳng trí quán chiếu làm an tịnh dâm, nộ, si; dùng Pháp trí trừ cấu ở tận ba cõi thượng, trung, hạ phẩm; dùng Nhẫn trí (Viễn tư trí) quán hai cõi trên, dùng Tha tâm trí thấy khắp chúng sanh trong tâm họ suy nghĩ gì. Bậc Vô sanh trí không chịu sự ô uế của bào thai khi sanh tử. Bồ tát tu tập Diệt tận trí nên quán đoạn năm ấm và sự phong tỏa của sanh diệt, tư duy về những pháp căn bổn phải tu tập của tam căn, từ Vị tri căn, Dĩ tri căn, Vô tri căn cho đến cuối cùng thành đạo. Bồ tát phải học pháp căn bổn đó. Từ tam bạch y đến Tu đà hoàn thì phải tu Vị tri căn. Từ Tư đà hàm đến A na hàm học về Dĩ tri căn. Từ A la hán đến khi thành Phật phải học Vô tri căn. Lại phải tu tập thiền định, dùng trí quán sát biết ở sơ thiền thu nhiếp tâm có giác, có quán. Ở cấp thiền tiếp theo, nội tâm không có giác, chỉ có quán. Từ nhị thiền cho đến Vô tưởng định thì không giác, không quán, nội tâm tịch tĩnh không dao động, luôn trọn đức tin thể nhập chánh định.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát ngày đêm không khi nào khởi niệm: “Ta biết bậc Chơn nhân vâng giữ giới, cũng biết người ác không có giới hạnh”. Bồ tát không có dị tâm phân biệt, đều biết cả hai đều là hư ảo vắng lặng, không có tâm niệm loạn động phân biệt là đồng nhất hay là hai, trước hay sau hoặc ở giữa. Bồ tát tinh tấn niệm niệm không xa rời Phật pháp và Thánh chúng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm An bang, niệm thân, niệm khổ, niệm tử và biết thân này vốn không chỗ trụ, suy tư trừ năm kiết và cung kính sáu trọng pháp, thực hành bốn thần túc giáo dưỡng đại chúng, giữ tâm chánh niệm, nhiệt tâm, không có tâm sợ hãi. Nếu có Sa môn ngoại đạo hoặc trời Phạm Ma và các chúng khác đi đến, tất cả đều không thể nạn vấn Bồ tát được. Bồ tát cũng không khởi ngã tưởng. Bồ tát do tu tập được như thế nên luôn an ổn cũng không hề bị khiếp sợ, đạt được địa vị bậc nhất về sức tinh tấn. Bồ tát ở trong đại chúng cất tiếng sư tử rống chuyển Pháp luân lớn mà tất cả Sa môn ngoại đạo, Phạm chí, Phạm Vương Đế Thích, chúng ma đều không thể nào chuyển được, chỉ có Phật mới có thể chuyển được. Thân của Như Lai là thân do kim cang tạo thành, đã tận diệt các lậu, không còn bụi trần. Giả sử hằng sa ức chúng sanh không dám tin và cho rằng các lậu hoặc của Đức Phật chưa tận, (thì nên biết) lời của Như Lai đã nói là chơn thật không khác, báo ứng thiện và ác không sai với bổn nguyện. Tất cả chúng còn lại, những người rời xa nội pháp, không dám trái lời Phật dạy. Tóm yếu những lời dạy của chư Hiền Thánh, ai thực hành thì đạt dạo, ai phạm ác thì phải chịu tội. Không ai có thể trái nghịch lời dạy của Như Lai. Bồ tát cũng không thấy có ai để dạy. Không dạy, chẳng dạy là dạy về vô sở hữu, biết rõ sâu sắc điều đó thì chính là chơn đạo.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát cầu thành Phật đạo nên tu tập không thiếu sót. Có người muốn nghe pháp, Bồ tát bỏ những pháp không quan trọng mà chỉ nói những pháp vi diệu khiến mỗi người đều khởi lên đầy đủ chí nguyện. Khi giảng nói về bố thí thì không e dè sợ sệt, tâm chưa từng loạn động, không có ai nghe pháp sanh tâm nghi ngờ. Bồ tát không khởi tâm nhị kiến phân biệt đẹp xấu, không tư duy về sự sai biệt của thiện ác, cũng không mong cầu pháp tánh trong khi tu tập. Bồ tát không nghĩ mình sẽ nhận lãnh công đức mà rộng vì tất cả loài hữ tình. Bồ tát không tu tập tâm Thanh văn, Duyên giác, cũng không khởi ý nghĩ cho rằng có sự thành tựu khiến tất cả họ không rời xa Phật pháp. Bồ tát biết tất cả là Không nên Phật pháp cũng không. Do quán nhân duyên nên có khởi phát. Do quán sát như thế nên không thể thấy, cũng không có hình thể; nói hữu hình tức là hủy phá pháp tướng. Tướng cũng vô tướng, tướng không tự sanh. Sanh đã không có căn mầm thì do đâu mà có tướng. Tướng đều không có hình nên không thể thấy. Đó gọi là đạo chánh chơn vô thượng.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát trụ ở tứ địa tịnh tu hạnh của mình không lìa trí tuệ thần thông của chư Phật, có bố thí thì cũng hợp theo tiền nhân, có nói điều gì thì liền thành tựu, không có gì là không thích ứng. Bồ tát từ pháp Phật giáo hóa không bỏ nguyện xưa, nội tâm kiên cường, an định tuyệt đối. Những gì đã bố thí đều đạt đến tâm vô nguyện, vì các nguyện mà làm các nhân duyên lành. Bồ tát ở trong ba cõi không ai có thể sánh bằng. Bồ tát mong muốn đức ấy trải khắp việc làm của tất cả Bồ tát, khiến tâm chí các vị ấy thường ở trong định, không có gì có thể khiến cho không thể thể nhập tâm Nhất thiết trí. Do đó mà gọi là không tịch. Bồ tát chưa từng khởi các niệm tưởng chấp trước với các công hạnh thí đã làm, hàng phục chúng ma khiến chúng không được tự tại.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát thường niệm tu tập bốn pháp trí tuệ không chướng ngại. Đó là với pháp chơn đế không bị chướng ngại, với yếu nghĩa của Chánh pháp trí tuệ không bị chướng ngại, có trí tuệ biện tài không bị chướng ngại, có trí tuệ diễn đạt mọi lời nói đều rõ ràng đạt lý không bị chướng ngại. Đó gọi là Bồ tát tu tập trí vô ngại độ cho chúng sanh, quyết đoạn trừ tâm si đạt đến vô vi. Đối với vô ương số không thể tính kể các loại chúng sanh, Bồ tát đều độ cho đạt đến nơi mãi mãi an ổn, trừ bỏ niệm chấp thường, tư duy về vô thường liền đoạn trừ dục ái, sắc ái và vô sắc ái; vô minh, kiêu mạn tiêu trừ không còn phát sanh. Trước trừ tham ái về thân không để khởi sanh niệm tưởng tham ái. Thân năm ấm này tụ họp các điều bất tịnh, phiền não. Mắt như bọt nước không kiên cố, hư ảo không thật thế mà người đời ngu si mê đắm không nhàm chán. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, chúng cũng đều là vô thường vậy mà người đời không thể thấy. Chúng vô hình, vô chủ, mãi mãi không có danh hiệu. Phải chuyên chú quán sắc, thấy sắc chẳng có ngã cũng chẳng phải là do ngã tạo ra, chính từ vô hữu mà sanh ra hiện hữu. Do có hình sắc nên có thần thức, do có thần thức mà sanh ra năm ấm, do phát sanh năm ấm nên nhiễm sáu tình, do nhiễm sáu tình nên mới có si khởi phát,… cho đến có vạn mối khổ già, bệnh, chết, sầu muộn, xoay vần qua lại trong ba cõi, trôi lăn trong năm đường không khi nào dừng nghỉ. Các pháp trên đều do nhân duyên hội họp mà thành; do thấy có nên gọi là có, thấy không có nên gọi là không; thấy chúng khởi lên thì gọi là sanh, thấy chúng mất đi thì gọi là diệt. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế, đều là giả dối không có hình chất. Bậc trí thấu tỏ cội gốc ngọn ngành của chúng đều là Không thì cớ sao lại phải dụng tâm nhớ nghĩ đến cho lao khổ cực nhọc.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Sanh quý Bồ tát ly niệm tưởng sắc, tâm không nhiễm ô, ngộ rõ bản thể của sắc nên không sổ hữu sắc, cũng không thấy có thành, không thấy có bại, thể của các pháp tịch tĩnh Không vô, không gì có thể làm lay động, vượt lên trên nữa, không thể có gì vượt hơn được nữa. Bồ tát học Nhất thiết trí độ hiểu tường tận sâu rộng nghĩa lý của nó, đều liễu ngộ các pháp vốn Không, không chơn thật. Do đó, này Tối Thắng, cần phải tinh cần học tập, học những gì chưa học; cần phải thực hành, thực hành những gì chưa thực hành. Đó gọi là bậc Sanh quý Bồ tát trụ trong tứ địa thanh tịnh địa của mình.
***
Phẩm 5: LIỄU KHÔNG
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Bậc Tu thành Bồ tát ở ngũ địa phải như thế nào để thanh tịnh địa của mình?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Tu thành Bồ tát thường phải lìa xa nhà cửa, sản nghiệp, cũng chẳng gần gũi ngõ ngang đường tắt của dâm thôn, tu công đức lành, trừ bỏ niệm oán ghét, rời xa nhân duyên lễ hội ở thế gian, phải nghĩ nhớ hòa hợp, rời xa sự luận tranh phân biệt, phải giữ gìn lời nói của miệng, không nói lời chẳng chơn thật, luôn phải tự hạ mình, không có tâm cống cao. Bồ tát tuy có nhiều nghề khéo léo nhưng không khinh miệt người khác, đoạn trừ vô minh, tiêu diệt năm ấm, dừng hẳn các nghiệp tạo nên già, bệnh, chết; không khởi trần lao cũng chẳng tán đồng với sáu mươi hai kiến, không tự cao cũng không tự ti, vượt qua tám việc thế gian không có tâm phân biệt cao thấp, luôn biết cung kính thuận hòa, rời xa các khổ não, không khởi niệm vô minh, luôn tỉnh thức, vượt thoát các nỗi sợ hãi, không tạo tội lỗi và các tâm cấu nhiễm. Bồ tát ở trong thân năm ấm cho đến ở thân sanh tử quỷ, tội quỷ, tử quỷ, thiên quỷ đều suy tư đoạn dứt, không tạo duyên đó. Nếu nghe điều gì đều có thể phát sanh trí tuệ. Cần phải tu tập điều đó nhưng không sở hữu, học hỏi thâm nhập vào trí tuệ, thấu tỏ chơn lý một cách không mệt mỏi. Không ưa bạo động cũng không thích tịch mặc, hoan hỷ tiếp nhận tâm luôn vui mừng, thân khinh an chí định tĩnh, tâm ý hòa nhã mà không phiền muộn, dùng các pháp đã học nói pháp vô tận, tâm luôn hướng về đạo, tự giữ cấm pháp, thích theo chơn chánh không theo bọn tà, chỉ thích diệu tuệ phân biệt các loại Ba la mật, thông đạt kinh điển của pháp Bồ tát Đại thừa, khéo dùng quyền phương tiện khế hợp với đạo, tâm quán niệm thông tỏ các pháp thần thông, luôn muốn nghe pháp không sanh diệt, liễu giải pháp mười hai nhân duyên, thấu tỏ pháp vô thường, tuyên diễn chơn lý về khổ cũng giảng nói pháp vô ngã, thông đạt pháp Không định, phân biệt pháp vô tướng, thể đạt pháp vô nguyện; nhìn thấy nỗi khổ sanh tử, thành tựu công đức sở học thuần thục, tôn kính Tam bảo, thông pháp tục đế lẫn chơn đế, lấy tâm trung hiếu làm bạn thân cận, rộng thông các pháp mong trừ dẹp các điều ác, kham nhẫn dùng chánh đạo hóa độ kẻ vô trí khiến họ đồng thành tựu công đức. Bồ tát có trí phân biệt rõ ràng nguồn gốc của chúng, suy niệm tránh xa các điều ác, kiểm thúc thân tâm, làm lợi ích chúng sanh, an ổn tu tập cũng không có tâm hối hận, mong cầu thực hành hạnh cực diệu.
Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát suy niệm các pháp Phật như thế nào để thành tựu yếu nghĩa vô thượng đạo? Bồ tát với điều được nghe, trí tuệ liền có thể biện biệt, tùy thời thích hợp có thể ứng dụng các pháp được nghe ở bất cứ đoạn nào mà không sai thứ lớp. Nghe pháp âm kia liền sau đó điều tiết thân tâm, nội quán biết rõ tường tận sự vận hành của tâm, tự thân cứu độ chúng sanh nhưng không chấp trước vô thường, quán sát nhân duyên và biết rõ: “Ta ở quá khứ, hiện tại, vị lai thọ mạng như thế này, thành tựu công đức nghiệp, phân biệt rõ ràng các cấp thiền định, tự thân thể đạt Không, vô tướng, vô nguyện; không dong ruổi theo tham dục, trú trong tam muội tu chánh định”. Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát quán nhập tám trăm ngàn loại định nhưng không cho là khó. Không có cảnh giới nào là Bồ tát không thể quán nhập, chỉ có Vô Sắc thiên và Quang Âm thiên là Bồ tát không muốn quán sanh. Bồ tát cũng không muốn trú mãi trong Diệt tận định. Với pháp Bổn tế, Bồ tát đều biết rõ, suy niệm, chấp trì. Bồ tát cũng liễu tri Bổn vô nhưng không thủ chứng Bổn vô. Vì sao như thế? Bởi cấu trược của chúng sanh chưa dứt trừ. Bồ tát biết các chúng sanh đó, giúp họ hiểu lý vô ngã, thực hành đại bi, không xa rời tâm từ bi, đi vào tất cả nạn trong chốn sanh tử, xa lìa tâm tham chấp vào tất cả nạn trong chốn sanh tử, xa lìa tâm tham chấp vào giàu sang vinh hiển, dạy các kẻ phạm pháp khiến họ không còn trái phạm, dùng quyền phương tiện giáo hóa mọi cách tùy thuận chúng sanh, tâm hiện ái dục, quán pháp ác tu hạnh bất tịnh, sau đó Bồ tát mới thủ tận chứng (Niết bàn). Tuy hiện diệt độ nhưng chẳng phải diệt tận. Số chúng sanh được bậc Tu thành Bồ tát hóa độ là vô cùng cũng không thể tận. Tất cả đều được Bồ tát hóa độ khiến tâm không còn oán hận, không mất oai nghi và những điều ngăn cấm thuộc lễ tiết, đi đứng trang nghiêm không phóng túng, thường giữ tâm vô tranh, luôn tự hộ trì. Bậc Hiền Thánh tịch mặc luôn vắng lặng, không nói năng biện giải. Vô ngôn như thế chính là thanh tịnh hư vô đạm nhiên, vốn không vuông tròn, khác hẳn với pháp hạn lượng. Bậc Hiền Thánh tịch mặc tự quán niệm hộ trì thân, miệng, ý; khi nói chớ cùng người đồng xứ, ái dục của thân bất động, tâm không luyến mọ cảnh dục cũng không mong cầu, không khởi tưởng. Đó gọi là hạnh của bậc Tu thành Bồ tát. Muốn không nhiễm ái sắc thì phải giữ tâm ngay thẳng. Do tâm chân chánh nên liền đạt đến cứu cánh giải thoát. Người không tịch tĩnh lại luôn bảo thủ tự thân không được tự xưng (là tịch tĩnh) nhưng chẳng phải là kẻ bất nhân. Bậc không có tâm phân biệt ao thấp có thể nói là bậc thuận theo pháp, các hạnh đã làm không quên mất cũng không bị mất. Vị ấy liễu giải Bổn vô không nên không có được mất, quán ba đời bình đẳng không có sai biệt. Nhãn, sắc và thức không có pháp nào dừng nghỉ. Nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt thức, ý pháp thức đều không có chủ tể; chúng cũng có sở trụ, cũng là vô ngã. Bồ tát quán các pháp hành đều không có ngã sở. Do từ bổn tịnh biến dị nên có ngã, chánh quán như thế nên biết là không có ngô ngã. Quán thông không có ngô ngã gọi là tuệ, thông tỏ hoàn toàn sợ hữu giống như vô sở hữu, đều là không tịch bổn mạt thanh tịnh, tâm thường không xa lìa gốc của các pháp, tư duy tránh xa chín nơi chúng sanh cư ngụ. Vì sao như thế? Tất cả các nẻo luân hồi xoay vần chìm nổi không ngoài chín cảnh giới của các loài chúng sanh, lên đến chư Thiên Phi tưởng phi phi tưởng và cõi người.
Lại nữa, này Tối Thắng, thuở trước có chúng sanh thân chẳng thuần một loại nhưng thành tựu nhất tưởng được gọi là Phạm Thiên. Lần đầu tiên xuống thế gian, họ tham trước vị ngọt nên dần dần mất đi oai tướng chư Thiên. Lại có chúng sanh đồng một loại thân nhưng có vô số tưởng, tên là Quang Âm thiên, công đức, oai nghi, dung mạo thù thắng đặc biệt. Hoặc có chúng sanh nhất thân nhất tưởng, tên là Biến Tịnh thiên chuyên cần tu tập hạnh lành. Lại có chúng sanh ý khởi niệm hướng đến hư không vô lượng, tâm không chấp trước cũng không hướng đến diệt, tên gọi là Không Nhập thiên. Lại có chúng sanh tâm ý buộc ràng với niệm thức tưởng rời khỏi hình thể, không còn khởi lại tưởng mong cầu, tên gọi là Thức Nhập thiên. Lại có chúng sanh không có tham dục, trừ bỏ thị phi, nội tâm an tịnh đối với các vị không khởi tưởng, tên gọi là Bất Dụng Nhập thiên. Lại có chúng sanh phát thệ nguyện lớn cầu đạo vô vi, quán vô sắc giới không hình chất, tự nghĩ Niết bàn vô vi vô tác cũng bằng có người tạo, chí nguyện tinh chuyên mong được sanh đến chốn thọ mạng tám vạn bốn ngàn tuổi. Đến khi kiếp số thọ mạng dứt, thần thức trôi lăn xoay vần trong năm đường, ở trong chỗ sanh đến thức ấm qua lại, được quỷ thần tướng đón đưa đến nhập vào thai, sau đó mới biết chẳng phải là chơn diệt độ, si tâm hừng khởi liền nổi lên niệm sân hại, từ tâm niệm miệng nói các lời tội lỗi vô cùng, lời dạy trái chơn lý, từ ngữ hư vọng sai lầm, dối gạt người đời, lừa phỉnh nói lời không thật. “Ta từ xa xưa tu tập trải qua vô lượng hạnh khổ đạt đến Niết bàn đương nhiên không còn nghi ngờ. Ta nay vì sao trở lại sanh tử? Nay ta quả thật mới tin biết chẳng phải là Niết bàn, cũng chẳng phải là bậc đắc đạo thần thông”, họ suy niệm như vậy xong, khoảnh khắc sau thần thức đi vào đường ác. Đó đều là do phỉ báng Hiền Thánh.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát muốn thành tựu đạo Đẳng Chánh Giác vô thượng chánh chơn, tâm thường phải tư duy ghi nhớ lìa xa nơi chốn của chín loại chúng sanh. Với tất cả chúng sanh không khởi niệm tưởng ngã, nhân, thọ mạng. Với các nhân duyên tạo tác đều lánh xa, cũng chẳng tư duy nghĩ tưởng việc thế tục, diệt trừ tất cả các niệm tưởng đó. Bậc Tu thành Bồ tát với mười lăm tâm đặc thù hướng về pháp, theo thứ tự của pháp tinh tấn tu tập thành tựu đạo giải thoát. Từ pháp thứ nhất nhẫn nhục khổ hạnh nên tăng trưởng căn lành cùng với hạnh vô lậu. Từ ngũ trụ địa đến khi đạt giải thoát đều đầy đủ căn lành, tư duy dục ái. Bậc ngũ trụ địa Bồ tát đoạn trừ ái dục, diệt tận bất thiện căn trụ ở Dục giới, chấp vào nhẫn khổ tuệ, tư duy gốc khổ, thân vô sắc trụ trong cảnh giới vô hình, không suy niệm được cội gốc của khổ. Cho nên Bồ tát không trụ trong pháp vô hình trừ Dục giới sẽ làm tăng trưởng chín mươi tám căn bất thiện, cũng khởi sanh chín mươi tám vô lậu tuệ dược. Bồ tát dùng mười pháp căn bản đối lại căn bất thiện và tội cấu dâm vi tế. Tám mươi pháp còn lại đoạn trừ tám mươi pháp bất thiện căn bổn. Tuy chẳng phải do vậy mà làm thay đổi toàn bộ pháp bất thiện nhưng có thể cải đổi chúng thành nhỏ nhiệm. Tận – Đạo thánh đế có vô lậu hiệp pháp, không đoạn trừ vô lậu hiệp pháp, với tánh hữu vi cũng có hiệp pháp, với tánh vô vi cũng có hiệp pháp. Lúc đó Bồ tát chỉ đoạn trừ hữu vi, chưa đoạn trừ hiệp pháp vô vi tương ứng.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát cần phải tu ập năm phần pháp tánh, tư duy phân biệt liễu tri pháp vô nhị, giới thân hộ mạng thanh tịnh vô tham, đã trừ cấu uế, tâm đã an định. Này Tối Thắng, đó gọi là định thân, phân biệt quán sát vô số tưởng cũng không khởi tưởng chấp trước, thông tỏ hoàn toàn nên gọi là Tuệ thân, giải thoát ba đời không bị ô nhiễm, cũng không sợ hãi e ngại thoái chuyển tâm. Đó gọi là giải thoát thân. Đã tu tập đến bậc giải thoát thứ chín nên gọi là giải thoát tri kiến thân. Duyên với hữu vi là giải thoát thân, duyên với vô vi là giải thoát kiến tuệ thân. Hữu lậu vô lậu cũng như thế. Này Tối Thắng, như thế gọi là bậc Tu thành Bồ tát có thể tu học sắc duyên tận pháp, chưa thể đoạn trừ phi sắc duyên tận. Thế nào là sắc duyên tận pháp và phi sắc duyên tận pháp của Bồ tát? Sắc duyên tận nghĩa là nếu mắt thấy sắc liền sanh nhãn thức phân biệt pháp phải trái, thiện ác, khởi ý nhiễm trước trọn chẳng xa lìa. Bậc Tu thành Bồ tát phải dùng trí tuệ điều phục khiến nó không sanh, trừ khử các hành cấu uế, ô trược bất tịnh. Phi sắc duyên tận chẳng phải đối tượng của trí quán sát không sanh sự hoạt động của nhãn thức phân biệt thị phi, thiện ác nên gọi là Phi sắc duyên tận; chẳng bị cảnh giới nhiếp trì. Nay Ta sẽ dùng ví dụ, ông nghe đó sẽ tự lĩnh hội, bậc đại trí do dụ mà có thể thông tỏ. Ví như có người vô cùng mệt mỏi ngủ say, thần thức an tĩnh, thân không dao động, không có ai xúc chạm. Người ấy mắt không thấy sắc, thức chẳng dong ruổi, không khởi niệm tưởng. Mắt thì nằm bên trong, sắc phóng dật thì ở bên ngoài. Lúc đó mắt điềm nhiên chẳng gia công nhưng thức không tán loạn. Sắc hiện tại khi đó đột nhiên biến mất, cũng không dừng nghỉ hay trụ lại. Vì sao như vậy? Là do dụng tự không của vô sở hữu tánh.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát luôn phải quán niệm sâu sắc, tư duy phân biệt, đoạn trừ các pháp thuộc Phi sắc duyên tận cũng không cùng chúng khởi, không cùng chúng thi thiết, phải học để thấu tỏ Phi sắc duyên tận, chẳng phải có, chẳng phải không cũng không có thành bại. Bồ tát lại phải tu tập pháp bất chánh trừ diệt bát tà, thành tựu chánh định Bách thiên định ý, thấy rõ năm pháp tà thuộc tâm và pháp tà thuộc phi tâm, nghĩ nhớ phương tiện định và các địa: từ sơ thiền trở vô trước tâm vẫn còn tà chí. Không chỉ tà kiến điên đảo từ sáu thức phát sinh mà ngay cả tứ tà cũng ở trong thân sáu thức cùng liên kết, không hề rời nhau. Nhưng tà kiến không thông với thức bởi vì năm thức tuy thế vẫn không có phương tiện lực, chỉ trí tuệ ý thức mới có phương tiện lực. Từ trung thiền trở lên cũng không có tà chí, nhưng có tà kiến cùng ba mươi sáu pháp hỗ tương. Nhập sơ thiền trở lại chỉ có tà chí cùng mười tám pháp cùng hỗ trợ liên kết với nhau. Nhập năm thức ấm trung tuy có tà chí nhưng tự mình không hay biết. Trong lúc nhập thiền nội quán chỉ có tà kiến nhưng tự mình không tương ứng với tà kiến. Bậc Bồ tát phát tâm đến bậc tứ trụ, tu tập khổ trí, trí tuệ nhẫn nhục, tiêu diệt tà kiến, xa lìa tà chí. Bậc Tu thành Bồ tát hướng đến lục trụ thực hành huyền thông trí, đoạn trừ duyên tam giới hợp với chơn tế, trước phải tinh cần đoạn trừ bệnh họa hoạn phóng dật, bệnh ngu si do dự làm khởi lên năm tà, trải khắp tam giới không có chỗ nào thiếu sót. Mười tám kết vốn sanh ra tám trăm pháp, có Khổ, không có Tập vẫn cùng chúng tương ưng. Có Tập môn thì trừ vô minh kết, biết rõ Tập đế, vô minh mà không trừ tận gốc, sanh tâm ái khổ nhưng vẫn không trừ, ngồi dưới cội Phật thọ quyết tìm các niệm si khởi lên trong tâm, chánh trụ Phật đạo mà không làm tổn hại dị tưởng. Khi thành tựu Chánh giác Vô thượng đạo tế độ cho vô ương số không thể tính kể loài chúng sanh, giải tri các duyên ràng buộc các pháp sanh diệt; chúng cũng là không tịch nên không thể thấy. Khi bậc ngũ trụ Bồ tát đảo pháp tánh Không của Phi sắc duyên tận, các bệnh trần cấu cũng đều tiêu diệt, luôn dùng năm pháp điều phục chế ngự ái chấp, thông tỏ bệnh của sáu thức đều trải khắp ba cõi, nhổ tận gốc kiết sử để chúng không tăng trưởng. Sân khuể, ngũ dược có đủ trong thân sáu thức, không vượt ra ngoài mà chỉ ở trong phạm vi đó. Mạn có năm pháp. Ý thức thân ở sâu trong tam xứ căn khó dời đổi. Ý thức thân của bốn loại tà kiến cũng ở trong tam xứ qua lại không dứt. Nguyện si, tứ hành và ý thức thân cũng ở trong tam xứ tư duy tật đố, không phải ở trong tam xứ ngủ nghỉ mới dậy. Bồ tát phải nhớ nghĩ viễn ly, không khởi tạp tưởng, trừ bỏ các phiền não, không bị si mê, mong thoát khỏi tâm lo âu không cùng chúng đồng xứ, luôn nhớ nghĩ tu tập thành tựu tâm Nhất thiết trí, có trí tuệ thuận theo chơn lý như hư không vô ngại: “Nếu không có tài sản của ta thì không có ta”. Do trừ bỏ ngã kiến nên gọi là Khổ tuệ. Các sở hữu của Tập đều không sở hữu, đều không có bổn mạt cũng không trụ xứ. Do không nhiễm ái trước nên gọi là Tập tuệ. Giải tri Tập là pháp phải diệt trừ, học tập pháp chánh chơn phải biết là vô bổn tế. Do đều bị diệt nên gọi là Tập, tuệ chiếu đạt các tâm lãng đãng như mây tan, sáng tỏ rõ ràng không gợn trần cấu.
Này Tối Thắng, đó gọi là đạo tuệ của Bồ tát có thể quán sát, thông suốt năm ấm, biết gốc tứ đại, rõ bệnh sáu suy, phân biệt bốn đế, tỏ mười hai duyên, quảng diễn ba đời phân biệt tất cả các sử đã khởi, thông suốt năm ấm các pháp sanh diệt, không thấy các pháp có qua lại, có trần cấu, cũng không thấy có sanh, già, chết. Vì sao? Do bổn tánh nên bất khả đắc. Nhân duyên đã diệt, xa lìa các chấp đoạn, các pháp cấu nhiễm đã tận không có gì làm chướng ngại, ngôn giáo đã định cũng không dao động, ảo hóa giống như những gì thấy trong mộng, như đọt chuối ba tiêu, như tiếng hí vang của ngựa hoang, như ảnh trong gương, như bọt nước nổi, quán sắc tướng ngã, nhân, thọ mạng, biết sắc là chơn lý như thật vốn không có chỗ sanh, quán thông các pháp đó nên tất cả đều thanh tịnh, quán biết rõ năm ấm kia là Không, là không sở hữu; ngã, nhân, thọ mạng thật như tuồng ảo hóa, thức cũng vô hình nên không thể thấy, không thấy động chuyển có xứ sở kia. Lại phải liễu tri nghiệp của thân là vô thường, khổ, không. Biết được như thế chính là thông đạt năm nghĩa của các pháp cũng không giới hạn sanh diệt. Các pháp sở sanh, đất, nước, gió, lửa không thấy tăng giảm. Quán khắp pháp giới cũng không cương nhu, quán chiếu tánh của nước thì không có tính ẩm ướt của nước. Tư duy về hỏa giới cũng không thấy nóng. Liễu giải cảnh giới của gió không thấy phồng căng do có sự dao động. Phân biệt bốn đại không thấy có sự sanh diệt, tăng giảm thì có thể quán chiếu biết được các loại trí tuệ như quảng tuệ, thâm tuệ, vô tỉ tuệ. Đó gọi là mắt thấy sắc liền sanh thức tưởng, dùng pháp giới quán không có cái thấy của mắt, đều biết là không tịch. Bồ tát lại ở pháp giới quán âm thanh mà tai nghe cũng không thấy âm thanh từ nơi nào đến, chỗ thấy không được đích xác tự sanh rồi lại tự diệt. Mũi và hương, lưỡi và vị, thân và cảm giác mềm mại, trơn láng khi tiếp xúc ý và pháp, không chấp, không đoạn, không có hưng suy, đều quán tánh hạnh của chúng sanh một cách đầy đủ. Chí ý không khởi đều là bình đẳng, không thể xa rời vô số tưởng. Không chẳng có, chẳng khác cũng không thể lượng. Niết bàn, Pháp thân bình đẳng như hư không. Tính chơn tế của pháp giới đồng như hư không.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Tu thành Đại sĩ lại phải quán nhãn là Không mà không có ngô ngã, chẳng phải không có ngã. Ngã và vô ngã cũng đều là Không. Bậc quán biết ngã Không thì đi vào chỗ suy hao không thấy đầu mối, theo lý quán chiếu sáu suy mà không khởi diệt. Nhãn sắc là đứng đầu làm loạn trong các suy, giả định có thể thấy mà không chuyển dời, chính đó là sự thanh tịnh của sáu suy mà không nhơ uế, thành tựu quả chứng lớn không còn lo âu sợ hãi. Ở nơi suy, không tịnh thì tổn hại tánh đạo, Bồ tát phát thệ nguyện lớn hành đại từ bi biến khắp tất cả. Thọ khổ như thế nhưng không cho là đau khổ, không có nạn núi non sợ hãi xa gần, muốn độ chúng sanh mà không vui đạo, khuyên thực hành bố thí tu thiện tạo công đức. Đó gọi là bậc Tu thành Bồ tát tư duy quán pháp năm ấm, sáu suy đều không xứ sở, cũng không hình tướng tới lui, đi đứng… Bồ tát lại dùng Khổ, Tập, Tận, Đạo phân biệt năm ấm. Pháp sanh, pháp diệt có tăng, có giảm nhưng đều không có hình tướng. Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, sầu lụy buồn thương khổ, khổ vì luôn gặp kẻ oán ghét, khổ vì thương yêu mà phải xa lìa, cầu muốn không được cũng là khổ. Nói tóm lại, năm ấy hẩy hừng là khổ. Cho nên, này Tối Thắng, đó gọi là biết khổ. Quán chiếu nguồn cội ngọn ngành sanh ra khổ là Tập, chính là tham trước ái dục, vui sướng vì vật báu mà không biết là ảo hóa. Biết như vậy mà viễn ly, do đó gọi là biết Tập. Các cấu nhiễm đoạn trừ thì không tạo ra cấu nhiễm mới. Do dục mong cầu đã hết nên khiến nó không còn sanh khởi, truy tìm sắc hiện tiền đã diệt khiến nó không đình trệ. Liễu tri Tập thường vắng lặng chính là biết Tận. Ngộ rõ Bát chánh đạo cũng không thể tánh, thân sơ, xa gần, nơi chốn dừng trụ; biến hóa vô cùng mà không có chỗ kết thúc, dẹp trừ trần uế soi sáng ngu mê, không hình tướng, không âm thanh, thể của tồn vong là đứng đầu của mê hoặc dẫn đường. Do đi vào pháp đạo vô vi nên gọi là biết đạo. Bồ tát phân biệt Bốn chơn lý cũng không thủ chứng, muốn hộ trì tất cả loài đang ở trong sanh tử. Tướng, vô tướng, vô hình của chơn lý thì không thể thấy. Quán chiếu biết rõ như trên thì ứng hợp pháp tánh. Ngôn giáo thé tục giả đặt nên có danh hiệu. Thật ra thể của chữ không sanh, không diệt, không bị ô nhiễm chấp trước thì đạt thánh đế tâm, không niệm hữu vô, quán chiếu thông tỏ pháp bổn. Tất cả các sắc đều bình đẳng, cũng không cao thấp sanh vô số tâm thì gọi là phân biệt thánh đế. Bồ tát tuệ tri thánh đế kỳ thật chỉ có một chứ không có hai nên không chấp trước đạo chí chơn, không có niệm mong cầu cũng không khởi tưởng mong cầu sắc, không khởi tưởng cầu vô sắc. Với tưởng, vô tưởng bình đẳng không hai. Đó gọi là tướng của chơn đế, đã quán chiếu sâu xa chơn đế. Bậc quán tướng chơn đế như thật ấy có thể thông tỏ tướng của năm ấm, tướng của khổ độc do năm ấm sanh là tướng phiền não. Bồ tát lại phải tư duy diệt ở trong trăm nghìn nỗi khổ đều quy về Không, không có pháp diệt tận. Do không khởi niệm nên gọi là Khổ đế. Diễn nói nơi khởi sanh của năm ấm, trừ bỏ ái trước nên gọi là Tập đế. nếu tâm dong ruổi, có nhiều tưởng mong cầu thì phân biệt tâm đó cũng không tham luyến, không cùng ngu tâm ba đời đồng xứ, cũng không trụ trong đó mà có mong cầu, trừ bỏ tất cả trần lao, đó là Tận đế. Người muốn thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn thì phải liễu tri Khổ, Tập, Tận, Đạo; đoạn trừ tâm tà si.
Này Tối Thắng, bậc Tu thành Bồ tát trụ ở ngũ địa thanh tịnh hạnh của mình như vậy.
***
Phẩm 6: CĂN MÔN
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:
– Bậc Thượng vị Bồ tát ở lục trụ địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tu hành sáu độ vô cực, không tham luyến các quả vị đã thành tựu trước đó, phát thệ trừ bỏ tâm Thanh văn, muốn thanh tịnh quốc độ thì không nên có tâm Duyên giác. Cho nên nói rộng thì không phải là tâm nhỏ hẹp, hiện thân khất sĩ trước tự trừ tâm tham, theo gót tiền nhân khiến được no đủ. Có vật báu quý giá trước phải nhớ nghĩ cho người, không có tâm hối tiếc, xa rời ngô ngã, trừ bỏ tâm chấp thường. Trí đó vô lượng cũng không cùng tận, mong muốn nghe diệu pháp thậm thâm, thanh tịnh thân, miệng, ý; không phạm tất cả giới, luôn muốn ủng hộ những bậc trì giới. Tâm của bậc Thượng vị Bồ tát luôn nhân từ, không có tâm niệm làm tổn hại chúng sanh, tự thân không giết hại, không dạy người khác giết hại, thấy có người giết hại thì khuyên bảo khiến họ tu thiện. Không trộm cắp vật của người dầu nhỏ như sợi lông, mảnh tóc. Giả sử có người vi phạm thì dạy họ sám hối sửa đổi. Lại thường chuyên tâm không phạm dâm loạn. Nếu thấy người phạm thì khuyên khiến họ tu hạnh thanh tịnh. Luôn nói lời chí thành, không nói lời hai lưỡi làm chia rẽ người này, người kia. Có kẻ đấu tranh kiện tụng thì hòa giải khiến họ không còn đấu tranh kiện tụng, nói lời trung thực can gián, dụ dẫn khiến tất cả họ đều thực hành điều thiện. Suốt đời không mắng chửi làm cho người khác phẫn nộ. Thấy người sân hận thì nhớ nghĩ thực hành nhẫn nhục, không nói lời ác, có tâm tàm quý. Giữ gìn cẩn thận lời nói, không nói lời dối trá. Đối với mọi người tư duy bình đẳng, không khởi niệm tật đố, oán ghét; trừ bỏ tâm kiêu mạn, không khởi tưởng giận dữ hướng về chúng sanh. Tự thân mỗi khắc đều phát nguyện hướng thượng: “Nay không thực hành nhẫn nhục, sau này chắc chắn bị cảnh khổ nhơ xấu”. Luôn giữ tâm mình ngay thẳng, không khinh kẻ hậu học, với đạo pháp tâm luôn hoan hỷ. Tâm Bồ tát thanh tịnh không có trần lao, yêu thích pháp thâm diệu vô tỉ, dùng bốn pháp vô sở úy hàng phục ngoại học, khiến họ tu tịnh nghiệp tăng thượng. Bồ tát chí tâm với đạo, tôn phụng bậc nhân từ. Nếu thấy Sa môn, dị học Phạm chí thì nên hầu hạ xem như thầy khiến các vị được đầy đủ. Vì sao như thế? Do thành tựu Phật đạo thì thành tựu Nhất thiết trí, tâm luôn nhu hòa không làm việc cuồng bạo. Nếu thấy người khác không hộ trì mình thì khởi niệm sai quấy, lúc đầu tâm không phiền não nhưng có niệm phi pháp, cũng không có tâm Thanh văn, Duyên giác. Với các lỗi đã phạm không thấy có phạm, có chỗ phát sanh cũng không biết chỗ nào, mình ngu muội thì phải luôn tu tập tinh tấn không được giải đãi, không cùng bộ phái tà quấy giao tiếp. Nếu thấy kẻ tệ ác, phản phúc thì không cùng họ làm việc, nói chuyện thầm thì to nhỏ. Tôn thờ, giữ giới đầy đủ chưa từng thiếu sót, gần gũi bậc trí tuệ và bậc am tường diệu pháp. Không nghĩ tưởng xa xôi, có tâm nhàm chán, đặt trọn đức tin vào tịnh giới, pháp tu tập chơn chánh. Không bị các bộ phái tà quấy làm nhiễm ô, cẩn thận giữ gìn pháp của mình như pháp phải hành trì. Tất cả chúng sanh ca ngợi đức của Bồ tát giữ gìn pháp luật thanh tịnh vô nhiễm, sở hạnh kiên cố, thông tỏ tự tâm, không nói lời chẳng thật có tỳ vết. Vì sao như thế? Chính do chánh hạnh, không tổn hoại tà đạo. Giới của Bồ tát đầy đủ, không bị mê lầm. Những âm thanh Bồ tát diễn nói, không thanh âm nào không tuyên xướng diệu pháp, được chư Phật chánh giác hộ trì, không mong cầu diễn tấu âm nhạc để tự vui, luôn biết đủ, không tham luyến. Tâm Bồ tát thuần thục, đã trừ các điều ác, thân ý trong sạch không ham thích thú vui, luôn thích nhàn cư, không có tâm ưa gần gũi pháp thế gian. Bồ tát ở nơi nhiều loạn lạc có thể phân biệt thâu tóm đầy đủ đạo pháp, không theo lời xúc xiểm của ngoại đạo, giữ gìn oai nghi cẩn thận chưa từng thất lễ, không vận y phục the lụa thêu thùa, lập thệ như bổn nguyện, đức hạnh không ai sánh bằng, không vì vị ngon ngọt mà loạn tâm ý. Tự thân Bồ tát có đạo lực, điều phục giữ gìn đức nghiệp, tu tập đều thuận theo giới, không đùa giỡn hư dối. Trời người hộ vệ khiến thành tựu quả cứu cánh. Bồ tát thực hành tâm từ, nghĩ nhớ đến tất cả loài chúng sanh; lại tu tập tâm bi mẫn, nhẫn nại với các trần lao. Bồ tát tôn thờ thủ hộ không để tâm sanh lười nhác, thực hành tâm bình đẳng, thiện ác không hai, vì tất cả chúng sanh đảm nhận trách nhiệm nặng nề, luôn quán sát thấy rõ không làm tổn hại dù mảy lông của chúng sanh, không để tâm thức dong ruổi theo các tưởng, không nghĩ nhớ điều ác, không truyền dạy cho người làm điều tà quấy, hộ trì tâm ý trong mọi lúc, nhiếp tâm không để khởi niệm ác tà, tùy theo chỗ tư duy luôn nhớ nghĩ bố thí, giáo dưỡng tất cả loài chúng sanh khiến họ thực hành nhẫn nhục không khởi dị tâm, chí nguyện tinh tấn trọn không thoái chuyển, một mình thiền tư đạt đến định an ổn, phụng thờ trí tuệ quảng bác, thông tỏ các nghĩa lý. Pháp giảng dạy thông tỏ mà không cho là đủ, nỗ lực tu tập quảng văn; học giới; pháp yếu; theo bạn lành mong đạt các pháp, thường xa lìa thầy ác, bạn tà; thường thì bạn tà chẳng phải là bạn đạo chơn chánh. Không tô bồi cho thân tướng, ham muốn trang điểm trau chuốt, biết vạn vật đều trở về vô thường. Giới công đức của Bồ tát trong sạch như vàng tử kim, tâm bố thí thanh tịnh mà không hề sanh tâm hối hận. Tâm ý thanh tịnh trọn không hư khuyết. Sở học của Bồ tát vi diệu cũng không rối loạn. Tâm Bồ tát trong sạch, không dơ uế, bổn hạnh thanh tịnh, tâm không sân hận. Tuy ở chốn mê hoặc mà không theo đó dâm dục, ý không loạn tưởng, luôn ở trong định, giữ giới đầy đủ không khuyết phạm, không hề có lỗi, theo hạnh nguyện của mình không bao giờ thay đổi. Với pháp thiền định của chư Phật đều phân biệt rõ, dùng tâm bình đẳng độ các chúng sanh, từ Nhất thiết trí nhập giải thoát môn, trải nghiệm qua các tam muội đều rõ như hiện tiền, không tham tiếc thân mạng, không có tất cả niệm loạn tưởng; không chấp trước ngã, nhân, thọ mạng, cũng không tư duy về danh sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; không nương tựa vào thân, khẩu, bốn đại tạo sắc (thân); quán niệm chơn đế thông tỏ như thật, phân biệt sắc sở tạo, biết rõ chỉ là một không có hai. Bồ tát lại phải tư duy về nhãn và sắc, nhĩ và thanh, tỷ và hương, thiệt và vị, thân và các cảm thọ, tâm và pháp thảy đều thanh tịnh, là nhất tướng, vô tướng nên không mê loạn. Bồ tát như lý quán niệm các pháp, lấy quá khứ không hành, vô tướng, vô nguyện cũng không thấy có hình tượng, vượt qua ba cõi không nhiễm, không chấp trước; vô giải, bất giải cũng không hệ phược, lại không sanh niệm cũng không thấy sanh. Vì sao như thế? Vì tất cả pháp đều vô sở sanh. Bồ tát luôn phải từ mẫn, không nghĩ đến sát sanh trộm cắp, theo các dục để sinh sống, cũng không chiếm giữ sai quấy tài vật quý giá của người khác mà vui thích tuệ thí. Bồ tát không nghĩ đến việc tà dâm mà xa rời sắc, không nói lời hư dối, xúc xiểm người khác, lời nói ra với người khác đều thành thật, khéo luyện tâm không mê loạn, thấy các bậc cao niên luôn tôn kính, đi đến phương nào cũng đều dùng lòng nhân từ với mọi người khiến họ vừa ý, không để họ buồn lòng, mở rộng tấm lòng bao dung khai thị chánh giáo, luôn nhớ nghĩ bình đẳng hợp với luật pháp. Với tất cả loài, không có tâm cuồng sân, các hạnh đã làm không hề lui sụt, diễn thuyết pháp rốt ráo độ các chúng sanh, rộng vì tất cả chúng sanh phát nguyện trừ khử ấm cái che ngăn. Với bậc Thượng vị Bồ tát, pháp là đại chủ. Bồ tát giảng rộng pháp tam thừa, dạy pháp Ba la mật. Đức (của Bồ tát) vượt quá núi Tu Di, trí tuệ vượt quá sông biển, đạo vượt quá hư không mà không cho là thệ nguyện.
Tối Thắng nên biết, vì tất cả người ngu si, lười biếng, phóng túng, mê hoặc không thuận giáo pháp; họ còn phải ở lâu dài trong cảnh khổ sanh tử, thối thất mê loạn, hoảng sợ, bị triền cái lôi kéo nên không thoát khỏi ba đường nên Như Lai vô cùng thương xót. Bồ tát vì tôn thờ gốc của tất cả các pháp, vì tất cả pháp đoạn trừ các phiền não chấp trước, hai mươi hai gốc bệnh của xúc. Các pháp đó không phải là pháp cũng không phải là phi pháp. Tất cả ngôn giáo đều không thể nói. Vì sao như vậy? Pháp vô đó vốn không bị sanh cũng không bị diệt. Vì người nói pháp, không thấy pháp đã nói.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Thượng vị Bồ tát tư duy phân biệt chỗ khởi của lạc xúc, chỗ diệt của lạc xúc. Bồ tát quán như thế đối với xúc. Với sáu xúc làm căn bổn cũng phải biết như vậy. Không phải sáu pháp căn bổn cũng phải biết như vậy. Với bảy pháp xúc cùng thọ nhập cũng như thế.
Lại nữa, Bồ tát tư duy quán chiếu thấy rõ xúc do quảng ngữ cùng ba xúc mà không lấy làm căn bổn, bảy pháp xúc chi phần tuy ít nhưng cũng có phận sự. Lại nữa, này Tối Thắng, có khi Bồ tát phải tư duy phân biệt rõ xúc tự tương ưng, với bốn pháp xúc còn lại cũng thọ tưởng nhập. Bồ tát cũng phải tư duy, không khởi nhiễm trước. A Lại nữa, Bồ tát quán sát vô minh xúc cùng ba pháp xúc khi tự tương ưng, lại cùng mười một pháp xúc ít có phận sự cũng phải tư duy, không khởi nhiễm trước.
Lại nữa, này Tối Thắng, phi minh phi vô minh xúc khi tự tương ưng, mười một pháp xúc còn lại ít có phận sự. Lại nữa, Bồ tát với ái dục xúc khi tự tương ưng, mời một xúc ít có phận sự. Giả sử sân nộ xúc tự nhiếp trì lẫn nhau, mười một xúc ít có phận sự. Lại nữa, lạc thống (lạc thọ) xúc cùng với mười hai xúc ít có phận sự, khổ thống (thọ) xúc cùng với mười một xúc ít có phận sự; vô khổ vô lạc thọ xúc cũng cùng với mười ba xúc ít có phận sự. Lại nữa, có khi Bồ tát tự tương ưng nhãn thức xúc cùng với tám xúc ít có phận sự. Tai, mũi, lưỡi, thân cũng như nhãn xúc không khác. Sắc tướng xúc cùng năm xúc làm thể, xúc cùng bảy xúc khác cùng liên đới với nhau. Lại nữa, nếu thanh xúc cùng ba xúc khác làm thể thì khi đó xúc cùng mười một xúc cùng nhau liên đới. Nếu dùng hương xúc cùng hai xúc khác làm thể, khi đó xúc cùng chín xúc cùng nhau tương liên. Có khi xúc cùng bốn xúc khác làm thể, khi đó xúc cùng mười một xúc khác cùng liên đới với nhau. Nếu dùng tế hoạt xúc cùng ba xúc khác làm thể thì xúc cùng mười ba xúc khác cùng liên đới với nhau. Có khi pháp xúc cùng hai mươi xúc khác làm thể, khi đó tất cả các xúc cùng nhau liên đới. Bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tư duy chỗ hưng suy, sanh diệt của nó, mỗi mỗi đều phân biệt khiến chúng không tăng giảm thì có thể tiêu trừ các trần dục kết, dùng đó có thể diệt trừ các kết, tâm cũng không chấp trước tưởng thường hằng. Bồ tát lại cũng không thấy sự sanh diệt chấp đoạn của ngã, nhân, thọ mạng.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Lục trụ Bồ tát dùng chơn đế tâm, không niệm hữu vô, liễu giải không, với các xúc biết rõ là một. Bồ tát phải biết, có khi hữu đối xúc cùng một căn làm thể, khi đó xúc khác cùng tám căn liên đới với nhau. Bậc Thượng vị Bồ tát phải tư duy chuyên tâm như nhất, mỗi mỗi phân biệt không nhiễm trước. Bồ tát lại phải quán sát quảng ngữ xúc cùng năm căn làm thể, khi đó xúc khác cùng tám căn liên đới với nhau. Bồ tát cũng phải tư duy, ý không nhiễm trước. Bồ tát phải tư duy rằng minh xúc cùng ba xúc làm thể, khi đó xúc khác cùng chín căn liên đới với nhau. Lại nữa, khi vô minh xúc tự nó làm thể thì nó cũng cùng sáu căn tương liên. Khi phi minh phi vô minh xúc tự nó làm thể thì cùng với mười một căn liên đới nhau. Ái dục xúc cũng cùng bốn căn liên đới nhau, sân khuể xúc cũng cùng bốn căn liên đới, lạc thọ xúc cùng hai căn làm thể cũng cùng chín căn liên đới nhau. Khổ thống xúc cùng hai căn làm thể, lại cùng sáu căn liên đới nhau. Vô khổ vô lạc thống (thọ) xúc cùng một căn làm thể, khi đó nó cùng vô căn liên đới nhau.
Lại nữa, Bồ tát quán sát khi nhãn xúc tự nó làm thể thì cùng chín căn liên đới nhau. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Ý xúc cùng năm căn làm thể khi đó nó cùng tám căn liên đới nhau. Sắc xúc cùng hai căn làm thể thì xúc đó cùng năm căn liên đới nhau. Thanh xúc cùng ba căn làm thể, khi đó nó cùng tám căn liên đới nhau.
Lại nữa, Bồ tát cũng phải tư duy hương xúc cùng sáu căn làm thể, khi đó nó cùng chín căn liên đới nhau. Nếu sự xúc cùng hai căn làm thể, khi đó nó cùng mười một căn liên đới. Có khi tế hoạt xúc cùng một căn làm thể thì nó cùng tám căn liên đới. Bồ tát lại phải quán tri pháp xúc cùng mười chín căn làm thể thì nó cùng mười ba xúc liên đới. Nếu Bồ tát tư duy thẩm suy trừ bỏ tham trước không tạo xúc thì có thể đầy đủ tất cả các nguyện, dùng ánh sáng vàng để trang nghiêm thân. Ánh sáng đó soi chiếu rực rỡ khắp nơi, thông suốt các pháp đều là không tịch, quán chiếu thấy rõ pháp bổn chẳng phải hữu pháp cũng chẳng phải phi pháp. Vì sao như thế? Vì pháp vô đó tức là vô sở sanh cũng vô sở diệt. Vì người nói pháp nhưng không thấy có pháp đã nói. Pháp đó chẳng phải là chơn thật, giả đặt có người nói, có người nghe. Trong có sáu thọ, ngoài có sáu nhập, năm ấm các loại và tất cả nhập. Chúng đều là hư huyễn vắng lặng, đều là giả hiệu. Phân biệt chương cú và tất cả pháp, dùng chơn đế quán cũng không có năm ấm. Bốn đại chủng và gốc hai mươi hai xúc không có đoạn diệt, cũng không phải là thường hay vô thường, cũng không kiên cố. Đó gọi là các pháp vô ngôn. Tất cả các pháp gốc ngọn đều thanh tịnh, đều là Không, đều là tịch, không có tên gọi. Tất cả pháp tánh và danh hiệu đều là tự nhiên, đều vô sở hữu. Pháp chư Phật dạy cũng như vậy, phải tu tập pháp vô xứ sở. Tu tập pháp vô xứ sở như thế nào? Đó là tu tập tâm đạm bạc, biết rõ là vô sở sanh, tu hạnh vô dục, thực hành pháp chơn đế, tập học pháp Bổn vô mà thực hành khắp pháp giới, cũng tu tập pháp Bổn tế, liễu tri chúng đều là Không. Tất cả các pháp đều vô sở trụ, không có pháp nào để tu tập, không tu tập pháp Không hành.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Lục trụ Bồ tát hiểu rõ các pháp là Không. Lại phải tu tập oai nghi lễ tiết, đã xả quá khứ, không chấp thủ tương lai, không nhớ nghĩ hiện tại, cũng không thấy ngã sở, không có pháp nào để thọ nhận, chấp thủ, cũng không thấy có chủ tể, cũng không giới hạn, không thể thấy vì cứu cánh Không không có cùng tận. Giả sử có văn tự thì văn tự đó cũng là âm thanh giả hiệu mà thôi. Pháp vô tận này chính là pháp vô sở sanh. Do gốc tịnh đó nên ý chí đạm bạc, cũng không xuất sanh, phải rời xa chỗ sanh và chỗ vô sanh. Với pháp đã học tập cũng không có âm thanh, không thấy có tiến bộ hay lui sụt, tìm giới hạn thì không có chỗ tận cùng, cũng không phải không có chỗ tận cùng. Không khởi không diệt, đó chính gọi là đạt được bổn không. Giảng thuyết bình đẳng cũng không tưởng niệm, không gần không xa cũng không dấu tích. Đó gọi là Tập. Trong pháp và luật, tất cả các pháp đều là giả có danh hiệu. Gọi là Tập, pháp đó cũng không có chỗ trụ qua lại, không được, không mất, không nghe, không thấy. Đó gọi là thường trụ ở trong pháp giới. Pháp có thể phụng hành như thế thì gọi là Tập. Thế nào gọi là pháp? Danh từ được gọi là pháp thì pháp không thể niệm pháp, cũng không thể hủy pháp, cũng không có nạn sợ hãi, không có niệm mong cầu. Giả sử không có mong cầu thì cũng không có tư tưởng báo đáp. Nếu không nghĩ nhớ việc báo đáp thì trừ được tất cả sự ràng buộc của vọng tưởng, không trì trệ ở tương lai, không trụ ở hiện tại, không hồi tưởng quá khứ. Bậc tu tập như thế thì có thể đầy đủ tâm bình đẳng ở ba đời. Bậc trụ tâm bình đẳng ba đời thì không có ngôn thuyết. Do không dùng pháp trụ nên độ được chúng sanh. Tối Thắng nên biết, Như Lai xuất hiện giảng dạy ngôn giáo đưa các loại chúng sanh được đến bờ kia. Nhưng có Phật hay không có Phật, pháp tánh vẫn thường trụ. Pháp giới tự nhiên cũng không đổi khác. Pháp giới trụ chính là tịch nhiên. Lại vì sao gọi là pháp giới tự nhiên? Do không có ngô ngã nên gọi là tự nhiên. Có khi Bồ tát chấp trước ngã sở đó, tự cho là có sự thuần thiện của thân ý, nhận thân năm ấm, quán thấy nhân duyên của danh sắc, tư tưởng luân chuyển trong đó, ngôn từ qua lại dựa vào chỗ biết của thức, giả đặt danh hiệu, trong tâm xưng lường quán sát cứu cánh pháp bốn đại, các nhập. Khi đó Bồ tát phải tự suy tư rằng ta phải tinh cần độ cho người trong tam giới, phải làm tổn giảm bệnh dâm, nộ, si; tu tập đạo giáo, đi vào tam giải thoát môn. Bồ tát lại tư duy làm sao khiến chúng sanh đồng đạt được đạo tích, chứng đắc tứ quả trở thành bậc La hán. Hoặc phải tư duy về ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, thất giác chi, bát chánh đạo, không, vô tướng, vô nguyện, tứ đế, chơn như, diệt trừ trần lao. Bồ tát có tư tưởng đó, xem chúng sanh như quyến thuộc thì đối với pháp giới có khuyết giảm. Bậc Lục trụ Bồ tát xa rời tâm Thanh văn, Duyên giác, thệ nguyện hành hạnh nghiệp Đại thừa Bồ tát, phát nguyện rộng lớn, tâm tự nghĩ: “Như ta làm Phật sự cầu đạo tuệ, nguyện trong trăm nghìn hạnh không lui giảm. Ta sẽ bố thí không hối tiếc các pháp tài, giữ giới cấm thanh tịnh để đoạn trừ cấu uế, cẩn thận hạnh nhẫn nhục để trừ bỏ sân hận, tu tập hạnh nhu hòa”. Khi Bồ tát tu tịnh tâm là để trừ bỏ bệnh cấu lười biếng, nỗ lực theo giáo pháp tu tập trọn không rời bỏ, ở nơi yên tĩnh tu tập chánh thọ, ý không loạn động, đạt được nhất tâm, từ tam muội xuất quán chiếu thực hành theo nghĩa đã quán chiếu trong định, dùng sáu độ vô cực khai hóa chúng sanh, vì cầu Phật đạo muốn thành tựu đạo quả phải do lục trụ, thành Đẳng Chánh Giác hàng phục chúng ma, chuyển pháp vô thượng độ thoát nhân dân. Vì Phật vĩnh viễn tịch tĩnh nên hiện diệt độ, thông đạt thánh tuệ, học pháp trụ địa trị tâm, diễn xướng mười đạo lực của Như Lai, mười tám pháp thù thắng bất cộng, bốn pháp vô úy, biện tài phân biệt thông đạt các pháp không chướng ngại, cũng không tưởng cầu năm ấm, không lệ thuộc sự sanh diệt của chúng. Khổ sanh, già, chết là tướng của phiền não, thức ngộ rõ là không. Đó gọi là Khổ đế. quán tri chỗ duyên khởi của năm ấm, thấy rõ vạn vật đều do tưởng cầu mà hiện hữu, phân biệt rõ tâm ý mà chẳng phân thị phi, tuy không cầu mà tâm vĩnh viễn không quên mất. Đó gọi là Tập đế. Không cùng chung với thế tục vương vấn việc ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, cũng không trụ trong đó có tâm cầu lợi dưỡng, biết rõ chúng sẽ tiêu hoại nên không sở hữu. Đó gọi là Tận đế. Muốn đạt đến Đạo để liễu tri Khổ, Tập và Tận, dùng tám mươi bốn pháp mà các bậc Thánh tôn trọng đạt trí tối thượng, trừ bỏ các duyên tạo thành lưới phiền não do dự. Đó gọi là Tận đế. Phân biệt bốn đế, các pháp hiện tiền: thiện ác, khổ vui; tâm biết rõ thế gian. Bồ tát đều hiểu rõ gốc ngọn của chúng không mong cầu. Tuy không vọng cầu nhưng cũng không chấp thủ quả chứng của mình. Đó gọi là Bồ tát tu tập Đạo đế, thấu tỏ thân là không tịch, mất đi không sanh lại, không có nạn gì làm lay động, cũng không trừ tội, không thủ, không xả cũng không đoạn hại, không có thân phi thân, không thấy pháp nào giả đặt, có kẻ tạo tác, không có quan niệm bỉ thử, cũng không có quan niệm trung gian.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Thượng vị Bồ tát luôn phải tư duy trừ bỏ hai mươi hai nạn pháp căn bổn liên đới của xúc thì có thể tu tập toàn bộ nghiệp đạo Bồ tát. Này Tối Thắng, đó gọi là bậc Thượng vị Bồ tát ở lục trụ địa thanh tịnh hạnh của mình.
***
Phẩm 7: QUẢNG THOI
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:
– Bậc A tỳ bà đế Bồ tát ở thất trụ địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?
Đức Phật bảo Tối Thắng:
– Thường thì bậc Bồ tát đang ở địa thứ bảy, địa vị cuối cùng nhận quả do công sức khổ khó tu tập theo nguyện của mình, phải tránh xa, trừ bỏ sự chấp trước, không thấy có ngã, tuy độ chúng sanh mà không thấy có độ, cũng không thấy ngã, nhân, thọ mạng; đoạn diệt tâm chấp thường mười tám pháp bổn tánh, duy trì các nhập, xa rời các tưởng nhập điên đảo suy hao, cũng không nguyện cầu mong sanh vào ba cõi, luôn muốn gần gũi nương tựa Phật, Pháp, Tăng, Giới; niệm Thiên, Thí, Không, Vô tướng, Vô nguyện; cũng không thấy người nhập đạo. Tuy biết có chứng đắc không, vô tướng nhưng không trụ nơi đó, không đi vào cảnh đó. Tuệ vượt quá vô nguyện. Thân, khẩu, ý đều tịnh. Với niệm bi thương xót tất cả loài chúng sanh cũng không tự niệm. Thương xót chúng sanh nên có cái nhìn bình đẳng đối với các pháp. Pháp đó là không, là vô chủ cũng không có gì có thể nhập. Bồ tát muốn làm bậc Điều Ngự thì chớ có tâm cống cao. Vô sở sanh nhẫn là quả báo ứng. Mỗi lời truyền giảng đều không dựa vào danh sắc, vĩnh viễn xa lìa tà nghiệp mà không chấp trước vào pháp nào, cầu tưởng tri diệt mà không hồi tưởng. Tự điều phục tâm ý, tuệ không bị chướng ngại, vĩnh viễn trừ bỏ tam đồ, không nhiễm vào dục. Lời của Bồ tát nói lập tức có tác dụng. Bồ tát ra vào, lui tới không mất oai nghi. Tất cả tâm ý vọng tưởng mong cầu vĩnh viễn không sanh. Với các pháp chấp thọ, Bồ tát theo lý tư duy rõ ràng. Các pháp tụ tán giả hợp, biết rõ không có sai lầm. Bồ tát cũng không dùng tâm đó có ý thắng thua, luôn phải tư duy pháp tịch nhiên. Pháp tịch nhiên đó chính là pháp bất thối chuyển. Chư Phật đều hoan hỷ mà thọ ký danh hiệu. Chính lúc đó Bồ tát được gọi là bậc Vô sở sanh tuệ. Vì sao như thế? Với tất cả pháp, Bồ tát cũng không có tâm. Pháp vô tâm đó là vô sở sanh. Pháp vô sở sanh chính là kiên cố bất thoái chuyển địa. Lại nữa, tâm của bậc Bồ tát mới phát tâm có chí ý kiên cố. Bồ tát dạo qua vô lượng nạn trong sanh tử, bố thí tất cả vật sở hữu mà không có mong cầu, luôn có tâm bình đẳng cứu giúp chúng sanh: “Ta phải độ cho tất cả chúng sanh mờ tối, dùng pháp giải thoát của Phật mà diệt độ cho họ”. Tuy độ chúng sanh mà cũng như không có người được độ. Người đạt giải thoát hiểu rõ tất cả pháp đó đều là vô sở sanh, phân biệt thông suốt tất cả pháp, luôn gia công tinh tấn không bị ngưng trệ. Trí tuệ đó phổ biến khắp nơi, đủ Nhất thiết trí thông suốt các pháp môn vi diệu. Các gánh nặng do ái không có tăng giảm, dùng tâm vô tham đoạn trừ các vọng kiến. Bậc A duy việt trí tuy ở trong ba cõi mà không khởi các tưởng. Nếu khởi tưởng chấp trước thì liền có biên tế. Người có tâm biên tế thì chấp ngô ngã, dựa vào sự bố thí của mình mong muốn phước đức đem đến sự sung túc giàu sang. Người bố thí như thế thì có pháp chướng ngại: người thí, người nhận thí và pháp bố thí, chỉ xoay vần trong lưới sanh tử thế tục, trọn không thể đạt được đạo giải thoát.
Tối Thắng nên biết, khi Bồ tát tuệ thí thì không chấp ngô ngã, không thấy người nhận thí mà sanh tâm chấp thủ. Giả sử có bố thí thì cũng chưa từng khởi tưởng mong cầu có báo ứng. Sự bố thí của Bồ tát khuyến trợ tất cả, là vì cầu đạo Vô thượng chánh chơn, ba đời bình đẳng không có quá khứ, hiện tại, vị lai; hiểu rõ Pháp thân không trụ trong sanh tử; không dừng khi diệt độ, giáo hóa tất cả đều vô sở trụ, tâm tánh nhu hòa, thương xót chúng sanh nguy khốn, tâm bình đẳng rộng cứu độ tất cả chúng sanh, thân gần thiện tri thức học hỏi điều chưa biết, cầu học kinh điển sách vở vì mong giải tỏa các mối nghi, luôn nghĩ đến việc xả bỏ gia đình, không ưa thích tài sản nhà cửa, hiểu rõ tướng mong đạt đến vô tướng, quán các pháp bình đẳng, trí tuệ thông tỏ các điều chánh, diễn nói phẩm pháp vô sở tùng sanh, trừ sạch các niệm, lìa xa loạn tưởng, xả bỏ tà kiến, diệt trần lao ô uế, tịch tĩnh suy tầm chơn lý, tâm ý điều hòa, chí ý không hai, không theo pháp nhiễm ô. Nếu Bồ tát thể nhập địa này, trụ ở xứ đó thì mới đáng gọi là bất thoái chuyển, nhất tâm nhập chúng, thường dùng thần thông mà khai hóa chúng sanh, hiểu rõ các cõi Phật là không, không có sở hữu, tất cả đạt đến cứu cánh, quán chiếu thấy rõ đầy đủ căn nguyên của chúng sanh, tùy theo chỗ họ ưa thích mà thị hiện.
Tối Thắng nên biết, bậc thất trụ Bồ tát tinh tấn dõng mãnh tu tập Như ảo tam muội luôn luôn hiện tiền, tùy theo tâm ý quy hướng của chúng sanh mà độ thoát cho họ, hoặc đi vào năm đường để cứu hộ mà không bỏ bổn nguyện đã phát khi xưa nên thành tựu thức phân biệt các loại, các ngôn từ nói ra đều là biện tài. Bồ tát đều biết rõ mạng căn lúc trước chỗ sanh về đâu, đến khi ngồi dưới cội Phật thọ sắp thành đạo, trang nghiêm đạo tràng huân tập đầy đủ công đức, thông tỏ Phật pháp, không pháp nào không biết. Bồ tát luôn phải tư duy thoái chuyển, bất thoái chuyển, đều quán thông suốt pháp cực diệu, biết rõ biên tế mà không trụ nơi nào, cũng không có kết thúc hay sanh khởi. Bồ tát tư duy bất thoái trí nhẫn, hiểu rõ các pháp tụ tán vô cùng mãnh liệt, vĩnh viễn diệt độ mà trí nhẫn không lui thoái. Tuy ở nơi phóng dật mà hiểu rõ các pháp, không trì trệ trí nhẫn bất thoái. Bồ tát lại ở trong các pháp giải tri năm ấm khởi hay không khởi. Bậc bất thoái nhẫn thông tỏ tất cả pháp không có âm thanh, tức là không có tiếng vang của âm thanh. Âm thanh đó cũng không có phát ra hay thâu vào. Bậc bất thoái trí ở trong các pháp đầy đủ các điều tốt đẹp, sáu độ vô cực biến khắp hư không, không khuyết giảm. Bậc bất thoái nhẫn tuy ở trong các pháp mà không đến, không đi; đi, đứng, nằm, ngồi không có gì hợp hay không hợp. Với bậc bất thoái trí, pháp tánh luôn thường trụ, trụ nơi vô trụ, cũng không trụ nơi hang cốc mà chấp vào nơi trụ. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp đều không phân biệt tôn ti cao thấp. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp đều xả ly, đoạn diệt tâm chấp hữu thường. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả các khổ sanh tâm sợ hãi, phải biết vốn là không, cũng biết là không có chỗ trụ. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp trừ bỏ phiền não che ngăn cùng khắp như hư không nên xả trừ sáu sự. Bậc bất thoái nhẫn lại đối với các pháp làm tiêu hóa trần cấu, không nhớ nghĩ, không quên mất. Bậc bất thoái trí đối với tất cả các pháp không ứng hợp hay chẳng ứng hợp, cũng không có hợp tan, tuy dạo trong các pháp mà trừ sạch trần lao khiến chúng không còn dấu tích. Bậc bất thoái nhẫn từ trí tuệ của mình thực hành pháp, không bị Tập lôi kéo. Với tất cả pháp đều vô tri cũng không phải vô tri, không tư lự, không thấy. Bậc bất thoái trí đối với các pháp không động, không thể dao động, đạm bạc vắng lặng cũng không tưởng niệm. Bậc bất thoái nhẫn đối với các pháp diệt sạch, không có tâm thoái chuyển. Tất cả đều diệt tận không thể tìm thấy được. Bậc bất thoái trí đối với ngọn nguồn của tất cả pháp không trụ, tự tánh như hư không. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều an lập trong vùng u ẩn, tịch mịch, chỗ đến vô ngại cũng không có hoạn nạn. Bậc bất thoái trí biết pháp giới tánh là thường trụ, tùy thời mà hưng khởi các pháp. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều là không tịch, không niệm, không xả, chẳng có niệm chấp trước hay không chấp trước. Bậc bất thoái trí chuyển vận các pháp đến Ba la mật, không thấy có bỉ thử, có độ hay không độ. Bậc bất thoái nhẫn không niệm các pháp sanh, già, bệnh, chết, các nhập, ưu não. Bậc bất thoái trí nhiếp thủ các pháp mà không có gì có thể đắc, chí luôn trụ ở pháp sáu độ thâm diệu. Bậc bất thoái nhẫn suy tư các pháp để tránh xa cấu uế, trọn không lầm lỗi. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp phụng tu bình đẳng cũng không có chuyển. Bậc bất thoái nhẫn không thấy chủng tánh sở tạo các pháp, liễu tri chúng là một. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp cũng không mong cầu, không có tâm sầu lo. Bậc bất thoái nhẫn cũng do các pháp cùng nhau phát khởi, trong tâm không có niệm dừng nghỉ mà sanh lười biếng trụ nơi biên tế. Bậc bất thoái trí quán rõ Bổn vô, không tiến, không lùi cũng không suy giảm. Bậc bất thoái nhẫn đoạn trừ các pháp đều quy về âm hưởng; tất cả đều như hư không, không thấy tướng mạo, không xả pháp tánh Bổn vô tự nhiên. Bậc Bất thoái trí đối với tất cả pháp không có hạn lượng, không đến, không đi, không buộc, không mở cũng không có sanh. Bậc bất thoái nhẫn trừ các uế ác, tu tập pháp cực tịnh. Bậc bất thoái trí tuyên xướng các pháp, điều hòa an định các trí, cởi bỏ kiết sử trói buộc, hưng khởi đạo tâm. Bậc bất thoái nhẫn đều vượt qua các pháp khinh mạn, cho đến các duyên báo ứng ân ái. Bậc bất thoái trí đối với tất cả pháp vì ly danh cú nên tên Bổn vô cũng không được, không mất. Bậc bất thoái nhẫn đối với tất cả pháp đều không bỏ, không giữ, không trì trị trong bất sanh. Bậc bất thoái trí trừ bỏ tâm tham trước, pháp cứu cánh cũng không tăng giảm. Bậc bất thoái trí vì pháp căn bổn xuất sanh thù thắng nên một mình đi trong ba cõi. Bậc bất thoái nhẫn tư duy gốc khổ, truy tìm phân biệt để biết khổ từ đâu sanh. Bậc bất thoái trí phân biệt căn môn, nhân duyên của ý thức. Bậc bất thoái nhẫn với thệ nguyện trọng yếu của Bồ tát trọn không trái nghịch. Bậc bất thoái trí không dùng thân xúc thọ thai mà luôn phải hóa sanh. Bậc bất thoái nhẫn tư duy các loại ấm nhập, tánh hưng suy, trì nhập của các ấm. Bậc bất thoái trí phân biệt nội thân, khởi bất tịnh quán, từ đầu đến chân không khởi tham trước.
Này Tối Thắng, Bồ tát luôn phải tư duy, phân biệt, liễu tri tâm của bậc mới phát khởi học đạo Bồ tát vì không thoái nhẫn nên quán thấy rõ bảy pháp bổn, cũng không có tên sanh diệt, trước đoạn. Bậc thất trụ Bồ tát lại phải tư duy tám pháp bổn của Hiền Thánh đều không thấy sanh diệt, trước đoạn.
Này Tối Thắng, giả sử Bồ tát theo chỗ thọ sanh, ở đó chấp trước sanh vào Sắc giới, ngũ địa, thất, lục, tứ, tam, nhị, nhất địa. Ở địa vị cuối cùng thật có bảy pháp bổn cũng phải tư duy như thế. Trong cõi vô hình lại có thập nhất vị, đều liễu tri chúng là A duy việt trí không tịch. Vì có thể tu tập thành tựu khổ nhẫn, khổ trí, Tập, Tận, Đạo nhẫn và Hiền Thánh trí, cũng phải phân biệt bát huyền thông nhẫn, trừ năm mươi hai lậu của vô minh. Bậc thất trụ Bồ tát luôn nhớ nghĩ, y cứ nơi pháp tu tập sơ thiền, sáu Hiền Thánh trí, tu tập nhị thiền và tam thiền duyên với hỷ căn. Nếu trụ trong thiền thì không thủ chứng, phải tu bảy trí vô giác hữu quán, tâm tu tập nhiếp trì không, vô tướng, vô nguyện. Nếu Bồ tát nhân nhị thiền đó tư duy bát tuệ thì không giác, không quán hỷ; với không, vô tướng, vô nguyện cũng không thủ chứng. Lại nữa, nếu Bồ tát niệm tam thiền, phân biệt thập tuệ thì không niệm giác, quán; tự thọ niệm hỷ lạc nơi không, vô tướng, vô nguyện. Khi ấy Bồ tát trú trong tứ thiền phải phân biệt mười sáu thánh trí cũng không có giác, quán; thực hành từ, bi, hỷ, xả; giữ gìn tâm ý không dứt đoạn thì có thể thể nhập bảo tạng của Bồ tát, tu tập giải biệt trí nhẫn, không có bệnh tật đau đớn, không bị năm mươi hai lậu trói buộc, tuần tự phân biệt các pháp, chỗ đến của các địa và đạt được thánh tuệ bất thoái chuyển. Nếu Bồ tát tu tập mười sáu pháp thù thắng trọn không có tâm niệm hoài nghi, tà kiến thì có thể tiêu trừ tất cả các kết. Tâm Bồ tát kiên cường, không khiếp nhược; ý niệm kiên cố cũng không hỗn loạn, vọng động, một mình đi trong ba cõi không sợ các nạn, chí như kim cương trọn không thoái chuyển. Tâm luôn nhớ tàm quý, ý có thể chiếu soi không có gì không thông đạt. Trí tuệ như huyền minh, chẳng có gì không sáng tỏ, ngôn từ biện tài trọn không ngưng trệ, đạt pháp Tổng trì chưa từng quên mất, hành hoạt nhanh lẹ không cần suy tư, ở chỗ nào cũng làm Phật sự, tâm hành bình đẳng, ý không tăng giảm, lời nói nhu nhuyến không làm thương tổn người khác, tánh không hung bạo, theo lý suy tư rõ ràng, biết chí hướng của người khác liền vì họ nói pháp phân biệt năm ấm, phân tích các nhập, quán tỏ các pháp, không pháp nào không thông tỏ, thấy khắp nhân duyên báo ứng của ba đời, biết tâm niệm người mà vì họ nói pháp chỗ đúng, chỗ sai báo ứng thiện ác, tâm tuệ sâu xa không giới hạn, biết rõ pháp phương tiện khéo léo tùy thời thích hợp để hóa độ; phải tiến hay dừng, xuất hay nhập, đi đứng đều thức tri phân biệt không bỏ sót, oai nghi lễ tiết không sai luật, ở bất cứ nơi nào cũng khởi tâm đạo Vô thượng chánh chơn.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ ở chỗ nào cũng nói pháp độ người khiến họ thành tựu đạo quả, trừ khử các nạn khiến họ được mãi mãi an ổn, trọn không sanh vào tám nơi không nhàn, đến quốc độ nào mà được tự tại, nghe lời giảng của Bồ tát liền được độ thoát. Chúng sanh tôn kính vâng theo lời dạy ấy, suy tư nghiên cứu liền được pháp bất thoái chuyển, quán tỏ thông tuệ biết pháp vô sở tùng sanh liền thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn. Bồ tát luôn phải dùng phương tiện thiện xảo nhưng cũng không tự nghĩ: “Ta có thể hàng phục sắc tưởng, tự thân ta mong cầu ngày nay đã được”. Bồ tát không sanh tâm nhỏ hẹp mà lệ thuộc chấp chặt vào quả chứng đắc. Đó gọi là pháp bất thoái chuyển của Bồ tát. Bồ tát phân biệt pháp mười hai nhân duyên đều do vô minh mà dẫn đến sanh tử, suy tầm chỗ sanh mà không thể thấy, cũng không thể quán, cũng chẳng phải hữu tướng hay vô tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải không có vô tướng. Thấu đạt gốc nhân duyên đó thì không thấy sở hành là chánh hay không chánh và phân biệt có thượng, trung, hạ; cũng không thấy tội phước báo ứng, tạo hạnh bất thiện, hiểu rõ các pháp đều vô sở sanh. Tu các pháp bổn không thấy hợp tan, đó mới gọi là chỗ nhân duyên khởi. Nếu đã không duyên thì không lo họa hoạn, lời nói cũng không họa hoạn; vô minh, hành diệt, không có già chết, lo lắng, sầu muộn, khổ não. Thức tri thông đạt, phân biệt mười hai pháp, tất cả danh hiệu các pháp hữu nhân, nhân duyên hợp tan; chẳng có ta nên vô ngã, chẳng có người nên vô bỉ; cũng không thấy có ngã, nhân, thọ mạng, sanh, già, vô thường; không thấy pháp sở nhập cũng chẳng có pháp nhập, biết rõ thức nhập đều không có gì nhập. Nhập thư thế chính là biết rõ tất cả pháp thoái chuyển hay không thoái chuyển.
Này Tối Thắng, bậc Bồ tát bất thoái nếu muốn đầy đủ các pháp phải thấu đạt vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã). Tuy biết rõ hư tịch nhưng vì chúng sanh mà không thủ chứng. Bồ tát tu tập thanh tịnh không chấp trước hữu vi, căn tánh sâu xa của chúng sanh không tận hữu vi. Hiểu rõ mười hai pháp hữu vi đó, Bồ tát hướng đạo khiến chúng sanh đều thông tỏ vô vi. Bồ tát tuy trụ ở cảnh giới vô vi mà thực hành pháp không, vô tướng, vô nguyện; không trụ vô vi mà chấp vào chỗ chứng đắc của mình, liễu tri vô thường là pháp sanh diệt, công đức tu hành không cho là cực nhọc, quán thọ độc sanh ra nguồn cội các khổ, hộ trì chúng sanh kia tự phản tỉnh, quán các pháp diệt không có cứu cánh, quán pháp trừng tâm thấy không nơi chốn, quán vô sở sanh không thấy có sanh, quán niệm chúng sanh là trọng trách của mình; quán lậu, vô lậu không diệt tam giới, thực hành Tứ đẳng tâm, thương mến hậu học, ý thường không chấp trước, không bỏ đệ tử theo đạo Duyên giác.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát thanh tịnh ý chí theo lý tư duy, tùy theo chỗ ưa thích của người khác mà vì họ thị hiện phù hợp với chúng sanh trọn không trái nghịch nên được tất cả nguyện. Do công đức trí tuệ nên tâm Bồ tát trong sáng, mắt nhìn thấy sắc thì biết rõ sắc kia vốn là Không, tu tập nhẫn nhục không khởi loạn tưởng. Nếu có kẻ sân hận mắng chửi, Bồ tát chỉ niệm pháp đó, thông tỏ nội ngoại không nên không sở hữu, cũng không khỏi nghi ngờ mà biết rõ là Không. Bồ tát không tự thấy thân mình và thân người khác. Vì sao như thế? Với A duy việt trí, toàn thân Bồ tát đều hoan hỷ. Nếu có mong cầu thì tâm Bồ tát vui mừng gấp bội, không trái nghịch với tiền nhân, không có tâm tham tiếc. Nếu có người xin vợ thì liền bố thí mà tâm không dao động. Từng lời nói của Bồ tát chỉ vì đạo Vô thượng chánh chơn, không quá ân cần khuyên người khác tinh tấn tu tập để làm Kim luân vương, Đế Thích, Phạm vương; vì mọi người nói pháp vi diệu, khiến họ phát tâm học đạo Bồ tát. Bồ tát có thần thông dạo xem khắp mười phương cõi Phật, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn. Giả sử ba ngàn đại thiên thế giới đều đầy các báu, tâm Bồ tát trọn không khởi tưởng chấp trước, tất cả những gì mắt thấy đều vô sở hữu, cũng không nghĩ là ta sở hữu. Tâm ý thanh tịnh không tưởng cầu sắc. Vì Pháp thân không thể thấy nên thấy mọi người như pháp giới trụ liền được đầy đủ đạo nhãn thần túc. Do được tuệ nhãn nên biết những gì sở hữu đều là vô sở hữu. Tiệm ngộ pháp tánh chơn tế như thật thì đắc Phật nhãn và mười tám pháp bổn, pháp nhãn phân biệt thông đạt vô ngại. Đầy đủ mười lực, vâng giữ nguyện lớn thì đạt đến vô vi, cảnh giới bất tử.
Tối Thắng nên biết, pháp Bồ tát tu tập cũng như đấng Nhất thiết trí, do trụ trong pháp đã tu tập nên vô sở trụ, thông tỏ pháp trụ đó thì trụ vô sở trụ, học cũng như vô học. Bồ tát luôn niệm pháp không tịch, tùy thuận các pháp không có trái nghịch, không vì tùy thuận mà bình đẳng, không vì trái nghịch mà rơi vào biên tế, lại không tập theo tà rơi vào cảnh giới ma, cũng không học Đại thừa vì cầu lợi. Vì vậy nên Bồ tát không rời bỏ pháp mà kiên tâm học pháp. Vì không rời bỏ pháp nên không phạm sai quấy, vì tự biết không còn tạo tác nên có thể chuyên tâm chế phục năm ấm, không còn dong ruổi liền vượt qua cảnh giới ma, không thể ở giữa đường quên lãng tâm Bồ tát.
Bấy giờ ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Vì sao gọi là bậc bất thối chuyển Bồ tát trụ vô sở trụ, học cũng như vô học?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc thất trụ Bồ tát trụ trong ba cõi, không nhiễm ba cõi cũng không có pháp để tu tập. Không học Tập, đó gọi là “vì bên trong”. Không cầu Tập, đó gọi là “vì bên ngoài”. Tuy Tập bên ngoài nhưng không tùy thuận theo đệ tử, quán chẳng có gì học cũng chẳng có duyên học. Điều gọi là Tập, sở học trong sanh tử, là pháp tu tập của Bồ tát, chính là học vô tri. Tập mà không có gì để tập, học mà chẳng có gì để học. Tập là danh sắc, Tập là nhân duyên, Tập là ngã kiến, Tập là ái, Tập là ngã sở cũng chẳng phải ngã sở. Tập tuy là tham nhưng học Tập để bố thí. Tập tuy phạm giới nhưng học Tập để hộ giới, lại trong khi trì giới không tự sanh cống cao. Tập dù là sân tưởng nhưng học Tập để nhẫn nhục. Tập là giải đãi nhưng học Tập để tinh tấn. Tập là loạn tưởng nhưng học Tập để được nhất tâm. Tập là vô minh, học Tập để có trí tuệ. Tập không quả báo nhưng học Tập để có công đức. Tập là nghiệp thế tục nhưng học Tập để có đạo nghiệp. Tập là vô thuyết nhưng học Tập để đắc độ.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc thất trụ Bồ tát tập vô sở tập, học vô sở học. Đến vô cực tuệ thì thấy tất cả các pháp không có được mất cũng không có pháp nhập hay không nhập, không thể nương vào sắc nhập cho là có nhập. Thống (thọ), tưởng, hành, thức cũng như vậy, không từ pháp sổ tức mà đến hữu cực, cũng không từ phi sổ tức pháp mà đạt đến vô cực cầu Nhất thiết trí. Cần phải biết trụ như thế. Bồ tát không tự niệm pháp, nói là ta tu tập. Hiểu rõ như vậy là Nhất thiết trí. Bồ tát muốn cầu Nhất thiết trí phải từ trong tứ đại sở tạo sắc mà cầu. Vì sao như vậy? Vì chấp thân là chướng ngại thì phải thọ tứ sanh, không chấp thân thì xa lìa ái dục. Chỗ Bồ tát trụ là chỗ trụ của trí như thật, vì vượt qua các cảnh giới nên trụ vô sở trụ, không chấp có sanh; không phải là sanh từ thai mẹ. Nếu thấy sanh thì tất cả đều chẳng phải sanh. Vì biết rõ vô sanh nên có tên là vô sanh tuệ. Quán pháp bình đẳng đó chính là pháp bình đẳng vô cực, pháp Đại thừa bình đẳng vô hạn lượng.
Khi Đức Phật giảng pháp này, mười một na thuật trăm ngàn vị thiên tử đều được vô sở tùng sanh pháp nhẫn, bảy vạn hai ngàn người đều phát đạo tâm vô thượng bình đẳng.
Bấy giờ vị Đại Thanh văn thủ tọa, Trưởng lão Ca Diếp cùng Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, A Na Luật, Ly Việt, Nan Đầu Bà La, Phân Nậu Văn Đà Ni Phất, Tu Bồ Đề… gồm năm trăm vị La hán từ chỗ ngồi đứng dậy, ca sa tề chỉnh, gối phải sát đất, cúi đầu mặt sát đất trước chân Thế Tôn, đồng buồn bã cất tiếng than khóc nức nở bi thương rồi gạt lệ đến trước Đức Phật, thưa:
– Chỗ thấy biết của chúng con thật thiển cận, mãi mãi mất đi thánh chủng. Phật đạo sâu xa huyền diệu mà chúng con không được ân thấm nhuần. Nếu có kẻ nam, người nữ phàm phu ở trong ba đường ác muốn cầu đạo Nhất thiết trí thì phải phát tâm tối thượng mong thành tựu Phật quả. Vì sao như vậy? Như hôm nay Thế Tôn đã dùng trăm ngàn pháp giảng cho chúng con. Chúng con không thể thành tựu phát Bồ đề tâm nên trong lòng tự hối hận mãi mãi không thể đạt được tâm ấy. Nay tuy được mọi người gọi chúng con là La hán có sáu pháp thần thông vi diệu, đức vượt tam hữu, nhưng chúng con trong trăm ngàn vạn kiếp không nhơ bổn nguyện, tạo năm tội nghịch rơi vào ngục Vô trạch, mong mỏi diệt tội để có thể ra khỏi, dần dần tu tập giải thoát đến diệt độ, được phát tâm thành tựu đạo Bồ tát. Nay chúng con các căn đã suy yếu già cỗi vô tác dụng mới nghe được pháp như vậy. Vì sao? Vì chúng con đã tiêu hoại hạt giống Bồ tát. Chúng con buồn khóc than thở vì không thể thành tựu đạo Bồ tát. Các loài bò, bay, máy, cựa có hình tướng, hoặc một chân, hai chân cho đến trăm ngàn chân đều nương nơi đất để sinh sống, ăn ngon, mặc các loại y phục đẹp láng mịn. Các loài chim bay trên trời cũng nương nơi đất mà sinh sống. Chúng con tuy được đạo nhưng chỉ nuôi dưỡng thân tứ đại. Chúng con cùng loài cầm thú có gì khác nhau. Bọn chúng tuy có nhiều cấu tạp nhưng dần dần thoát được thân cầm thú, đầy đủ các đức thì thành tựu đạo Đại thừa. Chư Thiên và loài người đều đội ân giải thoát. Chúng con tự trách tâm chúng con quá nhỏ hẹp không dám nghĩ đến việc đạt đạo tối thượng nên đều sầu não, hối hận vì việc tu tập trước đây.
Lúc đó trong pháp hội, một ngàn bảy trăm người chưa chứng đạo tích, lúc trước tu tập theo pháp Thanh văn, Duyên giác đều phát tâm kiên cố cầu đạo vô thượng, ngay tại chỗ ngồi liền được pháp nhẫn vô sở tùng sanh. Nhân đó Thế Tôn giảng nói pháp lớn sáu độ, dạy pháp Tứ đế: Khổ, Tập, Tận, Đạo; Tứ ân, Tứ đẳng khiến tất cả chúng hội đều phát đạo tâm.
Bấy giờ ngài Xá Lợi Phất nương oai thần của Đức Phật, bảo với chúng Bồ tát đến trong hội:
– Thuở xưa, lúc tôi mới tu tập hoặc từ nhất trụ địa đạt đến ngũ trụ địa, lại thối lui mà trở lại sơ trụ địa. Lại từ sơ trụ địa đạt đến ngũ, lục trụ địa. Như thế trải qua suốt sáu mươi kiếp, trọn không thể đạt đến bất thối chuyển. Tôi khởi lên niệm hối hận nhưng cũng chẳng đạt đến cứu cánh. Cho nên các vị nên giữ tâm như bậc tịnh giới, sở nguyện chắc chắn đạt được mà không phạm tục, dùng pháp trí tuệ thì không pháp nào không soi sáng. Bồ tát vì trụ nơi bất thối chuyển địa nên không chấp thí hay không thí, cũng không thấy trì giới, nhẫn nhục, tinh thần, tuệ Nhất thiết trí; cũng không theo cõi Dục, Sắc, Vô sắc; cũng không từ thân, khẩu, ý hành; đối với tất cả pháp đều không chấp trước, biết chúng đều ảo hóa như ngựa hoang, tiếng vang thì chỗ trụ đều rốt ráo thanh tịnh, không có ngô ngã, thọ mạng dài ngắn, không thấy danh hiệu đạo tục thị phi; cũng không tự nghĩ rằng ta nên cầu pháp này, không nên cầu pháp này; không có tưởng buồn vui, vô duyên vô tác; cũng không có sở sanh hay sở kiến, cũng không có xứ sở. Bậc khởi niệm như thế thì không có dục, nộ, si; học pháp không tăng giảm, không đọa ác thú, có tâm thoái chuyển. Muốn thành tựu Phật quả thì phải tu tập như thế. Vị ấy cũng không tạo tội, không tạo phước, không có thành đạo cũng không phải không có thành đạo, không có tưởng hay vô tưởng, thấy các pháp đều bình đẳng không có hơn kém.
Khi ngài Xá Lợi Phất nói những lời đó, lại có vô ương số trăm ngàn chúng sanh đều phát đạo tâm Vô thượng chánh đẳng. Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng đến trước Đức Phật thưa:
– Thế nào gọi là tất cả các pháp đều ảo hóa như ngựa hoang?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Ví như tưởng có người đến mà không thấy có chỗ để người đi, người đến, ngộ rõ các pháp cũng như vậy, không có chỗ đến, không có chỗ đi, trụ trong tánh tự nhiên, không thấy biến dị. Các pháp vô tác cũng không có ai tạo. Thân Như Lai, một là Hóa thân, hai là Pháp thân. Pháp thân thì không thể thấy cũng không có hình tướng. Hóa thân cũng như hư không vô hình. Này Tối Thắng, đó chính là gốc tu hành đạt đến A duy việt trí, có thể ở trong đại chúng cất tiếng rống sư tử, tu tập trí tuệ, không ai có thể theo kịp. Công đức huân tập thuần thục thì các pháp thanh tịnh vô cùng thâm diệu không thể nghĩ bàn, cao ngất không lường. Này Tối Thắng, bậc Đại sĩ bất thoái trụ ở thất địa thanh tịnh hạnh của mình như thế.
***
Phẩm 8: ĐỒNG CHƠN
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Bồ tát trụ ở bát địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát trụ ở bát địa luôn phải đầy đủ tuệ thần thông quán sát căn tánh của chúng sanh, quán chí hướng của họ mà vì họ thị hiện, lại dùng thần thông dạo đến các cõi Phật quán sát các hạnh vi diệu thù thắng của chư Phật, trở về tự trang nghiêm cõi Phật của mình, tự đến nơi tôn thờ lễ kính chư Phật, quán thân tướng của Phật là Không, vô sở hữu, học tập biết nhẫn nhục, phân biệt các căn, luôn trụ trong chánh định như ảo, tâm ý an định, biết rõ pháp Bổn vô. Các công đức đã tạo theo thân khí lúc trước, mỗi mỗi đều theo chỗ tu tập của mình mà đều thành tựu. Bồ tát vì tu tập quá Không, vô tướng, vô nguyện nên không có hình tượng, vượt qua ba cõi vĩnh viễn không bị chúng buộc ràng, tuệ vô sở niệm không có sanh diệt. Do vô sở sanh nên gọi là Tuệ. Làm mà không thấy làm cũng không tạo tác, đó gọi là Tuệ. Ở trong chỗ vô hạn, đều không dừng trụ cũng không có trụ xứ. Vì tuệ thanh tịnh nên không nương tựa vào thức. Vì sao như vậy? Do không tưởng niệm nên tuệ không giới hạn, dùng sức phương tiện không dừng tham dục, cũng không trụ sắc hay vô sắc. Tuy ở chỗ cấu nhiễm mà không bị nhiễm trước. Này Tối Thắng, đó gọi là đại trí, xa lìa dâm, nộ, si không có ngu mê, vĩnh viễn vì giải thoát mà không hạn lượng, không ràng buộc, không đoạn dứt, trừ bỏ mười hai duyên mà vô minh là pháp căn bổn, không thấy ngô ngã, không trụ tham dục biết rõ chúng là một, không tưởng cầu sắc, nghĩ đang trụ trong tất cả sắc. Đó gọi là nghiệp của đệ bát Bồ tát. Bồ tát trọn không tùy duyên, không có họa hoạn phiền não, không cùng với si, không hữu vi cũng không phải không hữu vi, không cầu phước nhưng chẳng phải không có công đức vì Bồ tát đã vượt qua các ác và các sự phi pháp cho nên như thế. Pháp tánh thường trụ, Bồ tát không thấy có kẻ ngu làm điều phi pháp, trong thân, tâm thức của Bồ tát không cảm thấy sầu lo, ý không loạn tưởng dong ruổi theo niệm khác. Này Tối Thắng, đó gọi là Tuệ. Bồ tát phân biệt quán Không, liễu tri vô sanh, đoạn diệt tâm chấp thường không để nó phát khởi; phòng hộ sáu giác quan trọn không để tà dấy khởi, thệ nguyện cao xa không có giới hạn, tu nghiệp đồng chơn mà không sai thứ lớp. Nếu thấy có người lui sụt nơi xuống địa dưới thì liền dụ dẫn khuyến tấn khiến họ tăng thượng trở lại. Bậc tuân phụng pháp không rời bỏ luật bổn đã tu của chư Phật thân tâm hỷ lạc không gì vui bằng, phát triển tâm lạc đạo không rời Pháp thân, không xa Thánh chúng, không có trói mở. Lại phải tu tập pháp của đạo lẫn thế tục. Vì nương pháp tánh nên không đoạn các học xứ, cẩn thận giữ gìn cấm giới. Do gốc thanh tịnh nên không thể tận. Biết rõ đang ở trong sanh tử đều có lúc tận. Chúng sanh lưu chuyển trong năm đường xoay vần qua lại cũng không chịu dừng. Bồ tát biết rõ trụ nơi vô thường rồi cũng sẽ tận diệt. Ngoại đạo dị học tuy đạt ngũ thông nhưng không rời trí thế gian, chỉ mong cầu sống lâu, về sau mất thần túc thì cũng mạng chung liền trở lại sanh tử. Hoặc có chúng sanh siêng năng tu tập pháp Ngũ giới, Thập thiện được sanh vào cõi người, cõi trời; ở cõi trời Dục tinh cần tu tập Ngũ giới tự nhiên đạt được đầy đủ công đức. Hoặc có chúng sanh ở cõi Sắc giới tu học Không định, lấy niệm hỷ lạc làm thức ăn, không nhớ đến gốc khổ. Hoặc có chúng sanh tâm thức trong lành mong cầu giải thoát, tự nghĩ đã đạt được Niết bàn vô tướng vĩnh viễn tịch tĩnh. Bọn họ đều tự tu tập không đạt đến chỗ diệt độ rốt ráo. Bồ tát ở địa thứ tám quán rõ các chỗ đó nên không nhiễm trước, luôn tuyên giảng pháp khuyến tấn người học đạo khiến họ xa lìa các cách tu tập trên.
Tối Thắng nên biết, đạo nghiệp đồng chơn cũng phải lánh xa đạo Nhị thừa, từ Tu đà hoàn đến Bích chi Phật đều có sự bất toàn. Bồ tát trọn không niệm pháp La hán. Vì sao? Vì chỗ dụng tâm của Nhị thừa nương tựa vào đạo Niết bàn. Bồ tát không học cách tu của hàng Duyên giác vì phát tâm của hàng Duyên giác không phải là tâm đại bi. Người học đạo như thế đều chẳng phải chơn chánh. Nếu có Bồ tát muốn giải thoát rốt ráo thì nên tu học đại trí tuệ, biết rõ gốc ngọn các pháp không thể tận cùng, nguyện không rời bỏ tất cả chúng sanh, tu pháp Như Lai là tánh bất diệt. Do trí tuệ vô cùng bất khả kiến nên đạo quả đúng thời liền được thành tựu. Các lời Bồ tát nói đều đúng như thật với tâm hoằng thệ nguyện đã phát. Với pháp mười lực, mười tám pháp bất cộng thù thắng, Bồ tát cũng không tư lự nghĩ suy cũng không thể cùng tận. Bậc đệ bát Bồ tát khi du hóa giữ gìn tâm ý, thực hành nhẫn nhục không thể nghĩ bàn; tâm không nghĩ điều quấy, không có các niệm ác. Bồ tát không có tâm sân hận đối với chúng sanh cũng không khởi tâm cạnh tranh với người khác, không hướng dẫn người đến chỗ bại hoại, cẩn thận hộ trì thân khẩu, không phạm dối trá, hộ trì chúng sanh, tự mình cẩn thận tu tập pháp bổn. Bồ tát không theo các bộ phái tà quấy, luôn tư duy thiện nghiệp, không có tâm ái dục nên có thể trang nghiêm thân như thân tướng của Phật.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ tát Tối Thắng:
– Bồ tát tu hạnh đồng chơn luôn phải tu tập âm hưởng nghĩa cú. Thế nào là nghĩa âm hưởng của Bồ tát? Lúc đó Bồ tát biết các pháp là Không, không nhiễm các kiến, tư duy vô tướng, không khởi loạn niệm, phân biệt vô nguyện, vĩnh viễn xa rời tam hữu. Với pháp không dâm dục, bổn tánh tự tịnh, không khởi niệm sân nộ, khiến chúng vĩnh viễn không khởi sanh. Quán rõ vô minh không chút mê mờ. Lại phải tư duy pháp tương lai, quá khứ, hiện tại đều không khởi các pháp tự nhiên, không thấy khởi diệt, không thấy sanh tử, không bị báo ứng, tin tưởng làm việc thiện hay ác biết rõ chắc chắn có quả báo, tu khẩu nghiệp thanh tịnh không nói lời dối trá. Tâm Bồ tát thông suốt, tu tập không vọng động, các việc đã làm đều thù thắng không bỏ sót pháp nào, luôn tự tư duy các pháp như mộng ảo. Giả sử có tà niệm liền tự biết rõ, chí tánh nhu hòa, giữ gìn tâm ý khiến không sanh khởi điều ác. Bồ tát luôn sanh vào nhà bậc sĩ phu thanh tịnh chơn chánh. Giả sử ở tại nhân gian thì đầy đủ các đức, có tám mươi tướng đẹp, âm thanh tuyệt diệu của chim phượng. Bồ tát không có tâm trang điểm mà vẫn đẹp vi diệu như Phạm Thiên, trừ tâm dâm, nộ, si không còn sầu muộn, hoàn toàn không có nét mặt khó chịu sân hận đối với người khác, công đức đã tạo chưa từng quên mất, tùy theo pháp căn bổn nên đại vĩnh viễn an lạc, luôn dùng pháp ngữ khuyến tấn chúng sanh, hàng phục ngoại đạo tà học dị thuật. Do Bồ tát rời xa khổ não nên không còn bị nạn nguy hiểm, đã có đầy đủ pháp của chư Phật. Đối với mọi người, Bồ tát luôn nhẫn nhục, thân tâm chí mật, hiện tại bị mắng chửi nhưng vẫn điềm nhiên không báo oán. Nếu bị chúng sanh đánh đập vẫn không có niệm oán hận, cũng như đất bằng bao dung thọ nhận vạn vật trọn không thức tưởng tăng giảm ý. Vì sao? Đó là do pháp tánh từ xưa đến nay vốn Không. Giả sử có kẻ có tâm phẫn nộ thì Bồ tát hoàn toàn không hận, nhìn thấy rõ mặt giận dữ của người như ảo như hóa nên không khởi tâm đối nghịch hướng về người. Nếu người có niệm ác, Bồ tát giả vờ như không biết, tự mình tư duy: “Ta nay quán suy chân lý biết là Không, trong tương lai không xa lìa, không khởi duyên này. Người này trước đây có tâm giận dữ, ta nên thận trọng với tâm ấy”. Giả sử có người đến khen ngợi, Bồ tát cũng không vì thế mà vui mừng. Nếu bị người đánh đập cũng không sầu não. Vì sao? Vì Bồ tát không thấy có thân mình và sự đau đớn do gậy gộc của người đánh đập. Tất cả đều do Bồ tát đã tích tập công hạnh hàng phục tâm ý. Bồ tát ở nơi nhàn tĩnh, quán xét nội thân phải chịu sanh, già, bệnh, chết, vô thường, khổ đau, sầu lo phiền muộn, các nạn khủng bố, đói khát, nóng lạnh; lại quán sát thân này bại hoại, là pháp vô thường. Thân này là vật chứa đựng các khổ não, là nơi tật bệnh tích tụ. Thân này như hư không, khi chết trả về gốc tứ đại. Thân này là vô ngã, vô sanh, vô diệt. Chúng sanh trong ba cõi mãi bị trôi nổi chìm đắm trong dòng ái dục, không có khi nào dừng nghỉ, trước phải chế tâm không để nó khởi nhiều vọng tưởng. Lại phải suy tư về nguồn gốc của dòng ái dục. Chúng sanh ở trong ba cõi xúc chạm với sanh tử nên không ngừng thọ thân. Bồ tát lại phải tư duy về dòng tà kiến. Chúng sanh ngu si, theo điên đảo chấp vào sáu mươi hai kiến mê lầm của thế gian. Bồ tát suy tư về vô minh lưu, thấy rõ chúng sanh trong ba cõi si mê không hiểu biết, không biết chơn đạo, cho bất tịnh là tịnh, trở lại theo dòng thác dục, cho khổ là lạc, cho vô thường là thường, cho phi thân (vô ngã) là thân (ngã). Không suy tư trừ bỏ tham trọc mà tự thân buông thả ngày đêm không tu tập, đến già vẫn không ngừng dâm dục. Có tiền của không bố thí. Không nghe lời Phật dạy. Đó gọi là bốn pháp hiểm nguy làm tăng thêm gốc ái, ý suy nghĩ, thân hành động cùng duyên các nhập.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát trụ trong định tịch tĩnh mà quán niệm, bỏ ác trừ dục bất thiện đó, theo lời dạy của chư Hiền Thánh không có tâm khổ vui, tu tập thấu đạt nghĩa lý sâu xa của Tứ đế, chứng ngộ sanh là khổ, ái là nguồn cội khổ, thanh tịnh là tận, tu tập Đạo để vượt qua khổ. Khi có họa hoạn áp bức thân này, Bồ tát tuyệt nhiên không thể khởi tâm tham, thẩm suy nguồn gốc từ đâu có sanh, theo bổn tánh quán niệm pháp đó liền biết nguồn gốc của khổ từ thân sanh, do nhân ái Tập sanh, ái diệt thì chứng Tận, vô dục thì thành tựu Đạo. Bồ tát luôn có tâm từ mẫn, không có niệm hại, nuôi lớn đạo tâm, thương xót giáo hóa chúng sanh đau khổ, khuyên họ sanh tử là khổ cần phải nhổ tận. Nét mặt Bồ tát luôn hòa nhã hoan hỷ đối với chúng sanh mê mờ, khuyên dạy chúng sanh khiến họ phát tâm đạo. Lời nói (của Bồ tát) luôn trôi chảy, sâu sắc, không ngập ngừng, biết tướng các pháp, nghĩa của chơn lý, thông dạt hoàn toàn các pháp, tùy thời mà nhập. Nếu có người tìm đến vấn nạn, Bồ tát theo căn cơ của họ mà ứng đối không trở ngại. Khi Bồ tát trả lời, từ ngữ không sai loạn. Tâm Bồ tát luôn từ hòa, thương yêu tất cả chúng sanh, nhớ nghĩ tất cả loại chúng sanh hữu tình không tránh khỏi sự đau đớn của bệnh tật, suy hao nên vì họ mà giả bày phương tiện mong họ được giải thoát. Bồ tát lại khởi tâm bi mẫn đồng cảm với tất cả chúng sanh đang ở trong hoạn nạn đói khát, nóng lạnh, được mất, không cách nào thoát khỏi tội nạn nên suy tư pháp phương tiện khéo léo mong làm cho họ được an vui. Bồ tát lại dùng tâm hỷ nghĩ đến các thế gian, thấy đều có nạn lo sợ khổ não: “Ta phải dùng phương cách khiến họ được an ổn”. Bồ tát luôn có tâm thủ hộ, nguyện độ những kẻ sanh trong tám nạn ở ba cõi, ngu si, mê mờ không thấy chánh đạo; suy tư mong muốn độ cho họ được giải thoát. Tâm thương yêu chúng sanh của Bồ tát không lay động, tuy thực hành pháp đó mà tâm ý không nhiễm trước, không vì khuyến khổ mà sanh tâm niệm thoái chuyển, luôn ngưỡng cầu đạo Vô thượng chánh chơn. Bồ tát đối với trí tuệ thông đạt không nhàm chán, cho là đủ. Nếu ở trong chỗ đờn ca xướng hát năm dục lạc, Bồ tát cũng không sanh tâm hoan hỷ, thấy rõ các pháp thế tục đều là ảo hóa, tất cả vạn vật đều trở về với vô thường, không bị tám pháp sở kiến làm điên đảo rối loạn tâm, luôn xa lìa như tránh lửa hừng, không ở trong đó bị người làm não loạn. Nếu có người có tâm giận dữ hướng về Bồ tát thì hoàn toàn không thể hại được dù chỉ nhỏ như một sợi lông. Được người tôn kính, Bồ tát cũng không dám phạm. Giả sử có người muốn hại Bồ tát, Bồ tát dù từ bỏ vô số thân ở các nơi khác nhau cũng đều có thể nhẫn nhục, không sanh loạn tưởng. Do mong được đầy đủ hạnh đồng chơn, Bồ tát lại quán pháp của thân tâm hợp thành, tan hoại, có gì để tham chấp mà xem nó như vật báu. Theo duyên tu tập đó thì kết quả chắc chắn đạt được thân Phật, ắt hẳn đạt được bí tạng của Như Lai, phát thệ nguyện lớn, nguồn cội của đạo giải thoát cứu cánh. Bồ tát tu tập phương tiện quyền xảo biến hóa vô cùng. Nếu ở trong chốn ngoại đạo dị học thì hiện thân đi vào lửa nằm ngồi tự tại, lại từ trong lửa đứng dậy mà không bị lửa làm hại rồi dạy cho bọn họ biết có đạo chơn chánh. Tâm họ tự hối cải, tu hạnh thanh tịnh. Bồ tát giáo hóa kẻ có tâm ngu mê khiến họ phản tỉnh quy chơn. Từ thân sanh Thiên, Bồ tát giảng pháp cho chư Thiên hiểu rõ địa vị cõi trời cũng phải suy hoại. Với pháp phương tiện quyền xảo, không pháp nào Bồ tát không thông tỏ. Tứ Thiên vương Thích, Phạm đều tự quy kính đảnh lễ. Đó là do Bồ tát tích tập công hạnh nên có đạo đức thù thắng siêu việt, hàng nhị thừa không thể sánh bằng. Trí tuệ thông đạt đồng chơn của Bồ tát cũng không có giới hạn, tâm niệm rộng lớn không có hạn lượng. Lời Bồ tát nói ra đều có ích lợi không làm tổn hại ai dù chỉ nhỏ như sợi lông. Vì vậy nên trí tuệ của Bồ tát không thể cùng tận, phân biệt rõ ràng rành mạch pháp của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; biết rõ chúng là Không, không có sở hữu. Bồ tát đã thông đạt nhẫn tuệ nên đạt được tất cả trí tuệ, không nghĩ tất cả pháp là thường hay vô thường, suy tư liền được thể nhập trí tuệ vô cực. Nếu cùng âm thanh của tiền nhân qua lại, Bồ tát tư duy lời dạy như tiếng vang trong núi. Hiểu rõ được điều đó thì gọi là quyền tuệ. Bồ tát cũng quán sát pháp tánh không của hữu vi, vô vi. Chơn lý vắng lặng như hư không, giả đặt nên có tên gọi là “tai”. Bồ tát không nhớ nghĩ tự thân đã đạt đạo quả, những kẻ hạ liệt không thể theo kịp; cũng không tự nghĩ đã tu hành giới luật, tôn thờ giáo pháp, hoàn toàn không khởi ý nghĩ suy vô số niệm. Đó gọi là quyền tuệ đồng chơn không biên tế. Trong khi tu tập hòa nhẫn, không nhẫn, đảnh nhẫn, bất thoái chuyển nhẫn, Bồ tát như thật quán sát không hư vọng, tu Tam ma địa, không trụ Bổn không, không niệm kiên thật, không nghĩ quán tưởng, không niệm hữu tưởng, cũng không mong cầu khởi nguyện tưởng. Pháp giới là nhất tướng cũng không hình mạo, tư duy sanh tử không có thỉ chung, không bố thí vì không có pháp bố thí; không thấy quá khứ, tương lai, hiện tại xoay vần qua lại, đều không chơn thật. Quá khứ đã diệt, hiện tại không trụ, tương lai không sanh, có đức không thấy có đức, không đức không thấy có đức, không phải có đức, chẳng phải không có đức, chẳng phải chẳng có vô đức; liễu tri hữu đức, vô đức đều vắng lặng không tịch. Không có tên gọi sanh diệt, trước đoạn. Bồ tát lại quán vô sanh thì thấy không có chỗ sanh, không thấy vô sanh, phân biệt hữu sanh cùng với vô sanh đều hư ảo, không phải thật là một cũng không phải là hai, không thấy có chứng đạo quả độ thế gian, cũng không thấy văn tự ngôn giáo phần đầu, phần giữa, phần cuối; không thấy có giải tán không hợp với thế tục, lại kh«ng thấy có tụ họp đồng với thế tục cùng lưu chuyển.
Như vậy, này Tối Thắng, pháp tu đồng chơn là pháp sâu xa khó lường, không thể nghĩ bàn, không pháp nào có thể sánh. Không thấy đạo nhẫn hợp cùng trí nhẫn, không thấy trí nhẫn hợp cùng đạo nhẫn, cũng không phải không hợp. Không thấy vô đạo hợp cùng vô trí, không thấy vô trí hợp cùng vô đạo, đạo nhẫn và đạo tự chúng không cùng hợp, chẳng phải không có hợp cũng không phải không hợp. Vì sao? Vì tánh tự nhiên. Tối Thắng nên biết, thế gian có hai pháp khiến kẻ tân học có tư tưởng hồ nghi. Hai pháp khiến khởi nghi ngờ đó là gì? Đối với Bồ tát tu trăm ngàn pháp nương tựa vào Nê hoàn cho là đã giải thoát, người tu tập như thế thì có tổn giảm. Hoặc có Bồ tát biết tánh Nê hoàn mãi mãi là giải thoát nên không khởi tâm thi thiết nhiễm trước sanh tử, không theo, không lìa, biết rõ là một chứ không phải vô số tên gọi từng phần. Bồ tát tuệ nhẫn trọn không sanh tâm nhưng phân biệt có pháp Đại thừa bình đẳng này, pháp Đại thừa bình đẳng kia. Vị ấy thể nhập ngộ được Không tuệ, không chấp trước, không dứt đoạn, không bị nhiễm ô thì mới gọi là bình đẳng. Tánh bình đẳng quán rõ không buộc, không mở, vì vô sở tạo nên vô sở sanh. Bậc không thấy tự nhiên có sanh diệt, bậc giải thoát như vậy mới gọi là tự nhiên. Không thấy tự nhiên, không thấy vô nhiên, thông đạt tự nhiên đều vô sở hữu, đó gọi là thanh tịnh, là diệt nhiên.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát tích tập công hạnh, trí tuệ vô cùng cực, tu tập vô sanh tuệ không thể tận. Từ lúc đầu học đạo tích tập công đức đến khi tới đạo tràng, ngồi dưới cội Phật thọ hàng phục ma oán thành đạo vô thượng, Bồ tát trước phải thể nhập tâm định nhẫn tuệ này, sau đó mới nhập Sư tử phấn tấn độc bộ tam muội, phóng ánh sáng lửa lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên cõi nước. Người thấy ánh sáng này đều thông đạt nhẫn tuệ, tâm thức liền nhu hòa không cương bạo, luôn dùng tâm từ mẫn nhiếp trì thân, khẩu, ý; ngôn giáo thanh tịnh trọn không tổn giảm, hiểu rõ pháp vô vi, tôn kính Phật đạo, tâm chí trụ trong chánh định không loạn tưởng, đối với người khác luôn khiêm hạ không kiêu mạn, đạo quả công đức mỗi ngày thêm lớn, triền kết oán ác, vĩnh viễn không còn mầm rễ. Đến tận các cõi Phật phương khác, chúng sanh đều cảm ứng biết được ánh sáng oai thần của Bồ tát giáo hóa chúng sanh, không ai không được độ. Bồ tát quán sát ánh sáng ấy hoàn toàn vô sở hữu, phân biệt tướng mạo cũng không phải chơn thật. Bồ tát lại phải phân biệt tướng trạng khởi lên của sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức. Quán thông đạt tướng của năm ấm như thế nào? Thấy có ánh sáng thì gọi là sắc, có hình chất cũng gọi là sắc, nhận lãnh giao phó cho nhau cũng là sắc, hộ trì tự thân cũng là sắc, nếu cho người khác cũng là sắc. Sau đó Bồ tát phải liễu tri sự khởi diệt của thống (thọ), do duyên gì mà có thống (thọ) đó? Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ, Bồ tát luôn nghĩ nhớ phân biệt mà không khổ lạc, huống chi đang nhập định mà có thọ thì điều đó là không thể có. Thấy rõ nó chính là tướng của thọ, những pháp nhớ kỹ đã qua thì trôi nổi dong ruổi không ngừng, niệm khởi lên tìm kiếm nhớ lại những pháp của quá khứ, hiện tại hay tương lai, nam hay nữ và vô số hạn lượng các pháp khác gọi là tư tưởng. Bồ tát biết rõ tưởng đó không đến, không đi cũng không có nơi chốn, hư ảo không thật cũng không có danh hiệu cho nên gọi là tư tưởng. Như khi thấy làm việc thiện ác, hữu ký hay vô ký, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, có chỗ tạo tác không bị chướng ngại, khi đó Bồ tát thấy việc làm thiện chẳng phải là không thiện, thấy việc làm ác chẳng phải là không ác. Lại nữa, có khi cũng không làm thiện, cũng không làm ác. Này Tối Thắng, đó gọi là hành. Bồ tát lại phải quán thấy rõ nguyên nhân nào mà có thức. Thức chẳng phải là một tướng. Các pháp mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng gọi là thức. Pháp sắc, thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc) cũng gọi là thức. Thông đạt pháp hưng suy của xúc cũng gọi là thức. Ở trong tư tưởng cũng gọi là thức, rời khỏi tư tưởng cũng gọi là thức. Có thiện, có ác cũng gọi là thức; không thiện, không ác cũng gọi là thức; chẳng phải có thiện, chẳng phải không thiện cũng gọi là thức. Bồ tát biết rõ thức từ đâu sanh và từ đâu diệt, biết rõ nó là vô sanh cũng không có khởi diệt. Thông đạt pháp này chính là thức.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát đồng chơn xả bỏ thân đã thọ, ngay lúc đó thân căn ý thức của Bồ tát không loạn, không thọ thân trung ấm mà chịu khổ nạn. Chúng sanh khi chết thần thức trụ trong thân trung ấm, theo gốc tội phước nặng nhẹ mà chịu nạn. Bậc Bồ tát Đại sĩ trong khoảnh khắc phát tâm, theo hướng đã phát nguyện liền đến thọ hình mà không chịu khổ nạn. Tối Thắng nên biết, bậc đồng chơn Bồ tát luôn cùng với bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ tát là bạn hữu, theo hầu dạo xem cõi Phật thanh tịnh, chọn lựa cõi Phật cực diệu tối thượng, phát tâm dõng mãnh ưa thích bố thí, làm Phật sự. Bậc đệ bát Bồ tát đắc được tự tại, theo nhân duyên đó giáo hóa tất cả các nơi, tuyên nói các pháp không cùng tận, luôn khéo léo giảng dạy làm vui chúng sanh.
Khi đó các Bồ tát trong chúng hội, mỗi vị đều tự nghĩ: “Hôm nay Đức Như lai tuyên giảng tuệ nghiệp, khen ngợi hạnh đồng chơn, quả báo công đức không gì sánh bằng. Nay quán chỗ tu tập của Bồ tát Tối Thắng với nghiệp đồng chơn cũng không trái nghịch. Nếu ngài Tối Thắng thành đạo Tối Chánh Giác vô thượng thì khi đắc Phật đạo sẽ có danh hiệu gì? Cõi Phật của ngài công đức trang nghiêm thanh tịnh như thế nào? Chúng Bồ tát thành tựu ra sao? Tôn kính tu tập pháp luật có sai biệt không?”. Bấy giờ Thế Tôn biết tâm niệm của chúng Bồ tát trong hội, ngay lúc đó liền ở trên tòa ngồi mỉm cười. Từ miệng Phật phát ra vô số ức trăm ngàn ánh sáng chiếu khắp mười phương vô hạn thế giới, che mờ ánh sáng của mặt trời mặt trăng, làm ẩn khuất cung điện của ma. Ánh sáng đó trở lại nhiễu quanh Phật vô số vòng rồi nhập vào đỉnh đầu của Phật. Lúc ấy các Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y bày vai phải, chắp tay lễ Phật hỏi về ý nghĩa Phật mỉm cười. Đức Phật không cười mà không có lý do, tất cả đều mong muốn nghe lời dạy của Phật. Bấy giờ Thế Tôn bảo chúng hội:
– Các vị có thấy vị Bồ tát Tối Thắng này không?
Các Bồ tát thưa:
– Vâng! Chúng con đã thấy.
Đức Phật bảo các Bồ tát trong pháp hội:
– Trong Hiền kiếp này, sau khi một trăm Đức Phật nhập diệt sẽ có Đức Phật hiện ở đời hiệu là Sư Tử Oai. Đức Như Lai ấy xuất hiện ở đời là Bậc Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước tên là Như Kim Vô Dị. Lúc ấy quang cảnh của cõi Phật đó vô cùng thần diệu, ngũ cốc tự nhiên mọc đầy, không phải mua bán. Nhân dân sung túc, thành quách nghiêm trang tề chỉnh, đều làm bằng bảy món báu là vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và ngọc ma ni. Cõi Phật đó bằng phẳng, có tám đường giao nhau đều do các báu làm thành. Đất mềm mại như y mịn cõi trời. Gióng như cõi trời Đâu Thuật, y phục, thức ăn uống, cung điện, nhà cửa, vườn hoa, ao tắm, đường sá, lầu gác đều cao ngất vi diệu thù thắng. Cõi nước của Đức Phật ấy có oai thần công đức như thế. Chư Thiên tự nhiên hiện ra đờn ca khảy nhạc réo rắt, dựng lên một tràng phan tên là Hương vũ bảo diệu hoa, che khắp đại chúng, bảo hộ Chánh pháp không thiếu mất, hướng dẫn làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Nay vị Bồ tát Tối Thắng này từ cõi này diệt độ sẽ sanh vào thế giới Cực Lạc của Đức Phật Vô Nộ. Khi Bồ tát Tối Thắng sanh vào thế giới đó, Đức Phật Vô Nộ vì các Bồ tát tuyên nói tám ngàn bốn trăm pháp môn vi diệu đặc thù, xiển dương đạo giáo quy về một cú nghĩa, xoay vần luân chuyển không dứt đoạn Tam bảo, khiến cho tất cả chúng sanh an lập tâm bất thoái chuyển.
Khi Đức Phật nói xong, các vị trong pháp hội đều khen ngợi:
– Lành thay! Lành thay! Bồ tát Tối Thắng thành Phật sao nhanh như vậy? Nguyện ở đời tương lai, chúng con được sanh vào cõi Phật đó được gặp Đức Sư Tử Như Lai xuất hiện ở đời, được nghe dạy đạo giáo tu tập hạnh đồng chơn như ngài Tối Thắng.
Bấy giờ các Bồ tát trong hội tự lặp lại, nói:
– Nguyện cho tất cả chúng sanh đều đạt được pháp Tuệ nhẫn trí giống như chúng con hiện nay nghe pháp này không có tâm sợ hãi, không có tâm do dự.
Lúc đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát tu hành tích tập đầy đủ các đức, hiển bày vô lượng ngôn giáo thù thắng, đúng thời thị hiện, không pháp nào không thể nhập. Hoặc hiện làm thân phàm tục người già cô đơn, hoặc làm thân trẻ em. Lại dùng quyền biến đi vào bốn đạo cùng bậc đã chứng Tu đà hoàn kết bạn, nói pháp thượng thừa khiến vị ấy không giải đãi. Lại dùng phương tiện đến chỗ các vị Tư đà hàm khuyến tấn khiến họ đoạn trừ năm thứ nạn tai, có thể đắc đạo mà không phải trải qua bảy lần sanh trở lại. Hoặc ở cõi trời giảng pháp cam lộ cho các vị công hạnh thuần thục không trở lại thế gian. Hoặc ở cùng hội với các bậc chơn nhân vô cấu, vì các vị ấy giảng sáu mươi tám pháp khổ của thân, khiến họ tự thấy hạnh tu đó là nhỏ hẹp chẳng phải đạo vô thượng, tự mất trí tuệ sáng, làm tổn hoại kinh pháp. Hoặc thị hiện chứng đạo Bích chi Phật, hiển bày mười tám pháp thần biến, lặng lẽ chỉ dạy khiến họ được giải thoát; trong tâm dùng quyền tuệ hợp với tâm người; tùy duyên cho thuốc khiến các vị ấy không có tâm tăng giảm. Hoặc cùng với chúng tân học mới phát đạo tâm, tu tập định hanh tịnh, làm cho chúng sanh đều thấy sắc thân và có thể khiến ba ngàn đại thiên cõi Phật ở trong lòng bàn tay, chúng sanh trong đó cùng nhau cúng dường, qua lại mà không có tâm tăng giảm.
Bấy giờ có vị Bồ tát tên Cứu Sướng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, tam muội chánh định ấy có tên là gì mà có thể khiến ba ngàn đại thiên cõi nước, cảnh giới mười phương đều ở trong lòng bàn tay, chúng sanh ở trong đó khởi tâm cung kính cúng dường mà không có tâm tăng giảm?
Đức Phật bảo Bồ tát Cứu Sướng:
– Tên của tam muội chánh định đó là Thanh tịnh. Tất cả chúng sanh đều thấy sắc thân hiển hiện biến hóa không có gì không dung nạp, nhưng quốc độ cảnh giới vẫn như cũ không khác cũng không tăng giảm. Giả sử ba ngàn đại thiên cõi nước và hằng hà sa vô lượng cõi Phật đều ở trong lòng bàn tay, chúng sanh trong đó cùng nhau thờ phụng, bố thí, làm việc phước; nằm, ngồi, kinh hành tùy theo ý muốn mà mỗi người đều không biết nhau, chỗ thân mình đang trụ có bị dời đổi hay không. Cứu Sướng nên biết, đó đều là sức oai thần do công đức bố thí của Bồ tát đồng chơn tạo ra. Chúng sanh ở ngay chỗ hiện hóa cũng không thấy thân, ngay cả chúng sanh đang ở trong đó cũng khiến họ không có tâm tăng giảm.
Lúc đó các chúng ngồi trong pháp hội: trời, rồng, quỷ, thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chơn đà la, Ma hưu lặc, nhân và phi nhân, mỗi chúng đều tự khởi ý nghĩ muốn Bồ tát Tối Thắng thị hiện sức oai thần của tâm định ý thanh tịnh. Đức Thế Tôn biết tâm chúng hội đều mong muốn như vậy, liền bảo Bồ tát Tối Thắng:
– Này Tối Thắng, ông nay nên vì tất cả chúng sanh và các vị trong chúng hội hiển bày tam muội thanh tịnh định ý để các vị ấy có thêm tín tâm.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng tuân theo lời dạy, nương sức oai thần của Đức Phật, liền ở trên tòa nhập chánh định tam muội khiến mười phương vô số cõi nước, trời, rồng, nhân dân, các quỷ thần vương cùng quyến thuộc của chư Thiên, Bồ tát hữu hình trong hội đều hiện trong lòng bàn tay; hiển bày các vị ở trong đó có vị thiền định, có vị kinh hãi, có vị khởi công đức làm Phật sự. Các việc hiện ra đều đặc thù, vi diệu khó gì có thể sánh bằng, không gì có thể ví dụ so sánh. Hiện thần túc xong, tất cả các vị trong pháp hội ở mười phương tới đều trở về chỗ cũ như trước không khác. Bồ tát Tối Thắng cũng vẫn ngồi trên tòa, y phục trang nghiêm tề chỉnh, không mất oai nghi.
Khi ấy Bồ tát Cứu Sướng nói với ngài Tối Thắng:
– Sức oai thần tam muội của Bồ tát hiển bày có công đức siêu việt vô hạn lượng, hiển thị sức cảm ứng oai thần thật không có gì sánh bằng mới có thể dung nạp mười phương thế giới ở trong lòng bàn tay phải mà các thế giới không tăng, không giảm. Chúng tôi phải nỗ lực gia công lập đức, tinh tấn tu tập pháp Định ý thanh tịnh để đạt được hạnh đồng chơn của Bồ tát.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bảo ngài Cứu Sướng:
– Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói. Nếu có kẻ tân học phát tâm mong muốn tu tập pháp đồng chơn thì phải nghĩ nhớ nỗ lực gia công thanh tựu đạo quả, giữ tâm không thoái chuyển. Bồ tát tinh cần có hai mươi pháp cần phải thực hành, giữ gìn, ủng hộ không tăng giảm. Hai mươi pháp không khuyết lậu đó là gì?
Khi Bồ tát tu hạnh đồng chơn phát thệ nguyện lớn, tâm không bị phiền não ngăn che suy tư muốn nhổ tận nạn nguy hiểm. Đó là sự tinh cần không thoái chuyển.
Lại nữa, Bồ tát tập hợp đồ chúng dạy bảo đạo giáo, pháp vô hình tướng, luôn giảng về không vô, hư tịch. Đó là hạnh đồng chơn không thoái chuyển.
Lại nữa, Bồ tát quảng bố công đức khiến cho kẻ hạ liệt thoát khỏi trói buộc, trước trừ bỏ không nghĩ nhớ tham, sau mới dạy pháp Ba la mật vô cực.
Lại nữa, Bồ tát thấy chúng sanh đang có nạn khốn liền tự thân đến giáo hóa, an ủi người đó khiến vị ấy không còn đau khổ, luôn niệm tâm dưỡng dục không thay đổi.
Lại nữa, Bồ tát tu khổ hạnh trải qua vô số nạn, cầu bậc minh sư tham vấn thọ học giới luật, cung kính tu tập Chánh pháp, luôn nhớ nghĩ thọ trì sáu pháp căn bản vô.
Lại nữa, Bồ tát cầu đạo vô thượng, tâm không buộc ràng với vinh hoa thế tục mà bị nhiễm ô. Tâm luôn tinh cần tu tập các tuệ thần thông, tu tập Chỉ Quán, trừ sự ràng buộc của tâm ái dục.
Lại nữa, Bồ tát tùy thời thích hợp, quán xét rõ phương tiện quyền biến vô giác tri, trước dạy bảo cho kẻ có tâm si khiến họ thông đạt, sau mới dạy họ về pháp phương tiện.
Lại nữa, Bồ tát phát tâm thệ nguyện có được tướng tốt trang nghiêm thân mình, tự thanh tịnh vùng đất mình ở bằng sắc hoàng kim. Các quyến thuộc thân gần cũng đồng một tướng.
Lại nữa, Bồ tát phát thệ nguyện rộng lớn độ chúng sanh, không có tâm khiếp nhược, e dè hay bị chướng ngại. Tuy ở trong sanh tử mà không màng sướng khổ, lập chí kiên cố hàng phục ngoại đạo.
Lại nữa, Bồ tát tạo lập vô số nghiệp công đức phước báo, luôn nhớ nghĩ chúng sanh, không tự nghĩ vì bản thân mà có tâm ràng buộc. Tư duy, dùng tuệ quán sát hiểu rõ Tứ đế.
Lại nữa, Bồ tát mặc áo giáp thệ nguyện đó từ vô số kiếp cầu đạo vô thượng, trọn không sanh ý nghĩ: “Ta tu tập chơn thật, người kia tu hạnh đó thì có tổn hao”.
Lại nữa, Bồ tát có tâm bao dung kẻ phàm phu, vì người đến quy y nói pháp vi diệu, chỉ bày đường thẳng tắt để họ biết hướng tu tập, noi theo pháp tiền nhân liền nhận được pháp cam lộ.
Lại nữa, Bồ tát quán sát việc thế gian, với pháp vua chế định không sanh tâm phản đối, thiện thì tuân theo, ác thì lánh xa, không có tâm cống cao hủy báng phong tục.
Lại nữa, Bồ tát phải nhập chúng học tập như chúng Phạm chí, chúng Trưởng lão, quán sát lễ nghi những gì đáng thực hành thì phải biết cách thực hành, đáng ngồi thì biết cách ngồi, đáng nằm thì biết cách nằm, giữ oai nghi thích hợp không sai sót. Đó gọi là Bồ tát đồng chơn biết nhập chúng.
Lại nữa, Bồ tát luôn phải tu học pháp nhẫn vô thượng, không có tuệ sanh diệt mà đầy đủ tất cả Phật pháp, du hóa mười phương vô lượng cõi Phật, mong đạt được tất cả các pháp Tổng trì, các loại trí tuệ, quán sát trí tuệ không cùng tận, luôn nhớ nghĩ tu tập hạnh đồng chơn.
Lại nữa, Bồ tát giữ chánh bình loạn, không theo hệ phái tà quấy, có đủ các pháp thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ phương tiện, ba mươi bảy phẩm pháp, không, vô tướng, vô nguyện. Tâm không giải đãi cũng không nhàm chán, trọn không quên tâm đại thệ. Đó gọi là tâm đồng chơn kiên cố.
Lại nữa, Bồ tát tập hợp các công đức lành đã tạo tự buộc thân tu tập các tướng hảo để tự trang nghiêm, tiêu trừ kiêu mạn, vô minh, tà kiến. Bồ tát đồng chơn toàn thân thanh tịnh không nhiễm ô, không thấy cảnh giới có tịnh hay không tịnh. Như vậy mới là viên mãn công đức tướng hảo, vô lượng phước nghiệp đều đầy đủ. Bồ tát cũng không giải đãi, có tâm thoái chuyển. Vì sao? Vì vị Bồ tát đồng chơn phát thệ nguyện hoằng hóa không bỏ bổn nguyện, quảng bá tuệ nghiệp tinh tấn không mệt mỏi. Đó gọi là Bồ tát tu hạnh đồng chơn.
Lại nữa, Bồ tát phân biệt pháp ảo hóa dối gạt, quán rõ chúng là hư tịch vĩnh viễn không sở hữu, cũng không có hình chất để có thể thấy được. Bồ tát trưởng dưỡng tâm tinh tấn chuyên tu bổn nghiệp với mười sáu phần pháp mà không thủ xả. Bồ tát tu tập tâm bi, luôn tự suy tư: “Mong rằng ta sanh đến bất cứ nơi nào đều luôn tự suy nghĩ xuất gia, không nương tựa nơi nhà thế tục”. Khi đó người đời tự khởi tưởng thức, tâm ý nhiễm trước, khởi lửa dữ thiêu đốt gốc thiện, đọa vào năm đường, đều là do tham dục vô minh ràng buộc. Nếu có Bồ tát phân biệt năm dục, biết chúng đều không chơn thật, nỗ lực tư duy vĩnh viễn không cùng chúng trụ. Giả sử Bồ tát nghe ở rừng núi mênh mông nơi phương khác có người tu khổ hạnh, muốn đoạn trừ dục liền tìm phương tiện khuyến khích hướng dẫn chúng sanh đến nơi đó. Gặp được người tu khổ hạnh đoạn dục, tâm ý thanh lương không có phiền não nóng bức, các chúng sanh đó đều phát đạo tâm, trừ bỏ năm dục dần dần theo đạo, dạo các cõi Phật lễ bái, tôn thờ, cúng dường chư Phật Thế Tôn. Bồ tát lại hướng dẫn họ thể nhập nghĩa lý sâu xa của pháp thâm diệu. Sau đó họ mới có đầy đủ công đức bố thí, giới, nhẫn, ân và chí ý tinh tấn kiên định, nhất tâm nhập định, niệm không dong ruổi, quyết tu trí nghiệp vô hạn lượng.
Thưa ngài Cứu Sướng, đó gọi là đạo tu hành của Bồ tát đồng chơn, rộng làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nếu có Bồ tát mới phát tâm tu học phúng tụng giảng luận hai mươi hạnh nghiệp này, sau đó mới có thể phát tâm tu tập đạo tích đồng chơn.
Khi Bồ tát Tối Thắng giảng nói pháp này, một vạn bảy ngàn người đều phát tâm rộng lớn mong muốn tu hai mươi hạnh nghiệp đồng chơn, mười ngàn trời người đều được pháp nhẫn vô sở tùng sanh, lại có vô số loài chúng sanh tăng thêm công đức, tâm không thoái chuyển. Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Bậc Khai sĩ, ông đã làm cho nhiều chúng sanh được lợi ích, nhiều chúng sanh được độ thoát. Nếu có Bồ tát phát tâm hoằng thệ đó thì phải tập hợp các công đức đã tạo, không giải đãi, nỗ lực thực hành khuyến trợ người khác tu pháp thí, muốn dùng đó khai hóa các loài chúng sanh, cùng nhau vượt đến bờ giải thoát Nê hoàn giới, vĩnh viễn không còn qua lại. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp tu đồng chơn, công đức không thể lường. Nếu có Bồ tát phát tâm muốn học thì thường phải tu tập hai mươi pháp hạnh, mới có thể dần dần thể nhập kho Pháp bảo thâm diệu. Này Tối Thắng, phải tu học như vậy. Người học như thế thì ứng hợp với đạo của bậc đệ bát Bồ tát.
***
Phẩm 9: ĐỊNH Ý
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Thế nào gọi là bậc Thường tịnh Bồ tát ở địa thứ chín thanh tịnh địa của mình?
Khi ấy Đức Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc cửu trị Bồ tát tu tập Nhất tâm giải môn định ý, chánh định tam muội không tổn giảm mảy may, ở chỗ tịnh hay không tịnh luôn nhất tâm. Tuy ở chốn trần lao đầy sân hận, Bồ tát không khởi loạn tưởng, sanh vô số niệm, quán biết tâm ý thức chấp trước của chúng sanh bị duyên khổ đau phiền não trói buộc, do nhân báo ứng mà bị họa đó, lại cầu pháp quyền phương tiện hư dối, phải cầu phương tiện thiện xảo nào để được vĩnh viễn diệt độ mà được độ thoát. Bấy giờ bậc đệ cửu Bồ tát Đại sĩ phải tư duy về tưởng chấp trước đó đều do tưởng không thuận Chánh pháp; từ Vô minh, Hành nên có duyên báo ứng đó, chỉ có nhất tâm khởi phát đạo niệm, niệm Phật, pháp, các giới, thí, thiên, niệm An ban, nhiếp trì thân và niệm tử vong, thủ hộ tất cả khiến không còn phiền loạn, tinh tấn tu tập như cứu lửa thiêu thì công đức đạt được sung mãn tất cả. Nội tâm chí nguyện đều hướng về đạo quả, tu tập tuệ thông không pháp nào bỏ sót, luôn nhớ nghĩ tư duy thương xót tất cả chúng sanh: “Do duyên gì mà chúng sanh có họa hoạn trần lao?”. Bồ tát theo lý tự quán sát tìm hiểu nguồn gốc nguyên nhân, thấy đều do Vô minh mà có quả báo đó, do quả báo của Hành phát sanh thì có thần thức. Thức đã có nơi nương náu thì gọi là Danh sắc. Danh sắc đã sanh đầy đủ thành lục nhập, do nhân nội ngoại tướng nên khởi cánh lạc (Xúc). Tâm đã nhiễm trước nên lại chuyển sanh Thống (Thọ), hiểu rõ khổ vui mới sanh Ái dục; căn Ái dục đã sanh thì cùng nhau thọ nhập (chấp thủ) sanh, lão, bệnh, tử, sầu ưu, khổ não; dần dần làm lớn thêm báo ứng của dục ái. Bậc đệ cửu Bồ tát quán báo ứng đó, suy tư sâu sắc về sự ràng buộc của trần lao là hư ảo, chẳng phải chơn thật mà chúng sanh lại chấp chân lý không có thật, tự quán nhân duyên báo ứng. Bồ tát lại biết chúng sanh phân biệt quả đó thật đều không có xứ sở, ứng với điều không ứng, báo với điều không báo. Bồ tát lại dùng pháp chơn quán thanh tịnh khiến chúng sanh đã được thanh tịnh. Bồ tát luôn suy tư khuyến khích họ nỗ lực tinh cần tu định ý, trước phương tiện quán một cõi Phật có bao nhiêu chúng sanh lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô lượng trang nghiêm; có bao nhiêu chúng sanh nhập thiền định tịch tĩnh, dùng phương tiện thần túc biến hóa hiện khắp nơi; lại có bao nhiêu chúng sanh đảm đương trọng trách vì người mà nhổ tận gốc khổ để họ không còn phiền não. Có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ tam kết sử thành tựu đẩy đủ đạo tích; có bao nhiêu chúng sanh đã làm suy yếu tam cấu, luôn được đến với đạo, vĩnh viễn không còn khổ; bao nhiêu chúng sanh không còn nạn do năm hạ phần kết sử trói buộc, không còn trở lại thế giới này; có bao nhiêu chúng sanh đoạn trừ năm thượng phần kết sử, đến được giải thoát tự an vui. Bồ tát lại dùng ngũ nhãn thông quán sát các nơi u tịch mà giáo pháp chưa truyền đến, nơi đó đang có các bậc Duyên giác ở trong núi rừng, tùy thời xuất hiện nhân gian giáo hóa. Bồ tát lại tư duy nơi đó có thể thân cận hay không thể thân cận. Như thế nào lại nói vị Tộc tánh tử nhất tâm quán sát các loại chúng sanh trong một cảnh giới Phật lập nguyện kiên cố tạo nghiệp công đức, tinh tấn tu tập đạo thọ vô thượng trang nghiêm? Khi vị Tộc tánh tử Bồ tát trụ ở địa thứ chín nếu thấy chúng sanh có tâm kiên cố liền tạo lập phương tiện quyền xảo làm thiện tri thức, tùy thời giáo huấn làm cho họ thêm tinh tấn, ủng hộ họ thành tựu ý chí kiên cố không bị lui sụt tan hoại, khai thị khuyến tấn khiến họ hiểu được pháp sâu xa, không tư lự viển vông đến gần trong nạn nguy hiểm. Giả sử ngay lúc đó, phía trước có lửa lớn cháy hừng hực thiêu đốt một cõi Phật sáng rực, chúng sanh từ trong đó theo đường (của Bồ tát) đến thế giới khác, nghe có Đức Phật giảng dạy đạo pháp, pháp không sanh, không diệt, không già chết liền có thể tinh tấn như trước. Với những ai mất thân tự quy thì an ổn đến với thân khác không bị thiêu đốt, không còn nhiệt não, được tự thân chiêm bái Đức Phật kia, lễ bái phụng thờ cúng dường, tích tập pháp công đức thù thắng vi diệu liền được thành tựu cũng không thoái chuyển. Giả sử nếu gặp biển rộng nước sâu, khắp cõi Phật trên, dưới, chung quanh đều như thế không khác, chúng sanh kia ở trong đó lập thệ nguyện có thể tự nương tựa, không khiếp sợ nạn tai vẫn làm việc công đức, chí nguyện kiên cố không lay chuyển. Đó gọi là bậc Bồ tát ở cửu trụ địa tâm đại từ mẫn, không từ bỏ mà nhiếp hộ tất cả chúng sanh. Như thế nào lại nói bậc Bồ tát ở cửu địa quán chúng sanh nhập định tịch tĩnh, thần túc ứng hóa khắp nơi? Lúc đó nếu Bồ tát thấy chúng sanh ở tận trong núi sâu, nơi không có người, nhiệt tâm tư duy nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Khi ấy Bồ tát lại thấy chúng sanh đó từ tứ thiền xuất, nhập tam thiền, nhị thiền, sơ thiền. Bồ tát lại quán thấy có chúng sanh chỉ nhập sơ thiền, không nhập nhị, tam, tứ thiền; hoặc có người nhập nhị thiền, không nhập sơ, tam, tứ thiền; hoặc có người nhập tam thiền, không nhập sơ, nhị, tứ thiền; hoặc có người nhập tứ thiền, không nhập sơ, nhị, tam thiền. Bấy giờ Bồ tát cũng thấy có chúng sanh nhập Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ. Hoặc Bồ tát quán thấy chúng sanh chỉ nhập Không xứ, không nhập Thức xứ, Bất dụng xứ; hoặc có vị chỉ nhập Thức xứ, không nhập Không xứ và Bát dụng xứ; hoặc có vị chỉ nhập Bất dụng xứ, không nhập Không xứ và Thức xứ. Hoặc có vị chỉ trụ tâm trong đệ tứ thiền, không trụ tâm trong tam thiền và cấp thiền định trên dưới của tam thiền. Bậc Bồ tát trụ đệ cửu địa liền đi đến cùng người ấy kết làm bạn lành, khiến họ thành tựu công đức, không để họ sanh tâm mỏi mệt nhàm chán. Có thể làm cho chúng sanh đều chắc chắn thành tựu tâm kiên cố mới đáng được gọi là bậc cửu trụ địa. Thế nào gọi là bậc Bồ tát trụ đệ cửu địa đảm đương trọng trách, vì người mà nhận lãnh nhiệm vụ trọng yếu, luôn thay họ nhổ tận gốc khổ, làm cho họ không còn phiền não? Lúc đó Bồ tát dùng quyền phương tiện liền trụ trong năm đường, tùy thời cung cấp các vật dụng thích hợp như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Nếu có chúng sanh ở trong tám nạn, ba đường ác, Bồ tát liền đến đó độ khiến cho người đó không còn khổ não. Hoặc có chúng sanh ở trong chốn địa ngục, ngạ quỷ, Bồ tát liền ban ân rộng lớn khiến mỗi chúng sanh đều được no đủ. Đó gọi là bậc đệ cửu địa Bồ tát vì chúng sanh mà đảm đương trọng trách. Thế nào gọi là Bồ tát khuyến dụ chúng sanh đoạn trừ tam kết, khiến cho thành tựu đạo tích, dần dần được chứng quả, vĩnh viễn không còn khổ đau? Lúc đó Bồ tát dùng phương tiện quyền xảo hiện vô số biến hóa, giảng dạy pháp Thanh văn, Duyên giác; giảng về sự hỷ lạc của Niết bàn vắng lặng vô vi, hoặc giảng về pháp vô sanh, vô diệt, hư vô của Bồ tát Đại sĩ. Sau khi đã biết rõ tâm niệm của chúng sanh đó, Bồ tát trước tiên luận về pháp yếu Đại thừa Phương đẳng như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, đại từ, đại bi, tứ thiền, tứ đẳng, căn, lực, giác ý, bát Hiền Thánh đạo và Tam ma địa. Chúng sanh đó nghe xong tâm ý kinh sợ, lông toàn thân đều dựng đứng. Bồ tát tùy theo tâm ý họ khuyến tấn khiến họ thành tựu đạo quả. Có khi Bồ tát quán sát chúng sanh từ xưa đã phát tâm Bồ tát nhưng lại tự nghĩ mệt mỏi, nhàm chán vì không thể đạt được, liền muốn thoái tâm trở về đạo Thanh văn. Khi đó Bồ tát đến chỗ người đó nói: “Ngài tích chứa công đức từ xưa đến nay đã tu tập rất nhiều, các tướng tốt rạng ngời đang trang nghiêm thân, rộng độ chúng sanh tu tập Phật độ, vì sao lại thoái lui trở về đường nhỏ?”. Người đó nghe xong vô cùng hối hận, tự trách: “Hỡi ôi! Ta sao lại như thế này? Thật là đáng xấu hổ mới để cho bậc Bồ tát đạo nhãn thần thông thấy oán trách! Ta nay tự mình phải dõng mãnh tích công lập chí, giữ gìn tâm hoằng thệ vì tất cả chúng sanh, không bỏ nguyện xưa”. Khi Bồ tát đó khởi tâm niệm này, trời đất chấn động sáu cách, làm rung động cung điện của ma khiến ma vương không còn an ổn trên chỗ ngồi của mình. Lúc đó tệ ma tự nghĩ: “Trời đất chấn động sáu cách, là ai thị hiện ra điềm tốt như vậy? Chẳng phải Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời. Nếu không phải như thế thì chắc là bậc Vô dục đắc A la hán mới khiến có điềm tốt đến như vậy. Nếu như không phải thế thì phải là Bồ tát phát tâm kiên cố lập nguyện Đại thừa, muốn cầu thành Phật một mình dạo đi trong ba cõi thương xót sự nguy khốn của chúng sanh. Nếu không phải thế thì chắc là một trăm hai mươi tám tội vương, con vua nước Cách sanh vào trong địa ngục dùng lý giáo hóa, tâm không tăng giảm. Đây có thể là sự cảm ứng của sức thần biến đó. Nếu không phải thế, ta có vạn đứa con đều dõng mãnh kiên cường, tài năng phi thường luôn ở cạnh ta thống trị sáu cõi trời. Đứa con nhỏ nhất của ta tên Ác Tử, bản tánh hung bạo, làm việc không nhân từ. Ta sẽ sai hắn đến xem thử để biết việc gì ở địa ngục, biết rõ thiện ác, phân biệt hiền ngu. Hắn cũng có sức thần túc cảm động đất trời. Nay phong cho hắn tên Trị Tội để trị Pháp vương, trị vì tội không biết cao thấp, lập tức dẹp đi điềm cảm ứng thần biến”. Ma lại suy nghĩ: “Ta có kẻ hầu cận tên A Bàng cũng có thể biến hiện oai đức vô lượng. Đúng ngày hắn sanh, đất trời chấn động lớn; nếu hắn mạng chung, đất cũng chấn động lớn. Hắn có thể lập tức biến hiện các việc vô cùng quái dị”. Ma vương suy nghĩ miên man như thế xong liền dùng thiên nhãn quán sát ba ngàn đại thiên thế giới, bèn thấy bậc tu hành đoạn dục đắc đạo quả Tu đà hoàn nay mới phát tâm Đại thừa. Ma suy nghĩ: “Đúng là người này muốn làm trống rỗng cảnh giới của ta. Phải tìm cách để làm tiêu hoại thiện tâm của hắn”. Khi ấy tệ ma tự thân cùng binh tướng ma đến chỗ của vị thiện nam tử. Thấy bậc Bồ tát trụ cửa địa thân tâm luôn an tịnh, tâm ma vương kinh hoàng, lông toàn thân dựng đứng liền tự rút lui, không còn dám tiến tới. Đó gọi là sức cảm ứng từ thần đức thường tịnh của Bồ tát ngộ được đạo tích tịch tĩnh thành tựu đạo vô thượng, lập thệ nguyện trọn không rời bỏ.
Vì sao nói bậc cửu trụ địa Bồ tát quán chúng sanh loại biết được tam kết suy yếu, đắc Tư đà hàm, không còn dục, nộ, si, vĩnh viễn không còn khổ? Khi đó Bồ tát quán chúng sanh kia từ xưa đến nay tích chứa công đức, có người căn tánh thông lợi, có kẻ căn tánh chậm lụt. Bồ tát cũng thấy tâm chúng sanh thuần thục, hướng về việc thành tựu đạo quả, ý không thoái chuyển quyết đạt đạo lớn. Khi ấy người có căn tánh thuần thục thì khuyên bảo họ tinh tấn tu tập đạt đầy đủ các gốc công đức, thành tựu đạo quả. Bồ tát hướng dẫn để tâm họ không giải đãi, suy tầm để có thể thành tựu tứ quả, hoặc vượt lên trên chứng đắc quả thứ tư, không lưu trệ nơi quả A na hàm. Tất cả đều là công đức thường tịnh của địa thứ chín, chưa từng trái nghịch, xả bỏ tâm hoằng thệ. Đó gọi là Bồ tát siêng năng tinh cần tu tập không thể xưng lường, không chấp báo ứng mười hai nhân duyên. Bồ tát trụ cửu địa tu tập thường tịnh nên đạt thanh tịnh, hoặc từ người khác nghe được pháp nhu thuận, tự thân phản tỉnh nhớ nghĩ theo pháp đó, nhất tâm chuyên cần chí hướng học tập, luôn ở nơi nhàn tĩnh, quán sát căn cơ của người trọn không sai lầm. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị Tư đà hàm.
Thế nào là Bồ tát giúp đỡ chúng sanh đoạn trừ họa năm kết sử trói buộc, sanh lên cõi trời, tinh tấn tu tập, diệt độ cũng không trở lại thế gian này? Lúc đó Bồ tát lên cung trời ấy giảng pháp vô sanh, không đoạn diệt, rồi ở trước các vị ấy nhập Diệt tận định thị hiện diệt độ. Các vị trời chứng quả A na hàm ở thế giới đó tâm đều khởi ý nghĩ khuyên nhau nỗ lực đạt đến cảnh giới Vô dư Niết bàn để bát Niết bàn. Bồ tát tuy hiện pháp thù thắng vi diệu nhưng tâm không biến đổi, có bao nhiêu tâm niệm đều tự biết; vô số việc trong các kiếp lâu xa, chỗ đã phát tâm ý thú ra sao đều liễu tri tất cả, không thấy có mất đi hay sanh trở lại, cũng không thấy có nơi dừng trụ, quán niệm không có chỗ sanh vốn không có xứ sở, tự đạt đến thanh tịnh vắng lặng vô vi. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A na hàm.
Thế nào là Bồ tát quán sát chúng sanh giáo dưỡng người học đạo đạt được tâm không chấp trước? Lúc đó Bồ tát trụ đệ cửu địa dùng thiên nhãn quán ba ngàn đại thiên thế giới, ai sắp tận trừ các lậu, ai được đạo quả. Quán như thế rồi, Bồ tát hoặc thấy có mười, có trăm, có ngàn, thậm chí đến vô số không thể tính đếm người đoạn trừ kết sử cùng lúc, cùng ngày, sắp thành tựu tâm vô cấu, đắc A la hán. Khi ấy Bồ tát dùng sức thần túc trong một ngày đi khắp ba ngàn đại thiên thế giới, dùng quyền phương tiện ủng hộ họ, khiến cho mỗi người theo chí hướng thích hợp mà đạt được tâm vô chấp, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, được giải thoát tịch tĩnh. Đó gọi là Bồ tát làm tăng trưởng lợi ích cho các vị A la hán.
Thế nào là Bồ tát khuyến trợ các vị tu tập Duyên giác thừa đạt được tâm vô chấp? Khi đó Bồ tát lại dùng thiên nhãn quán sát các thế giới, những nơi u tịch trong núi cao hay đất bằng, thấy có các vị độc cư tu tập định Chỉ tịch tĩnh một cách thiện xảo, tư duy về bốn mươi ba pháp định chỉ tâm. Bấy giờ Bồ tát cũng đến nơi ấy, cách chỗ đó không xa trải cỏ trên đất, ngồi kiết già để niệm trước mặt, cũng không có tà kiến, nội tâm tư duy muốn thị hiện phương tiện để giáo hóa, hoặc thị hiện sấm chớp âm thanh vang rền, hoặc hiện ra các cây cối cọ xát với nhau phát sanh ra ánh sáng của lửa sáng hơn ánh sáng lửa thường; hoặc hiện ra tiếng kêu của các loài cầm thú, chim phượng. Khi ấy Bồ tát ở trước các vị đó đột nhiên thân vọt lên hư không hiện mười tám loại biến hiện tự tại, thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân phát ra lửa nước mà không bị tổn hại. Các vị Duyên giác thấy sự biến hóa đặc biệt thù thắng đó, mỗi vị tự nghĩ: “Chúng ta phải cùng nhau tu tập để mau thành tựu Phật đạo có các tướng trang nghiêm thân. Chúng ta nên cùng khuyến trợ nhau tinh tấn tu tập không lười nhác”. Các vị ấy, mỗi người ở mỗi thời điểm khác nhau rời khỏi khu núi rừng kia đi vào xóm làng, đến từng nhà khất thực để tự nuôi sống. Khi ấy các vị đó hoặc nghe tiếng âm nhạc trống đờn, hoặc tiếng khóc than bi lụy, nội tâm xót xa thương cảm như bị lửa thiêu, đột nhiên tự ngộ trừ tận các lậu, tâm ý giải thoát nên có hiệu là Vô Trước Duyên giác. Việc làm của Bồ tát trụ ở cửu địa là như thế, trí tuệ thông đạt không cùng cực. Bậc Duyên giác tuy có công đức quang tướng cũng không bằng tướng công đức một sợi lông của Đức Như Lai. Các vị ấy hợp nhau tu tập tạo công đức khiến mỗi lỗ chân lông trên toàn thân đều có công đức thì cũng không bằng công đức tướng mi trắng giữa chặng mày của Đức Như Lai. Họ lại tu tập để được tướng đó thì cũng không bằng công đức đảnh tướng của Như Lai. Giả sử chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều trọn đức tin với Phật, với Pháp, với Tỳ kheo Tăng, giả sử tín tâm đó gấp trăm, ngàn, vạn lần hơn nữa cũng không bằng một phần trăm, ngàn, vạn lần đức tin của người có đức tin tôn thờ Pháp. Lại nữa, giả sử người có đức tin tôn thờ giáo pháp tập hợp công đức trí tuệ, nghe pháp, bố thí suốt ba ngàn cõi cũng không bằng gốc công đức đã tạo của bậc kiến đạo. Lại nữa, nếu mỗi vị kiến đạo đem công đức đó, cho đến vô cấu và trí tuệ của mình gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức trí tuệ của một vị Duyên giác. Giả sử trong ba ngàn đại thiên thế giới có vô số các vị phát tâm Bồ tát, trí tuệ tri thức của các vị đó gấp lên trăm, ngàn, vạn lần thì cũng không bằng công đức đã tạo của một vị A duy việt trí. Lại đem trí tuệ của các bậc Bồ tát A duy việt trí trong ba ngàn đại thiên thế giới trên gấp lên trăm, ngàn, vạn lần để so sánh thì cũng không bằng một phần trong trăm, ngàn, vạn phần công đức đã tạo của một vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ. Lại nữa, giả sử có vô số Bồ tát Nhất sanh bổ xứ trong ba ngàn đại thiên thế giới cũng không bằng công đức tuệ lực của một Đức Như Lai.
Này Tối Thắng, tâm trí quán chiếu sáng tỏ của bậc Bồ tát trụ ở cửu địa là như thế, thông tỏ tâm ý của chúng sanh ba đời, theo bệnh mà điều trị, tế độ cho tất cả. Ta nhớ lại khi Ta còn tu tập ở cửu địa đã độ thoát cho vô số người mê mờ. Từ khi mới phát tâm đến khi trụ ở địa thứ chín, trong khoảng thời gian ấy Ta đã độ một A tăng kỳ vị A la hán, trừ tâm cấu uế cho họ khiến vĩnh viễn không còn chút cấu uế. Từ Tu đà hoàn đến A na hàm cũng có một A tăng kỳ vị, tất cả đều thực hành Tứ đế, tu tập tưởng tri diệt. Lại khuyến khích chúng sanh phát tâm Bồ tát, mỗi vị đều lập ý chí kiên cố không thoái chuyển gồm một A tăng kỳ vị. Sau cùng, khi giáng thần xuống cõi Dục sanh vào cõi trời Đâu Thuật, Ta muốn đoạn trừ dây ái, năm mười chín tuổi suy tư về mối họa của dục ái thế gian. Lúc ấy Ta dùng sức lực dõng mãnh biện tài vô sở úy, bỏ sạch tất cả, thần thức an định tận trừ các lậu, pháp hư ngụy; dùng tâm vô lậu tu tập giải thoát, dùng gươm bén trí tuệ cắt đứt dục trần, chứng được thần thông, tôn thờ hạnh ấy, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, các việc nên đã làm nên không còn thọ thân sau, biết như thật pháp tu tập đại từ mẫn của Bồ tát, oai nghi lễ tiết không thiếu sót, trụ trong công đức tuệ kiên cố, tất cả ma và các ngoại đạo không thể xâm phạm hạnh nghiệp của Bồ tát. Ta vì các chúng sanh đang đầy dục lậu giảng pháp vô lậu, pháp vô sanh diệt, trừ các tưởng chấp trước không có hạn lượng. Tối Thắng nên biết, lúc ấy Ta tư duy nhập vô tận tuệ, quán pháp thọ sanh của chư Phật ở quá khứ, việc làm của các Ngài đều bình đẳng, không thiên lệch. Pháp mà chư Phật Thế Tôn đã tu tập đều bình đẳng; đạo pháp hay thế pháp, hữu số hay vô số, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, với các pháp đó đều bình đẳng. Vì vậy nên gọi là Đẳng Chánh Giác. Pháp bình đẳng là phải bình đẳng với người và mình. Pháp đó đồng với tự nhiên không thấy có khởi, có diệt; tự nghĩ các pháp đã tu tập chính là để thoát khỏi hữu lậu nên phải cấm chế, rộng tu pháp bình đẳng. Nếu tâm tà loạn không tinh cần chuyên chú thì phải niệm điều phục tâm không để dong ruổi, an định tâm rồi thì tất cả đều vô sở hữu, đều bình đẳng đồng như tự nhiên. Lại nữa, nếu tâm không tàm quý phải dùng phương tiện khiến khởi niệm sợ hãi. Lại nữa, nếu lúc đó thân, khẩu, ý làm điều ác, pháp bất thiện thì phải tư duy trừ bỏ, diệt tận không để nó tăng trưởng. Nếu tâm có niệm đố kỵ, ganh ghét, ngu si, đầy pháp hữu lậu thì phải tìm cầu phương tiện thiện xảo trừ bỏ để chúng vĩnh viễn không còn. Nếu khởi tâm niệm giết hại, trộm cướp, dâm dục, nói dối, uống rượu thì phải tư duy thẩm suy nguồn gốc bại hoại của chúng. Nếu ý khởi tham dục mê đắm danh vọng quyền quý, khinh thường người khác; có người thỉnh cầu pháp sâu kín thì sanh tâm sẻn pháp, khinh hủy cấm giới, không thuận theo pháp luật, dạy người tu tập nhập định tịch tĩnh mà không theo pháp thiền định, hoàn toàn không khởi tâm niệm Phật, Pháp, Tăng; tâm sanh cống cao kiêu mạn với pháp sư. Nếu có người như thế thì những người đó đều làm hại thánh đạo, không nên gần gũi tu tập pháp đó. Nếu sanh tâm mạn: một là tự đại, hai là thậm mạn, ba là mạn mạn, bốn là ngã mạn, năm là tà mạn, sáu là đẳng mạn, bảy là vô ngã đẳng mạn, thì phải giữ gìn tuệ ý khiến các tâm đó vĩnh viễn không thể khởi sanh, hiểu rõ chúng đều vô sở hữu, đều vô sở khởi, bình đẳng không phải hai cũng không phải nhiều. Các pháp đó đều tự nhiên, không có xứ sở. Đó gọi là bình đẳng chánh giác của Bồ tát. Nếu tâm khởi niệm loạn tưởng: một là tà kiến, hai là tà niệm, ba là tà ngữ, bốn là tà nghiệp, năm là tà trị, sáu là tà phương tiện, bảy là tà ý, tám là tà định thì luôn phải đình chỉ các tâm niệm đó để chúng không làm tổn hại. Lại nữa, khi tâm khởi sanh ý nghĩ ngang quấy: “Ta luôn được tôn kính” nên sanh tâm khinh thường người khác. Nếu hiện tại có tâm khinh thường người khác thì có thể tương lai sẽ bị khinh khi. “Ta luôn bị người ghét bỏ, nay họ cung kính hắn. Nay họ cung kính hắn hơn ta. Ta phải làm sao ở tương lai họ phải tôn kính ta”. Người ấy lại suy nghĩ: “Từ trước đến nay họ khinh khi ta, hiện nay họ cũng khinh khi ta như lúc trước. Làm sao biết trong tương lai họ không khinh khi ta?”. Nếu người có tâm như thế thì chính là nhành rễ làm hư hoại thánh đạo, theo điên đảo mà càng làm sanh ấm cái phiền não, nương tựa tà kiến theo dục vọng, tự mình đánh mất xa rời nhân đạo. Có khi người ấy tâm niệm khởi mười pháp ác phóng dật bất thiện: một là giết hại, hai là trộm cướp, ba là dâm dật, bốn là nói dối, năm là nói làm chia lìa hai người khác, sáu là nói lời ác, bảy là nói lời thêu dệt, tám là hại hận, chín là tật đố, mười là tà kiến. Nếu thân, khẩu, ý sanh khởi đủ mười pháp đó thì phải lánh xa, không tạo duyên đó, phải trừ bỏ các pháp đó không để chúng làm chướng ngại. Lại phải suy tư nguyên nhân diệt pháp ác, do đâu sanh ra pháp thiện, thông đạt thiện ác đều vô sở hữu, là hư giả, chẳng phải chơn thật; chúng đều bình đẳng không hai. Bồ tát tuy đã thành tựu trụ địa thứ chín nhưng luôn tư duy về các pháp uế trược: “Nay ta sở dĩ thành tựu đạo vô thượng, tu tập đạo Bồ tát đều do tu tập từ mười pháp ác ngu si nên được đầy đủ ngũ phần Pháp thân, đến thẳng Nhất đạo không theo nhiều hướng. Bồ tát phân biệt rõ ràng không, vô tướng, vô nguyện; lại tinh cần tu tập Tứ ý chỉ. Bốn pháp đó là gì? Bốn pháp đó là thân, thống (thọ), ý (tâm), pháp. Quán chiếu thông đạt pháp Không, hướng tâm đến tứ thiền, tứ đẳng, tứ không định, bát duy vô, cửu thứ đệ định. Bồ tát lại cần phương tiện rời xa pháp sanh, thể nhập pháp vô sanh nên mới gọi là đạo Hiền Thánh bình đẳng. Tất cả pháp đều hữu tận mà cũng không hữu tận. Thông đạt tận và vô tận thì mới hợp với vô sanh. Tất cả trần lao là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận. Dục ái trói buộc là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn sanh khởi thì gọi là vô tận. Sân hận, xan tham là pháp tận của Bồ tát, nếu chúng không còn thì gọi là vô tận. Đạo mê loạn là pháp tận của Bồ tát, không giải thoát thì gọi là vô tận. Ý an chỉ nơi pháp đoạn là pháp tận của Bồ tát, nếu không còn ý đoạn thì gọi là vô tận. Căn, lực, giác đạo là pháp tận của Bồ tát, nếu không có chúng thì gọi là vô tận. Bốn quả Sa môn là pháp tận của Bồ tát, không có bốn quả đó thì gọi là vô tận. Có đạo Duyên giác là pháp tận của Bồ tát, hiểu rõ không có Duyên giác thì gọi là vô tận. Có đạo Bồ tát là pháp tận của Bồ tát, nếu không có thì gọi là vô tận. Bình đẳng chánh giác là pháp tận của Bồ tát, không có bình đẳng giác thì gọi là vô tận. Chứng ngộ thành tựu Phật đạo là pháp tận của Bồ tát, không thấy có thành tựu thì gọi là vô tận. Đến cội cây của chư Phật là pháp tận của Bồ tát, không đến đó thì gọi là vô tận. Tu tập tướng hảo và thanh tịnh cõi Phật là pháp tận của Bồ tát. Giáo hóa nhân dân, hiển dương pháp yếu là pháp tận của Bồ tát. Tu tập pháp không, vô tướng, vô nguyện là pháp tận của Bồ tát. Có tâm mong cầu nên chuyên tâm tu tập gốc công đức là pháp tận của Bồ tát. Tạo lập các công đức, truyền bá đạo lớn là pháp tận của Bồ tát. Tâm Bồ tát trụ không có cao thấp cũng không thấy có trong, ngoài, trung gian là pháp tận của Bồ tát. Không thấy các hạnh tu tập của phàm phu, cũng không thấy hạnh Hiền Thánh là pháp tận của Bồ tát. Tuy ở trong sanh tử nơi pháp nhiễm ô mà không thấy nhiễm trước là pháp tận của Bồ tát. Bồ tát giảng nói về diệt độ, quán diệt độ không còn sanh cũng không trụ diệt vĩnh viễn, chấp giữ diệt độ là pháp tận của Bồ tát. Ngộ rõ chơn tế cũng không tùy thuận là pháp tận của Bồ tát. Không mong cầu xa rời các cõi ma là pháp tận của Bồ tát. Dùng nghiệp tuệ rộng lớn không cho là hèn kém là pháp tận của Bồ tát. Luôn phải tu tập biết thời là pháp tận của Bồ tát. Không xa lánh các pháp duyên khởi là pháp tận của Bồ tát. Không theo chơn lý, không phải không có chơn lý là pháp tận của Bồ tát. Tuy ở nhân gian mà thấy không khác chốn nhàn cư là pháp tận của Bồ tát. Ở trong chốn ồn náo tùy thuận thế tục không giữ gìn oai nghi là pháp tận của Bồ tát. Nếu trụ trong thiền tịch tĩnh mà không diệt thân, ý là pháp tận của Bồ tát. Không thấy có bố thí, hay chẳng phải không bố thí là pháp tận của Bồ tát. Với giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, không thấy có tu tập cũng chẳng phải không có tu tập là pháp tận của Bồ tát. Tự chứng ngộ tam minh, nhãn sanh trí tuệ khởi, dạo qua các thần thông, không thấy trần lao; sanh, diệt luôn trụ ái dục cũng không mệt mỏi nhàm chán là pháp tận của Bồ tát. Ở Tu đà hoàn vị tu tập đạo tích cũng không từ bỏ việc tu tập đạo lớn là pháp tận của Bồ tát. Thấy Phật pháp mất, không mất có tâm sợ hãi, cũng không thấy số kiếp dài ngắn là pháp tận của Bồ tát. Không thấy cú thể, tự thể, vị thể; điều này là hữu số, điều kia là vô số là pháp tận của Bồ tát. Tu tập gốc dâm, nộ, si mà không thành tựu chơn lý là pháp tận của Bồ tát. Không khởi pháp nhẫn cho đến không sanh khởi trí tuệ là pháp tận của Bồ tát. Chín cõi của chúng sanh Dục giới và vô tư tưởng giới là pháp tận của Bồ tát. Dạo qua thôn xóm, quận huyện, cung điện của chư Thiên, cung điện của Long vương, các cung điện thần diệu, ở các nơi đó tu tập oai nghi lễ tiết, có nơi đáng gần gũi, có nơi không đáng gần gũi là pháp tận của Bồ tát. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của bậc cửu trụ địa Bồ tát. Sự tu tập của Bồ tát không có pháp nào không bao hàm pháp yếu giải thoát hữu tận vô tận. Chúng sanh khổ não, Bồ tát cũng tập rồi vì họ mà giảng nói tánh của Khổ đế: Nếu nhãn thấy sắc có khổ, có vui thì tư duy nhãn thức đều là hư tịch, tu pháp bình đẳng, tiêu diệt họa hại. Bồ tát luôn dùng Chánh pháp hóa độ chúng sanh đến giải thoát vắng lặng. Đó gọi là Bồ tát vì chúng sanh khổ mà diễn bày khổ tuệ: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, sầu bi áo não là khổ, oán ghét mà phải gặp gỡ là khổ, yêu thương mà phải ly biệt là khổ, mong muốn mà không đạt được là khổ. Nói tóm lại, năm ấm khởi thạnh là khổ. Thấu tỏ khổ đó cũng không khởi diệt. Đó gọi là pháp môn hữu tận vô tận của Bồ tát. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh phiền não thì vì họ diễn thuyết pháp căn bổn của tâm chấp ái: “Tâm ái thâm sâu kiên cố, chấp ái sâu dày khó thể nhổ bỏ. Ta trước có thệ nguyện quyết trừ bỏ sạch. Nếu không diệt tâm ái thì hoàn toàn không thể chứng ngộ”. Khi ấy Bồ tát dần dần chuyển nhập vào pháp quán sát dung nhan. Ở trước chúng sanh, Bồ tát hiện rõ dung mạo của mình. Người xem đều khen ngợi, ai ai cũng tôn phụng. Trong khoảnh khắc, Bồ tát biến hiện thân trở nên xấu xí. Người xem thấy, tâm liền biến chuyển nghĩ đến vô thường: “Thân này chẳng phải chơn thật, không kiên cố. Dung mạo chúng ta dù ở thế gian đẹp đến mấy không lâu sau thì phải biến hoại. Nên phải tự mình tu tập, trừ bỏ tâm chấp trước, không mê luyến ân ái”. Bồ tát lại vì chúng sanh có phiền não làm tăng trưởng lợi ích cho họ như thế. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh trú tận thì dùng phương tiện quyền xảo nói pháp cho họ: “Sanh rồi cũng chết, thành rồi cũng bại,. Giả sử tuổi thọ đến ức hằng sa kiếp rồi cũng đều diệt tận, không thể tồn tại mãi. Các Tộc tánh tử nên biết pháp vô thường biến chuyển như ảo như hóa, không chơn thật. Bồ tát ngộ rõ chúng không chơn thật nên mới đạt thanh tịnh, không nhiễm ô. Tập do tích chứa mà không xả bỏ chúng, nên dùng pháp tận diệt quán chúng đều vô sở hữu, cũng không thấy có chỗ khởi diệt”. Nếu có người tâm sanh kiêu mạn, ngu si chấp là thường, là vô thường thì Bồ tát dùng tuệ không, vô tướng, vô nguyện để phân biệt. Có khi Booft át vì họ giảng đạo Nhất thừa cứu cánh dạy các Tộc tánh tử phải nhớ nghĩ tư duy bảy pháp quán, như sự phân biệt sự thành hoại của năm ấm, chúng sanh do đâu mà có tai họa ấm cái, tư duy rõ ràng sự hưng khởi của sắc: “Trước kia do có sắc tướng nên ta sanh thức chấp trước. Do thức nên sanh ra thống (thọ) cùng nhau thọ nhập, khởi ý sanh tưởng chuyển thành hành nghiệp. Đó đều là do một pháp sắc mà biến thành năm pháp”. Thống (thọ), tưởng, hành, thức cũng như vậy. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh khởi lên mười tám ấm độc hại suy hao nhiễu loạn tâm người, khiến tâm họ chướng ngại không đạt đến giải thoát, bèn dần dần dùng phương tiện khéo léo ôn hòa hỗ trợ; phải dùng phương tiện khéo léo khiến họ thành tựu không để họ đọa lạc. Lại nữa, nếu Bồ tát thấy chúng sanh đó tâm luôn có ái thì dạy họ suy tư không thấy có ly biệt, cũng không thấy bị ly biệt. Đó gọi là đầy đủ bảy pháp quán. Bồ tát cũng không quên bỏ pháp quán hạnh, quán xét bệnh trì trệ, phân biệt lạnh nóng của thân mình. Quán khắp thân mình xong lại dạy cho người khác tu tập được thành tựu.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ địa Bồ tát tu tập pháp Chỉ Quán, cũng không có tâm sợ hãi. Tứ Thiên vương Thích, Phạm, Rồng, Sa môn, Phạm chí và Ma đều không thể nào ẩn thân. Trong khi Bồ tát tu tập Chỉ Quán không bị khó khăn chướng ngại với pháp Chánh giác. Vì thế nên Bồ tát thấy rõ, thông đạt tất cả pháp đều là bình đẳng với pháp phàm phu và đạo Hiền Thánh, tâm như hư không, không thiên lệch. Pháp học hay pháp vô học, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật pháp cũng đều bình đẳng. Lại nữa, có khi Bồ tát thấy có pháp lậu và pháp vô lậu, phân biệt pháp thế tục và pháp độ thế, trừ sạch tâm chấp trước thì mới thành tựu đạo Bồ tát. Vì sao? Vì quán Không nên gọi là tự nhiên. Lửa mạnh tự nhiên đến, lửa mạnh tự nhiên diệt. Không với thật bình đẳng, tướng và vô tướng bình đẳng, nguyện và vô nguyện bình đẳng; pháp ở trong ba cõi đều đồng với tự nhiên. Bồ tát lại phải tư duy pháp sanh bình đẳng với pháp vô sanh; quán pháp và không tu tập quán pháp cũng bình đẳng; nương tựa và không nương tựa, bình đẳng và không bình đẳng, khởi và không có pháp khởi đều là tự nhiên. Chẳng có tự nhiên trong ba cõi bình đẳng, không thấy cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Bồ tát lại phải tư duy suy lường đạo dâm, nộ, si và minh tuệ đều là tự nhiên, thoát khỏi ràng buộc của ái dục mới chính là thành đạo, thể nhập cảnh Nê hoàn đều biết rõ là vô nhị bình đẳng tự nhiên. Đó gọi là Bồ tát tu tập tâm từ mẫn, vì chúng sanh bày vô số các loại nhân duyên, hóa độ chúng sanh tùy theo căn cơ của họ. Bồ tát theo tâm niệm ứng hợp của mỗi người mà phân biệt nói khiến họ đều có tâm hòa thuận trụ nơi đạo Đại thừa, tiêu trừ sạch gốc khổ não. Bấy giờ Bồ tát ở trong đại chúng một mình không sợ hãi, hoàn toàn không bạn lữ mà không cô độc, gốc các công đức như chuỗi anh lạc tự trang nghiêm thân. Nếu ở trong chúng Đại sĩ, Bồ tát liền có thể diễn xướng Phật đạo tối thượng, thương xót hàng Thanh văn không đạt thượng trí. Họ tuy dã dứt hết các lậu nhưng không rời khỏi nơi an trụ, chỉ tự cởi bỏ dây trói buộc phiền não mà không có tâm quảng đại. Bồ tát lại nghĩ đến hàng Duyên giác không có tâm hoằng pháp làm lợi ích chúng sanh. Họ có thánh trí biện tài, tâm thanh tịnh không tì vết, cũng có thể biết căn tánh và chí hướng của người khác nhưng chỉ tự thủ ở nơi quốc độ bất tịnh. Vì vậy Bồ tát ở trong đó đặc biệt xuất hiện, giảng nói phân biệt sự thành tựu Phật đạo tôn quý. Mười phương vô số các chúng sanh ưa thích, tin tưởng đều được tế độ. Tâm các vị Duyên giác luôn thương cảm vì không đạt được đạo nên dùng sức dõng mãnh hàng phục ngoại đạo, thường chuyển Pháp luân không ngưng đoạn, pháp lớn vi diệu thù thắng truyền bá khắp thế gian.
Như vậy, này Tối Thắng, bậc cửu trụ địa Bồ tát thị hiện phương tiện thích hợp giáo hóa khiến không ai không được thể nhập, ngộ rõ Niết bàn cũng như tướng Niết bàn, nghĩa là có chơn lý cũng không có chơn lý. Không tuệ vô chủ cũng không trụ xứ nên gọi là vô vi tự nhiên khoái lạc. Họ cũng không trụ đây, cũng không trụ kia, đều không xứ sở, không hình, không đối tượng nên không thể thấy, trụ vô sở trụ. Đó gọi là vi trụ, gọi là trụ pháp giới. Đó gọi là vi tận, là vô sở sanh. Đó gọi là Niết bàn tịch diệt vô vi. Chỉ còn ba mươi bốn pháp vi tế kết, ngoài ra các trần lao không còn làm chướng ngại. Khi bậc cửu trụ địa Bồ tát đắc Chánh giác, hiện tại diệt bốn pháp, tương lai diệt bốn pháp, quá khứ diệt bốn pháp, ngồi dưới cội Phật thọ hàng phục ma xong, giữ tâm nhẫn điều hòa, ý thể nhập định vô tướng, quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới: “Ta nay ở tại cõi thế gian ngũ trược này sẽ thành Phật. Điều mong cầu đã làm xong không còn nghi ngờ gì nữa. Ta nay nên dùng phương tiện quyền xảo vì chúng sanh tuyên bày đạo nghĩa trừ sạch các lậu kết để họ thành tựu như ta hôm nay không khác”. Lúc đó các Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác ở mười phương, mỗi vị đều ở cõi của mình từ xa khen ngợi: “Hôm nay ở phương đó, quốc độ đó có Đức Phật xuất hiện, có đủ ba mươi hai tướng của Đại nhân, tám mươi nét đẹp trang nghiêm thân. Ánh sáng chiếu đến nơi u tối, thanh âm như loài chim loan phượng. Lành thay! Phật chủng không bị dứt đoạn”. Khi chư Phật mười phương nói lời đó, ba ngàn đại thiên thế giới hiện ra chấn động sáu cách. Chư Thiên, Rồng, Thần, Càn đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chơn đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân, các loại Ma như Thiên ma đều kinh hoàng, không ở an nơi chỗ của mình, đều cùng nhau tụ hội đến nơi Phật ngự, cúi đầu kính lễ, tự quy mạng, theo hầu Đức Như Lai thành Tối Chánh Giác. Tất cả đều đạt tâm thanh tịnh, không có oán hận, đều có tâm tôn trọng pháp cam lộ, đầy đủ các điều thiện, đạo pháp vô lậu; tâm niệm dõng mãnh tu tập các pháp giải thoát. Đức Phật quán sát tâm niệm thích ứng của chúng sanh tùy thời thị hiện nói pháp khiến mỗi người đều được thỏa chí. Vì diệt trần lao, đạt được giải thoát tịch tĩnh hoàn toàn nên dạy chúng sanh loại trừ tâm ngô ngã, dứt hẳn tâm bỉ thử, không còn chấp tướng, không thấy nương tựa pháp hay nương tựa phi pháp, chẳng phải không có nương tựa cũng chẳng phải không có không nương tựa, đốn ngộ các pháp bình đẳng như hư không, như tiếng vang, như ảo hóa không có thật. Đó là đến được bên kia bờ sanh tử không còn sanh trở lại trong vòng sanh tử tuần hoàn. Công đức phước báo hưng long đạo nghiệp của bậc cửu trụ địa Bồ tát cũng không cùng tận, tu tập chơn chánh không còn tâm niệm hoài nghi, ở trong các pháp vô lậu cũng không còn chút nhiễm ô, ở trong các pháp không còn nhiễm ô, không thấy thủ xả, thoát khỏi hoàn toàn cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Tâm đều quy về trí tuệ vô sanh, giảng rộng truyền bá khắp nơi khiến mọi người đều được nghe hiểu.
Như vậy, này Tối Thắng, hạnh nghiệp tu tập của bậc Bồ tát cửu trụ địa oai thần cao vút, siêu việt khác thường thế gian. Nếu ở trong chúng, Bồ tát giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết. Mọi hành động, mắt nhìn đều thuận theo Chánh pháp, vận y phục cũng không hào nhoáng. Nếu muốn vào quốc độ, quận huyện xóm làng, Bồ tát mang pháp y, bình bát, tâm luôn thư thái, đi đứng qua lại, ngồi, nằm, đứng dậy tâm luôn suy tư chơn lý. Lời nói êm dịu nhu hòa không có tâm hung ác, lời giảng pháp như hư không, không có tâm niệm chấp trước, tu khổ hạnh đạt đến chỗ thâm sâu, không tạo duyên báo ứng, tâm niệm hành động đều chuyên chú vào Phật đạo.
Này Tối Thắng, Bồ tát trụ cửu địa vì thế có tên là Nhất trụ phi cửu trụ. Với địa thứ tám, thứ bảy, thứ sáu, thứ năm, thứ tư, thứ ba, thứ hai và sơ địa, Bồ tát đều chẳng trụ. Bồ tát tinh tấn tu tập đệ thập địa, Pháp thành địa, Đế địa, Vô khủng cụ địa, cũng có tên là Như Lai địa; Đạo địa, Định địa, Vô sở úy địa, Quán địa, Tuệ địa, Tự nhiên tánh địa. Bồ tát đạt được pháp thập địa đó thì không còn tên gọi Bồ tát phải xưng là Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Chúng Hựu, không ai sánh bằng, đầy đủ mười tám pháp thù thắng, giảng pháp luôn biện tài không khi nào không đúng thời. Các hạnh viên mãn thị hiện sanh lên cung trời Đâu Thuật thanh tịnh không tì vết, hoặc thị hiện giáng thần tiếp độ chúng sanh. Đó gọi là Bồ tát cửu trụ địa thanh tịnh địa của mình.
***
Phẩm 10: THÀNH ĐẠO
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, bậc thập trụ Bồ tát trụ ở thập địa thanh tịnh hạnh của mình như thế nào?
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Đó là nói Bồ tát tu tập đạo thần diệu, rộng độ chúng sanh, dùng pháp tánh Không diễn giảng văn tự, tinh tấn tu tập cấm giới. Công đức của Bồ tát vô lượng không thể nghĩ bàn cũng không hạn lượng, tất cả người đời không ai có thể bì kịp. Trời, Rồng, Quỷ, Thần và các bậc thần tôn không thể suy lường đều khen ngợi công đức ấy. Đạo Hiền Thánh vắng lặng trọn không thể nói, nếu có giảng diễn thì đều thành chương cú. Bồ tát thị hiện thần túc đến cõi nước ở mười phương, diện kiến kính lễ chư Phật Thế Tôn, tâm lại nhập chánh định giải thoát quán khắp hằng sa cõi nước của chư Phật, gặp các Bậc Chánh Giác nghe pháp yếu vi diệu, đều vượt qua tất cả nghiệp tà, tâm chí an tường không điên đảo. Tâm như hư không, không tưởng niệm, quán phân biệt rõ sự sanh khởi hoại diệt của pháp giới. Những pháp Bồ tát nói đều phù hợp với thánh ấn, thể nhập các chánh định, trọn không trái nghịch với lời dạy của chư Phật mười phương, với thánh pháp luật cũng không trái nghịch. Âm thanh khi nói vô cùng vi diệu thù thắng. Quán các thế giới bình đẳng như hư không, ý niệm sung mãn, tư tưởng giải thoát. Bậc Bổ xứ Bồ tát biện tài thông đạt nghĩa lý phù hợp với mọi căn cơ nhận thức, tâm tương ứng với đạo tuệ. Thế nào gọi là vi tâm? Thế nào gọi là đạo tuệ? Xem qua sách vở thế tục, thị hiện làm nghiệp tà. Đó gọi là vi tâm. Nhất tâm tinh cần chuyên chú với pháp độ thế. Đó gọi là đạo tuệ. Xả bỏ tâm tham, bố thí mà không có ý tưởng sẽ được quả báo, điều hòa tâm ý thẩm suy chơn lý một cách rõ ràng. Đó gọi là vi tâm. Chơn chánh thể nhập tâm tịch tĩnh không khởi các tưởng, tự giữ hạnh đạm bạc không rời xa thánh điển. Đó gọi là đạo tuệ. Khi Bồ tát ở trong sanh tử tu pháp này, tuy ở chốn đó mà không nhàm chán điều ác. Đó là tâm Bồ tát. Lại nữa, nếu Bồ tát ở chỗ không nhàn, có tám nạn thì không khởi điên đảo có tâm nhị kiến, đều có thể vượt qua căn bệnh trường cửu ấy. Đó gọi là đạo tuệ. Bồ tát ở trong pháp thế tục khen ngợi đạo giải thoát Niết bàn, các công đức đã tạo trọn không tổn giảm. Đó gọi là vi tâm. Bồ tát thể nhập tánh Không của các pháp, đạt thanh tịnh hoàn toàn mà không sở hữu. Đó gọi là đạo tuệ. Quyết tâm bố thí các vật sở hữu như quốc gia, của cải, vợ con, đều không có tâm thương tiếc. Đó gọi là vi tâm. Trụ trong đạo bình đẳng không có tam thừa, thanh tịnh đạo tràng đều quy về Phật đạo. Đó gọi là đạo tuệ. Đó gọi là bậc Bồ tát Đại sĩ thập trụ. Các pháp đạo tâm thể nhập không thiếu sót, phòng hộ thân khẩu không để phóng dật, ca ngợi người đầy đủ tám niệm của bậc Đại nhân. Bồ tát phải nhớ hạnh thiểu dục tri túc, tu cấm giới không phạm tì vết, có thể làm thanh tịnh trần cấu cho chúng sanh. Nếu thấy chúng sanh tự khen mình, chê bai người khác, tự đại cống cao kiêu mạn vì giàu sang tôn quý, có tâm dâm, nộ, si, pháp bất thiện; với các loại chúng sanh như thế, Bồ tát nên nói pháp về công đức nhẫn nhục, đều khiến chúng sanh tùy thời đạt được pháp nhẫn vô sở tùng sanh. Bồ tát ở trong đó luôn thương xót những người nguy khốn không hiểu đạo. Tâm ý Bồ tát dõng mãnh tinh tấn không thoái chuyển, phân biệt tất cả hạnh nghiệp công đức từ xưa, không thấy chúng ngẫu nhiên tụ họp cũng không thấy chúng tan rã cách biệt. Không trụ tâm nơi những phước nghiệp đã tạo, cũng chẳng phải không trụ. Ứng hợp với tất cả mà không có pháp nào để ứng hợp, không thấy có ứng hợp, đó gọi là thẩm suy chơn lý. Tâm luôn vui trong thiền tư giải thoát, tư duy tứ thực, dứt trừ tâm nhiễm trước, quán sát tận diệt không khởi tâm định. Những pháp được nghe đều nhớ rõ liền có thể phúng tụng. Trí tuệ không loạn, phân biệt nguồn cội không có xứ sở, muốn tìm gốc của chúng cũng không thể được. Vì chúng sanh giảng bày ba mươi bảy phẩm pháp, khiến họ thấu tỏ hạnh không, vô tướng, vô nguyện, luôn có thể vâng giữ tôn sùng Phật đạo, tùy theo báo ứng mà được đạo quả. Những pháp chư Phật Thế Tôn giảng nói cũng không thấy nhiều. Do đó mà hưng khởi tâm ý: đó là chơn đế. Cho đến pháp diệt đọ cũng như vậy, không có tâm tạp niệm tưởng khác. Này Tối Thắng, đó gọi là phương tiện quyền xảo không bị chướng ngại của Bồ tát thập trụ, dùng đạo vô ngại tu tập Đẳng giác rồi vì chúng sanh chuyển Pháp luân khiến họ đạt quả kiên cố không thoái chuyển. Bậc Thập trụ Bồ tát phát nguyện kiên cố tiếp độ chúng sanh mà không gặp khó khăn. Ví như người thợ khắc ấn biết tên họ của người liền ghi nhớ, theo chỗ ghi nhớ không có sai lầm. Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, dùng ấn Hiền Thánh đóng dấu sanh tử, tùy theo căn khí, việc làm của chúng sanh mà không lầm lẫn, lại phải thẩm suy chơn lý, suy tư nghĩa đó. Ấn vón chẳng phải là đất, đất vốn chẳng phải là ấn nhưng có thể thị hiện rõ danh tánh tên họ. Thánh tuệ của Bồ tát cũng như thế, cầm bảo ấn trí tuệ đóng dấu chúng sanh, tùy theo căn khí của họ mà hiện bày khiến thành danh hiệu. Họ liền có thể ra khỏi đạo tam thừa. Ví như ở mảnh ruộng tốt trồng đậu, thân, rễ, mầm dần dần lớn lên. Đậu hư thì mầm rễ đã sanh không còn bản thể. Tư duy sâu sắc thì thấy mầm chẳng phải là gốc nhưng cũng chẳng rời khỏi gốc. Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, nhân duyên hội họp mới cần pháp luật, quán các nghiệp bất thiện đã tạo của chúng sanh như ba pháp họa hoạn, sáu pháp chướng ngại, mười hai nhân duyên tư tưởng tà si, thân kiến điên đảo, liền vì họ giảng pháp khổ, không, phi thân (vô ngã), vô thường, sau đó mới giảng pháp tánh như thật, phân biệt Khổ, Tập, Diệt, Đạo đế khiến họ xa lìa gánh nặng, vĩnh viễn đạt được tịch diệt. Bồ tát lại phải tư duy nguồn gốc, tìm hiểu nguyên nhân từ xưa đến nay về sự thọ sanh của họ như thế nào nên mới có họa đó, thấy rõ đều do pháp vô minh, không có trí tuệ nên mới có khổ não sanh, già, bệnh, chết. “Ta phải dùng phương tiện trừ bỏ căn bệnh đã khiến họ dần dần thể nhập pháp luật của Hiền Thánh, diệt sạch vô minh, sanh, già, bệnh, chết”. Bồ tát giảng dạy pháp quán Không vắng lặng, khiến họ có chỗ quy hướng nương tựa tâm, giảng rộng về trí tuệ sáng suốt đưa đến giải thoát. Họ đều tôn kính tu tập trí tuệ vi diệu. Với pháp dâm, nộ, si… cũng không khác, Bồ tát tìm hiểu nguồn cội của chúng cũng không phân biệt, vì đạt được tâm vắng lặng, không niệm tưởng nên trọn không có niệm oán hận, khởi tâm tăng giảm, lìa được tất cả các chưng ấm cái, kiết sử trói buộc, không còn tâm hạn lượng, luôn đến được cửa giải thoát, khen ngợi công đức nghiệp của Tam bảo, luôn nhớ nghĩ xa lìa họa tham dục, trọn vì chúng sanh tuyên bày công đức đã tạo. Bồ tát tinh tấn độ người vô si, thị hiện Không tuệ mà khai đạo cho họ. Với pháp đã học hoàn toàn không chấp trước, sau đó thành tựu tâm bất thoái chuyển, giảng dạy kinh điển, tu chỉnh làm thanh tịnh cõi Phật, hướng dẫn chúng sanh đến với cảnh Phật, khiến họ được diệt độ vĩnh viễn không còn sanh diệt. Đó gọi là kinh điển bí yếu của Bậc Chúng Hựu vô thượng và bồ tát. Bồ tát phải quán sát như vậy. Bồ tát đã thể nhập thập trụ vị không thể nghĩ bàn, tu tập pháp bình đẳng, pháp môn bất nhị, thấy rõ ba đời, không dứt đoạn Tam bảo, trừ bỏ tam cấu, thành tựu tam giải thoát môn. Ở trong địa đó, Bồ tát thị hiện pháp bất tư nghị. Từ khi mới phát tâm đạo cho đến địa vị phàm phu, hưởng công đức tẩm ướp xông khắp nơi nơi, trong khoảnh khắc ngộ được nghĩa của âm thanh, được thành tựu các tuệ thần thông, có thể diễn giảng vô lượng pháp yếu, không chấp trước văn tự cũng không có thức tưởng, suy tư về nơi chốn thấu đạt đều không có chỗ trụ. Nếu có người học đạo, thức ràng buộc trong sắc, tâm không muốn rời bỏ, luôn muốn chấp giữ không lìa, quanh quẩn trong vòng tuần hoàn sanh tử, ý luôn mê loạn không thể tự thoát, có ràng buộc đó nên đọa vào trong sanh tử, xoay vần trong năm đường không ngừng nghỉ thì Bồ tát điều phục loạn tưởng cho họ, khiến họ giữ gìn tâm ý không bị dong ruổi theo dục của năm ấm, đoạn trừ phiền não, cũng khiến họ không khởi tưởng sanh diệt với sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; tu tập định An ba nhập tức xuất tức niệm. Lại phải phân biệt tứ đại tạo sắc: địa, thủy, hỏa, phong. Mỗi đại đều có tánh của nó. Nếu tu tập khiến cho thức đó không trụ nơi năm xứ thì có thể thành tựu không có tâm chấp pháp giới. Thức không dong ruổi theo mười hai trần lao: nhãn-sắc, nhĩ-thanh, tỷ-hương, thiệt-vị, thân-xúc, ý-pháp. Đó là thức của tuệ căn vô lậu, chẳng phải là thức bị sanh tử nhiễm ô. Nếu có thể diệt trừ, tâm không dong ruổi theo ngoại cảnh thì với tất cả pháp không có dục mong cầu. Giả sử tâm có pháp để nương tựa thì sẽ sanh thức tưởng có tâm mong cầu, cũng có tên là thức. Bồ tát khởi tâm học nhưng không có pháp để tâm nhận lãnh. Tâm không sanh niệm, không có tâm ưa thích hỷ lạc. Tu tập bố thí mà không mong chờ quả báo. Hữu vi, hữu lậu, đó đều là hạt giống của thức, tu tập hạnh vô vi nên gọi là vô thức. Bồ tát thắp lên ngọn lửa minh tuệ, dựng đuốc giải thoát phóng ánh đại quang minh, hiển bày giáo pháp thù thắng tối thượng, vì cầu bản thể trực tâm, không cầu kinh văn chữ nghĩa, trụ nơi đạo nghiệp, thân tự trang nghiêm không ai sánh bằng, có thể hiển bày tất cả các cõi Phật. Bồ tát ở trong các cõi Phật đó thị hiện độc cư không sợ hãi. Lại với pháp vĩnh viễn không có tâm chứng đắc, cũng không có tâm tuyển chọn, không có cái nhìn cao thấp, tâm phải tự tại không khiếp nhược, dùng các loại âm thanh tùy theo căn cơ chúng sanh mà giáo hóa họ. Nếu nói pháp yếu thậm thâm cho chúng sanh, Bồ tát xa lìa tất cả nhân duyên đã khởi, hiểu rõ niệm tưởng khởi lên trong tâm chúng sanh, chí tánh, hướng thọ sanh, pháp thiện ác. Bồ tát có thể biến khắp các cõi Phật xem hạnh tu bình đẳng của chư Phật Thế Tôn, không thấy chúng sanh, Phật độ thanh tịnh. Nếu thấy có hạnh tức là phá hủy pháp giới, cho nên tâm Bồ tát không trụ các pháp. Nếu thấy chúng sanh trụ, khởi lên niệm phân biệt thì nơi pháp tánh tự sanh trệ thức. Không khởi, không diệt thì thức không có chỗ trụ. Đó gọi là đạo tuệ thanh tịnh giải thoát. Nếu không có pháp đạo tuệ bình đẳng thì chư Phật Thế Tôn hoàn toàn không có khởi tâm thương xót độ thoát thế gian. Hạnh nghiệp và thệ nguyện của Bồ tát không có nguyên nhân để nguyện, để tu tập, cũng không trụ tâm nơi nguyên nhân đó. Tâm đạt đến tự nhiên, không phải có tinh cần, có tu tập thành tựu, không thấy có người mệt mỏi, nhàm chán, lười biếng; ở trong pháp quán bình đẳng không sanh, không diệt, dõng mãnh tinh tấn nhận lãnh gốc khổ não. Bồ tát có thể phân biệt rốt ráo sự lý trong kinh điển, tu đạt trí tuệ dứt trừ trần lao, quán sát sanh tử và diệt độ không khác, luôn tự ghi nhớ ý nghĩa thâm diệu của kinh điển, suy tư tìm hiểu pháp không vắng lặng, tuy độ chúng sanh ở khắp nơi mà không có thức tưởng, gần gũi thiện tri thức mà tâm không chấp trước, không nghĩ suy ngô ngã và thọ mạng, tư duy phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, không khởi, không diệt. Nếu ở trong cõi Dục thì tư duy ái dục là dơ uế bất tịnh. Vì muốn khai hóa cho đồ chúng mê mờ nên giảng nói nghĩa lý chơn đế đó cho họ, phân biệt pháp Không vô, tất cả pháp đều không chỗ nương, không thấy có hình chất tạo tác, không có tác hay bất tác; không thấy có nương tựa, tâm trụ vào vô sở trụ cũng không có nguồn gốc; không thấy rơi vào ba đường ác; không thấy sanh lên cõi trời dùng thức ăn tự nhiên hiện theo ý tưởng, chỉ bày đường tắt đưa người vào nghĩa lý của đạo, không có mong cầu, đều không làm việc gì, quán các pháp tự đạt đến tự nhiên, tướng của các pháp không thể rốt ráo, cũng như hư không không có giới hạn. Bồ tát dạy người tuệ thí không khởi nệm tưởng chướng ngại, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, tuyên dương trí tuệ phương tiện quyền ảo; từ, bi, hỷ, hộ (xả) cứu độ người nghèo hèn, xiển dương đạo lớn. Bậc Thập trụ Bồ tát tuy chưa lên tòa Như Lai nhưng đã có thể thông tỏ rốt ráo nguồn gốc của biển trí tuệ, trang nghiêm bờ cõi, làm thanh tịnh quốc độ, phóng ánh sáng lớn đến khắp chúng sanh, dùng Chánh pháp giáo huấn tất cả đều quy hướng về đạo, xây dựng tuệ nghiệp đạt đến Đại thừa. Mười phương chư Phật luôn ủng hộ Bồ tát, luôn dùng oai thần khuyến trợ tán thán công đức của Bồ tát cho đến khi Bồ tát thành Phật, có Nhất thiết trí, đạt đạo quả vô thượng, không để chúng ma đạt được mục đích. Bậc Thập trụ Bồ tát vì tự ngộ biết công đức viên mãn, sắp thành tựu Phật quả nên an tọa dưới cội thọ vương, trước phải tu tập bốn pháp ý chỉ, phân biệt thân ý mỗi mỗi thân phần đều có tánh, rồi tự quán sự sanh diệt hưng suy của thân, tự tâm hỷ lạc vĩnh viễn thoát ly khổ não. Bồ tát quán nhân duyên của thân nên thành tựu định tinh tấn, tư duy báo ứng của thân này đối với nhân duyên tụ hội, tan rã thì diệt mất nên biết thân là vô chủ, không đáng tham tiếc, vì sao lại sanh tâm chấp sắc thân này? Không theo các pháp mê hoặc của năm ấm, bốn đại, các nhập; thân này là Không, không thấy pháp ngô ngã của bốn đại, trải qua bao số kiếp tích tập công hạnh nên nay mới được, vì sao lại chấp trước thân không kiên cố, vật nguy hại đó. Ta nay nhận lãnh sắc thân Như Lai và Pháp thân Phật. Sắc thân đó là nơi tích tụ công đức giống như kim cương không thể phá hoại. Thân hữu lậu của người đầy khắp hằng hà sa số mười phương thế giới không bằng công đức một sợi lông trên sắc thân của Như Lai. Bồ tát tự nghĩ dùng vô lượng công đức thành tựu sắc thân đó. Nay do thân này phải đạt được Pháp thân Phật Như Lai. Tuy lội ngược dòng sanh tử, năm đường thọ khổ vô lượng không thể lường, nay nhận bản thể sắc thân Như Lai, không nhớ ngày đêm càng thêm họa khổ não. Từ nay vĩnh viễn xa rời trần lao không còn tham trước trong năm dục. Bồ tát quán thân mình xong lại quán thân người khác đều không có chỗ trụ, tu tập thanh tịnh hạnh của mình không tì vết ô uế. Đó gọi là Bồ tát tu tập ý chỉ về thân mình. Thế nào là Bồ tát phải tư duy pháp ý chỉ về thống (thọ)? Bồ tát từ khi mới phát tâm đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian đó thọ khổ vô hạn lượng, chuyên tâm bền chí ngưỡng cầu Phật đạo mà trong tâm không có cảm thọ khổ. Nếu thấy người khổ não ở trong đường ác thì nên cứu độ khiến họ không còn thọ khổ, luôn nhớ nghĩ chúng sanh không thể tự ngộ nên Bồ tát không theo dục mà sanh tâm chấp trước: “Ta từ xưa đến nay, những pháp mà ta tiếp xúc thật thống khổ, chẳng phải chơn thật, ch¼ng phải có thật, đều là vô sở sanh. Phàm người gần với cảm thọ lạc thì tự mình cách xa tòa Như Lai, không phù hợp với giới luật Hiền Thánh của Như lai. Từ nay vĩnh viễn dừng nghỉ, không sanh cảm thọ đó nữa để khiến chúng sanh quán biết thọ là vô chủ”. Nếu chúng sanh đó với sắc khởi cảm thọ như biết đẹp, biết xấu, biết thiện, ố sắc thì phải quán bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong tạo sắc, thông đạt chúng là hư tịch, không sở hữu. Hoặc có chúng sanh trước khổ sau lạc, hoặc có chúng sanh trước lạc sau khổ thì phải nói kinh pháp thâm diệu để cứu hộ sự thống khổ của họ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân duyên với các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc êm láng. Từ nhân duyên đó khởi thì phải từ nhân duyên đó diệt. Tư duy khổ lạc đều không khổ lạc. Bồ tát lại phải phân biệt cảm thọ trong và ngoài. Hoặc có cảm thọ lạc do bên trong mà phát sanh; hoặc ở đời quá khứ, hoặc ở đời tương lai mà phát sanh; hoặc có cảm thọ lạc từ ái kết sanh, chuyển qua làm tăng trưởng thức, chấp trước không thể rời bỏ. Hoặc có cảm thọ từ si ái phát sanh, tư duy chánh quán mới tiêu diệt được. Hoặc có cảm thọ do nhân tà si mê muội dần dần chuyển biến tăng thạnh, phải dùng trí tuệ sâu xa quán bốn pháp vô thường để trừ bỏ khiến nó không sanh. Hoặc có cảm thọ lạc từ tứ thọ phát sanh, dùng vô tưởng định để trừ bỏ các thọ đó. Hoặc có cảm thọ lạc từ ngu cái phát sanh thì phải tư duy pháp thất giác ý để chúng vĩnh viễn không còn. Hoặc có cảm thọ lạc do nhân lục thân pháp phát sanh, phân biệt không, vô tướng, vô nguyện (để trừ bỏ). Hoặc có cảm thọ lạc từ bảy thức phát sanh, phải lập tâm tinh tấn không tạo các duyên. Hoặc có cảm thọ lạc do nhân tám pháp thế gian phát sanh, thì luôn phải khiêm hạ không tự cống cao. Hoặc có cảm thọ lạc từ mười họa hoạn phát sanh, phải trừ vọng cầu, không nhớ nghĩ điều tà quấy. Hoặc có cảm thọ lạc từ bảy cơn sóng dữ, bốn kết sử phát sanh thì phải tư duy ánh sáng lớn trí tuệ. Hoặc có cảm thọ lạc từ chín chỗ chúng sanh nương ở, ba pháp quán làm phát sanh thì phải nhiếp ý nhập định không tịch. Hoặc có cảm thọ lạc chẳng phải quá khứ, hiện tại mà do ái của vị lai; chẳng phải vị lai, hiện tại mà do ái của quá khứ; chẳng phải quá khứ, vị lai mà do ái của hiện tại; hoặc chẳng phải quá khứ mà do ái của vị lai và hiện tại; hoặc chẳng phải vị lai mà do ái của quá khứ và hiện tại; hoặc chẳng phải hiện tại mà do ái của vị lai và quá khứ, Bồ tát đối với các cảm thọ đó tư duy pháp bảy xứ, ba quán, diệt mười ba ngọn lửa độc bố cháy đó. Bồ tát lại phải tư duy về nơi hưng khởi của cảm thọ lạc. Hoặc có cảm thọ lạc do tám tà kiến và sáu thức thân cùng nhau thọ nhập liền phát sanh cảm thọ lạc, làm tăng trưởng ấm suy, các nhập. Đó gọi là Bồ tát dùng quán giải thoát phân biệt các cảm thọ trên khiến chúng vĩnh viễn không còn. Hoặc có cảm thọ lạc cùng mười pháp bất thiện do uế làm nhân duyên với nhau khiến tuệ nghiệp bị dứt đoạn, lưỡi ngũ si bao trùm. Chúng phát sanh ở hiện tại thì diệt trừ ở hiện tại, nếu phát sanh ở vị lai thì cũng diệt trừ ở hiện tại, nếu phát sanh ở quá khứ thì cũng diệt trừ ở hiện tại. Đó gọi là Bồ tát dùng quán giải thoát thì có thể trừ bỏ mười lăm lưới si.
Vì sao nói Bồ tát lại luôn tư duy pháp ý chỉ? Khi ấy Bồ tát giữ gìn ý, điều phục loạn không để dong ruổi, có pháp tạo tác thì tất có sở duyên. Bồ tát tự quán tâm mình, quán tâm người, tâm ý chơn chánh bình đẳng, không có tâm tăng giảm, đi đứng vào ra, cử động đều đúng oai nghi, luôn tự thân chuyên cần thủ hộ tâm ý, có duyên chúng sanh, không duyên khởi diệt; không duyên chúng sanh, có duyên khởi diệt. Duyên khởi từ tự thân thì tự duyên đó diệt. Duyên khởi từ tha thân thì do tha do tha duyên diệt. Duyên khởi diệt không ở trong cũng không ở ngoài, lại cũng không trụ ở hai bên trung gian; ở trong đó xuất sanh có duyên khởi diệt, có phi duyên khởi diệt. Hoặc do tham dâm, sân khuể, ngu si, bảy sử, bảy mạn, bảy thức mà trụ tâm vào tuệ nghiệp bảy giải thoát, bảy quán, bảy nhẫn. Nếu do chỗ đó mà có duyên khởi diệt, có phi duyên khởi diệt thì tất cả đều do tâm, từ tâm mà sanh. Bốn mươi lăm pháp mê mờ do ý thức tạo tác, không tự giác tri. Ý không biết ý, ai có gốc của ý. Đã không nguồn gốc sao lại có ý? Bồ tát phân biệt pháp tâm, ý, thức, thông đạt sự vận hành qua lại đều không có xứ sở. Đó gọi là Bồ tát dùng quán giải thoát để biết nhân duyên của tâm mà không chấp sở đắc, cũng không thấy tâm hợp với thiện ác. Không có hợp hay chẳng hợp thì tương ưng với quán giải thoát. Bồ tát lại phải tư duy mười hai nhân duyên thật là sâu xa, không thể thấu hiểu tường tận. Các quả đã gieo không mất báo ứng. Với cảnh giới các pháp, tâm không nhiễm trước. Nếu như quán pháp giới từ nhân duyên khởi thì liễu tri các pháp không có chơn đế, tự nhiên tịch tĩnh, tự cùng nhau giữ gìn phát triển. Những pháp do tâm tạo hóa ra cũng không có hình chất nên không thể thấy, tìm tướng mạo của chúng thì cũng chỉ là không hình, không sắc. Bồ tát thông đạt thánh tuệ liền thể nhập pháp bất khởi vô sở sanh, không trụ địa Thanh văn, Duyên giác, luôn tự giữ gìn tâm ý vào pháp chư Phật. nội tâm tự tư duy về sự cuồng xoay vọng động của tâm: “Ta nay phải hàng phục tâm, trừ bỏ tâm sanh tử chấp trước, đi vào biển trí tuệ”. Đó là do tâm Bồ tát đạt được đạo Vô thượng chánh giác, thành bậc Tối Chánh Giác. Đó gọi là Bồ tát được tự tại với pháp ý chỉ.
Vì sao nói Bồ tát quán phân biệt pháp ý chỉ? Khi đó Bồ tát tu tập pháp Chỉ trọn không quên mất cho đến khi thành Phật đạo mà không buông bỏ, tự quán pháp nội tâm, bên ngoài thì quán pháp tâm người. Bồ tát đều biết tướng các pháp là một tướng, không phải hai tướng cũng không phải nhiều tướng, đều quy về không, vô tướng, vô nguyện; xa lìa tà kiến, bình đẳng với các pháp, phân biệt gốc mười hai nhân duyên khởi, luôn niệm sự thành bại hưng suy của pháp giới, hữu lậu – vô lậu, hữu vi – vô vi, pháp thiện – pháp ác, hữu ký – vô ký. Khi đó Bồ tát tư duy quán sát không theo pháp giới mà tự sanh thức tưởng, không thấy phi pháp, có tưởng ngô ngã cũng không khởi niệm suy lường thọ mạng của người. Nếu có Bồ tát tự khởi tưởng pháp, tu tập chấp trước ngô ngã, nuôi dưỡng thân mạng, suy nghĩ đoạn diệt, vô thường cho là thường, vạn vật muôn loài trong thiên hạ đều thường tồn thì ở trong cảnh vô thường mà chấp không có hợp tan; hoặc ở trong pháp đó sanh tưởng điên đảo: Vô tự nó luôn là vô, hữu tự nó luôn là hữu. Vô chẳng sanh hữu, hữu chẳng sanh vô. Vô tự nhiên sanh, vô tự nhiên diệt; hữu tự nhiên sanh, hữu tự nhiên diệt. Vô chẳng thể thấy ngã tự nhiên hiện hữu, hữu chẳng thể thấy ngã tự nhiên vô. Bồ tá thập trụ dùng tuệ sáng quán thông phân biệt hữu và vô, đoạn trừ tâm chấp ngã, nhân, thọ mạng là thường tồn, tâm Không bình đẳng như hư không, không sở hữu. Dùng pháp tối diệu đệ nhất Không quán sát các pháp đó, đệ nhất tánh Không cũng chẳng sanh hiện hữu. Hiện hữu tự nó luôn có, chẳng biết các pháp do Không tạo thuộc Không. Không tự nó luôn Không, chẳng biết các pháp do hiện hữu tạo thuộc hữu. Bồ tát dùng tuệ tư duy phân biệt tánh của hiện hữu tự nó là Không, tánh của vô tự nó cũng là Không; vô không tạo hữu, hữu không tạo vô. Chấp trước hữu vô là pháp sanh tử, chẳng phải pháp yếu đệ nhất Niết bàn. Vô tự nó là Không vô, vô chẳng biết vô, tự tánh của vô là Không. Hữu tự nó là Không hữu, hữu chẳng biết hữu, tự tánh của hữu là Không. Hữu chính là vô, vô chính là hữu. Đó gọi là Bồ tát phân biệt rõ ràng các pháp tánh, tư duy suy lường về các pháp thường, vô thường, sanh diệt, chấp đoạn, hữu vi – vô vi, hữu lậu – vô lậu, pháp thiện – pháp ác, hữu ký – vô ký. Tất cả các pháp có danh hiệu hay không có danh hiệu đều là hư tịch. Bồ tát cũng không nhớ diệt mà tự quán tự thân và pháp tha nhân, cũng không có tư tưởng chấp trước, thấu tỏ pháp không, vô tướng, vô nguyện; ở trong pháp giới tìm cầu Phật pháp và cấm giới thấy đều không có xứ sở, cũng chẳng phải là đường tắt, không thấy có độ người đạt giải thoát cũng không thấy trầm đọa trong sanh tử. Bồ tát ở trong pháp đó khai dạo cho tất cả chúng sanh thì có thể làm hưng khởi pháp không có phiền não suy hoại, trị lành các lao nhọc cõi trần hoàn toàn không còn bị trói buộc bởi kiết sử. Vì Không thì vô sở hữu nên Bồ tát tư duy phân biệt năm đường, giảng dạy bình đẳng. Tuy ở trong dục trần mà không có tâm khiếp nhược, hiểu rõ ba độc không bị chướng ngại. Bậc đạt được chỗ đó gọi là Đại sĩ, trụ pháp phương tiện quyền xảo không thể nghĩ bàn. Tập, Tận, Đạo đều quy về tự nhiên. Ở trong pháp tự nhiên đó không thấy sanh diệt, thể nhập tâm như hư không, không sở hữu, không nhớ nghĩ trụ xứ, suy tư pháp giới như hư không giới, chỗ chúng sanh trụ đều là vô sở trụ, tất cả các pháp bình đẳng như hư không giới. Đó gọi là Bồ tát tùy thời hướng đạo chúng sanh thuận theo đạo pháp, tuy độ chúng sanh mà không thấy độ. Nếu có Bồ tát tự quán pháp tự thân, quán pháp tha nhân, có thể tự chế phục tâm ý, đạt được trí tuệ, ngộ rõ các pháp đều quy về giải thoát thì có thể hướng đạo cho tất cả chúng sanh, xiển dương đạo Vô thượng chánh chơn, khiến chúng sanh đạt được pháp vô vi tự nhiên, không thấy bị sanh cũng không phải chẳng sanh. Tuy không bị sanh nhưng tư duy về pháp sanh, không rời bỏ pháp vô sanh, pháp không khởi diệt. Đó gọi là Bồ tát được tự tại với pháp ý chỉ.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát thập trụ lại phải tư duy bốn pháp ý đoạn, luôn suy tư phân biệt pháp hiện tiền, pháp ác chưa khởi, chế phục chúng để chúng không phát sanh. Pháp ác đã khởi thì dùng phương tiện diệt đi. Pháp thiện chưa sanh thì mong cầu, làm cho chúng phát sanh. Pháp thiện đã sanh thì làm cho chúng thêm tăng trưởng nhiều hơn. Bồ tát luôn phải tinh cần tu tập, tinh tấn thực hành, tự nhiếp tâm ý mình để nó không dong ruổi. Từ xưa đến nay tích tập công đức, không mất pháp oai nghi lễ tiết, việc làm đều bình đẳng vì có thể kiểm soát tâm, tư duy chơn lý. Chúng sanh ở trong họa hoạn nặng nề do ba căn bất thiện nên đọa vào tám đường ác, luân hồi trong năm đường không có khi nào ngưng nghỉ. Vì vậy Bồ tát siêng năng tinh tấn tu tập thì có thể tiêu diệt năm ác bất thiện, không còn quay trở lại khởi loạn tưởng, luôn tự quán sát quả báo ứng bất thiện: “Đó là hạnh dơ uế, chẳng phải đạo chơn chánh. Ta nay vì lìa bỏ hạnh phi pháp, tu tập đệ nhất nghĩa nên không còn trần lao, vĩnh viễn trừ bỏ sân khuể, phân biệt mười hai pháp nhân duyên căn bổn, chưa có pháp thiện thì tạo lập công đức để phát sanh mầm rễ thiện, không để chúng hư thối”. Tâm Bồ tát thanh tịnh không tì vết, không nương vào ba cõi, ràng buộc với các dục, lìa bỏ tâm chấp trước, vĩnh viễn không còn chấp trước. Bồ tát luôn có thể khuyến trợ dìu dắt chúng sanh đến Nhất thiết trí, trí tuệ thâm sâu không có tổn giảm nên đạt được gốc công đức. Đó đều do tinh tấn mà thành tựu đạo quả. Đó là Bồ tát được tự tại với bốn pháp ý đoạn.
Khi ấy Bồ tát lại luôn tư duy, phân biệt thần túc. Tuy Bồ tát đạt được tâm định thần túc nhưng khi sắp thành đạo, trụ ở thập địa thì phải tu định như lúc chuyên tâm nhập định thuở mới học đạo, tư duy pháp tứ đẳng (tâm), thương xót chúng sanh. Bồ tát tự ổn định thân và tâm ý chuyển nhập sơ thiền, rồi nhập nhị thiền, trở lại nhiếp ý từ sơ thiền thể nhập tam thiền, ở trong cấp thiền ấy tư duy chuyên cần nhất tâm. Từ tam thiền xuất trở lại nhập sơ thiền, ở trong cấp thiền ấy biến hiện thần túc. Từ sơ thiền xuất, thể nhập tứ thiền. Khi ấy Bồ tát ở trong tứ thiền liền hiện thần túc, dùng thân khởi tâm, ban đầu như hạt cải chuyển thành như hạt đậu mè, dần dần biến thành cao to như hạt hồ đào. Như vậy lớn dần lên trong hai mươi mốt ngày, thân tâm nhẹ nhàng không bị chướng ngại. Cho nên Bồ tát trở lại thể nhập tâm định mà hiển bày thần túc, có thể nương thần túc ấy giáo hóa một ức người an lập tâm không thoái chuyển, thành tựu định thần túc. Bấy giờ Bồ tát lại tự thị hiện thần túc rộng lớn không cùng tận, từ cõi Diêm phù đến cõi trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba cho đến cõi trời thứ sáu. Chư Thiên thấy xong, mỗi vị đều khởi tâm suy nghĩ: “Nay vị Bồ tát đó tự hiện thần túc, ánh quang minh mà vị ấy phát ra chiếu khắp mọi nơi. Chúng ta, chư Thiên các cõi nên cùng nhau khuyến trợ, ủng hộ Bồ tát thành Phật đạo”. Chư Thiên hoặc dùng thiên hoa, hương tạp, thiên y đang vận, nước cam lộ tự nhiên cúng dường Bồ tát. Bồ tát ở nơi đó giáo hóa chư Thiên nhân dân. Đó đều do ý chí thần túc mà có lợi ích lâu dài. Hằng sa các Bồ tát ở quá khứ tu tập thập trụ địa thanh tịnh hạnh của mình đều ở nơi đó mà hiển bày thần túc, nhất tâm quán sát tìm cầu phương tiện có thể hiển bày các biến hiện, do sức tinh tấn liền thành tựu đạo, việc làm tự tại, không thể gặp việc trái nghịch. Khi muốn giáo hóa, đến nơi thì mọi người đều quy phục. Với pháp cội nguồn rốt ráo, Bồ tát đều khiến cho họ được đầy đủ, đạt được quả báo. Các loại ma như Thiên ma không thể làm lay động Bồ tát. Khi ấy Bồ tát dùng thiên nhãn quán ba ngàn đại thiên thế giới thấy có người có tánh dâm, nộ, si; có người không có tánh dâm, nộ, si; có người hạnh thanh tịnh, có người không có hạnh thanh tịnh; có người có tâm định, có người không có tâm định; có người loạn tâm, có người không loạn tâm. Bồ tát đều biết rõ, phân biệt theo căn tánh, hướng sanh của họ. Bồ tát lại dùng thiên nhĩ nghe thanh âm của chúng sanh, đều có thể theo thứ lớp mà biết rõ các âm thanh để giáo hóa họ. Bồ tát dùng sức thần túc nhập định tam muội thấy chí tánh, hướng thọ sanh của mọi người, tự quán thấy nguồn gốc sanh, từ chỗ này sanh đến chỗ kia. Đó là sức tu tập thần túc của Bồ tát. Khi ấy Bồ tát lại phải tư duy phân biệt pháp căn, lực, bảy giác ý, tám Hiền Thánh đạo, tín tâm, tinh tấn, định ý, tuệ căn. Bồ tát luôn dùng trí huyền thông quán sát chúng sanh liền thành tựu căn, lực, giác đạo, các tuệ thần túc. Bấy giờ Bồ tát dùng tha tâm thông tuệ quán các hạnh trước kia của chúng sanh. Có vị thành tựu đầy đủ các hạnh, có tín tâm, luôn tu tập tám Hiền Thánh đạo, tâm có chánh kiến không trụ cảnh ma, tin biết có sanh tử khổ đau vô lượng; lại biết có Niết bàn an lạc giải thoát, tin có Phật, Pháp, Tăng, thế gian sẽ sáng chói, không tin chín mươi sáu con đường tắt của ngoại đạo. Vị ấy không hồ nghi các tuệ thần thông, tích lũy công đức, có đức tin mãnh liệt với Chánh pháp, ở trong Chánh pháp lập tâm trực tín không thấy khó. Bồ tát lại dùng trí huyền thông vô ngại quán thấy chúng sanh đó ngày đêm nỗ lực tinh chuyên tu tập tinh tấn căn; ngồi, nằm, kinh hành, tâm không giải đãi. Vì đạt tinh tấn nên đầy đủ các căn ví như y trời trải trùm khắp bốn phương và phương trên, phương dưới đều bình đẳng không sai khác, lúc ấy nếu có người từ một hướng đến nắm một góc y giở lên thì ba góc y còn lại đều theo đó lật lên. Người có tinh tấn căn cũng như thế. Nếu có người tu tập tinh tấn căn thì phải biết người đó có đầy đủ tất cả các pháp. Do có tinh tấn nên thành tựu niệm căn, tâm sai loạn gọi là định căn; luôn dùng phương tiện thâu nhiếp tâm, giữ ý chuyên nhất; phân biệt tâm thiện ác như hư không gọi là tuệ căn. Bồ tát thập trụ nhập huyền thông định biết trước tướng thọ thai của chúng sanh, phân biệt nam nữ, nam căn, nữ căn, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp cho đến vô số kiếp đều có thể thông tỏ không cùng tận. Đó gọi là Bồ tát đầy đủ đạo môn tư duy các trụ, trí tuệ biện tài khó ai sánh bằng. Bồ tát phải niệm làm cảm động mười phương cõi nước, lại phải dạo đến các cõi Phật thị hiện phóng ánh quang minh. Người trông thấy ánh sáng đó đều được độ thoát. Bồ tát phải khởi lập pháp luật cho các quốc độ, khiến mọi người đều tôn thờ kinh điển Hiền Thánh, lại phải làm an lạc, lợi ích cho nhân dân trong quốc gia, giảng dạy, hướng dẫn giáo pháp khiến họ nghe không nhàm chán, luôn phải hiểu rõ chủng tánh của người dân mà không phân biệt quyến thuộc thân thích, cũng phải quán biết tâm ý chúng sanh rồi vì họ diễn nói sáu pháp Ba la mật. Bồ tát lại phải ngăn chặn loạn niệm của chúng sanh, dần dần an lập tâm cho tất cả chúng sanh, tự làm bậc Đạo sư dìu dắt hướng dẫn họ thể nhập trí tuệ thiện pháp, luôn nhớ nghĩ nhập định, không mất thần túc, tự thân tu tập thần thông, phân biệt ba đời biết rõ quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại phải tư duy học trí tuệ thâm sâu không ngằn mé của chư Phật, cũng phải tu học đầy đủ pháp của chư Phật, tỏ ngộ các pháp mà không nhiễm trước, học tập diễn nói không ngừng, mở toang bảy kho báu, học dùng trí tuệ thần túc thành tựu cho quốc độ của mình, học tập ánh sáng chiếu khắp mười phương, đắc tâm định của chư Phật làm cảm động cõi nước, học phương tiện thiện xảo hóa độ các ngoại đạo, học cấm giới thành tựu đạo quả, phải học tập hợp chúng hội để chuyển Pháp luân, theo sở học tự thân thành tựu Nhất thiết trí, đã thành tựu các pháp học mà không thấy có pháp để học.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đó gọi là Bồ tát tu hạnh thập trụ, sắp thành tựu Phật quả làm nghiêm tịnh quốc độ. Thuở xưa Ta giáng thần tại cung Đâu Thuật dùng pháp phương tiện giáo hóa trời người, thị hiện pháp thù thắng vi diệu, quán sát chủng tánh và nước nào có thể thác sanh, từ cõi trời Đâu Thuật xuống thế gian, ba mươi sáu lần lên xuống tuần hoàn giáo hóa trời người, độ thoát vô số chúng sanh, dùng phương tiện quyền xảo một mình đi khắp ba cõi mà không sợ hãi. Sau cùng giáng hạ thế gian tu tập khổ hạnh sáu năm, chuyên tâm khổ hạnh thân như cây khô. Ta tuy thị hiện khổ hạnh như thế nhưng chỗ Ta ở không gọi là cõi Phật. Ta ở đó giáo hóa tám mươi bốn ức na thuật trời người, đều khiến họ an lập nơi bất thoái chuyển địa. Chúng sanh ở cõi ấy thấy thân Ta cho là Ta đã mạng chung, mạng căn đã dứt. Người qua đường chất củi thiêu đốt nhưng không thể thiêu đốt được. Ta dùng phương tiện khéo léo tu tập nhất tâm, tinh tấn, thánh tuệ, không bỏ sự kính mộ của chúng sanh, từ bỏ các pháp tu không cần thiết, tâm thương xót chúng sanh. Vì thế nên Bồ tát thị hiện khổ hạnh. Bồ tát trụ ở thập địa không rời sanh tử khai hóa chúng sanh, những người được độ đều thành Phậ. Giả sử tâm Bồ tát muốn mau thành tựu đạo vô thượng thì chỉ trong khoảnh khắc khảy móng tay thân liền hiện sắc màu hoàng kim, đầy đủ mười lực, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cộng thù thắng. Quyến thuộc của Bồ tát trong một ngày đều thành tựu. Bồ tát không mong cầu các loại quốc độ nhiều điều ác nhưng vì chúng sanh có tâm cống cao, khinh thường các bậc tôn kính, tự thân không bỏ tâm tự đại nên thị hiện thọ bào thai, tùy thuận thế gian dùng phương tiện hóa độ, tạo nhiều lợi ích cho nơi Bồ tát sanh đến. Khi đó Bồ tát thập trụ không còn tên Bồ tát mà phải gọi Ngài là Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, có vô lượng phước đức, được chư Phật ủng hộ, chư Thiên luôn hộ vệ. Các pháp yếu giảng nói đều có nhân duyên, tùy thời thích hợp không bao giờ không thích hợp. Tối Thắng nên biết, vì vậy cõi Phật đó có tên là Vô Hiệu. Cách đó bảy mươi bảy ức hằng hà sa cõi Phật về phía Đông nam có thế giới tên là Nhân Hiền, Đức Phật tên là Thiện Nhãn. Ở đó không có đạo Thanh văn, Duyên giác, dùng pháp vô danh hiệu, vô sanh diệt mà giáo hóa cho nhau biết đạo giải thoát Không, không suy lường giải thoát, nghe pháp Không liền tỏ ngộ rất dễ không khó. Cõi đó cũng không có tam độc, bệnh dâm, nộ, si; ghi nhớ không thể tận cùng các pháp Tổng trì. Ta ở cõi Phật đó bố thí, làm Phật sự mà chúng sanh ở đó cũng không biết chỗ thân Ta trụ. Đó gọi là Bồ tát tu tập nhiều hạnh thấm nhuần chúng sanh. Này Tối Thắng, đó gọi là Bồ tát thập trụ ở thập địa thanh tịnh hạnh của mình.
***
Phẩm 11: DIỆT TÂM
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Thế nào là Bồ tát quán nghĩa lý vô thường, phân biệt Không, ngộ rõ trong ngoài tự thân là vô chủ, tâm tự tại, việc làm đều đầy đủ?
Lúc ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Tâm hành của Bồ tát không chấp trước, giảng luận các pháp không chướng ngại, biết rõ nguồn gốc của con người là pháp mộng ảo, liễu tri tâm niệm thiện ác của tất cả chúng sanh, nhân duyên báo ứng qua lại như tịnh – bất tịnh, khổ – lạc, đẹp – xấu, thuận – nghịch, trói – mở, định – loạn…, Bồ tát đều có thể biết. Trước tiên quán chiếu chúng như hư không không thật, lại dùng pháp túc mạng thông theo căn tánh phù hợp nói pháp khiến họ biết không tịch. Thần túc (của Bồ tát) không ngăn ngại, thấy khắp tất cả. Đó gọi là Bồ tát quán thông đạt Bổn vô. Hoặc hiện ra thân Phật mà nhập diệt độ, vì phương tiện thị hiện nên không vĩnh viễn diệt độ, thấu tỏ ngọn nguồn từ xưa đến nay của chúng sanh vốn thanh tịnh. Hoặc vì để thuyết pháp, Bồ tát ở nơi khác thị hiện cảnh phân ly tán loạn để chúng sanh biết rõ xứ sở bất tịnh, dơ uế ác hiểm, khiến cho người có tâm chấp thường trừ tâm ái chấp. Bồ tát lại khen ngợi pháp lậu tận đưa đến Niết bàn, nếu không trừ sạch lậu hoặc cũng không thủ chứng Niết bàn. Bồ tát lại vì chúng sanh khen ngợi pháp vô lậu, tất cả sự mê loạn đều không đưa đến tận tuệ. Bồ tát tu tập tâm đại từ mẫn, lắng đọng tâm tư thể nhập thiền định, trụ tâm vắng lặng thể nhập tam thiền, tứ thiền cho đến tứ không định, đạt được pháp không, vô tướng, vô nguyện, có công đức tu tập ba mươi bảy pháp đạo phẩm, dùng phương tiện khéo léo khai hóa tất cả chúng sanh, quán chúng sanh đang ở trong tám nạn, khiến họ trừ bỏ trần lao vĩnh viễn không còn cấu uế. Bồ tát lại dùng đạo Hiền Thánh không chướng ngại đi vào sanh tử độ chúng sanh đến Niết bàn, cũng dùng pháp trí tuệ thiện xảo giáo hóa hàng Thanh văn, Duyên giác, theo đó khuyến tấn đưa họ đến đạo tràng. Nếu có người trong tâm phiền não rối loạn thì dạy họ tu tập tịch tĩnh không khởi các tưởng. Nếu có chúng sanh có tâm chấp trước hữu số, vô số thì thị hiện vô sở hữu, cũng khiến họ đạt được tâm không chấp trước. Bồ tát tuy dạo quanh qua lại các cảnh giới nhưng không khởi tưởng chấp trước, không bị chướng ngại, luôn giảng nói pháp vi diệu cho chúng sanh; pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi, pháp thiện ác đều liễu tri cũng không bị chướng ngại. Lại dùng trí tuệ vô lậu không ngăn ngại thấy rõ nguồn cội pháp tâm hành của chúng sanh, tùy theo hình tướng của họ mà an lập pháp giải thoát, tùy theo tập tục mà dạy khiến họ hiểu rõ pháp, không để tâm ý khởi tưởng sanh diệt, dùng tuệ phương tiện phù hợp nên luôn được tự tại. Này Tối Thắng, đó gọi là Bồ tát thực hành quán niệm, hiểu rõ gốc của thân trong ngoài đều vô chủ, luôn nhớ nghĩ tu hành, tâm không nhàm chán, tự đạt được an lạc vĩnh viễn, cũng khiến cho chúng sanh nương nhờ phước đức đó thực hành tâm đại từ bi không khiếp nhược, sau đó mới thông tỏ thân là vô chủ, pháp trong ngoài (thân) cũng như vậy. Bồ tát xem các chúng sanh ấy như xương thịt của mình, có mong cầu gì trước là vì chúng sanh sau mới vì mình, tâm từ mẫn tế độ chắc thật không hư dối, đều khiến cho chúng sanh tạo công đức vi diệu, tâm thức tịch tĩnh cũng không lay động, quán sát thân này nên không thể tham trước. Bồ tát lại vì chúng sanh mà nói pháp bất tịnh, thân này như thành trống, hư ảo không bền chắc, thân như hào khe luôn luôn tuôn tràn, thân như lửa thiêu cháy củi khổ không ngừng, cũng như sông hồ tuôn ra biển không bao giờ đầy.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát giảng dạy cho chúng sanh tư duy phân biệt biết điều bất tịnh, cũng khiến họ khởi tưởng bất tịnh, thể nhập sâu xa biện tài không ngăn ngại, đạt được pháp Tổng trì không bị quên mất, pháp âm đã nghe không quên thứ lớp, luôn theo chân lý suy tư tam muội chánh thọ, luôn thể nhập các pháp Ba la mật tịch tĩnh, hàng phục ma oán, trừ tưởng tà loạn. Này Tối Thắng, Bồ tát quán thân là như thế, biết rõ trong ngoài thân không có xứ sở, ảo hóa như hình bóng, tiếng vang, dợn nắng; thể nhập pháp chơn đế phân biệt pháp giới, xa lìa tâm tham muốn cõi đời, siêng năng tu tập đạo Chánh giác không, vô tướng, vô nguyện, biết tất cả pháp sanh cũng vô sanh, vô sanh cũng sanh. Tuy trụ trong sanh mà không có hai, tùy theo chỗ sanh của chúng sanh mà khai đạo hộ họ, giữ chí dõng mãnh không bỏ tâm đạo, ngồi dưới cội thọ vương mà tự phát thệ nguyện: “Ta nay tự thế nếu ta không thành Đẳng Chánh Giác, trọn không đứng dậy khỏi chỗ ngồi này”. Bồ tát giữ tâm bình đẳng không bỏ Phật đạo, luôn trụ trong ba cõi mà cũng không chấp trước, tự quán nội pháp, quán vật của tha nhân cũng như thế, nhớ nghĩ mong cầu trí tuệ thanh tịnh thẩm suy chơn lý, liễu tri thường tưởng đều là vô thường tưởng.
Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát tự niệm: “Như ta ngày nay do đâu mà thọ lãnh thân hữu lậu? Đó là do nhiều kiếp tích chứa công đức không mệt mỏi, tập hợp trí nghiệp nên mới có thân này. Bồ tát không nhớ nghĩ theo đạo Thanh văn, Duyên giác. Nếu có người đến mà có thú hướng đó, tâm Bồ tát không sợ hãi cũng không nghi ngờ, thực hành bố thí, trừ bo các loạn tưởng, nội tâm tự tư duy: “Do công đức này, khi ta đắc quả Đẳng Chánh Giác thì thân ta tướng hảo trang nghiêm màu hoàng kim”. Bồ tát lại giáo huấn chúng sanh khiến họ giữ cấm giới, không đọa đường ác, tâm nhu thuận nhẫn nhục, các căn không loạn, gia công tinh tấn, bỏ tâm tự đại, tâm luôn trụ trong tam muội chánh thọ không dong ruổi, tu tập thành tựu đại trí tuệ, lìa xa trần dục; dùng phương tiện giáo huấn thông đạt không giới hạn. Với nghiệp thánh trí chưa từng sót mất, trụ tâm kiên cố như chỗ trụ của Phật, biện tài phân biệt tùy thuận ứng hợp với nghĩa, đạt tâm Tổng trì không làm tổn giảm đạo giáo, làm sung mãn tất cả sở nguyện cảu chúng sanh, tinh tấn điều phục người thoái chuyển khiến họ không đọa lạc, ngôn giáo giảng dạy rõ ràng tương ứng với cấm giới, tự thân đã không có tâm oán hận nên không nói lỗi người, thực hành Bồ tát đạo luôn tự xét lỗi mình thà mất thân mạng không nói lời hủy nhục bỉ thử. Nếu có chúng sanh tự đến quy mạng, Bồ tát không lấy làm vui. Giả sử không có người đến cũng không buồn, nghe điều thiện không vui, nghe điều ác không giận, thuận theo tất cả làm cho họ đến đạo tràng thành tựu Phật đạo. Bồ tát không trái nghịch cấm giới, trước cứu nguy cho người không cầu thân mình an ổn, bố thí bảy báu mà tâm không hối tiếc, thể nhập pháp yếu sâu xa, thần thông không ngăn ngại. Bồ tát lại dùng thần lực quán căn tánh cạn sâu, cao thấp của chúng sanh, phân biệt thánh tuệ rồi vì chúng sanh diễn bày, các việc làm không chấp trước cũng không cùng tận. Tuy ở trong pháp duyên khởi mà tâm không nhiễm trước tất cả các lậu, không cho là mình chứng đắc, quán sát pháp tánh không có ngô ngã, chánh pháp tịch nhiên thanh tịnh vô cấu. Bồ tát không trụ nơi pháp hưng suy của ba đời, không thấy quá khứ vĩnh viễn diệt tận, không thấy tương lai có đối tượng hay không có đối tượng, không nghĩ hiện tại là thường tồn.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát quán sát khắp vô số vô lượng pháp không sanh khởi, pháp không hoại diệt, thân hành thanh tịnh mà không làm ác, khẩu nói lời thanh tịnh, niệm luôn chí thành, ý luôn trong sáng không phạm mười điều ác. Đó gọi là Bồ tát tương ứng với pháp Ba la mật, được chư Phật hiện thân thọ ký. Tuệ căn vòi vọi, công đức vô cùng, ở trong thập trụ vị chánh định không thoái chuyển, phụng hành pháp không trái nghịch, tánh tình hòa thuận, đầy đủ các hạnh, đạt được mười lực của Phật, chí như kim cương, hiểu rõ gốc các pháp có khởi có diệt, thấu tỏ tâm bệnh nặng nhẹ của mọi người. Tánh hạnh của chúng sanh bất đồng, thọ lãnh quả báo ra sao Bồ tát đều có thể biết rõ. Vì sao nói Bồ tát biết rõ quả báo, tay giữ tuệ sáng trừ bỏ u mê cho chúng sanh, tư duy quả chứng? Tối Thắng nên biết, Bồ tát cầm gươm bén trí tuệ thẩm suy chặt đứt khối nghi hoặc, những hạnh đã làm đều là quả chứng, do quả chứng đó mà tu hành bố thí rộng rãi, giữ giới đầy đủ như bình kiết tường, tâm thực hành nhẫn nhục như Bồ tát Tần Đầu, sức tinh tấn siêu việt như vua Thiện Nhan, thiền định thể nhập Không tuệ vi diệu. Bồ tát là như vậy, quả chứng tuệ tâm không gì có thể làm lay động. Bồ tát tuệ thí bình đẳng không hai, không thấy ngô ngã khởi vô số tưởng, với người và vật cũng bình đẳng. Thấy người, vật bình đẳng nên đắc các pháp bình đẳng, liễu tri pháp bình đẳng nên Chánh giác cũng bình đẳng. Với giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ đều hiểu rõ là bình đẳng không phải phân ra nhiều phương diện. Bồ tát liễu tri tất cả pháp sanh cũng không có sanh, sanh cũng là không sanh, không sanh cũng là sanh. Này Tối Thắng, đó gọi là Bồ tát quán thông đạt tận cùng tất cả pháp lớn chơn chánh, tâm không hưng khởi trần lao rồi tương hợp với chúng, xả bỏ tất cả sanh, không thấy có gì sanh, tự thân đã bố thí mà không thấy có gì thí. Hoặc có Bồ tát tu hạnh bố thí để cầu đạo, lại vì tưởng chấp mong muốn được diệt độ. Đó gọi là tạp độc vẫn còn trong sanh tử. Ta nhớ thuở xưa vô số kiếp về trước từng ở thế giới đó làm Chuyển luân vương, Phi hành hoàng đế, theo ý muốn vật tự nhiên hiện ra trước mặt không trái ý. Các thế hệ con cháu nối nhau trải qua sáu mươi chín trung kiếp. Trong khoảng thời gian đó, Ta thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ; dựng các tòa tháp bằng bảy báu cao đến tận trời Phạm Thiên đầy khắp thế giới. Lúc đó, ở thế gian có Đức Phật hiệu là Dũng Tấn. Chúng La hán tùy tùng có chín mươi ức trăm ngàn na thuật vị, bậc Bồ tát Đại sĩ nhiều không thể tính lường. Ta tự thân cung kính cúng dường tứ sự: y phục, thức ăn uống, giường chiếu đồ nằm, các loại thuốc thang trị bệnh; của cải quốc gia, vợ con, voi ngựa, bảy báu, người hầu của mình và truyền lệnh cho nhân dân đều đem đến cúng dường Đức Phật Thế Tôn đó. Lúc ấy Ta bố thí có tâm chấp trước, do đó mà rơi vào chốn sanh tử; luôn tôn vinh công đức của mình nên không đạt được quả báo. Do thuở ấy tạo công đức mà khởi dục chấp nhỏ như sợi lông nên nay vẫn còn tồn tại chi mạt kiến. Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát tuệ thí thấy thí cũng là hữu thí, thí cũng là vô thí, cũng không thấy thí, cũng không thấy chẳng bố thí; thí cũng là chẳng thí, chẳng thí cũng là chẳng thí. Với pháp thí thấy bình đẳng nên được pháp bình đẳng. Hiểu rõ thí, vô thí mới tương ưng với tự nhiên. Giới, nhẫn, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ cũng như vậy. Liễu tri trí không tịch cũng không có trí. Với trí, vô trí như thế mới tương ưng với trí tuệ.
Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát lại phải tư duy Pháp bảo. Thế nào gọi là Pháp bảo? Đó là nói bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám pháp trực hạnh, thần thông tam muội, các pháp Ba la mật. Mỗi mỗi pháp đều phân biệt mà không có ngô ngã, trừ sạch mê mờ nên biết được ánh sáng lớn, tu tập thành tựu trí tuệ khai hóa chúng sanh, trút bỏ gánh nặng âu lo nên không do dự, phụng tu cấm giới, thân ý vắng lặng. Lại phải tư duy tu tập tuệ bảo, cũng không sanh tâm có ý nương tựa. Ý lìa ba đời cũng không có trong ngoài, không nương vào các nhập, bốn đại, ấm cái; dùng hoa bảy giác ý làm vòng hoa, dùng tám phẩm Hiền Thánh làm quả báo, dùng đạo tràng trang nghiêm làm nhà cửa, hướng đạo chúng sanh đến Ba la mật đạm bạc, vắng lặng không già, bệnh, chết cũng không ưu hỷ, các phiền não đau khổ, một mình đi trong ba cõi mà không sợ hãi, quán người và vật đều là thanh tịnh. Ngã, nhân thanh tịnh nên người, vật cũng thanh tịnh. Liễu đạt thanh tịnh mà không sở hữu. Bồ tát từ sơ phát tâm đến thập trụ địa, phải niệm thanh tịnh, khởi ý vi diệu. Ở trong đó trọn không khởi sanh lại ý dâm, nộ, si; cũng không có bố thí, tâm phải quán rõ chúng sanh; lại cũng không khởi tâm nhị thừa thì chính là bậc thượng thủ ở trong đại chúng. Tuy ở nơi giàu sang mà không cống cao, cứu hộ chúng sanh, không từ bỏ chúng sanh. Tâm Bổn vô mỗi mỗi không thật, tâm chẳng phải hữu tâm, cũng không bị ràng buộc. Đó là ý kim cương của Bồ tát không thể phá hoại, nuôi lớn pháp lành khiến không sót mất, tư duy thâm diệu phát thệ nguyện rộng lớn không thể nghĩ bàn, quán sát tất cả tánh không thấy có pháp khởi, cũng không thấy có ai thành tựu, quán việc đời như ảo đều không phải chơn thật, dùng thanh tịnh quán biết đó là điên đảo, không theo các pháp tương ưng hay không tương ưng, cũng không xả bỏ. Người có tạp niệm mong cầu không thấy những pháp tích tụ nên thân hiện tại, không thấy các pháp mà nhân đó rời khỏi thân quá khứ, vị lai; quá khứ cũng không kết thúc, vị lai cũng không đầu mối, phân biệt hiện tại đều không xứ sở, suy tư tìm hiểu Chánh pháp mà không thể đắc. Bồ tát trụ tâm phải ở nơi điên đảo. Tưởng bất thành là pháp yếu của Bồ tát. Sáu mươi hai kiến là pháp yếu của Bồ tát. Trầm ngâm do dự là pháp yếu của Bồ tát. Mong cầu phước báo cõi trời là pháp yếu của Bồ tát. Vào địa ngục mà không nghĩ có khổ là pháp yếu của Bồ tát. Biến thân vào trong đường ngạ quỷ và súc sanh là pháp yếu của Bồ tát. Bồ tát tuy ở trong địa ngục ngũ vô gián mà nhổ trừ thống khổ cho chúng sanh, khiến họ an trụ nơi giải thoát mãi mãi an lạc. Bồ tát cũng không sanh diệt họa loạn tưởng, tư duy pháp giới cũng bất khả đắc. Vì sao? Người do pháp sanh, pháp do người khởi, tự khởi tự diệt cũng không có gốc tử. Người không rời tánh, tánh không rời người. Người, vật đều tự nhiên không thấy dấu vết. Ngô ngã, thọ mạng cũng như thế. Ngô ngã tự nhiên, các pháp tự nhiên. Pháp vốn tự nhiên, đạo cũng tự nhiên. Người quán thông đạt Không, ngộ được như thế thì đạt đạo tích tự nhiên. Nói về đạo tích tự nhiên thì diệu quán vô nhị, cũng không thấy hai pháp đối đãi. Bồ tát lại có Tốc tật tam muội. Người thể nhập tam muội đó thì trong khoảnh khắc khảy móng tay dạo khắp mười phương hằng sa các cõi Phật, lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn rồi trở lại chỗ cũ mà mọi người đều không hay biết. Ngồi trên tòa suy tư thì như pho tượng, nhập tam muội chánh thọ đến ức trăm na thuật hằng hà sa cõi Phật về phương Đông lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi lắng nghe nhận lãnh pháp vi diệu, rồi đột nhiên lại đến vô lượng cõi Phật ở phương Nam, sau đó trở lại vô lượng cõi Phật ở phương Bắc. Bốn phương góc và phương trên, phương dưới cũng như thế. Bồ tát ở trong đại chúng ngồi yên khởi (niệm) mà không ai hay biết. Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát nhập định ý chánh thọ trong khoảng thời gian khảy móng ay dạo khắp vô lượng cõi ở mười phương, đột nhiên trở lại chỗ cũ. Lúc ấy chúng sanh ngồi ở đó mà không ai hay biết. Như Ta hôm nay ở trong đại chúng diễn nói pháp nghĩa, có hai ức Bồ tát không rời khỏi tòa mà mỗi vị đều dạo đến cõi Phật ở mười phương, nay mỗi vị đều đã trở lại chỗ ngồi của mình. Chúng sanh nghe pháp không ai có thể biết được. Đó đều do hạnh thuần thục của Bồ tát.
Bấy giờ ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Tam muội mà các bậc Chánh sĩ đó thể nhập có tên là gì mà khiến các Bồ tát đi về nhanh đến như vậy?
Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Ngoài tam muội mà Bồ tát thể nhập còn có tam muội tên là Vô ngại thông, là pháp chư Phật Thế Tôn thường trụ. Chư Như Lai nhập tam muội đó rồi trong khoảnh khắc hơi thở ra vào đến ức trăm ngàn cai hằng hà sa đẳng cõi Phật, cũng khiến chư Phật Thế Tôn ở mười phương đều đến trong thế giới đó mà không thấy có chúng sanh nào hay biết. Hoặc đem tất cả nước biển ở mười phương dời đến trụ giữa hư không như viên ngọc sáng mà không ai thấy, cũng không làm cho các loài sống trong nước hoảng sợ. Đó gọi là Vô ngại thông tuệ tam muội.
Lúc ấy, trong hai ức vị Bồ tát thượng thủ có một vị Bồ tát tên Hải Tạng ngồi trên tòa tự nghĩ: “Như Lai hẳn muốn ta hiện thần lực của tam muội đó”. Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến thẳng tòa ngồi cao trước đại chúng, cúi đầu lễ Đức Phật cùng các bậc Thượng tôn rồi đứng trước Đức Phật chắp tay thưa:
– Phật đạo sâu xa không thể dùng ví dụ nói hết, đạo Vô thượng chánh chơn thật là khó sánh. Nay con quán thấy tất cả Bồ tát và bốn bộ chúng, chư Thiên, các tôn thần đến trong hội và thấy các Bồ tát ở trong đại chúng cất tiếng rống sư tử. Lại nữa, những người khát ngưỡng giáo pháp đến trong hội rất lâu nay gặp được điều khó gặp muốn thưa hỏi. Nếu họ được thấy nghe liền phát thệ nguyện.
Đức Phật bảo ngài Hải Tạng:
– Ông cứ theo chỗ nghi ngờ mà hỏi. Như Lai đều sẽ giảng nói phân biệt chỗ nghi vấn cho ông, để các Bồ tát và mọi người trong pháp hội đều được hỷ lạc. Như Lai sẽ dùng sức nóng từ gươm trí tuệ thiêu rụi rừng rậm ngu si của ông.
Lúc đó Bồ tát Hải Tạng lại bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con hướng về tòa cao tâm suy tư tự nghĩ rằng hai ức vị Bồ tát này tích tập điều lành đã rất lâu, đầy đủ công đức, hàng phục tâm ý, chí đều hướng về đạo pháp, do các gốc lành nên đạt được chánh định. Các vị ấy từ vô số kiếp theo hầu chư Phật lễ bái cúng dường. Các bậc Bồ tát thần thông Chánh sĩ đó vì chúng sanh đã từ mẫn bố thí voi, ngựa, bảy báu, làm cho chúng sanh loại đều thành tựu Phật đạo. Hoặc có vị vì tâm không kiên cố, thoái chuyển với sự tu tập tam muội định ý chánh thọ kia. Lại có Bồ tát vì trần lao mà đi sâu vào sanh tử muốn làm cho chúng sanh vĩnh viễn không còn đau khổ. Hoặc có Bồ tát nhập Từ tam muội làm cho chúng sanh đó mãi mãi lìa bỏ tâm ganh ghét đố kỵ. Lại có Bồ tát khởi tâm Bi làm cho chúng sanh hiểu rõ nghĩa vô thường. Hoặc có Bồ tát nhập Hỷ định ý khiến người trông thấy đều hiểu rõ pháp Không tịch. Lại có Bồ tát phát tâm kiên cố như kim cương khiến chúng sanh đều thành tựu tâm nguyện đã khởi phát. Lại có Bồ tát chí hướng rộng lớn đưa tất cả chúng sanh vào cõi của mình. Lại có Bồ tát dùng thân pháp bổn khiến chúng sanh mới phát tâm, đang phát tâm hay đã phát tâm đều thiện. Lại có Bồ tát ở tám nơi không nhàn phát triển Tam bảo khiến không đoạn tuyệt. Hoặc có Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo theo chí hướng chúng sanh mà ứng hóa thích hợp. Hoặc có bồ tát vui trụ trong Không tuệ, quán thân này như tường vách. Hoặc có Bồ tát tâm ý chất trực, việc làm thanh tịnh không dơ uế. Lại có Bồ tát tánh tình chí mật, du hành các phương mà không sót mất. Lại có Bồ tát tâm hướng đạo Nhất đạo, không để chúng sanh nghe tên gọi Tam thừa. Lại có Bồ tát chí vui trong sáng, gột rửa trần lao cho chúng sanh khiến họ mãi mãi không còn dơ uế.
Bấy giờ Thế Tôn ở trong đại chúng tán thánh Bồ tát Hải Tạng:
– Lành thay! Lành thay! Chỉ Bồ tát Hải Tạng mới có thể ở trước Như Lai, trong chúng hội cất tiếng sư tử rống, tán thánh định ý mà các Bồ tát thể nhập để chúng hội đều nghe biết. Định ý tam muội chánh họ mà các vị Chánh sĩ ấy thể nhập không thể nghĩ bàn, không ai có thể đạt được, chẳng phải pháp mà hàng Nhị thừa có thể suy lường. Bồ tát tích tập công đức không vì tự thân mà nhớ nghĩ độ cho chúng sanh, những ai đang chịu khổ não. Giả sử ba ngàn đại thiên cõi nước, ở trong đó gió nổi lên khắp thế giới như gió núi tràn đến khắp nơi rất nhanh, có người tu tập đạo tích, tâm dõng mãnh phát nguyện ở trong đó qua lại tìm đạo tu tập thì có thể thành tựu mà không bị chướng ngại. Huống chi Bồ tát có thần thông tam muội chánh thọ không thể nghĩ bàn của bậc Chánh sĩ, trong khoảng thời gian chuyển niệm có thể đến hằng hà sa vô lượng cõi nước. Bồ tát lại dùng pháp Lục độ, Thập thiện giáo hóa chúng sanh, lấy thiện đạo giảng huấn. Tâm Bồ tát mãi mãi an lạc không thể lay động, chí hạnh thanh tịnh cũng không sai loạn, nếu khởi tâm tu tập không ai có thể sánh bằng. Đó là do Bồ tát đời trước đầy đủ công đức, chí hạnh trong sạch không phân biệt chủng loại, tâm Từ vô lượng không cùng tận. Tất cả các pháp luôn tự tồn tại, chúng sanh không thấu đạt cho là có hưng suy. Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt. Pháp không sanh pháp, pháp không diệt pháp. Pháp sanh, pháp diệt tánh không lay động. Đó là đạo của bậc Bồ tát Chánh sĩ, chẳng phải pháp mà hàng phàm tục có thể theo kịp. Các loài chúng sanh ở trong sanh tử không đạt Bổn vô cho là pháp tánh có biến dị. Họ cho phải như vậy nhưng việc đó không phải như vậy. Hàng Bồ tát từ sơ phát tâm đến thập trụ vị thực hành bố thí, trì giới đầy đủ công đức đạt được quả báo hành tựu đạo, do ngộ lý quán Không nên biết hư vô tịch tĩnh; quá khứ, vị lai xiển dương đạo pháp, việc làm thần diệu đều thành tựu, thể nhập các địa tu tập của chư Bồ tát, đến vô lượng cõi Phật thù thắng khuyên chúng sanh phát tâm vượt qua bờ sanh tử, quán thấy rõ căn tánh tùy thời thích hợp khiến không ai không được độ. Bồ tát hoặc dùng oai nghi lễ tiết thế tục, hoặc dùng thần túc, đạo tuệ thần thông giáo dưỡng chúng sanh loại, phân biệt sự hưng suy của sáu tình trần lao; chỗ khởi của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt là vô thường cũng không phải chơn thật, đi cũng không xứ sở, đến cũng không dấu tích. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như vậy. Với pháp quá khứ, tương lai, hiện tại cũng không thấy diệt mà chúng sanh ngu si mê lầm chấp tưởng thường hằng. Vì sao? Tối Thắng nên biết, bậc Bồ tát Đại sĩ có quyền trí đầy đủ, tu tập vô lượng các pháp Ba la mật, thành tựu đức tin, rộng tu các pháp; được thấy các Đức Như Lai đều tán thán, trừ bỏ vọng tưởng, đắc vô lượng trí, biện tài vô ngại, luôn có tâm tàm quý, quán pháp không khởi, không thấy dao động. Bồ tát hoặc dùng tướng tốt làm trang nghiêm cõi Phật, làm hưng khởi pháp không trái nghịch, thể nhập sâu xa tất cả đạo trí, thưa hỏi nghe pháp không có tâm nhàm chán thấy đủ, quyền trí dõng mãnh hàng phục chúng ma; hoặc đến cõi Hữu tưởng, Vô tưởng; hoặc đến cung điện của Phạm Thiên, Đế Thích; hoặc đến hằng sa cõi nước ở mười phương, du hành các phương làm hưng khởi Phật pháp. Việc làm của Bồ tát huyền diệu sâu xa không thể nghĩ bàn, trừ bỏ tâm kiêu mạn cũng không có tâm thị phi.
Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát Đại sĩ tu tập vô lượng pháp môn Chánh giác: bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám pháp trực hạnh; nhớ rõ pháp Tổng trì không thiếu sót, dùng pháp ý chỉ hữu vi vô vi, hữu ký vô ký, hữu lậu vô lậu, đầy đủ các pháp vô úy ở mười phương, tam muội chánh thọ trừ bỏ ấm cái, quán rõ phân biệt bất thoái chuyển địa. Bồ tát lại dùng sức tam muội chánh thọ với năm mươi bảy pháp tuệ nghiệp siêu việt phải nhớ nghĩ khiến không quên mất. Nếu có người bố thí cầu phước báo chư Thiên, hoặc cầu ở trong cung quỷ thần, loài rồng, hoặc bốt hí vì muốn sanh lên cõi trời Tứ Thiên vương; tất cả đều không phải chơn thật, không đạt được điều mong cầu của mình.
Khi ấy Thế Tôn nói kệ bảo ngài Tối Thắng:
Thân tịnh không làm ác
Không nói bốn pháp sai
Ý không nhớ nghĩ tội
Là Bồ tát Tổng trì.
Truyền giảng vô lượng đức
Mãi không tâm xan tham
Thần thông trừ mê ám
Là Bồ tát Tổng trì.
Khi dạy người bố thí
Không khiến họ cầu mong
Nguyện mất, đọa tam đồ
Công lao không tổn giảm.
Ta xưa cầu Chánh Giác
Chấp tưởng qua nhiều kiếp
Phương tiện vượt tử sanh
Dạo xem trong ngũ đạo
Lại ở kiếp lâu xa
Tạo lập cội công đức
Do không được tự tại
Nên chìm bốn vực sông
Nay tuy đã thành Phật
Pháp vương ba ngàn cõi
Do duyên trừ tưởng niệm
Được nhập huyền lộ môn
Đạo tràng phóng kim quang
Ức thần đến quy mạng
Thiện thần theo Sa môn
Đều đến tự quy kính.
Cho nên, này Tối Thắng, Bồ tát phải chuyên tâm nhớ nghĩ trừ bỏ tưởng mong cầu, ngộ rõ nhất tướng vô hình của pháp giới, làm trang nghiêm cõi Phật, không đoạn trí tuệ sáng suốt, không khuyến khích việc bố thí cho tất cả chúng sanh; không có bố thí, không có Hiền Thánh, hiểu rõ vô sở sanh, tâm bình đẳng trụ đạo Nhất thừa không thấy nhiều thừa khác. Này Tối Thắng, Bồ tát lại phải phân biệt Tứ đế. khổ do duyên gì sanh lại do duyên gì mà diệt? Bồ tát theo lý tư duy quán sát phải mong diệt trừ các nỗi khổ căn bản của thân năm ấm này. Tập sanh ra khổ, phải trừ sạch sáu mươi hai tà kiến điên đảo, dùng vô lượng trí ngộ rõ chúng không có xứ sở. Bồ tát lại dùng pháp Tứ đế quán mười hai nhân duyên từ đâu sanh và từ đâu diệt, dần dần tư duy mới biết tịch tĩnh. Hành vi của thân, miệng, ý là vô chủ, không có thọ nhận, trao truyền; không có quá khứ, vị lai cũng không có chỗ trụ. Từ quả Tu đà hoàn trở lên đến quả Chánh giác cũng như vậy, phân biệt rõ cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.
Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát tư duy biết pháp thiết yếu về Khổ, pháp thiết yếu về Tập phát sanh khổ, pháp thiết yếu về sự diệt khổ và pháp thiết yếu của con đường tu tập thoát khổ. Bồ tát tư duy như thế, lại phải phân biệt mười sáu thánh pháp sâu xa khó lường, ba mươi sáu vật dơ uế bất tịnh, tuyên dương trí tuệ của đạo quả vô thượng; diễn bày, giảng dạy, từ từ dẫn đạo cho chúng sanh. Với pháp tạng thậm thâm của chư Phật, Bồ tát đều thông đạt, lời giảng nói không bao giờ sai dối. Bồ tát hiện thân trưởng giả giàu sang quý phái do bố thí mà quy tụ, dạy cho chúng sanh khắp nơi đều cải tà quy chánh, thành tựu đạo quả, hoặc dùng hương, hoa, đèn, phan lọng bài trí chiếu sáng khắp chốn; lại dùng thần túc cảm hóa chư Thiên, tuyên dương Phật đạo khiến họ đều theo Nhất thừa. Ta do vậy trong nhiều kiếp không bị giới hạn. Bồ tát lại hiện thân Thanh văn, Duyên giác phương tiện sống ở núi non đầm trạch mà không thị hiện diệt độ, lại vào trong cung rồng giáo hóa các loài rồng được kiến đạo.
Như vậy, này Tối Thắng, việc làm công đức của Bồ tát không thể nói cho hết, chẳng phải là điều miệng có thể nói, ý có thể tư duy. Có khi Bồ tát sanh vào nhà Chuyển luân vương, trên trời dưới thế đều theo sự hướng đạo mà tu tập Thập thiện. Bồ tát nếu thấy chúng sanh trong cảnh đói nghèo thì dùng cam lộ khiến cho những người nghèo túng được đầy đủ, xa rời mầm mống phiền não trong cảnh ái dục. Công đức Bồ tát không thể suy lường như thế.
Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát phải nhớ nghĩ một ngàn bảy trăm pháp môn định ý khiến cho các bậc Vô trước thành tựu Chánh giác. Lại có pháp môn Quang minh định ý khiến Bồ tát đạt được pháp Tổng trì hiển yếu. Lại có pháp môn Thọ ấm cái định ý khiến ba ngàn thế giới đều được che phủ. Lại có pháp môn Vũ thế thần châu định ý phóng trăm ngàn ức vô số ánh sáng. Mỗi ánh sáng đều hiện ra vô số loại âm thanh khổ, không, phi thân (vô ngã). Người nghe âm thanh đó đều phát tâm bất thoái vô thượng. Lại có pháp môn Thủy tinh vô tượng định ý khiến mười ngàn thế giới bỗng nhiên đồng một màu, lại phát ra vô số tiếng nhạc. Người nghe tiếng đó tự biết được túc mạng, biết mình từ nơi chốn nào sanh lại. Lại có pháp môn Nguyệt thạnh mãn túc quang minh ở trong chúng một mình soi sáng như mặt trăng giữa các tinh tú. Lại có pháp môn Nhật tinh quang minh khai mở mắt chúng sanh khiến họ biết pháp tu tập. Lại có pháp môn Oai thần quang minh trao truyền pháp Đại thừa quyết cho người chưa biết. Lại có pháp môn Vô kiến đảnh tướng quang minh định ý vì ở trong chúng tối tôn nên được mọi người tôn kính. Lại có pháp môn Thiệt tướng quang minh định ý vì ưor trong chúng được tin dùng không bị phỉ báng.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát thể nhập một ngàn bảy trăm pháp môn định ý quang minh vô cùng thanh tịnh khiến vô số chúng sanh nghe pháp mà từ xưa đến nay chưa từng nghe thấy ngay trên tòa ngồi đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn.
Bấy giờ, cách đó vô lượng hằng sa thế giới về phương Đông có một vị Bồ tát tên là Bảo Dũng cùng các quyến thuộc vây quanh sau trước tới cõi Ta bà, đến trước nơi Phật ngự, cúi đầu lễ chân Phật rồi đứng sang một bên, chắp tay hướng về Đức Phật nói kệ tán thán:
Mặt từ hòa thù thắng
Tối tôn trong cõi người
Không cấu uế trần lao
Do thí, vô lượng đức
Quang minh chiếu trăm ức
Trong đẹp, trí không lường
Với mọi người từ bi
Pháp vương ba ngàn cõi.
Chúng con hôm nay đến
Muốn nghe tuệ cam lộ
Phật giảng, con được độ
Như khát tìm suối nước.
Khi Đạo sư vừa đến
Như đóa hoa Ưu đàm
Chúng con, người nhiều bệnh
Vì cứu nên hộ trì.
Nay con đến xứ này
Trải qua vô số cõi
Đói khát đã quá lâu
Nguyện Phật thương diễn nói.
Khi ấy Bồ tát Bảo Dũng nói kệ khen ngợi Đức Phật xong lại lễ chân Phật rồi mỗi vị thẹo thứ tự ngồi xuống. Bấy giờ Thế Tôn bảo các vị trong hội:
– Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy tư! Ta sẽ nói, phân biệt hạnh không sanh diệt của Bồ tát mà phần đầu, phần giữa, phần cuối đều thiện. Hãy ghi nhớ trong tâm.
Các Bồ tát bạch Phật:
– Chúng con vui mừng mong được nghe.
Đức Thế Tôn dạy:
– Đạo là phi sanh, sanh cũng là phi đạo. Vô tưởng là đạo tưởng, cũng là phi đạo. Vô là chánh đạo, hữu là phi đạo. Không chấp là đạo, chấp trước là phi đạo. Có ý muốn thành đạo, đó cũng là phi đạo. Không thành tựu, không mong cầu mới gọi là đạo. Ý ràng buộc với căn môn cũng là phi chơn đạo. Trừ căn môn mới gọi là đạo.
Lúc ấy các Bồ tát trong hội lại khởi ý nghĩ: “Vì sao nói danh (tên gọi) là hành vô sanh diệt, lại nói chánh đạo? Nay nói đến Niết bàn thì Niết bàn chẳng lẽ là phi đạo?”. Bấy giờ Thế Tôn biết ý niệm của đại chúng liền bảo:
– Niết bàn khác với đạo chăng?
Các Bồ tát thưa:
– Là chẳng khác.
Thế Tôn dạy:
– Nên nói Niết bàn chẳng khác với đạo. Vì sao? Vì Ta nói đó chính là Niết bàn, đó chính là đạo, đó là vô vi, đó là diệt tận, đó là nơi an ổn khoái lạc. Lại nữa, nếu nói đó là danh sắc lục nhập, khi danh sắc lục nhập đó hưng thạnh thì đạo hưng thạnh, khi danh sắc lục nhập diệt thì đạo diệt, điều đó lại là đạo Niết bàn chăng?
Các Bồ tát thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải.
Đức Phật dạy:
– Lành thay! Lành thay! Như Ta đã nói, đạo chẳng phải là Niết bàn, Niết bàn chẳng phải là đạo. Sanh vốn là diệt, diệt chẳng phải là sanh. Đạo là gốc của Niết bàn nhưng Niết bàn cũng chẳng phải là đạo. Danh sắc lục nhập cũng như thế.
Bấy giờ chúng hội nghe pháp vô sanh diệt hạnh định ý quán đó xong đều đạt được tâm vô sanh diệt, không còn thoái chuyển.
***
Phẩm 12: THẦN TÚC
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn, như thế nào lại nói Bồ tát với thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ có tiến, có thoái? Lại có Bồ tát từ khi mới phát tâm đến khi thành Phật chưa từng ở trong bào thai cha mẹ mà luôn được hóa sanh, dùng thần túc dạo đến các cõi Phật, cũng không có ý tưởng về quốc độ? Kính mong Thế Tôn phân biệt rõ ràng để các vị học đạo Bồ tát ở đời tương lai biết được hướng tu tập.
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy chú tâm khéo suy tư! Ta sẽ vì ông phân biệt rõ ràng.
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Con vui muốn nghe.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Nếu có Bồ tát tu tập thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định nhưng tâm niệm có tưởng, với tất cả pháp khởi tâm chấp tưởng, hoặc tưởng có thế giới, không có thế giới; tưởng thấy có chúng sanh, không thấy có chúng sanh; tâm thấy có quá khứ, vị lai hay không có quá khứ, vị lai; ý thấy có hiện tại hay không có hiện tại; tâm thấy có chấp đoạn hay không có chấp đoạn thì đó là sự thành tựu căn lực của bậc ở Sơ địa. Vị ấy phải tương ưng với mười pháp. Mười pháp đó là gì? Đó là thần đức không thể nghĩ bàn của Như lai, nhất tướng như thế không bị chướng ngại, không thấy chấp trước danh hiệu Chánh giác, không thấy siêu độ tất cả các pháp. Với ba thừa hiện quán bình đẳng, không thấy có hướng tu tập. Không chấp thế giới biết rõ tên gọi không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là danh tướng, gọi là Nhất thiết trí cũng có tên là Pháp giới. Vì tâm duy trì niệm hướng đạo nên hộ trì ý chí, không làm tổn hại tâm mình. Như vậy, này Tối Thắng, các pháp đó cũng không có xứ sở, đến cũng không biết từ đâu đến, đi cũng không biết từ đâu diệt. Bồ tát tu tập giới, nhẫn nhục, tinh tấn cũng như thế. Giới cũng là vô giới, nhẫn cũng là vô nhẫn, hiểu rõ tinh tấn không thấy có tinh tấn. Nếu người trì giới luôn phòng hộ giữ gìn chỗ sở đoản của họ, giả sử thấy hủy giới không sanh tâm hận, thấy giới viên mãn đầy đủ không tự sanh tâm hoan hỷ. Đó là Bồ tát thành tựu giới. Bồ tát tu tập tâm nhẫn không tăng giảm. Có người đến xin các bộ phận trên thân thể Bồ tát, Bồ tát giữ tâm kiên cố không tì vết. Bồ tát đầy đủ thí, giới, nhẫn, tinh tấn, khéo tư duy trí tuệ, đoạn trừ niệm chấp tưởng, tâm không phân biệt, không khởi, không diệt, khởi vô số niệm; với các tội phước bình đẳng vô nhị. Lại phải tư duy Tam hướng Phạm đường không, vô tướng, vô nguyện; không thấy nghĩa không hợp cùng tướng, nguyện cũng không thấy tướng, nguyện hợp cùng Không. Không thấy vô nguyện hợp cùng Không, tướng. Không thấy Không, tướng hợp cùng với vô nguyện cũng chẳng phải không hợp. Không thấy vô tướng cùng hợp với Không, vô nguyện. Không thấy Không, vô nguyện hợp cùng với vô tướng cũng chẳng phải không hợp. Quá khứ, tương lai, hiện tại cũng như vậy. Lại nữa, này Tối Thắng, thần túc của Bồ tát chẳng phải do tư lự mà có thể biết, cảnh giới loài rồng thì không thể nghĩ suy, chẳng ở thế gian cũng chẳng rời thế gian, qua lại tuần hoàn đều không trụ xứ. Các pháp nguyện, tướng cũng như thế. Bồ tát thuở xưa tinh tấn tu tập đạo quả, thánh đạo tự nhiên không thấy giới hạn. Nếu có người đến cầu xin giải quyết mối nghi thì ở trong pháp Hiền Thánh chính là tự tổn hại. Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát trì giới, nghe pháp, trí tuệ, bố thí, sáu loại pháp thanh tịnh, thông đạt nghĩa lý sâu xa, tu thành Phạm hạnh. Nếu có Bồ tát tu tập thành tựu đức bổn, đạt được pháp yếu sâu xa vi diệu này, thủ diệt độ nơi Niết bàn vô dư, dạy dỗ chúng sanh pháp không biên tế, không quá khứ, vị lai thì mới gọi là đạo. Bồ tát thị hiện vào trong cảnh ái dục, quán sát căn tánh rồi vì họ nói pháp, hoặc nhập Diệt tận định, chấm dứt hoàn toàn hơi thở ra vào, thân hình bụng trương to tuôn ra các vật bất tịnh. Chúng sanh trông thấy khởi niệm tưởng vô thường. Bồ tát lại quán chúng sanh tâm định hay loạn tùy nghi thị hiện khiến họ được giải thoát, hoặc dùng oai nghi, các pháp đạo phẩm giáo huấn tất cả chúng sanh, trừ bỏ gánh nặng âu sầu của họ. Năm pháp thần trí là nghiệp của Bồ tát. Mười tám pháp vi tế là nghiệp của Bồ tát. Mười sáu pháp kim cang là nghiệp của Bồ tát. Hai mươi mốt giới mà các bậc Hiền Thánh đã tu tập là nghiệp của Bồ tát. Dưới cội thọ vương tư duy ba mươi bốn pháp là nghiệp của Bồ tát. Đối với thí, giới… không thấy ngô ngã là nghiệp của Bồ tát. Phân biệt mà không trụ quá khứ, hiện tại, vị lai là nghiệp của Bồ tát. Như vậy, này Tối Thắng, cảnh giới mà Bồ tát tu tập thật vô lượng. Biết rõ quả báo mới được hướng đạo, có các duyên đó đến thì theo nhân duyên hợp. Âm thanh từ hư không đến nhĩ thức nghe biết. Ngôn giáo sách vở chẳng phải chơn thật, theo duyên hợp thì có thể theo duyên tan mất. Duyên hợp thì hợp, duyên tan thì tan. Tan không tự biết là từ đâu tan, tụ không tự biết là từ đâu tụ.
Lúc đó ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Lành thay! Lành thay! Thế Tôn giảng nói pháp này, phân biệt nguồn cội các loại nhân duyên để chư Bồ tát vận áo giáp đại công đức, khiến vô số người phát tâm Đại thừa, khen ngợi chí hướng, việc làm của Bồ tát và giảng nói nghĩa lý mười pháp hiệu công đức của Như Lai. Các vị trong hội đều được nghe biết trí nghiệp không ngăn ngại của Như Lai. Nếu có Bồ tát nghe được pháp này, các ấm cái suy vĩnh viễn bị tiêu trừ, lại khiến cho tất cả chúng sanh đều thông hiểu. Bạch Thế Tôn, chúng con từ hôm nay xin vâng theo giáo huấn hướng đạo của Như Lai, tu tập thuần thục các hạnh, không dám phóng dật, điều phục tâm ý, bố thí; luôn phân biệt tất cả văn tự, nghĩa lý câu, đoạn đều thông tỏ như thấy trước mặt, tâm niệm bình đẳng như hư không che phủ, làm việc với tâm từ mẫn thương xót tất cả, tùy theo căn tánh mà khai đạo giáo hóa cho chúng sanh, luôn dùng tứ đẳng (tâm) hộ trì chúng sanh khiến họ được dùng pháp cam lộ, trừ sạch tất cả sân hận kiết sử, xả bỏ mười pháp, lìa xa ba độc, nhổ tận chín pháp tưởng làm não loạn tâm, làm cho tử ma, gió bụi trần làm tổn hại tâm người vĩnh viễn không còn, phân biệt gốc của mười hai nhân duyên từ si duyên hành cho đến sanh, già, chết. Lại phải tư duy pháp duyên khởi diệt. Si diệt thì hành diệt cho đến già, bệnh, chết cũng như vậy. Tùy theo chủng loại quán sát nguồn cội của họ sau mới cho thuốc, giữ tâm kiên cố quán sát rõ tâm niệm suy tư, việc làm thiện hạnh của người rồi lại vì họ nói pháp không để tâm họ dong ruổi, các tưởng uế trược không hưng khởi lại.
Khi ấy Thế Tôn lại dạy:
– Này Tối Thắng, vì vậy Bồ tát lập phương tiện giảng dạy khiến họ được nhiều lợi ích, được nhiều thành tựu, xem chúng sanh như mẹ thương con, tùy thời giáo dưỡng khiến họ không có tâm tăng giảm, luôn có chánh kiến không theo dị học. Bồ tát ở trong chúng như sư tử vương tư duy bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong trong thân. Địa động thì thủy yếu, thủy động thì hỏa yếu, hỏa động thì phong yếu. Bốn pháp đó động thì các tình suy yếu, thần thức lìa khỏi thân này. Lúc đó thân quyến có ai để cậy nhờ, chỉ có pháp lành mới có thể nương tựa mà thôi. Bồ tát lại phải tư duy quán sát sâu xa pháp tam muội chánh định mà chư Phật thể đạt, thuận theo pháp bổn đó thì không mất oai nghi, phân biệt hạnh hữu lậu hay vô lậu, vượt qua tám pháp nghiệp của thế gian, không để tâm ô nhiễm bởi lợi, suy, hủy, dự; quán biết ngã, nhân, thọ mạng đều không xứ sở. Tối Thắng nên biết, nếu có chúng sanh sinh tâm, kiến điên đảo đến vấn nạn về pháp tắc, hạnh Bồ tát thì phải theo từ một kiếp đến trăm ngàn kiếp nghe bậc Bồ tát nhất trụ giảng nói. Ngôn từ của Bồ tát trôi chảy không thể bị chướng ngại. Vì vậy nên biết hạnh của Bồ tát không ai có thể theo kịp, không thể dùng ví dụ để so sánh. Các pháp như vậy đều do thần túc biến hóa của Bồ tát phương tiện hiện ra, đi đến mười phương lễ bái, cung kính cúng dường chư Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác. Bồ tát đến nơi nào cũng vì chúng sanh mà xiển dương đạo pháp, trừ sạch tất cả nạn xưa nay, những người có tâm oán hận gặp khổ não thì tự nhiên tiêu trừ. Vì vậy nên số người trở thành quyến thuộc không biết bao nhiêu. Họ đều do trừ bỏ tâm kiêu mạn tự đại mà được. Có khi Bồ tát ở trong đại chúng diễn thuyết, thanh âm trôi chảy như Phạm âm làm cho ba bộ chúng đạt được chí nguyện của mình, hướng dẫn họ đi vào cõi giải thoát hoàn toàn mà diệt độ. Ví như rồng lớn làm cho bầu trời không mây bỗng mưa xuống khắp ba ngàn đại thiên thế giới, trăm loại cây cỏ đều được nương nhờ thấm ướt, theo thời mà phát triển sanh sôi. Bậc Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, diễn xướng một âm thanh, dùng nước pháp vị giải thoát truyền bá giảng dạy đạo pháp khiến ba ngàn thế giới đều được độ thoát. Người được giải thoát chí như kim cương, trong ngoài thanh tịnh. Bồ tát lại dùng cấm giới, pháp luật thần túc tự trang nghiêm thân như đeo chuỗi ngọc anh lạc, các tướng hiện rõ như núi vàng chói. Bồ tát đi đến đâu cũng khiến người nơi đó được thỏa nguyện. Người nghe pháp trọn lòng tin không nghi ngờ. Bồ tát lại làm cho chúng sanh thể nhập Giác ý tam muội, khiến cho loài hữu hình bò, bay, máy, cựa trong ba ngàn đại thiên thế giới tự nhiên biết được túc mạng. Chúng sanh đều ngộ rõ nguyên nhân căn bản của Tập, biết được nguồn cội của khổ. Do đó mà họ đều phát tâm Bồ tát, vâng theo tu tập chánh định của Như Lai.
Khi ấy chúng sanh nghe pháp dùng tâm tinh tấn nương oai thần của Phật hiểu rõ sở hành quá khứ, tùy theo sở hành quá khứ xa gần đều tới đạo tràng thanh tịnh vi diệu. Người đã đến đạo tràng thì chí hướng kiên cố, tâm không sợ hãi, không còn trở lại sợ hãi, ý chí hướng theo giải thoát hoàn toàn. Chúng sanh có căn tánh lanh lợi hoặc trải qua một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày thì xả bỏ thọ mạng của mình, mạng chung đều sanh lên cõi trời. Người có đức hạnh thuần thục không khuyết giảm thì sanh đến cõi Phật ở mười phương. Chúng sanh sinh lên cõi trời tự mang vô số các loại thiên hoa, tạp hương và các vật cúng dường, đều do tự nhiên hiện ra, đi đến rải trên đại chúng và các vị đến nghe pháp để cúng dường. Hoa từ trên hư không rải đều không rơi xuống đất mà hóa thành đài báu và giao lộ báu tự nhiên. Họ dùng âm thanh lớn khen ngợi:
– Chúng con có thiện lợi, có phước may mắn mới có thể gặp được Giác ý tam muội làm cho chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới đạt được sở nguyện. Nhờ Thế Tôn, chúng con mới mau được thiện lợi như vậy.
Chư Thiên lại dùng hương hoa cúng dường riêng cho Bồ tát Tối Thắng, thưa:
– Nay nương nhờ ân đức từ mẫn (của Bồ tát) mà chúng con mới gặp được Giác ý tam muội này, làm cho toàn thân chúng con đều được an lạc vui vẻ. Nếu có chúng sanh được nghe pháp tam muội Giác ý mà không trọn tin thì phải biết người đó chính do trong đời quá khứ không may mắn được nghe pháp tam muội này.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các vị đến nghe pháp trong hội:
– Thuở xưa, cách đây vô số A tăng kỳ kiếp, Ta do tu tập tam muội này nên hôm nay được thành tựu quả A duy tam Phật. Hằng hà sa chư Phật quá khứ và vị lai đều phải tu tập Giác ý tam muội này. Oai đức của tam muội này không thể suy lường.
Lúc ấy người nghe tên tam muội đó đều phát tâm Đại thừa Bồ tát không thể tính kể. Bốn bộ chúng đều đạt được Định ý tam muội. Lại có trăm ngàn người đến nghe pháp trong hội ngay trên tòa ngồi phát tâm Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Thế Tôn lại phóng ánh sáng từ Giác hoa định ý tam muội chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Các loài ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ tiêu trừ khổ não đều được sanh trở lại cõi người, tự biết mạng đời trước. Khi ấy có bốn ức chúng ngồi trên tòa thấy điềm lành như vậy, mỗi người đều sanh tâm nhàm chán họa hoạn, tâm tự nghĩ: “Đã sanh thì phải có chết, tất cả đều do nhân duyên. Chết rồi lại sanh níu kéo buộc ràng không dứt. Dâm dục là cội gốc đều do tham ái. Chúng ta nguyện sanh về cõi Cực Lạc vô dục thì mới được tu tập Giác ý tam muội và Định ý chánh thọ đó”. Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đó nên bảo họ:
– Cách đây vô số cõi Phật về phương Tây có Đức Phật tên Vô Lượng Thọ. Cõi Phật đó thanh tịnh không có dâm, nộ, si, đều đồng nhất tâm, đều từ hoa sen sanh không phải do nhân duyên tình dục của cha mẹ sanh. Các vị ở cõi đó đều là đồng nam không có nữ nhân, không có đại tiểu tiện, dùng pháp lạc thiền duyệt không có thức tưởng niệm làm thức ăn, cung kính nhau nghĩ như là cha mẹ. Các vị muốn sanh về đó thì nên phát thệ nguyện.
Bấy giờ bốn ức chúng ở trên tòa ngồi đồng phát tâm nguyện sanh về cõi đó. Khi ấy Thế Tôn từ chánh định Như kỳ tượng phóng ánh sáng Giác ý tam muội chiếu đến cõi Phật kia để bốn ức vị đó được thấy Đức Như Lai Thế Tôn và các vị Bồ tát hóa sanh ở cõi Phật ấy. Cõi đó rộng lớn đều do các loại báu vàng, bạc, lưu ly tạo thành, không có ba đường ác, nỗi khổ của tám nạn. Bốn ức người đó thấy được cõi Phật xong, tùy theo thọ mạng đều đồng sanh về cõi Phật đó, được tu tập Giác ý tam muội. Đó là do thệ nguyện đã phát lúc trước nên được như vậy. Sức oai thần cảm hóa của Giác ý tam muội có công đức như thế.
***
Phẩm 13: CUNG KÍNH
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Vì sao nói các bậc Bồ tát luôn theo Phật nghe pháp, khởi tâm cung kính, ý hân hoan không thể tự kềm chế?
Đức Thế Tôn dạy:
– Pháp yếu này cũng như thuốc của thần Na Đề. Nếu người nào uống thuốc thần này, tâm thần luôn tự nhiên hân hoan, nhu hòa, trừ dâm, nộ, si; không còn các bệnh. Người nghe nghĩa lý một câu của pháp này thì đạt đến Đại thừa, ra khỏi vọng tưởng, lìa bỏ đường ác. Người chưa đạt được chí nguyện tự tại sẽ đạt được, các căn đầy đủ thường không khiếm khuyết. Nếu có người tâm ý chuyên nhất siêng năng tu tập chánh hạnh, không có niệm tưởng khác, thuận theo pháp này thì các bệnh trần cấu tự nhiên tiêu trừ. Nếu vị thiện nam, thiện nữ được nghe pháp tin tưởng, sanh tâm cung kính Chánh pháp, ngồi dưới cội cây thân thẳng nhất tâm tư duy, giả sử tâm ý đảo loạn thì phải tu tập lại từ đầu. Nếu ý không định thì phải tự điều phục, tự trách: “Có gì mà không đạt được, không trừ được tâm ác. Cần khổ trải qua nhiều kiếp mà không kiến đạo. Tinh tấn đến ngày nào mới thành tựu đạt được vô lậu”. Họ do pháp bình đẳng nên được độ thoát. Như vậy, này Tối Thắng, người thuận theo pháp này không ở trong ba cõi cũng không lìa ba cõi. Người ấy lại dùng ba ngôi báu, bảy pháp cam lộ sáng suốt cấm chế để tự phòng hộ, luôn hối hận về lỗi quá khứ, không tạo tội ở tương lai, sẽ đạt được mười tám pháp (bất cộng) của chư Phật, bốn pháp vô sở úy, năm căn, năm lực, thiền định giải thoát. Vị ấy thuyết pháp bình đẳng không đối đãi, thân sắc màu hoàng kim, tướng tốt tự trang nghiêm, có các loại công đức như ngọc anh lạc, giảng pháp âm thanh vang khắp mười phương. Này Tối Thắng, đó là nói bậc Bồ tát Đại sĩ phải đạt được mười pháp công đức. Mười pháp đó là gì? Nghe chánh giáo, ý chuyên chú tư duy. Theo thiện tri thức cũng không sanh tâm kiêu mạn trái nghịch. Không có tâm tự đại hay tự ti mà luôn giữ tâm trung đạo. Thực hành bố thí trọn không hư dối. Theo chơn lý thể nhập trí tuệ sâu xa, ý cũng không loạn. Hoan hỷ bố thí, tâm vui mừng không hối hận. Đối trước người nhận thí không có tâm do dự chọn lựa. Thấu đạt biên hạn của khổ, tuyên nói pháp vô ngã. Tự đạt thần thông, không bỏ phương tiện quyền xảo. Đó là đạt được mười pháp công đức.
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:
Nghe pháp tâm chuyên chú
Thuận đạo, không tưởng, nguyện
Nương nhờ thiện tri thức
Bố thí không hối hận
Thương người như thương mình
Cao thấp theo nhan sắc
Niệm cung kính nhất tâm
Đạt mười phước công đức.
Tối Thắng nên biết, phương tiện khéo léo thích hợp với trí Ba la mật thì đạt được pháp Đại thừa Phương đẳng của Bồ tát. Như Lai vì thương xót người đời nên xuất hiện ở thế gian, thị hiện bao nhiêu pháp tu tập không giống nhau, hoặc thị hiện Thanh văn, Duyên giác thừa, hoặc tự ẩn nơi hang sâu, khe núi, hoặc kinh hành tự chế phục tâm mong cầu, quán xét trong thân không vật gì để đáng tham. Do vậy nên các vị phải tự tư duy đó là các pháp mà Như Lai khai hóa. Người tin tưởng lời Ta nói, ghi nhớ trong tâm thì ở trong pháp hiện tại liền được diệt độ. Tuy hàng dị học không cải đổi chánh hạnh như các vị hãy vì các kẻ dị học ấy mà trổi lên pháp cổ, giảng diễn giáo pháp. Pháp đó không có tưởng cũng không có các niệm, làm cho chúng sanh dứt hết các lậu. Các bậc như thế không thể tính kể, kính mộ nghe kinh số đó không chỉ một loại. Người bỏ chơn theo ngụy cũng nhiều vô số, hiện tại trước mắt số đó thật khó lường. Hoặc có Bồ tát chuyên quán pháp môn giải thoát, tuy hạnh tu đầy đủ nhưng ham thích diệt độ. Vì sao? Vì họ chưa hiểu rõ pháp phương tiện quyền xảo nên gặp nạn khó khăn. Như Lai dùng thần túc hướng đạo khiến họ biết rõ nhưng họ chỉ tự giác ngộ chẳng phải hạnh Bồ tát nên lại bị ma Ba Tuần quấy nhiễu, từ đó thối thất trở lại phàm phu. Tối Thắng nên biết, Như Lai ngày đêm quán sát thông sốt quá khứ, hiện tại, vị lai ai có căn tánh ám muội, thối thất, không tinh tấn; ai lúc trước tinh tấn tu tập đến Bồ tát vị nhưng lui sụt thì nhiều như cát sông Hằng, tiến bộ thì ít như sợi lông. Tâm họ cũng tự biết nhưng không có thần thông. Thường thì người mới phát tâm, tâm ý rất kiên cố nhưng nếu phải thành tựu đoạn trừ căn gốc tâm chúng sanh, tu tập pháp định giải thoát không sanh diệt thì họ lại nghi ngờ cho là chẳng phải chơn thật. Như Lai phải dùng phương tiện quyền xảo khéo léo thuyết chơn lý khiến họ vui thích muốn nghe pháp nhẫn vô sở tùng sanh, pháp quan trọng mười hai nhân duyên. Họ trước phải phân biệt ngộ rõ không, vô tướng, vô nguyện; hiểu rõ vạn vật là vô thường, chẳng phải chơn thật, chẳng hiện hữu; ngã, nhân, thọ mạng là hư vô vắng lặng.
Đức Phật lại bảo Bồ tát Tối Thắng và chúng hội:
– Ta lại nhớ khi Ta chưa thành tựu Phật quả, Ta được các Đức Như Lai hiện ra giáo huấn, lại dùng oai thần hiện ra hướng đạo. Đó là do niệm hạnh nguyện khi xưa nên mới gặp chư Như Lai, đạt được tâm thanh tịnh, chí hướng an ổn. Nay Ta đã thành Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác đầy đủ các hạnh xuất hiện ở đời, đó là do giữ gìn tâm ý không thoái chuyển. Chúng Bồ tát cũng vô lượng, sức biến hóa thần túc không thể hạn lượng, hàng phục ma khiến chúng không còn cơ may. Nếu Ta đi đến thành ấp, quận huyện, thôn xóm, thấy Ta, các loài chúng sanh liền giữ gìn tâm ý nghe kinh không có niệm khác, hưng thạnh Tam bảo không để dứt đoạn. Người cầu pháp đều được thỏa mãn, an ổn tu hành.
Đức Phật bảo Bồ tát Tối Thắng:
– Nếu có chúng sanh tin theo giáo pháp không, vô tướng, vô nguyện thì phải thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng tổn giảm. Thế nào là Bồ tát thực hành ba mươi sáu việc khiến tâm không lo lắng, tổn giảm? Đó là Bồ tát phân biệt ba hướng cũng không có tâm oán hận. Tuy ở trong ái dục mà không bị nhiễm ô, quán vô thường mà không có tưởng quán, tâm hành thanh tịnh không mất pháp tánh, mong cầu pháp giải thoát của chư Hiền Thánh. Vì người có tâm hướng đạo nên độ chúng sanh. Vọng kiến đã trừ, biết rõ chúng đều là vô thường, ứng hợp với hạnh Chánh giác vô sở trước, theo duyên sanh diệt trừ bỏ buộc ràng, thực hành bố thí không vì tự thân, ngộ rõ cội gốc của người vốn không xuất sanh, tuổi thọ dần dần mất đi không bao giờ còn mãi, mạng sống biến dị như ảo như hóa; quá khứ vĩnh viễn trôi qua không thấy dấu vết, tương lai không bóng hình lại phải thọ thân hiện hữu, hiện tại dong ruổi không biết hướng đi. Tuệ sáng biết rõ nghiệp nên thần thức không trụ, không ràng buộc với việc mở hay buộc vào định xứ Không tuệ. Tinh tấn tu tập ba việc, lại phải trừ bỏ ba việc không nương tựa vào Không tuệ nhận lãnh quả chứng của mình, trưởng dưỡng thân mạng đưa đến đạo tràng. Ở trong dục hay vô dục cũng không ly dục, chánh định của chư Phật luôn hiện tiền. Luân hồi qua lại nhưng không khởi sanh vô tưởng, chí thường trụ nơi các tuệ thần thông, thể nhập sâu xa pháp tạng mà không thấy có thể nhập, lấy diệt tận, vô sanh làm chỗ trụ. Như như như thế không hình không tướng, vốn không có hữu tế, tế cũng là vô tế. Thường không có tưởng thường hằng, tư duy về vô thường. Tuy hiện trong sanh tử mà không thấy sanh, vào trong năm đường mà ngộ rõ không có năm đường, trần lao là ràng buộc tự thân đã thoát ly chúng. Tự ngộ vô vi, không có dục mong cầu. Thấy độ người như hư không, do Không nên chẳng có pháp nào để thành tựu. Thân làm, miệng nói đều không bị tổn giảm. Này Tối Thắng, đó là ba mươi sáu pháp hành thượng diệu của Bồ tát, chẳng phải pháp hàng Thanh văn, Duyên giác theo kịp. Bồ tát phải khéo quán sát chúng rồi vì người giảng dạy, không để chúng sanh có tâm tranh tụng. Như thế bởi vì hiếm có chúng sanh nào có thể tin pháp này. Người có thể tuyên nói pháp duyên nghiệp thì mới ứng hợp với tâm vô sanh. Nếu thấy chúng sanh tâm ý không kiên cố thì phải dần dần khai mở khiến họ được hiểu rõ được mất tuy quan trọng nhưng ý phải khiêm cung, chớ tự đề cao. Lại nữa, nếu có tâm si thì dùng pháp quán Bổn vô ba đời bình đẳng không có sai khác, nhưng không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng. Thấy cũng như không thấy, lại cũng chẳng thấy, hình dung có sắc tướng. Sắc tự nó là vô sắc, vốn không có sắc. Không có thức để nhận biết sắc thì há có thức sao? Vì thâu nhận âm thanh bên ngoài, tai nghe âm thanh nên có thức. Mũi ngửi hương phát sanh thức tự biết mùi hôi thối. Lưỡi nếm vị phát sanh thức phân biệt ngon dở. Thân xúc chạm phát sanh thức do đó mà có cảm giác mịn thô. Ý duyên với pháp phát sanh thức biết rõ thiện ác trước đây. Liễu tri thông đạt các pháp vô trụ nên không trụ cũng không thấy có pháp trụ. Tối Thắng nên biết, ngô ngã sở hữu các pháp, các pháp sở hữu đó vốn là thanh tịnh nhưng cũng không thấy thanh tịnh. Các pháp ngô ngã vốn không sở hữu nên không thấy có sở hữu. Vô tự nó cũng là vô, cũng không thấy có pháp vô. Trí tuệ Bồ tát ngộ rõ đều là vô sở hữu, Bồ tát dùng trí tuệ ngộ rõ nên không nương tựa thân khẩu, không tự cao cũng không tự ti, từ khởi đầu đến kết thúc liễu tri thấu đạt tự nhiên. Bồ tát ngộ rõ nghĩa Không tuệ như vậy thì thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu vô số pháp làm lợi ích cho số đông.
Bấy giờ các vị trong pháp hội, bốn bộ chúng và tám bộ chúng quỷ thần ngồi trên tòa, tâm vô cùng hân hoan không thể tự chế. Mỗi vị đều khởi tâm cung kính dùng hoa hương, hoa Ý, họa Đại ý rải lên trên thân Đức Phật và trên các vị Bồ tát đại đệ tử. Tất cả đều sắp hàng trụ trên hư không, cử tấu âm nhạc tự nhiên. Lại có chư Thiên đứng hai bên trên hư không phát ra âm thanh tự nhiên vang động, đều tán thán: “Chúng con nay được nghe pháp mà từ xưa chưa từng có. Thế Tôn đã vì các Bồ tát giảng luận pháp yếu Không vô khiến cho hành vi của thân, khẩu, ý đều kiên cố. Trước kia, trong vườn Lộc Dã, Thế Tôn đã vì chư Thiên và người đời chuyển Pháp luân nhưng không nói hết tất cả. Nay chúng con nghe Như Lai giảng pháp Không vô, không sanh, không diệt, tối đệ nhất nghĩa, bậc nhất ở đời, không thể xưng lường. Chúng con từ thuở xưa nghe pháp như chưa từng nghe pháp như vậy. Lành thay! Thế Tôn đã làm cho tâm chúng con mãi mãi không hề do dự, lưới nghi đều trừ sạch, không còn phiền não, oán hận buộc ràng”. Khi ấy Thế Tôn bảo đại chúng:
– Bậc Tuệ giải Bồ tát vì tất cả chúng sanh, tâm không lìa bỏ các pháp căn bản, huống chi lại lìa bỏ pháp Không vô. Việc đó không thể có. Bồ tát tu học không đúng khởi ý sanh niệm thị phi. Nếu không có niệm chấp trước với các pháp thì pháp ấy thật sâu xa không thể nghĩ bàn. Người tu tập có trí tuệ yếu kém do không dùng tuệ để quán xét nên theo bốn pháp điên đảo mà khởi ấm cái, do chấp ấm cái giữ gìn trong tâm nên lại sanh buộc ràng với mười hai duyên, mười hai duyên đã sanh thì cùng thọ lãnh sáu mươi hai kiến. Do khởi thọ lãnh sáu mươi hai kiến nên lại cùng hợp với tất cả các cấu trần lao. Như vậy Bồ tát luôn phải tư duy, không cùng đồng xứ cũng không ly xứ. Từ si đến tử, tâm ý người thế gian đều khởi niệm loạn tưởng. Nếu thấy người tinh tấn thì tâm không kính mộ, thấy người giải đãi cho là không khác với người không lười biếng khinh mạn, có người phụng trì giới lại cho là không khác với người không trì giới. Thấy người hủy giới thì bảo là ý bình đẳng vô nhị. Tâm luôn nhẫn nhục thì cho là sân hận đưa đến ác đạo. Nhất tâm bất loạn thì cho là không khởi các tưởng. Bồ tát dùng trí tuệ nhổ bỏ khổ đau khiến chúng vĩnh viễn không còn, luôn phải xa lìa tất cả các niệm, suy nghĩ lánh xa việc thế gian đó. Việc thế gian đó là gì? đó là nói năm ấm, sáu suy, bốn đại, bốn họa hoạn, mười tám pháp bổn trì, mười hai nhân duyên; là các pháp tâm không cùng chúng tương ưng. Đó gọi là pháp thế tục.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Nếu có Bồ tát trong ba đời thực hành bố thí cũng chẳng tư duy về thọ báo của đời quá khứ, không nhớ nghĩ tài vật đã bố thí trong đời quá khứ, cũng không nhớ nghĩ người nhận vật thí ở đời quá khứ, không nhớ nghĩ nơi chốn đã bố thí trong đời quá khứ; không nhớ nghĩ chủng tánh, phòng nhà, nơi cư ngụ; không nhớ nghĩ rằng sanh ở nhà đó, tên đó cũng không nghĩ rằng thuở đó ta bố thí nên nay mới được quả báo, nếu nay tạo phước thì hậu báo thù thắng bội phần. Bồ tát như thế là không thành tựu, là rơi vào biên tế, là ở trong cõi ma, là đoạn dứt Phật chủng, hoàn toàn không đến được đạo Vô thượng chánh chơn, thành Tối Chánh Giác. Sở dĩ như vậy là do có tưởng chấp trước. Người tưởng chấp bố thí thì chẳng đạt quả chơn thật. Lại nữa, nếu Bồ tát nghĩ nhớ bố thí ở hiện tại và tương lai thì luôn phải hộ trì tâm, không có các loạn tưởng. Hoặc có khi Bồ tát bố thí cho người nghèo thiếu y phục, thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh, theo chỗ họ cần không trái. Người muốn thành tựu Vô thượng Đẳng Chánh Giác thì tỏ ngộ các pháp Không, liễu tri thông đạt chúng là một, pháp Không vô tướng, pháp Không bất sanh, không tạo tác, không có hành động thí, không thấy thời gian đến cũng không thấy thời gian đi, dùng pháp tánh Không quán rõ giới phẩm; tuệ phẩm, định phẩm, giải thoát phẩm, giải thoát kiến tuệ phẩm, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp đều là không hình tướng. Thấy pháp giới như trong định quán pháp giới thì không chấp pháp giới. Thấy Phật như trong định quán Phật thì quán Phật không chấp Phật. Phật là vô ngã cũng là vô sở sanh. Ý quán đạo, ý sáng tỏ. Ý quán pháp, ý sáng tỏ. Ý quán chúng sanh, ý sáng tỏ. Tuệ quán mười ba hành vô lậu đó, mười ba pháp ở tương lai, quá khứ, hiện tại. Phật đã thấy rõ tất cả pháp giới, phân biệt các giới đó không qua lại, không thấy xuất sanh, pháp tự thường trụ; cũng không thấy động, không thấy quay trở lại. Tất cả chúng sanh tự khởi thức tưởng, có người không tin mà chấp thủ sự biến hóa của pháp giới. Tam tràng thanh tịnh, tu Như Lai thất, tu tập vô số pháp không cứu cánh, lời nói cũng khác nên lãnh thọ không đồng. Bồ tát muốn thanh tịnh tam tràng và ngũ nhẫn, hiện chuyển Pháp luân không có tưởng ngăn ngại trước phải tu tập mười ba pháp quán vô lậu. Này Tối Thắng, đó gọi là trí tuệ vô ngại, tuệ căn vô ngại của Đại Bồ tát vì chúng sanh nên thị hiện tên gọi, danh hiệu pháp giới vô lượng vô hạn không thể nghĩ bàn, đều là trí lực phương tiện khéo léo khó sánh.
Bấy giờ Tối Thắng lại bạch Phật:
– Thế nào là Bồ tát nhập định tam muội, tu tập trí tuệ phương tiện khéo léo nhiếp trì mà không loạn?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Khi Bồ tát nhập định vô trước, thân khẩu ý giáo không bị ngăn ngại, quán các cõi Phật như thấy viên ngọc trong lòng bàn tay, giáo hóa chúng sanh cũng không có tâm chấp trước, phóng ánh sáng lớn hướng đạo tất cả mà chuyển Pháp luân Phật lực vô ngại. Bồ tát hoặc lấy Bồ tát làm quyến thuộc, dùng Phật trí tự trang nghiêm thân như đeo ngọc anh lạc, trụ như Phật trụ, dạo đến các cõi Phật như Phật đã đi, thanh tịnh các cõi, dùng sức độ hóa của Phật mà độ thoát cho chúng sanh ở các cõi ấy. Vì tâm phát thệ nguyện dõng mãnh giáo hóa chúng sanh nên dùng Phật trí dạy người. Này Tối Thắng, đó là định ý tam muội mà chư Phật đã thể nhập. Bồ tát du hành giáo hóa không thể nghĩ bàn, không sợ hãi, không bị nạn nguy khốn, nghe pháp không nhàm chán, tâm không thoái chuyển cũng không mệt nhọc, không bỏ pháp đáng quy ngưỡng đọa vào pháp khác. Vì sao? Bởi vì vị Bồ tát ấy ở trong các pháp chí ý rộng lớn. Tâm hoằng thệ không thể phá hoại, phát tâm tu tập đến tận cùng nguồn cội Chánh pháp của Phật, hộ trì chúng sanh không rời bỏ, hiểu rõ chúng sanh là Không, các pháp cũng như vậy. Các pháp là Không, tánh đạo cũng thế, khéo quán sát con đường tấn thoái quan lại của chúng sanh, dùng tâm đại từ biến khắp tất cả, không sai trái với sở hành, pháp tắc của chư Phật ba đời, đều thành tựu pháp vô tướng. Vì sao như vậy? Cũng như một nam tử dùng viên Như ý bảo châu treo giữa không trung, người xem thấy không ai không thích, màu sắc vi diệu chiếu khắp không ngăn ngại. Vị đó không tự nói ta có ánh sáng chiếu khắp. Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, dùng tâm bảo châu miệng nói ra lời trí tuệ, tất cả ánh sáng trí tuệ chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ tát cũng không tự nói ta nay có ánh sáng trí tuệ chiếu soi. Vì sao? Đó là vì Bồ tát vì chúng sanh kia chứ không vì tự thân, mong cho chúng sanh đến cửa giải thoát, dùng thánh ấn của Phật mà ấn khả cho họ. Bồ tát tịnh các cõi Phật, vì các chúng sanh mà hộ trì khiến họ lìa bỏ tất cả niệm. Mắt trí tuệ của Bồ tát không vật nhỏ nào không thấy, thấu tỏ nguồn gốc sanh tử, tám pháp công đức của quá khứ, vị lai, hiện tại, thông đạt lậu tận và biết rõ diệt tận, điều mà các vị La hán, Duyên giác không thể liễu tri. Bồ tát ngộ rõ pháp tánh sở giác ảo hóa như tia nắng giữa trưa, như đọt chuối, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ảnh trong gương, như bóng trăng trong nước, như bọt nước, như cảnh trong mộng đều là không chơn thật. Thân năm ấm này là khổ, không, phi thân (vô ngã); do bốn đại hợp thành. Bồ tát lại phải tư duy sáu xứ: địa, thủy, hỏa, phong, không, thức trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc đều là cõi chết; Niết bàn, Pháp thân mới là cõi Phật. Ngộ rõ cõi sanh tử và pháp Niết bàn là một chứ không phải hai cũng chẳng phải nhiều. Bốn đại, ngô ngã cũng như vậy. Ngô ngã là Không, các pháp cũng Không. Các pháp là Không, sáu pháp tư niệm cũng như vậy, không rơi vào kiến điên đảo, không trụ nơi sanh tử, lại cũng không nghĩ nhớ, chấp thủ pháp trung đạo đã chứng đắc. Đó gọi là Bồ tát ngộ rõ sâu sắc pháp yếu, pháp độ người không hư dối, pháp thọ dưỡng không hư dối, an ổn trụ trong đạo mà không tổn giảm. Lại có Bồ tát dùng bốn đẳng tâm quán sát sâu xa sanh tử không có nguồn cội tận cùng, dùng tài vật cứu giúp chúng sanh rồi khuyến khích hướng dẫn họ. Bậc Bồ tát đại bi mắt nhìn đến đâu đều thành bảo vật. Núi, sông, đá, vách, cây cỏ, mầm mộng đều là bảy báu. Lúc ấy Bồ tát quán sát chúng sanh có người chấp khổ liền vì họ nói năm ấm là khổ, là già, là không chơn thật; chấp trước khổ Tập theo sắc khởi, diệt Tập thì thành đạo. Nghĩa của khổ rất nhiều. Tập là nguồn gốc. Hai pháp này diệt tận mới gọi là đạo.
***
Phẩm 14: DÕNG MÃNH
Bấy giờ Bồ tát ở trước Đức Phật thưa:
– Bồ tát mới phát tâm tu tập như thế nào mới không thể dứt đoạn? Làm thế nào ý thức của Bồ tát an ổn không thể xả ly?
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Pháp mà Bồ tát mới phát tâm phải học là không chìm đắm trong sanh tử, không sợ ngô ngã; tuy ở quá khứ, tương lai, hiện tại cũng không sợ hãi thì có thể dõng mãnh phá tan tà kiến, vừa nghe pháp vị liền thành tựu tín căn, ý luôn hướng về pháp diệt tận, thường rời bỏ nghiệp thế gian, chỉ ưa thích đạo Vô thượng chánh chơn, tán thán học hỏi kinh điển, nghe không nhàm chán. Nếu gặp khổ hay vui không cho là mỏi mệt. Vì sao? Vì tâm Bồ tát kiên cố không thể lay động, hoặc trải qua một thân, hai thân, ba thân đúng thời thì đạt được tam muội định ý chánh thọ của Như Lai, lại được Tín thọ bất vọng tam muội, đạt được Tưởng trì thọ quyết tam muội dần dần đạt đến Vô sở tùng sanh bất khởi pháp nhẫn. Do đó nên nói Bồ tát mới phát tâm sở hành của nội tâm không thể dứt đoạn. Bồ tát chuyên tâm không chấp sắc tướng, không niệm là thường hay vô thường, có khổ có vui, có xấu có đẹp, có xa có gần; cũng không nhớ nghĩ pháp quá khứ, hiện tại, vị lai; cũng không nhớ nghĩ ta sẽ thành Phật thống lãnh ba ngàn đại thiên cõi nước, không niệm hữu tưởng, không niệm sanh tưởng, trước tưởng, nhiễm tưởng, kết tưởng, tâm tưởng. Vô lượng pháp môn, lãnh thọ diệu pháp đó thì không trở lại cũng không thấy có trở lại, không nhàm chán cũng không thấy nhàm chán, không đủ cũng không thấy đủ, không bỏ cũng không có bỏ, không khác cũng không có biến đổi, không tự nhiên hành nhưng chẳng phải không có hành. Vì thế nên nói tự nhiên là pháp nhiếp trì hư không pháp giới. Bồ tát tự thân trụ tâm hoằng thệ vô hạn lượng như thế, không nhàm chán, không họa hoạn cũng không thoái chuyển, hết lòng mong độ thoát tất cả chúng sanh. Do Bồ tát muốn độ tất cả chúng sanh để họ bát Niết bàn nên trụ mười bảy kiếp không xả ly, phân biệt các pháp hư tịch ba đời, các pháp Không, các pháp vô ngã. Vì sao? Vì muốn chúng sanh từ bờ này sang bờ kia, Bồ tát Đại sĩ đến hư không giới dùng thiên nhãn quán sát thấy rất nhiều chúng sanh nương địa đại, nhiều chúng sanh trụ hư không giới, lại quán thấy chúng sanh ở hư không vô hạn lượng, nhiều không thể tính kể. Vị Thiên nhãn Bồ tát ấy lại tư duy: “Chỗ quán thấy của ta thật là huyền diệu sâu xa, từ bốn cõi thiên hạ quán đến núi Tu Di. Trong đó có rất nhiều chúng sanh vô hình ở trên hư không chẳng, hay là có rất nhiều chúng sanh hữu hình?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Vị Thiên nhãn Bồ tát ấy do không thể biết chúng sanh vô hình nhiều ít. Vì thế nên chẳng phải cảnh giới đó. Nay Ta sẽ dẫn dụ giải thích lại ý nghĩa này. Người sáng mắt phải hiểu rõ ví dụ này. Ví như bốn phương, tám hướng hư không và phương trên, phương dưới đều bình đẳng không có chỗ khuyết giảm. Tính đếm chúng sanh vô hình ở trong đó thì bằng với chúng sanh bốn thiên hạ. Muốn biết số lượng thì từ số một đếm đến ức, lấy ức làm một. Lại từ ức ức đếm ngược lại ức làm một. Đếm như vậy cho đến bảy lần. Muốn biết hạn lượng của chúng sanh vô hình trên hư không thì con số như thế.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Khi vị Thiên nhãn Bồ tát quán chúng sanh vô hình trên hư không thì cũng như người quăng số đá lớn ở bốn phương và phương trên, phương dưới đều bằng nhau, thật không thiếu sót. Vì vậy không thể biết được số đó. Bồ tát mới phát tâm từ sơ khởi học đến Bồ tát vị phải độ chúng sanh tâm không lay động, phải biết không bị ma làm nhiễu loạn, dạo trong ba cõi tham vấn bậc thiện tri thức, nạn lo sợ cũng không phát sanh lại. Nếu có Bồ tát trụ ở pháp đó chí thành nhận lãnh cũng không lâu dài, phải thực hành phương tiện quyền xảo khuyến trợ họ phát tâm, hướng dẫn đến Niết bàn, giảng dạy pháp quyết định diệt độ, lại giảng về pháp Tứ đế mà Như Lai đã ấn chứng, phân biệt rõ ràng chỉ rõ con đường. Nếu có chúng sanh không chịu tỉnh thức thì dùng vô số phương tiện để hướng đạo, chỉ rõ do si mê ngu hoặc của Tập nên đưa đến khổ, phải đoạn ái dục ứng hợp với pháp vô trước thì được vượt đến Chánh giác, có sự an tĩnh tịch nhiên của Hiền Thánh, chính là giải thoát. Gọi là giải thoát chính là giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết. Vị ấy không chết cũng không bị chết, không thoát cũng không được thoát được giải thoát khỏi điều gì? Không buộc, không ràng, không diệt, không sanh, không thành tựu, không có tu tập, không đạt được mới ứng hợp với chánh đạo. Chúng sanh mê mờ không biết khi nào giải thoát. Như Lai thương xót nên xuất hiện thế gian, ở những chỗ dạo đến đều làm Đạo sư. Chúng sanh nghe pháp đạt tâm không thoái chuyển. Nếu có người hoan hỷ vâng giữ Chánh pháp thì đạt được pháp nhẫn Vô sanh bất khởi. Bậc Bồ tát mới phát tâm luôn niệm tư duy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; phân biệt sáu suy xem chúng từ đâu sanh lại, từ đâu diệt mất. Pháp tự sanh pháp, pháp tự diệt pháp, không thấy tà, không thấy chánh, không tạo tác, không thấy là ngã sở hay chẳng phải ngã sở, tự quán nương tựa tánh bên trong hay bên ngoài đều phải phân biệt. Bồ tát lại phải tư duy sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức; không thấy có sắc quá khứ. Sắc quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài cũng không ở trung gian mà có thể đạt được. Không có thống (thọ), tưởng, hành, thức quá khứ. Thọ, tưởng, hành, thức quá khứ không ở bên trong, không ở bên ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Không có sắc quá khứ trụ, không có sắc quá khứ chẳng trụ, không ở đây cũng không ở kia. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, pháp quá khứ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý quá khứ không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Không có ý tưởng tri diệt ở quá khứ, không ở trong, không ở ngoài, không ở hai cực trung gian mà có thể đạt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tưởng tri diệt ở tương lai và hiện tại cũng như thế.
Lại nữa, này Tối Thắng, bậc Bồ tát Đại sĩ dùng trí tuệ thần thông vô ngại đạo tính đếm tất cả công đức tuệ nghiệp của chư Phật rồi nhân lên mười lần, trăm lần, ngàn lần, vạn lần cũng không bằng vị Bồ tát mới phát tâm an lập một chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, thành tựu Nhất thiết trí, đầy đủ pháp của tất cả chư Phật, đã đoạn vọng tưởng không còn nghi ngờ, chư Thiên, người đời đều cung kính lễ bái. Thông đạt các pháp là ảo hóa chẳng phải chơn thật, tất cả phương pháp tu tập pháp hữu hình để đạt đạo thì đạt được sức thần túc của Như Lai.
Khi đó Đức Phật ngồi trên tòa, mười bốn ức chúng đều khát ngưỡng đức thần túc của Như Lai, mong thấy Như Lai hiển bày oai lực biến hóa. Đức Phật biết tâm niệm của chúng hội liền ở trên tòa cao phóng ánh sáng lớn. Các lỗ chân lông trên thân cũng phát ra ánh sáng. Mỗi lỗ chân lông phóng ra trăm ngàn ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có trăm ngàn ức dạ quang thần bảo điêu khắc tinh xảo đẹp đẽ bằng các loại báu. Các loại hoa, tạp hương phủ trên đó. Bốn đầu góc của báu vật đều treo bốn viên ngọc anh lạc. Trên mỗi báu vật đều có trăm, ngàn, ức cành phướn. Mỗi bảo phướn có trăm, ngàn, ức tòa sư tử bằng hoa sen tự nhiên. Trên mỗi tòa đều có trăm, ngàn, ức màu sắc vi diệu đặc thù. Trong mỗi màu sắc có trăm, ngàn, ức ngọc báu ma ni trên những đóa sen. Trên mỗi đóa sen lại có trăm, ngàn, ức các loại lọng báu đan xen. Dưới mỗi chiếc lọng có trăm, ngàn, ức Đức Như Lai nói pháp. Mỗi Đức Như Lai có trăm, ngàn, ức chim le le, ngỗng, oan ương vui đùa tự nhiên. Khi ấy các Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác trên những đài báu đan xen ấy lại phóng trăm, ngàn, ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng lại có Hóa Phật. Mỗi Đức Hóa Phật đều nói về công đức mà vị Bồ tát mới phát tâm đã tu tập, giảng pháp mười hai nhân duyên, vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã) đưa đến cửa Niết bàn. Trong mỗi cửa lại phát ra trăm, ngàn, ức pháp bất thoái chuyển, là pháp mà từ xưa chưa ai diễn nói, nay Đức Như Lai vì chúng sanh mà diễn nói, lại hiện ra thân tướng oai nghi thần túc biến hóa của Phật mà chúng sanh chưa từng được thấy, chưa từng được nghe, không thể nghĩ bàn, không thể diễn nói. Lúc ấy các vị trong pháp hội vui mừng trước việc chưa từng có, thật kỳ diệu, thật đặc thù, tự nói: “Chúng ta nay có phước nên mới có thể thấy thần túc biến hóa này”.
Đức Phật dạy:
– Pháp này mãnh liệt, biến hóa ra vô tận Đức Như Lai, như pháp Như Lai tạng, không trụ chỗ trụ, không hình tướng, không căn bổn, đắc chỗ không đắc, đạt chỗ không đạt, thậm thâm, huyền diệu sâu xa, là thật chứ chẳng phải hư; trí tuệ quảng bác, trừ bỏ ngu si cũng không phá hoại, thành tựu pháp giới; pháp của chư Phật tương lai, quá khứ, hiện tại đều hiện tiền, mở bày lực của Như Lai làm tăng trưởng lợi ích cho các cõi Phật, là tâm ấn của Phật, xuất sanh đạo Bồ tát. Ở trong pháp hiện tại pháp này là vua của pháp tịnh nhãn, tuệ nhãn thanh tịnh, chủng tánh thuần thục. Phật nhãn vô ngại, do tuệ nhãn biết phân biệt cú nghĩa mà khai mở pháp môn, làm cho thiện tri thức thành tựu đạo tâm, không hủy cảnh giới, không làm bại hoại chủng tánh; vì tất cả chúng sanh mà che chở, bảo hộ khiến họ có chỗ an trụ, nếu ở trong chúng thì không bị nạn sợ hãi. Pháp phương tiện thiện xảo không pháp nào không biến hóa. Danh tiếng, công đức đều thanh tịnh, không còn cụ mong cầu thọ bào thai. Trí nghiệp tăng thượng xua tan mây ấm cái phiền não. Lửa trí tuệ rực cháy thiêu đốt khối si mê kết tụ, xiển dương chánh giáo, chấn hưng đạo tràng. Dùng từ, bi… bốn pháp đẳng tâm, trí Tổng trì thẩm suy chơn lý. Quán chín pháp, sáu nghiệp, sức dõng mãnh không e sợ. Tín, niệm, tuệ, định thực hành, giáo huấn vô tận. Nhập định tam muội do đó quán mười phương, lễ bái, cung kính cúng dường chư Phật. Này Tối Thắng, đó gọi là tâm khó phá hoại của bậc Bồ tát Đại sĩ. Cũng như tánh Không tự nhiên của Bồ tát, người trí có mắt biết đó là Không. Không chẳng tự biết, nói ta là Không. Bồ tát thực hành pháp bổn cũng như vậy, độ hằng sa người, thậm chí còn hơn số hằng sa ấy, đưa đến cõi của chư Phật, độ chúng sanh mà chẳng tính đếm bao nhiêu người. Bồ tát không tự nghĩ: “Nay chính ta độ chúng sanh như thế đưa họ đến Niết bàn vắng lặng vô vi”. Cũng không nói: “Ta do quả báo nhân duyên đó sẽ thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn”. Bậc Bồ tát mới phát tâm giữ tâm kiên cố, từ khi mới phát tâm cho tới khi đến đạo tràng, ngồi dưới cội thọ vương hàng phục chúng ma, công đức phước nghiệp đã tu tập trong khoảng thời gian đó luôn vì chúng sanh, không tự vì mình. Ví như hư không phủ trùm tất cả không có gì lọt ra ngoài nhưng hư không chẳng tự biết, nói rằng ta là hư không. Thần đức, ánh sáng trí tuệ của Như Lai đều biến khắp, tiếp độ tất cả chúng sanh khiến họ thành tựu pháp nhãn. Không lìa, không buộc, tất cả các pháp không thể phá hoại. Không nhân, không ngã, dùng trí tuệ thông tỏ kiếm bén phương tiện quyền xảo. Chánh giáo mà chư Phật sử dụng vô lượng công đức, trừ bỏ lưới si. Các pháp mà bậc Bồ tát Đại sĩ tu tập, công hạnh của Bồ tát đều để đạt tam ma địa thanh tịnh, chẳng có Không hay bất Không. Không cũng chẳng sanh, cũng chẳng sở hữu. Không nhân, không ngã, không thọ, không mạng cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Một mình, không bạn lữ, chẳng thể nghĩ bàn. Không hủy cảnh giới, vô tưởng cũng không. Không sanh cũng không thấy sanh, cũng không thấy xuất. Không đi, không đến, không tạo tác. Trong pháp giới vô lượng thành tựu nghiệp đạo tràng. Không giới là vô biên, chẳng bị ràng buộc, vì chúng sanh nên tạo xứ sở là ngã sở, chẳng phải ngã sở, khởi tưởng ngô ngã. Bồ tát giữ ý, nương theo căn bản thiện, vô lượng trí tuệ mà thanh tịnh đạo ấy, dùng trí tuệ trừ bỏ tâm ý cấu uế.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát nhập Tịnh quán tam muội quán sát hằng sa chúng sanh mười phương ai tương ưng với pháp hành, ai tương ưng với trí hành, ai tương ưng với nghiệp hành. Nếu có chúng sanh phù hợp lãnh thọ pháp thì Bồ tát phải giảng nói hai mươi lăm pháp. Hai mươi lăm pháp đó là gì? Các pháp vô tướng, các pháp vô hình, các pháp nhẫn, các pháp tưởng, các pháp vô căn, các pháp cảnh giới bất khả đắc, các pháp vô sở thủ, các pháp bất nhị nhập môn, các pháp vô độ, các pháp không thể đoạn, các pháp sâu xa không thể truy tìm, các pháp giác – bất giác, các pháp lực không thể hoại, các pháp thành – bất thành, các pháp không hủy mà hủy, các pháp vô thường trừ bỏ thường, các pháp không nhiễm ô, các pháp tịnh hạnh, các pháp tánh quán, các pháp vô lậu, các pháp đã trừ quá khứ, các pháp trừ bỏ lưới si, các pháp thọ ký trí tuệ vô sở tùng sanh, các pháp Bổn vô không có tên khổ. Đó gọi là tu hành hai mươi lăm pháp thanh tịnh.
Lại nữa, Bồ tát thực hành tam nhẫn trí, quá trí, vô quá trí, không quá cũng chẳng phải không quá trí. Thế nào là Bồ tát tu hành quá trí? Đó là trí không hoại pháp giới, biết rõ thân là Bổn vô, công hạnh tu tập của chư Như Lai chẳng phải là trí tu tập của hàng Duyên giác, La hán. Bậc Vô quá trí dùng tuệ tăng thượng thông tỏ sự tu hành của các bậc Hiền Thánh Duyên giác chẳng phải là công hạnh của Đức Phật hay của các vị La hán. Không quá trí cũng chẳng phải không quá trí là trí biết rõ công hạnh tu tập của A la hán chẳng phải là sự tu hành của Đức Phật và các vị Duyên giác. Quá trí là gì? Tức trí biết rõ sở hành của Phật chẳng phải sở hành của hàng La hán, Bích chi Phật. Khi ấy Bồ tát trong khoảnh khắc khảy móng tay dùng trí tuệ suy nghĩ: “Ta phái rộng độ vô lượng chúng sanh, tu tập vô biên vô hạn duyên tưởng trí nghiệp, thiền định kiên cố như kim cương không thoái chuyển”. Tâm hoằng thệ của Bồ tát vượt quá hơn La hán và Bích chi Phật. Đó gọi là quá trí, chẳng phải chỗ tu hành của hàng La hán, Bích chi Phật. Vô quá trí là gì? Là nói trí tu tập của bậc Hiền Thánh Bích chi Phật. Khi ấy Bồ tát phát khởi tâm học tập, muốn thanh tịnh pháp giới, dẫn đạo chúng sanh, tuyên dương Phật pháp, diễn nói tuệ cam lộ, vì đạo vô thượng mong cầu đến đạo tràng. Nếu có chúng sanh đi thẳng một đường đến chỗ Bồ tát, Bồ tát đem đầu, mắt, tủy não, thành ấp, quốc gia, vợ con theo ý người đó muốn dùng vật gì đều bố thí cho họ, chỉ trừ cha, mẹ, sư trưởng. Bố thí như vậy mà không cầu quả báo. Như vậy một đời đến trăm đời, một kiếp đến trăm kiếp cũng không thấy có tài vật đã bố thí. Bồ tát suy tư: “Vật đó là của ai, từ đâu sanh? Vốn từ đâu lại? Khi diệt trở về chỗ nào?”. Hiểu rõ vật không có nguồn cội nên không thấy nhà cửa chỗ ở. Khi ấy Bồ tát dùng Không tuệ quán không thấy thân, không thấy vật, không thấy người cũng không thấy nơi chốn bố thí. Bồ tát tích chứa công hạnh thù thắng lâu dài như vậy, tâm ý mong mau chóng thành tựu đạo Vô thượng chánh chơn, độ thoát chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. Do đó tâm Bồ tát ưa thích nhàn tĩnh, thường trụ nơi chốn núi non, ý tưởng tịch tĩnh, chánh niệm luôn hiện tiền, nội tâm tự tư duy: “Công đức xưa nay của ta đã đầy đủ, phải thành đạo Vô thượng chánh chơn, là Bậc Tối Chánh Giác. Nay Đức Phật xuất hiện ở đời có các tướng trang nghiêm thân, rộng độ chúng sanh đến bờ giải thoát. Khi nào Bậc Đại Thánh nhập diệt độ nơi cõi Vô dư, sau đó ta sẽ tinh tấn thành tựu Phật đạo”.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Tâm niệm và hạnh nguyện của vị Bồ tát ấy không trái nghịch. Như Lai trụ thế giáo hóa tất cả chúng sanh xong sẽ bát Vô dư Niết bàn. Khi Chánh pháp diệt tận, ở thế gian một kiếp, hai kiếp cho đến trăm kiếp không có Phật. Vị Bồ tát ở chốn núi đầm phải tự trách: “Than ôi! Ta thật hoang phí công sức. Đức Phật rời thế gian đã lâu, tượng pháp diệt tận, chúng sanh không còn túc duyên nên tâm luôn bị phiền não”. Bồ tát đi đến cội cây kinh hành quanh đó dùng móng tay vạch trên vỏ cây, tâm chánh trực trụ Không xứ đột nhiên nghe âm thanh móng tay vạch vỏ cây tâm liền giác ngộ, thành đạo Vô thượng chánh chơn. Nhìn xung quanh không thấy người theo học đạo, vị ấy ẩn hình tướng không chuyển Pháp luân. Vị ấy cũng như người đời, có tâm phân biệt của con người. Đó gọi là sự tu tập. Vô quá trí của bậc Hiền Thánh Bích chi, chẳng phải là Phật, La hán. Thế nào là không quá cũng chẳng phải không quá trí? Là trí tu tập của La hán, chẳng phải của Đức Phật và Bích chi Phật. Khi ấy vị Bồ tát từ xa xưa tích chứa công hạnh, siêng năng khổ nhọc mong đắc đạo Vô thượng chánh chơn, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vị ấy thực hành bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; hoặc bố thí đầu, mắt, tài sản, cõi nước, vợ con, người hầu. Có người đến xin đều cấp cho không trái ý người. Bồ tát cắt thịt, máu tuôn ra nhiều như nước bốn biển, xương cốt bố thí trải khắp bốn cõi thiên hạ nhưng khi đó vẫn không chứng đạo nên dần dần thoái lui trở về hạnh phàm phu, nhàm chán họa sanh tử, không còn tâm dõng mãnh tinh tấn, nhớ lại việc làm của mình lúc trước trong tâm sanh hối hận, muốn thoát khỏi thân này, rời bỏ chúng sanh, cầu thầy học hỏi tu tập theo pháp phương tiện lâu dài, vâng theo pháp Thanh văn mới được giác ngộ. Vị ấy nhớ lại công đức đã tạo lúc trước có ý tưởng trách là pháp không đạt được giác ngộ. Đó gọi là không quá cũng chẳng phải không quá trí của hàng La hán tu tập chẳng phải là Phật hay Bích chi Phật.
Thế nào là Bồ tát tương ưng với hạnh thanh tịnh? Đó là pháp mà Phật, La hán, Bích chi Phật tu hành. Tịnh hạnh chính là tam tràng thanh tịnh, tam nhãn thanh tịnh, giới thanh tịnh, định thanh tịnh, tuệ thanh tịnh, giải thoát thanh tịnh, giải thoát tri kiến thanh tịnh. Từ ba thiện pháp đến mười tám pháp vô lậu, thiện pháp của đạo và tục đều thanh tịnh. Phật, Bích chi Phật, A la hán tu hạnh thanh tịnh đó nên thành đạo, không còn trở lại trong đó, không khởi các tưởng cũng không thể thấy, không khởi, không diệt cũng không đình chỉ thức. Có khởi đầu, có kết thúc thì có chỗ trụ, đạt đến không khởi đầu, không kết thúc thì làm gì có chỗ trụ.
Lúc đó Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ tát ly dục tâm không tăng giảm, không nghĩ có khổ vui, xấu đẹp; không nghĩ có thiền chỉ tam muội đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối ở quá khứ, hiện tại, tương lai cũng không tự nghĩ ta ở trong dục hay vô dục?
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Bồ tát vô dục dạo khắp cõi Dục, qua lại trong đó nói pháp giảng dạy, tuy vậy tâm không nhiễm trước. Chúng sanh ở đó như bị thiêu nướng trong hố lửa không đáy. Bồ tát thương xót các chúng sanh bị buộc ràng trong bốn dòng chưa thoát ra đến mười hai biển, họ mong cầu lối thoát nhưng không biết phải theo đường nào. Bồ tát nội tâm kham nhẫn không ngại khó, giảng nói phân biệt pháp hưng suy của năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; tư duy về sự sanh diệt của bốn đại như bọt nước, ngựa hong, đọt chuối, hư giả không thật cũng không kiên cố. Vì sao? Pháp ấy rất sâu xa khó thể biết rốt ráo. Sắc pháp rất sâu xa, đạo cũng như vậy. Năm ấm rất sâu xa, tục pháp cũng thế. Tục pháp rất sâu xa, không giới cũng thế. Khéo léo quán sát cõi hư không cùng với pháp giới đều không có thức tưởng ngã, nhân, thọ mạng, suy tư chúng như ảo hóa. Tư duy tám pháp không nhàn của thế gian là uế trược, nhiễm ô làm chướng ngại con đường tu tập đạo của chúng sanh, tịnh quán tư duy chúng đều không có xứ sở. Vì sao như vậy? Vì bậc sĩ phu có mắt có thể quán đạt pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó gọi là Bồ tát có tâm không tăng giảm, không thấy khổ vui, thiện ác, xấu đẹp, đều chẳng chấp trước nơi duyên khởi của ba cõi. Địa chủng là cảnh giới cứng chắc tự nhiên. Tánh của nước là ẩm ướt, tánh tự nhiên của nó là nhu nhuyến. Tánh của lửa là rực cháy, tánh tự nhiên là nóng. Tánh của gió là phiêu lãng chuyển động không trụ. Tánh của pháp là quán sát tịch tĩnh, không có bốn đại: “Đất, nước, gió, lửa từ đâu sanh lại do đâu diệt?”. Khi Bồ tát phân biệt pháp giới, nếu tánh của đất thịnh thì tánh của nước, lửa, gió mỗi đại không đồng, thần thức tự suy yếu, dần dần các đại không còn ứng hợp với nhau. Tánh của đất càng nặng thì thần thức càng yếu, mỗi đại sắp phân ly. Nếu tánh của nước thịnh thì đất, lửa, gió biến động suy yếu, thần thức liền muốn di chuyển không ở an trong thân. Cũng như có người ở trong phòng yên tĩnh, ý muốn đi ra ngoài đến nơi thôn xóm, trước phải bước chân phải ra ngoài ngạch cửa; đó gọi là tánh đất tăng thịnh. Sau đó mới đưa tay phải ra ngoài cửa, đó gọi là tánh của nước tăng thịnh. Bước chân trái ra ngoài ngạch cửa, đó gọi là tánh của lửa tăng thịnh. Lại đưa tay trái ra ngoài cửa, có thể gọi đó là tánh của gió tăng thịnh. Bước đi trên đường, đó gọi là thần thức đã phân ly. Đến nơi thôn xóm là vào năm đường. Người biết được điều này mới liễu tri pháp giới là không cứng chắc, không mềm mại, không nóng, không nhẹ. Cứng là chỗ trụ, mềm là chỗ đến, nóng là chỗ đi, nhẹ là chỗ hướng đến. Bồ tát phân biệt pháp giới như vậy, quán hoàn toàn từng pháp đều không xứ sở, tư duy tánh tự nhiên của pháp giới không đồng, nuôi dưỡng thần, làm lớn thân thể. Mỗi đại đều có tánh riêng khác biệt. Trong bốn đại, lửa là cực độc. Ba đại còn lại tánh tự tương ưng. Vì thế nên Bồ tát phải quán sát trong ngoài bốn đại cũng như thế. Bốn đại của chúng sanh trong ba cõi không đồng, muốn tìm nguồn cội của chúng thì không biết nơi chốn. Bồ tát lại phải tư duy hoạt động của sáu tình. Nhãn cũng Không, nhãn thức cũng Không. Ngộ rõ Không chính là pháp giới. Bồ tát Đại sĩ lại phải suy tư ngộ rõ sáu suy. Sắc do nhãn thấy, sắc đó cũng không hiện hữu. Sắc của vật hiện trước mắt cũng không hiện hữu. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Bồ tát lại phải học đế tướng và phi đế tướng, đạo tướng và phi đạo tướng, Không tướng và phi Không tướng. Thế nào là Bồ tát học đế tướng và phi đế tướng? Lúc đó Bồ tát ngộ rõ Bổn vô. Bổn vô là một chứ không phải hai. Bồ tát lại biết chứng đạo mà không có chứng không thấy thọ chứng, không thấy không thọ chứng, cũng không thấy tương ưng hay chẳng tương ưng. Hiểu rõ tương ưng và chẳng tương ưng, đó gọi là đế tướng. Bồ tát học đế tướng thì trụ tâm trong Không cũng là chơn lý, rời xa Không cũng là chơn lý, không trụ mà cũng chẳng phải chẳng trụ. Đó gọi là chánh định đế tướng kim cang. Y cứ không tu tập pháp bổn, giữ gìn phòng hộ nên đắc Tận. Ngộ được ba việc đó cũng là đế tướng. Bồ tát học đế tướng biết rõ nội tâm là không thật, biết tướng bên ngoài nên không nhập. Không thấy ái lạc, không thấy không ái lạc; không thấy chỗ đúng, chỗ sai. Đó cũng gọi là đế tướng. Nội tâm không đoạn chánh kiến, tướng bên ngoài là thị hiện. Nếu như ở chỗ nhàn nhã, tâm luôn tịch tĩnh. Nếu cảnh bên ngoài rối loạn, Bồ tát biết rõ các khổ an trụ nơi thích hợp, tâm luôn bình đẳng. Người ngộ đế tướng này chứng đạo suy tư, thể nghiệm thấy rõ năm ấm là Không nên không trụ, không thấy có pháp trụ, trí tuệ dứt hết các tưởng, tâm không trụ si cũng không trụ nơi kiết sử, không trụ ở năm việc, trọn không theo mười điều lành hay mười điều ác của thế gian. Đó gọi là đế tướng. Bồ tát thực hành đế tướng như vậy thì không thoái chuyển. Phi đế tướng là nghĩa lý bậc nhất của hư không giới. Biết rõ chúng là vắng lặng, theo duyên cởi bỏ, không ràng buộc. Đó gọi là Phi đế tướng của Bồ tát.
Thế nào là Bồ tát học đạo tướng phi đạo tướng? Do dự ràng buộc trong si mê thế gian, với pháp không nên ái nhiễm. Trong tâm tự khởi bạo loạn ngang trái đọa khổ đau. Đó gọi là đạo tướng. Thân hiện tại làm đời sau nhận quả báo, không nương tựa thầy, không hướng về thiện tri thức cũng là đạo tướng. Thế nào là phi đạo tướng của Bồ tát? Phi đạo tướng là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, pháp hữu vi vô vi đã tu tập thể nhập không phải là hai mà cũng không lìa xa hai. Không theo duyên, không lìa duyên, không trụ duyên, không tùy duyên, không độ, chẳng phải không độ, không có quả, chẳng phải không có quả. Một, hai, ba, bốn cho đến mười và chẳng phải không có mười. Chẳng phải bị sanh, chẳng phải không sanh; chẳng phải diệt tận, chẳng phải không diệt tận; chẳng phải khởi diệt, chẳng phải không khởi diệt; không ngôn giáo, chẳng phải không ngôn giáo; chẳng giải Không, chẳng phải chẳng giải Không; chẳng tư duy về định Chỉ, chẳng phải chẳng tư duy về định Chỉ. Bồ tát quán sát hai mươi bốn việc, quán rõ chi tiết từ đầu đến cuối, tâm phân biệt không trụ sanh tử mà lìa bỏ ràng buộc, không tự cao, không tự ti rồi phải dốc toàn lực tu tập Du tán tam muội, là tam muội đứng đầu trong trăm ức loại định. Tam muội đó là pháp tôn quý, không có pháp nào vượt hơn, chẳng phải cảnh giới của hàng La hán, Bích chi Phật.
Bấy giờ Thế Tôn ở trên tòa nhập chánh định tam muội tên là Nhất ý vô úy khiến cho tất cả bốn bộ chúng, mỗi người đều không có niệm tưởng khác cũng không loạn tưởng. Khi đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta nay vì ông giảng nói phân biệt tam muội để các vị trong pháp hội không còn nghi ngờ.
Ngài Tối Thắng thưa:
– Theo lời Thế Tôn dạy, con hân hoan muốn nghe. Do hân hoan nên tâm được an ổn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Có tam muội tên là Tán chư kết khiến cho chúng sanh hữu hình ở vô hạn lượng cõi nước trừ bỏ khổ đau, không còn các phiền não. Lại có tam muội tên Dõng từ minh khiến mỗi chúng sanh không còn niệm oán hận. Lại có tam muội tên Danh đức sung, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh loại không có tưởng ăn uống. Lại có tam muội tên Thanh tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh đắc Pháp nhãn tịnh. Lại có tam muội tên Nhĩ căn thanh tịnh, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đắc được thiên nhĩ thông. Lại có Ý tịch tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại từ bỏ pháp tà thế. Lại có Trừ ác tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại tu tập thập thiện hạnh tích. Lại có tam muội tên Độc bộ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không còn tâm tà kiến mà theo chánh đạo. Lại có Thú lộ tam muội, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại theo đạo không mê hoặc. Lại có tam muội tên Thành tựu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại bỏ ác giới, thành tựu giới thanh tịnh. Lại có tam muội tên Tàm quý lạc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại vâng giữ nhẫn nhục. Lại có tam muội tên Tấn Đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại đang có tâm giải đãi, kiêu mạn khởi ý dõng mãnh. Lại có tam muội tên Nhất kỷ vô lữ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ưa thích pháp hư dối mau nhập thiền định. Lại có tam muội tên Giáng phục, Như Lai nhập tam muội này khiến cho chúng sanh ngu si chấp trước có trí tuệ tự trang nghiêm. Lại có tam muội tên Vô xuyên lậu, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh không có tín tâm an lập tín căn. Lại có tam muội tên Tổng trì đức, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ít nghe đạt được đa văn. Lại có tam muội tên Oai nghi tắc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại chỉnh đốn oai nghi, không mất lễ tiết. Lại có tam muội tên là Thí ân, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh chấp dục vĩnh viễn không còn ái dục. Lại có tam muội tên là Dĩ độ, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh sân nộ trừ bỏ tâm giận dữ oán hơn. Lại có tam muội tên là Vô hoặc, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh ngu si tự thân tu tập trí nghiệp. Lại có tam muội tên là Biến chí, Như Lai nhập tam muội này khiến chúng sanh loại không chấp trước tam hữu. Lại có tam muội tên Nhất thiết thân thể hình sắc, Như Lai nhập tam muội này khiến tất cả chúng sanh của quốc độ ở mười phương hóa thành trăm, ngàn, ức hình sắc mà mỗi chúng sanh đều không biết nhau. Này Tối Thắng, Ta nay lược nói các pháp tam muội chủ yếu. Nếu Như Lai từ kiếp này đến kiếp khác cho đến trăm kiếp giảng nói về tam muội mà Như Lai đã nhập thì không thể nói hết được, chỉ chư Phật Thế Tôn mới có thể biết mà thôi.
Khi ấy ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Thật kỳ diệu! Như Lai đã tạo ra thân tướng biến hóa không thể nghĩ bàn, không thể tính lường phương tiện khéo léo vô hình mà tự trang nghiêm. Như Lai nói các pháp tam muội mà Như Lai đã thể nhập, con xưa nay chưa từng thấy, chưa từng nghe. Nếu có Bồ tát nghe được tên các tam muội đó rồi tâm ý định lĩnh thọ trì, tụng đọc thì đi đến nơi nào cũng được tự tại. Lại nữa, nếu khuyến trợ khiến chúng sanh hoan hỷ là đã cúng dường pháp của chư Phật. Đó chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác có thể theo kịp. Nếu có người hủy báng các pháp định tam muội đó thì luôn ở trong chốn u ám chẳng thể hiểu thấu được. Lại nữa, thân người đó sẽ rơi vào ngục Vô cứu, tội lỗi nhiều như cát phủ trùm không thể nói hết. Nếu người có tâm ganh ghét định ý tam muội thì tội đó khó lường, trải qua nhiều kiếp bị mù, ngọng, câm, điếc chẳng thể nghe pháp. Tuy được làm người nhưng luôn chịu nhiều khổ đau, nói dối, nói lưỡng thiệt, miệng không thể nói. Phải tự thân, chẳng phải nhờ người khác, có quảng bác đa văn của Bồ tát mới có thể tin chánh định tam muội này. Nếu có người khuyến khích người khác phát tâm tụng đọc, tu tập định này thì đúng thời được thấy chư Phật mười phương. Lại nữa, người nào hôm nay nghe Phật giảng giải định ý, chí không thay đổi thì mới ứng hợp với chánh định.
Bấy giờ ngài Tối Thắng nương oai thần của Đức Phật bạch Phật:
– Hôm nay các vị đến trong hội này, Bồ tát và bốn bộ chúng trời, rồng, thần, quỷ đều mong được thấy Như Lai hiện sức cảm động của định ý. Nhờ đó họ có thể được thấm nhuần ít nhiều, được nhiều sự thành tựu. Bạch Thế Tôn, xin thương xót ban bố phóng ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Phật ở mười phương. Chúng sanh có căn tánh thuần thục trong các cõi ấy nương nhờ ánh sáng đều được giáo hóa, đều được giải thoát.
Lúc ấy Thế Tôn theo lời ngài Tối Thắng liền nhập chánh định tam muội Như kỳ tượng, tam muội đó tên là Hữu túc chỉ luân đại ý, phóng ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy chiếu khắp thế giới Nhẫn xong lại chiếu đến hằng sa cõi nước của chư Phật ở mười phương. Chư Bồ tát trong quốc độ ở mười phương gồm trăm, ngàn, ức chúng sanh theo ánh sáng ấy mà đến thế giới Nhẫn. Cách cõi này chín mươi sáu hằng hà sa đẳng các cõi Phật, còn hơn số đó nữa, về phương Đông có quốc độ tên là Hải Bảo. Đức Phật tên là Bảo Tịnh Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn hiện đang nói pháp. Đức Phật ấy có vị Bồ tát tên Biện Thông, là bậc Bồ tát bất thoái chuyển, thấy ánh sáng ấy liền đến chỗ Đức Như Lai Bảo Tịnh, đầu mặt lễ chân Phật rồi đứng sang một bên. Bấy giờ Đức Bảo Tịnh Như Lai bảo Bồ tát Biện Thông:
– Ông đến cõi đó phải giữ gìn oai nghi chớ để mất phép tắc. Như thế bởi vì cõi đó chí tánh cang cường, làm việc hung bạo. Ông chớ nên thấy khổ vui. Chúng sanh cõi đó phần nhiều có tâm kiêu mạn, không thuận theo Chánh pháp. Nếu gặp, ông nên cẩn thận, chớ có kinh sợ. Nếu có thể được như thế thì ông nên biết đã đúng thời.
Rất nhiều vị Bồ tát ở cõi Phật đó tự thưa với Đức Phật Bảo Tịnh:
– Chúng con sắp được thiện lợi, nhờ phước quá khứ nên tự mừng vì không sanh vào cõi Nhẫn.
Khi ấy Bồ tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ tát vây quanh trong khoảng thời gian một lực sĩ co duỗi cánh tay đã tới cõi Nhẫn, đến chỗ Đức Thích Ca Văn Phật ngự. Bấy giờ Thế Tôn biết nên bảo ngài Tối Thắng:
– Ông có thấy Bồ tát Biện Thông và các Bồ tát kia không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Vâng, con đã thấy.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Vị Bồ tát đó biện nghĩa đệ nhất; từ, bi, hỷ, hộ (xả), lời nói như hòa, chí hạnh cao xa, trước cười sau nói, sắc mặt tươi vui. Có người hỏi thì trả lời ngắn gọn không trùng lặp, tiếp độ chúng sanh như Phật tiếp độ, với đạo Bồ tát đã thành tựu bất thoái chuyển.
Lúc đó Bồ tát Biện Thông cùng mười ngàn vị Bồ tát lễ chân Đức Thế Tôn, đi nhiễu bên phải ba vòng, chắp tay hướng về Đức Phật mà nói kệ khen ngợi:
Tiếng vang khắp mười phương
Giảng dạy tên công đức
Đến cõi Phật chúng con
Tất cả nhờ Phật độ
Cảnh giới Phật thanh tịnh
Không nghe tên năm đường
Bỏ đó mà đến đây
Từ bi khó dụ sánh.
Nay Thế Tôn thị hiện
Cõi người, thật khó có
Tích đức như Tu Di
Tự hạ mình xuống thấp.
Giả sử tinh tấn tu
Một kiếp đến trăm kiếp
Không bằng trong khoảnh khắc
Tu tâm ái cõi này.
Chư Phật hiện thế gian
Trước chọn cõi thanh tịnh
Chỉ Thế Tôn mới nhẫn
Trụ đời ngũ trược này.
Lành thay! Thật khó có
Cứu hộ, độ bình đẳng
Truyền dạy pháp tam thừa
Khiến tịnh thân, khẩu, ý
Đã thành Bồ tát đạo
Cũng không tâm thoái chuyển
Chí ý càng tinh tấn
Vì thế con đảnh lễ.
Trừ các kết si, nghi
Chóng tu mười hạnh lành
Chư Phật đầy đủ pháp
Giảng nói trí rộng sâu.
Như ở cõi Phật con
Phật trụ trăm ức kiếp
Không bằng ở cõi này
Trụ kiếp độ một người.
Con đến vô lượng cõi
Hằng sa không tính hết
Không nghe có khổ não
Và tám xứ không nhàn.
Người cõi này ngang ngạnh
Do cấu uế thành thân
Nước chơn như Tứ đế
Tắm gội sạch trong ngoài.
Chúng con tín tâm đến
Vì quy y xa lại
Muốn nghe pháp định ý
Mong đúng thời tuyên giảng.
Bấy giờ Bồ tát Biện Thông nói kệ khen ngợi Đức Phật xong, ở trước Đức Phật thưa:
– Thế nào là Bồ tát có chí ý kiên cố kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ? Thế nào là Bồ tát có lời nói và việc làm tương ưng, nội tánh nhu nhuyến?
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Biện Thông:
– Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo tư duy pháp này. Ta sẽ vì ông phân biệt nghĩa đó.
Ngài Biện Thông thưa:
– Xin vâng, bạch Thế Tôn.
Đức Phật bảo Bồ tát Biện Thông:
– Tu tập định tâm thành tựu bốn pháp khiến chí ý Bồ tát kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định ý, nghe giáo giới cũng không nhàm chán, cho là đủ. Thế nào là bốn pháp? Đó là bốn pháp đẳng tâm: từ, bi… không lười biếng. Thấy người được độ như ảo hóa, cũng có trí tuệ của chư Phật không bình đẳng. (Đó là nói Bồ tát Biện Thông thành tựu bốn pháp, chí ý kiên cố, kham nhẫn lãnh thọ định). Thế nào là Bồ tát nhất tâm, chí hướng, lời nói không sai loạn?
Đức Phật bảo ngài Biện Thông:
– Khi ấy Bồ tát lại phải thành tựu bốn pháp. Bốn pháp là gì? Bồ tát chỉ giảng nói pháp Không cho chúng sanh, nói các pháp Không với các thọ nhập đều không chấp trước. Hoan hỷ tán thán công đức Bồ tát đã làm. Phân biệt pháp thiện ác, hữu vi vô vi, nghĩ nhớ thực hành phương tiện quyền xảo. Đó là bốn pháp. Thế nào là Bồ tát tăng ích thiện căn, trong nhiều hoàn cảnh không giảm?
Đức Phật bảo ngài Biện Thông:
– Bồ tát lại phải tư duy bốn pháp, ý chuyên nhất không loạn. Bốn pháp ấy là gì? Là nói tâm luôn chuyên chú trong định, nghiêm trì lễ tiết, không vọng mong cầu lợi dưỡng, không cầu tiếng tăm. Đó là bốn pháp khiến ý không loạn. Lại có bốn pháp làm tăng ích thiện căn? Bốn pháp đó là gì? Là nói bốn pháp: dạy người phát tín tâm. Sau khi bố thí không mơ tưởng quả báo. Hộ trì pháp sư. Ngôn giáo của Bồ tát giảng dạy không trái nghịch. Đó gọi là bốn pháp Bồ tát phải tu tập, thực hành. Lại có bốn pháp mà bồ tát từ địa này đến địa khác, hoặc đi lui đi tới đều phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Dạy chúng sanh tu tập thiện căn. Lìa xa các điều ác, không làm việc ngu mê. Không bỏ thệ nguyện lớn. Ý không khiếp nhược. Đó là bốn pháp mà Bồ tát phải tu tập thực hành. Lại có bốn pháp Bồ tát phải vâng giữ. Bốn pháp đó là gì? Là nói Bồ tát dùng quyền phương tiện giáo hóa chúng sanh. Làm cho kẻ phàm phu an lập tín tâm. Hóa độ không hư vọng. Hiện uy tướng của Phật mà tiếp dẫn chúng sanh. Đó gọi là bốn pháp Bồ tát phải vâng giữ. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Là nói đi đứng theo đúng phép tắc. Không chấp trước y phục. Tùy thuận theo phép tắc của thời đại đó. Ta luôn nhẫn dù khổ hay vui. Đó là bốn pháp tu hành của Bồ tát. Lại có bốn pháp. Bốn pháp đó là gì? Là nói tự điều phục tánh ý. Luôn phát đạo tâm. Không lìa phương tiện quyền xảo. Ý chuyên chú nhớ nghĩ Phật. đó là bốn pháp. Lại có bốn pháp mà Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Là nói Bồ tát phải nhớ nghĩ hạnh độc cư. Lìa xa tâm Thanh văn và Bích chi Phật. Cầu pháp không chán đủ. Giảng rộng chánh pháp đã được nghe cho người khác. Đó gọi là bốn pháp. Lại có thuốc men điều trị bệnh. Cầu nghĩa lý không nhàm chán. Nhẫn trước tất cả khổ. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Thực hành bất khởi nhẫn, vượt qua Diệt tận nhẫn. Tư duy mười hai nhân duyên căn bổn. Không chấp trước pháp nhẫn. Với mỗi pháp nhẫn đều tự lìa bỏ. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Tư duy pháp ác, quán bất tịnh. Đếm hơi thở ra vào. Tu tập pháp trong sạch. Luôn tự khiêm cung. Đó gọi là bốn pháp. Lại có bốn pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Bốn pháp đó là gì? Phải quán pháp nào phù hợp với chúng sanh rồi sau đó mới cho thuốc. Luôn nhớ nghĩ cung kính, không được tự cao. Nếu ở trong đại chúng không mê đắm lợi dưỡng. Thực hành phương tiện quyền xảo thích hợp không ngại. Đó gọi là bốn pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? lãnh thọ pháp bình đẳng không thiếu sót. Quán thân mình bình đẳng với người không khác. Theo thiện tri thức tu tập. Đoạn trừ vĩnh viễn kết sử khiến không còn dư tàn. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Tự phản tỉnh biết lỗi của mình, không thấy lỗi của người. Nếu ở chỗ bộ phái ác thì làm cho họ tu tập tâm từ. Thông tỏ rõ ràng các pháp, trừ bỏ duyên ràng buộc. Đạo tâm kiên cố trọn không hư vọng. Độ cho chúng sanh hiện tiền tu tập đạo ý. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Luôn bố thí. Sau đó lại dạy người khiến họ thực hành tâm nhân ái bố thí. Khi khởi tâm bố thí cũng không chọn lựa, quán điều phải điều trái của chúng sanh. Với các pháp sâu xa đều được giải thoát. Tâm chí thành mong thành Phật trang nghiêm cội gốc đạo. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Biết sự sanh diệt của Hành. Có sức vô úy. Không rời bỏ chúng sanh. Phân biệt các trí, cũng có trí tăng thượng. Không có tâm trái nghịch. Đó gọi là năm pháp. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Vượt qua năm đường luôn tu tập pháp Ba la mật. Nhập Từ tam muội lấy đó tự an vui. Vô lượng Phật trí đều hiện tiền. Cũng không có tâm nan giải mê mờ với vô lượng pháp tam muội. Lại có năm pháp Bồ tát phải ghi nhớ tư duy. Năm pháp đó là gì? Phát tâm hoằng thệ trọn không hối hận. Lời nói đúng với việc làm, không nói sai lầm. Y cứ thiền định mà không chấp thiền. Giữ gìn tâm niệm không chấp trước. Đến chỗ nào cũng không vui. Đó là năm pháp. Này Bồ tát Biện Thông, Đại Bồ tát tu tập định ý bổn hạnh này thì được chánh định của Như Lai.
Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn nói pháp đó, hai ức trời người đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn, lại có năm ngàn vị trời được pháp nhẫn bất khởi. Khi ấy chư Bồ tát ở các cõi Phật, mỗi vị đều tung rải hoa hương cúng dường lên Phật. Hoa ngập đến đầu gối.
***
Phẩm 15: TOÁI THÂN
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát nhập Toái thân định. Vị Bồ tát nhập định đó có đầy đủ mười loại tánh Chơn như. Mười pháp đó là gì? Tánh Chơn như của tất cả thế giới, tánh Chơn như của tất cả các phương, tánh Chơn như của tất cả số kiếp, tánh Chơn như của tất cả chúng sanh, tánh Chơn như của tất cả các pháp, tánh Chơn như của tất cả hạnh Bồ tát, tánh Chơn như của tất cả nguyện Bồ tát, tánh Chơn như của tất cả loại định, tánh Chơn như của tất cả chư Phật Thế Tôn, tánh Chơn như của tất cả địa giới. Nếu có Bồ tát đắc Toái thân định này thì đạt được mười tánh Chơn như đó. Bồ tát nhập Chúng sanh toái thân định như thế nào? Này Tối Thắng, khi Đại Bồ tát nhập Toái thân định, trước nhập định quán nội thân từ ngoại thân khởi, nhập định quán ngoại thân từ nội thân khởi, nhập định quán một thân từ thân khác khởi, nhập định quán thân khác từ một thân khởi, nhập định quán thân người từ thân Duyệt xoa khởi, nhập định quán thân Duyệt xoa từ thân rồng khởi, nhập định quán thân rồng từ thân A tu la khởi, nhập định quán thân A tu la từ thân trời khởi, nhập định quán thân trời từ thân Phạm Thiên khởi, nhập định quán thân Phạm Thiên từ thân Dục giới khởi, nhập định quán thân Thiên đạo từ định quán thân địa ngục khởi, nhập định quán thân địa ngục từ định quán thân nhân đạo khởi, nhập định quán thân nhân đạo từ đạo khác khởi, nhập định quán ngàn thân từ một thân khởi, nhập định quán một thân từ ngàn thân khởi, nhập định quán ức thân từ một thân khởi, nhập định quán một thân từ ức thân khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình trong cõi Diêm phù định quán chúng sanh hữu hình ở cõi Cù da ni khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình ở cõi Cù da ni từ định quán chúng sanh hữu hình ở cõi Uất đan việt khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình ở cõi Uất đan việt từ định quán chúng sanh hữu hình ở cõi Phất vu đãi khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình ở phương Đông từ định quán chúng sanh hữu hình ở ba phương khác khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình ở ba phương từ định quán chúng sanh hữu hình ở bốn phương khởi, nhập định quán chúng sanh hữu hình ở bốn phương từ định quán tất cả các loài có thân mạng ở biển khởi, nhập định quán tất cả các loài có thân mạng ở biển từ định quán thân vị thần biển khởi, nhập định quán thân vị thần biển từ tánh nước của biển khởi, nhập định quán tánh nước của biển từ định quán tánh lửa của biển khởi, nhập định quán tánh lửa của biển từ định quán tánh gió của biển khởi, nhập định quán tánh gió của biển từ định quán bốn đại khởi, nhập định quán bốn đại từ định quán pháp vô hữu khởi, nhập định quán pháp vô hữu từ định quán núi Tu Di khởi, nhập định quán núi Tu Di từ định quán trăm loại cây cỏ, núi song, tường đá khởi, nhập định quán trăm loại cây cỏ, núi sông, tường đá từ định quán tất cả vật dụng báu và hương hoa tinh khiết khởi. Nhập định quán tất cả vật dụng báu và hương hoa tinh khiết từ định quán mọi đồ dùng ăn mặc của tất cả chúng sanh ở bốn phương và phương trên, phương dưới khởi. Nhập định định quán mọi đồ dùng ăn mặc của tất cả chúng sanh ở bốn phương và phương trên, phương dưới từ định quán thân chúng sanh hữu hình trong ba ngàn thế giới khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong ba ngàn thế giới khởi từ chúng sanh hữu hình trong ba ngàn đại thiên thế giới khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong ba ngàn đại thiên thế giới từ định quán chúng sanh hữu hình trong ức trăm ngàn và ba ngàn đại thiên thế giới khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong ức trăm ngàn và ba ngàn đại thiên thế giới từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô hạn thế giới khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô hạn thế giới từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô số thế giới khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô số thế giới từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô lượng cõi Phật khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô lượng cõi Phật từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô biên cõi Phật khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô biên cõi Phật từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô số không thể tính kể cõi Phật khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô số không thể tính kể cõi Phật từ định quán chúng sanh hữu hình trong không thể nghĩ bàn cõi Phật khởi. Nhập định quán chúng sanh hữu hình trong không thể nghĩ bàn cõi Phật, nhập định quán chúng sanh hữu hình trong vô hạn vô lượng không thể nghĩ bàn cõi Phật. Từ định quán chúng sanh hữu hình trong vô hạn vô lượng không thể nghĩ bàn cõi Phật, khởi nhập định định quán chúng sanh hữu hình rất xa. Từ định quán chúng sanh rất xa khởi nhập định quán chúng sanh rất gần. Từ định quán chúng sanh rất gần khởi nhập định quán nhãn nhập. Từ định quán nhãn nhập khởi nhập định quán nhĩ nhập. Từ định quán nhĩ nhập khởi nhập định quán tỷ nhập. Từ định quán tỷ nhập khởi nhập định quán thiệt nhập. Từ định quán thiệt nhập khởi nhập định quán thân nhập. Từ định quán thân nhập khởi nhập định quán ý nhập. Từ định quán ý nhập khởi nhập định quán tự nhập. Từ định quán tự nhập khởi nhập định quán tha nhập. Từ định quán tha nhập khởi nhập định quán tự nhập. Nhập định quán tất cả chúng sanh hữu hình từ định quán A tăng kỳ cõi cho đến vô hạn lượng không thể tính kể cõi nước khởi. Nhập định quán A tăng kỳ cõi cho đến vô hạn lượng không thể tính kể cõi nước từ định quán tất cả chúng sanh hữu hình khởi. Nhập định quán Thanh văn từ định quán Bích chi Phật khởi. Nhập định quán Bích chi Phật từ định quán Thanh văn khởi. Nhập định quán tự thân từ định quán thân Phật khởi. Nhập định quán thân Phật từ định quán tự thân khởi. Nhập định quán một niệm từ định quán trăm ức kiếp khởi. Nhập định quán trăm ức kiếp từ định quán một niệm khởi, thể nhập hiện tại định. Từ hiện tại định khởi nhập quá khứ định. Từ quá khứ định khởi nhập vị lai định, lại nhập tam thế định.
Như vậy Bồ tát theo chỗ nhập định, theo chỗ khởi định, nhập định quán cõi hư không từ hư không giới khởi. Tối Thắng nên biết, ví như có người bị quỷ trói buộc, theo sự nắm giữ của quỷ thần kia thân đi đến đâu cũng không tự biết. Nhưng quỷ thần ấy mượn thân người đó chứ không tự hiện hình. Đại Bồ tát cũng như vậy, ý nhập nội định từ ngoại định khởi, nhập ngoại định từ nội định khởi. Ví như có người thân chết, thần thức lìa không chỗ nương tựa, xúc không dao động. Thân cũng không biết thần thức ở đâu. Thần thức tự thọ hình vì không biết thân nay đang ở đâu. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát cũng như thế, lúc mới nhập hữu định thì đẳng quán phân biệt… lại nhập Không định vĩnh viễn không thấy hữu. Trước sanh sau diệt, mỗi pháp không biết nhau. Bồ tát lại phải quán giống như người có tâm tự tại Ba la mật, một thân có thể hóa thành nhiều thân, nhiều thân hợp lại thành một thân. Thức không theo một thân mà mất, ngay khi đó sanh nhiều thân. Lại cũng không có việc thức từ nhiều thân mất sanh trong một thân, không từ không có mà có nhiều, không từ nhiều mà có một Đại Bồ tát cũng như thế, nhập định quán một thân rồi khởi nhập định quán nhiều thân, định quán nhiều thân rồi khởi định quán một thân. Ví như mặt đất được thấm nhuần là do nước làm căn bổn, vạn vật sanh ra mỗi thứ không đồng. Cõi người, cõi ma đều được thấm nhuần là do nước làm căn bổn, vạn vật sanh ra mỗi thứ không đồng. Cõi người, cõi ma đều được thấm nhuần. Vạn vật cũng không tự biết ta được sanh, nước cũng không biết ta làm thấm nhuần. Đại Bồ tát cũng như vậy, được tam muội này thì một là vô số, vô số là một. Vô số không biết lấy gì làm một, một cũng không biết lấy gì làm vô số. Này Tối Thắng, đó gọi là Nhất thiết chúng sanh toái thân tam muội của Đại Bồ tát, là pháp tu hành của bậc đệ bát Bồ tát. Trụ trong tam muội này, Bồ tát liền đạt được mười hiệu Phật và mười công đức, được mọi người hoan hỷ khen ngợi. Thế nào là mười? Là nói danh hiệu của Như Lai: như Chơn như tu tập Chơn như, danh hiệu là Phật, Phật đối với các pháp đều ngộ rõ từ bờ này đến bờ kia. Danh hiệu Tối Thắng, vì được chúng sanh tôn quý và cúng dường. Danh hiệu Nhất Thiết Trí, vì tất cả trí đức đều đầy đủ. Danh hiệu Vô Tận, vì bảo hộ che chở cho tất cả chúng sanh. Danh hiệu Đạo Sư, vì khiến chúng sanh loại hiểu rõ con đường chơn chánh. Danh hiệu Đẳng Luân, vì tất cả pháp giới chúng sanh và các loại trí đều đầy đủ. Danh hiệu là Diệu Quang, vì tất cả chúng sanh đều nương nhờ ánh sáng soi chiếu. Danh hiệu là Thập Lực, vì thành tựu sở nguyện, trí phân biệt pháp, không chấp trước, không thể nhiễm ô. Hiệu là Nhất Thiết Hiện, vì khiến cho tất cả pháp đồng nhất, hay Ba la mật tự tại. Này Tối Thắng, đó gọi là mười hiệu và mười công đức được mọi người hoan hỷ khen ngợi. Đó đều là ân lực oai thần của tam muội. Đại Bồ tát trụ tam muội này đạt được mười loại ánh sáng tự tỏa chiếu. Mười loại ánh sáng đó là gì? Đó là Tất cả ánh Phật quang tự tỏa chiếu. Ánh sáng vây quanh thân chiếu soi tất cả thế giới theo đạo, không có thế giới nào không theo đạo. Ánh sáng khiến tất cả chúng sanh đều được giáo giới, dùng đó làm hương xông ướp. Vô lượng ánh sáng của bốn pháp Vô sở úy chiếu khắp pháp giới, nơi nào trong pháp giới cũng có ánh quang minh. Ánh sáng giải thoát trừ bỏ tâm ái, tất cả vô dục. Ánh sáng cảm hóa tất cả chúng sanh. Ánh sáng không nương chấp, không nhiễm trước của chư Phật. Ánh sáng khéo tư duy, ánh sáng Ba la mật của Bậc Đẳng Chánh Giác. Ánh sáng chơn tế, tất cả pháp tánh như thị. Ánh sáng vô thượng giảng nói trừ bỏ họa ràng buộc. Nếu vị Đại Bồ tát trụ tam muội này thì được mười loại ánh sáng tự tỏa chiếu. Bồ tát lại phải khéo học mười hành vô tích. Mười hành ấy là gì? Ý phải khởi lên các niệm sau: thân hành vô tích, khẩu hành vô tích, ý hành vô tích, tâm ham muốn an trụ xứ sở đều rỗng không, vô hạnh mong muốn thành tựu hạnh, không phải pháp hữu vi; không làm bại hoại pháp, không hủy trí nghiệp; tu tập vô sanh trí; học hay không học pháp đều phải biết biện trí. Trí vô hình nghĩa vị thanh tịnh. Đó gọi là Đại Bồ tát trụ tam muội này nên có vô số hạnh đặc thù khác nhau có thể cắt đứt duyên chấp trước, từ một nhập vô số loại định, hoặc khởi niệm, hoặc tư duy đẳng phần, với đẳng phần cũng không đẳng phần; từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến nhỏ; từ hẹp đến rộng, từ rộng đến hẹp; buộc thì khiến mở, mở thì khiến buộc; không có thân thì khiến có thân, có thân thì khiến không có thân. Hoặc khởi hoặc định, hoặc định hoặc khởi, có cấu uế làm cho không cấu uế, không cấu uế làm cho có cấu uế. Người ngộ rõ tam muội này thì có thể phá hoại tất cả cảnh giới như người đập vỡ bình, giống như đại chú thuật phòng hộ hiệu nghiệm. Vô số loại sắc, vô lượng loại âm thanh hoặc bị chú cấm ngăn, hoặc bị âm thanh ảo hóa sai sử. Chú sai sử các thần, ảo sai khiến ngoại hình. Thấy sắc biết ảo hóa chính là thu nhiếp nhãn thức. Nghe âm thanh biết ảo hóa chính là thu nhiếp nhĩ thức. Ngửi hương biết ảo hóa chính là thu nhiếp tỷ thức. Nếm vị biết ảo hóa chính là thu nhiếp thiệt thức. Cảm xúc do thân thể xúc chạm phát sinh biết ảo hóa chính là thu nhiếp thân thức. Có ảo, đại ảo, thượng trở lại là hạ, hạ trở lại là thượng nên phải khởi niệm truy tìm. Pháp mà ý thức thu nhiếp không thể suy lường. Đại Bồ tát trụ tam muội đó như vậy, hoặc tán hoặc tụ, hiện vô số biến hóa. Tối Thắng nên biết, nay Ta phải dẫn ví dụ để kẻ sĩ có mắt mới thông đạt pháp này. Ví như chư Thiên đánh nhau với A tu luân. Chư Thiên chiến thắng, A tu luân bại. Lúc đó A tu luân tự biết đã bại liền lập kế phương tiện hóa thành ao tắm có các loại hoa sen. Thân A tu luân cao bảy ngàn do tuần lại làm cho thân mình và binh chúng ẩn mất, chui vào trong ống của ngó sen nấp. Chư Thiên tìm nhưng không thấy. Đó gọi là A tu luân khéo biết rõ pháp ảo. Đại Bồ tát cũng như vậy, thành tựu tuệ ảo của Nhất thiết trí thì từ chỗ này đến chỗ khác, trí không tổn giảm mảy lông. Mỗi vị Bồ tát đều tự thông đạt với nhau. Bậc có hiệu Bồ tát đều dùng trí tuệ ảo pháp để nhiếp thủ. Bồ tát nhập toàn thân định, hiện khắp các pháp định như thế. Ví như có người khi ở cõi người, khi ở cõi quỷ gieo hạt giống xuống đất, tùy thời tưới tẩm khiến hạt giống được sanh trưởng. Hạt giống ở trong đất, quả sanh ở trên cao. Hạt giống trước chẳng phải hạt giống sau, hạt giông sau chẳng phải hạt giống trước. Hạt giống trước không lìa hạt giống sau, hạt giống sau không lìa hạt giống trước. Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, một mình nhận lãnh thân hữu hình trụ tam muội này thì có thể lìa thân hiện hữu, không trụ thân hiện hữu do nam nữ giao hội. Thức ở trong chỗ tinh cha, huyết mẹ dơ uế, trong thai mẹ dần dần đủ mười tháng nhưng do hạnh xưa trong sạch, phước nguyện đưa đến, các thân phần hình thể đầy đủ, thành tựu sáu căn, phân biệt giới tính rõ ràng. Thức hợp với nguồn gốc của sáu căn, mỗi căn đều khác. Tướng của sáu căn hiện hữu trên thân theo việc làm thiện ác mà đưa đến thọ thân, tìm gốc khởi sanh thì như ảo hóa. Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, dùng tâm giải thoát tăng thượng làm cha mẹ, trí tuệ phân biệt mà trụ nơi thọ sanh, nhập quán định vô hữu từ hữu định khởi, hoặc nhập quán hữu định từ vô hữu định khởi. Bậc trụ trong tam muội này có đức như vậy. Ví như cung rồng nương trụ trên đất thì có thể cưỡi mây bay trên hư không, phát sấm chớp tùy thời tuôn mưa xuống thấm nhuần muôn loại, nhưng cung rồng kia không trụ ở hư không. Chẳng có chỗ rồng trụ mà trong hư không hiện bao nhiêu thứ biến hóa, hoặc phun mưa, hoặc tùy theo tâm nguyện khiến chúng sanh loại ngưỡng trông: “Cung điện ở mặt đất mà làm mưa ngược lên trên, pháp lạ kỳ có gì lạ kỳ hơn!”. Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, trụ tam muội này và pháp ảo hóa, nhập định quán vô tướng từ hữu tướng khởi, nhập định quán hữu tướng từ vô tướng khởi.
Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát trụ trong tam muội này khiến hư không là đất, khiến đất là hư không. Hư không và đất cũng không lìa nhau. Giống như cung điện do các thứ báu tạo thành lấp lánh ánh pha lê ở trên trời, khi vị Đại Tự Tại Thiên lên cung điện ấy đưa mắt nhìn thì thấy một ngàn thế giới, mười ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, ba ngàn đại thiên thế giới. Ở trong các thế giới đó có Thiên cung, Long cung, Duyệt xoa, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, nhân và phi nhân cho đến ba đường ác; núi Tu Di, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, Hắc sơn, Đại Hắc sơn và núi Thất bảo; sông biển, ao hồ, thành ấp, làng xóm, núi sông, cây cối, thảo dược, hoa quả. Những loài có hình chất hôi thối hay thơm tho, trong sạch hay dơ uế trong ba ngàn đại thiên thế giới cho đến các loại hình vi tế. Phạm Thiên ở trung cung điện đó đều ở xa trông thấy rõ ràng chi tiết, không bị mờ khuất không rõ. Giống như người ở nhân gian đeo các vật trang sức trên thân cũng như soi gương thấy hình bóng, vị Thiên ấy cũng như vậy. Các chúng sanh ngồi đứng, đi lại, ăn uống, ngủ nghỉ, vị ấy đều thấy rõ ràng như thấy viên ngọc trong lòng bàn tay. Đại Bồ tát cũng như thế, trụ Nhất thiết chúng sanh toái thân định đối với các tam muội luôn được tự tại; đạt được định tự tại của Phật, định tự tại giáo hóa chúng sanh, định tự tại thông tỏ các pháp, định tự tại thành tựu hạnh, định tự tại đầy đủ giải thoát tăng thượng, định tự tại với các chánh thọ, định tự tại khi ra vào, ngồi đứng; định tự tại đắc các trí tuệ, định tự tại trong khoảng thời gian khảy móng tay là một kiếp. Đó gọi là Đại Bồ tát trụ tam muội này tự an vui với mười điều tự tại của Bậc Đẳng Chánh Giác. Đại Bồ tát hiển bày oai lực vô úy có mười việc. Mười việc đó là gì? Đó là hiển bày oai thần chiếu sáng của Phật vượt quá cõi hư không, không bỏ tâm tinh tấn, ở trong các pháp hoại mà đắc pháp Ba la mật. Hiển bày hạnh thệ nguyện vô úy của Bồ tát, thông tỏ pháp Ba la mật hí khẩu của Như Lai. Hiển bày thế giới thanh tịnh, hiển bày sự thanh tịnh vô cấu soi sáng thế giới. Hiển bày ở chỗ chúng sanh thị hiện việc không thể nghĩ bàn. Hiển bày các Bồ tát không đoạn kinh pháp. Hiển bày đến cõi Phật cúng dường, lễ bái. Hiển bày gốc trí tuệ hạnh nghiệp vì đó là việc không thể nghĩ bàn. Hiển bày phân biệt tam muội vô sở úy. Hiển bày nhập định vi diệu, biết rõ hướng tu tập, dùng Bồ tát độ mà độ thoát chúng sanh. Hiển bày cõi Phật thanh tịnh, không đoạn pháp thệ nguyện của Bồ tát để tự soi sáng cũng không sợ hãi. Bậc Đại Bồ tát ở trong cõi thế tục hiện thân Phật cũng không e ngại, vì giáo hóa nên hiện chuyển pháp luân, hiển bày pháp bổn thiện căn của chư Như Lai, an lập họ nơi Phật thừa khiến họ đều được thành tựu. Hiển bày tâm ý đầy đủ oai lực đạt đến Ba la mật. Lại nữa, Đại Bồ tát tư duy Bất khởi pháp nhẫn, liễu tri thông đạt rõ ràng các pháp đã tu hành trong vô số vô hạn ức, trăm, ngàn kiếp; tất cả đều như hiện tiền. Hiển bày pháp oai mãnh liệt thiêu đốt đạo giáo. Lại nữa, Đại Bồ tát theo ngày đêm, thời tiết, năm tháng, tuổi tác đều có thể tính toán mà biết dụng tâm của Bồ tát, dùng đẳng trí trong khoảnh khắc biết rõ việc ba đời không sai trái; hiện như thế không ngăn ngại.
Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát trụ tam muội này thì có thể hiển chiếu các pháp Ba la mật, được mười pháp vô úy, ở trong đại chúng nhập định chánh thọ, khéo dùng phương tiện quyền xảo quán sát thân nát như bụi trần. Đó là pháp tu tập của bậc đệ bát Bồ tát.
***
Phẩm 16: THÂN NHẬP
Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lại nữa, Đại Bồ tát lại tự quán thân, tự thân giữ gìn các pháp nhập của thân đều có thể phân biệt liễu tri là không xứ sở. Lúc đó tâm Bồ tát thể nhập pháp giới, định quán thân nhập thì ở trong các loại định luôn được tự tại. Các lỗ chân lông trên thân, mỗi lỗ chân lông thể nhập pháp giới định ý tam muội nên được tự tại, ở các pháp giới thị hiện ảo pháp, phân biệt pháp thế gian biết có đời trước, đời sau; liễu tri ức trăm ngàn việc của thế giới, các cõi Phật cách đây vô số vô hạn A tăng kỳ kiếp, các điều tốt xấu ở trong đó đều có thể thông đạt, quán sự thành tựu của các vị đệ tử gần gũi Bậc Đẳng Chánh Giác; tịnh, bất tịnh cũng đều bình đẳng, không dứt đoạn pháp thiện, không tổn giảm pháp Đại thừa, tâm ý kiên cố cũng không lay động. Bồ tát ở trong các cõi Phật cách đây một kiếp, trăm kiếp, trăm ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức kiếp, vô hạn vô lượng A tăng kỳ số kiếp không thể luận bàn, chẳng thể tính đếm, chẳng thể dùng ý mà thấu đạt nhập chánh định tam muội. Lại từ trong tam muội khởi nhập nội quán cõi Phật, từ trong cõi Phật đó quán đến cõi khác thì có thể độ cho chúng sanh tu tập thuần thục, không mất Chánh pháp của thể pháp giới, quán qua lại ba đời không bị chướng ngại. Với người nói pháp có chướng ngại thì chỉ cho họ biết hướng quay về với pháp tuệ nhãn toái nhập. Họ ở trong pháp giới được tự tại, nhập định tai nghe đủ các loại âm thanh tốt xấu, đạt đến Ba la mật không chướng ngại. Nhập định quán tỷ nhập không tổn giảm phương tiện quyền xảo, khéo nhập định quán thiệt căn thuận theo tri thức. Vị Đại Bồ tát ấy quán như vậy, biết như vậy, trụ nhập định quán thân trụ thì đạt được mười ngàn ức pháp Tổng trì của Bồ tát, ở thế gian tùy theo thế tục mà chuyển Pháp luân. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức căn môn, đạt Nhất thiết trí, lại đạt mười ngàn ức thần thông vây quanh vô ngại, lại đạt được mười ngàn ức định siêu việt các loại định, lại đạt được mười ngàn ức thần túc, đạt đến cõi hư không vô biên tế, lại đạt được mười ngàn ức lực khiến các hạnh dần dần càng lúc càng tăng nhiều, lại đạt được mười tám ức dục mong cầu đoạn trừ các tưởng, lại đạt được mười tám ức định chỉ vô sở hữu, lại đạt được mười tám ức hiển oai thần biến như hiện tiền. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát đạt được mười ngàn ức hạnh không suy giảm.
Lại nữa, Bồ tát phải nhớ nghĩ thực hành mười ngàn ức pháp khác như dùng ngọc anh lạc để tự trang nghiêm, lại phải tu hành mười ngàn ức pháp độ chúng sanh, lại phải tu hành mười ngàn ức thừa khiến chúng sanh loại nương theo thừa đó đến bờ bên kia, lại phải tu hành mười ngàn ức Viêm định tam muội soi sáng để thế giới không có chỗ nào còn tối tăm u ám. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức hoằng thệ, có người đến xem tâm không lay động. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức tín nguyện không tà kiến điên đảo. Bồ tát đạt được mười ngàn ức chánh lộ, pháp xứ mà Bồ tát có thể qua lại dạo đi để thanh tịnh đạo tích của mình. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức tín nguyện không tà kiến điên đảo. Bồ tát đạt được mười ngàn ức ánh sáng từ mặt chiếu ra. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức kinh điển giáo huấn nói rõ công đức của Bồ tát. Bồ tát lại đạt được mười ngàn ức pháp bổn thanh tịnh để tịnh hóa đạo tràng. Này Tối Thắng, đó gọi là bậc Đại Bồ tát dùng vô lượng công đức để tự trang nghiêm thân, trang nghiêm cội đạo, không mất bổn tế. Đó đều là pháp cụ của con đường tu tập Bồ tát. Nếu vị Bồ tát thành tựu các pháp cụ đó thì lên Bồ tát vị được mọi người hoan hỷ khen ngợi, dùng hương công đức xông ướp, được người cung kính, trong chúng làm việc gì thì liền được lợi dưỡng, ngay hiện tại đức nghiệp không thể cùng tận. Nếu có Bồ tát trụ pháp giới định ý tự tại tam muội này thì sẽ sanh vào nhà giàu sang, không phải ở chỗ hạ tiện. Chúng Bồ tát đều là quyến thuộc. Đã trụ tam muội này thì từ xa thấy được các Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác cách đây mười ức A tăng kỳ về các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương góc và phương trên, phương dưới, Bồ tát đều có thể biết rõ tên hiệu. Vì để kiến lập hướng dẫn đưa đến hạnh Bồ tát nên vị Bồ tát ấy thanh tịnh cõi Phật, từ thân Như Lai phóng ra vô lượng ánh sáng, hiện mắt Như Lai thông tỏ không gì sánh bằng, lưỡi Như Lai thông suốt rộng lớn không giới hạn, tâm Như Lai thông suốt rộng lớn không giới hạn, tâm Như Lai thông suốt chẳng có gì không quán thấy được. Người được độ do pháp thần túc vô thượng của Như Lai thật là vô hạn. Đạo của Như Lai không có thượng, trung, hạ vì đều thành tựu, vì danh xưng của Như lai truyền xa rộng rãi, vì pháp luân của Như Lai luôn chuyển, không phải chỉ chuyển trong hiện tại; vì Chánh pháp vô lượng của Như Lai không thể đoạn tuyệt giữa chừng; vì hiện tại căn lành của Như Lai được mọi người hoan hỷ xưng tán khen ngợi, vì Như Lai tu tập, phổ biến, giảng luận không ai có thể đủ khả năng nhận lãnh; vì Như Lai gieo trồng và thành tựu căn lành suốt trong ba đời không ai không hàng phục; vì Như Lai giảng dạy tất cả các pháp khai thị cho kẻ ngu; vì pháp xứ của Như Lai được trí tuệ sáng suốt hiển hiện. Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ tát thanh tịnh cõi hiện tại chính là chỗ kiến lập hạnh, dùng công đức sâu dày của Phật tuôn mưa pháp cam lộ xuống tất cả cảnh giới Phật, thị hiện có ngôn giáo, pháp chư Phật nhưng liễu tri tánh các pháp là hình ảo không phải chơn thật, vì chúng sanh khởi tự nhiên không động chuyển. Bồ tát phân biệt nghĩa lý, hình tướng các pháp, biết rõ Như Lai có đầy đủ vô lượng công đức không thể cùng tận. Đó gọi là bậc Đại Bồ tát trụ tam muội này dạo đến các phương không ngăn ngại.
Lại nữa, Bồ tát trụ tam muội này quán ấm trì nhập cũng không chướng ngại, quán tâm là pháp ảo, biết vô hạn lượng vô biên pháp. Các Bồ tát an trụ, thể nhập định ý tự tại tam muội này thì có thể biết danh hiệu, tên họ của mỗi Đức Phật Như Lai Đẳng Chánh Giác cho đến danh hiệu của mười ngàn ức A tăng kỳ Đức Phật Như Lai và trăm ngàn ức cõi Phật. bồ tát an trụ thân đều trụ trong đó, tâm tưởng, ý tưởng vô lượng vô hạn. Bồ tát lại dùng phương tiện thiện xảo giải thoát để kiến lập pháp xứ cũng không quên mất tất cả pháp vì đã vượt qua tri kiến, thường gần gũi biển trí tuệ vì hiện trí rất ít có. Bồ tát cũng thị hiện trụ thân hiện tại vì hiển thị các pháp không có xứ sở, thị hiện an lập Phật xứ vì truyền bá khắp các pháp không có trước sau, thị hiện căn môn vô ngại, trí tuệ thông tỏ pháp vì khéo dùng trí phân biệt, không hủy oai nghi vì thành tựu các cõi không có qua lại, thị hiện trí tuệ xứ vì trí tuệ đã thanh tịnh vô ngại, vì thị hiện thành Đẳng Chánh Giác, vì soi sáng pháp giới không có tăng giảm. Đó gọi là Đại Bồ tát trụ tam muội này thì có thể phát khởi đạo Đại thừa. Đại Bồ tát lại phải tu tập Thập thú hải môn không nhàm chán cho là đủ. Thế nào là mười? Đó là hiện biển Phật không nhàm chán cho là đủ. Biển người chuyển động giáo hóa khiến không động chuyển, không khi nào chán đủ. Biển pháp làm tăng trưởng lợi ích trí tuệ, không cảm thấy chán đủ. Biển phước điền phát sanh không cảm thấy chán đủ. Trụ vô hữu pháp cũng không quán sát, thực hành biển công đức thần túc, với vô sở trụ cũng không cảm thấy chán đủ. Hiển bày trí tuệ sáng vì giữ gìn trí tuệ không phân tán. Trụ biển căn môn, từ chỗ này đến chỗ khác trí tuệ không mê loạn. Trụ biển tâm ý hoàn toàn có thể ngộ biết tất cả chúng sanh có bao nhiêu loại tâm, bao nhiêu loại ý; biết tâm vô lượng hay tâm có tăng giảm. Trụ biển tu hành vì đầy đủ các nguyện. Trụ biển hoằng thệ vì muốn thành tựu pháp giải thoát thanh tịnh rốt ráo. Đó gọi là Đại Bồ tát trụ tam muội này thì có thể đạt được thập thú hải môn mà không cảm thấy chán đủ, pháp mà bậc Bồ tát Đại sĩ đã tu tập. Đại Bồ tát lại phải tư duy mười pháp đệ nhất vô sanh. Mười pháp đó là gì? đó là: 1. Quán chúng sanh loại là đệ nhất vô sanh. 2. Quán chư Thiên hào quý là đệ nhất vô sanh. 3. Quán Phạm Thiên tối thượng là đệ nhất vô sanh. 4. Quán tâm hộ thế bất hoại là đệ nhất vô sanh. 5. Quán bậc ở chỗ chúng sanh một mình không bạn lữ là đệ nhất vô sanh. 6. Quán tâm định không loạn hàng phục chúng ma là đệ nhất vô sanh. 7. Quán năm đường vô hình là đệ nhất vô sanh. 8. Quán các chúng sanh không có nhiễm ô là đệ nhất vô sanh. 9. Quán pháp của chư Phật tôn quý là đệ nhất vô sanh. 10. Quán ánh sáng giải thoát tự tại chiếu soi là đệ nhất vô sanh. Đó gọi là Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ, tư duy mười pháp đệ nhất vô sanh đó.
Bồ tát lại phải tư duy mười hướng lực tu tập của chúng sanh. Mười hướng lực ấy là gì? Đó là phát tâm xuất gia kiên cố giáo hóa các chúng sanh. Lập tâm bất thoái chuyển thực hành tinh tấn lực vì thanh tịnh. Lực không chấp trước, không nhiễm ô tất cả pháp Không. Lực hưu tức vì thành tựu các pháp tự tại. Lực thành tựu tâm vì tâm động hay không động đều phân biệt nghĩa. Đầy đủ pháp lực tự nhiên vì thành tựu đại trí tuệ. Thành tựu lực vô ngại vì an lập pháp xứ. Thành tựu lực ý đoạn. Pháp chưa biết đã biết, vì thành tựu lực trí tuệ vô nhị, vô sanh diệt. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát tư duy mười lực, là lực tối đại, lực không thể so sánh, lực không có trên dưới, lực không lường, lực giáo dưỡng, lực bất động, lực khiến sanh đường lành, lực không nộ, lực của trí mãnh liệt, lực cần khổ tích hạnh. Đó là mười lực mà Bồ tát phải nhớ nghĩ tu hành.
Lại nữa, Bồ tát phải tư duy mười lực. Mười lực đó là gì? đó là lực thể nhập không, lực thiện thanh tịnh, lực của tâm thiện vi diệu, lực của thiện pháp thân, lực của pháp thiện thế gian, lực khởi pháp lành, lực của thiện căn tịch tĩnh, lực của pháp thiện chưa từng có, lực của tâm thiện giác ngộ, lực của tâm khéo độ thoát. Đó gọi là Bồ tát trụ mười lực thì có thể nhiếp trì định ý. Đại Bồ tát lại phải tư duy hai mươi lực đạt đến chánh định. Hai mươi lực đó là gì? Đó là lực của bậc Đại nhân, lực của việc gần gũi thiện tri thức, lực của Đẳng Chánh Giác rốt ráo, lực tự thân được gần gũi tu tập pháp thiện căn, lực của vô lượng thiện căn được hương xông ướp, lực độ hay không độ của Như Lai, lực hàng phục cấu uế khiến không sanh diệt, lực khiến niệm của Bồ tát tăng trưởng lợi ích không dứt đoạn, lực được hoan hỷ do Bồ tát trang nghiêm, lực của pháp lành không dứt đoạn việc khuyến trợ Bồ tát, lực khiến Bồ tát trừ tâm chấp trước, không bị duyên ràng buộc, lực làm sung mãn nguyện Bồ tát không có mong cầu, lực khiến thành tựu Bồ tát ý tư duy định, lực hộ trì các căn của Bồ tát, lực lập Pháp vương; lực không chấp trước, không suy lường thân; lực của trí tuệ đắc phương tiện thiện xảo, lực khiến ở trong tất cả các pháp không có nạn sợ hãi, lực an lập pháp bổn cho chúng sanh khiến không sót mất, lực khiến ở chỗ chúng sanh độc hành không bị nhiễu loạn. Đó gọi là Đại Bồ tát ở trong định ấy thì mới tương ưng với lực vô sở hữu, vượt trên các vị La hán, Bích chi Phật mới có thể thể nhập vào định lực của Bồ tát.
***
Phẩm 17: BIỆN TÀI
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Như thế nào là Bồ tát đầy đủ các đức đoạn trừ dục vọng của chúng sanh, làm sung mãn tất cả chúng sanh khiến họ không còn hiềm hận?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy tư ghi nhớ pháp này. Ta này sẽ vì ông khéo phân biệt điều đó. Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật cần phải trang nghiêm thanh tịnh đạo tràng, phóng ánh sáng lớn chiếu soi cảnh giới đó khiến nơi u tối đều được soi sáng. Người thấy ánh sáng đó tâm không còn sợ sệt, không còn nạn sợ hãi, tâm vô cùng vui thích, hoan hỷ gấp bội, tăng trưởng công đức, không lìa bỏ hạnh thanh tịnh, tự tịnh hạnh của mình tu tập đạo Vô thượng khiến nghiệp công đức không thể cùng tận, trí tuệ vô hạn. Bồ tát thực hành pháp cũng không sai lệch, thực hành pháp Bồ tát thừa cũng không giới hạn. Cảnh giới của Bồ tát không thể nghĩ bàn, chẳng phải cảnh giới La hán, Bích chi Phật có thể tính lường. Pháp độ sanh của Bồ tát cũng không sai lệch, thành tựu các đức cũng không bờ mé. Tâm hạnh thanh tịnh của Bồ tát không rời bỏ hoằng thệ. Bồ tát nói pháp giải thoát chỉ rõ đưa đến cửa đạo. Muốn luận bàn về đầu mối các pháp của Bồ tát thì không thể được. Đại Bồ tát từ vô số kiếp mới được là Bồ tát, sau đó mới thành đạo Bồ tát. Có người đến hầu cận, Bồ tát vì làm tăng trưởng lợi ích nên khuyến khích họ phát tâm thành tựu đức Bồ tát. Danh tiếng Bồ tát truyền xa, mọi người nghe danh tiếng đều đến để hầu hạ, ngày đêm cúng dường. Bồ tát muốn làm ruộng phước tốt cho hậu thế, nếu có chúng sanh trông thấy Bồ tát, Bồ tát liền nói pháp vô thượng trí cho họ. Người nghe pháp tâm không khởi niệm chán đủ. Bồ tát giảng rộng trí tuệ sáng, không hủy phá pháp tánh. Vì thế nên chúng sanh nghe pháp vâng thọ chánh giáo tăng trưởng trí nghiệp bội phần. Bồ tát giảng dạy Chánh pháp không cùng tận. Bậc Đại Bồ tát trụ trong tam muội này thì có thể truyền bá rộng rãi các công đức lành. Vì tâm ý rộng lớn vô hạn lượng không thể tính kể nên Bồ tát luôn nghĩ đến bố thí, tùy theo nhân duyên thuở xưa của mình mà nhập chánh định tam muội rồi lại từ định khởi, tự phản tỉnh quán pháp tánh. Do tam muội đó nên biết cảnh giới tam muội, phân biệt vô số tam muội: Định ý quán tam muội, Quảng phổ quán tam muội, Vô dục quán tam muội, Tướng quán tam muội, Sở hiện quán tam muội, Oai nghi quán tam muội, Ỷ quán tam muội, Niệm quán tam muội, Đẳng quán tam muội, Hỷ quán tam muội, An ổn quán tam muội, Hộ quán tam muội, Xuất yếu quán tam muội. Tập khí đã sanh hay chưa sanh đều xả tương ứng với tâm hân hoan trong khi thiền định. Bồ tát tuy nhập các loại định nhưng không nhiễm chấp định. Tối Thắng nên biết, ví như cung điện của Đại Long vương A Nậu Đạt đều do bảy báu tạo thành. Suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn, nước chảy ra ở bốn cửa đều êm ả không làm tổn hại đến sự sanh trưởng của cây cỏ. Nước suối trong trẻo như màu hư không. Khi ấy bốn con sông từ bốn cửa chảy ra hướng về bốn phương đều quy tụ về biển. Bốn con sông ấy, sông thứ nhất tên Hằng Già từ miệng voi tuôn ra, sông thứ hai tên Tư Đầu từ miệng sư tử tuôn ra, sông thứ ba tên Tư Đà từ miệng bò tuôn ra, sông thứ tư tên Bà Xoa từ miệng ngựa tuôn ra. Bốn con sông lớn ấy từ bốn cửa miệng tuôn chảy ra, đi về bốn phương rồi quy tụ về bốn biển. Sông lớn Hằng Già theo thân voi bằng xa cừ báu tuôn chảy nước. Sông lớn Tư Đầu theo thân sư tử bằng kim cương báu tuôn chảy nước. Song lớn Tư Đà theo thân bò bằng mã não máu tuôn chảy nước. Sông lớn Bà Xoa theo thân ngựa bằng ngọc báu lưu ly xanh tuôn chảy nước. Bốn loại báu ấy đều là vật báu cõi trời chẳng phải vật báu cõi người. Bốn con sông lốn đó, mỗi sông lúc mới chảy ra rộng một do tuần. Khi chảy ra, mỗi con sông đều tuần tự chảy lặng lẽ không tiếng động. Mỗi con sông lớn đều chảy quanh suối thần về phía phải bảy vòng rồi đổ hết ra biển. Khoảng cách giữa bảy vòng là một do tuần, ở khoảng giữa đó mọc vô số loại hoa sen, hoa sen Ưu bát, hoa Bát đầu mâu, hoa Tu kiền đề, hoa Mãn nguyện kiền đề; các loại hoa báu quý hiếm đều mọc trong đó, lại tỏa ra các mùi hương vi diệu xông ướp. Sắc hương của các loại hoa đó đều thơm đẹp. Vô số các vật báu tự phản chiếu ánh sáng với nhau, khiến người trong thấy xem không chán đủ. Các loại vật báu hiếm bên trong bên ngoài tự phản chiếu ánh lấp lánh với nhau hừng sáng trong phạm vi một do tuần, như ngọc ma ni phát ánh sáng khắp nơi. Trong khu vực bảy vòng chảy đó có các loại chim lạ thường cùng nhau cất tiếng hót buồn thương lẫn vui sướng. Lại có trăm loại cây cối, cỏ thuốc thần kỳ, mùi hương theo gió la xa man mác đến tận chỗ các cửa sông. Cung điện của Long vương A Nậu Đạt về bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc ngang rộng năm mươi do tuần toàn dùng bảy thứ báu để trang hoàng chạm trổ. Lại có vô số ngọc ma ni và báu vật màu sắc khác nhau trang hoàng nội cung, trên hư không cũng giăng mắc đầy ngọc báu ma ni để làm ngày, đêm, sao trời. Trong cung dùng toàn danh mộc ngưu đầu chiên đàn. Ở trong cung điện ấy, một ngày ba thời mưa tuôn xuống các loại hương hoa: hoa sen Ưu bát, hoa Câu mâu đầu, hoa Phân đà lợi, hoa Tu kiền đề, hoa Mãn nguyện kiền đề. Vô số loại vật báu làm thành cung điện, ánh sáng phản chiếu với nhau luôn sáng rực. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn rồi từ bốn cửa miệng chảy về bốn biển, Đại Bồ tát cũng vậy, đắc được bốn con sông pháp biện tài không ngăn ngại, pháp diệt bốn đạo đều quy tụ về biển trí. Như sông Hằng Già từ cửa miệng voi bằng chơn bảo xa cừ tạo thành chảy ra nước xuôi về biển, Đại Bồ tát cũng như vậy, từ pháp thanh bạch miệng nói ra vô lượng nghĩa, hoàn toàn là lời giảng giải nghĩa lý sâu xa trong pháp bí tạng của Như Lai, khiến cho mỗi pháp đều có tên gọi, giảng rõ pháp vị, thắp sáng đuốc trí tuệ, độ chúng sanh đều quy về biển vô biên trí. Ví như sông lớn Tư Đầu dùng chơn bảo kim cương tạo thành thân sư tử, từ miệng sư tử nước chảy ra biển, bậc Đại sĩ Bồ tát cũng như vậy, biện luận giảng rộng pháp kim cương của Phật, hộ trì chúng sanh khiến họ được thông tỏ rõ ràng, giữ gìn trí kim cương xuôi về biển vô ngại. Như sông lớn Tư Đà dùng mã não tạo thành thân bò, từ miệng bò tuôn chảy ra biển, Đại Bồ tát cũng như thế, biện giải giảng luận nghi vấn cho người khiến họ vĩnh viễn không còn tâm do dự, cũng làm cho chúng sanh không còn đấu tranh kiện tụng, theo căn cơ báo ứng mà phân biệt nghĩa lý khiến hạnh của chúng sanh loại thuần thục, đều độ cho tâm họ quy hướng về biển không có duyên chấp trước. Cũng như sông lớn Bà Xoa dùng lưu ly xanh tạo thành thân ngựa, từ miệng ngựa nước tuôn chảy ra biển, Đại Bồ tát cũng như vậy, đắc biện tài vô tận, tư duy các pháp trong suốt ức trăm ngàn kiếp thị hiện mà không cùng tận, dùng pháp lành hộ trì thân tâm đưa đến thiện đạo khiến người tuân thủ cấm giới đều quy về biển Phật đồng một vị. Như bốn con sống lớn kia chảy về bên phải quanh suối A Nậu Đạt bảy vòng hướng ra bốn phương rồi quy tụ về biển, Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, thân hành thành tựu cũng không nghịch hướng, khẩu hành thành tựu cũng không nghịch hướng, ý hành thành tựu cũng không nghịch hướng, ý chí tu tập lấy trí tuệ làm đầu. Như bốn con sông kia kia hướng ra bốn phương rồi quy về biển, Bồ tát Đại sĩ cũng như thế, nương bốn trí tuệ biện tài hướng ra bốn phương. Khi ấy Bồ tát phải quán tất cả phương, nơi chư Phật trụ để phụng sự lễ bái, không mất oai nghi, lại phải hiện ánh pháp quang rực rỡ của tất cả chư Phật, giữ gìn pháp Tổng trì để không quên mất. Bồ tát lại phải hiện các trí độ, đầy đủ bổn hạnh Bồ tát; lại phải thể hiện tâm đại từ bi, ở chỗ chúng sanh hiện chuyển Pháp luân. Như bốn con sông chảy quanh A Nậu Đạt bảy vòng, trong khu vực giữa các vòng đó có các loại hoa: hoa sen Ưu bát, hoa Câu mâu đầu, hoa Phân đà lợi, hoa Tu kiền đề, hoa Mãn nguyện kiền đề và các loại hương của hoa xông ướp bốn phương, Đại Bồ tát cũng như vậy, từ sơ phát tâm đến khi thành Phật, trong khoảng thời gian đó hóa độ hướng đạo cho chúng sanh chưa được giáo huấn, nói pháp khuyến tấn họ đạt đến bất thoái chuyển, vì họ giảng nói pháp chánh định từ ức trăm ngàn kiếp cũng không mệt mỏi, còn một người chưa độ xong thì không bỏ hạnh nguyện. Bồ tát thanh tịnh cõi Phật, làm nghiêm trang nơi an trụ, nhập Sư tử bộ định ý tam muội, tâm ý tinh tấn hướng về cội dạo thọ như kim cương mà không bị nạn. Như trong khoảnh đất của bảy vòng chảy quanh suối A Nậu Đạt sanh ra bảy cây báu để tự trang nghiêm, hoa quả mùi thơm không thể lường, Đại Bồ tát cũng như vậy, trang nghiêm cõi Phật, thanh tịnh quốc độ, hoa sanh ra từ ba mươi bảy cội đạo thọ, tâm giác quán đạo, tư duy Chánh pháp. Như cung điện A Nậu Đạt ngang rộng năm mươi do tuần thanh tịnh không tỳ vết, không có bụi trần cấu tạo, Đại Bồ tát cũng như vậy, tâm đạo thanh tịnh không tỳ vết, nội tâm có các loại gốc thiện công đức, đầy đủ vô lượng pháp môn định ý. Ví như suối A Nậu Đạt dùng danh mộc ngưu đầu chiên đàn và các loại tạp báu để làm tường vách, Đại Bồ tát cũng như thế, niệm đạo tâm nên đạt được mười ức trăm ngàn loại trí, thệ nguyện không khuyết giảm, tâm thông đạt Bổn vô, tu tập thành tựu tâm thông đạt, thành tựu trí nghiệp các căn bản thiện đều thanh tịnh. Giống như nội cung A Nậu Đạt toàn lấy chơn châu hổ phách để làm nền phát ra vô số loại ánh sáng chiếu khắp nơi, Đại Bồ tát cũng như vậy, nhập trí cực vi, tâm ý độ sanh không thể nghĩ bàn, cứu độ chúng sanh ra khỏi đầm buồn khổ, dùng vô số loại trân bảo, ngọc anh lạc để tự trang nghiêm cũng không hủy hoại thể tánh pháp giới, trụ nhà giải thoát của Như Lai, tâm ý thú hướng trọn không thoái chuyển. Như Long vương A Nậu Đạt che chở bảo hộ cho các rồng nhỏ, làm cho kẻ hoảng sợ không còn sợ hãi; các rồng thần tùy tùng đều có oai đức, các vua rồng nhỏ ở biển đều đến để quy phục, Đại Bồ tát cũng như vậy, che chở bảo hộ cho tất cả chúng sanh hữu hình có tâm lo sợ, tùy thời giảng dạy khiến họ không còn oán hận. Với nội giới hay siêu việt giới, tâm đều bình đẳng như hư không. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn sông, chảy đến các sông ở khắp cõi Diêm phù, đến tận các hang núi nơi chướng ngại rồi đổ ra biển, những nơi nước chảy qua đều được thấm nhuần. Đại Bồ tát cũng như vậy, nương sông bốn trí đưa chư Thiên, loài người, các loại ma như Thiên ma, chư Thiên Thích, Phạm và nhân, phi nhân hướng đến biển đại trí, phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn, mười lực vô sở úy, mười tám pháp bật cộng, đến cội đạo thọ tâm không thoái chuyển. Bốn con sông trí đó, một là sông nguyện trí vì luôn thệ nguyện độ chúng sanh cũng không nương tựa, không bị chấp trước nội thân. Hai là sông cụ túc trí độ vô biên. Bậc Bồ tát thanh tịnh đạo nhiếp tất cả giới, qua lại tuần hoàn mà không chấp trước, kiến thức vô tận cũng không thể tận, từ trí ba đời diễn nói nghĩa vô thường, khổ không, phi thân (vô ngã). Ba là sông định ý trí tuệ của Bồ tát dùng vô ương số định để tự trang nghiêm dạo qua quốc độ của chư Phật mười phương lễ bái cúng dường chư Phật Thế Tôn, diễn nói biển không nguồn cội của chư Phật. Bốn là sông đại từ bi làm cho chúng sanh loại an lập tâm từ bi không thoái chuyển, nhổ tận tất cả khổ để chúng sanh không còn phiền não nóng bức. Bồ tát lại dùng vô số phương tiện thiện xảo hướng đạo cho họ, khiến họ tinh tấn không còn tâm luyến tiếc, tích chứa nhiều của báu như biển ở mười phương. Người có duyên chấp trước thì biết hướng quay về. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn rồi đều quy về biển vô cùng tận không thể nghĩ bàn, Đại Bồ tát cũng thế, được tăng thượng thệ nguyện rộng lớn, thành tựu nguyện trí tu hạnh Bồ tát, trí tuệ quán pháp cũng không thể tận, thành Vô thượng đạo mà không trệ si cũng biết pháp Phổ tập định ý của chư Phật, lấy sự an lạc của Phật làm niềm vui. Như suối A Nậu Đạt chảy ra bốn sông lớn. Mỗi sông phân làm năm trăm nhánh. Năm trăm nhánh của mỗi sông tất cả đều chảy ra biển, không nhiễu loạn làm hại chúng sanh. Đại Bồ tát cũng như vậy, nương theo trí tuệ hoằng thệ chí không dao động, tu hạnh phổ tế, từ mẫn với tất cả chúng sanh; hiện hữu tướng, vô tướng ngộ rõ tất cả pháp, tu tập trí vô ngại, không đoạn pháp bổn, giáo hóa khiến chúng sanh được giải thoát, trụ nơi vô ngại. Cũng như trong khu vực của bảy dòng chảy quanh suối A Nậu Đạt sanh vô số loại vật báu quý hiếm, ánh sáng phản chiếu nhau sáng rực. So với ánh sáng mặt trời, ánh sáng ấy trăm lần hơn, ngàn lần hơn, chiếu khắp nơi không nơi nào không được chiếu sáng. Kẻ sĩ có mắt thấy năm sắc vàng chói của cung A Nậu Đạt như mặt trời trên không, không có nơi nào không được chiếu sáng, mỗi hình chất tự được ánh sáng chiếu soi nên không bức bách nhau. Các vật báu chạm vào nhau phát ra vô số âm thanh thật nhẹ êm, nghe không nhàm chán. Đại Bồ tát cũng như thế, trụ Pháp giới tự tại định ý quán mỗi lỗ chân lông có vô số vô lượng ức trăm ngàn Đức Như Lai và đệ tử Bồ tát trong cõi Phật, bao nhiêu chúng hội nghe pháp vị, thọ trì ghi nhớ không quên, ngày đêm tụng đọc. Như cứu người chìm đắm chốn vực sâu, thân Như Lai biến hiện khắp các thế giới không thể nghĩ bàn, không thể đo lường. Bồ tát lại đến gần gũi các thế giới của chư Phật lễ bái, cúng dường, nghe pháp vị. Bồ tát nhập định ý suốt trăm ngàn kiếp cũng không thấy dài ngắn, cũng không thấy lớn hay nhỏ. Bồ tát quán thấy trong mỗi lỗ chân lông có quốc độ, thành ấp của chư Phật Như Lai, bao nhiêu chúng đệ tử và chúng sanh có vô số loại hình tướng, ngôn từ khác nhau, qua lại tùy theo ý niệm. Mỗi người tùy theo chí nguyện cùng nhau vui vẻ. Bồ tát không thấy có bức bách cũng không thấy khoan dung. Vì sao như vậy? Nếu có Bồ tát nhập Pháp giới định ý thì tâm vị ấy vi tế, khó thấy cũng không có hình chất, hành tích vô cùng nhỏ nhiệm, không thể lấy gì để ví dụ, sanh sanh tự hoại cũng không tự biết. Cảnh giới tam muội không thể nghĩ bàn. Cảnh giới của tư duy trong thiền định không thể nghĩ bàn. Trụ xứ của chư Phật cũng không xứ sở, hiển bày oai nghi không thể cùng cực, khó làm khó thấy của Phật. Bồ tát trụ hoàn toàn trong cảnh giới đó, không xả bỏ hạnh Bồ tát, vượt các cõi ma và tâm không kiên cố, an trụ nơi vô vi, đại đức thanh tịnh, đầy đủ mười lực lớn của Như Lai, mong cầu nghiệp vô thượng vô hạn, tu hành nghĩa sâu xa vi diệu của Chánh pháp mà không nghĩ là khó. Đại Bồ tát cũng như thế, theo tâm ý của mình trong khoảnh khắc một niệm từ tam muội khởi, biết việc ba đời, suy tư có thể phân biệt đường thiện, đường ác; ở trong các pháp giới được tự tại, không nương tựa bên trong cũng không nương tựa bên ngoài, suy tư tìm kiếm điểm khởi đầu và kết thúc của các pháp đều không thấy đầu mối, chúng đều không có xứ sở, cũng không thấy tưởng. Đại Bồ tát vì vượt qua các tưởng nên biện biệt các nghĩa lý, dạo cõi Phật lễ bái, cúng dường không có tâm chán đủ, thể nhập các pháp giới, tư duy phân biệt tận nguồn cội của pháp giới, không trụ vô vi cũng không trụ biên tế, tu Nhất thiết trí mà không chấp trước trí. Tuy có qua lại mà không thấy có qua lại, quán trí như ảo hóa nhưng thật không có ảo hóa, quán chúng sanh đẳng phần cũng như thế, suy tư tìm kiếm căn bổn của chúng thì không thể đạt được giới hạn, thanh tịnh các thế giới mà không thấy có pháp tịnh, tuyên giảng cho chúng sanh khổ do duyên gì sanh, do duyên gì khởi nhưng khổ, không, phi thân (vô ngã), tuổi thọ của con người đều vô sở hữu. Vì có vô số hiện tượng vô thường biến hóa nên không trụ sanh tử, không chấp trước Niết bàn, siêu việt tất cả kiếp, vượt qua cõi chết, quán các tướng mạo ý không mê hoặc. Bồ tát dùng phương tiện thiện xảo theo chơn lý đạt đầy đủ các trí, rốt ráo thanh tịnh, chí không thay đổi, quán các thế giới và chúng sanh có kẻ qua lại sanh tử, có bậc không còn qua lại sanh tử đều độ thoát cho họ, khiến trí tuệ của chúng sanh không giảm thiểu, với tất cả pháp giới oai nghi của thế gian đều tuần tự đạt các pháp không mất thứ lớp. Bồ tát quán công hạnh tích chứa của Phật cũng không chán đủ, nương theo pháp tạng của chư Phật đạt được trân bảo lớn, phương tiện thị hiện các tam muội một cách vô ngại. Bồ tát thủ hộ pháp tự nhiên như thế, với nghĩa cú của pháp sâu kín không bị ngăn ngại, tuyên nói đạo pháp không cùng tận, có trí tuệ lớn biện tài phân biệt từ ngữ, đạt pháp Tổng trì diễn nói ra vô số loại bí tạng của chư Phật. bồ tát đã lìa bỏ dâm cũng khiến chúng sanh không còn dâm, nộ, si. Bồ tát Đại sĩ trong vô số kiếp thực hành quyền phương tiện, hiển hiện vô số loại đạo chủng, tùy loại chúng sanh giáo hóa khiến họ được giải thoát. Tất cả các pháp tự nhiên độ thoát mà không thấy tự nhiên. Vì độ kẻ chưa độ nên an lập tâm đại từ bi. Với các chúng sanh cũng không thấy có tưởng chúng sanh. Giảng nói pháp quán hơi thở, khi có hơi thở ra, khi có hơi thở vào, liễu tri pháp bổn tự nhiên của thế giới, biết pháp tự thường trụ. Chúng sanh tu tập tự khởi thức chấp trước cho đó là Không định, không thấy chuyển động cho là pháp lưu chuyển. Bồ tát tuy hóa độ chúng sanh mà không thấy có hóa độ thanh tịnh ba giới tràng, vào nhà Như Lai, với các pháp tưởng tâm đạt vô úy, nói pháp thanh tịnh, chuyển Pháp luân không thể hủy hoại. Tâm đạo hưng thạnh hoàn toàn chẳng phải tâm của La hán, Bích chi Phật. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát đắc pháp giới tự tại định ý tam muội, tăng trưởng lợi ích đại sự, lên địa vị Bồ tát trọn không uổng phí công sức tu tập.
***
Phẩm 18: QUYỀN TRÍ
Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát lại phải tư duy đệ thập quyền trí định tuệ tam muội, phải nhớ nghĩ tu hành. Thế nào là Bồ tát tu hành đệ thập quyền trí định tuệ tam muội? Này Tối Thắng, Đại Bồ tát có tam muội tên là Vô lượng định ý. Bồ tát trụ tam muội đó quán biết vô lượng thân hành, quán biết vô lượng khẩu hành, quán biết vô lượng cõi Phật rồi đến đó làm trang nghiêm, quán biết vô lượng chúng sanh rồi dùng trí đến hàng phục, quán biết vô lượng chúng sanh nhận lãnh giáo hóa thành tựu trí nghiệp, quán biết vô lượng ánh sáng lớn phát ra tiếp độ người chưa được độ, quán biết vô lượng ánh sáng oai tướng đại nhân phát ra không nơi nào không soi chiếu, quán biết vô lượng chuyển Chánh pháp luân mà chư Thiên, người đời, các loại ma như Thiên ma, Phạm Thích, Tứ Thiên vương không thể chuyển, chỉ Như Lai mới có thể chuyển, quán biết vô lượng Bồ tát dạo đến các cõi Phật làm vị Thượng thủ Đạo sư dẫn đường cho các chúng sanh. Bồ tát tuy được Phật lực nhưng không nương lực đó, tự buông xả thân ý như không có gì để buông xả, đạt trí tuệ của Phật cũng không nương trí tuệ, lấy sự hưng khởi của Phật mà khởi phát trí tuệ, thọ trì thần túc của Phật độ vô lượng cảnh giới, lấy sự thanh tịnh của Phật để thanh tịnh hạnh, lấy sở hạnh của Phật mà làm hạnh của mình, lấy tâm lượng của Phật để tu tập các tâm lượng, lấy định phấn tấn không có tâm khiếp nhược của Phật nên được sự thanh tịnh của Phật mà làm Phật sự. Đại Bồ tát đã trụ tam muội này quán khắp tất cả trí, đã quán tất cả trí lại quán tất cả nghiệp, đã quán nghiệp, suy tư thì có thể tu tập trí tuệ; đã tu tập trí tuệ thì thọ trí giác; đã thọ trí giáo thì suy tư diệu trí, đã suy tư diệu trí thì liền cầu trí nghiệp, đã khởi trí duyên thì đạt trí giải thoát, đã đạt trí giải thoát thì đạt giải thoát vô dư, đã đạt giải thoát vô dư thì tương ưng với pháp và luật giải thoát vô thượng Bồ tát tu tập lâu dài nên thành tựu Bồ tát nghiệp. Ý Bồ tát tinh tấn. Bồ tát nhẫn nhục trước cảnh khổ. Bồ tát làm muội lược ác, nhập Bồ tát tạng, giữ gìn ánh sáng của Bồ tát, trừ bỏ sự mê mờ của Bồ tát, lên địa vị Bồ tát, hiện tướng Bồ tát, trừ bỏ sự điếc không nghe của Bồ tát, thanh tịnh âm thanh Bồ tát. Bồ tát nghe âm thanh đó tâm không dao động, không lo sợ cũng không thoái chuyển, tâm không nhàm chán, không nghĩ nhớ sự tăng ích, không xả ly cũng không nghi ngờ, không dừng nghỉ giữa chừng cũng không nương tựa vào điều Bồ tát nghe nên được như vậy. Đại Bồ tát ở chỗ chúng sanh tùy theo tánh loại mà thể nhập quán sát pháp tắc, thành tựu tâm hoằng thệ, làm mô phạm cho các chúng sanh theo pháp Đại thừa đi vào sông biển của Phật, theo con đường thẳng không mất dấu đạo. Đại Bồ tát luôn phải tư duy ba điều hoằng thệ lớn, giữ tâm hoằng thệ hướng đạo chúng sanh từ bờ này sang bờ kia. Ba điều hoằng thệ lớn ấy là gì? Đó là: 1. Tăng ích hoằng thệ. 2. Tăng trung hoằng thệ. 3. Tăng hạ hoằng thệ. Lại nữa, Bồ tát lại có ba điều hoằng thệ. Ba điều hoằng thệ đó là gì? Đó là: 1. Hạ thượng. 2. Hạ trung. 3. Hạ hạ. Đó gọi là ba điều hoằng thệ. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát đạt được đệ thập quyền trí định tuệ tam muội đó thì mới có thể đạt được tâm hoằng thệ lớn tăng thượng bậc nhất, giáo dưỡng chúng sanh, thanh tịnh quốc độ Phật, giữ trí phương tiện, lìa khỏi sự ràng buộc của ái dục, khéo học thâm nhập pháp Nhất tướng của Bồ tát, ngộ rõ các tướng cũng không có tướng, khéo thông đạt pháp ảo hóa của Bồ tát, an lập tâm ý chúng sanh trụ nơi kiên cố, khởi tâm bố thí cho tất cả loại chúng sanh. Các Đức Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại thực hành tâm đại từ bi biến khắp tất cả. Người vô trí được trí tuệ sáng, người mù thì được sáng mắt, kẻ không được cứu hộ thì được cứu hộ làm sung mãn tất cả pháp của chư Phật khiến chúng sanh có tâm mong cầu trừ bỏ pháp tưởng. Vì sao như vậy? Ví như vị trưởng giả tích chứa tiền của ngàn ức, vàng bạc, vật báu như xa cừ, mã não, chơn châu, hổ phách trong kho. Lại có ngọc báu minh châu Như ý, ánh sáng phát ra soi khắp mọi nơi, màu sắc đẹp tuyệt vì thể tánh của ngọc đó tự sáng. Đại Bồ tát cũng như vậy, thể đạt ngọc tâm ý phát ra trí tuệ, dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp nơi, thông đạt sự qua lại không bị chướng ngại, nhập định ý này cũng không gặp nạn tai. Như viên ngọc sáng kia ánh quang chiếu khắp nơi, Bồ tát tự hiện năng lực ý chí nên bổn tánh tự như vậy, không gì có thể chế phục khiến năng lực ý chí ấy chẳng như vậy. Vì sao? Thể tánh tự nhiên, không thể khiến nó không tự nhiên. Tự nhiên cũng là không tự nhiên, không tự nhiên cũng là không tự nhiên. Không thấy chúng sanh tự nhiên, không thấy chúng sanh không tự nhiên. Tối Thắng nên biết, chúng sanh xuất hiện nơi tự nhiên, cũng xuất hiện nơi không tự nhiên. Vì sao nói chúng sanh xuất hiện nơi tự nhiên, cũng xuất hiện nơi không tự nhiên? Nói chúng sanh xuất hiện nơi tự nhiên đó là nói giới hạn trong năm đường lưu chuyển không dứt một thân, trăm thân hoặc ngàn vạn thân; một kiếp, trăm kiếp hoặc ngàn vạn kiếp bỏ thân rồi thọ thân, thành tựu bốn đại, nuôi lớn năm ấm. Đó gọi là chúng sanh xuất hiện nơi tự nhiên. Thế nào là chúng sanh xuất hiện nơi không tự nhiên? Là do thể tánh chúng sanh vốn không, Không cũng là vô thức, cũng là vô tưởng niệm. Khi ấy bốn đại có bốn ngọn gió khởi: một là địa khí phong thổi đến Không, hai là thủy khí phong thổi đến Không, ba là hỏa khí phong thổi đến Không, bốn là phong khí tức Không phong. Thần giao, thức chướng ngại đột nhiên kết hợp với nhau, năm pháp giao kết tích tụ mới thành hình thể, gặp trời thì làm trời, gặp người thì làm người, theo chỗ nhiễm của hình thể liền thành thân kia. Giả sử có địa khí mà không có thủy, hỏa, phong cũng không thành được. Nếu có thủy khí mà không có địa, hỏa, phong cũng không thành được. Nếu có hỏa khí mà không có địa, thủy, phong thì cũng không thành được. Nếu có phong khí mà không có địa, thủy, hỏa thì cũng không thành được. Giả sử có thần thức nương tựa Không, tự quản mà không có địa, thủy, hỏa, phong thì cũng không thành được. Bồ tát phải quán thức là tánh Không, là chỗ thâu nhiếp pháp giới. Có thức, bốn đại; năm pháp tương ưng thì thành thân năm ấm. Nhanh chóng khỏe mạnh tức là Không giới. Thức tự biết lạnh, thô ráp, trơn mịn, cứng chắc suy tư tìm hiểu biết ly Không ý tư duy chuyên chú, tâm niệm tưởng Không, giải thoát vắng lặng tức là tự ngộ rõ sự hư ảo trong pháp Không, không trở lại thế giới này thể nhập giải thoát Niết bàn vô dư nói mà diệt độ. Nếu thần thức ấy trì độn, không lanh lợi, mê mờ, hoảng hốt, không tin pháp ly Không thì đó là do bản thân tức là hư không, do hình thể cảm thọ đối tượng nên phải đi vào cửa sanh, gặp thiện thì theo thiện, gặp ác thì theo ác. Gặp thiện thì chúng sanh tin có thiện ác, biết đời này đời sau có tôn ti, lớn nhỏ nhàm chán họa khổ của thế gian, tu tập pháp thiện không mệt mỏi, lâu dài mới đắc đạo. Gặp ác thì thần thức vĩnh viễn lìa bỏ thiện, cam tâm làm ác, trôi lăn trong sanh tử, đi vào nỗi khổ nơi địa ngục. Thần thức cảm thọ khổ não không dừng nghỉ mới tự tỉnh thức, nhớ nghĩ việc đã làm không phù hợp với luật cấm, dần dần tự trách sửa đổi bỏ ác theo thiện; từ sơ phát tâm trải qua nhiều số kiếp tích lũy công đức, đầy đủ các hạnh mới được thành đạo. Đó là chúng sanh xuất hiện nơi không tự nhiên. Đại Bồ tát thường phải tư duy, nhất tâm quán sát tự nhiên và không tự nhiên. Thế nào là Bồ tát quán tự nhiên và không tự nhiên? Tự nhiên là pháp thế gian, không tự nhiên là đạo. Tự nhiên là ràng buộc, không tự nhiên là không ràng buộc. Tự nhiên là hữu, không tự nhiên là Không. Tự nhiên là có thức, không tự nhiên là đã ly (thức). Tự nhiên là có danh, có sanh, có già, có bệnh, có chết; không tự nhiên là pháp không sanh, không khởi diệt, cũng không dong ruổi trôi lăn theo năm đường. Bồ tát phải nhớ nghĩ xả bỏ pháp hữu tự nhiên, tu tập pháp vô tự nhiên, các trí sáng suốt không bị chướng ngại, xả bỏ pháp tự kỷ, không khởi tự nhiên cũng không thấy diệt, thanh tịnh tất cả mười phương thế giới, độ cho người chưa được độ, tuy có thân cận nhưng cũng không thấy gần, vì người mà chịu khó nhọc, không chấp nghĩ có khổ, đảm nhận trọng trách luôn lấy đạo bổn hướng dẫn người đến biển pháp, mong cầu định bất loạn, nhặt được vô hạn lượng vật báu là năm phần Pháp thân; không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát, tướng tốt, thần túc; dùng chúng làm tâm báu, không lo sợ cũng không hoảng hốt. Lại có tam muội tên Vô vi định. Đại Bồ tát trụ tam muội này lấy chánh định hiển phát ánh quang minh làm thanh tịnh dấu tích của chúng sanh mà không nhàm chán, vì chúng sanh diễn nói tánh Không. Chúng sanh ngộ rõ Không khi đó mới được thức tỉnh, hồi tâm quay về với đạo, trọn không thoái lui.
Khi đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Như Ta ngày nay trụ Pháp giới tự tại định ý này, dùng thiên nhãn quán lên tận bờ mé hư không, cảnh giới chúng sanh không tự nhiên trụ, trong khoảnh khắc khảy móng tay có ức trăm ngàn không thể tính đếm chúng sanh đến. Họ từ xưa theo dục thọ hình đi vào cửa sanh. Bấy giờ vô số hằng sa chư Phật Thế Tôn ở mười phương đều dùng hóa thân trụ giữa hư không nói pháp hư vô cho bốn khí thần thức kia thể đạt Không rồi lại ly Không; cũng như vậy làm cho lìa thức. Ngã Không suy tư ngã hữu, vì ly Không vĩnh viễn mà thôi. Nếu nương tựa Không kia thì thức cảm thọ biết thân. Người tư duy quán Không thì ở trong cõi đó không xả bỏ thức nhận biết thân hình, nhập cảnh vô dư mà thủ diệt độ, không trở lại cõi này nhận lãnh thân năm ấm, đi vào khổ não. Quyền trí của Như Lai vô hình, độ cho thức nhập hư không giới, hiện đức thần biến đặc thù vi diệu đó để hóa độ, hoặc hiện ra các cõi Phật thanh tịnh, hoặc có khi an lập sự tịch tĩnh của Hiền Thánh, hoặc có khi kinh hành, tụng đọc không mệt mỏi. Thức tuy không thấy được nhưng oai nghi thể tiết của chư Phật Thế Tôn vốn không suy hao. Bồ tát phải quán hư không bao trùm vô biên cõi, hư không cũng không có niệm đó: “Ta nay sẽ phủ trùm quốc độ như vậy”. Hư không cũng không tự nghĩ có công lao khó nhọc. Vì sao? Hư không phủ che tất cả, tự tánh của nó như thế. Pháp không biến dị, tự nhiên thường trụ. Pháp không động chuyển cũng không nhiều biến hiện, không sanh, không diệt cũng không đổi khác. Vì vậy nên tánh của pháp giới hư không là tự nhiên.
Bồ tát lại phải tư duy thần thức hư không. Thức có ba tướng. Ba tướng là gì? Một là thú, hai là hối, ba là không thú cũng không hối. Thế nào là thần thức hư không thứ nhất: thú? Thú đó tức là có hướng đi về sanh, nuôi lớn chủng ấm, theo loại pháp thức nhiễm liền thọ nhận thân hình. Bồ tát phải biết, thần thức hư không cũng có thân trung chỉ. Thức hợp bốn khí hướng đến thân trung chỉ. Thân trung chỉ thọ hình hoặc trải qua nửa tháng, hoặc trải qua một tháng, hoặc trải qua thân hư không trung chỉ hướng đến năm đường. Thân trung chỉ trong năm đường hiện tiền, đã đi vào năm đường thì hoặc trải qua một, hai, ba, bốn cho đến mười hai tháng. Thân trung chỉ hóa sanh ở cõi trời thì không có tuổi theo tháng năm. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng có thân trung chỉ. Mỗi cảnh giới đều có thân Không thức trung chỉ chẳng giống nhau, vắng lặng vô hình nên không thể thấy, chỉ có chư Phật Thế Tôn A Duy Nhan mới có thể thấy mà thôi. Đó gọi là Đại Bồ tát quán thân hư không trung chỉ hướng về sanh môn. Thế nào là thần thức hư không thứ hai, thức có hối? Thức thứ hai, hối, là nói bốn khí kết hợp với thức trụ trong đó, hối nhận lãnh thân tâm đó niệm tưởng là Không, giải thoát vắng lặng, không suy tư chấp trước. Lại nữa, chư Phật Thế Tôn dùng hóa thân Phật đúng thời giáo hóa khiến thức ngộ rõ, bát Niết bàn nơi cõi Niết bàn Vô dư. Tối Thắng nên biết, chư Phật Thế Tôn ở trong ba đời giáo giới chúng sanh khiến vô số không thể tính đếm chúng sanh được đến bờ giải thoát. Vì một chúng sanh còn dong ruổi nên chư Phật Thế Tôn trong ba đời chịu khó khổ, cực nhọc dùng vô số phương tiện giáo hóa khiến vị ấy được giải thoát. Chư Phật Thế Tôn tuy ở trong khổ não mà không cho là cực nhọc cũng không có tâm mệt mỏi nhàm chán. Đức Như Lai xuất hiện ở đời hiện hóa các thân Phật. Chư Phật vì thần thức của thân trung chỉ ở cõi hư không mà nói pháp vô thượng đạo vi tế để giáo huấn. Thần thức của thân trung chỉ trong thai cha mẹ giác ngộ, ngay đó nhận lãnh pháp giáo hóa nhập cảnh giới Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn không thể diễn bàn. Số chúng sanh được chư Phật Thế Tôn ở mười phương hóa độ rất nhiều không lấy gì để ví dụ được. Đó gọi là Đại Bồ tát trụ Pháp giới định ý tự tại tam muội đó thì có thể dùng phương tiện trí hạnh tu tập vô lượng pháp, mới lên địa vị Bồ tát. Thế nào là thần thức hư không thứ ba, không có thú cũng không có hối. Không có thú cũng không có hối đó là nói nơi thức trụ trong pháp tánh Không giới. Hình chất của thân trung chỉ như bóng sáng vô cùng nhỏ nhiệm, ý thức niệm Không, không đạt được cảnh giới vô vi, thoái lui không thọ thân hiện hữu ở cõi người. Đó gọi là Đại Bồ tát không có thú cũng không có hối.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn, theo lời Thế Tôn dạy, hình chất của thần thức hư không, của thân trung chỉ hư không như bóng sáng, chỉ chư Phật Thế Tôn vào bậc Bồ tát bất thoái chuyển mới thấy được. Nếu như thần thức tứ khí và thân trung chỉ hư không có qua lại thì đệ nhất nghĩa và cảnh giới Niết bàn cũng phải có thần thức, cũng phải có thân trung chỉ. Giả sử có thức, có thân trung chỉ thì cảnh giới Niết bàn, thức hư không và thân trung chỉ hư không có gì khác biệt? Nếu không khác biệt thì không có Niết bàn. Không có Niết bàn thì không có đạo quả và pháp Tam thừa, pháp giới sanh tử và cõi Niết bàn, tức là không có khác biệt. Niết bàn chính là sanh tử, sanh tử tức là Niết bàn. Bạch Thế Tôn, theo chỗ con nghe Phật dạy về thần thức hư không và thân trung chỉ hư không có nhiều điều nghi, chưa hiểu rõ.
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Cảnh giới Niết bàn và đệ nhất nghĩa không có thần thức cũng không có thân trung chỉ. Thần thức và thân trung chỉ ở Niết bàn cùng với pháp tánh của thần thức và thân trung chỉ ở Không giới khác nhau. Thần thức trụ ở Niết bàn vắng lặng, bất động cũng không biến khác, cũng không có sanh, phải có chỗ hướng đến; lại cũng không có sanh, già, bệnh, chết, sầu lo, khổ não. Nói thức vĩnh viễn diệt thì nó cũng không vĩnh viễn diệt, nói thức là sanh thì nó cũng không sanh. Thân trung chỉ kia lấy mãi mãi vắng lặng làm thân trung chỉ.
Như Lai xuất hiện ở đời, hằng sa Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác ở quá khứ, hiện tại, vị lai không thủ Niết bàn cũng không vĩnh viễn diệt độ. Nếu Đức Phật Thế Tôn nhập Niết bàn thì chẳng phải là Bậc Chánh Giác, chẳng đủ thệ nguyện rộng lớn. Chư Phật Thế Tôn có danh hiệu trong ba đời từ xưa đến nay, Ta chưa từng thấy có vị nào nhập Niết bàn. Giả sử trong tương lai, chư Phật xuất hiện nơi pháp giới qua lại thì chỉ dừng trụ nơi Niết bàn Hữu dư, không nhập cảnh giới Niết bàn Vô dư. Tối Thắng nên biết, thần thức Như Lai và thần thức Niết bàn không khác nhau, nhưng vì thần thức Niết bàn không hình bóng, không tương sáng, không động cũng không dời chuyển, còn thức Như Lai có động, có dời chuyển. Thức Niết bàn và thức Như Lai đồng nhất không khác, chỉ có động và không động mới khác mà thôi. Bồ tát phải quán hư không, hư không đó có thức, có chỉ. Niết bàn có thức, có chỉ. Lại nữa, nếu có pháp nào ngoài Niết bàn thì cũng có thức, có chỉ. Này Tối Thắng, thần thức hư không, thân trung chỉ hư không, thần thức Niết bàn và thân trung chỉ Niết bàn mỗi pháp đều khác biệt.
***
Phẩm 19: GIÁO HÓA CHÚNG SANH
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Thế nào là Đại Bồ tát đi vào sanh tử tinh tấn khổ hạnh từ một cõi Phật đến một cõi Phật giáo dưỡng chúng sanh, trang nghiêm đạo tràng. Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa, cũng không thấy chúng sanh, cũng không tự thấy ta có pháp hóa độ. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Đại Bồ tát giữ gìn tâm thệ nguyện lớn vô biên giáo dưỡng chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. Tuy giáo hóa chúng sanh mà không thấy giáo hóa cũng không thấy chúng sanh. Do vậy nên dùng pháp tánh quán hư vô tịch tĩnh, không có sở hữu, đều là Không, đều là tịch tĩnh, không hình, không tướng vì không thể thấy. Tất cả mỗi pháp tự thể là Không, mỗi mỗi chúng sanh tự thể là Không, mỗi quốc độ tự thể là Không, mỗi pháp Niết bàn tự thể là Không, mỗi Bồ tát tự thể là Không. Này Tối Thắng, Bồ tát phải quán như vậy, thâm nhập pháp yếu, ngộ rõ các pháp là Nhất tướng như vậy. Các pháp trí tuệ vô vi vắng lặng, tịch tĩnh, không bị chấp trước. Đại Bồ tát cũng như thế, điều phục ý hướng theo đạo, tâm khó bị chướng hoại thì chắc chắn đạt đạo Vô thượng chánh chơn thành Bậc Tối Chánh Giác, chí như kim cương cũng không thối giảm, dùng pháp vô vi trang nghiêm cội đạo thọ như ngọc anh lạc. Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi tới đạo tràng ngồi dưới cội thọ vương đã hàng phục, sẽ hàng phục những người chưa được hàng phục. Trong khoảng thời gian ấy, Bồ tát không khởi tâm mạn như có ý nghĩ: “Ta thắng người kia”, “Ta cùng người kia bằng nhau”, “Người kia không thắng ta”. Tăng thượng mạn, Tăng trung mạn, Tăng hạ mạn; Trung thượng mạn, Trung trung mạn, Trung hạ mạn; Hạ thượng mạn, Hạ trung mạn, Hạ hạ mạn, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ, tư duy trừ bỏ các tâm mạn ấy. Bồ tát cũng không có tâm ganh ghét, đố kỵ, cống cao. Bồ tát nhập định quán sát chúng sanh phải độ người chưa độ nên dùng quyền phương tiện đi vào năm đường, tám chỗ không nhàn. Nếu có chúng sanh đáng nhận lãnh giáo hóa, Bồ tát liền cùng người ấy làm bạn tri thức, hoặc làm cha mẹ, anh em, quyến thuộc hoặc làm vị trưởng giả đại phú giàu sang tùy theo chúng sanh mà cấp thí cho người nghèo thiếu, xuất ra vô lượng vàng, bạc, vật báu xa cừ, mã não, chơn châu, hổ phách, ngọc minh nguyệt đẹp và ngọc báu Như ý; hoặc dùng thức ăn, giường chiếu đồ nằm, thuốc men trị bệnh cấp thí mà không có tâm hối tiếc. Lại nữa, nếu có người đến chỗ Bồ tát khẩn cầu xin đầu, mắt, tay, chân, tài sản quốc gia, vợ con, đồ dùng bảy báu, Bồ tát đều có thể bố thí cho mà không có niệm tưởng bố thí. Khi ấy Bồ tát liền nhập Pháp giới tự tại định ý tam muội chánh họ, dùng quyền phương tiện giảng nói pháp hư vô cho chúng sanh đó: “Các vị nên biết, pháp là vô vi cũng không có pháp nào là vô vi”. Bồ tát phân biệt sáu tình đều vô chủ. Nếu mắt thấy sắc, sắc cũng không đúng. Chúng sanh ngu mê ở trong đó khởi thức tư duy phân biệt. Nhãn thức lf vô chủ. Với tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biết trơn mịn, ý phân biệt pháp, Bồ tát quán sát đều vô sở hữu. Pháp khởi theo chỗ khởi, pháp diệt theo chỗ diệt, khởi không biết khởi, diệt không biết diệt. Mười hai nhân duyên, mười tám pháp trì nhập căn bổn cũng như thế. Có khi Bồ tát nhập Sư tử phấn tấn tam muội, lại có thể thị hiện vô số biến hóa, ở trong đó diễn xướng âm thanh thanh tịnh, hiện ra quốc độ có các báu trang hoàng, hương hoa cỏ thơm xông ướp năm sắc vàng chói, oai nghi tề chỉnh, chí núi An Minh không thể đổi dời. Bồ tát lại hiện vô lượng pháp môn định ý mà Như Lai thường an lạc trụ trong đó, tất cả pháp căn bổn của chúng sanh đều hiện tiền. Khi ấy Bồ tát lại dùng thần túc nhập vô lượng định mà tự thị hiện ngồi kiết già trên tòa sen, tự hiện sắc thân các pháp công đức suốt trong vô hạn lượng A tăng kỳ kiếp, tịnh trừ dấu tích tưởng chấp trước của chúng sanh, hướng dẫn đến con đường giải thoát của Bồ tát, y theo Nhất thiết trí diễn nói pháp cam lộ, tuyên bày ánh sáng trí tuệ, thị hiện trí tuệ Phật không bị nhiễm chấp. Hoặc dùng vật báu quý hiếm dựng tháp bảy báu đầy khắp thiên hạ, hoặc hai ngày thì xong, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày. Hoặc Bồ tát đến trời Phạm Thiên, hoặc đến trời Nhất Cứu Cánh trụ thọ nhiều kiếp mà không thủ diệt độ. Có khi Bồ tát dùng quyền phương tiện nhập định vô vi tịch tĩnh đầy đủ các căn lành, không xả bỏ Nhất thiết trí của Như Lai, dùng sức tam muội giáo huấn chúng sanh. Hoặc có chúng sanh phải nghe âm thanh giáo huấn mà được độ, hoặc có chúng sanh biết nghĩa của vị mà được độ, hoặc có chúng sanh thân được xúc chạm trơn mịn mà được độ, hoặc có chúng sanh ý ngộ pháp thể mà được độ. Khi đó Bồ tát lại suy tư: “Chúng sanh nghe âm thanh tất muốn nghe ta nói nghĩa thanh tịnh. Ta nay phải giảng nói tám âm của Như Lai, diễn giải âm thanh thành tám câu: âm thanh của Khổ, âm thanh của Tập, âm thanh của Tận, âm thanh của Đạo, âm thanh của thấy Khổ hướng Khổ, thấy Tập hướng Tập, thấy Tận hướng Tận, thấy Đạo hướng Đạo. Khi đó chúng sanh nghe âm thanh như thế ý không khai ngộ, muốn thấy ánh sáng, thân thể Bồ tát. Bồ tát nhập định dùng bình đẳng quán liền hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả, tất cả thành bảy báu xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly, san hô, hổ phách; đều phát ra ánh sáng. Ánh sáng đó phản chiếu với nhau che mờ cả ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Khi đó tâm ý chúng sanh không khai ngộ, lại muốn được thấy ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Bồ tát quán sát biết tâm niệm đó liền nhập Vô ngại tâm niệm tam muội, phóng ra ngàn ức vô số ánh sáng từ lỗ chân long, mỗi ánh sáng có hoa sen bảy báu, mỗi hoa sen bảy báu có đài bảy báu, trên mỗi đài có lọng bảy báu, dưới mỗi lọng có tòa bảy báu, trên mỗi tòa đều có Đức Như Lai giảng nói cho chúng sanh về nguồn gốc của Khổ: Khổ phát sanh, không có Khổ thì không có Khổ đế. Tập phát sanh, không có Tập thì không có Tập đế. Tận phát sanh, không có Tận thì không có Tận đế. Đạo phát sanh, không có Đạo thì không có Đạo đế. Chúng sanh Thanh văn đó thấy được ánh sáng, nghe âm thanh giảng nói về Khổ, tâm sanh nhàm chán họa hoạn. Mỗi người tự khởi tưởng khổ, không, vô ngã, tưởng vô sanh diệt, ở trên tòa ngồi chấm dứt nguồn gốc Khổ tương ưng với thanh âm thanh tịnh.
Khi ấy chúng sanh ngồi trên tòa ngửi mùi hương, ý không khai ngộ lại sanh niệm suy nghĩ: “Ý chúng ta ưa thích mùi hương cực diệu mà nay bậc Đại thánh lại giảng nói thanh âm”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập Cực vi chúng hương định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều tỏa hương xông ướp như các loại hương Ngưu đầu, Chiên đàn, Kê thiệt, Ngãi nạp, Bạt hương, Mộng kinh, Mộc mật, Tô hợp; hương của hoa Phân đà lợi, hoa Tu kiền đề, hoa Mãn nguyện tu kiền đề, hoa Thanh liên phương…, trăm ngàn chủng loại hoa như thế biến khắp bốn phương không nơi nào không ngửi được mùi hương. Lúc đó chúng sanh ngửi được hương nhưng ý không khai ngộ, muốn trong mùi hương phát ra tiếng giảng đạo. Bấy giờ Bồ tát biết tâm niệm đó của chúng sanh liền ở trong mùi hương giảng nói sáu loại pháp. Khi ấy chúng sanh ngửi hương tâm ý khai ngộ, chấm dứt sự họa hoạn nơi thế giới này, không còn sanh lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.
Bấy giờ chúng sanh ngồi trên tòa tham ưa vị, ý không khai ngộ tự nghĩ: “Ý của ta ưa thích vị ngon mà nay bậc Đại thánh chỉ dùng hương giáo huấn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích”. Bồ tát biết suy nghĩ của chúng sanh đó liền nhập Cực vi tịnh vị định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành thức ăn uống cam lộ tự nhiên, tỏa ra mùi thơm vị ngon ngọt vô cùng. Khi ấy chúng sanh tuy được mùi vị đó theo ý muốn nhưng không khai ngộ, ý tham muốn các thực phẩm được dâng hiến tự nhiên trước khi nấu và thấy được hình thể của trái quả theo ý muốn. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập Tốc tật vô ngại tam muội hóa đất đai, núi sông, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh tay cầm vô số loại cam lộ tự nhiên. Trong thức ăn cam lộ phát ra các âm thanh: “Vị ngọt bên ngoài, lưỡi nếm biết thưởng thức. Hai pháp giao hội mới khởi trần lao. Ta nay tự tiết chế biết đủ là pháp vô thượng, không sanh khởi sự ham muốn hình thể chi tiết đưa đến thống khổ. Như xe cần bộ khung mới có thể chở nặng, cùi hủi ghẻ lở được thuốc mới tránh khỏi sự đau đớn”. Giáo pháp như thế đều phát ra từ vị. Chúng sanh nghe giáo pháp đó, tâm ý khai ngộ, chấm dứt họa hoạn thế gian cũng không còn sanh trở lại, tận trừ gốc khổ liền thành tựu đạo quả.
Khi ấy chúng sanh loại ngồi trên tòa, những người ham thích xúc chạm trơn mịn, ý không khai ngộ liền khởi niệm nghĩ: “Nay ý ta ham thích xúc chạm trơn mịn mà nay bậc Đại thánh chỉ nói diệu hương, thật chẳng phải là điều mà tâm ta ham muốn”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh đó liền nhập cực dục vi tế nhu thuận định ý chánh thọ tam muội hóa đất đai, sông núi, tường vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều vận y bằng vải kiếp ba tự nhiên, dùng chỉ trời, tơ trời để may. Chúng sanh thấy y, lấy tay xúc chạm tự cảm giác biết mềm nhẹ không gì sánh bằng, khởi ý niệm muốn một y thì trăm tấm y tự đến. Tâm chúng sanh khai ngộ liền tựt rách: “Than ôi! Ta vì sao ham vận y này, há chẳng phải tự rơi đọa, tăng thêm trần lao. Thân chỉ là bộ xương khô, máu thịt bao phủ bên ngoài”. Họ liền nghe trên hư không phát ra các thanh âm: “Thiện nam tử nên biết, năm thú vui cõi đời chẳng phải chơn thật, chẳng phải có thật. Tâm chấp trước cảm giác trơn mịn dần dần khởi lên niệm vướng mắc. Niệm phải tự trách, từ bỏ tâm tham ái kia”. Khi đó chúng sanh nghe thanh âm từ trên hư không liền khai ngộ, chấm dứt nỗi khổ thế gian kia cũng không còn sanh lại, trừ tận gốc khổ liền thành tựu đạo quả.
Bấy giờ chúng sanh loại ngồi trên tòa, người tham ưa pháp, ý không khai ngộ liền tự nghĩ: “Nay ý ta muốn pháp cực diệu. Hôm nay bậc Đại thánh chỉ nói cảm xúc trơn mịn, thật chẳng phải là điều tâm ta ưa thích”. Bồ tát biết tâm niệm của chúng sanh kia liền nhập Vô lượng pháp giới định ý tam muội chánh thọ hóa đất đai, sông núi, đá vách, cây cối, hoa quả đều thành chúng sanh. Mỗi chúng sanh đều giảng nói sáu pháp Ba la mật, không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, sanh diệt, chấp đoạn đều vô sở hữu.
Có khi Bồ tát quán hướng tâm ý của chúng sanh liền giả đặt kế phương tiện tự do thị hiện, hoặc ẩn thân sắc tướng, bay lên hư không hiển bày mười tám thứ biến hóa, qua lại trên hư không không bị ngăn ngại; hoặc hóa hiện quốc độ, thành ấp diễn nói Phật pháp khiến chúng sanh loại đạt được chánh định bất tư nghị của chư Phật. lúc bấy giờ, nhân dân ở trong thành ấp do Bồ tát hóa hiện, mỗi người đều không có tâm hiềm hận, cùng kính trọng nhau như cha mẹ, anh em; biết khiêm cung, tự hạ, luôn cung kính bậc trưởng thượng. Khi đó Bồ tát lại nhập Vô dụ quang minh làm cho các Bồ tát nhập ánh sáng này ngồi kiết già hoặc ngồi trên tòa cao, hoặc ngôi trên tòa sen đầy khắp thế giới không có nơi nào không có, hoặc hiện thân Phật ngồi trên hoa sen báu đều diễn nói sáu pháp Ba la mật của chư Phật, pháp không, vô tướng, vô nguyện, thiền định, giải thoát. Bồ tát lại dùng mười tám pháp bất cộng, bốn pháp vô sở úy của Như Lai gia bị cho chúng sanh khiến mỗi người đều được độ. Bấy giờ Bồ tát lại dùng sức thần túc phóng ánh sáng lớn, hiện rõ ức trăm ngàn cõi nước thế giới của chư Phật. Mỗi ánh sáng dẫn đến chỗ ức trăm ngàn chúng sanh. Họ nương theo ánh sáng đến đó nghe pháp nên được độ. Mỗi lỗ chân lông (của Bồ tát) có mười ức ánh sáng. Mỗi ánh sáng có mười ức quốc độ. Hóa quốc độ đó tự nhiên có, tự nhiên hiện ngọc báu ma ni, dùng các loại báu quý hiếm để chạm trổ trang hoàng trong nước. Ngọc báu ma ni treo trên hư không cách đất mười nhận. Ánh quang của ngọc ấy sáng tỏ soi chiếu khắp nơi. Lại có ngọc báu ma ni lạ thường dùng để trang nghiêm. Trên mỗi vật báu có mười ức hằng hà sa các quốc độ Phật, mười ức trăm ngàn lầu quán, đài gác. Mỗi lầu quán có mười ức trăm ngàn tòa sư tử liên hoa báu ở cõi Phật. Mỗi tòa sư tử có mười ức trăm ngàn thần bảo liên hoa của quốc độ. Trên mỗi hoa sen có mười ức trăm ngàn Đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử. Mỗi Đức Như Lai phóng ánh sáng lớn chiếu khắp mười ức trăm ngàn cõi Phật. Mỗi cõi Phật có mười ức trăm ngàn công đức sư tử vô úy của Như Lai. Mỗi công đức vô úy có mười ức trăm ngàn chúng sanh cư trụ. Mỗi chúng sanh có mười ức trăm ngàn câu Pháp cú nghĩa tam muội và các pháp của Phật. Mỗi câu Pháp cú nghĩa tam muội có ức trăm ngàn kinh pháp theo đó thiêu đốt trần lao. Cho đến các pháp môn thiền định cũng như vậy, trong mỗi pháp môn diễn nói vô lượng trí, tướng mạo, pháp bất thoái chuyển, vô số loại trí nghĩa vị không đồng. Trong mỗi pháp luân được chuyển đều độ cho mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi quốc độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn chúng sanh đắc hạnh thuần thục. Mỗi quốc độ chúng sanh lại có mười ức trăm ngàn cõi Phật, mỗi quốc độ biến hóa tự có hướng thiện ác đưa chúng sanh loại đồng đến Phật đạo. Bồ tát Đại sĩ nhập tam muội này tự hiện vô lượng oai thần biến hóa, cảnh giới tam muội chưa từng có, chưa từng thấy; những pháp biến hóa vô cùng lạ thường, chẳng phải pháp mà tâm ước lượng, chẳng phải pháp mà ý vẽ ra. Pháp đó, trong, ngoài, trung gian đều không xứ sở không thấy lúc đến cũng không thấy lúc đi. Vì sao như vậy? Đó là vì thể tự nhiên của các pháp. Bồ tát tu hành trăm kiếp muốn chấm dứt cấu uế của mình, thực hành thệ nguyện của Như Lai gia hộ chúng sanh, Bồ tát lại ở trong vô hạn lượng số kiếp không chấp, không trụ cũng không bị nhiễm; lại cũng không thể lập thành danh tự, suy tìm căn bổn vĩnh viễn không có xứ sở. Nếu có người muốn giả đặt phương tiện suy tư tìm kiếm cứu cánh của định này, biến hóa tạo ra hình tướng, nghĩa lý vô cùng sâu xa không thể nghĩ bàn thì mới chính là tương ưng với sự tu tập pháp của chư Phật, chẳng phải pháp mà hàng La hán, Bích chi Phật tu tập.
Này Tối Thắng, Bồ tát lại phải tư duy lý đó. Bồ tát nhẫn nại khó khổ dạo trong tám nạn, quán tâm chúng sanh có ý ái dục, có người nhiều dục, có người ít dục đều biết tất cả. Có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay có ít, Bồ tát đều biết tất cả. Nếu chúng sanh kia có tâm ái dục, mê đắm nữ sắc, suy tư đo lường đẹp, béo, trắng; tâm vui thích không thể xa lìa, khi ấy Bồ tát lại giả hiện phương tiện, rộng bày phương kế vì họ thị hiện để họ quán tưởng, ngộ rõ đường ác, bất tịnh. Bồ tát ở trước chúng sanh hiện thân vô thường, bốn đại tan rã phơi bày tứ tán. Một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày hình thể sình trương hôi thối không sạch, hoặc thây chết máu thịt tiêu hủy, gân xương còn dính liền nhau. Bồ tát lại hiện vô số loại hình biến hóa khác, hoặc hiện xương sọ, xương tay chân mỗi thứ ở một nơi, lâu ngày biến chuyển trắng tợ như màu lông chim bồ câu, ngày tháng trôi qua lâu thì nát tan trở lại như đất. Bồ tát khiến chúng sanh quán như vậy xong, họ liền tự khai ngộ biết dục là sai lầm, biết rõ hạnh phàm phu đọa vào đường ác, chẳng thể quay về chánh đạo nên tâm hối hận tự cải đổi, không theo nghiệp trước mới hợp với pháp của Bồ tát, tôn kính tu tập phạm hạnh, thể nhập cõi thanh tịnh, tẩy rửa cấu uế dâm dục, tu luyện thần khí, thành tựu pháp vô thượng chí chơn chánh giác, thanh tịnh quốc độ của mình, giáo dưỡng chúng sanh. Đó là Bồ tát quán tâm ái dục rồi nói pháp khiến họ được thành tựu đạo quả. Bồ tát phải biết, nếu có chúng sanh không có tâm ái dục, ý ràng buộc theo Tiểu thừa không theo Đại thừa thì Bồ tát khuyến trợ họ thành tựu đạo Bình đẳng Chánh giác, dùng pháp trí tuệ bất nhị hướng đạo, chỉ dẫn cho họ biết con đường chánh, an lập nơi Đại thừa không chấp nê nơi đạo Tiểu thừa. Họ từ vô số kiếp tích công lập đức, tu thiện không mệt mỏi nhưng tâm ý mê mờ sai lầm, không phân biệt chơn ngụy nên nay mới tự ngộ biết không đến được cứu cánh. Thế nào là đạo bất nhị của Bồ tát? Bồ tát tu hành đạo bất nhị thường thanh tịnh mà không trụ chấp tịnh, trong tâm thanh tịnh, bên ngoài dạo chơi hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát luôn tịch tĩnh mà bên ngoài hiện như loạn động, ở trong tịch tĩnh dạo chơi mà hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát nhập định xưa nay chưa từng sai lầm, từ định ý khởi, ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát từ xưa bố thí tâm không hối tiếc, giữ gìn tâm ý kiên cố không nghĩ tưởng quả báo, ngoài giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ bỏ ba tưởng. Đó là đạo bất nhị. Giới luật của Bồ tát xưa nay chưa từng khiếm khuyết, lại dùng luật cấm ngoài hóa độ chúng sanh. Đó là đạo bất nhị. Trí tuệ giáo hóa của Bồ tát thật không giới hạn, bên trong kiểm soát tâm ý khiến không phân tán cũng dùng pháp đó giáo hóa chúng sanh khiến họ vượt qua đất rộng, không rơi vào đầm lo sầu. Đó là đạo bất nhị. Bồ tát tu tập chánh định tam muội nhẫn nhục, thị hiện thân ở nơi núi đầm, chốn không người tinh cần tu tập khổ hạnh, hoặc ở gần thôn xóm hiện thân đi khất thực; hoặc trải qua một năm cho đến trăm ngàn năm, hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, ở trong đó thị hiện thân nhận lãnh vô lượng khổ. Khi đó nhân và phi nhân ở trong núi, hoặc loài quỷ La sát có hai chân, bốn chân, vô số chân, mỗi tên đều cầm dao gậy đến xúc phạm Bồ tát. Hoặc dùng dao bén cắt mũi Bồ tát. Mũi Bồ tát rơi xuống lại mọc trở lại như quả Diêm phù. Tối Thắng nên biết, quả Diêm phù kia nếu hái một trái thì sanh ra hai trái, hái hai trái thì sanh ra bốn trái, hái bốn trái thì sanh ra tám trái, hái tám trái thì sanh ra mười sáu trái, hái mười sáu trái thì sanh ra ba mươi hai trái. Lần lượt như vậy, cây toàn là trái, không còn thấy thân cây cũng không thấy cành lá, nhánh ngọn. Bồ tát nhập định tu tập nhẫn như thế. Nếu có người đến cắt mũi Bồ tát, cắt một thì sanh hai, cắt hai thì sanh bốn, cắt bốn thì sanh tám, cắt tám thì sanh mười sáu, cắt mười sáu thì sanh ba mươi hai. Lần lượt như vậy, thân toàn là mũi không còn thấy thân hình, cũng không thấy tay, chân, đầu, mắt. Chúng sanh chỉ thấy vô số mũi, ngay lúc đó sanh niệm hối hận vì đã cắt mũi Bồ tát, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ tát. Khi đó Bồ tát xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện trở lại thân hình như trước không khác, từ từ cử động hiện hơi thở ra vào, lại mở mắt như có lời muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Bồ tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.
Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ tát cùng vây quanh mà móc mắt Bồ tát. Mắt rơi ra liền sanh trở lại. Ví như giã nát ngọc lưu ly thanh bột nếu có người muốn nhặt tất cả bột lưu ly đó thì không thể được, ví như vô số quả Tỳ la rải đầy trên đất, giã nát như hột cải không thể lượm nhặt lên được nhưng mỗi hạt đều có ánh sáng phản chiếu với nhau, chúng sanh chỉ thấy thân thể Bồ tát toàn là mắt, không còn thấy thân thể tướng mạo lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hận vì việc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân lúc trước của Bồ tát. Khi ấy Bồ tát xả tam muội, tâm ý an tường mà từ định khởi, hiện thân trở lại như cũ không khác, từ từ cử động thị hiện hơi thở ra vào như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc xuống đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận bên Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh, tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Sau đó Bồ tát trở lại nhập định tam muội, nội tâm tịch tĩnh không có niệm khác.
Lại có chúng sanh đến chỗ Bồ tát tay cầm dao bén chặt đứt chân tay Bồ tát. Chân tay Bồ tát sanh ra lại như cây Cù đa la. Cây Cù đa la kia, nếu có người đến đốn chặt cành lá, nhánh ngọn thì các nhánh cây bị chặt rời khắp trên đất trong khoảnh khắc khảy móng tay theo hơi đất sống lại như cũ. Mỗi cành lá, nhánh ngọn đều thành cây. Khi ấy Bồ tát cũng như vậy, toàn thân đều là các chi chân tay không còn thấy thân hình lúc trước. Chúng sanh chỉ thấy toàn chân tay trên thân Bồ tát, không còn thấy hình tướng của thân lúc trước, ngay khi đó sanh niệm hối hận vì việc đã làm liền tự trách, ưa muốn thấy thân hình lúc trước của Bồ tát. Bồ tát liền xả tam muội, tâm ý an tường từ định khởi, hiện thân hình trở lại như trước không khác, từ từ cử động, hiện hơi thở ra vào, mở mắt như có điều muốn nói. Chúng sanh thấy xong đều gieo năm vóc sát đất tự quy y, nguyện làm đệ tử hầu cận Bồ tát. Bấy giờ Bồ tát quán sát niệm khởi trong tâm chúng sanh tùy thời thích hợp mà độ thoát cho họ. Đó là nói Bồ tát với người có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có nhiều hay ít đều biết tất cả. Bồ tát cũng không tự nghĩ: “Ta ở trong trần lao hao phí công sức của mình”, cũng không nghĩ: “Các chúng sanh này dễ khuyến dụ”. Bồ tát làm mà không thấy làm cũng không thấy có người nhận lãnh lời dạy. Hai việc làm và giảng dạy tự thể đều là tự thể đều là hư tịch. Bồ tát không thấy là một, cũng không thấy là chẳng phải một. Một tự thể chẳng phải một, huống chi nói có một gọi là một pháp. Tự đặt tên gọi giả nói là mắt. Mắt tự thể của nó là tên gọi giả. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng với sắc, thanh, hương, vị, cảm xúc trơn mịn, và pháp cũng như vậy. Ngôn từ mà Bồ tát dùng để nói một pháp đó là muốn khai pháp môn, mở bày vô lượng cửa dẫn đến pháp Vô nhằm giáo huấn chúng sanh.
Bấy giờ ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Thế nào là chúng sanh có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít, Bồ tát đều biết tất cả?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát Đại sĩ dạo đến thế giới vô lượng cõi Phật, ở mỗi cõi Phật quán sát loại chúng sanh hữu hình, các loài bò, bay, máy, cựa; loài sâu bọ, loài có hơi thở cho đến loài kiến có tâm nóng giận, không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều phân biệt, suy tính rồi cho thuốc. Nếu có chúng sanh nhiều nóng giận thì hiện hóa để chỉ rõ pháp khổ, không, vô thường; hoặc hiện ra cảnh thú, trùng nhai nuốt, rúc rỉa; hoặc hiện cảnh họa giặc cướp, binh đao; hoặc hiện cảnh nạn nước, lửa thiêu cháy. Các biến hóa như thế không thể tính kể. Nếu tâm chúng sanh đó giác ngộ thì Bồ tát tùy theo đó giáo giới. Chúng sanh nhận lãnh lời giáo hóa liền ở nơi đó được độ thoát. Nếu có chúng sanh thấy cảnh biến hóa vô thường mà tâm không giác ngộ thì khi ấy Bồ tát lại dùng tuệ phương tiện nhập Nhẫn tam muội; tam muội đó tên là Vô thường quán. Lại có tam muội tên Từ hàng phục khử khuể tam muội. Nếu Đại Bồ tát nhập tam muội chánh thọ đó thì có thể hàng phục, trừ bỏ tâm nóng giận. Nếu có loại chúng sanh cực ác như quỷ thần La sát, cọp sói, giặc cướp tệ ác đến chỗ Bồ tát muốn làm hại thì chưa đến nơi, ở giữa đường liền quay trở lại. Do vậy nên sức của Từ định che chở khắp thế giới, ức cai cõi đều nương nhờ tế độ. Người thể nhập được Từ tam muội có mười pháp độ. Mười pháp ấy là gì? Đó là trí tuệ thậm thâm thực hành vô lượng nghiệp. Nhớ rõ pháp Tổng trì, tâm khó ngăn ngại, phá hoại. Tự thân không có tính lường, dùng pháp giới để lường tính mà thể nhập vào vô lượng pháp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã tu tập; dùng pháp ấn vô thượng để ấn chứng. Nương tựa lực Như Lai làm tăng trưởng lợi ích cõi Phật. luôn tự lập chí tịnh tu đạo tràng, kiến lập nghiệp Bồ tát. Người thực hành như thế là tương ưng với pháp luật, tương ưng với vô sở sanh, mắt được khai mở đột nhiên đại ngộ. Mắt tuệ thanh tịnh ĩnh viễn không còn bị bụi trần làm mờ mắt, đạt được chủng tánh của mắt. Được mắt thanh tịnh của Phật, mắt tuệ tối thượng, mắt thấy sâu xa, mắt pháp thường định, mắt thiện tri thức dùng làm bảo hộ, mắt đạo thậm thâm; đạt mắt biện tài, lời nói không ngăn ngại; đạt được mắt không còn si, tâm không phân biệt bỉ thử cũng không do dự; thể nhập mắt pháp môn hướng dẫn cho chúng sanh mù tối, phân biệt ý nghĩa mở bày pháp môn cam lộ, gần gũi chơn thiện tri thức, thành tựu tâm đạo, cảnh giới đã chứng không thể chướng ngại cũng không người nào có thể hủy hoại. Đó gọi là Bồ tát phân biệt các nhãn thành tựu đạo nghiệp làm bạn lành cho người thế gian, hiển bày oai tướng, làm chỗ yên vui cho kẻ chưa sanh niệm lành, dùng pháp giáo hóa làm cho chúng sanh an lập căn lành vô ngại, công đức thanh tịnh sở nguyện tất có quả báo, nuôi dưỡng pháp chơn chánh gặp pháp giải thoát, đoạn trừ lưới si, nổi mây dày trí tuệ khắp cả cõi hư không, dùng pháp Hiền Thánh ngộ rõ tâm cấu uế, chí nguyện đã phát luôn hiện tiền, tâm niệm đã phát trọn không có nạn si, tín căn kiên cố, công nghiệp vô tận, gần gũi tôn thờ chư Phật, trừ bỏ tưởng khổ vui, tu tập tâm đạo sâu xa, đạt tuệ báu quý, cung phụng bậc trí như hương hoa vi diệu được gió thổi đi khắp nơi cho mọi người được nghe pháp, khiến người có tâm cấu ác đều được thanh tịnh. Tối Thắng nên biết, nay Ta ở trong cõi Diêm phù lợi, tại quốc thành Tỳ Xá Ly này, Ta dùng mắt thịt quán cõi nước ở các phương thấy khổ não, sầu lo không nơi nào hơn xứ này nhưng lại ở đây hiện chủng tánh Như Lai. Hiện nay chúng sanh ở đó không có hương thơm, chỉ có mùi hôi thối. Mùi xú uế ấy xong lên tận mười tám do diên trên hư không. Chư Thiên vốn là người, người là mầm gốc của chư Thiên. Chư Thiên ấy cũng biết quán túc mạng: “Công đức ta đã tích tập đều từ thân người. Nếu không từ thân người gieo trồng gốc công đức thì không thể có phước báo”. Tối Thắng nên biết, khi ấy chư Thiên mỗi vị đều tụ lại có ý muốn xuống thế gian nên đều bay trên hư không. Khí hôi thối ấy kết thành mây dày khắp nơi. Chư Thiên ngửi mùi tanh hôi bất tịnh của thế gian liền quay trở lại không xuống nhân gian. Vì vậy nên người có mùi hương tinh khiết không thể kham trụ ở đó. Bồ tát Đại sĩ thực hành tâm đại từ bi khi giáo hóa không chọn lựa quốc độ là thơm hay thối, là tịnh hay bất tịnh, cũng không có tâm nghĩ rằng: “Ta nay ưa muốn kham nhẫn giáo hóa nơi dó, không kham nhẫn giáo hóa nơi kia”. Như Ta ngày nay ở tại đây, cõi Nhẫn, giáo hóa chúng sanh duyên đã hoàn tất. Chư Như Lai Đẳng Chánh Giác ở mười phương đều từ xa khen ngợi, mỗi vị tự ở thế giới của mình bảo với bốn bộ chúng: “Ở phương đó, chỗ đó có Đức Phật tên đó, danh hiệu là Năng Nhân Như Lai trụ tại cõi Nhẫn đó như trụ trong năm đỉnh nước sôi, trong năm ngọn kích sắt bén nhọn, trong năm lưỡi dao kiếm, trong năm ngọn lửa cháy dữ dội, trong năm đường hoảng loạn, trong năm chỗ không thể cứu, trong năm gánh nặng nạn tai. Đức Phật ấy có thể trụ trong đó giáo huấn chúng sanh thật là kỳ diệu, phân biệt các pháp Ba la mật Hiền Thánh”. Chư Thiên thanh tịnh thân không cấu uế đến nơi gặp mây hôi thối liền quay trở lại trời, về trong cung điện ra hậu viên, vào trong ao Vô ưu bảy ngày bảy đêm tự tắm gội mà vẫn lo mùi hôi thối cõi người vương bám trên thân, tâm không còn ưa thích muốn dạo chơi cõi người. Khi ấy hương của chư Thiên theo gió bay xa, lan xuống cõi hư không một vạn tám ngàn do tuân. Hương ấy lại còn lan xuống hơn số đó, gặp khí nùi liền lan xuống cõi hư không, mùi hương thơm đến tận hai ngàn do tuần. Chư Thiên tuy có hương công đức nhưng không bằng hương trì giới của bậc vô dục. Bồ tát phải quán phước lộc ẩm thực của chư Thiên là vĩnh cửu nhưng khi phước hết mới hối hận thì đã không kịp, nên chỉ ham muốn ở cõi người hưng khởi nghiệp công đức. Khi ấy ý chẳng lẽ còn thấy có hương thơm, mùi thối hay sao. Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, tuy ở trong năm ngọn lửa cháy khổ não dữ dội, tâm vẫn không mệt mỏi, nhàm chán cũng không hối hận, ý luôn nhớ nghĩ độ thoát chúng sanh. Nếu có bậc Hiền Thánh thần thông dùng thần lực của mình đưa một người phàm lên cõi hương xông ướp ở hư không rồi đưa trở lại nhân gian, khí hương xông ướp trên thân thể người ấy suốt hai mươi mốt ngày mới tan. Giới đức trọn vẹn của bậc vô dục trải qua nhiều kiếp hương giới đức ấy hoàn toàn không mất. Thế nên bậc Bồ tát Đại sĩ đồng trụ với thế gian, ở lâu dài tại thế gian, lại ở thế gian làm ngọn đuốc sáng, tuy cần lao mà không cho là khổ, ý đạo hưng thạnh, tâm không khuyết giảm. Đó gọi là Bồ tát quán sát chúng sanh có tâm nóng giận hay không có tâm nóng giận, có nhiều hay ít đều biết tất cả.
Khi ấy ngài Tối Thắng lại bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Bồ tát nhất tâm tư duy quán sát chúng sanh có tâm ngu si hay không có tâm ngu si, có nhiều hay ít đều biết tất cả?
Đức Phật dạy:
– Khi đó Bồ tát nhập Minh tuệ chánh thọ tam muội quán khắp thế giới đến tận bờ mé hư không. Ở trong đó có loại chúng sanh một chân, hai chân cho đến vô số chân, trời, rồng, quỷ, thần, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, nhân hay phi nhân đều biết rõ căn duyên của họ, phân biệt rõ ràng chi tiết, suy tư sâu xa thấy rõ một cách rốt ráo như thật. Nếu có chúng sanh nhiều ngu si thì vì họ lập phương tiện diễn nói pháp mười hai nhân duyên căn bổn: Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Cánh lạc (Xúc), Cánh lạc duyên Thống (Thọ), Thống duyên Ái, Ái duyên Thọ (Thủ), Thọ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên lão, tử, sầu ưu khổ não. Với người có tâm loạn tưởng, bất tịnh thì dùng trí vô tận diễn nói pháp thuận nghịch: Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục nhập diệt, Lục nhập diệt thì Cánh lạc (Xúc) diệt, Cánh lạc diệt thì Thống (Thọ) diệt, Thống diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thọ (Thủ) diệt, Thọ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sanh diệt, Sanh diệt thì Tử diệt, Tử diệt thì không còn sầu lo, khổ não, các hành bất tịnh nữa. Lậu là họa lớn, Niết bàn là vi diệu. Bồ tát quán các tướng mạo rồi vì họ diễn nói pháp cứu cánh chấm dứt nguồn cội khổ như thế. Nếu có chúng sanh tâm si sâu dày, thức không sáng suốt thì Bồ tát dần dần đưa họ vào đạo, dẫn đến nơi an tĩnh, lại giảng rõ pháp Bổn vô, pháp không sanh diệt, pháp không chấp đoạn, phân biệt tướng hưng suy của ba đời. Thức của họ không thể diệt si hành quá khứ nên Bồ tát mở bày pháp môn soi sáng làm xuất hiện diệu trí, hưng khởi đầy đủ công đức Phật đạo, không bỏ việc làm thiện tri thức của Bồ tát, thường đến pháp đường nhàn tĩnh của Bồ tát, quán nhập pháp thâm yếu của các Đức Như Lai. Lại phải tư duy mười pháp kiên cố. Thế nào là tư duy mười pháp kiên cố? Gần gũi Pháp thân Phật tạng, thâu nhiếp niệm không thể nghĩ bàn lại thành một. Ngộ rõ Không, không niệm cũng không thấy có nhiều, tự khởi tự diệt cũng không có chủ, các công hạnh đã làm không có đầu mối, không thể hộ trì phát sanh các đạo. Cảnh giới hư không của pháp giới cũng không cùng tận. Cởi bỏ sự ràng buộc, tự cởi bỏ tâm chấp trước chúng sanh; nương căn lành thành tựu Nhất thiết trí. Siêu việt cảnh giới, thành tựu tất cả trí tuệ vô lượng, trí tuệ mẫn tiệp; tâm sung mãn nguyện Bồ tát. Thực hành theo ngôn hạnh đã làm của chư Bồ tát thanh tịnh, chưa từng quên mất nghĩa lý giáo pháp của Như Lai. Không bỏ tướng của tất cả pháp tánh, những pháp nhỏ nhiệm ý đã thể nhập không sai lầm. Tâm như sức kim cương không thể phá hoại. Với pháp thù thắng biệt truyền của Bồ tát mà chư Phật đã trao truyền không có chúng sanh nào đáng có thể độ. Pháp bất nhị đã nói không thể chuyển dời. Đó gọi là mười pháp kiên cố của Bồ tát mau thành tựu đạo quả, giữ đạo không khó.
Này Tối Thắng, dó gọi là pháp thượng diệu vô tận của Bồ tát, cần phải nhớ nghĩ tu hành.
***
Phẩm 20: TAM ĐẠO DIỆT ĐỘ
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng chắp tay, ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Đức Thế Tôn, đạo đức của Đức Như Lai Chí Chơn không giới hạn, không nương vào cửa đạo cầu giải thoát, tâm cung kính ưa thích tinh tấn tu học nơi thanh tịnh và pháp kim cang tam muội không thể xưng lường. Nay con nghe Như Lai nói diệt độ, thanh tịnh ba đường quy thành một càng không có hai tên cũng không chấp trước hai. Nếu suy tư như vậy thì cần gì phải cầu đạo Vô thượng chí chơn? Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn vì chúng con giảng rõ để tâm của những người khát ngưỡng đạo từ bỏ nhận thức sai lầm.
Khi đó Thế Tôn quay kim thân về bốn hướng, mắt chăm chú nhìn các vị trong hội, thấy chúng hội đều tịch tĩnh vô danh, mỗi người đều không có các niệm, rồi lại nhìn ngài Tối Thắng bảo:
– Câu ông hỏi thật tốt lành, thật khó được nghe! Như Lai sẽ vì ông mà giảng rõ để người học đạo ở tương lai vĩnh viễn không còn do dự.
Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Con ưa muốn nghe.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Gốc đạo thanh tịnh không sanh cành nhánh uế trược. Vì thể tánh thanh tịnh nên các pháp thanh tịnh. Lại nữa, với pháp tánh thanh tịnh phải dần dần phân biện hữu số và vô số. Vô số tịnh thì đạt được ba đời tịnh. Vì liễu tri ba đời nên quán ba cõi là Không. Đó gọi là Vi tịnh tam muội. Tối Thắng nên biết, pháp diệt độ của ba đường, phẩm của chúng không đồng, chí hướng mỗi pháp khác nhau. Thân là gốc cấu uế, niệm là ao cấu uế, tưởng là bụi trần lao, thức là chủ ràng buộc. Diệt một còn ba thì không đạt đến thanh tịnh. Diệt hai còn hai cũng không đạt đến thanh tịnh. Diệt ba còn một cũng không đạt đến thanh tịnh. Diệt bốn còn lại Không mới đạt đến thanh tịnh. Nhất thiết trí thanh tịnh cũng vậy, từ sơ đạo tích lên đến tận quả Vô trước, lại từ Nhất trụ địa đến Thập trụ địa đều diệt bốn, trở về bốn quy, bốn ngại. Thế nào là bốn? Bốn pháp đó là: Thân là gốc cấu uế, phàm phu đều có. Niệm là ao cấu uế chảy ra bốn dòng phóng dật. Tưởng là bụi trần lao làm khởi lên tám vạn niệm ái. Thức là chủ ràng buộc bó buộc tam hữu. Vì thế nên bậc Đại thánh thị hiện có ba đường dường như có hơn kém nhưng thật ra hóa độ chúng sanh diệt trừ vô số pháp sai biệt, đạo ở Niết bàn không lìa hư tịch. Niết bàn của Bồ tát lấy độ người làm danh. Niết bàn của Bích chi Phật hiện thần túc làm danh. Niết bàn của Thanh văn hiện kém hẹp làm danh. Lại nữa, này Tối Thắng, Niết bàn của Bồ tát lấy từ, bi, hỷ, hộ (xả) để giáo dưỡng chúng sanh, lập phương tiện hướng dẫn một người vào đạo, kiểm thúc thân tâm, các căn điều hòa an vui vô cùng an lạc. Ngay khi đó ý thức được an tĩnh giải thoát, không còn niệm thế gian, các tình thức đều thanh tịnh; thanh tịnh như Niết bàn vĩnh tận, nhưng không sở hữu. Đó gọi là vô niệm, tương ưng với vô sở niệm cũng không thấy niệm, niệm cũng là vô niệm. Người học pháp vô niệm, học cũng như không học. Sắc cũng là vô sắc, cũng không thấy sắc. Tâm, ý, thức, niệm cũng không suy nghĩ phân biệt. Từ thân năm ấm mới đạt đến vô hình. Pháp thể thanh tịnh không thấy có niệm mà là vô sở niệm. Tối Thắng nên biết, phàm nói Niết bàn thì Niết bàn như vậy chẳng lẽ là xa vời hay sao!? Chớ quán như vậy! Vì sao? Vì thể tánh của pháp vô niệm là vô hình, quán thể tánh đó chính là Niết bàn. Thể tánh của Niết bàn chính là pháp quán, là một chứ không phải hai cũng không có sai biệt. Niết bàn vô danh nên không thể thấy, cũng không thể lập tên gọi Niết bàn. Này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ học đạo Niết bàn thanh tịnh đó thì mới tương ưng với đạo, tương ưng với niệm vô niệm.
Này Tối Thắng, ông lại phải phân biệt, Bồ tát Đại sĩ muốn tu hành liễu đạt đạo thanh tịnh, thể tánh của Niết bàn đó thì phải tu hạnh thanh tịnh. Thế nào là Bồ tát tu tập thanh tịnh hạnh của mình? Đó là luôn làm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh, không tỳ vết cấu uế. Thế nào là thân thanh tịnh không tỳ vết cấu uế? Khi đó thân Bồ tát đã thanh tịnh nên ngộ rõ các cảnh ngoài thân cũng thanh tịnh, tự thân hư tịch nên ngộ rõ các thân là Không, thân tịch tĩnh thì biết các thân cũng tịch tĩnh, tự thân giải thoát thì các thân cũng như vậy. Bồ tát lại phải tư duy quán pháp, liễu tri giải đãi cũng là không giải đãi. Tự thân không kiêu mạn thì đạo chẳng lẽ có kiêu mạn? Cho nên Bồ tát ngộ rõ thân không có mạn. Bồ tát khởi niệm quán pháp ác của thế gian, thấy thân như hình bóng, tiếng vang, không thấy tưởng thanh tịnh, đạt niệm thanh tịnh vô tưởng thì mới tương ưng với Niết bàn. Đó gọi là đạo Niết bàn thanh tịnh không sai biệt của Đại Bồ tát.
Bồ tát Tối Thắng lại bạch Phật:
– Thế nào là thể tánh thanh tịnh vô dục, dục mà không dục của Bồ tát?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bậc Bồ tát Đại sĩ dạo trong năm đường, lưu chuyển trong sanh tử, phương tiện thị hiện đúng thời thích hợp, có khi nói thân thanh tịnh tức luận về vô sanh, thấy sanh tử là không sanh tử, ngộ rõ biết là vô sanh. Sanh và tử là một chứ không khác cũng không có vô số tên gọi sai biệt. Bồ tát lại phải phân biệt rõ thân hành, thông đạt vô sanh, thấy sanh tử bình đẳng thì biết thân hành đạt nội ngoại pháp. Thân hành là gì? sự hưng suy của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Quá khứ không dấu tích, hiện tại là vô ký, tương lai không danh hiệu. Lại nữa, này Tối Thắng, quá khứ vĩnh viễn diệt tận, tương lai thì vô cùng, hiện tại thì đang dời chuyển, Bồ tát cũng phải tư duy pháp tận và bất tận. Thế nào là tư duy pháp tận và bất tận? Khi ấy Bồ tát phân biệt, thông đạt hoàn toàn tịnh tưởng hư không đều là vô tận, giải thoát vắng lặng không có tưởng niệm. Người có tưởng niệm đối với giới luật Hiền Thánh chính là có sự thiếu sót hơn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Thuở trước Ta thành Phật ngồi dưới cội đạo thọ bảy ngày bảy đêm quán cội cây ấy không rời, tâm nhớ lại hằng sa chư Phật quá khứ do tự giác ngộ pháp gì nên đạt được pháp gì. Này Tối Thắng, khi ấy Ta lại nhớ chư Phật quá khứ lâu xa về trước thể đạt thân pháp rồi mới đắc quả Tối Chánh Giác. Nhân duyên hội họp có thức, có tưởng cũng không thấy, chấp đoạn sanh diệt. Như thế, này Tối Thắng, người quán như thế thì gọi là thân pháp. Hễ thân tịnh thì đều quy về biển trí. Tối Thắng nên biết, ý nghĩa của quy về biển, việc ấy có mười nghĩa. Mười nghĩa ấy là gì? Một là quy về biển của Phật quán pháp không hình tướng. Quy về biển chúng sanh vượt qua nạn hữu. Quy về biển pháp vì tu tập các trí. Quy về biển phước điền lập giáo vô căn. Quy về biển ấm thị hiện pháp do uế. Quy về biển trí tuệ phân biệt vô số phương pháp giáo giới. Quy về biển nghĩa căn bổn vì tăng lớn căn lành. Quy về biển trụ tâm liễu tri vô số niệm khởi trong tâm ý chúng sanh, ngộ vô lượng, biết vô ngại. Quy về biển hạnh vì không trái nguyện. Quy về biển hoằng thệ biết rốt ráo nguồn gốc sanh tử. Này Tối Thắng, đó là ý nghĩa của mười cửa quy về của Đại Bồ tát, phải nhớ nghĩ tu hành thì đều quy về pháp thân vô lậu của Như Lai. Bồ tát lại phải quán thân vô lậu của Như Lai không trụ Bổn vô, không rơi vào ba cõi, biết rõ Bổn vô là một pháp thân. Quán thân vô lậu như trụ Bổn vô, trụ mà không thấy trụ cũng không có pháp trụ. Dùng thân vô lậu vào biển sanh tử, thị hiện sắc thân như không có sắc thân, không bờ mé, không hình tướng, không thể thấy được. Sắc thân đã diệt cũng không thấy diệt, cũng không thấy pháp Bổn vô của sanh thân như trụ Bổn vô. Thân thanh tịnh của Như Lai cũng không có tỳ về dơ uế, vào chỗ chúng sanh thì tùy theo hình chất của chúng sanh, theo tướng của chúng sanh mà thị hiện, biết rõ sự thanh tịnh của thân chúng sanh. Tự thân thanh tịnh thì thân chúng sanh thanh tịnh, là một chứ không phải hai cũng không phải nhiều thân. Pháp Bổn vô bình đẳng. Pháp Bổn vô không có đạo, không thấy có đạo, cũng không có pháp thế gian, pháp hữu lậu hay vô lậu; cũng không thấy có giáo giới ba thừa là La hán, Bích chi Phật, Bồ tát và Phật đạo; cũng không thấy mười phương, bốn pháp vô sở úy, mười tám pháp bất cộng. Đối với các đạo pháp Hiền Thánh đều không bị chấp trước. Đó gọi là Bồ tát thực hành tương ưng với thanh tịnh, tương ưng với vô sở ưng. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy khẩu ngôn thanh tịnh. Thế nào là lời nói của miệng tương ưng với thanh tịnh? Lúc đó Bồ tát nhập Hư không giới thanh tịnh tam muội quán khắp ba ngàn thế giới, trong đó có loại chúng sanh hữu hình, tất cả hiền hay ngu, thanh bạch hay xấu xa đều quy về Không, đều là thanh tịnh. Bồ tát lại phải tư duy đẳng quán; ở trong pháp đệ nhất nghĩa không thấy bình đẳng cũng không thấy không bình đẳng. Vì sao? Vì quán tướng bình đẳng thì không thấy bình đẳng cùng với không bình đẳng, tướng cùng với vô tướng. Bồ tát lại dùng tướng bình đẳng quán sát các pháp, không thấy đạo pháp là không giới hạn, không thấy pháp thế gian là có giới hạn, không thấy Hiền Thánh siêu việt tam hữu, không thấy sức phàm phu kém hẹp. Tối Thắng nên biết, Bồ tát phân biệt âm thanh thanh tịnh, không chấp trước niệm tưởng chúng sanh, khéo quán sát âm thanh, quán rõ là không có tiếng vang; không thấy buồn vui là thường hay vô thường, vui trong pháp điên đảo hay pháp không điên đảo. Bồ tát biết rõ pháp tất cả pháp của chúng sanh đều thanh tịnh, không dục nhiễm cũng không chấp đoạn sanh diệt, không có ba độc căn bổn dâm, nộ, si. Bồ tát lại phải quán sát mười hai pháp nhân duyên, mười tám pháp bổn trì, từ si đến tử đều là thanh tịnh. Si cũng không biết Hành do ta tạo, Hành cũng không biết do si mà hiện hữu. Pháp pháp tự sanh, pháp pháp tự diệt. Pháp không thấy pháp thì sao lại có Si, Hành. Như vậy, này Tối Thắng, pháp không biết pháp, sanh là sanh, diệt là diệt. Pháp không tự biết sanh cùng với vô sanh, diệt cùng với bất diệt cho nên nói là không chấp đoạn sanh diệt.
Khi ấy Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, Si, Hành ba đời theo thân quay lại, có thân thì có Hành sanh theo, không có thân thì Hành diệt, cho đến lão, tử cũng như vậy. Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng rõ điều nghi này để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn tâm nghi.
Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Si không làm nhiễm thân, thân không nhiễm si. Si cũng không thấy ta có thân, thân cũng không thấy ta có si, cả hai đều thanh tịnh, cũng không có ngô ngã nên nói ngã tự nó là hư tịch. Đó gọi là tất cả pháp Bồ tát là thanh tịnh. Đã nói là thanh tịnh thì sao lại có lời phải, sao lại có lời quấy? Lời nói không ở trong cũng không ở bên ngoài, không thấy lời nói có ra, có vào thì sẽ đầy đủ mười nghĩa kiên cố, phân biệt thú hướng chủng ấm của chúng sanh. Mười nghĩa ấy là gì? Khi ấy Bồ tát vì hóa độ chúng sanh nên trước cầu pháp giải thoát, vì tinh tấn không chấp trước nên hiện vô số biến háo, vì dùng Nhất thiết pháp Không nên hiện lực vô ngại, vì ở trong tất cả pháp được tự tại nên hiện Tức ý lực, vì không chuyển nên hiện tâm ý thức hồi chuyển, vì nghĩa vị nên phân biệt, vì hiển bày trí tuệ nên hiện tự tánh pháp lực, vì nói pháp cho chúng sanh nên phân biệt nghĩa vị, vì an trụ Chánh pháp nên hiện sức vô úy, vì hiển bày tất cả trí vô lượng nên hiện biện tài, vì bất nhị nên hiện lực bất nhị. Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ tát phân biệt thú hướng chủng tánh của chúng sanh không ở trong cũng không ở ngoài không ở trung gian hai cực thì có thể nói Bồ tát có dục không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng có.
Đức Phật hỏi:
– Có thể nói dục: dâm, nộ, si là Bồ tát chăng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải.
Đức Phật lại hỏi:
– Nếu không cho dục: dâm, nộ, si là Bồ tát thì có thể nói các triền phược cấu uế là Bồ tát chăng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát không chấp trước lời nói cũng không chấp trước không có lời nói. Tất cả các pháp đều chẳng có chấp trước hay không chấp trước. Với mắt, tai, mũi, miệng (lưỡi), thân, tâm (ý) cũng không thấy có chấp trước hay không chấp trước. Âm thanh diễn nói như tiếng gió thổi, do duyên hòa hợp nên mới có âm thanh; âm thanh của hiền ngu, xấu đẹp không phải là nhiều, không trụ bên trong cũng không trụ bên ngoài, tìm ở trung gian cũng không thể được.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát trụ pháp Bổn vô bất động tam muội tư duy niệm động chuyển và việc đã làm của mình đều như hư không bình đẳng, chẳng phải trụ hay không trụ cũng không có các tưởng. Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả tiếng vang từ thanh âm lời nói của chúng sanh đều là Không chẳng phải thật, là pháp giả dối không thể nương cậy.
Lúc đó ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Pháp Thánh đế của Như Lai đưa đến thành tựu đạo quả Hiền Thánh. Nếu pháp phương tiện hư giả chẳng phải chơn thật thì vì sao nói thành tựu Tối Chánh Giác?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đức Như Lai Đẳng Chánh Giác suy tư đạo pháp chơn lý như thật, vì đạt được pháp chơn thật nên ngộ biết các pháp chẳng phải chơn thật, chẳng phải hiện hữu. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát dạo quanh năm đường truyền dạy cho chúng sanh, tùy theo nhân hạnh sẵn có của họ mà độ thoát cho họ, quán sát danh tự, âm thanh của chúng sanh mà chuyển Pháp luân vô thượng, theo cú nghĩa pháp khiến họ biết được quả báo ứng, chúng sanh có khổ, có vui nên nói nguồn gốc của khổ. Bồ tát vì ngộ rõ các pháp nên lời nói đều là vô ngôn thì có gì là lời nói, lời nói từ đâu xuất, liễu tri lời nói không có chỗ xuất sanh. Lúc đó Bồ tát lại vì chúng sanh đang có lạc tập mà nói pháp căn bổn của Tập: Tập đó sanh như thế nào, nhân như thế nào, duyên như thế nào. Phân biệt nhân duyên Bổn vô, đầu mối của Tập, không thấy có Tập cũng không thấy có danh tự. Này Tối Thắng, đó gọi là tất cả âm thanh của chúng sanh đang có lạc tập đều là Không, chẳng phải chơn thật. Lại nữa, Bồ tát tùy theo báo ứng thuở xưa của chúng sanh, dùng đạo giáo huấn khiến người nghe pháp thực hành thuận theo pháp, cũng không biết hướng của quả báo ứng từ sự thực hành đó. Bồ tát lại phải tư duy chúng sanh đang có lạc tập, thông đạt hoàn toàn các pháp không thấy xuất sanh, không dừng trụ nơi ngôn ngữ âm thanh. Khi ngồi hay đi Bồ tát luôn nhất tâm, tuy ở nơi hoảng loạn mà luôn như ở chỗ an tĩnh. Nếu ở chỗ đại chúng Hiền Thánh vắng lặng tịch nhiên, ý muốn cất lời nói liền tự dừng lại, suy tư lời nói đó có chấp trước hay không chấp trước. Bồ tát không thấy Tận cùng với không có Tận, với tất cả các pháp cũng không thấy Tận, vĩnh viễn không xuất hiện dấu tích thanh âm lời nói từ ý chấp đoạn sanh diệt. Lại nữa, Bồ tát tư duy về tám hạnh của chúng sanh lạc đạo mà chúng sanh tu tập sẽ hướng đến Niết bàn. Chánh ngôn, chánh nghiệp cho đến chánh định, các pháp như thế, không phải pháp như thế đều quán như hư không bình đẳng một tướng không hai, không trái nghịch. Đó gọi là khẩu ngôn thanh tịnh, không tỳ vết dơ uế của Đại Bồ tát.
Lại nữa, Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy sự thanh tịnh của ý thức. Vì sao nói ý thức của Bồ tát thanh tịnh? Khi đó tâm Bồ tát thanh tịnh cũng không tỳ vết, tâm Bổn vô thanh tịnh không thấy có nguồn gốc. Nguồn gốc của tâm đó không thể nhiễm ô, không thể là tâm tạo tác các nạn. Vì sao? Đại Bồ tát liễu tri tâm vốn tịnh, không thấy có tịnh. Người thế gian nhiều ngu si nhiễm chấp điều đó. Bồ tát tư duy thể đạt Không nên không chấp trước, tu tập phân biệt rốt ráo phương tiện quyền xảo vốn tự thanh tịnh. Bồ tát phải biết nguồn cội tâm đó xưa nay không qua lại, không phân biệt cao thấp, tôn ti, quý tiện; không thấy xưa có nay không, không thấy nay có xưa không; không nhớ nghĩ gốc công đức. Đó gọi là Không, gọi là vô sanh, gọi là Niết bàn.
Đức Phật hỏi:
– Người nhớ nghĩ gốc công đức đó phải chăng là liễu tri nguồn cội tâm thức?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Chẳng phải.
Đức Phật hỏi:
– Nội tâm không liễu đạt Không thì phải chăng có thể thông đạt pháp ngoại tướng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Chẳng phải.
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Nếu như vậy thì vì sao lại nói là Không?
Đức Phật dạy:
– Tâm vốn là Không, chẳng phải là tự ngã cũng chẳng phải không tự ngã, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải chẳng là tâm. Nếu Bồ tát định tâm quán không thì chẳng tự thấy tâm. Tự tâm là Bổn vô thì ngoại tướng cũng là Bổn vô, là một chứ chẳng phải hai, chẳng phải vô số tên gọi sai biệt. Tâm chẳng phải ngã tâm thì vô tâm là tâm. Ngã tâm chẳng phải tâm thì vô ngã là ngã. Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã. Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngã sắc. Sắc chẳng phải ngã sắc thì vô sắc là sắc, ngã chẳng phải sắc ngã thì vô ngã là ngã. Ngã tâm, ngã sắc chẳng phải là ngã tâm, ngã sắc. Sắc ngã, tâm ngã chẳng phải là sắc ngã, tâm ngã. Cho đến thanh, hương, vị, xúc tế hoạt, ý, pháp chẳng phải là ngã ý, ngã pháp cũng chẳng phải là ý ngã, pháp ngã. Vì sao? Tâm vốn không thì ngoại tướng cũng không. Do biết ngoại tướng Không nên thông đạt hoàn toàn các pháp cũng như Không, là một mà không phải hai, không có vô số hình tướng. Tất cả các pháp cũng như vậy, không thấy xưa có nay không, cũng không thấy nay có xưa không. Vô cũng không phải là vô, hữu cũng không phải là hữu. Hữu không biết do đâu có hữu. Vô không biết do đâu có vô. Không có vô nên tự thể luôn là vô. Có hữu nên tự thể luôn là hữu. Hữu không sanh ra hữu, vô không sanh ra vô. Không có vô nên tự thể Không là vô, có hữu nên tự thể Không là hữu. Hữu không biết vô, vô không biết hữu. Tất cả âm thanh đều là Không, chẳng phải chơn thật. Đó gọi là tâm Bồ tát thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đó không thể chìm đắm trong ba mươi pháp sáu nhiễm ô, vĩnh viễn không chấp trước sự cấu uế xưa nay của tâm Đại Bồ tát. Lại dùng quyền phương tiện khéo léo thông đạt Bổn vô nên tự tịnh cũng không ở nơi thanh tịnh khởi tưởng chấp trước nên liễu tri pháp Không hoàn toàn thanh tịnh. Bậc nhập định ý tự tại tam muội thì có thể trở lại trú xứ trong sanh tử, qua lại năm đường vun trồng các gốc công đức. Người có gốc công đức biết tâm, ý, thức là không có tâm, ý, thức; lại dùng bổn tâm thương xót đến tất cả, thức biết rõ chúng sanh là Không, là vô sở hữu. Ngã, nhân, thọ mạng hoàn toàn thanh tịnh. Bồ tát lại dùng gốc công đức ban đều cho tất cả khiến chúng sanh loại tinh tấn tu tập đạo. Chúng sanh và đạo bình đẳng không hai. Người quán như thế thì gọi là Bổn mạt thanh tịnh. Bồ tát lại dùng thanh tịnh bình đẳng quán dâm, nộ, si tức là đạo. Đạo thanh tịnh: si thanh tịnh. Hai pháp đó là một chứ không phải hai, cũng không phải nhiều. Bồ tát quán bổn mạt tự thể là tịnh, không chấp trước các uế trược.
Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Thân hành thanh tịnh nên không làm ác. Miệng nói lời thanh tịnh luôn quy về chí thành. Ý niệm thanh tịnh từ bi với tất cả. Các hạnh đầy đủ mới xưng là Bồ tát.
Khi Thế Tôn nói phẩm Bổn vô thanh tịnh này xong, năm ngàn vị Bồ tát đều được Nhất sanh bổ xứ, vô số ngàn người đều phát đạo ý bình đẳng vô thượng.
***
Phẩm 21: THỪA VÔ TƯỚNG
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Đại Bồ tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật liễu đạt nhất tướng vô tướng như thế nào? Lại dùng vô tướng phân biệt nhất tướng? Thế nào là Bồ tát dùng tâm thanh tịnh dạo nơi ái dục, từ trong ái dục lại đạt được thanh tịnh?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Bồ tát thực hành phương tiện theo vô tướng, tâm thanh tịnh dạo quanh năm đường, mười phương thế giới, hoặc sanh vào cõi hữu hình hay vô hình trong Dục giới. Tuy ở trong cõi đó mà không nhiễm cõi đó do cùng các vị thiện nam, thiện nữ lấy niềm vui trong pháp làm vui. Bồ tát lại đến cõi hữu hình cùng chư thiên, người trụ nơi cung điện, hoặc ở chỗ Phạm Thiên nói pháp thừa vô tướng vi diệu cho Phạm Thiên vương, ở trong chúng Phạm Thiên có khi kinh hành, có khi giữ sự im lặng của Hiền Thánh. Bồ tát ở trong đó độc tôn không ai có thể theo kịp. Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát ở đó hiển bày đạo giáo vi diệu, từ từ hàng phục chư Thiên khiến họ tu tập chơn lý, trừ bỏ tâm suy tư cho rằng chúng Phạm Thiên là thanh tịnh. Bồ tát trụ ở cõi hữu hình sanh xuống cõi Dục, nội tâm luôn an lạc tịch tĩnh, độc cư nơi núi rừng. Tuy một mình ở trong núi nhưng ý luôn thiền định. Có khi Bồ tát thị hiện có nhà cửa, vợ con theo mình, lại cùng ở với chúng sanh lập nghiệp, địa vị cao sang thì hiện thấp hèn, địa vị thấp hèn thì hiện cao sang, quán tâm chúng sanh. Bồ tát khi qua lại, đứng ngồi, nói năng, đi lại… không khởi tâm kiêu mạn cũng không tự ti. Vì sao như vậy? Vì Bồ tát đã thông đạt hoàn toàn pháp Bổn mạt thanh tịnh. Lại nữa, Bồ tát lại thể nhập vào trăm ngàn loại định chánh thọ tam muội, dùng sức oai thần tam muội quán sát ba ngàn đại thiên thế giới, hiện thân tướng có thần túc hào quang sáng chói, tuệ phương tiện dạo khắp hóa độ tự tại, tâm phải thanh tịnh thì mới gọi là vô tướng. Đại Bồ tát tương ưng với định đó thì mới được cầu đạo thừa vô tướng, không thấy người khác có sanh, không thấy người khác vô sanh. Sanh lấy vô sanh để tu tập đạo cũng không có tưởng với tướng của đạo Bổn vô Hiền Thánh, không cầu tướng cũng không cầu vô tướng. Liễu đạt tướng của đạo là vô tướng, khởi thì liền khởi, diệt thì liền diệt. Có tướng thì hướng đạo, không có tướng thì hành diệt, có tướng thì hành cũng diệt. Đó gọi là Bồ tát ngộ được tướng của đạo. Đại Bồ tát cũng không cầu tướng cho là đạo tướng. Vì sao? Tự thể của đạo là vô tướng nên không cầu vô tướng là tướng của đạo, không thấy hợp tan cho là tướng của đạo, không thấy gốc mười hai nhân duyên, ngã, nhân, thọ mạng; từ si nên có Hành… là có đạo tướng. Lại cũng chẳng thấy không có ngã, nhân, thọ mạng; từ si nên có Hành… là có đạo tướng. Vì sao? Tự thể đạo là vô tướng cũng không thấy tướng, không nhận thức sai lầm cho rằng do nhiều pháp sanh từ đạo tướng, liễu tri bốn đại là thân – phi thân, là thường – vô thường, là Không – phi Không, là ngã – phi ngã; giữ bỏ hợp tan đều chẳng phải chơn thật. Đó gọi là Đại Bồ tát tương ưng với pháp phải tương ưng, không khác cũng chẳng phải không khác, không thấy khác cũng không thấy chẳng khác thì mới tương ưng với đạo tướng vô tướng. Thân thiện, thân bất thiện; thân hữu ký, thân vô ký; thân hữu lậu, thân vô lậu; thân hữu vi, thân vô vi; thân thành tựu, thân thất bại, giữ bỏ – hợp tan, với tướng hay vô tướng phân biệt đều là Không nên không sở hữu. Bồ tát quán thân như cảnh mộng, như hình bóng, như tiếng vang, như dợn nắng giữa trưa; không thấy thân là Không cũng không thấy thân là chẳng phải không; không thấy có tưởng cũng không thấy thân không có tưởng; không thấy thân có nguyện cũng không thấy thân không có nguyện, không thấy thân cũng không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với vô dục. Không thấy thân cũng không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên không tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Cho đến mười tám giới cũng như vậy. Pháp giới như thị nên không tương ưng hay chẳng phải không tương ưng với đạo tướng. Từ si sanh ái cũng như vậy, không cùng đạo tướng tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Tất cả các pháp Danh sắc, Lục nhập không cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đại Bồ tát lại phải thể nhập Diệt tận định ý bất động tam muội, sau đó quán đạo tướng không cùng mười tám pháp bổn trì tương ưng hay chẳng phải không tương ưng, pháp tánh Không cùng mười hai nhân duyên tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Vô hạn vô lượng không thể nghĩ bàn cấu uế trần lao không cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Cho đến pháp tánh, các tình cũng không cùng mười hai nhân duyên tương ưng hay chẳng phải không tương ưng. Cho đến lão, tử và pháp không có dâm, nộ, si đều không cùng đạo tướng tương ưng, cũng không phải không tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Hữu số, vô số không cùng đạo tướng tương ưng cũng không phải không tương ưng. Đạo tướng là không hai, không cùng với hữu số, vô số tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Với đệ nhất nghĩa thì có thế gian, không có thế gian; hữu lậu, cô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; pháp thiện, pháp ác hoặc tốt, hoặc xấu, Bồ tát đều thực hành theo pháp môn bất nhị cũng chẳng thực hành theo pháp môn bất nhị, tâm ý không bị hoại để cầu đạo tướng. Bậc không cầu đạo tướng thì không cùng đệ nhất nghĩa và các pháp hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; pháp thiện, pháp ác hoặc xấu hoặc tốt tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Lại nữa, Đại Bồ tát với tướng của các pháp vô tướng không thấy tướng, chẳng phải không thấy vô tướng. Đạo vô tướng đó cũng không thấy tướng. Đó gọi là đạo tương ưng với vô tướng. Tướng của vô tướng, pháp đó tự thể vắng lặng như hư không vô tướng nhưng chẳng phải không có tướng, phải ứng hợp với tương ưng mà không có pháp tương ưng đó. Đại Bồ tát đắc đạo tướng định ý đó như thế thì ở trong các cảnh giới đều được tự tại, nhập định đó xong phân biệt tự thân trên mỗi lỗ chân lông có vô hạn lượng không thể nghĩ bàn thế giới chư Phật đều hiện trước mặt. Đã hiện thế giới lại hiện ra các chúng đệ tử tùy tùng, chúng Bồ tát khát ngưỡng muốn nghe pháp không chán đủ. Bồ tát khiến đại chúng đó đều thấy ba ngàn đại thiên quốc độ, từ kim thể của Như Lai phát ra vô lượng ánh sáng; mỗi ánh sáng có vô số vô lượng cõi Phật. Bồ tát ở trong cõi Phật đó hiện thân sắc tướng ở trong đại chúng xiển dương pháp lớn. Người nghe pháp tâm kiên cố không xả bỏ kim cương định ý tam muội. Bồ tát lại ở cõi đó suốt trăm ngàn ức kiếp dạo khắp giáo hóa, thị hiện quyền trí mà như không có quyền trí, không thấy người được quyền trí hóa độ. Tuy ở cõi đó mà tâm như hình bóng, dợn nắng, ảnh trong gương, tâm không có niệm, trải qua số kiếp dài lâu truy tìm không thấy nguồn cội, ở trong khoảng thời gian ấy sanh tâm giải đãi. Bồ tát lại không nghĩ chúng sanh dễ giáo hóa: “Ta trong một ngày, một đêm giáo hóa khắp nơi, khắp cả hằng sa thế giới chư Phật suốt ức ngàn vạn kiếp. Trong pháp giáo hóa của chư Phật, ta là thù thắng”. Đại Bồ tát nhập Đạo tánh vô tướng định như vậy phân biệt rõ ràng các lỗ chân lông trên thân, dạo khắp giáo hóa cũng không mệt mỏi, nhàm chán. Người không nhận lãnh giáo hóa, không quá lo lắng về dâm, nộ, si thì Bồ tát làm thanh tịnh thế giới ấy, hướng dẫn họ đến nơi đại hội của Đức Như Lai, nhưng Bồ tát không thấy có dài ngắn, khởi niệm bất tịnh. Vì sao? Đại Bồ tát ở trong vô lượng pháp giới hàng phục tâm ý, nhẫn với các trần lao, hạnh chưa từng có, hạnh không thể ví dụ, hạnh kiến lập tinh tấn đều phân biệt rõ; định bất tư nghị, định vô đạo tướng, định chơn tế tướng là một chứ không phải hai cũng không sai biệt. Bồ tát làm cho chúng sanh phân biệt đạo tướng. Với pháp hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; hữu ký, vô ký; hữu dục, vô dục không thấy cùng đạo tướng tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đạo tướng không cùng hữu tục, vô tục; hữu lậu, vô lậu; hữu ký, vô ký; hữu dục, vô dục tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Đạo tướng không cùng mười hai nhân duyên tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng; cũng không tương ưng với duyên si, hữu ái, sanh, lão, bệnh, tử. Mười hai nhân duyên không cùng đạo tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Duyên si, hữu ái, sanh, lão, bệnh, tử không cùng đạo tương ưng cũng chẳng phải không tương ưng. Như vậy, này Tối Thắng, Đại Bồ tát đắc Đạo tướng định ý này thì không thấy tương ưng, không thấy không tương ưng. Đó gọi là Đại Bồ tát ở trong Đạo tướng định ý tương ưng với pháp không tương ưng, với định vô tướng cũng không thấy tương ưng, cũng không thấy chẳng tương ưng. Đó gọi là tương ưng với pháp không tương ưng, chẳng phải pháp mà hàng La hán, Bích chi Phật có thể biết. Vì sao? Vì chẳng phải là cảnh giới của họ. Chư Phật Thế Tôn không thể nghĩ bàn vào khắp tất cả mười phương thế giới hiện các tướng tốt, oai nghi, lễ tiết, mười tám pháp biến hóa, Sư tử phấn tấn vô úy tam muội. Này Tối Thắng, lúc đó Đại Bồ tát đầy đủ Đạo tướng định ý của Như Lai, không xả bỏ định ý thệ nguyện kim cang dùng pháp độ của chư Phật độ người chưa được độ nhưng cũng không thấy độ, cũng không thấy không độ. Tâm vị Đại Bồ tát trong khoảnh khắc một niệm từ tam muội khởi, không xả bỏ chúng sanh khổ ách ở mười phương, suy tư, tìm đến nơi cấp thí tứ sự y phục, thức ăn, voi ngựa, bảy báu, giường chiếu đồ nằm, thuốc trị bệnh; dùng quyền tuệ độ tất cả chúng sanh. Tất cả vì chúng sanh không vì bản thân. Bồ tát đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác giáo hóa xiển dương Chánh pháp cũng không có tâm chán đủ, đi vào các cõi Phật khiến chúng sanh ở các nơi đó đều được nghe giáo pháp. Với người chưa giác ngộ, Bồ tát làm hưng long Phật sự, hiện Nhất thiết trí, biết rõ tâm niệm của họ rồi đến nơi đó giáo hóa. Bồ tát nhập Đạo tướng định ý này thể nhập tâm ý thức của các loại chúng sanh trong khắp hằng sa ương số cõi Phật, quán sát niệm khởi của chúng sanh, phân biệt hạnh đã làm trong quá khứ của họ hướng theo đường địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh, hướng theo Thiên đạo hay nhân đạo. Đại Bồ tát trong khoảnh khắc khảy móng tay đều có thể phân biệt hướng sanh của chúng sanh như thế, hoặc có chúng sanh tu hành thiện đạo tương ưng với Đạo tướng định, Bồ tát cũng biết chúng sanh đó có tâm tiểu thừa, tâm Bích chi Phật hay tâm Bồ tát. Như thế, Đại Bồ tát đi khắp các cõi Phật lễ bái, phụng sự chư Phật Thế Tôn, làm thanh tịnh các cõi Phật, làm sung mãn các ý niệm của tất cả chúng sanh. Bồ tát ở các cõi Phật hoặc thấy loại chúng sanh có tâm xan tham liền tự thân thị hiện bố thí lớn, ở cõi Phật đó dựng lên lọng bố thí, dùng Phạm âm thanh tịnh thông báo cho tất cả mọi người: “Chư Hiền nên biết, tôi tên Nhất thiết thí vô cầu báo. Nếu có ai thiếu thốn vật gì từ y phục, thức ăn uống, thuốc trị bệnh, giường nằm… cho đến tài sản quốc gia, vợ con, ngựa voi, bảy báu, tôi đều cấp cho”. Bồ tát bố thí từ sơ phát tâm đến khi thành Phật, trừ ba điều không bố thí còn ngoài ra đều bố thí tất cả. Ba điều đó là gì? một là cha, hai là mẹ, ba là sư trưởng. Đó gọi là vị Lập căn Bồ tát ở các cõi Phật thực hành bố thí. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng quyền phương tiện khéo léo dạo khắp hằng sa cõi nước ở mười phương, thấy chúng sanh nào có tâm lười biếng thì thị hiện thân trì giới, thực hành mười tám pháp, hoặc ở dưới cội cây, nơi đồng trống, trong hang sâu, nơi chốn núi cao, ẩn cư trong rừng sâu ân cần tôn thờ giữ gìn giới pháp không phạm. Khi đi vào nhân gian thì giữ gìn oai nghi lễ tiết ra vào, đi đứng, khi đi, khi ngồi tâm luôn dè dặt, trọn không rời giới, ngộ rõ cấm giới vốn không sở hữu, có sanh thì đều có diệt, tất cả là vô thường: “Thân ta và thân người là một chứ không khác”. Đến như cảnh thanh tịnh, từ địa này đến địa khác lên đến thập địa, Bồ tát không thấy thập địa là ngăn ngại, cũng không thấy đạt đến thập địa là vô ngại. Giống như chim bay trên hư không không có dấu chân, ngộ rõ vạn vật đều Không như hư không, vật cũng là phi vật, phi vật cũng là vật. Đại Bồ tát cũng như vậy, dạo đến vô lượng các cõi Phật, không cả tâm hoằng thệ kiên cố, nhiếp hóa chúng sanh giải đãi kia an trụ thể nhập vào Đạo tướng chánh định. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng trí tuệ quyền xảo đến hằng sa cõi ở mười phương thấy chúng sanh có tâm giải đãi, luôn sân hận chưa có khi nào tâm an vui, Bồ tát ở đó hiện thân nhẫn nhục. Nếu có người mắng chửi vẫn lặng im mà không đáp lại. Nếu có người chặt đứt tay chân, hủy phá thân hình, tâm Bồ tát vẫn không đổi khác, không khởi ý phẫn nộ, giữ tâm như đất, quán rõ thân này do bốn đại hợp thành thần thức lìa khỏi thì tan hoại, có gì đáng quý. Bậc trí phân biệt thân này chẳng phải là một nên không khởi tâm tham. Cũng như người đồ tể xẻ con bò thành bốn phần, biết rõ thân đó thỉ chung đều không có gì để sở hữu, Bồ tát Đại sĩ cũng như vậy, ngộ rõ thân này là vô chủ cũng không có gì để sở hữu. Thân này là gì? Thân này của ai? Danh tướng, tên gọi đều không chơn thật. Hoặc có Bồ tát do nhân thiền định thực hành nhẫn nhục, ở nơi đồng trống vắng vẻ không người ngồi thẳng thân dưới cội cây nhất tâm tư duy. Người đi đường và kẻ chăn bò mang vác cỏ và củi đi qua bên cạnh dùng ngọn cỏ ngoáy vào lỗ mũi Bồ tát, hoặc thọc vào lỗ tai Bồ tát. Bồ tát tư duy đã thuần thục, nhìn thấy xong lại nhắm mắt, tâm ý vắng lặng, ý không loạn cũng không có tưởng khác. Hoặc có kẻ đi thẳng đến dùng gạch ngói, đá quăng ném làm vỡ đầu, sưng mắt, hủy hoại thân thể Bồ tát. Tâm Bồ tát cũng không biến đổi, không khởi loạn tưởng. Đó gọi là Đại Bồ tát do nhân thiền định thực hành nhẫn nhục, tiếp độ chúng sanh không thể nhớ nghĩ hết. Lại nữa, Đại Bồ tát dùng lực bất tư nghị đến hằng sa cõi nước ở mười phương, thấy có chúng sanh luôn có tâm lười biếng, kiêu mạn. Bồ tát ở nơi đó hiện thân tinh tấn, nhiếp hóa chúng sanh an trụ nơi giải thoát. Khi ấy Bồ tát vì một chúng sanh nên suốt trăm ngàn kiếp tâm không giải đãi cũng không cảm thấy mệt mỏi, nhàm chán. Vì sao? Vì Bồ tát đã liễu đạt pháp giới Không, không sở hữu, dùng đạo pháp của Như Lai mà độ thoát cho người đó. Tuy độ chúng sanh mà không thấy độ, cũng không thấy không độ. Đó gọi là Đại Bồ tát chuyên chú tinh cần, tâm không biến đổi cũng không có tưởng khác. Bồ tát ở trong đó nhận lãnh khổ não. Hoặc gặp lúc cõi đó kiếp thiêu lửa cháy lên tận Phạm Thiên, hoặc gặp lúc nước dâng lên tới Phạm Thiên, hoặc gặp gió thổi đến các cõi làm vỡ nát như bụi sương, Bồ tát luôn ở đó giữ gìn các loại chúng sanh, làm cho họ an trụ giải thoát, không hoảng loạn. Đó gọi là Đại Bồ tát đến hằng sa cõi nước ở mười phương, thấy tâm chúng sanh loạn không định, Bồ tát ở đó hiện thân tọa thiền, hoặc ngồi nơi thôn xóm, hoặc ngồi ở cội cây, hoặc ngồi ở hang sâu, trong rừng núi trải qua trăm ngàn kiếp tâm không có tưởng khác, dẫn độ chúng sanh khiến tâm họ không loạn động. Lúc bấy giờ Bồ tát ở bên đường nhập định, tam muội đó tên là Vô hình tưởng định. Người nhập định này hoặc trải qua một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp, trời đất vỡ tan, núi sông cây cối đều tan nát, các nguồn suối, sông, biển đều khô cạn, Bồ tát ngồi thiền nhập định, tâm không biến đổi cũng không có tưởng hư hoại. Có kẻ chăn bò vác củi và cỏ đi qua bên cạnh, hoặc dùng ngọn cây thọc vào mũi, hoặc chọt vào tai, hoặc lấy tay vén mí mắt để nhìn, hoặc banh miệng để xem răng, hoặc nắm giật tóc trên đỉnh đầu nhưng không thể được, hoặc dùng dao bén cắt móng tay Bồ tát nhưng không thể được. Vì sao? Đều là vì sức oai thần của thiền định không thể phá hoại của Bồ tát. Chư Phật mười phương lại thêm sức oai thần khiến Bồ tát không gặp khổ não. Đó gọi là Đại Bồ tát đến hằng sa cõi nước ở mười phương thấy chúng sanh có tâm ý loạn liền tự nhập định, từ kiếp này đến kiếp khác không mệt mỏi, nhàm chán. Lại nữa, Đại Bồ tát lại dùng quyền phương tiện khéo léo đi đến hằng sa cõi nước, quán thấy chúng sanh có tâm ngu si mê hoặc, Bồ tát ở nơi đó thị hiện trí tuệ, vì chúng sanh đó phân biệt nghĩa thú, tư duy các việc ở hiện tại và các việc ở ba đời; con đường thứ lớp của các địa, từ địa đến địa, từ vô địa đến địa. Cũng như chim bay không bị ngăn ngại, Bồ tát cũng như thế, chẳng phải hình tượng là hình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng; chẳng phải vật là vật, vật là chẳng phải vật. Thế nào là chẳng phải hình tượng là hình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng? Khi ấy Bồ tát nhập Hư không tế định ý chánh thọ quán thế giới phương khác, quả thuốc, cây cối, núi sông, đá vách đều rỗng không như hư không. Đại Bồ tát cũng như thế, thấy tất cả thế giới như hư không bình đẳng. Đó gọi là Đại Bồ tát quán chẳng phải hình tượng là hình tượng, hình tượng là chẳng phải hình tượng. Chẳng phải vật là vật cũng như vậy. Bồ tát lại thể nhập, thị hiện Chúng trí tự tại định ý, trừ bỏ tưởng ngu si ám muội cho chúng sanh, khiến họ đều an trú đến bờ giải thoát bên kia. Đó gọi là Đại Bồ tát đến mười phương vô lượng thế giới quán thấy chúng sanh có tưởng ngu si mê hoặc, vì họ hiện tuệ sáng để họ vĩnh viễn không còn ngu tối.
***
Phẩm 22: ĐẲNG TỪ
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Thế nào là Bồ tát nhập Đẳng từ tam muội quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới, thân ấm của người, thân ấm của thần và cõi của loài rồng, loài quỷ từ một thân, hai thân cho đến trăm ngàn thân? Thế nào là Bồ tát dùng sức thần túc từ một quốc độ Phật đến một quốc độ Phật như người dạo đi không ngăn ngại?
Khi đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Hay thay! Câu hỏi đó thật kỳ diệu. Ta nay sẽ giảng rõ nghĩa đó cho ông. Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Khéo suy nghĩ ghi nhớ. Tất cả các pháp là hư tịch, không có nguồn cội, suy tư về các loại trí thành đạo cũng không có dấu tích. Bồ tát nhập Chánh thọ tam muội, quán khắp loại chúng sanh hữu hình trong ba ngàn đại thiên thế giới, quán thân năm ấm sanh rồi diệt, theo thân mà sanh, theo thân mà diệt. Lại nhập Không giới quán địa, thủy, hỏa, phong, phân biệt từng pháp hiểu rõ chúng là vô sở hữu, pháp khởi thì khởi, pháp diệt thì diệt. Tối Thắng nên biết, thuở xưa Ta tu đạo Bồ tát dài lâu, ý chuyên chú thiền định, giữ tâm không loạn, nhập Bất động tam muội, quán vô hạn lượng không thể nhớ kể chúng sanh ở hư không, tùy theo loại hình của họ mà giáo hóa. Trong đó có chúng sanh có dâm, nộ, si hoặc không có dâm, nộ, si; có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có tâm sân khuể hay không có tâm sân khuể, Bồ tát dùng quyền tuệ tùy theo loại mà thể nhập vào tất cả loại hình tướng giống như họ. Tâm Bồ tát nhập định trọn không tán loạn, trong khoảnh khắc khảy móng tay đi vào trăm ngàn cõi của chư Phật, hoặc dùng pháp tánh tuệ quán để giáo hóa, hoặc dùng pháp không, pháp khổ, không, vô thường hướng dẫn họ đến với Chánh pháp. Pháp giáo hóa của Bồ tát cũng không giới hạn, dùng mười pháp thiện hạnh để truyền dạy cho họ. Mười pháp đó là gì? Trước thanh tịnh quốc độ không tính công lao của mình. Phô diễn trí tuệ sáng suốt, biết không ngăn ngại. Ngồi dưới cội đạo thọ tâm không khiếp nhược. Hàng phục ma oán khiến chúng biết rõ đường tà. Dạo đến các cảnh giới, độ vô lượng người. Tâm nhẫn nhục như mặt đất không lay động. Phân biệt căn môn, tướng dễ tướng khó. Hạnh thuần thục, không đắn đo, phân vân trước tất cả hạnh. Phân biệt rõ ràng quá trình trì, nhập của ấm và sự hành hoạt của sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức. Quán sáu tình bên trong, trừ bỏ sáu trần bên ngoài. Nếu mắt thấy sắc không khởi nhãn thức, với sắc bên ngoài và thức bên trong đều ngộ rõ là hư giả không thật: “Sắc do mắt của ai nhận biết mà tồn tại?”. Nếu tai nghe tiếng không khởi nhĩ thức. Tiếng bên ngoài, thức bên trong đều ngộ rõ là hư giả, không thật: “Hương do mũi của ai ngửi biết mà tồn tại?”. Nếu lưỡi nếm vị thì không khởi thiệt thức. Vị bên ngoài, thức bên trong đều ngộ rõ là hư giả, không thật: “Vị do lưỡi của ai nếm biết mà tồn tại?”. Nếu thân biết trơn mịn thì không khởi thức tưởng xúc. Xúc bên ngoài, thức bên trong đều ngộ rõ là hư giả, không thật: “Cảm xúc trơn mịn do thân của ai nhận biết mà tồn tại?”. Tối Thắng nên biết, Bồ tát nhập định phân biệt rõ ràng từng pháp, tùy theo chủng loại mà giáo hóa, hoặc dùng lời để dạy, hoặc dùng thần túc, hoặc dùng trí tuệ phương tiện, tùy loại mà đi vào không ngăn ngại. Khi ấy Bồ tát lại dùng mười pháp giáo huấn độ chúng sanh. Mười pháp đó là gì? Một là tuệ căn đầy đủ, tâm định không loạn. Hai là tâm giác ngộ kiên trí tuệ diễn bày vô ngại. Ba là giảng giải đạo phẩm đầy đủ nghĩa thú. Bốn là hiểu rõ các tướng tốt huyền tịch không sai lầm. Năm là hiểu rõ đạo phi đạo, liễu tri hư vô. Sáu là ý tôn sùng pháp luân, giảng dạy không mệt mỏi. Bảy là thực hành đạo Bồ tát, không thấy thân mình. Tám là tuy độ chúng sanh mà không thấy có độ. Chín là hiểu rõ nội ngoại Không là một chứ không phải hai. Mười là phân biệt thân thể không thấy có hóa. Đó gọi là Đại Bồ tát đầy đủ mười pháp thì có thể dạo khắp các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, chưa từng lìa bỏ chư Phật Thế Tôn. Bồ tát phải nhớ tu tập các pháp Tổng trì. Các pháp Tổng trì gì? Chư pháp ấn khả Tổng trì, Bồ tát được pháp Tổng trì này thì với tất cả pháp trừ bỏ các vọng tưởng. Lại có pháp Phổ quang Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này được tâm Từ bình đẳng với tất cả chúng sanh, không có tâm điên đảo. Lại có pháp Tuệ minh Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này khiến quốc độ không thanh tịnh thành thanh tịnh. Lại có pháp Chiếu diệu Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tâm ý đang loạn đều không có bụi trần. Lại có pháp Nghĩa biện Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì tu tập quán các hạnh, nhập định bất động. Lại có pháp Pháp biện Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt cú nghĩa không mất thứ lớp. Lại có pháp Hương biện Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán sát âm hưởng, tùy theo loại mà độ. Lại có pháp Ứng biện Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tương ưng với đầy đủ tất cả các hạnh. Lại có pháp Ý chỉ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán sát rõ ràng chi tiết các pháp không do dự. Lại có pháp Thần túc Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thọ mạng trụ tại thế gian suốt trăm ngàn kiếp. Lại có pháp Căn bổn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt căn môn hưng suy không biến đổi. Lại có pháp Lực thế Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thì tu tập thể kim cang không thể phá hoại. Lại có pháp Giác ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này diễn bày các pháp, khai ngộ cho tất cả chúng sanh. Lại có pháp Đạo phẩm Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán rõ nhân duyên căn bổn của pháp ba đời. Lại có pháp Định ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này khiến tâm niệm loạn tưởng quay về với đạo như trước. Lại có pháp Quyền tuệ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thì có mọi phương tiện tương ưng với vô, cũng giác ngộ pháp vô. Lại có pháp Bố thí Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ngộ rõ tam sự đều vô sở hữu. Lại có pháp Trì giới Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không thấy người tu tập trì giới và người phá giới. Lại có pháp Nhẫn nhục Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không thấy nhẫn với sân và tâm loạn tưởng. Lại có pháp Tinh tấn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không thấy nghiệp tinh tấn và giải đãi. Lại có pháp Chánh thọ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này nghe vạn tiếng sấm sét chấn động mà lông trên thân không dựng đứng. Lại có pháp Tuệ không Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này trí phân biệt biết bao la vạn tượng, diễn giải vô ngại. Lại có pháp Vô ngại Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này trí tuệ thông đạt không bị ngăn ngại. Lại có pháp Khoáng viễn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tuy trăm ngàn thân cũng hợp lại thành một. Lại có pháp Giáo thọ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này dùng Chánh pháp giáo huấn, lời nói không làm ai phiền não. Lại có pháp Bất tư nghị Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thì hàng La hán, Bích chi Phật không thể theo kịp. Lại có pháp Đạo thọ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này trang nghiêm quốc độ, không lìa bỏ chư Phật. Lại có pháp Hàng ma Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này giữ ý kiên cố tâm không nghiêng theo tà. Lại có pháp Dung tướng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này mỗi mỗi tướng đều có trăm ngàn phước báo. Lại có pháp Chúng hảo Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không thấy tướng tốt trang nghiêm theo thân. Lại có pháp Quang chiếu Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này với trăm ngàn ánh sáng thấy hóa thành vô lượng. Lại có pháp Độ nhân Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tuy độ chúng sanh mà thấy cũng như không độ. Lại có pháp Quảng tuệ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ý như hư không không nhỏ hẹp, thiên lệch. Lại có pháp Đạo ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không tưởng Niết bàn cũng không chấp trước hữu. Lại có pháp Diệt độ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không thấy có pháp diệt và sanh. Lại có pháp Thanh tịnh Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này trần lao đều thanh tịnh vô tận bất tận. Lại có pháp Vô khổ tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này hiểu rõ khổ, không khổ tên gọi là Khổ đế. Lại có pháp Sanh tập Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này với nguồn gốc phiền não duyên với ý biết rõ đều là hư vô. Lại có pháp Diệt tận Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này diệt Tập trần lao, không còn tạo tác. Lại có pháp Thánh đạo Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này an trụ pháp giải thoát Niết bàn vĩnh viễn tịch tĩnh. Lại có pháp Chỉ quán Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán rõ tướng hưng suy của diệu pháp. Lại có pháp Không tạng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán rõ các pháp đều biết là vô chủ. Lại có pháp Tịnh thanh Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này miệng nói ra lời nhẹ êm như thanh âm của Phạm Thiên. Lại có pháp Xưng khả Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thì lời mọi người nói đều hợp với tâm ý mình. Lại có pháp Đẳng ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này lời nói trôi chảy lưu loát không vướng ngại. Lại có pháp Du xứ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này người được nghe Bồ tát giáo giới không ai bị thương tổn. Lại có pháp Oai chiếu Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ở trong đại chúng không khiếp nhược. Lại có pháp Phấn tấn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này cất tiếng sư tử rống thì chim sa thú chạy. Lại có pháp Giới luật Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này hàng phục tất cả chúng sanh khó ngộ. Lại có pháp Thú đạo Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ngộ rõ Niết bàn, không có tưởng sanh diệt. Lại có pháp Pháp tánh Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này khiến những kẻ nịnh hót thấy được chơn đạo. Lại có pháp Tức ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không khởi tâm kiêu ngạo, tự cao với người. lại có pháp Thông đạt Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này nghe thánh tuệ đó không quên giáo pháp. Lại có pháp Hưng kính Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này liền trừ bỏ tâm cống cao, vâng theo việc làm của chư Phật. Lại có pháp Không giới Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thông đạt phép tắc luật nghi, hiểu rõ nguồn cội các pháp. Lại có pháp Vô lượng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này lời nói từ xưa đến nay không cùng tận. Lại có pháp Cường ký Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt văn tự thú hướng của pháp. Lại có pháp Cứu ý Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ngộ rõ bổn tánh, pháp giới cũng tịnh. Lại có pháp Nan diệt Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán rõ chúng sanh thanh tịnh, trong ngoài đều hư tịch. Lại có pháp Vô tế Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ngộ rõ pháp Bổn vô, pháp Bổn vô cũng là vô. Lại có pháp Anh lạc Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này kinh pháp đã giảng nói không bị ngăn ngại. Lại có pháp Diệu yếu Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này là pháp mà hàng Nhị thừa chẳng thể tính lường được. Lại có pháp Như Lai Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này giác ngộ hướng đạo tịch mịch của chúng sanh. Lại có pháp Thập địa Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này luôn giảng nói vô trụ, cũng không thấy pháp trụ. Lại có pháp Ấm chủng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt nguồn cội của thân không khởi tâm nhiễm chấp. Lại có pháp Tịch mịch Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ví dụ hô lên một tiếng cũng không có tiếng vang. Lại có pháp Thức tánh Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này đều có thể tư duy mà không chấp trước văn tự. Lại có pháp Liễu bổn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không giảng, không nói cũng không dạy. Lại có pháp Văn tự Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tự biết túc mạng, biết hướng sanh thú qua lại. Lại có pháp Pháp luân Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này không có ý, không có tưởng, không có thần thức. Lại có pháp Cam lộ Tổng trì, Bồ tát Tổng trì này giảng tụng, nói pháp đều không ngăn ngại. Lại có pháp Thâm hợp Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt rõ ràng hợp nghĩa của tứ cú. Lại có pháp Pháp tràng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thấy rõ nghĩa lý, thông tỏ nguồn cội của thức – pháp. Lại có pháp Vô tận Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này diễn nói cùng tận Bổn tế không lìa bỏ pháp cận duyên. Lại có pháp Đẳng giác Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thường giảng vô lượng pháp mà không chấp trước Chánh pháp. Lại có pháp Chư pháp Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tu tập thuần thục các pháp không mất đầu mối thứ lớp. Lại có pháp Hoằng thệ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này ngộ rõ trí tuệ đều không trái thuận. Lại có pháp Thiện quyền Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này dùng pháp thích ứng với loại chúng sanh mà hóa độ, không có tâm khiếp nhược. Lại có pháp Đạo tuệ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt đảnh pháp, tu tập pháp Ba la mật. Lại có pháp Ảo hóa Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt pháp giới không có tánh trong ngoài. Lại có pháp Trung ấm Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này biết rõ trụ xứ nơi chư Phật Thế Tôn ngự. Lại có pháp Đạo tràng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này thì cõi nước ở mười phương bừng chói sắc hoàng kim. Lại có pháp Hàng ma Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này tất cả ngoại đạo đều được hàng phục. Lại có pháp Tự thủ Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phòng hộ thân, khẩu, ý mà không thấy có phòng hộ. Lại có pháp Thuyết pháp Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này đầy đủ pháp bổn không bị khuyết lậu. Lại có pháp Tư dụng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này quán sát tâm ý của vô lượng chúng sanh. Lại có pháp Ân cần Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phương tiện giảng nói đều khiến chúng sanh nhập đạo, kiểm thúc thân tâm. Lại có pháp Lưu hóa Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này phân biệt các trí tuệ, không chấp trước xưa nay. Lại có pháp Nhu thuận Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này nhận lãnh pháp không nhàm chán, cũng không có tâm giận dữ, mê lầm. Lại có pháp Tấn đức Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này với các pháp bổn đều không sở hữu. Lại có pháp Sắc tượng Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này nếu thấy hình tướng thì chưa từng xả bỏ sai lầm. Lại có pháp Thanh văn Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này suy lường các pháp, không tính toán, không chấp trước. Lại có pháp Khổ thuận Tổng trì, Bồ tát đắc pháp Tổng trì này nghe tìm hiểu pháp vị biết bình đẳng không hai.
Khi Thế Tôn nói pháp môn Tổng trì này, mười hai ức na thuật người đắc Tận tín pháp nhẫn bất khởi, lại có vô ương chúng sanh đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Việc làm của Bồ tát không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp mà hàng La hán, Bích chi Phật biết được. Do sức oai thần cảm ứng của Đẳng từ tam muội định ý chánh thọ nên mới có thể được như thế. Do đó mà nói luật Đại thừa hướng đạo làm phương pháp giáo hóa chơn chánh, dùng đó để làm pháp phục.
Lúc đó ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Lành thay! Lành thay! Vui thay lời dạy ấy! Tất cả các pháp tu tập không có bổn mạt, ngộ rõ pháp tánh hư vô vắng lặng, phân biệt từng pháp đều là hư, đều là tịch. Thế Tôn giảng nói pháp Đại thừa rộng lớn khắp tất cả. Bồ tát nghe pháp này thực hành, sau khi thọ mạng đã hết đều được sanh vào thế giới Khoáng nhẫn.
Bấy giờ tất cả người trong hội đều phân vân, muốn được thấy cõi Phật ấy. Đức Như Lai dùng sức thần túc quán sát biết tâm niệm của chúng sanh liền dùng thần túc từ trên đỉnh đầu phóng ra ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, đến tận cõi Khoáng nhẫn vô lượng ấy. Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Vô Tận có pháp Thuận chấp Tổng trì nhớ mãi không quên, pháp đặc thù luôn hiện tiền, từ hằng sa kiếp đã cúng dường chư Phật tích lũy đạo pháp nên tự thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Ông phải nhớ nghĩ tu hành mười pháp. Mười pháp ấy là gì? Một là phân biệt pháp giới, liễu tri hư vô. Hai là biết rõ thân là hư tịch, trong ngoài đều không có chủ tể. Ba là tâm ngộ biết bốn đại, không nương tựa hữu dư. Bốn là với tất cả pháp không thấy diệt độ. Năm là thân, khẩu, ý hành không trụ tịch mịch. Sáu là hộ trì giới, vô giới cũng không hủy giới. Bảy là tu tập không phóng dật, kiểm thúc tâm là gốc. Tám là thệ nguyện thành đạo, không xả bỏ chí nguyện xưa. Chín là dùng pháp bất tư nghị độ người khó độ. Mười là các hành thanh tịnh thì việc làm không nặng nề. Đó gọi là mười pháp bổn mà bậc Đại Bồ tát tu hành. Lại nữa, Bồ tát lại phải tu tập mười pháp hiệu. Mười pháp ấy là gì? Một là đầy đủ giới thanh tịnh, không có hạnh phóng dật. Hai là dùng trí tuệ thí pháp cho người nghe mà không hủy pháp giới. Ba là phân biệt ấm nhập, liễu tri hư tịch. Bốn là biết bốn đại là vô thường, đều quy về diệt. Năm là hiểu rõ mười tám nạn, bệnh của ấm trì nhập. Sáu là đầy đủ thệ nguyện được chư Phật gia trì, khen ngợi. Bảy là với chúng sanh chưa được an lập thì độ họ an trụ giải thoát. Tám là Bồ tát nhập định không thể loạn. Chín là quán khắp tất cả các hành trong ngoài. Mười là tự quán tướng sanh diệt nguồn gốc của thân. Đó gọi là mười pháp bổn mà bậc Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tu hành thì tự thân thành tựu trí Chánh giác. Lại nữa, Bồ tát lại phải tu tập định chánh thọ tam muội như pháp tam muội tên Đẳng quán tam muội. Bồ tát đắc tam muội đó thì thành tựu tuệ quán không bị phóng dật. Lại có tam muội tên Nhiếp ý, Bồ tát đắc tam muội này có thể thu nhiếp các phiền não không để chúng trói buộc. Lại có pháp Hộ giới tam muội, Bồ tát đắc tam muội này, ý như hư không không khởi nhị tưởng. Lại có pháp Đại bảo tam muội, Bồ tát đắc tam muội này diễn giảng pháp Thất giác ý, pháp bảo vô tận. Lại có pháp Đạo thọ tam muội, Bồ tát đắc tam muội này thì hoa đạo bừng nở đẹp, ai thấy cũng thích. Lại có pháp Hải lượng tam muội, Bồ tát đắc tam muội này là pháp chẳng phải hàng Nhị thừa có thể suy lường. Lại có pháp Nhập thất tam muội, Bồ tát đắc tam muội này thể nhập sâu xa tạng pháp yếu, không pháp nào không biết. Lại có pháp Nguyệt quang tam muội, Bồ tát đắc pháp tam muội này đến các cõi Phật dạo qua lại khắp nơi. Lại có pháp Nguyệt minh tam muội, Bồ tát đắc tam muội này ánh sáng chiếu soi tất cả, không ai không được chiếu sáng. Lại có pháp Huyền giám tam muội, Bồ tát đắc pháp tam muội này ngộ rõ ba đời không có pháp sanh diệt. Lại có pháp Vô tằng ái tam muội, Bồ tát đắc tam muội này bình đẳng với người oán ghét, thấy như con ruột. Lại có pháp Đại ai tam muội, Bồ tát đắc tam muội này thấy tất cả chúng sanh như cha, như mẹ. Lại có pháp Từ bi tam muội, Bồ tát đắc tam muội này vì tất cả chúng sanh làm cơn mưa tưới khắp. Lại có pháp Ngận ai tam muội, Bồ tát đắc tam muội này không có ngô ngã, ngã, nhân, thọ mạng. Lại có pháp Vô tưởng tam muội, Bồ tát đắc tam muội này thì có thể chuyển Pháp luân vô thượng. Lại có pháp Hành khổ tam muội, Bồ tát đắc tam muội này trong A tăng kỳ kiếp không hao tổn công đức của mình. Lại có pháp Kiến lực tuệ giới tam muội, Bồ tát đắc tam muội này không thấy ngô ngã, hạnh luôn thanh tịnh. Lại có pháp Ly thân tam muội, Bồ tát đắc tam muội này thoát ly các triền kết ràng buộc cũng không hủy giới. Lại có pháp Ngô ngã tam muội, Bồ tát đắc tam muội này không có tâm chấp trước pháp bỉ thử. Lại có pháp Huyền thông tam muội, Bồ tát đắc tam muội này ngộ pháp nhẫn nhục, không thấy tịch tĩnh hay chẳng tịch tĩnh. Lại có pháp Thanh bạch tam muội, Bồ tát đắc tam muội này tư duy phân biệt hạnh thanh bạch. Lại có pháp Tương ưng tam muội, Bồ tát đắc tam muội này cùng pháp tương ưng không khởi, không diệt. Đó gọi là chánh thọ tam muội của Đại Bồ tát. Bồ tát đến các cõi Phật phương khác, tôn phụng cúng dường chư Phật Thế Tôn, cũng không sợ hãi, không gặp nạn sợ hãi. Giả sử thân đang lúc suy yếu, sắp mạng chung, các thân phần dần dần ly tán, Bồ tát tự quán thân này như cỏ cây, tường vách, không khởi tâm nhiễm chấp mà thực hành nhẫn nhục, nghe lời ác không lấy đó làm sầu não, tuy gặp điều thích thú không vì thế mà vui mừng, suy tìm ngôn giáo cũng không có xứ sở, thấy rõ lời đã nói cũng không gốc ngọn, tâm Bổn vô mỗi niệm đều không thật. Đó gọi là Đại Bồ tát thanh tịnh dịnh ý. Tuy có lúc loạn tâm nhưng tâm không bị buộc ràng, không chấp bên này cũng không chấp bên kia, nội ngoại pháp đều thanh tịnh. Do quán như thế nên tâm nhẫn nhục. Đó gọi là thân, khẩu, ý của Đại Bồ tát thanh tịnh, thành tựu trí tuệ nhẫn nhục. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát lại phải tu tập tinh tấn định ý, làm lớn các pháp lành không để thiếu mất, quán pháp giới không tăng, không giảm; dùng trí tuệ vô lậu quán pháp ngự. Lại phải tư duy quán pháp nương tựa thế gian, không thấy các pháp có thành tựu hay không thành tựu, không thấy chánh đế cùng với điên đảo, không theo, không xả cũng không từ bỏ pháp đã thành tựu. Đó gọi là kho báu quý vô tận mà Đại Bồ tát đã tích tụ. Bồ tát không thấy pháp quá khứ, hiện tại, vị lai từ đâu đến, từ đâu đi; không có chỗ đến, đi cũng không dấu vết. Tám đạo Hiền Thánh là đứng đầu trong các pháp, phân biệt rõ ràng pháp Tứ đế Hiền Thánh, thoát ly hành vọng tưởng điên đảo, nói pháp cho người không bị ngăn trệ, ngộ rõ chúng sanh là hư giả, không thật; suy tìm các pháp cũng không thể được. Do vậy nên pháp pháp tương sanh, pháp pháp tương diệt; người không lìa pháp, pháp không lìa người. Tự thể của người là hư tịch, pháp cũng là hư tịch. Như người là pháp tự nhiên, pháp cũng tự nhiên. Ngộ rõ tự nhiên mới tương ưng với hạnh vô thượng chánh chơn, mới đạt được hạnh Phật pháp vô tận. Nếu có cầu pháp thì với pháp đã cầu, với pháp đang cầu đều không chấp ba đời, không bị nhiễm ô. Pháp mà Bồ tát cầu, pháp mà Bồ tát đã cầu dược đều không có pháp để đắc cũng không có pháp để không đắc. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu hành diệu tuệ tinh tấn. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát lại phải tư duy tu tập thiền định chánh thọ tam muội, không hủy giới pháp, tâm bình đẳng không hai cũng không thấy hai, không thành tựu cũng chẳng phải không thành tựu. Bồ tát ở trong thiền định dùng chánh định khiến tâm không khởi loạn tưởng với tất cả các loại định cũng không phóng xả các pháp vô tưởng, ngộ rõ trong ngoài đều vô chủ. Đó gọi là Đại Bồ tát nhất tâm chánh định, không hủy thiền định, lại cũng không thấy có hội họp, không có tâm thoát ly xả bỏ các cảnh giới, tu tập nhưng không chấp trước thiền, dòng tâm ý không có nạn chướng ngại. Đó gọi là Đại Bồ tát không lập pháp cũng không ly pháp, luôn nhất tâm quán thể tự nhiên của các pháp, ngộ rõ các pháp, tâm không có tưởng sanh diệt, là pháp chẳng phải thấy chẳng phải tâm có thể nghĩ lường, tư duy tâm định bình đẳng không hai, hướng chí tánh chẳng phải pháp tương ưng hay pháp không tương ưng cũng không thấy pháp tương ưng. Bồ tát phân biệt nguồn gốc của mười hai nhân duyên: Duyên Hành có Si, duyên Si có Thức, duyên Thức có danh sắc, duyên Danh sắc có Lục nhập, duyên Lục nhập có Cánh lạc (Xúc), duyên Cánh lạc có Hữu, duyên Hữu có Ái, duyên Ái có Thọ, duyên Thọ có Sanh, duyên Sanh có Tử, sầu ưu khổ não không thể suy lường. Nói tóm lại, thân năm ấm thạnh là thân nguy nạn, yếu ớt, không thể bền lâu. Khi ấy tâm Bồ tát tu tập bình đẳng pháp Bổn vô, phân biệt sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức đều là hư tịch. Bồ tát lại dùng chánh định với pháp bổn tịnh cũng không nhiễm chấp, cũng không thấy sắc; ngộ rõ sắc là vô sắc, vượt qua tất cả hành điên đảo. Đó gọi là pháp thiền định nhất tâm của Đại Bồ tát chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi Phật theo kịp. Ngoại đạo có ngũ thông tuy tuổi thọ vô lượng, do mất thần túc nên không thể đạt đến rốt ráo. Người tu tập thiền định chánh thọ tam muội thọ mạng trụ một kiếp và hơn một kiếp cũng không có gì khó. Đó là do vị ấy đắc thiền định, hiện trí tuệ trừ bỏ trần lao, không khởi vọng kiến. Đó gọi là chí nguyện của Đại Bồ tát dùng đạo khai hóa chúng sanh, tùy pháp thích ứng với chúng sanh theo bệnh cho thuốc. Bồ tát lại dùng pháp tuệ quán Không tánh, nhập Đẳng từ tam muội, quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới chuyển đến hằng sa các cõi Phật, có chúng sanh đáng độ đều khiến họ được giải thoát. Đó là thiền định chánh thọ của Như Lai đều khiến chúng sanh đạt đến diệt độ. Đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu Đẳng từ định ý, người được tế độ vô lượng không thể tính kể giới hạn. Này Tối Thắng, thần đức của Như Lai cao vòi vọi như thế. Phàm muốn quán pháp phải dùng tuệ nhãn, chẳng phải nhục nhãn cũng chẳng phải thiên nhãn, cũng chẳng phải là pháp hàng La hán, Bích chi Phật thấy được. Bồ tát do quán các pháp nên ngộ rõ các pháp hư tịch, các pháp thanh tịnh, ngộ rõ các pháp hư ảo, ngộ rõ các pháp định. Đó gọi là tâm hoằng thệ vô hạn lượng của Đại Bồ tát. Không có pháp hành, không có pháp trụ, cũng không có thể nhập, các pháp vốn tịch nhiên là pháp của người định tâm tu tập, chẳng phải pháp của kẻ loạn tưởng tu tập. Bồ tát quán khắp các pháp đều như thế. Quán như vậy là quán pháp. Bồ tát quán pháp mà không phân biệt đẳng loại pháp, với pháp giải thoát có lầm lỗi không đạt đến rốt ráo, không dùng Chánh pháp mà thành tựu định ý. Bồ tát phải nhớ nghĩ trừ khử vọng kiến, không mong cầu, không giữ cũng không có niệm ngang trái mong cầu thọ phước lớn, biệt nội ngoại pháp đều là hư tịch. Đó gọi là Đại Bồ tát nhập Đẳng từ tam muội, quán rõ các pháp đều vô sở hữu. Do vô sở hữu mới gọi là thấy pháp. Phàm người thấy pháp là người thấy được không ngã, không nhân, không thọ, không mạng; các pháp đó đều là giả hiệu, chẳng phải pháp chơn thật, là pháp hữu vi, chẳng phải cảnh giới vô vi. Cảnh giới vô vi không có pháp hữu vi. Bồ tát ngộ rõ hữu vi, vô vi; hữu lậu, vô lậu; pháp thường, pháp vô thường; ngã, nhân, thọ, mạng đều vô sở hữu. Đó gọi là Đại Bồ tát phân biệt pháp định ý vô sanh diệt. Nếu Bồ tát quán các pháp tướng, ngộ rõ các tướng hư tịch không hai cũng không thấy hai, ngộ rõ pháp đối đãi là không hai thì mới tương ưng với tâm định. Bồ tát với pháp điên đảo ngộ rõ là vô sở hữu, không thấy có con đường chánh hướng đến đạo, không thấy có con đường tà dẫn đến các kiến, trí tuệ vô lượng, tâm từ ái bao lao trùm khắp chúng sanh, làm thanh tịnh cảnh giới Phật, thanh tịnh cõi Phật. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, Bồ tát đến tôn kính hầu hạ cúng dường chư Phật Thế Tôn, lại dùng trí tuệ sáng thần thông quán sát khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Nếu có chúng sanh căn tánh thuần thục, không gặp Hiền Thánh nên rơi vào tam đồ, khi ấy Bồ tát phải trụ nơi đó tế độ khiến họ không loạn lạc. Hoặc có khi Bồ tát Đại sĩ do độ chúng sanh nên nhân đó tạo duyên, qua lại dạo quanh không phí công sức, trong khoảnh khắc khảy móng tay thể nhập trăm ngàn chánh thọ định ý, thành tựu tuệ quán, tu các công đức. Khi bố thí, Bồ tát suy tư căn tánh của trời người cũng không thấy có người thí, ngộ rõ ba việc đều vô sở hữu. Đó mới gọi là Bồ tát tương ưng với pháp thí. Lại nữa, nếu Bồ tát dùng luật giáo huấn thì ngộ rõ phạm giới và trì giới cũng là pháp vô sở hữu, không có trì giới hay chẳng trì giới thì mới tương ưng với giới. Lại nữa, có khi Bồ tát luôn thực hành nhẫn nhục, thấy người khác thực hành nhẫn nhục thì vui thay cho họ. Nếu gặp phải người nóng giận, phẫn nộ thì tâm không ưu sầu, buồn bã; thấy rõ giải đãi và nhẫn nhục đều vô sở hữu, cũng chẳng phải là một, là hai hay trăm ngàn. Ngộ rõ nhẫn và vô nhẫn mới tương ưng với nhẫn nhục. Lại nữa, Bồ tát luôn tu tập tinh thần, thấy người tinh tấn thì mừng thay cho họ. Nếu gặp kẻ giải đãi không vì thế mà hận ghét, ngộ rõ giải đãi và tinh tấn là một chứ không phải hai, cũng không thấy có hai pháp đối đãi; không thấy có pháp tinh tấn cũng không thấy có pháp giải đãi. Ngộ rõ tinh tấn, giải đãi đều hư tịch mới tương ưng với tinh tấn. Lại nữa, Bồ tát khi đi, khi ngồi luôn nhất tâm thiền định chánh thọ chưa từng khiếm khuyết. Trời sấm sét, đất chấn động, hàng vạn tiếng vang đồng trổi lên, Bồ tát vẫn chuyên tâm nhất ý. Không gì có thể làm lay động chuyển dời tâm Bồ tát. Bồ tát ngộ rõ định và loạn đều vô sở hữu, ngộ rõ định và không định mới tương ưng với định ý. Lại nữa, trí tuệ Bồ tát thấm nhuần khắp loại chúng sanh, phân biệt tất cả vạn căn cơ, dùng pháp thích hợp với tất cả diễn nói giảng bày mà không làm sai ý giáo pháp của Phật, dùng trí tuệ bình đẳng quán không thấy người hiền trí, kẻ ngu mê; ngộ rõ có trí tuệ hay không có trí tuệ cùng với người ngu mê đều vô sở hữu, không thấy có cũng chẳng thấy không có, có – không có đều vắng lặng như hư không, không hai. Đó gọi là Bồ tát dùng trí tuệ quán tướng các pháp thanh tịnh như thị, không thấy tướng cũng chẳng phải không có tướng. Ngộ rõ tướng, vô tướng mới thành tựu tướng hảo, tế độ chúng sanh đến bờ giải thoát. Lại nữa, Bồ tát lại phải nhập không định, dạo đến cõi hư không, phân biệt rõ ràng chúng sanh ở Không giới, hoặc dùng ngôn giáo, hoặc dùng thần túc, hoặc dùng quang tướng, hoặc dùng khổ hạnh mà giáo hóa khiến tất cả chúng sanh được nhập đạo, kiểm thúc thân tâm. Lại nữa, Bồ tát tu tập pháp vô tưởng, trừ bỏ cách tu tập chấp trước tưởng điên đảo. Bồ tát lại đến cõi chư Phật ở phương khác, luôn dùng pháp vô tướng không biến đổi giáo hóa chúng sanh khiến họ đều đạt giải thoát. Lại nữa, Bồ tát tu tập vô nguyện, không mong cầu nhận lãnh có quả báo trong ba cõi, không nương chấp người, không chấp trước tướng tốt, phân biệt sự thành hoại của trong ngoài thân năm ấm: sắc, thống (thọ), tưởng, hành, thức. Pháp ngoại trần nhập vào các pháp bên trong như thế nào, Bồ tát đều phân biệt biết mỗi pháp đều là hư giả không thật. Như vậy, này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ phát tâm hoằng thệ lớn độ chúng sanh loại mà không thấy có độ, thật không có chúng sanh huống chi lại có người độ. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập thành tựu Đẳng từ tam muội làm cho tất cả chúng sanh đều được gốc tuệ.
Khi Thế Tôn nói phẩm Đẳng từ này, mười bốn na thuật người đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn, tám ngàn Bồ tát ngay trên tòa ngồi suy tư liền đắc Đẳng từ tam muội.
***
Phẩm 23: PHÁP GIỚI
Bấy giờ Thế Tôn từ lưỡi phóng ánh sáng chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, lại chiếu đến quốc độ của chư Phật ở mười phương, bốn phương góc, phương trên, phương dưới đều được chiếu sáng. Ánh sáng ấy lại chiếu sáng đến tận tám mươi bốn ức hằng hà sa cõi về phương Đông. Chư Phật ở nơi ấy luôn giảng về hạnh Bồ tát thù thắng, không có pháp Nhị thừa, phân biệt thế giới, mỗi thế giới theo thứ bậc. Đức Phật cũng từ thế giới đó đến cõi Nhẫn, do vậy nên phát nguyện tìm đạo không sai loạn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Ta nay tự nhớ lúc ở trong chúng của chư Phật ấy, chư Phật nhất tâm đồng thời nhập diệt. Ta là vị đứng đầu trong chúng ở thế giới ấy. Từ Thị lúc đó có hiệu là Kết Sư Tử, có trí tuệ dõng mãnh, đức độ truyền xa mọi người đều nghe tiếng, sắc mặt vàng chói huyền tịch bảo hùng, tâm luôn từ bi, thệ nguyện trong sạch, cũng như chư Phật Như Lai nhất tâm đồng thời nhập diệt, đúng thời thích hợp đến cõi Nhẫn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng và chúng hội:
– Thế giới của chư phật không thể nghĩ bàn, phương tiện quyền xảo biến hóa thay đổi hình tướng vô cùng. Có phải các ông cho rằng Bồ tát Từ Thị đang tu tập hạnh Bồ tát không? Chớ có nghĩ như vậy. Bởi vì Đức Từ Thị tích lũy công hạnh hằng sa số kiếp, trước kia đã thệ nguyện thành Đẳng Chánh Giác. Ta cùng tu hành mà ở sau vị ấy. Vị ấy hoặc thị hiện tu khổ hạnh, hoặc thị hiện tướng sáng, hoặc thị hiện thân trẻ con làm đệ tử của Bồ tát, tùy theo bổn hạnh của người mà vì họ nói pháp. Đức Bồ tát Từ Thị đang ngồi trên kia.
Đức Phật bảo ngài Di Lặc:
– Ông hãy hiện tướng sáng của Phật và bao nhiêu số đồ chúng tùy tùng.
Khi đó ngài Di Lặc ẩn thân Bồ tát hiện trở lại thân Phật và cảnh giới Phật quốc, số đệ tử Bồ tát không thể nghĩ bàn. Các vị trong hội thấy như vậy đều vui mừng chưa từng có. Pháp vô hình tự nhiên, sắc tướng tự nhiên, các pháp tự nhiên, tất cả chư Phật cũng tự nhiên. Lúc đó đại chúng lại thấy ở tám mươi bốn ức hằng hà sa số thế giới vắng lặng về phương Đông, chư Phật Thế Tôn đang giảng luận về hạnh thù thắng của Bồ tát gồm một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu. Một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu đó là gì? Bồ tát tu tập pháp môn Bổn tịnh. Người đạt được pháp môn này không nghĩ rằng mình có chứng đắc pháp Bổn tế. Lại có pháp môn Vô ngôn thuyết, Bồ tát đắc pháp môn này dạo cõi hư không mà không ai có thể hay biết. Lại có pháp môn Vô sở đắc, Bồ tát đắc pháp môn này tuy độ chúng sanh mà không thấy độ. Lại có pháp môn Vô sở trì, Bồ tát đắc pháp môn này biết rõ bổn tịnh, trong ngoài không có chủ tể. Lại có pháp môn Danh hiệu, Bồ tát đắc pháp môn này thấy tất cả các pháp là hư giả không thật. Lại có pháp môn Thành tựu, Bồ tát đắc pháp môn này tuy trụ ở hữu vi mà không chấp trước hữu tưởng. Lại có pháp môn Hóa thức, Bồ tát đắc pháp môn này vào cõi vô hình giáo hóa chúng sanh vô hình. Lại có pháp môn Hiện hình, Bồ tát đắc pháp môn hiện vô số hình tướng để giáo hóa chúng sanh. Lại có pháp môn Nhân duyên, Bồ tát đắc pháp môn này vì chúng sanh mà tạo nhân duyên. Lại có pháp môn Pháp thanh, Bồ tát đắc pháp môn này chúng sanh chỉ nghe âm thanh mà không thấy thân Bồ tát. Lại có pháp môn Ly hữu, Bồ tát đắc pháp môn này không thấy pháp chấp đoạn sanh diệt. Lại có pháp môn Giải thoát, Bồ tát đắc pháp môn này không thấy Niết bàn có hướng tịch diệt. Lại có pháp môn Thâm áo, Bồ tát đắc pháp môn này phân biệt kinh điển bí yếu của Như lai. Lại có pháp môn Vô sắc tượng, Bồ tát đắc pháp môn này nhập định Vô sắc mà giáo hóa chúng sanh. Lại có pháp môn Vô quán hạnh, Bồ tát đắc pháp môn này nhập định Vô sắc mà giáo hóa chúng sanh. Lại có pháp môn Vô quán hạnh, Bồ tát đắc pháp môn này không giảng dạy Phật pháp cũng không trụ xứ sở. Lại có pháp môn Sổ tức, Bồ tát đắc pháp môn này không tính đếm các pháp, ngộ rõ tức vô tức. Như vậy, này Tối Thắng, có một ngàn tám trăm pháp môn vi diệu của Đại Bồ tát như thế. Khi ấy chúng hội nghe chư Phật đó giảng nói pháp môn vi diệu, tất cả đều ở ngay chỗ ngồi đạt được Tận tín pháp nhẫn, vô số chúng sanh theo Tiểu thừa đều phát tâm đạo vô thượng bình đẳng.
Bấy giờ Thế Tôn và ngài Di Lặc thâu nhiếp tướng ánh sáng trở về trong nhan diện. Tâm thương xót của Như Lai vòi vọi như thế, khai hóa chúng sanh không thể tính lường, độ cho mỗi người đều có chí hướng lập tâm kiên cố. Lúc đó chúng hội lại khởi niệm nghĩ: “Các nhân giả, chúng ta cùng nhau đều thấy thế giới vắng lặng kia nhưng nay đột nhiên đều không còn. Đó chẳng phải là ảo hóa như ngựa hoang, bóng nước hay sao! Chẳng phải là cảnh mộng, ảnh trong gương mờ ảo không thật hay sao!”. Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của chúng hội liền bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Thế nào Xá Lợi Phất, ông đã từng được nghe Như Lai vì ông mà giảng nói hạnh Thanh văn là pháp hữu vi, là pháp vô vi, là pháp hữu lậu, là pháp vô lậu, là pháp chơn thật, là pháp chẳng chơn thật, là hiện pháp, là chẳng phải hiện pháp, là pháp trần lao, là pháp chẳng phải trần lao, là pháp hữu số, là pháp vô số, là pháp có chấp trước, là pháp chẳng có chấp trước, là pháp hữu tập, là pháp vô tập, là pháp sân hận, là pháp chẳng sân hận, là pháp đáng xả, là pháp chẳng xả, là pháp phàm phu, là pháp chẳng phải phàm phu, là pháp Hiền Thánh, là pháp chẳng phải Hiền Thánh, là pháp ý chỉ thần túc, là pháp chẳng phải ý chỉ thần túc; là pháp căn, lực, giác đạo; là pháp chẳng phải căn, lực, giác đạo; là pháp học, là pháp chẳng học, là pháp Thanh văn, là pháp chẳng phải Thanh văn, là pháp Duyên giác, là pháp chẳng phải Duyên giác, là pháp Bồ tát, là pháp chẳng phải Bồ tát, là pháp Phật, là pháp chẳng phải Phật hay không? Thế nào Xá Lợi Phất, ông từng được nghe Như Lai giảng nói ngôn giáo đó hay không?
Ngài Xá Lợi Phất thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng có.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Ta nay vẫn còn chúng Thanh văn ở đây nên không giảng nói pháp đoạn trừ lậu có duyên tưởng chấp trước huống chi phải diễn nói pháp bí tạng. Việc ấy chẳng phải như vậy. Nói pháp, luận giảng đều không có chỗ trụ, không nói, không dạy cũng không có pháp tưởng. Pháp mà phát ra âm thanh phải chăng là pháp hiện hữu? Thế nào Xá Lợi Phất, Ta nay sẽ nói ví dụ. Người trí do ví dụ mà tự biết. Vì như kẻ sĩ phu dõng mãnh quán cõi hư không đều biết là vô hình, nhưng lại có người có ý mưu toan dùng các màu sắc để vẽ trên hư không, hoặc vẽ hình chư Thiên, hoặc vẽ hình người, hoặc vẽ hình rồng, quỷ, thần, hình Chiên đà la, hoặc vẽ hình súc sanh, côn trùng bay nhảy. Thế nào Xá Lợi Phất, người đó có ý như vậy có thể được không?
Ngài Xá Lợi Phất thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng thể được. Rất khó! Rất khó! Việc đó chưa từng có.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Phương tiện giáo hóa của Như Lai không thể nghĩ bàn. Ngôn giáo thi thiết còn khó hơn điều đó. Vì sao như vậy? Tất cả các hành pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp đạo, pháp thế gian, mười hai nhân duyên và sáu thức thân, bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý; chư Phật ở quá khứ, tương lai, hiện tại đều không có hình tượng, không thể thấy được, không thủ xả cũng không tụ tán, không thể nắm bắt nên không thể đắc. Cảnh giới hư không không tịch không hai. Chư Phật Thế Tôn đến cõi nước các phương vì tất cả chúng sanh giảng nói ngôn giáo, thật không có danh hiệu mà tạm gọi là danh hiệu, thật không có văn tự mà tạm gọi là văn tự, thật không có pháp tánh nhưng tạm nói là pháp tánh.
Lại nữa, này Xá Lợi Phất, Đại Bồ tát dùng quyền phương tiện thích ứng với chúng sanh, tùy theo căn tánh thuở trước của chúng sanh, điều đó mới thật là khó. Nếu có Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di trọn lòng tin pháp hư vô tịch tĩnh như thế, đầy đủ các hạnh thì có thể thành tựu tướng tốt của Như Lai, từ cõi Phật này đến cõi Phật kia theo hầu cận, cúng dường chư Phật Thế Tôn, lại ở chỗ các Đức Phật đó đắc được pháp Cường ký Tổng trì cũng thông đạt nghĩa lý thâm diệu đó; lại chuyển Phấp luân diễn nói pháp để mọi người đều nghe hiểu. Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ đầy đủ bảy pháp không chấp trước. Bảy pháp đó là gì? Ngộ rõ tất cả hiện hữu đều vô sở hữu, không nhiễm chấp hữu cũng không thấy có hiện hữu. Thân tướng hiện tại của mình cũng không có sắc tướng. Thân vô hữu của Phật cũng như vậy, huống gì lại có sắc tướng. Tất cả thế giới không có đầu mối há lại có căn gốc để có thể tìm cầu. Căn tánh của chúng sanh vô cùng vô tận, ai có thể khởi ý đo lường hạnh đó. Pháp tựp nhiên sanh, pháp tự nhiên diệt, lại cũng không thấy có sanh, có diệt. Các pháp như hóa, các pháp như ảo, lại cũng không thấy pháp ảo hóa như ngựa hong. Các pháp tự nhiên, các pháp vô sanh, lại cũng không thấy sanh diệt, trước đoạn. Này Xá Lợi Phất, đó gọi là Đại Bồ tát thành tựu bảy pháp không chấp trước thì có thể đầy đủ tất cả các hạnh, dần dần thành tựu địa vị Bồ tát, ngồi tại cội Phật thọ hàng phục ma oán, tích lũy công đức, đầy đủ tướng sáng. Bồ tát từ đệ nhát trụ địa đến thập trụ địa, trong khoảng thời gian ấy tâm chưa từng thoái chuyển, luôn được chư Phật hiện thân ủng hộ. Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lau la, Chiên đà la, Ma hưu lặc cúng dường hương hoa, trổi xướng kỹ nhạc, dựng treo phướn lọng giúp Bồ tát thêm công đức, sức oai thần tiếp độ tự thăng đạt đạo Vô thượng chí chơn.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Ta nhớ khi xưa tu Bồ tát đạo, Ta hoặc làm thân trẻ con, hoặc làm thân Phạm Thiên, có khi xuất gia tu tập luật pháp Sa môn, đã cúng dường hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn. Ta dùng đầu mắt, quốc tài, vợ con, hoặc dùng tứ sự: thuốc men… cúng dường, chỉ nghe chư Phật luận giảng nghĩa khổ, không, phi thân (vô ngã); hoặc nói sáu pháp Ba la mật, pháp không, vô tướng, vô nguyện; hoặc nói pháp cấm giới học đạo, hoặc giảng dạy pháp nhẫn nhục nhân hòa. Ta có khi ẩn thân suốt kiếp không xuất hiện, hoặc nhập thiền định, toàn thân không lay động đều do nội pháp chưa thành tựu.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Xưa kia Ta từ thế giới vắng lặng tịch tĩnh của chư Phật Thế Tôn đã được nghe pháp thâm diệu đó. Các vị Bồ tát tụ họp đến đúng thời đều đạt được Nhu thuận pháp nhẫn. Khi ấy có hai vạn bốn ngàn chúng sanh ngồi tại pháp hội ngay lúc đó liền đắc Bất khởi pháp nhẫn. Chư Phật quá khứ, vị lai và chư Phật hiện tại cùng tuyên dương, truyền giảng pháp thâm diệu không chỗ trụ, lại cũng không thấy ngã, nhân, thọ mạng; quán sát chúng sanh có căn tánh thuần thục, chúng sanh có tưởng thì dùng pháp vô tưởng để giảng dạy, chúng sanh có niệm thì dùng pháp vô niệm để giáo giới. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, khéo giữ gìn pháp thâm áo này, lại truyền dạy cho người khác thì phước đức, công đức của người ấy không thể xưng lường. Nếu có người tu học đạo Bồ tát, tâm từ, bi, hỷ, hộ (xả) thương xót tất cả chúng sanh, muốn họ thành tựu lên đến Bồ tát vị thì phải tu trì pháp tạng thâm áo này. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ đầy khắp ba ngàn thế giới thọ trì năm giới, tu tập đầy đủ mười thiện hạnh, bốn thiền, bốn đẳng tâm, bốn pháp Không thì không bằng một người được nghe pháp thâm áo này. Nếu vị ấy không thể tư duy nhiều thì cũng trong vòng bảy ngày, nếu không thể trong vòng bảy ngày thì trong sáu, năm, bốn, ba cho đến một ngày; nếu không thể trong vòng một ngày thì chỉ trong khoảnh khắc khảy móng tay có thể (đạt đạo). Thế nào Xá Lợi Phất, nếu hàng Thanh văn của ông đầy khắp mười phương thế giới cúng dường tứ sự: y phục, thức ăn uống, đồ nằm giường chiếu và thuốc men trị bệnh suốt trong ức ức kiếp, lại hơn ức ức kiếp đó nữa thì cũng không bằng một người nghe pháp thâm áo này. Vì sao như vậy? Vì pháp đó là pháp tập hợp tất cả pháp tạng trân bảo của Bồ tát. Nếu diễn nói nghĩa một câu, nghĩa của vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), ba pháp môn giải thoát và bốn pháp minh tuệ; pháp không, vô tướng, vô nguyện; hạnh hư tịch, tất cả các hạnh không sanh, không khởi, không diệt; bậc Đại Bồ tát như thế thì được an ổn, được vô lượng đức hạnh, phước không thể hạn lượng, không gì có thể ví dụ so sánh được. Nếu có Bồ tát dùng thân không ngăn ngại giới hạn tu tập pháp hữu vi, giáo hóa chúng sanh khiến họ được mãn nguyện, nhưng các loại chúng sanh đó chưa từng được nghe đạo pháp vô vi, muốn đạt được pháp thâm áo của Bồ tát thì việc đó không thể có. Nếu có Bồ tát nhập định ý chánh thọ từ vô lượng pháp tuyên duyên truyền bá kinh pháp thâm áo (để chúng sanh) nghe pháp vô vi, các pháp hư không đều vô sở hữu thì mới chính là nghĩa lý sâu xa, không pháp nào có thể sánh bằng. Cho nên Bồ tát nếu muốn đầy đủ nguyện của chúng sanh, muốn nói nghĩa lý này cho người khác, lại muốn tuyên xướng pháp bí yếu của Bồ tát Như Lai, muốn khiến chúng sanh thành tựu chứng đắc Tứ quả thì phải luôn nhớ nghĩ học tập pháp thâm yếu này.
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Thuở xưa Ta vì thực hành Bồ tát đạo nên đi khắp nơi tham học, luôn tu tập sáu pháp Ba la mật, bốn pháp đẳng tâm, tâm đại từ thương tưởng chúng sanh, diễn nói pháp nghĩa vị cam lộ, hoặc diễn nói ngôn giáo, hoặc im lặng như Hiền Thánh, hoặc hiện thần túc, hoặc dùng pháp quyền phương tiện khéo léo, hoặc dùng năm đạo thần thông, hoặc dùng đạo Nhất thừa đi khắp nơi truyền giảng, hoặc hiện thân Bích chi mang bát bay lên hư không, hiện thân Thanh văn nhận lãnh ngôn giáo, hoặc hiện thân trẻ con như thể không biết gì. Xá Lợi Phất nên biết, Bồ tát giáo hóa dùng phương tiện hiện hóa khắp nơi không thể cùng tận, tùy theo tập tục thế gian, tùy theo tánh loại mà vào, thể nhập tánh của đất cũng thể nhập tánh của nước, thể nhập tánh của lửa cũng thể nhập tánh của gió. Bồ tát phân biệt nguồn gốc của bốn đại đều không có chủ tể, phân biệt trong ngoài địa giới là hư tịch. Thủy, hỏa, phong, giới cũng như vậy. Bồ tát lại quán chúng sanh có dâm, nộ, si hay không có dâm, nộ, si; có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có ý kiêu mạn hay không có ý kiêu mạn, có tâm định hay không có tâm định, có tâm loạn hay không có tâm loạn. Bồ tát đều phân biệt rõ, hoặc dùng pháp An ban thủ ý, hoặc dùng pháp quán ác lộ bất tịnh, hoặc dùng pháp Niết bàn diệt tận, hoặc dùng pháp hữu vi, vô vi; hoặc dùng pháp hữu lậu, vô lậu; hoặc dùng pháp thế gian, hoặc dùng pháp đạo, hoặc dùng đạo thần thông lậu tận để giáo hóa họ. Ta từng đến, ở tại thế giới Thông Tuệ vì một chúng sanh nhập thiền định thân tâm bất động, không màng khổ khó chờ đợi để giáo hóa. Chúng sanh đó đâu phải ai khác. Ông chớ có nghĩ khác. Ông muốn biết người đó thì nay chính là Bồ tát Tối Thắng. Bồ tát Tối Thắng ở thế giới Thông Tuệ sanh vào nhà giàu sang, do công đức tích lũy từ xưa nên không sanh vào nhà nghèo túng khốn khó, một đời, hai đời cho đến trăm ngàn đời, cho đến mười hai trung kiếp khi sanh luôn ở tại nhà giàu sang, không ở chỗ thấp hèn. Ta cũng ở cách đó không xa, nhập định quán tâm ý mình suốt trăm ngàn kiếp mà không ngộ được một câu pháp thâm áo. Sau đó Ta mới có thể tự ngộ, tâm hoát nhiên khai ngộ, tự trở về tự thân, mong được nghe vô lượng kinh pháp thâm diệu, rồi vì chúng sanh nói pháp tạng bí yếu vô tận, gọi là Pháp tạng vô tận phân biệt âm thanh, hoặc dùng một âm thanh làm vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc dùng một câu mà ứng hợp với tâm niệm tất cả chúng sanh, âm thanh từ ngôn giáo phát ra vượt hơn cả Phạm âm. Lại có pháp Lục thông vô tận tạng, đến cõi nước chư Phật mười phương thừa sự, cúng dường các Đức Như Lai Thế Tôn, nhận lãnh pháp thâm diệu khó có, tu tập các khổ hạnh, hơn thế nữa còn tinh tấn trì giới, nhẫn nhục; tinh tấn tu tập pháp thiền định nhất tâm, pháp trí tuệ phương tiện khéo léo. Lại có pháp tạng vô tận khéo đạt được bốn pháp ý chỉ. Bốn pháp ý chỉ là pháp hạnh vô lậu. Pháp ý chỉ là con đường tắt đưa đến Niết bàn. Ngoài ra, pháp tu tập của phàm phu còn có bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám đạo Hiền Thánh, quả chứng báo ứng đều vô sở hữu cũng không thấy có. Đó gọi là pháp tạng vô tận của Bồ tát. Pháp nào là pháp rốt ráo ánh sáng bình đẳng, khéo giảng bổn tánh là pháp rốt ráo? Tu tập pháp tánh tướng là pháp rốt ráo? Tâm tư duy là pháp rốt ráo? Tư duy năm ấm là pháp rốt ráo? Thấy rõ mười hai nhân duyên là pháp rốt ráo? Biết trong ngoài bốn đại là pháp rốt ráo?
Ngài Xá Lợi Phất thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải. Các pháp mà Như Lai vừa nói chẳng phải là pháp rốt ráo.
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Lại có bốn pháp sự giáo hóa vô tận, là pháp môn biện tài. Bốn pháp ấy là gì? Một là phân biệt trí tuệ vô tận. Hai là phân biệt trí tuệ sáng vô tận. Ba là tư duy nhớ rõ pháp Tổng trì. Bốn là phân biệt biện tài không ngoài. Này Xá Lợi Phất, đó gọi là bốn pháp tạng vô tận mà Bồ tát phải tu hành. Lại có bốn pháp tạng vô tận không thể thọ trì. Bốn pháp ấy là gì? Một là tâm tánh khó giữ gìn, phóng dật không an trụ. Hai là tâm đạo khó giữ gìn, bổn tánh rất sâu xa. Ba là thể nhập các pháp Bổn tế tu tập không rốt ráo. Bốn là thể nhập tâm ý chúng sanh biết rõ pháp vô. Đó gọi là tạng vô tận của Đại Bồ tát.
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Bồ tát lại có bốn pháp tạng vô tận, là pháp môn biện tài. Bốn pháp ấy là gì? một là chí nguyện kiên cố không chấp trước theo tà giáo. Hai là bổn hạnh thanh tịnh không khởi trần lao. Ba là theo ngôn giáo của chư Phật quá khứ an lập tâm nhẫn vô hại. Bốn là tùy duyên tạo hạnh không mất thệ nguyện của mình. Đó gọi là pháp môn biện tài, pháp tạng vô tận mà Đại Bồ tát ở dưới cội đạo thọ hàng phục ma oán, ý không khiếp nhược. Lại có bốn pháp tạng vô tận là pháp môn vận chuyển bánh xe Chánh pháp. Bốn pháp ấy là gì? Một là lời nói chí thành không hủy báng người khác. Hai là ngộ rõ rốt ráo pháp duyên khởi, biết rõ các pháp từ đâu sanh. Ba là giáo huấn chúng sanh trọn không có tâm mệt mỏi lười chán. Bốn là phân biệt trí tuệ sáng thăng lên Bồ tát vị. Đó gọi là pháp tạng vô tận không hủy pháp giới của Bồ tát, là pháp Đại Bồ tát luôn tu tập thực hành.
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Đại Bồ tát lại có bốn pháp tạng vô tận thành tựu pháp giới. Bốn pháp ấy là gì? một là ngộ rõ pháp giới, thông đạt đường qua lại. Hai là ngộ rõ pháp tánh biết rõ là vô sở hữu. Ba là phân biệt nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Thế nào là nhục nhãn? Quán thấy hình sắc không khởi nhãn thức. Thế nào là thiên nhãn? Thiên nhãn là nhìn hình sắc của chư Thiên không thấy báo ứng. Tuệ nhãn phân biệt không thấy trần lao. Pháp nhãn thanh tịnh đầy đủ sáu pháp Ba la mật. Phật nhãn quán thấy thông đạt rõ ràng tướng, vô tướng. Bốn là ngộ rõ báo ứng, không chấp trước ba cõi. Đó gọi là pháp tạng vô tận thành tựu pháp giới của Đại Bồ tát.
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Đại Bồ tát lại có bốn pháp tạng vô tận. Bốn pháp ấy là gì? Một là tinh tấn nhưng tâm ý không định, hai là có tâm cầu trí tuệ hay không có tâm cầu trí tuệ, ba là ý hữu tận hay ý vô tận, bốn là hữu đắc ý hay vô đắc ý, Bồ tát đều phân biệt trong ngoài đều vô sở hữu. Cho nên, này Xá Lợi Phất, Bồ tát thực hành phương tiện đi khắp nơi giáo hóa phải lấy hạnh tinh tấn làm đầu, tu hành cấm giới, lấy sức tinh tấn làm gốc, từ chư Phật Thế Tôn cầu tích lũy công đức, nghe pháp hoan hỷ tập hợp trí tuệ sáng, truyền bá đạo giáo nhưng cũng không thấy có ngôn giáo, các pháp tương lai, quá khứ hay hiện tại. Trí tuệ quán kiên cố mới là giáo hóa chơn thật. Như Lai giảng nói không dùng văn tự. Văn tự thanh tịnh thì nói pháp cũng thanh tịnh. Đó là tích lũy công đức trí tuệ, thành tựu tâm nhẫn nhục kiên cố, tâm an trụ không thoái chuyển. Này Xá Lợi Phất, đó gọi là không vì tham sắc cũng không nương tựa sắc, chẳng phải không có sắc, ngộ rõ sắc vô sắc. Vì vậy gọi là pháp tánh. Giả sử chúng sanh ở ba ngàn đại thiên thế giới xông hương, mang phướn lọng, lụa gấm láng mịn đến cúng dường, Bồ tát cũng không vì thế khởi niệm vui mừng mà xa lìa, tâm giải đãi, không có tâm khiếp sợ, trừ bỏ niệm tham loạn và sân khuể, thành tựu tâm Chánh giác bình đẳng, truyền giảng pháp bí yếu thì mới thành tựu Phật quả. Bồ tát xả bỏ thân mạng, an lập tâm hoằng thệ thay chúng sanh nhận lãnh khổ não cho họ, siêng năng vui với pháp, hướng dẫn chúng sanh đi vào nhà Chánh pháp tu tập đạo. Chư Thiên chứng minh; Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân đều đến cúng dường. Các vị thiện năm, thiện nữ phụ tá khuyến trợ Bồ tát thành Phật, phát trọng nguyện kiên cố thành tựu trí tuệ không thoái chuyển, độ những kẻ có nhân duyên rơi vào ba đường ác, không nhận thức phân biệt, không giác ngộ cũng không đạt pháp rốt ráo. Này Xá Lợi Phất, đó gọi là Đại Bồ tát tu tập pháp vô tưởng niệm, tu tập pháp không có ngôn giáo nên mới đạt được Thánh giáo của Như Lai.
Bấy giờ các vị ngồi trong hội nghe pháp sâu xa nay đều phát tâm vô thượng bất thối chuyển địa. Khi ấy ngài Xá Lợi Phất ở trước Đức Phật thưa:
– Các vị ngồi trong hội nghe pháp, các vị ấy phải chăng rất lâu nữa mới được thành Phật?
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Các vị đó trong hai trăm vô ương số kiếp nữa sẽ thành Phật, đều đồng một hiệu là Vô Cấu Siêu Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu là Phật, Thế Tôn. Thế giới tên là Thanh Tịnh, kiếp tên là Nan Độ. Thế giới của các Đức Phật ấy chỉ có Nhất thừa, không có tên Thanh văn, Bích chi Phật, thường luận giảng về vô lượng đức hạnh của Bồ tát. Cõi ấy đất đai bằng phẳng, không có núi sông, gò nổng, suối khe, hang lạch; có vô số loại màu sắc như y cõi trời, không dùng ánh sáng của mặt trời, mặt trăng mà tự soi sáng bằng ánh sáng trên thân tướng phản chiếu lẫn nhau. Chúng sanh có công đức rộng lớn, niệm nghĩ vô số tưởng. Vì sao như thế? Là vì pháp giới ấy không có sai biệt, trái nghịch. Chúng sanh ở cõi Phật đó ăn cam lộ tự nhiên, vận y kiếp ba, ở chỗ an lạc như chư Thiên ở cõi trời thứ sáu. Đất đai màu mỡ, ngũ cốc đầy ngập, có đầy đủ bảy loại báu: vàng, bạc, xa cừ, mã não, chơn châu, hổ phách. Có vị Chuyển luân Thánh vương tên Bạch Vũ Hoa, có bảy thứ báu đi theo. Bảy thứ báu đó: Một là bánh xe báu. Bánh xe báu này ngang dọc mười bốn khuỷu tay, toàn bằng bảy báu. Bánh xe có ngàn tăm. Mỗi cây tăm đều liên kết với nhau. Ý của vua muốn sang phương Đông, bánh xe liền đi trước. Hai là voi báu. Voi báu này màu sắc như tuyết trắng, miệng có sáu ngà; mỗi ngà đều liên kết với nhau. Vua muốn cưỡi voi dạo xem thế giới, trong khoảnh khắc khảy móng tay liền đến ngay thế giới đó không khó khăn. Ba là ngựa báu. Ngựa báu này thân màu xanh biếc, lông đuôi màu đỏ, chạy trên không chân không chạm đất. Ngựa này hí một tiếng thì thế giới chấn động, mọi loài đều nghe. Ý vua muốn cưỡi ngựa đi về bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc thì trong khoảnh khắc khảy móng tay đều đi khắp nơi. Bốn là ngọc nữ báu. Ngọc nữ báu này, thân tỏa mùi hương của hoa sen Ưu bát, miệng tỏa mùi hương Ngưu đầu chiên đàn. Thân toàn là thịt không có xương, thân tướng đoan chánh, không mập, không ốm, không cao, không thấp, không trắng, không đen, có đầy đủ dáng thùy mị nữ tính và sáu mươi bốn pháp biến hóa. Ý vua muốn gần gũi thì ngọc nữ liền hiện trước mặt. Năm là ngọc báu. Ngọc báu này ngang ba nhận, cao bảy nhận. Ý vua muốn thử ngọc báu này nên lúc đêm tối không người triệu tập bốn loại binh mã đến, treo ngọc báu này trên đài cao vạn trượng. Ánh sáng của ngọc đó soi sáng khắp thế giới, không nơi nào không sáng. Ngọc ấy tự do qua lại theo ý niệm của vua. Sáu là vị thần báu cai quản kho tàng. Khi đó Chuyển luân Thánh vương có ý muốn đi dạo các nơi trên thế giới. Trên đường đi băng qua một biển rộng sâu không đáy, ý vua muốn thử vị bảo thần cai quản kho báu liền truyền lệnh dừng ngay giữa biển: “Ta muốn tạm nghỉ ngơi”, rồi lệnh cho vị bảo thần: “Nay ta muốn vật báu vàng, bạc, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Khanh có thể làm được không?”. Vị bảo thần cai quản kho tàng liền quỳ ngay trên mặt nước, dùng móc câu dưới nước lên tùy theo ý niệm bảy báu tự đến. Bảy là vị bảo thần thống lãnh quân đội. Nói về vị bảo thần thống lãnh quân đội, khi đó ý vua muốn tập hợp bốn loại quân binh liền bảo vị bảo thần thống lãnh quân đội: “Ta muốn kiểm tra bốn loại quân binh”. Ngay lập tức vị bảo thần ấy không dời chuyển mà có thể làm được ngay. Vị bảo thần lại tâu vua: “Không rõ ý Thánh vương muốn bao nhiêu binh?”. Vua nói: “Ta cần trước, sau, phải, trái, mỗi phía đều có một vạn hộc binh”. Khi ấy vị bảo thần thống lãnh quân đội theo lệnh vua, như lời vua nói, truyền bốn loại binh tập hợp. Bốn loại binh đó là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh. Mỗi loại quân binh đều sắp theo hàng mười. Bốn loại quân binh đều như thế.
Bấy giờ Đức Phật bảo ngài Tối Thắng và chúng hội:
– Vị Chuyển luân Thánh vương lúc đó đâu phải ai khác. Chớ có nghĩ khác! Vì sao? Vì đó chính là thân của Bồ tát Tối Thắng hiện nay. Lúc đó Chuyển luân Thánh vương có sức thần biến hóa, lời nói êm dịu, nhân dân đều vâng theo pháp âm tâm vắng lặng đạm bạc. Vua giảng nói pháp Ba la mật, pháp bốn ân, bốn đẳng âm, sáu trọng pháp, pháp quyền phương tiện khéo léo nhập Diệt tận định, pháp lìa dục không cấu nhiễm; pháp không, vô tướng, vô nguyện; pháp không sanh diệt, pháp không chấp trước. Nếu có chúng chư Thiên, người thế gian ở trong cõi đó còn mê mờ, vua phân biệt thánh tuệ đạo căn vô lậu, hoặc dùng thanh âm truyền dạy pháp sáng, hoặc dùng pháp khổ đế truyền dạy đưa họ vào pháp luật, hoặc dùng thần túc biến hóa ánh sáng để truyền dạy, muốn đưa chúng sanh dần dần đạt đến rốt ráo.
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất:
– Tất cả chúng sanh đều không có tướng ngã, nhân. Các pháp vốn thanh tịnh, các pháp không hình tướng. Không chấp đoạn pháp thì các pháp không hoại. Quán rõ cõi Phật đều không sở hữu. Lại nữa, này Xá Lợi Phất, mười hai nhân duyên, năm ấm, sáu suy đều không hình tượng. Tám loại âm thanh của Như Lai không phải thanh âm của nam, không phải thanh âm của nữ, không phải thanh âm mạnh to, không phải thanh âm nhẹ nhàng, không phải thanh âm trong trẻo, không phải thanh âm khàn đục, không phải thanh âm hùng tráng, không phải thanh âm lả lướt. Đó là do (Như Lai) thọ pháp đàn độ nên chứng được thật quả, ngộ biết thanh tịnh chiếu khắp pháp giới. Như Lai hoặc dùng một âm mà vang khắp ba ngàn thế giới mười phương. Ta từng đến trụ tại thế giới Dã Mã cách đây bảy mươi hai ức hằng hà sa số các cõi Phật. Ở nơi đó, Đức Như Lai phát ra âm thanh lớn vang khắp cõi Phật. Trăm ức chúng sanh nghe được âm thanh đó đều an lập tâm không thoái chuyển, đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Khi ấy vị đệ tử của Ta tên Mục Liên, đứng đầu về thần túc, lên trên một ngọn núi Tu di, lại lên trên một ngọn núi Tu di nữa. Như thế trải qua nhiều kiếp chân vị ấy không chạm đất. Lúc đó Mục Kiền Liên ở thế giới Dã Mã phát ra âm thanh lớn vang khắp ba ngàn thế giới mười phương. Trong âm thanh đó diễn nói như vầy: “Như Lai nói pháp hạnh chưa từng có cũng không thấy hạnh, chẳng phải không có hạnh. Ngộ rõ hạnh, vô hạnh nên gọi là thanh tịnh. Các pháp không hình tượng cũng không có âm vang. Đức Như Lai lại nói pháp Tứ đế pháp tánh như thị, giải rõ khổ, vô khổ, không trụ khổ. Trí thể nhập như thế gọi là khổ trí. Nhân Tập nên giải rõ nguồn gốc của Tập, vô Tập. Do không thấy có Tập nên gọi là Tập trí. Biết nơi chốn của Tận, do Tận mà sanh, do Tận mà diệt, cũng không thấy Tận. Đó gọi là Tận trí. Đạo vô vi là không thấy chỗ trụ, là pháp được chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai ca ngợi. Pháp của Đức Phật hiện tại nói không có đạo. Pháp của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng như thế. Đạo không có hình tượng, không thể nhìn thấy. Ngộ rõ đạo, vô đạo nên gọi là Đạo trí. Đó gọi là Đại Bồ tát phân biệt nghĩa của đạo”. Lúc ấy tất cả loài chúng sanh ở thế giới Dã Mã đó chỉ nghe âm thanh mà không thấy thân tướng. Đại chúng đó đều ngạc nhiên tự nghĩ: “Đây là người nào mà phát ra âm thanh chấn động thế giới, lại còn diễn nói nghĩa lý thâm áo?”. Lúc ấy Đức Như Lai đó biết tâm niệm của chúng sanh liền bảo Mục Liền: “Ông hãy xả thần túc, hiện lại thân tướng ở trước chúng sanh kia”. Mục Kiền Liên liền nhập Như kỳ tượng đột nhiên hiện thân trở lại trong đại chúng. Các vị Bồ tát ở đó, thân cao tám vạn bốn ngàn do tuần. Thân Phật cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần. Chúng hội trông thấy Mục Liên thân vận y, mang bát, tướng trạng giống như các vị Sa môn, ngạc nhiên, lạ lùng chưa từng có tự hỏi: “Đây là thân tướng gì? Là súc sanh hay là người?”. Lúc đó Đức Phật ấy biết tâm niệm của chúng hội liền nói với chúng hội: “Các ông chớ sanh tâm đó! Vì sao như vậy? Cách đây bảy mươi hai ức hằng hà sa số cõi Phật có cõi Phật tên là Nhẫn. Cõi đó có Đức Phật tên là Thích Ca Văn Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ở trong đời ngũ trược xuất hiện thế gian, luôn dùng văn tự truyền dạy cho chúng sanh. Con người thọ trăm tuổi, quá hơn nữa không có bao nhiêu. Đức Phật đó dùng pháp Tứ đế chí chơn phân biệt nghĩa lý nên giảng nói pháp trí tuệ không trụ xứ, không chấp trước. Tỳ kheo Mục Liên là vị đệ tử bậc nhất thần thông của Đức Phật đó”. Đức Phật ấy lại bảo Mục Liên: “Ông hãy hiện thần túc. Đại chúng trong hội này có ý muốn xem”. Khi ấy Mục kiền Liên vâng lời Phật dạy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễ chân Phật rồi đột nhiên biến mất, nhập Vô ngại tam muội định ý, đỡ lấy toàn bộ cõi nước của chư Phật ở mười phương đặt trên bàn tay phải, tay trái lấy cõi Phật đó treo giữa hư không. Mỗi vị trong hội đều thấy thần túc của Mục Liên, muốn thấy thân tướng của Mục Liên nhưng không thể thấy được. Bấy giờ các vị Bồ tát đó suy nghĩ nên tự đến quy mạng Đức Phật Thế Tôn kia, cầu mong Đấng Thiên Sư sẽ hiện cứu tế. Đức Phật bảo không khổ thì hoàn toàn không có tổn giảm. Khi đó Đức Phật ấy bảo Mục Liên: “Mục Liên hãy dừng lại! Hãy xả thần túc đó để thô thức của các Bồ tát này trở về đạo tích”. Lúc ấy Mục Liên vâng lời dạy của Đức Phật liền xả thần túc trở lại chỗ ngồi như trước. Các vị Bồ tát đó ở trước Đức Phật thưa: “Đức Phật Thích Ca Văn ở cõi Nhẫn kia dùng giáo pháp gì để hóa độ? Nói pháp như thế nào? Lại dùng đạo gì để giáo huấn chúng sanh? Dùng quyền trí gì để qua lại dạo khắp?”. Đức Phật bảo các Bồ tát: “Chúng sanh cõi đố tánh cang cường khó hóa độ, luôn tranh luận phải trái với nhau, mỗi người đều tự cho mình là tôn quý. Do đó Đức Như Lai dùng giáo lý khổ để đưa họ vào cửa đạo. Giống như rồng chúa và ác thú ngang ngạnh không thuần phải dùng gậy đánh khiến chúng biết khổ đau, sau đó chúng mới thuần hòa chịu để cho voi cưỡi. Chúng sanh ở quốc độ đó cũng như vậy, Đức Phật dùng vô số ngôn giáo để độ thoát cho họ, hoặc dùng khổ âm nói âm thanh khổ. Tập, Tận, Đạo cũng như vậy”. Bấy giờ các Bồ tát khen là việc chưa từng có: “Lành thay! Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, hạnh tinh tấn khổ khó của Đức Phật Như Lai ấy thật là khổ khó, ở trong đời nhiệt não như năm đỉnh nước sôi có thể giáo hóa chúng sanh, truyền giảng đạo lớn, là pháp diệt tận, vắng lặng khiến chúng sanh đều quy về giải thoát”.
***
Phẩm 24: ĐẠO TRÍ
Bấy giờ trăm ức chúng sanh ngồi trên tòa và các Bồ tát, người trong đại hội cùng Trời, Rồng, Thích, Phạm Tứ vương, chư Thiên của các cõi trời Đâu Thuật, Diễm Thiên, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại cho đến chư Thiên cõi trời Nhất Cứu Cánh, mỗi vị đều nghi hoặc: “Chúng ta muốn được nghe giảng nói về pháp thâm yếu của đạo Chí chơn, nhưng là đạo vô tướng nên không thể thấy. Vậy sao Như Lai nói có đạo?”. Khi ấy Thế Tôn biết tâm niệm của các vị trong hội, liền bảo Bồ tát Tối Thắng:
– Các ông muốn được nghe Như Lai giảng nói về pháp thâm yếu của đạo Chí chơn vi diệu không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Đúng như vậy. Bạch Thế Tôn, chúng con vui muốn nghe.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng và các Đại Bồ tát cùng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A tu luân, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân:
– Nên ngộ rõ đạo là không dấu tích, vắng lặng, không tên gọi. Này Tối Thắng, giả sử đạo có chỗ trụ thì Đại Bồ tát không ở trong pháp bình đẳng thành Bậc Tối Chánh Giác. Do biết được quả ấy không chỗ trụ nên Đại Bồ tát thành tựu Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Đạo trí định ý của Bồ tát có mười pháp. Mười pháp đó là gì? Không tạo thân hành cũng không bị chấp trước. Không tạo khẩu hành cũng không bị chấp trước. Không tạo ý hành cũng không bị chấp trước. Đến cảnh giới Phật không khởi tưởng Phật. Giáo hóa chúng sanh đạt được trí vô ngại. Đều độ cho chúng sanh mê mờ hiểu rõ đạo và vô đạo. Lại độ cho chúng sanh thành tựu Tối Chánh Giác. Phóng ánh sáng lớn chiếu khắp nơi, trong mỗi ánh sáng có vô lượng Đức Hóa Phật, mỗi Đức Hóa Phật diễn nói sáu pháp Ba la mật vô cùng sâu xa. Luôn chuyển Pháp luân phát Bồ đề tâm. Ngộ rõ ngã, vô ngã cũng không có thọ mạng. Thân tâm tự nhiên mới gọi là đạo. Tự nhiên đó là ngộ rõ đạo vô trí cũng không có trí. Giác ngộ và pháp vô sở giác đều không thấy có giác ngộ. Nói ngô là đạo thì cũng không thấy ngô. Nói ngã là đạo thì cũng không thấy ngã. Ngã, nhân, thọ mạng cũng như vậy. Tất cả chúng sanh cũng không có hình tượng.
Khi đó Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Nếu nói đạo không hình tướng nên không thể thấy thì như hiện nay vì sao lại chuyển Pháp luân, diễn nói pháp chứng đắc bốn đạo quả là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán và pháp Bích chi Phật, Bồ tát, Phật quả? Vì sao nói pháp năm ấm rồi lại nói pháp bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám đạo Hiền Thánh? Vì sao nói làm thanh tịnh cõi Phật giáo hóa chúng sanh, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác trí tuệ phân biệt sáu thức Cánh lạc (Xúc)? Vì sao lại nói pháp bốn đẳng tâm, sáu pháp Ba la mật, pháp tánh chơn như, các pháp này đều có tên gọi là đạo?
Bấy giờ Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Theo lời ông hỏi, Đại Bồ tát ngộ rõ trí tuệ của Phật với năm phần Pháp thân và bao nhiêu pháp phương tiện khéo léo đều không thấy động chuyển. Thấy động chuyển thì chẳng phải là nghĩa của đạo. Xa rời tất cả pháp nương trụ, suy tìm pháp giới đó thì cũng không có pháp giới. Vì pháp vốn thanh tịnh nên phương tiện chuyển Pháp luân. Ngộ rõ, không chấp trước tất cả pháp cho nên, này Tối Thắng, các Đại Bồ tát với tất cả pháp đều không có tâm chấp trước, không thấy sanh cũng không thấy diệt. Cõi Phật thanh tịnh nên chúng sanh cũng thanh tịnh. Hiển bày vô lượng trí tuệ quang minh cho nên Đại Bồ tát lập hạnh tương ưng với pháp Tổng trì, tâm không thoái chuyển, lên Bồ tát vị, hoặc nhập định ý chánh thọ giáo hóa chúng sanh làm thanh tịnh cõi nước Phật. Vì tâm chuyên nhất tu tập nhẫn không có vô số đạo nên không nói pháp trí, chỉ tạm gọi là trí. Bồ tát Đại sĩ phải nhớ nghĩ tu hành hóa độ những người chưa giác ngộ nhưng đều không có thức tưởng. Này Tối Thắng, đó gọi là thể nhập tâm định chuyên nhất, đạo trí thanh tịnh, tất cả trí đều không có trần lao, điều phục người chưa được điều phục mà không suy tính khổ vui, là thường hay vô thường, là tốt hay xấu. Bậc có trí tuệ không loạn đều không có tưởng chấp trước mong cầu đầy đủ Phật tạng ở mười phương. Với các pháp Tứ vô sở úy, Tứ phân biệt tuệ, đại từ, đại bi, pháp tánh chơn như đều không sở hữu, đều là pháp rỗng không, đều là pháp vắng lặng. Bồ tát vì phân biệt báo ứng, đạo trí chí thành, không khởi tưởng diệt nên gọi là không, vô tướng, vô nguyện; cũng không có pháp sanh. Này Tối Thắng, vì vậy nên pháp thâm yếu của đạo Chí chơn của Đại Bồ tát, nếu luận về đạo thì tức là cõi hư không. Do vậy nên đạo tức là Không, Không tức là đạo, là một chứ không phải hai cũng không phải vô số.
Lúc ấy Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Lành thay! Lành thay! Vui thay được nghe pháp Thế Tôn giảng.
Khi đó Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân ở trong hội, tâm tự nghĩ: “Hôm nay Như Lai vì chúng hội tuyên nói pháp Đạo trí không gì sánh bằng, chúng sanh tuy theo chí hướng tu tập của mình đều được mãn nguyện. Vị Bồ tát Tối Thắng kia khi sẽ sẽ thành tựu đạo Vô thượng Tối Chánh Giác?”. Đức Phật biết tâm niệm của chư Thiên, Long, Thần… liền bảo bốn bộ chúng:
– Vị Bồ tát Tối Thắng này sau vô số ba trăm ba mươi A tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật hiệu là Minh Tuệ Chí Chơn Như Lai Đẳng Chánh Giác. Thế giới tên là Vô Lượng. Kiếp tên là Thanh Tịnh. Chúng đệ tử theo Đức Phật Như Lai đó có chín ngàn chín trăm chín mươi hai ức vị, thọ một trăm hai mươi tiêu kiếp.
Lúc ấy chúng hội nghe Đức Phật thọ ký cho Bồ tát Tối Thắng, mỗi người tự phát nguyện ưa muốn được sanh về thế giới của Đức Phật ấy. Đức Phật liền bảo:
– Theo tâm nguyện của các ông chắc chắn sẽ sanh về cõi đó không nghi.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Nay chúng trong hội này phần nhiều là chư Thiên cõi Đao Lợi thường cùng A tu luân giao tranh. Có khi chư Thiên thắng, A tu luân bại. Có khi A lu tuân thắng, chư Thiên bại. Hai bên giao tranh, mỗi bên đều bị tâm oán hận buộc ràng, mỗi bên đều có tâm giận dữ độc hại mà không thể lìa bỏ.
Ngài Tối Thắng thưa:
– Kính mong Đấng Thiên Tôn dùng quyền phương tiện nói pháp đạo trí hư không cho họ để chư Thiên nhân và A tu luân, mỗi bên đều hòa hợp khởi tâm từ bi.
Khi ấy Thế Tôn bảo các vị trong hội:
– Đạo là vô hình nên cũng không thể thấy. Ba độc căn bản vĩnh viễn không có khởi đầu kết thúc. Ở thế gian tu tập đạo chỉ có tín là mạnh mẽ. Người tu tập tâm Từ thì thiện thần hộ vệ, chư Phật mười phương đều khen ngợi. Đời này, đời sau tích đức vô lượng. Các loại chúng sanh có hình tướng bò, bay, máy, cựa trong cõi Diêm phù lợi này đều phải quy về pháp diệt tận. Sanh mạng như điện chớp cũng như ngựa hoang, ảnh trong gương, chùm bọt trên mặt nước, hội họp thì có chia ly, sanh chắc chắn phải có chết. Các vị dã nhận lãnh thân hình thì không tránh được nạn đó. Tuy thọ thân mạng trời nhưng vẫn ở trong tam đồ, cần phải tự cẩn thận cầu mong lìa khỏi đường ấy. Các vị hãy lắng nghe nhận lãnh lời Ta dạy!
Bấy giờ bốn bộ chúng im lặng vui mừng, mỗi vị đều tự khởi tâm cung kính muốn nghe Như Lai dạy đạo pháp. Lúc ấy Thế Tôn bảo bốn bộ chúng:
– Các ông hãy khéo lắng nghe! Khéo tư duy! Đại Bồ tát phải nhớ nghĩ tư duy tám pháp môn giải thoát. Tám pháp môn đó là gì? Các vị thiện nam, thiện nữ tôn trọng giữ gìn giới luật không thiếu sót, phòng hộ thân, khẩu, ý; thực hành bốn tâm bình đẳng: từ, bi, hỷ, hộ (xả), luôn nhớ nghĩ theo gần gũi thiện tri thức, kính tin Tam bảo, chí luôn nhớ nghĩ cầu đạo Vô thượng, đem Chánh pháp đã được nghe giảng nói cho người, đạo giáo đã giảng thì không nói pháp Tiểu thừa, khuyên chúng sanh tinh tấn tu hành đạo lớn. Có khi Bồ tát diễn nói pháp Đại thừa bình đẳng không hai, không thấy có người nhận lãnh giáo pháp. Cũng như hư không không có hình tượng, giáo pháp mà chư Phật đã truyền dạy không thê nghĩ bàn, bao trùm vạn hạnh, không sót pháp nào. Hoặc nói hạnh không vắng lặng, không không hư giả, hoặc nói năm phần Pháp thân. Ví như một người có ngọc ma ni Như ý ở trong đại chúng theo ý muốn dùng oai đức của ngọc biến thành các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng làm cho người trong chúng có màu sắc như vậy. Đại Bồ tát cũng như thế, tùy theo ý niệm suy nghĩ trong tâm của mọi người liền diễn nói pháp đạo trí vô cùng khiến cho mỗi người đều hoan hỷ, chí tôn sùng Phật đạo, cuối cùng mới chỉ bày rõ pháp môn trí tuệ, làm lợi ích chúng sanh khiến họ phát tâm đạo Đại thừa. Bồ tát phát tâm hoằng thệ như vậy, tế độ chúng sanh mà không thấy độ. Cũng như hư không qua lại vô ngại, Bồ tát phát tâm độ người cũng thế, cũng không thấy có chúng sanh được độ.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Sau khi ông bát Niết bàn, tất cả chúng sanh suốt trong mười hai trung kiếp đều sẽ đến để phụng thờ cúng dường Xá lợi. Người không có nhân duyên thì tạo nhân duyên, người chưa được cứu hộ thì được cứu hộ, người không được che chở thì được che chở. Khi ấy nhân dân đều sẽ cúng dường hương hoa, trổi kỹ nhạc, cúi đầu tự quy mạng. Mỗi viên Xá lợi đều phóng ánh sáng, biến hóa thần đức khiến người trông thấy hoan hỷ. Đó đều do phát hoằng thệ nguyện nên mới được sức oai thần biến hóa thù thắng như Phật. Ánh sáng ấy vòi vọi, cao xa chiếu khắp mọi nơi, hiện bày ánh sáng trí tuệ vô lượng, làm nhân duyên khởi phát tâm đạo vô thượng. Trong số chúng sanh đó, người phát tâm sai lầm hoặc thành tựu pháp Thanh văn, Duyên giác hoặc sanh lên cõi trời hay được thân người. Xá lợi phân bố khắp tám phương và hai phương trên, dưới. Trời, Rồng, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân và Phi nhân cùng các loài hữu hình bò, đi, hít thở đều sẽ cúng dường năm loại nhạc vui tươi.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Khi ông thành Phật, đất đều màu hoàng kim đầy đủ bảy báu: vàng, bạc, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, thủy tinh, lưu ly. Hoặc có chúng sanh muốn được cúng dường toàn thân Xá lợi liền được như ý nguyện. Ngàn, vạn, ức toàn thân Xá lợi hiện khắp thế gian. Kinh pháp lưu truyền khắp suốt mười bảy trung kiếp.
Bấy giờ, trên tòa có một Bồ tát tên Vô Lượng Giác Tuệ, tâm tự nghĩ: “Bồ tát Tối Thắng để lại thân Xá lợi, phân bố khắp thế gian khiến chúng sanh phát khởi đạo tâm, độ bao nhiêu người? Có bao nhiêu người nghe theo?”. Đức Phật biết ý niệm trong tâm vị Bồ tát ấy bèn bảo vị ấy:
– Dừng lại! Này Hiền sĩ, chớ có nói lời đó. Chớ dùng trí tuệ hạn lượng của mình để đo lường trí tuệ tam muội định ý vô ngại của Như Lai. Ánh sáng của Xá lợi tiếp độ chúng sanh chẳng phải tâm có thể đo lường được, chẳng phải ý có thể quán sát được. Đạo trí thần đức của Như Lai là tự tại. Lại nữa, pháp phương tiện thị hiện biến hóa của chư Phật chẳng phải là pháp hàng Thanh văn, Bích chi Phật đạt được. Đại Bồ tát đắc Tịch định tam muội đều không ốc tưởng xa gần chấp trước định ý. Khắp nơi ở mười phương cõi nước, huyện ấp, cung điện chư Thiên, cung điện Long vương, cung điện của các tôn thần, ở trong quân binh, nơi đồng trống, trên cõi trời, năm đường qua lại, mỗi nơi đều thị hiện toàn thân Xá lợi. Mỗi thân Xá lợi đều phát ra ánh sáng sáu pháp Ba la mật giải thoát vô tỷ; pháp không, vô tướng, vô nguyện; đại từ, đại bi, pháp bốn ân, pháp trí tuệ sáng phân biệt hư tịch, diễn đạt tâm định, cúng dường Xá lợi, pháp bình đẳng không hai, tâm thí kiên cố không tăng giảm. Đó gọi là Đại Bồ tát nhập Tịch ý định tâm tam muội thì có thể phân biệt sáu tình trong ngoài. Vì sao gọi là sáu tình? Sáu tình đó là: Nếu mắt thấy sắc không khởi tưởng sắc, ngộ rõ sắc là vật bên ngoài. Nếu khởi nhãn thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục thức, mười lăm pháp thuộc Sắc thức, mười lăm pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng thức, mười lăm pháp thuộc Sanh ấm, mười bốn pháp thuộc trung ấm.
Đức Phật bảo vị Đại Bồ tát:
– Ở trong nhãn thức khởi các trần lao đó thì nhãn thức khởi. Lại nữa, này Đại Bồ tát, các vị Tộc tánh nam nữ, nếu tai nghe tiếng mà không khởi họa của tai, ngộ rõ âm thanh là vật bên ngoài, nếu khởi nhĩ thức thì sẽ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: mười lăm pháp thuộc Dục nhĩ thức, mười lăm pháp thuộc Sắc nhĩ thức, mười pháp thuộc Hữu tưởng vô thức thức, ba mươi chín pháp thuộc trung ấm và thọ hình ấm.
Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ tát:
– Ở trong nhĩ thức khởi các trần lao đó thì nhĩ thức khởi. Lại nữa, này Đại Bồ tát, nếu mũi ngửi hương không khởi tỷ thức, ngộ rõ hương là vật bên ngoài, nếu khởi tỷ thức thì sơ khởi bảy mươi bốn họa hoạn trần lao: mười lăm pháp thuộc Dục giới tỷ thức, mười lăm pháp thuộc Sắc giới, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng, Tứ không định.
Đức Phật lại bảo vị Đại Bồ tát:
– Nếu vị Tộc tánh nam hay nữ khởi thiệt thức biết vị mà khởi họa hoạn của lưỡi, ở trong đó phân biệt đều là vô chủ, đều ở trong Dục, đều ở trong thức thì có thể khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm. Đại Bồ tát lại phải tư duy pháp khởi diệt, các pháp thô tế trần lao do thân xúc chạm pháp bên ngoài làm phát sinh cảm xúc, phân biệt mỗi pháp đều vô sở hữu thì ở trong cảm xúc đó khởi thân thức, chính là khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp đó là gì? Bảy mươi bốn pháp đó là mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng… cho đến trung ấm. Đại Bồ tát lại phải tư duy sự hành hoạt của ý pháp. Pháp sanh thì sanh, pháp diệt thì diệt cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt. Người ngu hoặc ở trong đó khởi tưởng ý thức thì sanh khởi bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao. Bảy mươi bốn pháp họa hoạn trần lao ấy là gì? Mười lăm pháp thuộc Dục, mười lăm pháp thuộc Sắc, bốn mươi bốn pháp thuộc Hữu tưởng vô tưởng và trung ấm.
Đức Phật bảo vị Đại Bồ tát:
– Thế nào là đạo trí? Đạo trí của Bồ tát với Dục giới thấy rõ mười lăm pháp. Mười lăm pháp đó gồm:
Quán thế gian có bảy loại: Một là phỉ báng đạo. Hai là tin tưởng lời dạy. Ba là nhận lãnh giáo pháp. Bốn là với chơn lý có tâm thoái chuyển. Năm là được quả báo thì tâm do dự. Sáu là ý tinh tấn nhưng thân ngăn ngại. Bảy là mắt nhìn nhưng tâm không nương tựa vào pháp đã thấy.
Pháp tạng thâm sâu của Phật có tám việc. Tám việc ấy là gì? Một là Phật pháp không hình tượng nhưng giả đặt có pháp trụ. Hai là hiện tại không trụ niệm chấp trước thường tồn. Ba là quá khứ mãi diệt không thấy lời thệ nguyện. Bốn là tương lai chưa đến nhưng ngôn giáo không sanh diệt. Năm là do duyên khổ đưa đến họa, tự nhận lấy đối tượng do duyên ấy đưa lại. Sáu là tu tập thực hành phương tiện, chưa diệt tận mà nói là diệt tận. Bảy là kiến đạo rồi xả đạo, từ xưa đến nay luôn tinh tấn chuyên nhất. Tám là Phật pháp không hai nhưng tâm ý tham thiền có sai biệt.
Đó gọi là đạo trí của Đại Bồ tát với Dục giới quán rõ mười lăm hạnh trần lao. Thế nào là mười lăm hạnh trần lao thuộc Sắc giới? Mười lăm pháp đó: Một là ân thấm nhuần. Hai là tâm không dao động. Ba là chấp trước thú vui cõi trời. Bốn là quên tội phước. Năm là chấp cho là vĩnh cửu. Sáu là không đau ốm. Bảy là ở nơi chơn chánh. Tám là thực hành bình đẳng. Chín là pháp nhẫn bất khởi. Mười là đạo không biến đổi. Mười một là tưởng đầy đủ. Mười hai là chấp trước sắc. Mười ba là tự tại. Mười bốn là chiếu xa. Mười lăm là yết ma. Đó là mười lăm hạnh trần lao mà Đại Bồ tát khi đến cõi trời thuộc Sắc giới phải nhớ nghĩ tránh xa.
Thế nào là Đại Bồ tát với cõi hữu tưởng vô tưởng và trung ấm xa lìa bốn mươi bốn hạnh trần lao? Khi ấy Bồ tát nhập thần thông định ý vô hình tam muội, qua lại trong đó phân biệt bốn mươi bốn hạnh trần lao. Bốn mươi bốn hạnh đó là gì? Khi đó Bồ tát nói và phân biệt hạnh: Một là chấp thức ngã là vô bổn. Hai là chấp vô hình, xả bỏ hình sắc. Ba là chấp thọ báo ứng có thống khổ. Bốn là tưởng không kiên cố. Năm là từ bỏ, không thực hành bổn mạt. Sáu là không có trí tuệ nương tựa Không. Bảy là dừng bỏ tâm định vắng lặng. Tám là không có tưởng tri diệt. Chín là chấp thức hiện tại không loạn. Mười là ý vọng, ý không chơn chánh. Mười một là ý cũng không trụ hiện tại. Mười hai là thức không trụ nơi đạo. Mười ba là ý cũng không trụ nơi pháp thế gian. Mười bốn là chấp tánh Không như thị. Mười lăm là chỉ nghe tiếng, không thấy hình. Mười sáu là nghĩ đạo là vô tận. Mười bảy là chấp mọi pháp là Không, không có pháp nào khác. Mười tám là chấp Niết bàn thanh tịnh. Mười chín là chấp cho rằng đã giác ngộ hoàn toàn đạo đưa đến tịch tĩnh. Hai mươi là tâm si mê chấp ân thấm nhuần. Hai mươi mốt là chấp vẫn còn thân trung ấm. Hai mươi hai là thấy có nhận lãnh thân trung ấm. Hai mươi ba là chấp thân trung ấm qua lại. Hai mươi bốn là chấp biết thân trung ấm từ đâu lại. Hai mươi lăm là chấp thấy chúng sanh có thân trung ấm quan lại. Hai mươi sáu là chấp thấy thân trung ấm có sanh, có diệt. Hai mươi bảy là chấp tự thấy thân cảm thọ cảnh giới địa ngục. Hai mươi tám là chấp thân có nhận lãnh tội, thân không nhận lãnh tội. Hai mươi chín là thấy thọ thân Thiên ấm, có vị thọ phước, có vị không thọ phước. Ba mươi là thấy thọ thân Nhân ấm, có người thọ phước, có người không thọ phước. Ba mươi mốt là thấy thọ thân trung ấm ngạ quỷ có loài cao, có loài thấp. Ba mươi hai là thấy thọ thân Súc sanh ấm có loài nặng, có loài nhẹ. Ba mươi ba là có chúng sanh từ thân Thiên ấm trở lại thân Thiên ấm là do khi chết thức không loạn. Ba mươi bốn là có chúng sanh từ thân Thiên ấm sanh vào thân Nhân ấm là do thức của họ tuy mạnh mẽ nhưng không có trí tuệ. Ba mươi lăm là có chúng sanh từ thân Thiên ấm nhận lãnh thân Súc sanh ấm là do thức yếu ớt, ý khởi loạn tưởng. Ba mươi sáu là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân Ngạ quỷ ấm là do khi chết ý tham lam không chán. Ba mươi bảy là có chúng sanh từ thân Trời thọ thân Địa ngục ấm là do thức có tưởng thệ nguyện phỉ báng Hiền Thánh. Ba mươi tám là có chúng sanh từ thân Nhân ấm trở lại thọ thân Thiên ấm là do (tu tập) pháp cấm giới thanh tịnh. Ba mươi chín là có chúng sanh từ thân người nhận lãnh thân Súc sanh ấm là do tu tập tâm ý không chuyên nhất. Bốn mươi là có chúng sanh từ thân Nhân ấm thọ thân Ngạ quỷ ấm do chấp rằng chỉ một mình tu thiện là tốt, không chịu phổ biến cho người. Bốn mươi mốt là có người từ thân Nhân ấm thọ thân Địa ngục ấm, trước nhận phước sau lãnh họa. Bốn mươi hai là có người từ thân Súc sanh ấm thọ thân Thiên nhân ấm là do đã tạo phước rồi nhưng không tiếp tục tạo phước mới. Bốn mươi ba là có người từ thân Súc sanh thọ thân Ngạ quỷ ấm và thân Địa ngục ấm là do tám tội vô gián không thể cứu. Bốn mươi bốn là chấp có thân ấm hiện hữu, thân ấm lãnh thọ, thân và thần thức không loạn. Đó là bốn mươi bốn họa hoạn trần lao thuộc Hữu tưởng vô tưởng và trung ấm của Đại Bồ tát.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát lại phải tư duy về thần thức trung ấm hư không, hoặc từ Không thức sanh Thức ấm, hoặc từ Thức ấm thọ bất dụng xứ ấm, hoặc từ Bất dụng xứ ấm thọ Vô sắc thiên ấm, từ Vô sắc thiên ấm thọ Lục thiên ấm, cho đến Cứu Cánh thiên. Từ Cứu Cánh thiên lại thọ Sắc vô sắc thiên ấm. Người thọ thân Thiên ấm, thân hình cao một nhận rưỡi, tìm chỗ để đi chứ không trụ trong thân đó. Người thọ thân Nhân ấm, thân hình cao ba khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trong bảy ngày, hoặc sáu ngày, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Người thọ thân Súc sanh ấm, chậm nhất là ba ngày rưỡi hoặc hai ngày hay một ngày rưỡi. Người thọ thân Ngạ quỷ ấm chậm nhất là khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Người thọ thân Địa ngục ấm, thân cao ba nhận rưỡi, hoặc có kẻ sanh ra chưa đủ bảy ngày liền chết rồi, sanh đến thân đó. Đại Bồ tát đều theo người mà giáo hóa, vì họ mà nói pháp vi diệu. Người có tâm mau ngộ thì không thọ các thân trung gian mà đắc đạo.
Súc sanh thọ thân Nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi chậm nhất là trải qua bốn ngày, ba, hai, một ngày. Súc sanh thọ thân Thiên ấm, thân hình cao ba nhận rưỡi, chậm nhất là một ngày rưỡi, hoặc một ngày, nửa ngày; hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Súc sanh thọ thân Ngạ quỷ ấm, thân cao bảy nhận. Có loại xuất sanh chậm nhất là năm ngày, hoặc bốn, ba, hai, một ngày. Súc sanh thọ thân Địa ngục ấm, thân cao một nhận rưỡi, chậm nhất là trong khoảng thời gian nửa bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Ngạ quỷ thọ thân Thiên ấm, thân hình cao nửa nhận, chậm nhất là trải qua một ngày, hoặc nửa ngày, hoặc khoảng thời gian một bữa ăn, hoặc trong khoảnh khắc khảy móng tay. Ngạ quỷ thọ thân Nhân ấm, thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là bốn ngày rưỡi, hoặc ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân Súc sanh ấm, thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là mười lăm ngày, mười bốn, mười ba, mười hai, mười một ngày, mười ngày, chín, tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày. Ngạ quỷ thọ thân Địa ngục ấm, thân cao năm nhận rưỡi, chậm nhất là chín mươi ngày, hoặc có loài xuất sanh trong tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một ngày cũng như vậy.
Lại nữa, Đại Bồ tát lại phải quán sát như vầy, chúng sanh địa ngục thọ thân Thiên ấm kia thân cao bốn nhận rưỡi, chậm nhất là trải qua năm tháng, bốn, ba, hai, một tháng. Nếu thân Địa ngục ấm thọ thân trung ấm cõi người thì thân cao hai khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là trải qua ba tháng, hai, một tháng. Địa ngục thọ thân Súc sanh ấm, thân cao tám khuỷu tay rưỡi, chậm nhất là ba tháng rưỡi, hai, một tháng cũng như vậy. Địa ngục thọ thân Ngạ quỷ ấm, thân cao chín nhận, chậm nhất là trải qua ba ngày. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Nhân ấm, giữa chừng chưa tới nơi thì trở lại thọ thân Thiên ấm, loại thân đó lợi căn không trải qua khổ. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Súc sanh ấm, đột nhiên lại sanh vào thân trung ấm cõi người, loại thân đó không hủy giới độ. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Ngạ quỷ ấm, đột nhiên lại sanh vào thân Súc sanh ấm, loại thân đó vâng theo tu tập pháp đảnh nhẫn. Có khi thân Thiên ấm phải thọ thân Địa ngục ấm, đột nhiên lại ở trong thân Ngạ quỷ ấm, loại thân đó quả báo đã thành thục sẽ sanh vào cõi người. Hoặc có thân Nhân ấm thọ sanh vào thân Ngạ quỷ ấm, chúng sanh đó đột nhiên lại ở trong thân Thiên ấm. Loại thân đó có là do tâm định không loạn. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân ấm trong ba đường ác đột nhiên lại thọ thân ấm trong cõi người, cõi trời. Loại thân đó có trí tuệ thông tỏ do tâm, tu quảng bác. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở cõi Nhất Cứu Cánh thiên, đột nhiên lại hiện thân ở thân trung ấm cõi trời Quang Âm. Loại thân này là do tâm ý chuyên nhất. Hoặc có chúng sanh phải thọ thân trung ấm ở cõi Biến Tịnh thiên, đột nhiên lại hiện ngay thân trung ấm ở cõi Hữu tưởng vô tưởng. Loại thân này là do có trí tuệ không đạt.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát ngồi dưới cội đạo thọ dùng Nhất thiết trí vô ngại, Đẳng trí, Chấp lục thông trí, Biện tài tuệ trí, Liễu âm hưởng trí, Vô thối chuyển trí quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới ai thọ hình, ai không thọ hình, ai thọ thân trung ấm, ai không thọ thân trung ấm; có bao nhiêu chúng sanh ở cõi người, có bao nhiêu chúng sanh ở trong thân trung ấm cõi người. bồ tát lại quán thân Nhân ấm của chúng sanh thọ thân Tứ đại ấm, số bao nhiêu đều biết tất cả.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát quán chúng sanh cõi trời ở trong thân trung ấm cõi trời, lại quán số chúng sanh cõi trời có hướng đi vào bốn đường bao nhiêu đều biết tất cả. Có khi Đại Bồ tát dùng sáu pháp thần thông, trí không thoái chuyển quán chúng sanh thọ thân súc sanh. Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấm ở súc sanh chuyển sang thọ thân trung ấm trong bốn đường, số bao nhiêu đều biết tất cả. Bồ tát lại quán chúng sanh thọ thân ngạ quỷ. Có bao nhiêu chúng sanh ở thân trung ấm ngạ quỷ phải thọ thân ở bốn đường đều biết tất cả. Có khi Đại Bồ tát quán chúng sanh thọ thân địa ngục. Có bao nhiêu chúng sanh thọ thân trung ấm ở địa ngục hướng sanh vào bốn đường đều biết tất cả.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát dùng trí bất thoái chuyển quán khắp thân trung ấm của năm đường, có thọ hình hay không có thọ hình. Hoặc có thân ấm trụ tại cõi người đột nhiên lại hiện sanh thân Thiên ấm, ở trong Thiên ấm liền thủ diệt độ, cuối cùng không thọ thân trời, thân người. Hoặc có thân ấm trụ tại cõi trời đột nhiên lại hiện sanh thân Nhân ấm rồi thủ diệt độ, không thọ thân trời, thân người. hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người liền thủ diệt độ, không thọ thân người hay súc sanh. Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi súc sanh, thân trung ấm ở cõi súc sanh ấy đột nhiên lại hiện sanh thân trung ấm cõi trời, ở thân trung ấm cõi trời bèn thủ diệt độ, không thọ thân trời hay súc sanh. Hoặc có thân trung ấm trụ ở cõi ngạ quỷ, thân trung ấm ở cõi ngạ quỷ đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở cõi người, thân trung ấm ở cõi người ấy bèn thủ diệt độ không thọ thân ngạ quỷ, thân người. Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi ngạ quỷ, thân trung ấm ở cõi ngạ quỷ đó đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở cõi trời, ở thân trung ấm cõi trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân ngạ quỷ, thân trời. Hoặc có thân trung ấm trụ tại cõi địa ngục, thân trung ấm ở địa ngục ấy đột nhiên hiện sanh thân trung ấm cõi người, ở thân trung ấm cõi người bèn thủ diệt độ, không thọ thân ở địa ngục hay thân người. Hoặc có thân trung ấm trụ ở địa ngục đột nhiên hiện sanh thân trung ấm ở cõi trời, ở thân trung ấm cõi trời ấy bèn thủ diệt độ, không thọ thân hình ở địa ngục. Đó gọi là Đại Bồ tát dùng trí không thoái chuyển quán khắp ba ngàn đại thiên thế giới có chúng sanh thọ hình, chúng sanh không thọ hình, có tội, có phước đều biết tất cả.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng và một vạn tám ngàn người, mười vạn Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chân đà la, Ma hưu lặc liền rời chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật:
– Lạ lùng thay lời pháp này! Vui thay pháp chưa từng có! Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã hoan hỷ giảng nói pháp về thân trung ấm vô hình vô hạn lượng không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi Phật có thể đạt được. Chúng con ưa muốn mong thấy hình chất thân trung ấm. Bạch Thế Tôn, cúi xin thương xót hàng chúng sanh hạ liệt để họ được đội ân tẩy trừ vĩnh viễn tâm cấu bẩn.
Lúc đó Thế Tôn bảo các vị trong hội:
– Lành thay! Lành thay nghĩa lý của câu các ông vừa hỏi. Ta nay sẽ vì các ông hiện thần túc để tám bộ chúng được thấy hình chất của thân trung ấm.
Khi ấy Thế Tôn liền nhập Vô hình quán tam muội thấy khắp thân trung ấm của chúng sanh trong năm đường, có thọ thân hình hay không thọ thân hình, có tội, có phước đều biết tất cả. Ngay lúc ấy chúng hội trên tòa cũng thấy được hình chất thân trung ấm trong năm đường đó, lại nghe Đức Như Lai nói đạo giáo cho các thân trung ấm ấy. Họ ngay khi đó tận trừ các trần cấu, đắc pháp nhãn tịnh. Hoặc có thân trung ấm phát tâm Đại thừa, hoặc có thân trung ấm nói lên hạnh chí bí mật. Các thân trung ấm tùy theo loại giáo hóa đều không bị nhiễm trước. Chúng hội lại thấy thân trung ấm ở năm đường đó từ Nhất trụ địa đến Thập trụ địa, thấy có thân trung ấm đắc Nhất sanh bổ xứ, ngồi dưới cội đạo thọ hàng phục vô số ức trăm ngàn quỷ, thân màu hoàng kim, đầy đủ các tướng, cũng có các vua trời Thích, Phạm Tứ vương đến thỉnh Bồ tát diễn nói pháp ấm vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Lại thấy chư Phật Thế Tôn ở cõi khác thọ ký cho Bồ tát, nói rõ danh hiệu, cõi nước xa gần, hạnh thanh tịnh. Hoặc thấy Bồ tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như lai. Hoặc có Bồ tát ở trước Thế Tôn tán thán pháp mười hiệu của Như Lai. Hoặc có Bồ tát làm hưng thạnh giáo pháp, đến cúng dường, hoặc dùng tạp kệ tán thán công đức của Như Lai. Các vị trong hội quán thấy chúng sanh của cõi đó ở trong thân trung ấm có đủ loại thần túc biến hóa không thể nghĩ bàn, lại thấy Đức Như Lai hiện ánh sáng của tướng lưỡi; mỗi ánh sáng đều có Đức Hóa Phật và tám bộ chúng vây quanh sau trước, nói pháp vô úy, trí không thoái chuyển, đầy đủ các pháp thâm tàng, hoặc truyền pháp thọ ký riêng cho hàng đệ tử Duyên giác: “Ở đời tương lai ông sẽ thành Phật hiệu như thế này…”.
Lúc đó một vạn tám ngàn người và trăm ngàn vị Thiên tử ở trên tòa ngồi đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Thế Tôn xả thần túc trở về tòa ngồi như cũ, bảo bốn bộ chúng:
– Thần đức của Như Lai không ai có thể biết hết, lại có bốn pháp không thể nghĩ bàn. Bốn pháp ấy là gì? Một là chí bí mật của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là căn tánh của chúng sanh không thể nghĩ bàn. Ba là đạo tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là ý quán khắp của Như Lai không thể nghĩ bàn. Lại nữa, này Tối Thắng, lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó là gì? Một là nghi tắc của Như Lai không thể nghĩ bàn. Hai là pháp tòa của Như Lai không thể nghĩ bàn. Ba là giáo giới của Như Lai không thể nghĩ bàn. Bốn là định ý kim cang không thể nghĩ bàn. Lại có bốn việc không thể nghĩ bàn. Bốn việc đó là gì? Ở dưới cội đạo thọ ý như hư không không thể nghĩ bàn. Không thấy phải cũng không thấy quấy không thể nghĩ bàn. Lấy tiểu làm đại, lấy đại làm tiểu không thể nghĩ bàn. Nói pháp chắc chắn có chúng sanh được tế độ cũng không thấy có tế độ không thể nghĩ bàn. Lại có bốn việc tương ưng với thực hành pháp mà không thể chấp trước là nói có ngô ngã, không thấy sanh cũng không thấy có diệt, không tạo tác cũng không chấp đoạn, căn tánh của tất cả chúng sanh đều thanh tịnh. Này Tối Thắng, đó gọi là pháp tương ưng mà khi Đại Bồ tát thực hành pháp không bị chấp trước. Thế nào Tối Thắng, Đức Thế Tôn có giới hạn không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Chẳng giới hạn.
Đức Thế Tôn lại hỏi ngài Tối Thắng:
– Các pháp chơn chánh hiện hữu từ pháp giới sanh vốn không có giới hạn thì có sanh ra pháp hiện hữu không? Là chẳng phải không hiện hữu chăng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào Tối Thắng, các pháp không giới hạn chẳng phải từ hiện hữu mà có, chẳng phải từ không hiện hữu mà không có thì sao lại có thành tựu Đẳng Chánh Giác?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng có sự thành tựu Đẳng Giác.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Như Lai ngồi dưới cội đạo thọ quán pháp vô tế, giáo pháp vô sanh diệt đều là hư tịch, tự nhiên vô trí cũng không có trí. Nếu không có trí thì có ai biết. Cho nên, này Tối Thắng, pháp ngô ngã là phương tiện giả đặt không thật, cũng không có kiến đạo. Đạo thì không có pháp kiến đạo. Không thấy, không nghe, không có trí tuệ, không có chấp trước kiến giải và pháp giới cũng như vậy, không thấy khởi diệt là pháp tạo an trụ, có người nhận lãnh giáo pháp cũng không thấy văn tự, chương cú. Này Tối Thắng, như vậy là ngộ rõ các pháp hư không, không hình tướng. Nếu có kẻ ngu phu, vô trí thì kẻ đó an trụ hư không chăng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Chẳng phải vậy.
Đức Thế Tôn dạy:
– Pháp tánh của tất cả các pháp là Như thị, pháp Chơn tế Bổn vô đều không sở hữu. Nay nói có đạo đại từ, đại bi, bốn pháp ý chỉ, bốn pháp ý đoạn, bốn pháp thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám hạnh Hiền Thánh, không, vô tướng, vô nguyện, sáu pháp tăng thượng, mười tám pháp bất cộng, không phải do các pháp này mà được thành đạo. Đạo là vô hình cũng không thể thấy, vì pháp cô hình nên mới gọi là đạo. Đạo không có đến cũng không có đi. Này Tối Thắng, đó mới chính là đạo. Giả sử Như lai từ pháp giới sanh, từ pháp giới diệt thì chính là hạnh sanh tử uế trước. Do không sanh diệt nên gọi là đạo.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát nhập Hư không quán tam muội, ở trong các cảnh giới tu tập, không chấp nhiễm thiền. Dùng pháp thiền định đó đạt đến tâm vô ngại cũng không sai loạn, chẳng có thân, chẳng có tâm, chẳng có pháp bình đẳng hay không bình đẳng. Tư duy Không định không thấy cương nhu, chí luôn đạm bạc, không tương ưng với pháp không tương ưng. Này Tối Thắng, đó gọi là Không định vô hạn lượng không thể nghĩ bàn của Bồ tát, chẳng phải là pháp hàng La hán, Bích chi Phật đạt được. Này Tối Thắng, ví như lửa thiêu đốt núi đồng, rừng cây, thảo mộc. Lửa chẳng phải rừng cây, rừng cây chẳng phải lửa. Lửa chẳng phải là lửa, cũng chẳng phải là lìa lửa. Nên biết kiết sử của Bồ tát cũng như vậy. Kiết sử chẳng phải là đạo, đạo chẳng phải là kiết sử. Kiết sử cũng không cách xa đạo. Ngộ rõ Không định, Vô hình tam muội cũng như thế. Các pháp Bổn vô thanh tịnh bình đẳng, hoặc dùng chánh định quán sát pháp tế mà đạt tâm bình đẳng, không nhiễm ô. Tâm không ở trong cũng không ở ngoài. Tâm không trụ sắc cũng không thấy pháp trụ thì vượt qua tất cả điên đảo. Do phương tiện nói pháp vô hình nên gọi là đạo, hoặc dùng ngũ thông, tam đạt diệu trí đi khắp nơi muốn giáo hóa chúng sanh. Pháp giáo hóa tự thể hiện hữu giáo hóa nhưng cũng không thấy có giáo hóa. Đó gọi là đạo siêu việt ra ngoài pháp ngũ thông. Hoặc lìa khỏi tâm quán Không của Thanh văn, Duyên giác, tâm không hiện quán Không của hàng Duyên giác ngũ thông, đó gọi là đạo. Bồ tát lại dùng Định ý chánh thọ tam muội quán sát pháp bổn: Pháp từ đâu sanh? Pháp từ đâu diệt? Không thấy sanh cũng không thấy diệt thì mới gọi là đạo. Với pháp hữu vi của thế gian, pháp vô vi của đạo, không thấy thế gian cũng không thấy đạo thì mới gọi là đạo. Hữu lậu là trần lao, vô lậu là thanh tịnh, không thấy lậu cũng không thấy có pháp lậu. Với mười pháp thiện hạnh, mười pháp bổn ác, không thấy thiện cũng không thấy ác. Với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc không thấy khổ cũng không thấy vui. Không thấy thành đạo cũng không thấy ở thế tục không thấy nói pháp Hiền Thánh tịch mặc. Này Tối Thắng, đó là Đại Bồ tát nhập Không định thì mới gọi là đạo.
Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát lại phải tư duy Hư không tạng tam muội, không thấy pháp giải thoát hữu dư trụ thọ mạng qua nhiều kiếp, không thấy giải thoát vô dư không có biến đổi thì mới gọi là đạo. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập thành tựu Không tuệ, dùng quyền phương tiện khéo léo từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, theo hầu chư Phật Thế Tôn, giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi Phật. Không thấy sắc tướng là sức tướng hiện tại. Thanh, hương, vị, tế hoạt (xúc) thức cũng như vậy. Không thấy có độ, đắc pháp Niết bàn, không thấy pháp lưu chuyển trong sanh tử. Nếu vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, thọ trì, ghi nhớ mãi không quên thì hiện tại được tám phước công đức. Tám pháp đó là gì? Quán các pháp Không, có đức tin không do dự. Được pháp tạng sâu xa của Phật, ý không khiếp sợ. Ý thanh tịnh, không dơ uế, không bị nhiễm ô; tâm như kim cương không thể phá hoại. Các hạnh chơn chánh, không theo cõi ma. Làm thanh tịnh quốc độ Phật, độ người chưa được độ. Tâm Đại thừa rộng lớn, không ưa thích trí nhỏ hẹp. Gần gũi thiện tri thức, không theo ngoại đạo. Quán niệm mong cầu pháp chơn chánh, không có tưởng ngã, nhân. Đó gọi là Đại Bồ tát đạt được tám công đức, ngộ rõ pháp thế gian không có ngã, nhân, thọ mạng; tâm trụ pháp Bổn vô thì mới tương ưng với chánh định, luôn dùng thiền định đạt đến diệt độ, khai hóa chúng sanh mà không có tâm mệt mỏi. Đó là thấy pháp thì mới tương ưng với đạo. Đó là vì thấy các pháp vắng lặng, không hình tướng, không hành, không nơi chốn. Này Tối Thắng, đó gọi là Đại Bồ tát ngộ rõ Không chẳng phải hữu, Không cũng chẳng phải là có pháp Không. Không chẳng phải là pháp Không nên vắng lặng, vô danh. Có khi Bồ tát quán các pháp, không nương tựa tam xứ, không chấp trước tam hữu. Bồ tát ở cõi thế gian trời, người phát tâm hoằng thệ độ chúng sanh mê mờ như vậy thì không thấy có chúng sanh được độ. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập thành tựu Không tuệ, vĩnh viễn không có tâm chấp trước. Tối Thắng nên biết, pháp Vô hình định ý mà Như Lai thể nhập chẳng phải là pháp hàng Nhị thừa có thể thấy được, chỉ có Phật mới thấy rõ. Trí tuệ Phật không ngăn ngại, không chấp trước, không bị nhiễm ô, không bị nhiễm chấp các cảnh giới. Nếu đạt pháp sâu xa không lấy đó làm vui, không chấp trước tám nghiệp không nhàn của thế tục, có bốn pháp biện tài vô ngại, không diệt, không thiêu đốt (phiền não), chẳng phải không thiêu đốt (phiền não); không khởi, không sanh, chẳng phải không có sanh. Quá khứ vĩnh viễn diệt, chẳng phải có quá khứ. Hiện tại không trụ cũng không có pháp trụ. Tương lai chưa khởi, không thấy pháp sanh. Đó gọi là Đại Bồ tát không chấp trước, không ngăn ngại, không chấp trước tam xứ, không nhiễm ô tam hữu.
Bấy giờ chín vạn chúng sanh, mười một na thuật Trời, Người và các Trời, Rồng, Quỷ, Thần từ chỗ ngồi đứng dậy, vén y bày vai phải, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật:
– Chúng con căn tánh thấp hèn được pháp thanh tịnh này mới có thể giảng nói pháp vô hình, pháp không danh tướng. Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn làm cho thân trung ấm trời người sanh đời tương lai được ở cảnh giới cõi Phật nhận lãnh, chứng đắc pháp vô vi trong cùng ngày, cùng lúc, cùng một quốc độ.
Khi ấy Đức Thế Tôn mỉm cười, miệng phát ra ánh sáng năm màu chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Ánh sáng ấy nhiễu quanh thân ba vòng rồi nhập trở lại vào miệng Đức Phật. A Nan quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:
– Con tự nghĩ con theo hầu Phật dã hơn ba mươi năm nhưng chưa từng thấy ánh sáng như thế này. Bạch Thế Tôn, ngưỡng mong Thế Tôn giảng nói để chúng sanh tương lai vĩnh viễn không còn sự si mê, không thông tỏ.
Lúc ấy Thế Tôn bảo A Nan:
– Ông nay có thấy chín vạn chúng sanh, mười một na thuật trời người kia không. Họ ở đây mạng chung, thân trung ấm đều sẽ sanh về thế giới Vi Trần. Thân trung ấm đã sanh về nơi đó, mỗi thân theo thứ lớp thành Phật đều đồng một hiệu là Vô Sắc Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, hiệu Phật Thế Tôn, toàn dùng Bồ tát để làm chúng tùy tùng. Thân trung ấm ở thế giới ấy trụ thọ mạng một kiếp, sau khi bát Niết bàn, pháp để lại truyền một kiếp. Lại tiếp theo có Đức Phật ra đời không dứt tuyệt.
Khi Đức Phật nói pháp này, Bồ tát ở cõi trời Biến Tịnh và vô số chúng sanh hối hận vì thọ nhận thân người và thân trời, ngồi trên tòa khóc lóc không thể tự kềm chế. Đức Phật biết như vẫn hỏi:
– Thiện nam tử vì sao khóc lóc bi thương quá lắm như vậy?
Các vị ở cõi trời Biến Tịnh thưa:
– Chúng con cũng muốn sanh về cõi đó nhưng vì không được dự phần nên buồn khóc.
Đức Phật bảo các vị trời Biến Tịnh:
– Dừng lại! Chớ có nói lời đó! Các ông thuở xưa dã phát tâm thệ nguyện rộng lớn khác, nay vì sao lại muốn sanh về cõi đó. Trong Hiền kiếp có tên là Diệt, các ông sẽ tiếp nối nhau thành Phật hiệu là Biến Tịnh Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu.
***
Phẩm 25: THÂN KHẨU Ý
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Tất cả các pháp đều như ảo hóa. Trong pháp ảo hóa giáo hóa chúng sanh, thanh tịnh quốc độ như thế nào? Tịnh trừ ba tưởng ngã, nhân, thọ mạng như thế nào? Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác hầu cận cúng dường chư Phật Thế Tôn như thế nào?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới có thể ở trước Như Lai cất tiếng sư tử rống. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo tư duy ghi nhớ. Ta nay sẽ giảng nói nghĩa đó cho ông. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát luôn nhớ tu tập thực hành pháp của thân, khẩu, ý; quán rõ các pháp như ảo, như hóa. Quá khứ, hiện tại, vị lai đều không nương chấp.
Lúc đó trên tòa có vị Bồ tát tên Hoan Lạc ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh ưa thích pháp bổn sâu xa, lại cúng dường; thân, khẩu, ý thanh tịnh, các căn thuần thục thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Đẳng Từ thưa:
– Vị nào thực hành tâm Từ thương xót tất cả chúng sanh, ngộ rõ văn tự, đều không bị chấp trước văn tự, không thấy pháp của thân, khẩu hành, ở trong đó đắc được pháp thanh tịnh thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Ngài Nhu Thủ Đồng Chơn nói:
– Nói tất cả các pháp bổn mà không thấy nói, không thấy pháp tưởng, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tất.
Bồ tát Viêm Quang nói:
– Phật pháp không hai cũng không thấy hai, dừng dứt các kiết sử chấm dứt không khởi diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Liên Hoa Kết nói:
– Có thể đi khắp nơi, đến cõi nước mười phương thấy cõi nước thanh tịnh mà khởi tưởng thanh tịnh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Quang Minh nói:
– Tất cả các pháp đều quy về nơi không quy về, với thân, khẩu, ý cũng không khởi tưởng diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Pháp Tịnh nói:
– Tất cả các pháp đều quy về Không, nhập chánh định, thu nhiếp tâm ý không loạn, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Liên Hoa Hành nói:
– Ở trong pháp Bổn vô thực hành pháp vô tận, ở trong pháp vô tận thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Chánh Đẳng nói:
– Biết khổ, biết vui cũng không có khổ vui, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý hì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Trừ Nộ Tạng nói:
– Ngộ rõ tất cả các pháp nên không khởi tâm phẫn nộ, ở trong pháp không khởi tâm phẫn nộ thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Sư Tử Đồng Chơn nói:
– Với ba pháp căn bổn không dâm dục, giận dữ, si mê, cũng không thấy sắc có khởi, có diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thí Bảo nói:
– Ngã, nhân, thọ mạng có khởi, có diệt, ngộ rõ các pháp đều không khởi diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Dõng Tuệ nói:
– Pháp môn Tổng trì không thấy có pháp quy thú, ở trong pháp không quy thú thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hiền Hộ nói:
– Danh hiệu là hư dối không nên giữ gìn. Kẻ phàm phu ngu muội cho là chơn thật, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Nguyệt Quang nói:
– Với tánh Như thị của pháp Chơn như Bổn tế tu tập phạm hạnh thanh tịnh, không thấy tánh Như thị của Chơn như, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thiện Lai nói:
– Dùng hương giới đức xông ướp khắp ba ngàn đại thiên thế giới, hương theo gió thổi đến khắp nơi nhưng không thấy có hương cũng không thấy có gió, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Bất Tư Nghị nói:
– Vô vi không lìa hữu vi, hữu vi không lìa vô vi, ngộ rõ hữu vi, vô vi đều vô sở hữu, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Khiết Tịnh nói:
– Các vị sanh ở cõi trời Tịnh Cư không thấy phước hạnh thanh tịnh cõi trời, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Chí Thành nói:
– Không thấy tâm chí thành sẽ phạm bốn pháp, không thấy tâm dối trá sẽ thọ nhận hậu báo, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thiện Quán nói:
– Ngộ rõ tất cả sắc tưởng là vô sắc tưởng, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Bảo Anh nói:
– Ở trong sanh tử quán thấy chúng sanh có khổ, có vui, lại quán tự thân cũng khổ, vui như họ; ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Vô Hủy Căn nói:
– Với các kiết sử biết rõ vốn là thanh tịnh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thường Tiếu nói:
– Với các pháp căn bổn không thấy ngô ngã, lại cũng không thấy pháp tạo ngô ngã, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thường Bi nói:
– Thực hành bốn tâm bình đẳng từ, bi, hỷ, hộ (xả) biến khắp cõi Phật nhưng không thấy pháp bốn tâm bình đẳng đó cứu giúp chúng sanh, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Phạm Ý nói:
– Độ chúng sanh tà kiến an lập chánh kiến nhưng ở trong pháp chánh kiến không thấy chánh tà, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Bố Diễn nói:
– Tâm hoằng thệ kiên cố không nghiêng theo đạo Tiểu thừa, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Dũng Sĩ nói:
– Cứu độ chúng sanh không nhiễm tam hữu, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Tâm Thắng nói:
– Tu tập thành tựu trí tuệ nhẫn nhục, luôn tinh tấn tu tập, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Điện Âm nói:
– Với nguồn cội của các pháp thiện, quán pháp giới đó không tăng, không giảm, không thấy các pháp có chỗ nương trú, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Vô Yếm Hoạn nói:
– Lấy hằng sa kiếp làm một ngày, mười lăm ngày là nửa tháng, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một tuổi, trải qua suốt ức trăm ngàn kiếp mới có một Đức Phật xuất hiện soi sáng thế gian. Dùng phương tiện cúng dường hằng sa Đức Như lai, tu tập Phạm hạnh thanh tịnh sau đó mới được thọ ký. Tu đạo Bồ tát chưa từng nhàm chán họa khổ sanh tử, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Trụ Thọ nói:
– Luôn dùng thần túc cải hóa sáu mươi hai kiến, ở trong sáu mươi hai kiến thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Tận Ý nói:
– Quán nguồn cội các pháp là Không, không sở hữu, pháp sanh tự sanh, pháp diệt tự diệt; pháp pháp cùng nhau sanh, pháp pháp cùng nhau diệt. Sanh, không biết sanh; Diệt, không biết diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Tâm Quảng nói:
– Tâm nghĩ nhớ hơi thở ra vào, phân biệt rõ ràng từng hơi thở không mất thứ tự, không thấy (hơi thở) ra, cũng không thấy (hơi thở) vào, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thiện Thắng nói:
– Phân biệt ba đời là từ đâu khởi, là từ đâu diệt, không thấy khởi cũng không thấy diệt, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Trì Cấm nói:
– Không thấy trì giới và hủy giới, không thấy hủy giới sẽ vào địa ngục, không thấy trì giới sẽ nhận lãnh phước báo cõi trời, ở trong đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Vô Úy nói:
– Tu tập bốn pháp thần túc, với bốn pháp ý chỉ không có tâm khiếp nhược. Tâm vốn không có nguồn gốc, không thấy nguồn cội của tâm, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Vô Lượng Tuệ nói:
– Nếu có vị nào phát tâm Từ thương xót tất cả chúng sanh, dạo đến vô lượng thế giới phương khác muốn độ chúng sanh mà không cho là mỏi mệt, không thấy pháp độ cũng không thấy người độ, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Bảo Thí nói:
– Làm phát triển bốn ân, gần gũi Tam bảo, tâm nhân từ thương yêu bố thí làm lợi ích cho mọi người nhưng không thấy nhận lãnh quả báo công đức của bốn ân, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hủy Căn nói:
– Nhìn tất cả chúng sanh như con ruột, muốn tự gìn giữ thân phải hộ trì cho người khác, làm chúng sanh an ổn đến bờ giải thoát mà không thấy có người diệt độ đến bờ giải thoát, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Tịch Chí nói:
– Phật là Đấng Bất tư nghị, phước báo khó lường, các căn tịch định. Có đức tin như thế, không khởi tâm tham ganh, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hộ Thân nói:
– Thành tựu Phật đạo, thân có tướng tốt. Sau khi nhập Niết bàn, Xá lợi lưu bố khắp nơi bốn phương, tám hướng và phương trên, phương dưới đều sung mãn. Trời, Rồng, Quỷ, Thần đều tôn kính, phụng thờ nhưng cũng không thấy có ai nhờ Xá lợi mà được giáo hóa. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hương Thủ nói:
– Mỗi lỗ chân lông tỏa ra vô lượng hương thơm. Mỗi mùi hương phát ra vô lượng ngôn giáo tế độ chúng sanh không cùng tận. Sức oai thần thần túc vòi vọi vô lượng đều làm cho chúng sanh phát tâm đạo vô lượng. Trong số chúng sanh đó, có vị không tương ưng với đạo chánh chơn, hoặc thành tựu đạo Thanh văn, Duyên giác, hoặc sanh lên cõi trời rồi sanh trở lại thân người, tâm không có oán hận đạo Đại thừa cao quý cũng không có tâm hổ thẹn vì độ hạng người Tiểu thừa. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hoằng Thệ nói:
– Ở trong chốn nhiễm ô không bị nhiễm ô, với tám pháp thế gian không khởi tưởng chấp trước, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Mẫn Cứu nói:
– Đạo là hai, vô đạo là một. Không thấy một cũng không thấy hai, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Vô Thượng nói:
– Có Phật, có pháp thì không thành tựu đạo giác ngộ. Không Phật, không pháp mới thành tựu đạo giác ngộ, nhưng không thấy thành tựu cũng chẳng thấy không thành tựu. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Phụng Đức nói:
– Chúng sanh hiện hữu tự lập danh hiệu là nam, là nữ, ngã, nhân, thọ mạng. Ngộ rõ bổn tánh đều không có nam nữ cũng không thấy từ chỗ này sanh đến chỗ kia, từ chỗ kia sanh đến chỗ này, phải biết pháp hợp hội giả dối, chẳng phải chơn thật. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Mục Kiến nói:
– Với các hình sắc hiện hữu ngộ rõ là không có hình sắc. Sắc ngã thức đó trong ngoài đều không hình tượng, ngộ rõ tánh của sắc là Không, đều không có sanh diệt. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Diệu Cẩm nói:
– Nguồn cội của ngô ngã, thọ mạng tự thể là không chủ tể giống như có người với âm thanh bên ngoài dùng tai để nghe, dùng tai để nhận thức, suy tư âm thanh đó bản chất là vô hình. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Thường Trụ nói:
– Nếu với bảy pháp phân biệt rõ ràng từng pháp, không quan hệ với tam xứ, không cầu ngũ quả, ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Huyền Thông nói:
– Tịch hay không tịch đều là dơ uế. Giới hay không giới đều là dơ uế. Nhẫn hay không nhẫn đều là dơ uế. Không thấy nhẫn cũng chẳng thấy không nhẫn. Ngộ rõ nhẫn nhục chẳng phải là tịch hay không tịch. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bồ tát Hương Huân nói:
– Không thấy ấm cái, bệnh thùy miên, xan tham, lời nịnh hót dụ dỗ, tâm hoảng loạn, phạm giới; ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ thẳng, chắp tay bạch Phật:
– Lành thay! Lành thay! Bạch Đức Thế Tôn, con cũng ưa muốn nói trí tuệ của Bồ tát thanh tịnh thân, khẩu, ý. Hiện khắp tất cả, không có quá khứ, hiện tại, vị lai; thanh tịnh như thế trụ nơi vô trụ. Các pháp ảo hóa không thể truy tìm, ví như ánh sáng mặt trăng soi bóng trăng trong nước. Chư Phật Thế Tôn cũng như thế, cũng không sanh diệt, không thủ Niết bàn. Ở trong pháp đó thanh tịnh thân, khẩu, ý thì gọi là trí tuệ của Bồ tát.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Thế nào Tộc tánh tử, ông quán nghĩa gì mà ở trước Như Lai nói nghĩa trụ nơi vô trụ đó?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Pháp mà Như Lai trụ là Chơn như, trụ trong pháp Chơn như giống như trụ chỗ chúng sanh.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào là pháp mà Như Lai trụ là Chơn như, trụ trong pháp Chơn như giống như trụ chỗ chúng sanh?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Trụ chỗ chúng sanh giống như trụ pháp hữu vi, giống như không có pháp để trụ.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào là trụ chỗ chúng sanh giống như trụ pháp hữu vi, giống như không có pháp để trụ?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Pháp mà Như Lai trụ, trụ mà không có pháp để trụ.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào là từ đệ nhất nghĩa Không mà trụ?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải thế.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào Tộc tánh tử, pháp mà Như Lai trụ giống như phàm phu trụ chăng?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, chẳng phải vậy.
Đức Phật hỏi:
– Chẳng trụ trong pháp Như Lai, chẳng trụ trong pháp phàm phu thì làm thế nào từ trong pháp đó thành tựu Chánh giác?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Không phải từ pháp Như Lai và pháp phàm phu mà thành tựu Chánh giác.
Đức Phật hỏi:
– Thế nào Tộc tánh tử, pháp Chơn như chí chơn so với pháp phàm phu địa có sai biệt không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, (điều đó giống như) muốn làm cho hư không có sai biệt vậy.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Tất cả các pháp đều Không, đều vắng lặng, không có sai biệt.
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Vì các pháp đó không thể hộ trì nên tướng không có tướng, trụ trong pháp Chơn như giống như không có pháp để trụ.
Khi ấy Bồ tát Tối Thắng hỏi ngài Nhu Thủ Đồng Chơn:
– Trụ như thế nào mới là trụ? Vô trụ như thế nào mới là vô trụ?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Pháp gọi là trụ đó chính là trụ pháp Chơn như, là trụ trong vô sở trụ. Ngộ rõ bốn đẳng tâm, trụ mà không có pháp để trụ nên gọi là trụ, tức trụ trong vô sở trụ.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Pháp trụ mà tôi hỏi chẳng phải bốn pháp đẳng tâm, cũng chẳng phải pháp cùng loại như thế. Hoặc ở chỗ nhàn tĩnh, hoặc ở trong xóm làng, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở dưới tàng cây có thể gọi đó là trụ không?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Pháp trụ mà tôi gọi là bốn đẳng tâm đó tức là tâm được định chỉ chơn chánh, vì kiểm soát tâm khiến niệm ác không khởi nên gọi là trụ.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Tâm được định chỉ chơn chánh là thế nào?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Tuệ nghĩa là gốc nên gọi là định chỉ chơn chánh.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Tuệ là vô bổn cũng không rốt ráo, có thể từ tri kiến mà thành tựu định chỉ chơn chánh không?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngài nói, trước tự quán ngã sau mới thanh tịnh trí tuệ.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thưa ngài Nhu Thủ, như thế nào là trước tự quán ngã?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Các pháp vô ngã đến tận pháp Chơn như, tự thể của ngã là vô ngã, chẳng khởi cũng chẳng phải không khởi. Đó gọi là ngã tự quán ngã.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thưa ngài Nhu Thủ, nếu theo nghĩa mà đắc, không theo nghĩa mà đắc, tự quán ngã là quán hình tượng Phật thì giả sử có ngã thì có Phật sao? Tự thể của ngã là vô ngã sao lại có Phật? Không hiện ngôn từ, ngôn từ cũng vô ngã thì làm thế nào quán hình tượng Phật được?
Ngài Nhu Thủ nói:
– Các ngôn từ nói “Quán ngã” thì ngã đó tức là vô ngã. Đó gọi là quán ngã. Vì sao như vậy? Phàm quán ngã tức là quán các pháp, quán các pháp tức là quán Phật. Phật là vô hình nên cũng không thể thấy.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Phải chăng có phương tiện đó thì khiến các pháp không thành tựu đạt đến chánh kiến?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Có phương tiện đó thì làm cho các cảnh hữu vi không thành tựu an lập chánh kiến.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, chánh phương tiện như vậy là chánh kiến chăng?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Không vì tận chứng cũng không có quả báo, cũng không chấp thủ quả báo nên gọi là chánh kiến.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thấy như thế nào?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Không dùng mắt tuệ thấy các pháp, chẳng phải không dùng mắt tuệ thấy các pháp. Không dùng hữu vi, không dùng vô vi thấy các pháp. Vì sao? Phàm mắt tuệ cũng không thấy cảnh hữu vi, cũng không thấy cảnh vô vi. Không có mắt hữu vi thấy cảnh hữu vi, cảnh vô vi.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, phải chăng có phương tiện mà từ cái thấy bình đẳng đó nên thành tựu các quả chứng của Tỳ kheo?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Không phải từ cái thấy bình đẳng mà thành tựu quả chứng đó, cũng không pahỉ lìa cái thấy bình đẳng mà thành tựu quả chứng đó. Ngài Tối Thắng nên biết, tất cả đều do dục mong cầu ngũ cấu mà thành tựu. Ngộ rõ nghĩa này mới thành tựu quả chứng đắc.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thế nào là do dục mong cầu ngũ cấu mà thành tựu?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Cấu uế là gốc của tâm, tâm là gốc của đạo. Đạo là vô hình không thể thấy. Do vậy nên thành tựu quả chứng đắc.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Đạo là vô hình không thể thấy thì làm thế nào thành tựu quả chứng đắc?
Ngài Nhu Thủ đáp;
– Đạo mà tôi chứng được do quả chứng đó, thành tựu quả chứng thì chẳng phải là đạo. Kẻ phàm phu ngu si cho quả chứng là đạo. Chẳng nên nghĩ như vậy. Vì sao? Đạo chẳng phải là quả chứng. Quả chứng chẳng phải là đạo cũng không lìa đạo, cũng không lìa quả chứng.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Đạo và quả chứng không sai biệt chăng?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Đạo là vô vi nên không thể thấy. Quả chứng hữu vi cũng không thể thấy. Đó gọi là sai biệt.
Ngài Tối Thắng lại hỏi ngài Nhu Thủ:
– Theo lời Nhân giả nói phải chăng là từ hữu tế đạt đến vô tế?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Các pháp chưa sanh cũng không thấy sanh, chẳng phải không có sanh, sanh cũng là vô sanh. Không thấy đã sanh cũng chẳng phải không có đã sanh. Phàm đã sanh cũng không phải là đã sanh. Các pháp không phải đang sanh, chẳng phải không có đang sanh. Ngộ rõ đang sanh đều vô sở hữu, đó gọi là từ hữu tế đạt đến vô tế.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Không từ hữu sanh đạt đến vô tế sao?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Từ hữu sanh đắc được vô tế.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Từ vô sanh đắc được vô tế chăng?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Đúng vậy! Từ vô sanh đắc được vô tế.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào, thưa ngài Nhu Thủ, từ hữu sanh đắc được vô tế, từ vô sanh đắc được vô tế có gì khác biệt?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Sanh cũng là vô sanh, vô sanh cũng là vô sanh. Đó gọi là khác biệt.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Sanh đã có hình tướng, vô sanh thì không tên gọi, khác biệt như thế nào?
Lúc đó ngài Nhu Thủ nói với ngài Tối Thắng:
– Tôi vì ngài mà nêu ví dụ, kẻ sĩ có mắt do ví dụ mà tự rõ. Thế nào, thưa ngài Tối Thắng, hư không có hình tướng chăng?
Ngài Tối Thắng đáp:
– Không có.
Ngài Nhu Thủ hỏi:
– Hư không có chánh kiến không?
Ngài Tối Thắng đáp:
– Không có.
Ngài Nhu Thủ lại hỏi:
– Hư không thì thế nào?
Ngài Tối Thắng đáp:
– Hư không thì rỗng không.
Ngài Nhu Thủ lại hỏi:
– Hư không rỗng không thì thế nào?
Ngài Tối Thắng đáp:
– Các pháp hư không là rỗng không.
Ngài Nhu Thủ hỏi:
– Thế nào là các pháp hư không là rỗng không?
Ngài Tối Thắng đáp:
– Các pháp không nói, không thuyết rỗng không như hư không.
Ngài Nhu Thủ hỏi:
– Các pháp không nói, không thuyết vì sao rỗng không như hư không?
Bấy giờ ngài Tối Thắng im lặng không trả lời. Lúc đó Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Lành thay! Này Tộc tánh tử, ngộ rõ vô một cách chơn chánh thì không có đạo của Niết bàn. Đạo là vô hình cũng không thể thấy, không nói, không dạy cũng không có người nhận lãnh.
Khi Thế Tôn nói pháp vô hình này, tất cả chúng sanh đều vui mừng chưa từng có. Chín ngàn vị Tỳ kheo giải thoát tâm hữu lậu, hai vạn bảy ngàn vị Thiên tử chấm dứt các trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh. Lại có một ngàn hai trăm vị trời và người thé gian phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Năm ngàn vị Bồ tát ngay tại chỗ ngồi đắc pháp nhẫn bất khởi. Lúc ấy, trên tòa có vị Quỷ vương Vô Úy tự thân dẫn chúng quỷ của mình đến trước Đức Phật thưa:
– Chúng con ngu hoặc mãi mãi ở trong chốn mê muội, hôm nay mới được nghe giáo pháp vô hình. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, chúng con luôn luôn ủng hộ họ đến khi đạt rốt ráo thành Phật, để họ không bị nạn tai.
Lúc đó Quỷ vương đọc chú:
– Na la già la a tỳ ha ha. Con sẽ ủng hộ các vị thiện nam, thiện nữ trì tụng thần chú này khiến họ tụng đọc kinh điển ghi nhớ mãi trong tâm.
Khi ấy Phạm vương từ chỗ ngồi đứng dậy, dẫn các vị tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:
– Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, trong khu vực trăm do diên, ngàn do diên không để cho tà giáo ngoại đạo làm hại vị thiện nam, thiện nữ đó.
Phạm vương liền ở trước Đức Phật nói chú:
– Y la tỷ châu na tỳ gia xà lê da. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ đó đến rốt ráo thành Phật, không để họ bị nạn tai.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân cũng dẫn tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để họ bị nạn tai.
Vị ấy nói chú:
– Lưu già da ma na na tăng cầu thời na tả. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng thần chú này đến rốt ráo thành Phật không để bị nạn tai.
Khi đó Thiên vương Đề Đầu Lại Tra ở phương Đông cũng dẫn chúng tùy tùng của mình từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật thưa:
– Chúng con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, diễn nói kinh điển này, sẽ luôn ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật.
Vị ấy đọc chú:
– Đế na tứ na đế na tứ. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Lúc đó Thiên vương Tỳ Lâu Lặc Già ở phương Nam liền cùng chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng dọc kinh điển này, chúng con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn ai.
Vị ấy đọc chú:
– Ma ha tứ đà na tứ. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Thiên vương Tỳ Lâu Ba Xoa ở phương Tây dẫn chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Vị ấy đọc chú:
– Y nật di nật xà di. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Lúc đó Thiên vương Câu Tỳ La ở phương Bắc cùng chúng tùy tùng đến trước Đức Phật thưa:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ giữ gìn, tụng đọc kinh điển này, con sẽ ủng hộ họ đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Vị ấy đọc chú:
– Đà thí đà la thí. Con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ trì tụng chú này đến rốt ráo thành Phật, không để bị nạn tai.
Bấy giờ Quỷ vương Vô Úy, Phạm Thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân và bốn vị Thiên vương, mỗi vị đọc thần chú xong, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đầu mặt lạy sát chân Phật rồi mỗi vị trở về chỗ ngồi.
***
Phẩm 26: TRONG MỘNG THÀNH ĐẠO
Bấy giờ Bồ tát Trì Địa từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ sát đất, chắp tay bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, thật là hi hữu! Thật là lạ thường! Nay con được nghe Bồ tát Nhu Thủ cùng ngài Tối Thắng luận về pháp vô hình, đạo không ngôn giáo, là pháp con chưa từng được nghe, chưa từng được thấy, làm nối tiếp hạt giống Phật khiến không dứt đoạn, lại làm Phật sự, pháp không thể nghĩ bàn.
Đức Phật bảo ngài Trì Địa:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Từ ức trăm ngàn kiếp tích lũy công đức, làm hưng thạnh việc Phật chưa từng mảy may giảm sút. Có Đức Phật xuất hiện ở đời, pháp mới lưu bố.
Khi ấy ngài Nhu Thủ ở trước Đức Phật thưa:
– Chư Phật xuất hiện thế gian, pháp mới lưu bố thì các pháp có tướng mạo không? Dùng ngôn từ truyền bá chăng?
Đức Phật nói:
– Chẳng phải.
Ngài Nhu Thủ lại bạch Phật:
– Như Lai xuất hiện độ cho tất cả chúng sanh đều thủ diệt độ. Nay con nghe Như Lai muốn tế độ chúng sanh hạn lượng. Tế độ chúng sanh hạn lượng thì không diệt độ.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Phải chăng ông nghe Ta giảng không có chúng sanh nói có chúng sanh?
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Chẳng phải.
Đức Phật hỏi:
– Dục làm cho có chúng sanh hay không có chúng sanh chăng?
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Chẳng phải.
Đức Phật hỏi:
– Dục làm cho Như Lai khởi diệt, có trụ xứ chăng?
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Chẳng phải.
Đức Phật bảo:
– Nếu Như Lai không có trụ xứ thì vì sao nói Như Lai độ chúng sanh đều khiến họ diệt độ?
Ngài Nhu Thủ bạch Phật:
– Nay lời con nói là phân biệt tứ cú, ngộ rõ các pháp đều đạt đến Tổng trì, suy tư bổn tánh các pháp không sanh, không diệt; không thấy sanh tử cũng không có Niết bàn. Do đó nên không có chúng sanh hạn lượng sẽ thủ Niết bàn.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Tận hay vô tận, pháp giới vốn vẫn thanh tịnh. Do thấy rõ nghĩa lý nên gọi là không chấp trước. Do biết văn tự mà không có ý, không có tưởng cũng không có thức phân biệt chấp trước thì có thể nào do thức tưởng phân biệt các trí tuệ thấy rõ chúng sanh thanh tịnh! Bổn tánh của con người không thể biết cùng tận. Ta nay sẽ vì ông phân biệt nghĩa thù. Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy tư ghi nhớ pháp này, là pháp Đại thừa Bồ tát không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi Phật theo kịp.
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Con xin lắng nghe lời dạy, vui muốn được nghe.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Thức cô hình thì không biết rõ thức, không có thức niệm tưởng, thức nhận biết cảnh ảo hóa như mộng. Dùng đó để cứu độ, thu nhiếp vô lượng chúng sanh. Hoặc có cõi Phật dùng văn tự để giáo hóa, ngộ rõ tánh của văn tự là vắng lặng. Cách đây bảy vạn sáu ức A tăng kỳ cõi về phương trên có cõi Phật tên là An Tịch. Đức Phật hiệu là Diệu Thức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, là Bậc Thiện Thệ, đầy đủ mười hiệu. Chúng sanh cõi đó các căn đầy đủ, suy tư tu tập bổn nguyện không hề thiếu sót. Chúng sanh khi ngủ nhận lãnh giáo hóa mới được giác ngộ. Chỉ có Đức Như Lai tâm nhập định vắng lặng, theo căn tánh chúng sanh nên thị hiện phương tiện như đang ngủ. Nếu Đức Phật muốn nói pháp thì nằm hông phải chạm đất hai chân xếp lên nhau. Chúng sanh thấy thế đều bắt chước Như Lai nằm hông phải chạm đất, hai chân xếp lên nhau. Mỗi người đều ngủ say. Khi đó Đức Phật ở trong giấc ngủ nói pháp cho thần thức của các chúng sanh, hoặc nói pháp bố thí trừ sạch tam tưởng; hoặc nói pháp trì giới, hương đức hạnh lan xa; hoặc nói pháp nhẫn nhục, hàng phục tâm ý không khởi (sân hận); hoặc nói pháp tinh tấn, trừ bỏ lười biếng; hoặc nói pháp thiền định, thức không dong ruổi; tuyên nói pháp trí tuệ ngăn chặn sự ngu ám. Như Lai thực hành phương tiện khéo léo tùy theo loại, không chấp trước, với bốn pháp môn thấu tỏ, diễn nói không ngăn ngại, tùy theo thức cao thấp mà diễn giảng các giáo pháp đó, tùy theo căn thức mà nói pháp Đại thừa hay Tiểu thừa để truyền trao Chánh pháp. Khi đó Đức Như Lai ấy lại vì chúng sanh diễn nói bốn pháp vô thường, khổ, không, vô ngã xong, dần dần nói pháp ba mươi bảy đạo phẩm: bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám đạo Hiền Thánh; giảng rõ pháp định ý không, vô tướng, vô nguyện. Bấy giờ các thức ở trong mộng nhận lãnh giáo pháp, theo pháp tương ứng thành tựu quả Đạo tích (Tu đà hoàn). Các thức đó ở trong mộng thành tựu đạo quả Tần lai (Tư đà hàm), Bất hoàn (A na hàm) cho đến đạo quả Vô trước (A la hán) cũng như vậy. Các Đức Phật chứng ngộ cũng ở trong mộng, thức ở nơi trống trải, không thầy mà tự ngộ. Ở trong giấc ngủ, thân tướng màu hoàng kim, các tướng tự trang nghiêm, bay lên hư không hiện mười tám pháp biến hóa. Lại ở trong mộng trên thân phóng lửa, dưới thân tuôn nước, nằm ngồi trên hư không không bị ngăn ngại. Khi muốn nhập cảnh giới Niết bàn giải thoát cũng ở trong mộng ngồi kiết già trụ nơi Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn, thân như gỗ đá không hề hay biết. Các loại chúng sanh giác ngộ xong, mỗi vị không nói năng, không suy tư chấp trước thức trong mộng liền thu lấy Xá lợi để phụng thờ. Vị Bồ tát được thọ ký sắp thành Phật đều ở trong mộng, ngồi dưới tàng cội thọ vương, nơi vùng đất màu hoàng kim hàng phục ma oán, đầy đủ vô lượng phước. Thân có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng màu vàng tía chiếu xa. Bồ tát ở trong mộng như vậy giác ngộ thì thân sắc màu hoàng kim, đầy đủ các tướng, thần túc biến hóa không bị ngăn ngại, không có ngôn giáo âm thanh qua lại, muốn độ chúng sanh đều ở trong mộng, không mượn thân hư giả bên ngoài mà vẫn có chúng sanh được độ. Nhu Thủ nên biết, căn tánh chúng sanh lãnh thọ không đồng nhau nên chư Phật dùng trí tuệ hiện vô số phương tiện giáo hóa. Hoặc có cõi Phật do địa đại mà thành, chúng sanh ở địa giới không thể tính lường. Như Lai vào đó để giáo hóa họ, khi tất cả chúng sanh trụ cõi Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn. Hoặc có cõi Phật do thủy đại mà thành, chúng sanh ở thủy giới không thể tính lường. Như Lai vào đó để giáo hóa họ, khi tất cả chúng sanh trụ cõi Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn. Hoặc có cõi Phật do hỏa đại mà thành, chúng sanh ở hỏa giới không thể tính lường. Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ cõi Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn. Hoặc có cõi Phật do phong đại mà thành, chúng sanh ở phong giới không thể tính lường. Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ cõi Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn. Hoặc có cõi Phật do không đại mà thành, chúng sanh ở phong giới không thể tính lường. Như Lai vào đó giáo hóa họ, khiến tất cả chúng sanh trụ Niết bàn Vô dư mà bát Niết bàn. Hoặc có cõi Phật do thức đại mà thành gọi là An tịch Phật độ diệu thức Như lai, thần thức thông đạt ở trong mộng nhận lãnh giáo pháp mà thủ diệt độ.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Cách đây bảy mươi ức hằng hà sa cõi Phật về phương Bắc có cõi Phật tên là Thâm Yếu, Đức Phật hiệu là Phạm Tuệ Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười hiệu. Chúng sanh ở cõi đó đều phát thệ nguyện nên mới sanh đến cõi đó, đều đồng một hiệu là Tiếp Thức. Nhu Thủ nên biết, chúng sanh cõi đó đều có thần thông, thân hình tùy theo tâm niệm không bị ngăn ngại. Gọi là Tiếp Thức nghĩa là phát tâm hoằng thệ. Nếu có thần thức tương ưng với sanh thú thì thọ thân bào thai. Muốn thì dùng thần túc dạo đi qua lại trên hư không, tiếp thức vẫn trụ, biến hóa mà diệt độ không thọ thân bốn đại. Nay là tám vị Bồ tát Bàn Đà Hòa ở trên tòa kia.
Cách đây một trăm bốn mươi hằng sa cõi về phương Đông Nam, có cõi Phật tên là Phạm Âm, Đức Phật hiệu là Thai Chơn Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Chúng sanh cõi đó sáu pháp thần thông đều thuần thục, thân đồng một sắc tướng đều do thệ nguyện nên mới sanh về cõi đó. Gọi là Thai Chơn chính là phát tâm hoằng thệ. Nếu có thần thức ở trong thai mẹ là muốn dùng thần túc nhập thai để giáo hóa. Thần thức đó khiến người mẹ kia không biết mình đang ở trong thai, rồi ở trong thai trừ phiền não đắc giải thoát, đạt đến Niết bàn. Nay chính là Bảo Tích đồng chơn và Bồ tát Trì Địa đang ở trên tòa kia.
Như Lai dùng phương tiện giáo hóa có vô số pháp thần biến, lấy ức trăm ngàn cõi Phật đặt an ổn trong lòng bàn tay, rồi trả lại như cũ mà không ai hay biết. Pháp giới hư không không thể nghĩ bàn. Này Nhu Thủ, đó gọi là đạo tích mà bậc Đại Bồ tát phải tu tập, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi có thể đạt được, phân biệt thức vi tế giáo hóa chúng sanh khiến mỗi người đều được độ, hoặc nói pháp không vô hư vô, không ngã, không nhân, không thọ, không mạng, pháp không sanh diệt. Thế nào Nhu Thủ, nếu có vị thiện nam, thiện nữ phát tâm hoằng thệ khiến cho hàng La hán, Bích chi đầy khắp trong mười phương thế giới, mỗi vị đều thành đạo, tâm không thoái chuyển, phước đó có nhiều không?
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Bạch Đấng Thiên Trung Thiên, rất nhiều! Rất nhiều!
Đức Phật dạy:
– Nếu có Bồ tát dùng pháp vô hình diễn nói cho thức (chúng sanh), hoặc nói pháp vô thường, khổ, không, phi thân (vô ngã), không, vô tướng, vô nguyện; phân biệt rõ ràng từng pháp vô hình, vô tướng, không thể nắm giữ thì phước đức hóa độ thức đó thật vô lượng. Vì sao như thế? Bốn đại hữu vi phải bị trải qua già ca việt la. Bốn đại vô vi vĩnh viễn tịch tĩnh không khởi. Đó gọi là pháp chư Phật đã giảng nói, dùng phương tiện đó khiến vi thức tịch tĩnh. Pháp tánh không ngôn giáo mà không thể lường là hữu vi, hữu tướng hay vô vi, vô tướng. Vì sao? Vì không lìa hữu vi, không lìa vô vi, lại cũng không nói tu tập là xả bỏ pháp giáo hóa vô hình kia, không có pháp giáo hóa đó; (cho đó) là pháp phàm phu, là pháp Hiền Thánh; đó là pháp học, đó không phải là pháp học, là pháp Thanh văn, là pháp Duyên giác, là pháp Bồ tát, là pháp Phật.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Như Lai giảng nói pháp cho thức không thấy các pháp cũng không có pháp tưởng, hư không vô hình cũng không thể thấy. Kẻ phàm phu ngu mê dùng các màu sắc tươi đẹp vẽ trên hư không, muốn vẽ thành hình trời, rồng, thần… tám bộ chúng làm vật bố thí cho người, há có thể được không?
Ngài Nhu Thủ nói:
– Rất khó! Rất khó! Bạch Đấng Thiên Trung Thiên, điều đó chưa từng có.
Đức Phật dạy:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời nhân giả nói. Các pháp là vô số. Pháp mà Như Lai biến hóa cũng vô số. Các pháp vô hình tức không có hai pháp đối đãi. Này Nhu Thủ, theo ý ông thì thế nào, pháp vô hình có xứ sở không?
Ngài Nhu Thủ đáp:
– Bạch Thế Tôn, không có.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Do đó nên biết Phật pháp là vô số, không nói, không dạy, đều là pháp vô sở hữu.
Bấy giờ ngài Nhu Thủ ở trước Đức Phật thưa:
– Con vừa nghe Thế Tôn dạy các pháp không có tướng cũng không có hình chất. Đức Như Lai thương xót tất cả, không vật gì không quán thấy, vì sao lại nói khai hóa chúng sanh, thanh tịnh cõi Phật. đó là pháp hữu lậu hay là pháp vô lậu, là pháp hiện tại hay là pháp quá khứ, vị lai. Lại nữa, Đức Phật nói pháp đó là pháp độ thế gian hay chẳng phải là pháp độ thế gian, là có chấp trước hay không chấp trước, là có danh xưng hay không có danh xưng, là hữu số hay vô số? Đó là pháp sanh tử hay đó là pháp Niết bàn? Vì sao Thế Tôn nói các pháp không có tướng cũng không có hình chất?
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Như lời ông hỏi thì các pháp ba thừa, ba đời, sáu độ vượt qua sanh tử của thế gian, hữu vi, vô vi; không phải hữu vi, không phải vô vi; có chấp trước, không chấp trước; có danh xưng, không có danh xưng; hữu số, vô số; hữu lậu, vô lậu; ba mươi bảy phẩm pháp, không, vô tướng, vô nguyện, từ pháp hữu vi đến vô vi đều là pháp số thế gian, chẳng phải là đệ nhất nghĩa. Pháp vô hình thì không có hình tướng, không có âm tiếng nên không thể thấy. Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, pháp phương tiện khéo léo đều là pháp thế tục chẳng phải đệ nhất nghĩa, pháp Niết bàn diệt tận vĩnh viễn vắng lặng, an vui.
Đức phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Bồ tát phải suy tư tìm hiểu bổn tánh đó rồi lại diễn nói có báo ứng không, nói pháp trừ tám nạn mà âm thanh không tiếng có báo ứng không, truy tìm căn nguyên rốt ráo của chúng sanh có báo ứng không, thuận theo kinh điển, trừ sạch kiết sử có báo ứng không; nếu Như Lai không nhiễm ba đời, Chánh pháp khai hóa chưa từng tổn giảm có báo ứng không, nếu các pháp có quả báo ứng thì có thể cùng tận không, tâm thức thuần thục ra vào vô ngại có thể cùng tận không, hoặc dùng trí tuệ phương tiện thuận theo ái dục có thể cùng tận không, thuận oai nghi lễ tiết mà không phạm có thể cùng tận không, giáo hóa ba thừa đều làm cho sung mãn có thể cùng tận không, tư duy pháp bổn không xả pháp Tổng trì có thể cùng tận không; ngộ rõ chương cú các pháp là thanh tịnh, ngộ rõ chương cú pháp vi diệu phân minh, quán pháp bốn ý chỉ, định ý của chư Phật có thể cùng tận không; phân biệt pháp ý đoạn chưa từng lìa bỏ, diễn nói pháp vô cùng không cho là khó có thể cùng tận không; thần túc vô ngại với núi sông, vách đá thông đạt không ngăn ngại có thể cùng tận không, phân biệt rõ ràng pháp năm căn, thánh điển, chẳng phải là pháp ngoại đạo tà giáo có thể phá hoại có thể cùng tận không; thần lực của Như lai thẩm suy, diễn nói Chánh pháp, không khởi niệm tưởng nghi ngờ phải quấy, dùng hoa thất giác ý để tự trang nghiêm như đeo chuỗi ngọc anh lạc, ở trong đại chúng không có tâm khiếp nhược, luân nói ba mươi bảy đạo Hiền Thánh, vĩnh viễn lìa bỏ ngoại đạo tà giáo lại có thể cùng tận không; giảng nói pháp chánh định tam muội thuận nghịch, lại phân biệt danh thân, cú nghĩa có thể cùng tận không; Khổ, Tập, Tận, Đạo cho đến ba mươi hai tướng, ấn phong của đạo, mỗi tướng đều có phước báo lại có thể cùng tận không.
Ngài Nhu Thủ bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, giáo pháp vô hình nên không thể cùng tận. Các pháp hữu vi đều là pháp tổn giảm. Pháp Niết bàn vô vi mới không thể cùng tận.
Bấy giờ ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Niết bàn, người (nhập) Niết bàn. Thế nào là Niết bàn?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Gọi là Niết bàn tức là dừng nghỉ.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thế nào là dừng nghỉ?
Đức Phật nói:
– Là vô vi nhàn tĩnh.
Lại hỏi:
– Thế nào là vô vi? Thế nào là nhàn tĩnh?
Đức Phật nói:
– Tưởng diệt là nhàn tĩnh. Thức dừng là vô vi.
Lại hỏi:
– Chẳng phải là Không sao?
Đức Phật nói:
– Phi Không không.
Lại hỏi:
– Phi Không không thì làm sao thức dừng được?
Đức Phật nói:
– Phi Không không.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng tâm càng nghi hoặc liền bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, vì sao con hỏi hai việc mà Thế Tôn đều giải đáp giống nhau?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Dừng lại! Dừng lại! Này Tộc tánh tử, chớ cho là tính chất của Không trong lời giải đáp của Như Lai giống nhau. Chỉ vì tâm ý của Tộc tánh tử chưa ngộ rõ mà thôi. Nay Ta hỏi ông nghĩa của “Phi Không không” và thức vắng lặng an tĩnh. Ông theo sức biện tài trả lời Ta rõ ràng từng câu. Này Tộc tánh tử, thế nào là nghĩa của phi không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Các pháp vô số, chẳng phải không có số.
Đức Phật nói:
– Này Tộc tánh tử, chẳng phải.
Đức Phật lại hỏi:
– Thế nào là thức dừng vắng lặng an tĩnh.
Ngài Tối Thắng bạch Phật:
– Tất cả đều quy về không khởi, chẳng phải không có khởi.
Đức Phật nói:
– Này Tộc tánh tử, chẳng phải.
Lúc đó ngài Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, năm vóc sát đất, lạy chạm chân Phật, lui ra trong chốc lát rồi bạch Đức Phật:
– Con tự nghĩ có lỗi lầm với lời dạy của Như Lai. Cúi mong Thế Tôn thương xót tha thứ sự lầm lỗi đó. Mong Thế Tôn giảng nói để con vĩnh viễn đoạn trừ tâm ngu hoặc.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Pháp không phải nhiều, chỉ ngộ rõ là gốc. Trên ngọn Hương sơn có cội cây mỗi nhánh dài vạn dặm, trở cong ngược đâm sâu vào lòng đất thì trái mới chín. Trái phải ở trên cao, ngược lại nhánh thì càng dùi sâu xuống đất. Nay sở kiến của ông cũng như vậy. Ta hỏi ông Không mà ông dùng hữu để trả lời, cùng với quả và nhánh cây kia có khác gì. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ!
Ngài Tối Thắng thưa:
– Xin vâng. Bạch Thế Tôn!
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– “Phi” là “Phi Không”. Tất cả các pháp đều có hiệu là “Phi”. “Phi” là tên của các pháp. Pháp có tên gọi tức là “Phi Không”. Do ngộ rõ “Phi” quy về Không nên gọi là Phi Không. Pháp gọi là thức thì phi hữu, phi vô. Thế nào là thức phi hữu, phi vô? Ở thế gian không nhiễm thì gọi là phi hữu. Ở trong pháp Không vắng lặng, an tĩnh thì gọi là phi vô. Thức bỏ đây thích ứng với đó thì gọi là phi hữu. Ở bên bờ sanh tử thương xót chúng sanh thì gọi là phi vô. Có thể dùng hóa thân đầy khắp cõi mười phương, mỗi hóa thân đều không tịch thì gọi là phi hữu. Mỗi hóa thân đều nói pháp cảm hóa một thức thì gọi là phi vô. Như Lai nhập định, thân tâm tịch tĩnh trải qua ức ngàn na thuật hằng sa kiếp số, không khởi tưởng diệt thì gọi là phi hữu. Lại từ định khởi tiếp độ chúng sanh đưa họ đến giải thoát thì gọi là phi vô. Thế nào Tối Thắng, Ta nay phân biệt rõ ràng phi hữu, phi vô cho ông có phải là nghĩa chơn không Niết bàn không?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Không chính thật Không. Niết bàn chính thật Niết bàn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Dừng lại! Dừng lại! Này Tộc tánh tử, phi Không đó cũng là phi Niết bàn. Vì sao như vậy? Vì đều do phương tiện văn tự giả dối tương truyền, giả hiệu của thế tục nên gọi là phi hữu phi vô. Cảnh giới pháp tánh tận cùng không có đầu mối, không có danh tự, há phải có phi hữu, phi vô sao? Trừ sạch cao thấp, không có tâm phải quấy, biết tâm dục nộ hay không có dục nộ, ngộ rõ tâm vô minh hay không vô minh. Các buộc ràng của ngũ cái hiểu rõ là một cũng không thấy một thì gọi là Không, thì gọi là Niết bàn.
Bấy giờ ngài Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Lành thay! Lành hay! Thế Tôn nói pháp tánh Không và Niết bàn giới phi hữu, phi vô thật không ai sánh bằng.
Khi Thế Tôn nói pháp đó, sáu vạn Tỳ kheo có bổn nguyện Thanh văn hồi tâm chuyển ý theo Đại thừa, đều đắc bất thối chuyển. Mười một na thuật chư Thiên, người đời đều đắc hạnh tận tín. Lại có tám mươi ngàn vị Bồ tát ở phương khác đều đạt được pháp nhẫn bất khởi.
Đức Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử, Bồ tát ngộ rõ tánh Không có mười việc làm đưa đến đắc diệt độ. Mười việc ấy là gì? Một là chư Phật Thế Tôn luôn trụ pháp giới không xả đạo trí. Hai là chư Phật Thế Tôn từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh, không xả tâm đại bi. Ba là việc làm như nguyện, không có sai nghịch. Bốn là độ chúng sanh các căn thuần thục. Năm là chư Phật Thế Tôn quán rõ các pháp Không, không sở hữu. Sáu là chư Phật Thế Tôn phân biệt trí tuệ, tam độc, đẳng phần cũng không sở hữu. Bảy là chư Phật Thế Tôn ở các pháp giới không khởi tâm tăng giảm. Tám là phát khởi tâm học bình đẳng không hai. Chín là ngộ rõ pháp tánh Chơn như, không xả bổn tế. Mười là chư Phật Thế Tôn thực hành các đạo pháp nhất tướng vô tướng. Này Tộc tánh tử, đó gọi là Đại Bồ tát ngộ rõ pháp tánh Không, tu tập mười pháp này thì đưa đến đắc Niết bàn.
Lại nữa, Đại Bồ tát thực hành sáu pháp thần thông đến pháp giới Không có mười việc để tu tập. Mười việc đó là gì? Một là quán rõ hoàn toàn quá khứ, không mất trí tuệ sáng. Hai là quán rõ hoàn toàn vị lai, không mất trí tuệ sáng. Hai là quán rõ hoàn toàn vị lai, không mất trí tuệ sáng. Ba là quán rõ hoàn toàn hiện tại, không mất trí tuệ sáng. Bốn là quán chúng sanh trong năm đường, biết rõ hoàn toàn căn gốc, không mất trí tuệ sáng. Năm là quán tất cả pháp sanh, pháp diệt của tất cả thế gian, không mất trí tuệ sáng. Sáu là quán tất cả chúng sanh từ hữu mà sanh, từ hữu mà diệt, không mất trí tuệ sáng. Bảy là quán tất cả chúng sanh từ vô mà sanh, từ vô mà diệt, không mất trí tuệ sáng. Chín là không có tâm chọn lựa là có thể độ, là không thể độ, không mất trí tuệ sáng. Mười là ngộ rõ căn môn pháp giới không khuyết thiếu, không mất trí tuệ sáng. Này Tộc tánh tử, đó gọi là Đại Bồ tát tu tập sáu pháp thần thông đạt đến pháp giới Không.
Đức Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử, Đại Bồ tát đến pháp giới Không phải tu tập mười việc. Mười việc ấy là gì? Một là quán các chúng sanh có bao nhiêu loại tâm, có bao nhiêu loại hạnh đều biết rõ. Đó gọi là trí tuệ của Bồ tát. Hai là quán tất cả chúng sanh có bao nhiêu loại tâm, có bao nhiêu loại quả báo đều biết rõ. Ba là vắng lặng, vô ngôn như thái tử Vụ Phách, biết rõ hoàn toàn suy tư trong tâm ý chúng sanh. Bốn là biết dị tâm, dị hạnh của các chúng sanh, dùng trí tuệ của Phật, Hiền Thánh mà giảng dạy, truyền trao cho họ. Năm là từ lau xa đã tu tập pháp tánh, không xả bỏ tâm tội lỗi. Sáu là làm chúng sanh an trụ nơi pháp Phật trụ. Bảy là dùng trí tuệ Phật, Hiền Thánh biết rõ hoàn toàn tâm, ý, thức, niệm trong năm đường. Tám là có truyền dạy, giảng nói thì không xả bỏ pháp Đại thừa. Chín là đắc tâm thức định tĩnh, ý không loạn của Phật. mười là đạt tâm vô lượng, không trụ nơi pháp giải thoát cũng không thấy chúng sanh được độ. Này Tộc tánh tử, đó gọi là Đại Bồ tát đạt đến pháp giới Không, tu tập mười loại trí tuệ vô lượng.
***
Phẩm 27: CHỨNG BỒ TÁT
Đức Phật lại dạy:
– Này Tộc tánh tử, Đại Bồ tát nương sáu pháp thần thông đến vô số cõi Phật mười phương hầu cận, cúng dường chư Phật Thế Tôn, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác giáo hóa chúng sanh mà không có tâm khiếp nhược, khen ngợi công huân, đức hạnh của Phật, làm cho mười phương đều nghe thanh âm của Phật. Này Tối Thắng, không có việc làm nào của Bồ tát là không tế độ chúng sanh, hoặc dùng thần túc, hoặc dùng giáo giới, làm ruộng phước thanh tịnh không có đường ác, vĩnh viễn xả bỏ tà phái. Tâm niệm bi mẫn thương xót kẻ chưa được độ, đã vượt qua các tâm suy lường, trụ nơi tâm lượng của Phật, tạo phước cho người an trụ nơi giải thoát. Trong trăm ngàn kiếp tu tập Phạm hạnh thanh tịnh không bằng ở trong năm đường uế trược tu tập tâm Từ chuyên nhất. Phàm người có tâm Từ thì phước khó lường tính. Thế gian có nhiều người làm ba nghiệp ác: thân có ba, miệng có bốn, ý có ba pháp căn bổn thì phải hướng theo ba đường ác, phải thọ quả báo đó. Nếu người nào có thể chuyên tâm tụng đọc kinh điển này thì ở trong pháp hiện tại chấm dứt nguồn gốc khổ đó. Hoặc có Bồ tát mệt mỏi, nhàm chán sanh tử gặp được kinh điển này thì trọn không thoái chuyển, càng không thọ sanh ở trong thai mẹ; thần thức nhận biết sáng suốt, chưa từng sai lầm. Phàm muốn giải thoát buộc ràng, thanh tịnh các kết sử phải hộ trì Phật pháp, làm hưng hiển trí tuệ sáng. Nếu ở phương khác, trong trăm ngàn vạn kiếp phụng hành Chánh pháp, diễn nói nghĩa lý Chánh pháp không bằng ở cõi này trong khoảnh khắc khảy móng tay tụng niệm một bài kệ, phân biệt nghĩa lý tối diệu thù thắng đó. Ta thấy cõi Phật An Minh diệu lạc cũng thấy vô lượng cõi Phật vĩnh viễn vắng lặng. Ở đó không có nạn lo buồn, khổ phiền não, lại cũng không được làm việc phước. Nếu có thể ở đây chấm dứt các kết trói buộc thì đó là được duyên thù thắng sanh về nước đó. Vì sao như vậy? Ở trong đời năm trược, các phiền não vạn mối, trong ức ngàn vạn kiếp mới có Phật. Chúng sanh làm việc ác mà mong gặp được Hiền Thánh, hoặc sanh đến cõi biên địa, nơi có tám việc không nhàn; hoặc sanh vào trước hay sau Đức Phật nên không được nghe Chánh pháp, giả sử có Phật thì lại không thấy, không nghe. Có thể ở trong cảnh đó làm hưng khởi Phật pháp thì đó là thù thắng không gì có thể sánh bằng. Ta nay tuy là bậc tôn quý trong ba cõi, do phước nguyện hạnh nên không cho là nhàm chán, từ, bi, hỷ, hộ (xả) nhổ sạch nguồn gốc khổ. Chúng sanh nhiễm theo tà quá lâu khó làm thay đổi, đột nhiên nghe chánh giáo càng sanh tâm nghi ngờ hôm nay mới có thể gặp được pháp yếu tập của Như lai. Vô số bậc Bồ tát Đại sĩ không thể tính kể nghe pháp không nhàm chán, như biển cả quy tụ các dòng sông, phải diễn nói Phật đạo chơn chánh. Thích, Phạm Tứ Thiên vương, Rồng, Quỷ, Thần, A tu luân, Chiên đà la, Ma hưu lặc, Nhân cùng Phi nhân, các loại ma như Thiên ma ở mười phương tựu lại nay được nghe pháp đột nhiên đại ngộ đều là do phước nghiệp đã tạo ở đời trước. Giả sử Ta trong trăm ngàn vạn kiếp diễn xướng nghĩa lý thâm diệu của một câu thì không thể nói hết pháp bổn trí tuệ đó. Cho nên, này Tối Thắng, Bồ tát Đại sĩ tu tập vô số khổ hạnh cũng không cho là khó. Giả sử ba ngàn đại thiên cõi nước đồng một lúc nổi lửa thiêu cháy lên tận cõi Phạm thiên, chúng sanh phàm phu chưa chứng đạo tích nghe được kinh điển này, ở cõi Phật khác thân tự đi vào trong nạn lửa đó vẫn an ổn vượt qua, không bị thương tổn. Có khi ba ngàn đại thiên thế giới lửa tắt, nước dâng cao đến cõi Phạm thiên. Vị ấy tự thân đi vào cơn thủy tai đó mà vẫn an ổn vượt qua, hoàn toàn không bị chìm đắm. Tối Thắng nên biết, có khi ba ngàn đại thiên thế giới nước khô cạn, gió nổi lên thổi đến tận cõi Phạm thiên. Vị ấy lại tự thân đi vào cơn phong tai đó mà vẫn an ổn vượt qua không bị phiêu dạt. Vì sao như vậy? Là do được oai thần của chư Phật ủng hộ. Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di giữ gìn đọc tụng kinh điển này thì đời hiện tại được các thần hộ trì, không gặp khổ não. Nếu có thể tinh tấn tu tập Phạm hạnh thì ở đời hiện tại chứng đắc giải thoát. Ở trên tòa hiện nay có ức trăm ngàn cai na thuật vị Bồ tát thần thông đều tu tập kinh điển này nên mới chứng quả. Ta nay ân cần diễn xướng kinh điển này, người nghe được độ không rơi vào đường ác, theo chí hướng tương ứng thuở xưa mà trí tuệ ngộ rõ, hướng theo Phật thừa, ý rộng lớn không giới hạn, lại thương xót chúng sanh chứ không tự vì bản thân cho đến khi thành Phật trọn không mảy may lui giảm. Các vị theo pháp Duyên giác hoàn tất nhân duyên sở nguyện của mình rồi đều thành đạo, bay lên hư không tự do biến hóa. Các vị có nguyện tu tập pháp Thanh văn, cầu thầy học hỏi, lãnh thọ không bị chướng ngại, đoạn trừ các phiền não trói buộc, chấm dứt lậu hoặc, thành đạo. Bồ tát lại quán thấy tâm ý sở thú của chúng sanh. Hoặc có vị phát tâm sắp thành tựu quả Đạo tích (Tu đà hoàn), Bồ tát dùng trí tuệ phương tiện khuyến dụ đi vào đạo khác, dần dần dẫn dắt, họ liền thành La hán. Hoặc có chúng sanh sắp thành tựu quả Tần lai (Tư đà hàm), Bồ tát dùng trí tuệ phương tiện theo thứ lớp hướng dẫn họ đắc quả La hán. Hoặc có chúng sanh sắp thành tựu quả Bất hoàn (A na hàm), Bồ tát lại dùng trí tuệ phương tiện khai hóa đưa họ vào pháp tu tập, khiến họ thành tựu quả La hán. Hoặc có chúng sanh không theo thứ lớp đã thành tựu quả thứ ba, Bồ tát dùng trí tuệ phương tiện muốn làm cho người học đạo biết rõ tiểu tiết là không chơn thật, rồi khuyến dụ họ tinh tấn tu tập thành tựu quả Tu đà hoàn. Hoặc có chúng sanh đã thành tựu nhị đạo, Bồ tát lại dùng trí tuệ phương tiện tiếp dẫn họ thành tựu quả Tư đà hàm. Hoặc có chúng sanh vượt qua thứ lớp thủ chứng quả ứng chơn, Bồ tát dùng trí tuệ phương tiện quán sát họ đã đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, lại khuyến dụ họ tinh tấn tu tập đạo Duyên giác.
Bấy giờ Đức Như Lai bảo bốn bộ chúng, các vị trong hội:
– Chúng sanh vô số, cõi Phật không đồng. Các vị cho là bậc Duyên giác Như Lai (Bích chi Phật) không có cõi nước sao? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao như thế? Chuyển luân Thánh vương đã đầy đủ mười pháp lành, nối tiếp truyền thừa, không mất đi vương vị, danh hiệu. Bậc Duyên giác tự ngộ cũng như vậy. Phật diệt độ, sau đó pháp Phật cũng diệt mất, hoặc trải qua một kiếp đến trăm ngàn kiếp, các vị Duyên giác, Ứng chơn làm Phật sự; Phật Phật nối tiếp, với các Phật sự hoàn toàn không mảy may lui giảm. Cho nên Đại Bồ tát luôn dùng trí tuệ phương tiện khai hóa dẫn dắt chúng sanh lìa khỏi họa ba đời, an trụ nơi vĩnh viễn vắng lặng.
Khi ấy Bồ tát Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, ở trước Đức Phật thưa:
– Thật là kỳ diệu! Thật là đặc thù! Chẳng phải pháp hàng Nhị thừa có thể đạt. Con ưa muốn nghe phương pháp chứng nghiệm sự thành đạo.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Nếu ông ưa nghe, nay Ta sẽ vì ông mà nói. Lắng nghe! Lắng nghe! Tư duy và ghi nhớ pháp này. Ta xưa kia cầu đạo không thể tính lường, từ sơ phát tâm bố thí, làm việc công đức đến nay thành Phật. Trong khoảng thời gian ấy, di thể rải rác khắp nơi có thể tính được sao! Xưa kia Ta chứng nghiệm tâm hoằng thệ đã phát, nếu có chúng sanh có căn tánh hướng theo đạo, hoặc tự thân dốc lòng quy mạng Tam Tôn thì phải dùng thần thông thị hiện chứng minh, bảo vị ấy: “Không chỉ thân Ta từ xưa có nguyện đó. Thệ nguyện của chư Phật Thế Tôn đều giống nhau”. Nếu có chúng sanh tu tập Tứ hướng, Tứ quả, Ta cũng quán thấy rõ pháp tu tập chơn thật của họ. Giả sử có người thành tựu quả Duyên giác, Ta cũng chứng nghiệm nhân duyên tự ngộ (của họ). Nếu có chúng sanh ngồi dưới tàng cội thọ vương, trong khu vực năm mươi do tuần về các phương các loại ma như Thiên ma không thể thấy được. Đó là pháp chứng nghiệm của Ta.
Đức Phật lại bảo:
– Này Tộc tánh tử, Đại Bồ tát cũng giống như Ta hôm nay, thân hiện tại nhận lãnh chứng nghiệm, rộng độ chúng sanh, không thấy ngô ngã, tâm thức thông tỏ sáng suốt, phân biệt sở thú, thực hành bố thí, làm Phật sự, nhớ lại từng đến đi qua lại trăm ngàn vô số cõi Phật tu học rốt ráo đạo pháp. Ta luôn đứng trước vị đó chứng minh cõi đó là chơn thật. Xưa kia Ta đến cõi Phật Vô Úy. Khi ấy số Bồ tát ở đó nhiều không thể tính kể, hoặc có vị theo chí thú tiểu thừa la hán, hoặc có vị dừng ở địa Duyên giác, hoặc có vị chí tánh siêu việt chú tâm tu tập Phật đạo. Bấy giờ Ta chuyên tâm nhập định tam muội, vì khuyến tấn tất cả chúng sanh mà hiện chứng minh. Lại nữa, nếu có vị Đại Bồ tát tự thân tu tập Tu đà hoàn hướng đắc quả Tu đà hoàn, tu tập Tư đà hàm hướng đắc quả Tư đà hàm, tu tập A na hàm hướng đắc quả A na hàm, tu tập A la hán hướng đắc quả A la hán, Ta thường ở đó chứng minh quả báo thành tựu (của họ), chừng từng bỏ gốc pháp tánh.
Đức Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử, Đại Bồ tát đến ba ngàn đại thiên thế giới, có chúng sanh tín tâm, không tín tâm, có lãnh thọ, không lãnh thọ; hoặc có chúng sanh trụ Tận tín địa, lại có chúng sanh trụ Phụng pháp địa, hoặc có chúng sanh tu tập tám hạnh đồng chơn giải thoát, Ta luôn đến hiện thân chứng minh khiến họ đắc đạo.
Đức Phật lại dạy:
– Này Tộc tánh tử, thân, thức của Đại Bồ tát thanh tịnh không thể nhiễm ô. Nếu có chúng sanh tâm theo tà nghiệp, Ta cũng đến chứng minh đó là tà thuật không được trụ lâu. Hoặc có người cúng tế đất, nước, gió, lửa, Ta cũng đến giảng nói cho họ biết đó là pháp không chơn thật. Lại có người chấp theo tà giáo chủ trương sanh lên cõi Phạm thiên, Ta lại đến khuyến tấn họ rằng ở cõi đó phước hết phải trở lại thân người. Hoặc có người muốn sanh lên cõi trời Vô sắc trụ thọ mạng một kiếp, tâm luôn trụ chuyên nhất trong đó không đoạn tuyệt. Khi ấy Ta nhập định Chánh thức định ý, giảng nói cho họ rằng sắc không có sắc, sắc không tự có. Sắc của ta, sắc của người; ta, người đều không hình tướng. Sắc là vô sắc há lại có ngã. Thức chẳng phải ngã thức há lại có ngã. Thống (thọ), tưởng, hành, pháp cũng như vậy.
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Lành thay! Lành thay! Bạch Thế Tôn, Thế Tôn giảng dạy pháp hiện chứng thật không thể nghĩ bàn, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi Phật đạt được.
Khi ấy ngài Tối Thắng lại bạch Phật:
– Con vâng theo lời Phật dạy xin hỏi vô sắc là gì? Thế nào là vô sắc? Bạch Thế Tôn, cúi mong thương tưởng giảng nói để hàng hậu học vĩnh viễn không còn tâm hoài nghi.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Này Tộc tánh tử, lắng nghe! Lắng nghe! Hãy suy tư, ghi nhớ pháp này. Ta sẽ vì ông giảng nói định vô sắc. Gọi là vô sắc chính là không có sắc. Bốn đại tạo sắc nên gọi là sắc. Pháp nào không có sắc, đó mới gọi là vô sắc. Phàm sắc có năm pháp mới thành bốn đại. Do chỉ có sắc vô hình nên gọi là vô sắc. Thống (thọ) sắc, Tướng sắc, Hành sắc, Thức sắc chẳng phải là pháp mà kẻ phàm phu có ngũ thông thấy được. Chỉ có Đức Như Lai và bậc Bồ tát nhất sanh bổ xứ mới thấy sắc ấy.
Đức Phật dạy:
– Này Tộc tánh tử, bậc Bồ tát bất thoái chuyển dùng quyền phương tiện nhập định ý tam muội chánh thọ tịch tĩnh lên đến cõi trời Hữu tưởng vô tưởng vì các thức vi tế kia nói pháp vi diệu không, vô tướng, vô nguyện; sáu thân căn nhận lãnh pháp không có hành vi sanh diệt rồi dần dần nói pháp vi diệu không, vô tướng, vô nguyện; sáu thân căn nhận lãnh pháp không có hành sanh diệt rồi dần dần nói pháp sanh, pháp già, pháp bệnh, pháp chết cho họ. Gọi là sanh tức là ở trong thai mẹ, sanh tạng ở dưới, thục tạng ở trên, bốn đại đã đầy đủ thì phải rời thai mẹ. Nếu túc nghiệp có thiện hạnh thì như bơi lội trong ao ngắm nhìn hoa cảnh trong hậu viên. Nếu túc nghiệp tích lũy ác hạnh thì như leo lên núi hang hiểm trở, nằm trên gai sắc nhọn. Bồ tát lại vì họ giảng nói hướng hành hoạt của thần thức; ngã, nhân, thọ mạng không thể giữ gìn lâu dài. Ở trong đó tế độ thần thức được tỉnh thức, chỉ trụ thức A lan ca lan. Các pháp như thế nhiều không thể tính kể. Ức ngàn na thuật chư Phật hiện trước mặt, mỗi vị hiện pháp thù thắng thậm thâm. Thức đó ngu hoặc như bình lủng đáy, không nhận lãnh lời dạy các pháp đạo phẩm chơn chánh. Một kiếp giảm rồi một kiếp khô cháy, trải qua số ức trăm ngàn na thuật như vậy. Trong số kiếp khô cháy đó, hoặc có một kiếp một Đức Phật xuất hiện ở đời, hoặc có một kiếp hai Đức Phật xuất hiện ở đời, hoặc ở một kiếp trăm Đức Phật, ngàn Đức Phật, ức trăm ngàn Đức Phật xuất hiện ở đời như thế. Sau đó thức mới nhận lãnh chánh giáo. Bồ tát lại vì các thức đó giảng nói pháp già suy. Gọi là già, suy chính là các căn thuần thục, da mặt nhăn nheo, buồn bã sầu não, rên rỉ nhàm chán họa bốn đại, không còn tâm vinh hoa của tuổi trẻ. Pháp già suy đó không thể giữ gìn lâu dài. Tiếp theo Bồ tát lại vì các thức đó giảng nói về tánh Không đồng nhau của bốn đại: địa, thủy, hỏa, phong. Địa thắng thủy tánh, thủy thắng hỏa tánh, hỏa thắng phong tánh, hỗ tương có tăng giảm thì biến thành bệnh của thân, hoặc sanh ra nhọt đau, bị vạn căn bệnh hành hạ, máu mủ tuôn chảy không ai dám nhìn. Bồ tát lại nhân đó giảng tiếp về pháp vô thường biến đổi như chùm bọt trên mặt nước sanh đó rồi diệt đó. Sanh là tự sanh, diệt là tự diệt. Sanh không tự sanh, diệt không tự diệt. Thần thức không niệm tưởng thì ở nơi đó, theo hướng tu tập của mình mà mỗi thức đều đạt được quả chứng, ở Niết bàn vô dư mà bát Niết bàn.
Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, con vừa nghe Như Lai giảng nói về tánh không đồng nhau của bốn đại, nơi thần thức nương trụ. Địa tăng, thủy giảm thì sanh ra thân bệnh. Thủy tăng, hỏa giảm thì sanh ra thân bệnh. Hỏa tăng, phong giảm thì sanh ra thân bệnh. Con lại nghe Như Lai nói phong tăng thì hỏa giảm, hỏa tăng thì thủy giảm, thủy tăng thì địa giảm. Thức chẳng phải bốn đại, bốn đại chẳng phải thức. Nay con nghe Phật nói một đại tăng thì ba đại bệnh, ba đại tăng thì một đại bệnh. Bốn đại đầy đủ thì thần thức được yên ổn. Suy yếu là do bốn đại, chẳng phải từ thức sanh ra. Vì sao Thế Tôn lại nói bệnh do bốn đại, cũng từ thức sanh ra?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Thức chẳng phải bốn đại, bốn đại chẳng phải thức. Thức không lìa bốn đại, bốn đại không lìa thức. Cho nên một đại tăng thì các đại bệnh, các đại tăng thì một đại bệnh. Thức theo đó suy hao.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Là bốn đại bệnh chăng? Là thần thức bệnh chăng?
Đức Phật dạy:
– Thức do đại mà bệnh, đại do thức mà bệnh.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Thức do bốn đại nên mới tự có tác dụng sai khiến. Bỏ thân hình đã thọ, mỗi đại của bốn đại đều tách biệt thì thần thức của thân kia làm sao mà không tổn giảm?
Đức Phật bảo:
– Này Tộc tánh tử, lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới có thể ở trước Như Lai hỏi pháp đó. Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông. Thức là vô hình nên không thể thấy. Thức chẳng phải là có thức, do đại mà có thức. Bốn đại đều tăng thì thức có bệnh. Bệnh chẳng phải do bốn đại mà do thức sanh ra. Vạn căn bệnh tăng giảm đều do thức sanh ra. Từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, thần thức không cấu uế, cũng không do bốn đại.
***
Phẩm 28: GIẢI TUỆ
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, Đại Bồ tát giữ gìn ý kiên cố không thể phá hoại như thế nào? Bồ tát giữ gìn ý chơn thành trọn không hư vọng như thế nào? Bồ tát nhất tâm hướng theo Phật đạo, không khởi tâm nhị thừa như thế nào? Bồ tát giữ gìn oai nghi, không mất lễ tiết như thế nào? Bồ tát phòng hộ ý, thiền định, không xả chánh thọ như thế nào? Bồ tát trụ pháp chư Phật mà không thoái chuyển như thế nào? Bồ tát đi khắp nơi truyền giáo hóa độ khiến Phật chủng không dứt đoạn như thế nào?
Khi ấy Thế Tôn bảo ngài Tối Thắng:
– Lành thay! Lành thay! Chỉ ông mới có thể ở trước Như Lai hỏi nghĩa đó. Ta nay sẽ vì ông giảng rõ, phân biệt. Hãy khéo suy tư, ghi nhớ.
Ngài Tối Thắng thưa:
– Bạch Thế Tôn, con ưa thích mong được nghe.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát tu hành bốn pháp thì tâm ý kiên cố không thể phá hoại. Bốn pháp đó là gì? Một là tâm Từ thương yêu chúng sanh như mẹ thương con. Hai là thêm siêng năng tinh tấn mà không lười biếng. Ba là độ các chúng sanh như ảo, như hóa. Bốn là với kho tàng giáo pháp của chư Phật, không pháp nào là không thông tỏ tường tận. Đó gọi là Đại Bồ tát thực hành bốn pháp đó mau thành tựu Phật đạo, chưa từng thoái chuyển. Bồ tát lại phải tu hành bốn pháp thì được nhập định vắng lặng của Hiền Thánh. Bốn pháp đó là gì? Một là ngộ rõ chúng sanh, không có tưởng chúng sanh. Hai là quán các thế gian, không có tưởng vui thích. Ba là tán thán Đại thừa, vĩnh viễn lìa khỏi đạo Nhị thừa. Bốn là với các cảnh khổ vui không bị tâm mong cầu vinh hiển lôi kéo. Lại có bốn pháp. Bốn pháp là gì? Một là giới, hai là văn, ba là thí, bốn là xuất yếu. Lại có bốn pháp đưa đến thành tựu Phật đạo, không có tâm nghi ngờ, không mất oai nghi. Bốn pháp đó là gì? Một là không lợi dưỡng. Hai là không suy hao. Ba là không chê bai. Bốn là không ca ngợi. Lại có bốn pháp làm tăng ích căn lành. Bốn pháp đó là gì? Một là giáo huấn chúng sanh trụ nơi tín địa. Hai là tâm nhân từ bố thí cho người không mong có quả báo. Ba là nói pháp mà không có niệm tưởng pháp. Bốn là danh hiệu Bồ tát không thể xưng kể. Lại có bốn pháp mà Bồ tát tu tập từ Nhất địa đến Thập địa. Bốn pháp đó là gì? Một là làm lớn căn lành. Hai là trừ bỏ ngu ám, không theo tà phái. Ba là dùng vô số phương tiện khéo léo thích hợp để giáo hóa. Bốn là giữ tâm dõng mãnh, tinh tấn ngày càng tăng. Lại có bốn pháp quyền phương tiện khéo léo đưa đến Phật đạo. Bốn pháp đó là gì? Một là tinh tấn khiến tà phái an trụ chánh đạo. Hai là hóa độ người chưa ngộ khiến họ hướng theo nẻo thiện. Ba là nói pháp không phân biệt người nghe có cao, có thấp. Bốn là dùng trí tuệ Phật, Hiền Thánh độ người chưa được độ. Lại có bốn pháp thành tựu oai nghi. Bốn pháp đó là gì? Một là không nhiễm tam hữu, biết đó là khổ. Hai là tự nghĩ rằng ta và người kia cùng nhau khổ vui. Ba là luôn thực hành nhẫn nhục, không khởi tâm ác. Bốn là ở địa vị cao sang không có tâm kiêu mạn, ở địa vị thấp hèn không có tâm hổ thẹn. Lại có bốn pháp không xả bỏ tâm đạo. Bốn pháp đó là gì? Một là ghi nhớ gốc công đức của Phật. Hai là làm chúng sanh an trụ đạo tâm kiên cố. Ba là thân với thiện tri thức, không nhiễm tà kiến. Bốn là tu tập hướng thượng theo pháp Đại thừa, không tu tập theo vọng kiến. Lại có bốn pháp vui nơi nhàn tĩnh, không ở nơi náo loạn. Bốn pháp đó là gì? Một là khiến cho người có tâm hướng theo Tiểu thừa đến với pháp Đại thừa. Hai là làm cho bậc thành tựu quả Duyên giác tinh tấn tu tập thành tựu Phật đạo. Ba là nghe pháp không nhàm chán, không dứt đoạn tâm đạo. Bốn là như pháp được nghe không có tâm tham tiếc. Lại có bốn pháp Bồ tát nên tu tập. Bốn pháp đó là gì? Một là Bất khởi pháp nhẫn, biết rõ tất cả chúng sanh. Hai là Vô tận pháp nhẫn cũng không quá lượng. Ba là Nhân duyên pháp nhẫn trừ tâm Duyên giác. Bốn là Vô trụ pháp nhẫn, biết rõ tất cả chúng sanh, tâm không nương chấp. Lại có bốn pháp trừ bỏ kiết sử. Bốn pháp đó là gì? Một là chuyên tâm nhất ý tư duy đường ác. Hai là đã vĩnh viễn trừ bỏ, đoạn diệt kiết sử, càng không tạo ra kiết sử mới. Ba là hiểu rõ các pháp, không trụ pháp mê ám. Bốn là tâm luôn thể nhập thành thục trăm ngàn pháp tam muội. Lại có bốn pháp du hành bốn bộ chúng. Bốn pháp đó là gì? Một là tự thân luôn vì pháp không tính toán ngô ngã. Hai là khởi tâm kính trọng, tâm không phóng dật. Ba là tu tập làm cho các gốc công đức thiện ngày càng tăng trưởng. Bốn là lìa bỏ Tiểu thừa dùng pháp Đại thừa để hướng đạo. Lại có bốn pháp khiến tài thí, pháp thí đạt đến vô vi. Bốn pháp đó là gì? Một là nhận lãnh pháp không sai lầm. Hai là không theo tâm khác. Ba là không tiếc thân mạng. Bốn là ý không thoái chuyển. Lại có bốn pháp bố thí không nghĩ tưởng quả báo. Bốn pháp đó là gì? Một là liễu tri mình và người đều không hình tướng, đều là Không. Hai là hạnh phải chơn chánh, tu tập đạo Vô thượng. Ba là ngộ rõ vô ngã biết ngã do si, ái sanh. Bốn là tánh đạo vô tế, thực hành hợp với chơn tế. Lại có bốn pháp độ người vô lượng. Bốn pháp đó là gì? Một là ngộ rõ dâm, nộ, si không có sanh diệt. Hai là tu tập tâm Từ rộng độ chúng sanh, không có tâm phẫn nộ. Ba là ngộ rõ các pháp phiền não. Bốn là tuy ở trong đời ngũ trược nhưng không xả bỏ tâm đạo. Lại có bốn pháp đưa đến thành tựu đạo căn. Bốn pháp đó là gì? Một là dùng tâm nhân từ bố thí, biết rõ đó là đạo đứng đầu. Hai là khuyên bảo người khác tinh tấn trừ bỏ tâm xan tham. Ba là tu tập hạnh hợp với pháp Không, không ngôn ngã. Bốn là với pháp sâu xa không khởi tâm nghi ngờ. Lại có bốn pháp thiền định không khuyết giảm. Bốn pháp đó là gì? Một là không tính toán chúng sanh hữu số hay vô số. Hai là không thấy cõi Phật thanh tịnh hay không thanh tịnh. Ba là tâm từ, bi, hỷ, hộ (xả) biến khắp thế giới. Bốn là đầy đủ trí tuệ Phật, không bỏ bổn thệ. Lại có bốn pháp đưa đến đạo tràng của Phật. Bốn pháp đó là gì? Một là nói trước cười sau, không có ý làm thương tổn người. Hai là như pháp đã nói thực hành phải chơn chánh. Ba là ngộ rõ đạo, vô đạo cũng không trụ chấp pháp. Bốn là có tâm mong cầu hay không có tâm mong cầu đều biết quy về Không. Đó gọi là Đại Bồ tát tu tập ứng hợp với Không, ở trong pháp chư Phật tu tập đạo Vô thượng.
Khi Đức Phật nói pháp này, hai vạn hai ngàn trời và người đời đều phát tâm Vô thượng chánh chơn. Lại có một vạn hai ngàn người ngay chỗ ngồi đắc được Bất khởi pháp nhẫn. Lại có vô số vị trời ở mười phương tung rải hoa cúng dường đầy ngập đến đầu gối.
***
Phẩm 29: TAM ĐỘC
Bấy giờ ngài Đồng chơn Nhu Thủ bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, on nay nghe Như Lai giảng nói bốn pháp môn trí tuệ, được sức an lập căn tánh thật là sâu xa vi diệu, là pháp Bồ tát tu tập chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi theo kịp. Nay con xin hỏi Như Lai ở cận phần trung gian định tu tập sơ thiền, quán niệm pháp ác bất tịnh thì đó là quán thân mình bất tịnh hay quán thân người bất tịnh?
Đức Phật bảo ngài Đồng chơn Nhu Thủ:
– Nếu có Bồ tát chưa lên địa vị Bồ tát, vị ấy tự quán thân mình là pháp ác bất tịnh thì được sức an lập căn tánh, hoặc tự quán thân mình rồi quán thân người khác, lại dùng trí tuệ phương tiện quán thân dơ thối, máu mủ chảy tràn, ở trong pháp đó khai ngộ vô số chúng sanh lìa bỏ tâm chấp tịnh, đều biết thân là không phải chơn thật. Lại nữa, này Nhu Thủ, hoặc có Bồ tát ở cận phần định tu tập lên trung gian định mà chưa ngộ rõ sơ thiền. Lại có Bồ tát đã lìa cận phần định, trụ tâm ở trung gian định rồi dùng quyền tuệ tu tập lên sơ thiền. Hoặc có Bồ tát đã vượt qua cận phần trung gian định, tâm thanh tịnh, tiếp theo tu tập sơ thiền, niệm thọ trì căn gốc của năm hạnh, rồi tu tập hướng lên đạt pháp nhị thiền. Hoặc có Bồ tát xả cận phần trung gian định của bốn cấp thiền trên, tu tập sơ thiền, nhị thiền rồi hướng lên tu tập pháp căn bổn tam thiền, tự giữ tâm hỷ an. Lại có Bồ tát đã lìa khỏi tam thiền lại xả bốn hạnh tu tập đệ tứ thiền, rồi ở trong tứ thiền tư duy, quán niệm pháp ác bất tịnh. Lại có Bồ tát không do bảy cấp định mà tâm đắc ngay Diệt tận định. Hoặc có Bồ tát đã thể nhập chánh định vĩnh viễn vắng lặng, quán khắp thế giới không có chúng sanh, ngã, nhân, thọ mạng; pháp sanh diệt đều vô sở hữu. Hoặc có Bồ át trụ ở nhất địa thọ Bồ tát vị, phân biệt pháp tam độc dâm, nộ, si, dùng quyền tuệ hóa độ phù hợp quán tâm chúng sanh, có tâm vô minh hay không có tâm vô minh, có tâm ái dục hay không có tâm ái dục, có tâm sân khuể hay không có tâm sân khuể, Bồ tát đều biết rõ. Tối Thắng nên biết, Đại Bồ tát quán khắp các pháp không thấy pháp sanh, không thấy pháp diệt, lại với các pháp không thấy hoàn toàn chấm dứt, không thấy không hoàn toàn chấm dứt. Các câu hỏi như vậy là thanh tịnh. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát quán các niệm ràng buộc chấp trước, ở trong đó cầu thanh tịnh, cần hỏi phải hỏi. Pháp đó vĩnh viễn vắng lặng, an ổn, không phải là pháp biến đổi khác, thấy sanh tử thanh tịnh, không thấy dơ uế, đó gọi là Vô sanh luận của Đại Bồ tát. Vượt qua sanh tử mà không thấy có vượt qua, đó gọi là luận lý vô sanh. Niết bàn không hình tướng vắng lặng vô vi, đó mới gọi là tương ưng với luận lý vô sanh. Này Tối Thắng, nếu ở trong các ràng buộc chấp trước đều biết là quy về không thì không thấy sanh tử, có người chứng đắc; không thấy chỗ xuất sanh, chỗ khởi diệt cũng không thấy xuất hiện thế gian, cũng không thấy Niết bàn. Đó gọi là luận lý vô sanh của Bồ tát. Lại nữa, này Tối Thắng, nhân duyên tụ tán pháp ác bất tịnh, đó gọi là luận lý vô sanh của Bồ tát. Thân cận, thành tựu, chứng quả bất thoái chuyển, trí đoạn vô ngại, biết hoàn toàn không sanh, đó gọi là luận lý vô sanh của Bồ tát. Lại nữa, này Tối Thắng, Đại Bồ tát ngộ rõ nhân duyên tan hợp, chứng tâm bất thoái chuyển, trí đoạn vô ngại, vĩnh viễn thoát ly tam hữu, đó gọi là luận lý vô sanh của Đại Bồ tát. Gọi là các pháp không dứt đoạn thiện căn, biết thiện hay bất thiện, đó là pháp thế tục hay pháp độ thế; đó là pháp ngăn ngại, đó là pháp không ngăn ngại; đó là pháp hữu vi, đó là pháp vô vi; đó là pháp hữu lậu, đó là pháp vô lậu. Đó gọi là luận lý vô sanh của Đại Bồ tát. Lại nữa, này Tối Thắng, Bồ tát tư duy phân biệt thân tướng vô hình của Phật, lại phân biệt bao nhiêu pháp tánh, tư duy công đức khó lường của Thánh chúng, lại tư duy chúng sanh chẳng đồng nhất, lại phải phân biệt cõi nước không giống nhau, thú hướng của tâm khó thể biết rõ hoàn toàn. Đó gọi là luận lý vô sanh của Đại Bồ tát. Lại nữa, này Tối Thắng, tất cả các pháp đều thanh tịnh, tất cả các pháp đều không thanh tịnh. Đó gọi là luận lý vô sanh của Bồ tát.
Ngài Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Vì sao tất cả các pháp thanh tịnh là luận lý vô sanh? Vì sao tất cả các pháp không thanh tịnh là luận lý vô sanh?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Các pháp không có thức cũng không có hành báo. Các thức tưởng hiện hữu cùng pháp tương ưng. Đó gọi là thanh tịnh, không thanh tịnh. Tất cả các pháp có vô số loại tướng, hoặc có các pháp khi chưa ly niệm thì cầu phương tiện làm tăng trưởng lợi ích công đức. Công đức đã tăng trưởng lợi ích thì các thiện đều đầy đủ. Các thiện đã đầy đủ thì tu tập hơi thở ra vào. Quán sổ tức đã đạt tâm định thì gọi là thanh tịnh, không thanh tịnh.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Quán sát các pháp định, không định như thế nào?
Đức Phật đáp:
– Tự thân ở trong cảnh giới vĩnh viễn thoát ly, không có dục. Với ức vạn pháp đều biết nghĩa của định, không định.
Ngài Tối Thắng lại hỏi:
– Định thì chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải không có thanh tịnh. Không có định thì chẳng có thanh tịnh có thể gọi là định, không định chăng?
Đức Phật dạy:
– Rất ít người có trí tuệ có thể hiểu rõ nghĩa định, không định.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Bạch Thế Tôn, thế nào là vĩnh viễn thoát ly không có dục, với ức vạn pháp biết định, không định; định là đạo, không định thì chẳng phải đạo?
Đức Phật dạy:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông hỏi. Nếu có vị Tộc tánh nam hay nữ với các pháp giới không biết đã định, sẽ định, chưa định thì với các pháp chưa thông tỏ, đã thông rỏ, sẽ thông tỏ. Vì sao. Như kinh Hương Lạc đã nói: “Với các pháp đã định, nghe không sanh tâm nghi ngờ thì có thể tinh tấn tu tập hướng thượng mà tâm không thoái chuyển. Theo pháp được nghe thường tu tập không bỏ thì gọi là nghĩa của định, không định”. Nếu có chúng sanh với định, không định sanh tâm nghi ngờ thì không thể ở địa này tu tập đến địa khác. Do không vượt qua thứ bậc can địa thì không thoát ly sanh tử để trụ pháp Niết bàn. Vì sao? Chư Phật Thế Tôn không chấm dứt sanh tử căn bổn thì không vào Niết bàn.
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Có phải chư Phật Thế Tôn thường không diễn nói vượt qua sanh tử, an trụ Niết bàn?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Vâng, đúng vậy.
Đức Phật lại hỏi:
– Có phải ông thường nghe Thế Tôn diễn nói các pháp: đó là sanh tử, đó là Niết bàn?
Ngài Tối Thắng thưa:
– Chẳng phải.
Đức Phật dạy:
– Do vậy, này Tộc tánh tử, chư Phật Thế Tôn không nói sanh tử, cho đó là hạ liệt; không nói Niết bàn, cho đó là tăng thượng. Này Tộc tánh tử, chư Thế Tôn chỉ nói sanh tử, Niết bàn, theo thức phân biệt có hai pháp thì không thể thoát ly sanh tử đến bờ Niết bàn.
Đức Phật lại bảo ngài Tối Thắng:
– Đại Bồ tát từ pháp Không quán sát qua lại không thấy chúng sanh, có chúng sanh tưởng; không thấy Niết bàn, có Niết bàn tưởng. Vì sao? Vì không thấy ở trong sanh tử có chỗ luân hồi, không thấy Niết bàn có đắc diệt độ.
Khi ấy Bồ tát Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén y bày vai phải, quỳ thẳng, chắp tay bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, lành thay! Lành thay! Như Lai đã giảng, nói không có tướng chúng sanh và Niết bàn; nói pháp, nói nghĩa lý chơn chánh tương ưng với tịch nhiên, không thấy sanh tử cùng với Niết bàn.
Ngay lúc đó hai ngàn bảy trăm vị Tỳ kheo ở trên tòa giải thoát tâm hữu lậu, đắc Bất khởi pháp nhẫn. Vì sao? Vì các vị đã ngộ rõ chúng sanh thì không có sanh tử, ngộ rõ Niết bàn thì không có Niết bàn. Lại cũng không nói có độ chúng sanh, cũng không nói Niết bàn vĩnh viễn vắng lặng. Ngộ rõ pháp tánh Không thì chẳng có sanh tử, chẳng có Niết bàn. Bấy giờ bảy trăm vị Tỳ kheo ngồi trong pháp hội âm thầm từ chỗ ngồi đứng dậy, thâu xếp y bát, không duyên cớ gì mà bỏ đi. Mỗi người đều cúi đầu tự bảo nhau: “Chúng ta vì sao phải trầm đắm trong cảnh khổ không vừa ý này!? Ngày đêm siêng năng tu tập Phạm hạnh, thường nói là có Niết bàn. Niết bàn không đưa đến chứng đắc diệt độ, cũng không có đạo, huống là sẽ có người thành tựu đạo”.
***
Phẩm 30: HỎI VỀ NIẾT BÀN
Bấy giờ Bồ tát Tối Thắng bạch Đức Phật:
– Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh muốn làm cho các pháp sanh khởi thì không có đạo thành tựu Đẳng Chánh giác, huống chi với pháp Niết bàn mà muốn thành đạo. Việc ấy không phải như vậy. Niết bàn không có tánh cũng không có tên hiệu, vì sao muốn ở trong Không mà cầu Không? Niết bàn thì không phải một, huống phải mong cầu số lượng các pháp. Bạch Thế Tôn, bảy trăm vị Tỳ kheo đó được Như Lai cắt bỏ râu tóc cho, vận ba pháp ý, tay cầm bình bát, tu tập Phạm hạnh thanh tịnh vừa sanh tâm thoái chuyển trở lại địa vị phàm phu, muốn cầu Niết bàn có chỗ trụ. Giống như dầu mè và đề hồ lạc tô, dầu thì lan khắp, tô thì ngưng tụ. Sanh tử, Niết bàn cũng như thế. Niết bàn cứu cánh thì không có các pháp tướng. Đạo lớn Niết bàn cũng không có giới hạn đáy, vách. Người mê muội chấp sai lầm cho là vĩnh viễn dài lâu, họ đều cho rằng Niết bàn có sanh diệt, trước đoạn. Chỉ có người tu tập chánh kiến thì không thấy các pháp có khởi, có diệt; không thấy các pháp có thọ nhận, có xả bỏ.
Khi ấy, Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn, bảy trăm vị Tỳ kheo vừa nghe giáo pháp xong, mỗi người đều bỏ đi tán loạn. Họ lại phải trải qua thời gian bao lâu mới được độ thoát, vĩnh viễn thoát ly sanh tử, không còn tà kiến?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Nếu ông muốn biết điều đó thì hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy khéo tư duy pháp này. Ta sẽ vì ông trừ sạch nghi ngờ.
Ngài Tối Thắng thưa:
– Vâng, bạch Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy:
– Quá hằng sa kiếp mới có một Đức Phật xuất hiện. Trải qua bảy mươi hai ức hằng sa kiếp số như vậy, họ cũng không được độ. Vì sao? Suốt ức ngàn vạn kiếp, Đức Phật mới xuất hiện thế gian, gặp Phật rất khó, kinh pháp khó được nghe. Hôm nay Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng diễn bày đạo pháp, nói pháp Niết bàn không sanh diệt. Họ ở trong Chánh pháp sanh tâm tà kiến, tâm phát khởi luôn theo tà kiến, không theo chánh đạo. Giống như kẻ sĩ dõng mãnh, có nhiều sức lực, biết tất cả phương pháp kỹ thuật, không có kỹ thuật nào là chưa từng luyện tập thuần thục, có sẵn dụng cụ của lục nghệ; xem thiên văn, địa lý, tinh tú đoán tai nạn thảy đều thành thạo. Nhưng kẻ lực sĩ đó luôn sợ hư không, tự nghĩ toan tính dong ruổi khắp bốn phương ẩn náu ở chỗ nào không có hư không. Thế nhưng ở mọi nơi đều luôn thấy hư không. Các Tỳ kheo đó cũng như vậy. Giả sử trải qua trăm ngàn vạn kiếp, muốn ở trong pháp Không mà lập tên Niết bàn thì việc đó không thể nào có được. Chí hướng đến Niết bàn mà không liễu ngộ tánh Không, tâm mong cầu đạo thì trọn không có quả. Lại nữa, nếu có người muốn cầu pháp Không, ở nơi nơi chỗ chỗ niệm hiện tiền đều luôn quán Không, cũng không nói rằng Không này, Không kia có bao nhiêu tướng, không thấy từ pháp Không quán tất cả niệm có sự thành tựu sở đắc. Đó mới chính là ngộ rõ pháp xuất yếu của Niết bàn. Các Tỳ kheo đó đời trước tu tập theo tà nên nay không giác ngộ mà muốn cầu đạo lớn giải thoát Niết bàn. Họ còn không thể phân biệt danh hiệu tên gọi thì làm sao có thể phân biệt đạo Niết bàn, trọn đời lẩn quẩn mong cầu diệt độ chỉ uổng phí công sức của mình mà không thể đạt được. Vì sao? Giả hiệu Niết bàn như ảo, như hóa, là Không, là vô sở hữu; là giả danh nên là Không, là danh hiệu hư dối giả đặt do người ngu truyền tụng, chẳng phải là pháp được tán thán trong pháp luật của Hiền Thánh.
Bấy giờ lại có hơn bảy trăm vị Tỳ kheo an lập hạnh ngay tại chỗ ngồi tận trừ các trần cấu, đắc pháp nhãn thanh tịnh, tam đạt lục thông không bị chướng ngại, ngộ rõ Phật là vô sanh cũng không sanh diệt, không với các pháp quá khứ cầu Niết bàn; với giáo giới trí tuệ biện tài mà vô số hằng sa chư Phật quá khứ đã nói đều thấy không nhiều, từ phàm phu lên đến bậc vô học, diễn nói đạo giáo không có sai nghịch, không thấy chúng sanh trôi nổi trong sanh tử, không thấy Niết bàn sẽ khởi diệt. Vì sao? Tất cả các pháp đều là Không như hư không, không thấy nơi chốn mà chư Phật xuất hiện. Lúc đó sáu trăm vị Ưu bà tắc, ba trăm vị Ưu bà di ngồi trên tòa đều đắc hạnh tận tín. Vô số trời và người đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chơn. Bấy giờ Trưởng lão Xá Lợi Phất bảo năm trăm vị Tỳ kheo:
– Các ông, mỗi người đều đạt được thông tuệ chắc hẳn là theo bổn nguyện?
Các Tỳ kheo thưa:
– Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất, nguyện của chúng con từ thuở xưa hôm nay đã đạt được, việc phải làm đã làm nên không còn thọ thân sau.
Ngài Xá Lợi Phất nới:
– Với các pháp thiện đã được hỏi trên, các ông biết rõ hướng tu tập chưa?
Các Tỳ kheo thưa:
– Chấm dứt các kiết phược, lại không chấp nhiễm thân hiện hữu, không yêu thích sanh tử, không chấp trước Niết bàn. Tu tập pháp Niết bàn giải thoát hợp với tánh Không, tận trừ không còn kiết phược cũng không thấy tận trừ thì gọi là Niết bàn.
Khi ấy ngài Xá Lợi Phất khen ngợi các Tỳ kheo đó:
– Lành thay! Lành thay! Này Tộc tánh tử, các vị đã ngộ rõ chơn thật nghĩa lý sâu xa của tánh Không. Nay có bao nhiêu bậc Hiền trụ ở phước địa?
Các Tỳ kheo thưa:
– Tôn giả Xá Lợi Phất chính là phước điền mà Như Lai đã nói, thực hành bố thí, làm Phật sự chưa từng tổn giảm. Chúng con với mười sáu phần chưa được một.
Ngài Xá Lợi Phất nói:
– Năm trăm người các ông đều là bậc đã giải thoát tâm bỉ thử cũng là phước điền.
Các Tỳ kheo thưa:
– Thánh tuệ của Như Lai, tánh tự thanh tịnh với các pháp giới không bị chấp nhiễm.
Khi ấy Bồ tát Tối Thắng ở trước Đức Phật thưa:
– Thế gian có bao nhiêu bậc Hiền chắc chắn báo đáp được ân thí?
Đức Phật bảo ngài Tối Thắng:
– Không chấp trước pháp thế gian thì có thể báo đáp được ân thí.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Lại có bao nhiêu bậc Hiền với thí thanh tịnh?
Đức Phật đáp:
– Không thọ các pháp mới gọi là thanh tịnh.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là bố thí phước điền?
Đức Phật đáp:
– Quên đạo pháp của Phật mới gọi là phước điền.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Lại có bao nhiêu bậc Hiền với các loại chúng sanh làm thiện tri thức, truyền dạy, chỉ dẫn thiện ác?
Đức phật đáp:
– Không bỏ tất cả loại chúng sanh thì gọi là thiện tri thức.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế gian có bao nhiêu bậc Hiền có thể báo đáp ân của Phật?
Đức Phật đáp:
– Đạt được bốn pháp vô úy, không dứt đoạn hạt giống Phật.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế gian có bao nhiêu bậc Hiền có thể cúng dường Như Lai?
Đức Phật đáp:
– Trong ức vạn kiếp tu tập không mê hoặc thì gọi là cúng dường.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế gian có bao nhiêu bậc Hiền có thể đạt được Phật tạng?
Đức Phật đáp:
– Chấm dứt thọ mạng của thân mình, (cũng) không hủy giới của Phật.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Lại có bao nhiêu bậc Hiền có thể phát tâm cung kính?
Đức Phật đáp:
– Thủ hộ các căn có thể đóng bít sáu tình.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Pháp gì mà thế gian gọi là đại trân bảo?
Đức Phật đáp:
– Là thành tựu bảy báu.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là ngộ rõ túc hạnh?
Đức Phật đáp:
– Tu tập đệ nhất vô thượng tuệ nghĩa.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là ở thế gian ít dục?
Đức Phật đáp:
– Không mong cầu ở thế gian.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là ngộ rõ thế gian không chấp trước?
Đức Phật đáp:
– Dứt trừ các kiết phược cũng không có ngũ cái.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Ai ở thế gian được vui vẻ, không có các khổ.
Đức Phật đáp:
– Vì không buộc ràng nên gọi là vui.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là không bị buộc ràng?
Đức Phật đáp:
– Ngộ rõ năm ấm, mười tám pháp bổn trì là không tịch vô vi.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Ai có nạn đó?
Đức Phật đáp:
– Ngoài xả sáu trần, trong xả sáu tình.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Ai vượt qua bờ này đến được bờ kia?
Đức Phật đáp:
– Lập căn, đắc lực là người thành đạo.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là tâm bố thí không dứt đoạn của Bồ tát?
Đức Phật đáp:
– Tiêu trừ ba tưởng, không khởi trần lao.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thực hành tâm nhẫn như thế nào để khi gặp đối tượng không sanh tâm sợ hãi, e dè?
Đức Phật đáp:
– Ngộ rõ tâm không tịch, không khởi tâm niệm giận dữ.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là Bồ tát tu tập tinh tấn?
Đức Phật đáp:
– Niệm khởi từ tâm không có đầu mối.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là tâm thiền định không thiếu giảm?
Đức Phật đáp:
– Tâm định vĩnh viễn tịch tĩnh, không thọ ngoại trần.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là tuệ nghiệp diễn xướng các pháp?
Đức Phật đáp:
– Phân biệt nghĩa lý, không bỏ tâm đạo.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là Bồ tát tu tập tâm Từ không bỏ gốc đạo?
Đức Phật đáp:
– Không bỏ chúng sanh, thấy có người được độ.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là Bồ tát thực hành tâm Bi?
Đức Phật đáp:
– Tư duy các pháp mà tâm không thoái chuyển.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là Bồ tát không dứt đoạn tâm Hỷ, đạt đến diệt độ?
Đức Phật đáp:
– Không khởi ngã tưởng, chấp có ngô ngã.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là Bồ tát không dứt đoạn tâm Hộ (Xả)?
Đức Phật đáp:
– Phòng hộ, giữ gìn gốc đạo cho đến khi thành Phật. Trong khoảng thời gian đó không khởi tưởng khác.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Bồ tát lập tín căn như thế nào?
Đức Phật đáp:
– Vượt thắng pháp ngoại đạo, không cùng tà phái liên hệ.
Ngài Tối Thắng hỏi:
– Thế nào là ngộ rõ Không mà không do dự?
Đức Phật đáp:
– Ngộ rõ đạo, phi đạo; đạo không có nguồn gốc. Đó gọi là pháp nghiệp mà Đại Bồ tát phải thực hành.
***
Phẩm 31: TỨ PHẠM ĐƯỜNG
Bấy giờ ngài Đồng chơn Nhu Thủ trong tâm tự nghĩ: “Thế nào là Đại Bồ tát tu tập Phạm hạnh thanh tịnh thân, khẩu, ý biến khắp bốn dòng để độ chúng sanh, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác chưa từng lìa bỏ chúng sanh? Thế nào là Bồ tát tinh tấn thành tựu Phật đạo, không mất tâm định khi Bồ tát tu tập, thực hành?”. Đức Phật biết tâm niệm đó liền bảo ngài Nhu Thủ:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nghĩ. Bồ tát tu tập các loại pháp bổn không giống nhau. Ta nay diễn nói nghĩa đó cho ông. Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy tư ghi nhớ pháp này.
Ngài Nhu Thủ thưa:
– Xin vâng. Bạch Thế Tôn.
Đức Phật bảo ngài Nhu Thủ:
– Thân hành thanh tịnh, không làm các điều ác. Miệng nói lời chí thành, không mất pháp tánh. Tâm ý bất động, an định các niệm lo sợ. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Tâm Từ đối với chúng sanh, không buộc ràng bởi ái dục, luôn tu tập quán pháp ác bất tịnh, giữ tâm mình kiên cố, không có niệm ngu tối. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Ở trong chúng như ở nơi đồng trống, không mất oai nghi, đi đứng qua lại nghi dung đều chỉnh tề, chưa từng vi phạm làm mất cấm giới của Như Lai. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Với các pháp của Phật thảy đều giải thoát; vô dục, giải thoát không thể nghĩ bàn. Pháp tu tập của Thánh chúng vĩnh viễn không có ba thừa. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Với Dục giải thoát thấy rõ là vô hình, giải thoát tâm sân khuể, với tánh si cũng như vậy. Tu tập thiền giác cửu thứ đệ định bất động. Đó gọi là thông tuệ của Bồ tát. Không ràng buộc trong cõi Dục mong cầu ngôi vị Chuyển luân, không ở trong cõi Sắc hy vọng thành tựu phước báo, lại không tư duy đạo của cõi Vô sắc. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Lại ở trong pháp Không chẳng có vô nguyện, vô tướng cũng chẳng phải không chấm dứt hành hữu lậu, ngộ rõ các pháp như ảo, như hóa. Đó gọi là gốc thông tuệ của bồ tát. Nếu ở trong chỗ chúng sanh trọn không mất tâm ý, từ chỗ trụ này đến chỗ trụ khác ý yêu ghét đều bình đẳng. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Không trái nghịch gốc các pháp quá khứ, với hiện tại và tương lai cũng như vậy. Với nhiễm hay vô nhiễm đều không thấy nhiễm trước. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát.
***
Phẩm 32: PHẠM THIÊN THỈNH VẤN
Bấy giờ Đại Bồ tát Tối Thắng bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, thân hành thanh tịnh không làm nghiệp ác, diễn nói ngôn giáo trọn không hư dối, tâm niệm thanh tịnh, siêu việt gốc đạo. Nay Thế Tôn luận về Tứ đẳng Phạm đường (Tứ đẳng tâm): từ, bi, hỷ, hộ (xả), tế độ chúng sanh, một người chưa được độ trọn không xả bỏ, quê mất. Dùng tâm Từ trừ bỏ niệm dâm, dùng bất tịnh trừ bỏ niệm chấp thường tịnh, quán tướng vô hình. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Với các pháp bổn đều được giải thoát, với ba pháp bao đều được giải thoát hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Đã biết vô dục nên biết chúng sanh cũng vô dục. Sân khuể không có gốc đều biết là Không. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Thực hành tâm Từ không gián đoạn, không chấp trước cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Tâm trụ trong các pháp Tứ thiền tận trừ, không khởi tưởng. Đó gọi là gốc thông tuệ của Bồ tát. Đại Bồ tát luôn thể nhập không, vô tướng, vô nguyện cũng không tìm cầu tướng của các pháp. Hoặc có Bồ tát phát tâm hoằng thệ: “Nếu ta thành Phật, quốc độ, chúng sanh không có tên đạo tam thừa. Ta hôm nay chí thành như vậy quyết thành Phật Đẳng Chánh Giác hóa độ rộng rãi chúng sanh mà không có tâm nhàm chán”.
Khi ấy tám vạn trời, người an lập tín địa. Ma vương và quyến thuộc trở về cõi của mình.
***
Phẩm 33: CHÚC LỤY CHO PHẠM THIÊN
Đức Phật bảo Thiên vương Vô Úy và các đại chúng Bồ tát:
– Ta từ vô số A tăng kỳ kiếp tích lũy công đức, tự đạt quả vị Phật, không nhiễm ba pháp ở thế gian. Tất cả loại chúng sanh có hình tướng bò, bay, máy, cựa luôn nhiễm trước năm ấm mà không bỏ. Bậc Hiền Thánh do không nhiễm tám pháp, ngộ rõ năm ấm, mười tám pháp bổn trì là Không, không sở hữu nên lìa khỏi tám việc: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
Đức Phật bảo Phạm thiên:
– Nếu có vị thiện nam, thiện nữ tụng đọc, thọ trì kinh điển này thì các loại mà như Thiên ma không thể phá hoại. Vì sao? Vì vị ấy được oai thần của chư Phật Thế Tôn bảo vệ. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ cầu Đẳng Chánh Giác Vô thượng chánh chơn thì đều do kinh điển này mà chứng được đạo.
Đức Phật bảo Phạm thiên:
– Ta nay từ một kiếp cho đến trăm ngàn kiếp và đầy khắp chúng sanh đều cùng nhau tán thán kinh điển này cũng không thể nói hết được. Vì sao? Vì kinh này tên là “Tạng vô tận”, chẳng phải pháp hàng La hán, Bích chi đạt được. Có một tên khác là “Bồ tát Tối Thắng sở vấn”. Ta nay chúc lụy kinh này không để thiếu, mất một chữ; vị thân, cú thân đều đầy đủ. Như Ta nay thành tựu Phật đạo, có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, ánh sáng quanh thân phát ra bảy thước, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Có vị thiện nam, thiện nữ nào chí thành cầu Phật đạo, cúng dường Đức Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác không bằng tụng đọc kinh điển này trong khoảnh khắc khảy móng tay. Vì sao? Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác đều do kinh này mà thành Phật đạo. Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích chi Phật đều do kinh điển này mà được thành tựu.
Khi ấy Phạm thiên Vô Úy ở trước Đức Phật thưa:
– Bạch Thế Tôn, nếu có vị thiện nam, thiện nữ chí thành cầu Phật, tụng đọc kinh điển này, ghi nhớ không quên, chúng con sẽ ủng hộ vị thiện nam, thiện nữ đó khiến trong vòng trăm do tuần, các loài ma như Thiên ma không đạt được mục đích của chúng.
Đức Phật bảo Phạm thiên:
– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều tụng đọc kinh điển này nên chắc chắn đạt tâm kiên cố, không thoái chuyển. Nếu có vị thiện nam, thiện nữ tu tập bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy pháp giác ý, tám đạo Hiền Thánh, Không, Vô tướng, Vô nguyện thì đều do kinh điển này mà thành tựu thế gian, có đầy đủ bốn chúng của Phật là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di.
Bấy giờ ngài Đồng chơn Nhu Thủ, Bồ tát Tối Thắng, Tôn giả Xá Lợi Phất, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền đạp hòa, A tu luân, Ca lưu la, Chiên đà la, Ma hưu lặc nghe lời Phật dạy xong, làm lễ rồi lui ra.