QUÁN NIỆM A DI ĐÀ PHẬT TƯỚNG HẢI TAM MUỘI CÔNG ĐỨC PHÁP MÔN
Đường Thiện Đạo tập ký
Bản Việt dịch (1) của Thích Pháp Chánh
Bản Việt dịch (2) của Huyền Thanh
***
Quán Niệm A Di Đà Phật Tướng Hải Tam Muội Công Đức Pháp Môn
Việt dịch: Thích Pháp Chánh
1/ Y vào Quán Kinh nói rõ pháp Quán Phật Tam Muội
2/ Y vào Bát Chu Tam Muội Kinh nói rõ pháp Niệm Phật Tam Muội
3/ Y vào kinh nói rõ vào đạo trường Niệm Phật Tam Muội
4/ Y vào kinh nói rõ pháp sám hối phát nguyện trong đạo trường
*
1 – Y vào Quán Kinh nói rõ pháp Quán Phật Tam Muội.
(Xuất từ Quán Kinh và Quán Phật Tam Muội Hải Kinh)
Quán thân chân kim sắc của Phật A Di Đà, viên quang soi thấu khắp nơi, đoan chánh không thể so lường. Hành giả, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào, cũng phải thường quán tưởng điều này. Hành giả lúc nằm lúc ngồi cũng phải quán tưởng, thường giữ ý tưởng hướng về phương tây, và cũng phải quán tưởng sự trang nghiêm của chư thánh chúng và của cõi Cực Lạc, dường như đối trước mắt.
Hành giả, nếu muốn tọa thiền, trước tiên cần phải ngồi kết già, chân trái đặt trên đùi bên phải, đừng để so le. Chân phải đặt trên đùi bên trái, đừng để so le, bàn tay phải đặt lên bàn tay trái, hai ngón tay cái chạm vào nhau. Kế đó ngồi ngay thẳng, ngậm miệng, nhắm mắt he hé, dường như mở mà không mở, nhắm mà không nhắm. Trước tiên, dùng tâm nhãn quán tưởng loa kế [búi tóc] trên đỉnh đầu Phật. Tưởng da đầu màu vàng kim, còn tóc thì màu xanh đen (Hán: cám thanh sắc), mỗi sợi tóc đều xoáy hình trôn ốc, xoắn tại đỉnh đầu. Xương đầu màu trắng như tuyết, sáng thấu trong ngoài; não màu như pha lê. Kế đến, quán tưởng não có mười bốn đường mạch, mỗi mạch có hai mươi bốn luồng ánh sáng, đều xuất phát từ chân tóc, ánh sáng nhiễu quanh loa kế bảy vòng, sau đó trở lại nhập vào lỗ chân lông. Kế đến, quán tưởng từ lỗ chân lông mày phát ra luồng ánh sáng phóng ra phía trước, kế quán tưởng trán Phật bằng phẳng, kế quán tưởng lông mày của Phật dày và cong như mặt trăng lưỡi liềm, kế quán tưởng tướng bạch hào (lông xoắn phía giữa chặng lông mày). Lông màu trắng, ngoài chắc trong rỗng, từ đầu lông phóng ánh sáng màu hoàng kim, chiếu sáng thân Phật. Quán Phật Tam Muội Kinh dạy: “Nếu có người quán tưởng tướng bạch hào trong chừng khoảnh khắc, hoặc thành hoặc không thành, đều được trừ diệt tội nặng trong chín mươi sáu ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp sinh tử. Nếu thường tu pháp quán tưởng này sẽ được trừ chướng diệt tội, lại được vô lượng công đức, và chư Phật hoan hỷ.” Kế đến, quán tưởng hai mắt dài rộng, đen trắng phân minh, quang minh chiếu khắp. Kế đến, quán tưởng tướng mũi cao thẳng. Kế đến, quán tưởng khuôn mặt tròn đầy. Kế đến, quán tướng đôi môi đỏ thắm phát ra ánh sáng. Kế đến, quán tưởng hàm răng đều đặn, khít khao, trắng sạch bóng ngời. Kế đến, quán tưởng tướng lưỡi rộng dài mềm mại, phía cuống lưỡi có hai ống dẫn nước bọt vào cuống họng, thấm thẳng vào tâm vương.
Tâm đức Phật như đóa sen đỏ, mở nhưng không mở, đóng nhưng chẳng đóng, có tám vạn bốn ngàn cánh sen, xếp thành tầng lớp, mỗi cánh sen có tám vạn bốn ngàn đường gân, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn tia sáng, mỗi tia sáng biến hiện một trăm hoa sen báu, trên mỗi hoa sen báu có một vị Bồ tát Thập địa, thân màu hoàng kim, tay cầm hương hoa cúng dường tâm vương, các ngài cùng nhau tán thán tâm vương. Hành giả lúc quán tưởng như vậy, trừ diệt tội chướng, được vô lượng công đức. Chư Phật Bồ tát đều vui mừng, chư thiên quỷ thần cũng đều hoan hỷ, phát tâm vô thượng.
Kế đến, quán tưởng cổ và hai vai của đức Phật tròn đầy. Kế đến, quán tưởng hai tay dài đẹp. Kế đến, quán tưởng hai lòng bàn tay có tướng vành bánh xe ngàn căm, mười ngón tay thon dài có mạng lưới, ngón tay màu đồng đỏ. Kế đến, quán tưởng lồng ngực của đức Phật nở nang tròn trịa, trên có hình chữ Vạn sáng ngời. Kế đến, quán tưởng bụng Phật thon đẹp. Kế đến, quán tưởng rốn của đức Phật tròn, lún sâu, thường phát ra ánh sáng. Kế đến, quán tưởng tướng âm tàng của Phật bằng phẳng, tròn đầy, giống như trăng rằm, và cũng bằng phẳng giống như phần bụng và lưng.
Đức Phật bảo: “Nếu có người nam người nữ nào nhiều tâm tham dục, nên quán tưởng tướng âm tàng của đức Như Lai, thì sẽ dứt trừ tâm tham dục, trừ diệt tội chướng, được vô lượng công đức. Chư Phật vui mừng, chư thiên quỷ thần đều đến hộ trì; người đó sẽ được sống lâu, ít bị bệnh tật.”
Kế đến, quán tưởng hai mắt cá chân tròn trịa. Kế đến, quán tưởng hai vai vạm vỡ giống như ngực nai chúa. Kế đến, quán tưởng gót chân tròn như mũi voi chúa. Kế đến, quán tưởng hai mu bàn chân vun tròn như mu rùa chúa. Kế đến, quán tưởng các ngón chân dài và có mạng lưới, móng chân màu đồng đỏ. Kế đến, quán tưởng đức Phật ngồi kiết già, bàn
chân trái đặt lên đùi bên phải, bàn chân phải đặt lên đùi bên trái, lòng chân ngang bằng. Kế đến, quán tưởng dưới lòng bàn chân có tướng bánh xe nghìn căm, mỗi căm phóng ra ánh sáng chiếu khắp mười phương. Quán thân tướng Phật, từ đỉnh đầu cho đến lòng bàn chân, gọi là quán đầy đủ sắc thân trang nghiêm của đức Phật. Đây là quán theo chiều thuận. Kế đến, quán tưởng hoa tòa. Trước hết, quán tưởng tòa sen. Kế đến, quán tưởng cánh hoa sen. Mỗi cánh sen xếp chồng lên nhau đến tám vạn bốn ngàn lớp. Quán tưởng trên mỗi cánh sen có trăm ức món trân bảo trang nghiêm. Mỗi món báu phóng ra tám vạn bốn ngàn tia sáng chiếu đến thân Phật. Kế đến, quán tưởng cọng sen có tám mặt, mỗi mặt có trăm ngàn món châu báu trang nghiêm, phóng ánh sáng rực rỡ khắp nơi. Kế đến, quán tưởng đất báu. Các món trân bảo trên mặt đất đều phóng tám vạn bốn ngàn tia sáng chiếu đến thân Phật và chúng sinh trong lục đạo ở khắp mười phương, đồng thời, hành giả cũng quán tưởng tất cả tia sáng đều quay trở lại chiếu vào thân mình. Pháp quán tưởng này trừ diệt tội chướng và được vô lượng công đức. Chư Phật Bồ tát vui mừng, chư thiên quỷ thần cũng đều hoan hỷ, ngày đêm gần gũi hộ trì. Hành giả trong tất cả mọi thời đều được an ổn, sống lâu, phước lạc, không bị bệnh tật. Theo lời Phật dạy, hành giả trong khi tu tập, nếu thấy được cảnh giới Tịnh độ, chỉ nên tự mình nhận biết, tuyệt đối không nên nói cho người khác, nếu không, sẽ bị quả báo bệnh dữ, chết yểu. Nếu như tu hành đúng pháp, đến lúc lâm chung, sẽ được vãng sinh thượng phẩm.
Nên y theo mười sáu pháp quán tu tập, sau đó chuyên tâm tu pháp quán tưởng bạch hào, nhất tâm nhất ý, không được tán loạn, nếu tâm không định, tam muội khó thành. Đây gọi là pháp Quán Phật Tam Muội. Trong tất cả mọi thời, đều nên hồi hướng cầu vãng sinh Tịnh độ. Chỉ cần y vào mười ba pháp quán đầu của Quán Kinh mà an tâm tu tập, không được hoài nghi. Kính bạch quý hành giả! Nếu muốn vãng sinh Tịnh độ, chỉ cần trì giới, niệm Phật, tụng A Di Đà Kinh. Mỗi ngày tụng mười lăm biến kinh, hai năm sẽ được một vạn biến. Nếu mỗi ngày tụng ba mươi biến kinh, thì một năm sẽ được một vạn biến. Ngoài ra mỗi ngày nên niệm một vạn câu A Di Đà, lại còn tùy thời lạy Phật, tán thán công đức cõi Tịnh độ. Phải nên tinh tiến niệm Phật, mỗi ngày hoặc ba vạn câu, sáu vạn câu, mười vạn câu, đều sẽ được vãng sinh thượng phẩm thượng sinh. Tất cả công đức tu hành đều nên hồi hướng Tịnh độ. Phần trên đã nói rõ pháp tu Quán Phật Tam Muội.
*
2 – Y vào Bát Chu Tam Muội Kinh nói rõ pháp Niệm Phật Tam Muội.
(Phương pháp bảy ngày bảy đêm vào đạo trường tu Niệm Phật Tam Muội của phẩm Thỉnh Vấn trong Kinh Bát Chu Tam Muội)
Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Có tam muội tên Chư Phật Mười Phương Đều Hiện Trước Mặt (1). Nếu có thể tu pháp này, tất cả những điều mong cầu đều được thỏa mãn.”
Bạt Đà Hòa bạch Phật: “Nguyện Phật từ bi giảng nói, để cho chúng sinh mười phương đều được thoát ly khổ não, hưởng sự an lạc.”
Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Có tam muội tên Định Ý, người tu cần phải nhất tâm tu tập, không được tu tập pháp môn khác, sẽ được công đức thù thắng đệ nhất.” Kế đến, phẩm Hành (kinh Bát Chu Tam Muội) nói: Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Các Bồ tát nếu muốn mau đắc định, phải thường có lòng tin vững chắc, y theo pháp mà thực hành, thì có thể mau thành tựu. Không nên có sự nghi ngờ, dù nhỏ như đầu cọng tóc. Pháp tu Định Ý đó, còn có tên là Bồ Tát Siêu Chúng Hạnh.
Lập một niệm
Tin pháp đó
Theo lời dạy
Nhớ phương đó
Phải nhất tâm
Đừng nghĩ khác
Tin vững chắc
Chớ hồ nghi
Phải tinh tiến
Không thoái chuyển
Không nghĩ trước
Không nghĩ sau
Không nghĩ trái
Không nghĩ phải
Không nghĩ không
Không nghĩ có
Không nghĩ xa
Không nghĩ gần
Không nghĩ đau
Không nghĩ ngứa
Không nghĩ đói
Không nghĩ khát
Không nghĩ lạnh
Không nghĩ nóng
Không nghĩ khổ
Không nghĩ sướng
Không nghĩ sinh
Không nghĩ già
Không nghĩ bệnh
Không nghĩ chết
Không nghĩ mệnh
Không nghĩ thọ
Không nghĩ nghèo
Không nghĩ giàu
Không nghĩ sang
Không nghĩ hèn
Không nghĩ sắc
Không nghĩ dục
Không nghĩ nhỏ
Không nghĩ lớn
Không nghĩ dài
Không nghĩ ngắn
Không nghĩ tốt
Không nghĩ xấu
Không nghĩ ác
Không nghĩ thiện
Không nghĩ buồn
Không nghĩ vui
Không nghĩ ngồi
Không nghĩ đứng
Không nghĩ đi
Không nghĩ ngừng
Không nghĩ Kinh
Không nghĩ Pháp
Không nghĩ thị
Không nghĩ phi
Không nghĩ bỏ
Không nghĩ giữ
Không nghĩ Tưởng
Không nghĩ Thức
Không nghĩ cắt
Không nghĩ vướng
Không nghĩ Không
Không nghĩ Thực
Không nghĩ nhẹ
Không nghĩ nặng
Không nghĩ khó
Không nghĩ dễ
Không nghĩ sâu
Không nghĩ cạn
Không nghĩ rộng
Không nghĩ hẹp
Không nghĩ cha
Không nghĩ mẹ
Không nghĩ vợ
Không nghĩ con
Không nghĩ thân
Không nghĩ sơ
Không nghĩ ghét
Không nghĩ thương
Không nghĩ được
Không nghĩ mất
Không nghĩ thành
Không nghĩ bại
Không nghĩ sạch
Không nghĩ dơ
Trừ vọng niệm
Chuyên một lòng
Tâm không loạn
Thường tinh tiến
Đừng giả vờ
Đừng lười biếng
Thường nhất tâm
Không hoảng hốt
Không ngủ nghỉ
Lọc tâm tưởng
Ở một mình
Không tụ họp
Tránh người ác
Gần người lành
Thờ thầy hiền
Kính như Phật
Giữ chí nguyện
Thường nhu hòa
Đối chúng sinh
Đều bình đẳng
Rời làng xóm
Lìa người thân
Bỏ ái dục
Ý thanh tịnh
Lòng thanh thản
Không ham muốn
Xả loạn tưởng
Tu thiền định
Học kinh điển
Tâm định tỉnh
Trừ ba độc
Xa sáu trần
Tuyệt dâm sắc
Đừng ham mê
Không tham tài
Đừng chất chứa
Phải biết đủ
Chớ ham mùi
Đừng ăn thịt
Của chúng sinh
Quần áo thô
Chớ lòe loẹt
Đừng giỡn hớt
Đừng kiêu mạn
Đừng tự đại
Đừng cống cao
Nếu giảng Kinh
Phải đúng pháp
Hiểu thân này
Vốn là huyễn
Không “thọ, ấm”
Không “nhập, giới”
Bốn loại này
Như giặc, rắn
Là vô thường
Là huyễn hiện
Không thường trụ
Rõ là không
Nhân duyên hợp
Nhân duyên diệt
Biết cả thảy
Vốn là không
Càng từ ái
Với tất cả
Cho người nghèo
Không cầu ơn
Đây là định
Bồ tát tu
Trí tuệ này
Vượt tất cả.
Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Chuyên cần tu tập pháp này sẽ đắc tam muội, tất cả chư Phật hiện tại sẽ hiện đến trước mặt. Nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di tu tập đúng pháp, một mình ở nơi tịch tĩnh, niệm Tây phương A Di Đà Phật, hiện nay đang ở cõi Cực Lạc. Thường thường nhớ nghĩ cách đây mười vạn ức cõi Phật, có thế giới Cực Lạc, nếu như một lòng chuyên nghĩ nhớ, một ngày một đêm cho đến bảy ngày bảy đêm. Sau bảy ngày sẽ thấy đức A Di Đà Phật, giống như trong mộng, không còn biết là ngày hay đêm, hoặc trong hay ngoài. Không phải do ở chỗ bị chướng ngại mà không thấy.
Này Bạt Đà Hòa! Nếu bốn chúng thường nghĩ nhớ như vậy, thì trong các cõi giới của chư Phật, những chỗ che chướng như núi Tu Di, hoặc những chỗ tăm tối, đều trở nên quang đãng, rộng mở, không còn chướng ngại. Bốn chúng đó chẳng phải nhờ có thiên nhãn nhìn suốt, thiên nhĩ nghe thấu, thần túc vô ngại để đến cõi Phật ấy, cũng chẳng phải từ đây mạng chung sinh về cõi kia, mà ngay ở tòa ngồi của mình thấy cõi Phật ấy.”
Phật bảo: “Bốn chúng cõi này nhớ nghĩ Phật A Di Đà, chuyên tâm nghĩ nhớ cho nên thấy được ngài. Thấy rồi liền hỏi đức A Di Đà: “Tu hành pháp nào được vãng sinh Cực Lạc.” Đức Phật A Di Đà trả lời: “Ai muốn sinh cõi Cực Lạc, nên niệm danh hiệu của ta, tương tục không gián đoạn, liền được sinh về cõi ấy.”
Phật bảo: “Chuyên tâm tưởng niệm nên được vãng sinh. Thường tưởng niệm ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của Phật, trăm ngàn tia sáng soi khắp, đoan chánh không ai sánh bằng. Đang ở trong chúng hội Bồ tát tăng giảng pháp “không phá hoại sắc”. Vì sao? Do vì không phá hoại sắc, tưởng niệm sắc thân của Phật, sẽ chứng được tam muội.”
Phần trên là giảng rõ về pháp tu Niệm Phật Tam Muội.
*
3 – Y vào kinh nói rõ vào đạo trường Niệm Phật Tam Muội.
Nếu muốn vào đạo trường tu tam muội, trước tiên phải chuẩn bị đạo trường, an trí tượng Phật. Dùng nước thơm lau rửa. Nếu không có Phật đường, thì dùng một gian phòng sạch sẽ (để làm đạo trường) cũng được. Quét dọn sạch sẽ, bày một tượng Phật ở bức tường phía tây (hướng về phía đông). Hành giả từ ngày mồng một đến mồng tám, hoặc từ
mồng tám đến ngày rằm, hoặc từ ngày rằm đến ngày hai mươi ba, hoặc từ ngày hai mươi ba đến ngày ba mươi. Bốn thời này, thời nào cũng tốt. Hành giả nên xem xét hoàn cảnh sinh kế gia đình, để mỗi tháng một kỳ vào thất tu tập. Mỗi kỳ hoặc từ một ngày cho đến bảy ngày, phải mặc quần áo sạch sẽ, giày dép cũng phải sạch sẽ. Trong bảy ngày đó, phải nên chay tịnh, ăn mỗi ngày một bữa. Cơm bánh thuốc men tùy mùa, chỉ dùng vừa đủ. Trong lúc tu tập, ngày đêm buộc tâm tương tục, một lòng chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Buộc tâm vào tiếng niệm Phật. Chỉ đứng hoặc ngồi. Trong bảy ngày đêm không được ngủ nghê, cũng không cần phải chia thời lạy Phật tụng kinh, cũng không cần dùng chuỗi hạt, mà chỉ một lòng chắp tay niệm Phật, trong mỗi niệm đều quán tưởng là đang thấy Phật. Phật bảo: “Hành giả quán tưởng thân chân kim sắc của Phật A Di Đà, quang minh chiếu khắp, đoan chánh khôn tày, hiện ra trong tâm tưởng của mình. Nếu đứng, thì đứng niệm một vạn thanh, hai vạn thanh, nếu ngồi, thì ngồi niệm một vạn thanh, hai vạn thanh. Trong đạo trường không nên kề miệng thì thầm. Ngày đêm ba lần hoặc sáu lần, ngưỡng bạch tất cả chư Phật, chư hiền thánh mười phương, cùng tất cả thiên tào địa phủ trong tất cả nghiệp đạo, phát lộ sám hối các tội nghiệp thân khẩu ý đã tạo trong đời này, theo đúng pháp sám hối, sau đó lại tiếp tục như pháp niệm Phật. Nếu có thấy được cảnh giới, không nên vội nói cho người khác biết. Thấy cảnh giới thiện thì ghi nhớ, thấy cảnh giới ác thì sám hối. Lại phải phát nguyện, đối với thịt cá, tay không rờ, miệng không ăn, hơn nữa, không nên ăn ngũ tân, không được uống rượu. Nếu như vi phạm, nguyện rằng thân miệng đều nổi nhọt độc. Hoặc nguyện sẽ tụng Kinh A Di Đà mười vạn biến, hoặc nguyện mỗi ngày niệm Phật một vạn câu, hoặc mỗi ngày tụng kinh (A Di Đà) mười lăm bộ, hai mươi bộ, ba mươi bộ. Tùy sức mà làm, nguyện vãng sinh Tịnh độ, nguyện được Phật nhiếp thọ.
Lại nữa, hành giả hoặc có bệnh hoặc không bệnh, lúc sắp lâm chung, phải y theo phương pháp Niệm Phật Tam Muội vừa nêu trên. Chấn chỉnh thân tâm, ngồi (hoặc nằm) quay mặt về hướng tây, tâm cũng nên chuyên chú, quán tưởng Phật A Di Đà. Tâm nghĩ miệng niệm, âm thanh liên tục không ngừng. Quán tưởng mình nhất định sẽ vãng sinh. Quán tưởng chư Phật Bồ tát đem kim đài đến tiếp dẫn. Người bệnh nếu thấy cảnh giới, phải nên nói liền cho người chăm sóc biết. Người ấy nghe xong, phải liền ghi lại chính xác. Nếu như người bệnh không thể nói ra tiếng, người chăm sóc phải thường xuyên hỏi xem người bệnh thấy cảnh giới nào. Nếu nói thấy cảnh ác, những người xung quanh phải vì người bệnh niệm Phật, giúp cho người đó sám hối, làm cho tội chướng tiêu diệt. Nếu như tội diệt, thánh chúng hoa đài đều sẽ hiện ra trước mặt. Nên theo đó mà ghi chép lại. Nếu như có thân nhân quyến thuộc của người bệnh đến thăm, không nên cho những người ăn mặn uống rượu hoặc ăn ngũ tân vào thăm, hoặc giả có cho vào, cũng không cho họ đến gần người bệnh. E rằng họ sẽ làm cho người bệnh mất chánh niệm, quỷ thần quấy phá, làm cho người bệnh thất niệm mà chết, đọa vào ba đường ác. Nguyện các hành giả hãy nên cẩn thận phụng trì lời Phật dạy, cùng nhau tạo nhân duyên gặp Phật. Phần trên là chỉ dẫn cách vào đạo trường cùng phương pháp chăm sóc người bệnh.
*
4 – Y vào kinh nói rõ pháp sám hối phát nguyện trong đạo trường.
(Y vào sáu bộ kinh: 1/ Vô Lượng Thọ Kinh, 2/ Thập Lục Quán Kinh, 3/ A Di Đà Kinh, 4/ Bát Chu Tam Muội Kinh, 5/ Thập Vãng sinh Kinh, 6/ Tịnh Độ Tam Muội Kinh, nói rõ ý nghĩa năm loại tăng thượng duyên).
Kính cẩn y vào sáu bộ kinh vãng sinh mà đức Bổn sư Thích Ca giảng dạy để nói rõ việc người xưng niệm A Di Đà Phật cầu nguyện vãng sinh, trong hiện đời được khỏe mạnh sống lâu, không bị chín nạn (Hán: cửu hoạnh), phần Ngũ Duyên phía dưới sẽ nói rõ ràng.
Hỏi: Phật khuyên chúng sinh phát Bồ đề tâm, nguyện sinh cõi Tây phương Cực Lạc. Lại khuyên tạo tượng Phật A Di Đà, xưng dương lễ bái, cúng dường hương hoa, ngày đêm quán tưởng không ngừng. Lại khuyên chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, mỗi ngày từ một vạn, hai vạn, ba vạn, năm vạn, cho đến mười vạn câu, hoặc khuyên tụng kinh A Di Đà, mỗi ngày từ mười lăm, hai chục, ba chục, năm chục, cho đến một trăm bộ, cho đến khi đủ một vạn bộ, mười vạn bộ. Hiện đời được công đức gì? Sau khi mệnh chung có được lợi ích gì để vãng sinh Tịnh độ hay không?
Đáp: Hiện đời và sau khi mệnh chung, chắc chắn sẽ có được công đức lợi ích lớn. Y cứ vào lời Phật dạy, nói rõ có năm tăng thượng duyên lợi ích. Một là tăng thượng duyên diệt tội, hai là tăng thượng duyên hộ niệm được sống lâu, ba là tăng thượng duyên thấy Phật, bốn là tăng thượng duyên nhiếp sinh, năm là tăng thượng duyên chứng minh vãng sinh.
A – Tăng thượng duyên diệt tội, tức là hàng hạ phẩm thượng sinh trong Quán Kinh. Một đời tạo đủ mười loại tội ác. Người đó lúc mang bệnh sắp chết, gặp được thiện tri thức dạy niệm một câu A Di Đà Phật, liền được trừ diệt tất cả tội nặng trong năm mươi ức kiếp sinh tử. Đây tức là tăng thượng duyên diệt tội trong hiện đời.
Lại như hàng hạ phẩm trung sinh, một đời tạo đủ tội ác trong Phật pháp, phá trai phá giới, tiêu dùng đồ vật của Phật pháp tăng, không biết hổ thẹn. Người đó mang bệnh sắp chết, lửa dữ địa ngục hiện đến, (may mắn) gặp được thiện tri thức, nói cho nghe công đức của thân tướng Phật A Di Đà cùng sự trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Người đó nghe xong,
liền được trừ diệt tất cả tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Tướng địa ngục biến mất. Đây cũng là tăng thượng duyên diệt tội trong hiện đời.
Lại như hàng hạ phẩm hạ sinh, một đời tạo đủ các tội cực nặng ngũ nghịch, chắc chắn sẽ phải bị đọa vào địa ngục dài lâu, chịu khổ vô cùng. Người đó mang bệnh sắp chết, lại may mắn gặp được thiện tri thức, dạy xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà mười câu. Mỗi câu trừ diệt tất cả tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Đây cũng là tăng thượng duyên diệt tội trong hiện đời.
Lại như có người y theo Quán Kinh tạo hình tượng của cõi Cực Lạc trang nghiêm, rồi ngày đêm quán tưởng tướng đất báu, trong hiện đời, mỗi niệm đều trừ diệt tất cả tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Lại y theo Quán Kinh tạo hình tượng cõi Cực Lạc trang nghiêm, rồi y theo đó quán tưởng tướng trang nghiêm của cây báu, ao báu, lầu báu, v.v… trong hiện đời được trừ diệt tất cả tội nặng trong vô lượng ức a tăng kỳ kiếp. Lại như, y theo pháp quán tưởng hoa tòa trang nghiêm, ngày đêm quán tưởng, trong hiện đời, mỗi một niệm (quán tưởng) đều trừ diệt được tất cả tội trong năm mươi ức kiếp sinh tử. Lại y theo pháp quán tưởng tượng Phật, quán tưởng chân thân Phật, quán tưởng đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, v.v… trong hiện đời, mỗi một niệm (quán tưởng) trừ diệt được tất cả tội nặng trong vô lượng ức kiếp sinh tử. Những điều dẫn chứng trên đều là tăng thượng duyên diệt tội trong hiện đời.
B – Tăng thượng duyên hộ niệm, tức là như trong quán thứ mười hai có nói: “Nếu có người trong tất cả mọi thời, ngày đêm chí tâm quán tưởng y báo chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Hoặc thấy hoặc không thấy, Phật Vô Lượng Thọ hóa ra vô lượng hóa thân, hai vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cũng hóa ra vô lượng hóa thân, thường đến nơi của người đó (để hộ trì). Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời. Lại như phần dưới của Quán Kinh nói: “Nếu có người, thường chí tâm niệm Phật và hai vị Bồ tát, thì hai ngài Quán Âm, Thế Chí thường làm thiện tri thức, thường đến bên cạnh hộ trì”, đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời. Lại như quán thứ chín (Chân thân quán) nói: “Ánh sáng bạch hào của thân sắc vàng của đức Phật A Di Đà chiếu khắp chúng sinh ở mười phương, ánh sáng từ lỗ chân lông cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương. Viên quang của ngài cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương. Ánh sáng của tám vạn bốn ngàn tướng hảo cũng chiếu khắp chúng sinh mười phương. Giống như phần trước nói về ánh sáng của ngài chiếu khắp mười phương thế giới, thế nhưng chỉ có những chúng sinh nào chuyên tâm tưởng niệm đức A Di Đà Phật, thì ánh sáng của Phật mới thường chiếu đến họ, nhiếp hộ không rời. Ở đây không bàn về ánh sáng chiếu soi những chúng sinh tu các tạp hạnh khác. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời. Lại như Thập Vãng Sinh Kinh nói: Phật bảo Bồ tát Sơn Hải Tuệ và A Nan: “Nếu có người nào chuyên tâm tưởng niệm Tây phương A Di Đà Phật cầu nguyện vãng sinh, từ ngày hôm nay, ta sẽ phái hai mươi lăm vị Bồ tát đến hộ trì, không cho bọn ác quỷ thần não loạn người đó, làm cho người đó ngày đêm đều được an ổn.” Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.
Lại như A Di Đà Kinh nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, trong bảy ngày bảy đêm, nhẫn đến trọn đời, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu nguyện vãng sinh. Người này thường được hằng hà sa chư Phật ở sáu phương thường đến hộ niệm. Cho nên kinh này được gọi là Hộ Niệm Kinh.” Hộ Niệm Kinh cũng có nghĩa là không cho các quỷ thần ác có cơ hội nhiễu hại, cũng không có các việc tai nạn tử vong bất ngờ xảy đến cho người đó. Tất cả mọi tai ách chướng nạn tự nhiên tiêu trừ. Ngoại trừ những kẻ không chí tâm. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.
Lại như phẩm Hành trong Bát Chu Tam Muội Kinh nói: Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Nếu có người, bảy ngày bảy đêm vào đạo trường, xả tất cả sự duyên, bỏ việc ngủ nghỉ, một lòng chuyên tưởng niệm thân sắc vàng của đức A Di Đà Phật, hoặc một ngày, hoặc ba ngày, hoặc bảy ngày, hoặc hai tuần, năm, sáu, bảy tuần, hoặc cho đến trăm ngày, hoặc cho đến trọn đời, chí tâm quán tưởng đức Phật A Di Đà, cùng xưng niệm danh hiệu ngài, người đó sẽ được đức Phật nhiếp thọ, sau khi được Phật nhiếp thọ, người đó biết chắc tội chướng sẽ được tiêu diệt, và được vãng sinh Tịnh độ.” Phật nói: “Nếu có người chuyên tâm tu tập pháp Niệm Phật Tam Muội này, người đó thường được tất cả chư thiên, bốn đại thiên vương cùng tất cả tám bộ quỷ thần thường theo bên cạnh ủng hộ, ưa thích gần gũi, vĩnh viễn không còn bị các quỷ thần ác gieo tai giáng họa, làm cho khổ não.” Trong phẩm Trì có nói đầy đủ. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.
Lại như quyển thứ ba của Quán Đảnh Kinh có nói: Nếu có người thọ trì Tam quy Ngũ giới, đức Phật sẽ bảo trời Đế Thích: “Ông nên sai sáu mươi mốt vị thiên thần, thường theo bên cạnh hộ trì người thọ giới, không để cho các ác quỷ thần lộng hành, gieo rắc tai họa đến người đó.” Trong phẩm Hộ Trì có nói tường tận. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.
Lại như Tịnh Độ Tam Muội Kinh nói: Phật bảo Bình Sa Đại Vương: “Nếu có thiện nam thiện nữ nào, trong mỗi tháng sáu ngày trai, … hướng về tất cả nghiệp đạo như thiên tào, địa phủ, v.v…, thọ trì trai giới, đức Phật sẽ sai khiển hai mươi lăm vị thiện thần, thường đến gần gũi hộ trì người thọ trì trai giới đó, khiến cho tất cả quỷ thần ác không thể đến gần não hại hành giả, mà cũng khiến cho người đó thường được an ổn, không bị các bệnh tật, chết chóc, tai nạn, v.v…” Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời. Kính bạch các hành giả! Nếu các vị muốn trong đời này, ngày đêm chuyên niệm tương tục danh hiệu đức A Di Đà Phật, hoặc chuyên tụng A Di Đà Kinh, xưng dương lễ bái tán thán chư thánh chúng trang nghiêm cầu nguyện vãng sinh, hoặc mỗi ngày tụng kinh A Di Đà mười lăm biến, hai chục, ba chục biến trở lên, hoặc tụng bốn chục, năm chục, hoặc trăm biến trở lên, nguyện tụng đủ mười vạn biến, lại còn xưng dương, tán thán, lễ bái y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Ngoài việc vào đạo trường tu Niệm Phật Tam Muội, mỗi ngày nên niệm danh hiệu Phật A Di Đà một vạn câu, suốt một đời không gián đoạn, thì sẽ được đức A Di Đà gia bị, trừ diệt tội chướng. Lại còn được Phật A Di Đà và chư thánh chúng thường đến hộ niệm. Vì được hộ niệm, cho nên hành giả phước thọ tăng long, đời sống bình yên an lạc. Những điều này được nói đầy đủ trong Thí Dụ Kinh, chỉ có các kinh Tam Muội và Tịnh Độ Tam Muội là không nói đến. Đây cũng là tăng thượng duyên hộ niệm trong hiện đời.
C – Tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật, tức là như Quán Kinh nói: “Phu nhân nước Ma Kiệt Đà là bà Vi Đề Hy, lúc bị giam cầm trong cung, nguyện thường được thấy Phật, xa trông về núi Kỳ Xà Quật khóc lóc đảnh lễ. Lúc ấy Phật biết rõ tâm niệm của bà, bèn ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện đến trong cung. Bà Vi Đề Hy đang lễ Phật, vừa ngẩng đầu lên liền thấy đức Thế Tôn, thân màu tử kim, ngồi đài liên hoa. Hai ngài Mục Liên và A Nan đứng hầu hai bên. Các vị trời Đế Thích, Phạm Vương cùng chư thiên ở trên không rải hoa cúng dường. Bà Vi Đề Hy thấy Phật, nghẹn ngào nức nở, năm vóc phủ phục xuống đất,
hướng về đức Phật cầu khẩn sám hối: “Nguyện đức Như Lai chỉ dạy cho con phép quán để sanh về nơi nghiệp lành thanh tịnh.”
Lại như Quán Kinh chứng minh rằng, Phu nhân không những chí tâm thấy được Phật, mà còn vì các chúng sinh trong đời vị lai khải thỉnh giáo pháp, nếu như có người nào hết lòng chí thành tưởng nghĩ đến Phật, thì chắc chắn cũng sẽ thấy được Phật, không bị chướng ngại. Đây là do ba niệm nguyện lực của đức A Di Đà gia bị, cho nên hành giả mới thấy được ngài. Ba niệm nguyện lực, tức là như trong Bát Chu Tam Muội Kinh có nói: “Một là Đại Thệ Nguyện Lực gia bị cho nên được thấy Phật, hai là Tam Muội Định Lực gia bị cho nên được thấy Phật, ba là Bổn Công Đức Lực gia bị cho nên được thấy Phật.” Phía dưới, trong phần Nhân duyên thấy Phật, cũng tương tự như ở đây. Cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Hỏi: Phu nhân Vi Đề Hy có phước báo thù thắng, được Phật gia bị cho nên thấy được Phật, còn các chúng sinh trong đời vị lai tội chướng sâu nặng, làm sao có thể so sánh với phu nhân được? Lại nữa, ý nghĩa ở đây thâm sâu rộng lớn, mỗi điều đều phải đem kinh Phật ra để dẫn chứng.
Đáp: Đức Phật là bậc thánh nhân, tam minh, lục thông đều vô chướng ngại. Quán sát căn cơ mà nói pháp, không phân biệt sâu hay cạn. Chỉ cần quy hướng kiền thành, lo gì không thấy! Ví như Quán Kinh có nói: Phật khen Vi Đề Hy: “Lành thay Vi Đề Hy! Hôm nay bà đã khéo hỏi việc này. Này A Nan! Ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên thuyết cho mọi người cùng biết. Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau pháp quán thế giới Cực Lạc ở phương tây. Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh kia, như người cầm gương sáng tự trông thấy mặt mình.”
Lại như Quán Kinh đã chứng minh rằng đây cũng là do ba lực của đức A Di Đà Phật gia trì, cho nên hành giả được thấy Phật. Cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Tịnh Độ Phật. Lại như Quán Kinh nói: Phật bảo Vi Đề Hy: “Bà là phàm phu, tâm nhãn yếu kém, chưa được thiên nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến bà được thấy cõi kia.” Phu nhân bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật được thấy quốc độ kia. Sau khi Thế Tôn tịch diệt, những chúng sinh trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc?” Đức Phật bảo: “Vi Đề Hy! Bà và chúng sinh nên chuyên tâm, buộc niệm một chỗ, quán tưởng tất cả bảo tràng phía dưới mặt đất lưu ly, các thứ trân bảo trên mặt đất, lầu các trang nghiêm, v.v…” Chuyên tâm chú ý, giống như Phu nhân đã được thấy, tức là: “Quán tưởng thấy mỗi cảnh vật đều rõ ràng. Nhắm mắt mở mắt đều nhìn thấy được cõi ấy. Quán tưởng như thế thì gọi là thấy được cõi Cực Lạc về phần thô.” Đây có nghĩa rằng thấy bằng “giác tưởng” nên gọi là “thấy phần thô”, nếu như đắc được “Định tâm tam muội”, và “Khẩu xưng tam muội”, tâm nhãn sẽ khai mở, sẽ thấy tất cả sự trang nghiêm vô cùng tận của cõi Cực Lạc. Lại như Quán Kinh đã chứng tỏ rằng tất cả phàm phu, nếu như có tâm tha thiết, chắc chắn sẽ thấy được cõi Cực Lạc. Nên nhớ, nếu nghe có người thấy được cõi Cực Lạc cũng đừng lấy làm kinh quái. Vì sao? Đây là do tam muội lực của đức A Di Đà gia bị cho nên được thấy, cho nên gọi là tăng thượng duyên “Tam Muội Thấy Tịnh Độ”.
Lại như phần Quán Hoa Tòa nói: Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: “Ta sẽ vì các người mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não. Các người nên ghi nhớ rồi giảng nói rành rẽ cho khắp trong đại chúng nghe.” Khi đức Thế Tôn nói lời ấy xong, Phật Vô Lượng Thọ đã hiện thân đứng giữa hư không, hai vị Đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng hầu tả hữu. Phu nhân Vi Đề Hy được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai liền cúi đầu đảnh lễ, sau đó bạch với đức Thích Tôn rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay nhờ sức Phật được thấy Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ tát.” Phật bảo Vi Đề Hy: “Bà và chúng sinh muốn quán đức Phật kia, trước tiên phải khởi tưởng trên đất thất bảo có hoa sen,… Sau khi quán thành, kế tiếp nên quán tưởng (hình tượng) Phật, … khi tâm tưởng Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp … Từ trên đỉnh đầu cho đến kiết già, tất cả đều phải quán tưởng. Tùy vào sự quán tưởng, đức Phật sẽ hiện thân.” Đây tức là ba lực của đức Phật A Di Đà gia bị, làm cho hành giả được thấy. Đây cũng gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Lại như Quán Kinh nói: “Muốn quán Vô Lượng Thọ Phật, trước phải tưởng hình tượng, làm sao cho đến khi nhắm mắt mở mắt đều thấy một bảo tượng như sắc vàng diêm phù đàn ngồi trên tòa sen kia. Lúc thấy tượng Phật rồi, tâm nhãn tự nhiên được mở mang rõ ràng sáng suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm…” Đây cũng là do ba lực của đức A Di Đà gia bị cho nên được thấy Phật. Cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Lại như Quán Kinh nói: “Kế tưởng hình tượng Quán Thế Âm ngồi tòa sen bên trái, tượng Đại Thế Chí ngồi tòa sen bên phải, thân tướng đều rực rỡ như sắc vàng diêm phù đàn. … hành giả lại tưởng tiếng nước chảy, ánh sáng, các cây báu, những loài chim: phù, nhạn, … đều nói pháp mầu, cho đến khi xuất định, nhập định hằng được nghe thấy.” Đây cũng là do ba lực của đức A Di Đà gia bị cho nên được thấy Phật. Cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Lại như trong phần Quán Chân Thân Phật có nói: Phật bảo A Nan: “Sau khi quán tượng thành tựu, kế đó quán Vô Lượng Thọ Phật, thân chân kim sắc. Tướng bạch hào giữa đôi mày uyển chuyển xoay về bên hữu như năm núi Tu Di … Viên quang của Phật to rộng như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong ấy có trăm muôn ức na do tha hằng hà sa Hóa Phật, mỗi vị đều có vô số Hóa bồ tát làm thị giả … Những tướng hảo quang minh cùng hóa Phật đó vô cùng, nói không thể xiết! Hành giả chỉ nên thành kính nhớ tưởng, khiến cho tâm nhãn được thấy. Thấy được tướng này, ắt thấy tất cả chư Phật mười phương. Vì thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật Tam Muội.” Đoạn văn này chứng tỏ là do ba lực của đức A Di Đà Phật gia bị cho nên thấy được Phật, cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật. Cũng trong phần đó, Phật bảo: “Cho nên người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ. Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ, phải từ một tướng hảo mà đi vào. Chỉ cần quán tướng lông trắng giữa đôi mày cho thật rõ ràng. Khi thấy được tướng bạch hào, tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng đều sẽ hiện. Và thấy được Phật A Di Đà, tức thấy vô lượng chư Phật ở mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật, nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.” Đây cũng là điều chứng tỏ do ba lực của đức A Di Đà gia bị, khiến cho các phàm phu chuyên tâm tưởng niệm được thấy Phật, cho nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật. Lại như các pháp quán Quán Âm, Thế Chí, … cùng với chín phẩm vãng sinh, hành giả hoặc là một đời hành trì, hoặc bảy ngày … một ngày, nhẫn đến mười tiếng, một tiếng niệm Phật, đến lúc lâm chung nguyện được thấy Phật, nếu như trong hiện đời gặp được thiện tri thức, khiến cho hành giả chí thành xưng niệm Phật A Di Đà, đức Phật sẽ cùng thánh chúng đem hoa đài đến tiếp dẫn. Đây cũng là điều dẫn chứng trong kinh, đức A Di Đà Phật dùng ba lực gia trì, khiến cho hành giả được thấy Phật, đây cũng gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Lại như, trong kinh nói tiếp: Phật bảo A Nan: “Kinh này tên Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, … Ông nên như thế mà thọ trì, chớ để quên mất. Người tu môn tam muội này, hiện đời sẽ được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Đại sĩ.” Đây là điều kinh này dẫn chứng là do ba lực của đức A Di Đà Phật gia bị. Nhân duyên trong ngoài hòa hợp, nên được thấy Phật, vì thế nên gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật.
Lại như Bát Chu Tam Muội Kinh nói: “Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Có tam muội tên Thập Phương Chư Phật Hiện Ra Trước Mặt.” Nếu có người nào muốn mau đắc được tam muội này, trong bảy ngày bảy đêm, không được ngủ nghỉ, không được vọng niệm, ở chỗ tịch tĩnh, quán tưởng chân thân sắc vàng của đức Phật A Di Đà, ba mươi hai tướng, ánh sáng rực rỡ, đoan chánh trang nghiêm không thể so lường. Nhất tâm quán tưởng, tâm nhớ nghĩ, miệng xưng danh, niệm niệm không ngừng nghỉ. Phật nói rằng sau bảy ngày sẽ được thấy Phật. Ví như có người ban đêm nhìn sao trời, mỗi vì sao là một vị Phật. Nếu như bốn chúng có người quán tưởng như vậy, thấy tất cả vì sao là thấy tất cả Phật. Nếu đem kinh này chứng cứ, thì đây cũng là do ba lực của đức A Di Đà Phật gia bị, cho nên được thấy Phật. Tam Muội có nghĩa là hành giả niệm Phật phải niệm với lòng chí thành tha thiết, không được tạp niệm, mỗi niệm đều an trụ trong câu niệm Phật, tiếng niệm không dứt, thì tâm nhãn sẽ được thông suốt, thấy được Phật A Di Đà hiện ra rõ ràng. Đây gọi là định. Hành giả cũng thấy được chư thánh chúng và cõi báu trang nghiêm. Đây gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Cõi Tịnh Độ của Phật.”
Lại như Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh nói: “Quán niệm tướng hảo và đức hạnh của Phật, có thể làm cho các căn của hành giả không loạn động, tâm không mê hoặc, tương ưng với pháp, được “văn đắc trí” to rộng như biển lớn.
Người trí an trụ trong tam muội đó, nhiếp niệm kinh hành, sẽ thấy được ngàn ức Như Lai, trong đời vị lai cũng sẽ gặp được vô lượng hằng sa chư Phật. Đây cũng là điều dẫn chứng của kinh, cũng gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Thấy Phật. Lại như trong Văn Thù Bát Nhã Kinh, ngài Văn Thù bạch Phật: “Thế nào gọi là Nhất Hành Tam Muội?” Phật bảo: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, ở nơi tịch tĩnh, xả bỏ loạn tưởng, quay mặt về hướng của đức Phật (mà mình đang quán tưởng), không quán tướng hảo, chuyên xưng danh hiệu, niệm niệm không gián đoạn, thì có thể trong lúc niệm Phật thấy được chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai.” Đoạn văn này chứng minh rằng do lòng đại bi của tất cả chư Phật gia bị khiến hành giả được thấy Phật. Đây cũng gọi là tăng thượng duyên Tam Muội Khiến Phàm Phu Được Thấy Phật.
D – Tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh, tức là như trong phần bốn mươi tám nguyện của Vô Lượng Thọ Kinh đã có nói: “Phật bảo: “Khi ta thành Phật, nếu chúng sinh mười phương muốn sinh về nước ta, xưng danh hiệu ta, nhẫn đến tối thiểu là mười niệm, nương vào nguyện lực của ta, nếu như không được vãng sinh, ta thề không giữ ngôi chánh giác.” Đây là điều nguyện rằng hành giả lúc lâm chung, do nguyện lực của Phật A Di Đà nhiếp thủ hộ trì cho nên được vãng sinh. Cho nên gọi là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh. Lại như quyển thượng của Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sinh được vãng sinh về cõi Cực Lạc, đây đều là do sức mạnh nguyện lực của đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên.” Đây cũng là một chứng minh về tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như quyển hạ của Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Đức Phật nói rằng căn tính của chúng sinh không đồng, có ba hạng thượng, trung và hạ. Tùy theo căn tính của họ, đức Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Khi người ấy sắp mệnh chung, đức A Di Đà và các thánh chúng hiện đến tiếp dẫn, đều được vãng sinh.” Đây cũng là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như pháp quán thứ mười một, cùng phần chín phẩm vãng sinh trong Quán Kinh, đều là do đức Phật tự nói rằng các hành giả tu tập hai hạnh tán thiện và định thiện, tất cả đều được tự thân đức Phật A Di Đà và các thánh chúng đem hoa đài đến tiếp dẫn vãng sinh. Đây cũng là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như trong A Di Đà Kinh, đức Phật bảo: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc trong một ngày, nhẫn đến bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, người đó lúc mệnh chung, đức Phật A Di Đà và các thánh chúng hiện đến trước mặt, liền được vãng sinh về cõi Cực Lạc.” Đức Phật bảo tiếp: “Ta thấy điều lợi như thế nên mới nói lời này.” Đây cũng là điều chứng minh về tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như trong phần Bốn mươi tám nguyện nói: “Nếu ta thành Phật, chúng sinh mười phương, phát Bồ đề tâm, tu các công đức, hết lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước ta, lúc người đó mệnh chung, nếu ta không cùng các thánh chúng hiện đến tiếp dẫn, ta thệ không thành Chánh giác.” Đây cũng là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như nguyện kế nói: “Nếu ta thành Phật, chúng sinh mười phương, nghe danh hiệu ta, tưởng niệm cõi nước ta, chí tâm hồi hướng, nguyện sinh về cõi ta, nếu như không được toại nguyện, ta thệ không thành Chánh giác. Đây cũng là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
Lại như nguyện kế nói: “Nếu ta thành Phật, mười phương thế giới, nếu có người nữ nghe danh hiệu ta, vui mừng tin ưa, phát Bồ đề tâm, nhàm chán thân nữ, sau khi mệnh chung, nếu còn thọ lại thân nữ, ta thệ không thành Chánh giác.” Nghĩa là do bổn nguyện lực của đức A Di Đà, cho nên người nữ xưng niệm danh hiệu Phật, đến lúc mệnh chung, lập tức chuyển thân nữ thành nam, đức A Di Đà đón tiếp, Bồ tát phù trì, ngồi tòa hoa sen, theo Phật vãng sinh, gia nhập Liên trì hải hội, chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Lại nữa, phải nên biết rằng, tất cả người nữ, nếu như không nhờ nguyện lực hồng danh của đức A Di Đà, thì trăm ngàn vạn hằng hà sa kiếp sẽ không bao giờ chuyển được thân nữ. Hiện nay có người cho rằng người nữ không thể vãng sinh Tịnh độ, đây là lời xàm, không nên tin nhận. Điều này chứng minh đây là tăng thượng duyên Nhiếp Thọ Chúng Sinh.
E – Tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh:
Hỏi: Đã biết rằng bốn mươi tám nguyện nhiếp thọ tất cả chúng sinh vãng sinh Tịnh độ, nhưng chưa biết hàng chúng sinh nào sẽ được vãng sinh. Hơn nữa, người nào được bảo đảm chắc chắn sẽ vãng sinh?
Đáp: Như Quán Kinh nói: Phật bảo Phu nhân Vi Đề Hy: “Phu nhân có biết chăng? Phật A Di Đà cách đây không xa. Phu nhân phải hệ niệm và quán sát kỹ cõi Cực Lạc, ắt tịnh nghiệp sẽ thành tựu. Nay ta vì hu nhân nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.” Điều này chứng minh rằng sau khi đức Thế Tôn diệt độ, các phàm phu nương vào nguyện lực của Phật A Di Đà quyết định sẽ được vãng sinh. Đây là tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh.
Hỏi: Đức Thích Ca giảng pháp với mục đích chỉ rõ cho chúng sinh ngộ nhập Phật pháp, tại sao đối với giáo pháp, có người tin, có người không tin, hủy báng lẫn nhau. Tại sao như vậy?
Đáp: Phàm phu có hai loại căn tính, một là căn tính thiện, hai là căn tính ác. Người căn tính thiện là người nghe lời Phật dạy, liền bỏ ác làm thiện, bỏ tà theo chánh, bỏ dối theo thật, bỏ sai theo đúng, bỏ ngụy theo chân. Năm loại người này, nếu quy y Phật pháp, thì có thể lợi mình lợi người. Trong thì hiếu thuận, ngoài thì lợi ích cho mọi người. Giữ lòng trung tín, phục vụ tận tụy cho nhà cho nước, cho nên gọi là người căn tính thiện. Người căn tính ác là người bỏ chân theo ngụy, bỏ chánh theo tà, bỏ đúng theo sai, bỏ thật làm dối, bỏ thiện làm ác. Năm loại căn tính ác này, nếu như quy y Phật pháp, chẳng thể làm lợi chính mình, cũng chẳng thể làm lợi cho người khác. Trong nhà thì bất hiếu, không giữ chữ tín, không nghĩ đến việc phục vụ cho nhà cho nước, bất trung bất nghĩa, dua nịnh ghét ghen. Hơn nữa, những bọn người này, chuyên hãm hại những người hiền đức, đổi trắng thay đen, chỉ biết nhìn lỗi người khác, cho nên gọi là người căn tính ác. Lại nữa, những bọn người này, còn dám hủy báng, sỉ nhục tất cả những bậc lương thiện trời người, và ngay cả chư Phật hiền thánh. Những người trí tuệ phải nên biết điều này. Hiện nay nói rõ về hai loại căn tính thiện ác này là để trả lời câu hỏi vừa nêu trên.
Quán Kinh nói: Phật bảo Vi Đề Hy: “Phu nhân và chúng sinh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ, để tưởng cảnh giới Tây phương …”, như tràng kim cương đỡ đất lưu ly, các thứ trân bảo trang nghiêm trên mặt đất, nhẫn đến quán thứ mười ba, đều chứng minh cho lời giải đáp cho Vi Đề Hy, mục đích là muốn cho phàm phu dù thiện hay ác đều hồi tâm tu hành, đều được vãng sinh. Đây cũng là minh chứng cho tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh.
Lại như Quán Kinh nói: “Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lầu. Trong những lầu các ấy có vô lượng chư thiên thường trổi thiên nhạc… Những tiếng này đều diễn nói môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng… Nếu quán này thành, …, khi mạng chung, hành giả quyết định được sanh về cõi Cực Lạc.” Đây cũng là minh chứng cho tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh. Lại như Quán Kinh nói: Phật bảo A Nan: “Hoa sen mầu nhiệm ấy do nguyện lực của Tỳ kheo Pháp Tạng thành tựu. Muốn quán đức Phật kia, trước phải tưởng hoa tòa này. Khi tu môn tưởng đây, không được quán tạp, phải quán từ đài sen đến mỗi cánh, …, đều cho rõ ràng, như người soi gương tự thấy mặt mình. Pháp tưởng này nếu thành … quyết định được sinh về thế giới Cực Lạc…” Đoạn kinh này cũng chứng minh đây là tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh. Vô Lượng Thọ Kinh nói: Phật bảo A Nan: “Nếu chúng sinh nào sinh về cõi đó, đều sẽ trụ trong chánh định. Chư Phật mười phương đều cùng nhau tán thán Phật A Di Đà. Nếu có chúng sinh nghe danh hiệu Phật đó, khởi lòng hoan hỷ tin ưa, nguyện sinh về cõi ấy, dù chỉ một niệm, cũng đều được vãng sinh, trụ bất thoái chuyển.” Đây cũng là điều chứng minh tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh. Trong Quán Kinh, phần Chín phẩm vãng sinh, mỗi phẩm đều có nói rõ: “Hoặc lúc Phật còn tại thế, hay sau khi Phật diệt độ, phàm phu phiền não, gặp thiện tri thức, khuyến khích khiến sanh lòng tin, dù là trì giới, niệm Phật, tụng kinh, lễ bái, tán thán, v.v…, nhất định đều được vãng sinh. Do nguyện lực của Phật, tất cả đều được vãng sinh.” Đây cũng là điều chứng minh tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh.
A Di Đà Kinh nói: Sáu phương đều có hằng hà sa số chư Phật, các ngài đều hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực như sau: “Hoặc lúc Phật còn tại thế, hoặc sau khi Phật diệt độ, tất cả các phàm phu tội lỗi, chỉ cần hồi tâm niệm Phật A Di Đà, nguyện sinh Tịnh độ, nhẫn đến bảy ngày, hoặc một ngày, mười câu, ba câu, một câu, đến lúc mệnh chung, Phật A Di Đà và chư thánh chúng đều đến nghinh tiếp, liền được vãng sinh.” Như phần trên nói về chư Phật sáu phương hiện tướng lưỡi rộng dài, chứng minh rằng phàm phu niệm Phật ắt sẽ được diệt tội vãng sinh. Nếu như không y vào đoạn kinh này chứng minh được vãng sinh, thì chư Phật sáu phương sau khi hiện tướng lưỡi rồi, ắt sẽ không rút lưỡi vào được, mà lưỡi còn sẽ bị rữa nát. Đây cũng là điều minh chứng tăng thượng duyên Chứng Minh Vãng Sinh.
Kính bạch tất cả hành giả tu hạnh vãng sinh! Nếu nghe được những lời như vầy, liền phải nên cảm động rơi lệ, nhiều đời nhiều kiếp tan xương nát thịt để báo đáp ơn sâu của chư Phật. Những lời dạy này xứng hợp với bổn tâm, tại sao lại còn nghi ngờ sợ hãi. Lại nữa, kính bạch tất cả hành giả! Tất cả phàm phu tội ác, còn được sự gia bị khiến cho tội diệt được vãng sinh, huống hồ các bậc thánh nhân nguyện sinh mà không được vãng sinh hay sao?
Phần trên là lời giải đáp câu hỏi “hàng chúng sinh nào sẽ được vãng sinh Tịnh độ”. Đến đây là xong phần ý nghĩa năm loại tăng thượng duyên.
Hỏi: Đức Thế Tôn xuất thế, vì muốn độ phàm phu trong cõi ngũ trược, ngài đem tâm từ khai thị cho bọn họ biết nhân của mười điều ác cùng quả báo khổ trong ba ác đạo. Lại còn dùng trí tuệ bình đẳng làm cho hàng trời người khai ngộ thể nhập Phật pháp, hồi tâm nguyện sinh về cõi Cực Lạc. Các kinh đốn giáo đều đã giải thích rõ ràng, cớ sao hiện nay có nhiều người không tin, lại còn công nhiên hủy báng.
Không biết những người này trong hiện đời và sau khi mất bị những tội báo nào? Xin đem kinh điển ra dẫn chứng để cho bọn họ cải hối, khởi lòng tín ngưỡng Phật pháp Đại thừa, hồi đầu cầu sinh Tịnh độ, đây là điều lợi ích cho bọn họ.
Đáp: Y vào kinh điển để trả lời. Bọn người ác này, như trong phần năm căn tính ác ở trên đã nói qua. Hiện nay đem kinh điển ra trực tiếp dẫn chứng. Như Thập Vãng Sinh Kinh nói: “Phật bảo Sơn Hải Tuệ Bồ Tát: “Ông nay vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, phải nên thọ trì kinh này.” Phật lại bảo Sơn Hải Tuệ: “Kinh này tên là Quán A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm Giải Thoát Tam Muội, cũng có tên là Độ Chư Hữu Lưu Sinh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sinh, phải nên như vậy mà thọ trì. Chúng sinh nào chưa có duyên với Niệm Phật Tam Muội, kinh này có thể làm cửa đưa vào môn Đại Tam Muội, kinh này có thể đóng cửa địa ngục cho chúng sinh, kinh này có thể trừ diệt được bọn ác quỷ chuyên hảm hại người, bốn phương đều được an ổn.” Phật lại bảo Sơn Hải Tuệ: “Như lời ta nói, ý nghĩa là như vậy.” Sơn Hải Tuệ bạch Phật: “Chúng sinh trong đời sau, thường hay phỉ báng kinh điển này, những người như vậy, đời sau sẽ ra sao?” Phật bảo: “Đời sau, ở cõi Diêm Phù Đề, nếu có hoặc tỳ kheo, hoặc tỳ kheo ni, hoặc người nam, hoặc người nữ nào, thấy người đọc tụng kinh này, bèn hiện tướng sân hận, hoặc khởi tâm hủy báng, do nhân duyên hủy báng chánh pháp này, người sân hận hủy báng đó, trong hiện đời sẽ mắc những bệnh nặng, thân thể tàn khuyết, hoặc bị đui, điếc, …, bị ác quỷ thần quấy phá, điên cuồng, bệnh lạnh bệnh nóng, bệnh trĩ, phù thủng, mất trí, v.v…, các bệnh nặng dữ dội như vậy, đời đời sanh ra đều phải chịu những khổ này, nằm ngồi không yên. Việc đại, tiểu tiện đều không thông, muốn sống cũng không được, muốn chết cũng không được. Vì phỉ báng kinh điển nên phải chịu quả báo như vậy. Hoặc là sau khi chết bị đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp thọ nhận sự khổ não dữ dội. Trong trăm ngàn vạn đời không nghe đến tên thức ăn nước uống. Vì phỉ báng kinh điển nên phải chịu quả báo như vậy. Hoặc sinh vào các loài trâu, ngựa, heo, dê, bị loài người sát hại, nhận chịu sự khổ vô lượng. Vì phỉ báng kinh điển, cho nên sau khi sinh lại cõi người, thường sinh vào dòng dõi hạ tiện, trong trăm ngàn vạn đời không được tự tại, trăm ngàn vạn đời không nghe đến tên Tam bảo. Vì phỉ báng kinh điển nên phải chịu khổ như vậy. Cho nên đối với người không trí tuệ, không nên giảng nói kinh này. Đối với những người chánh quán chánh niệm mới nên nói cho họ. Người nào coi thường kinh này sẽ bị đọa địa ngục, người nào kính trọng kinh này sẽ được giải thoát, sẽ được vãng sinh cõi Phật A Di Đà.” Hiện nay dùng kinh này để chứng minh. Phải nên biết rằng lời Phật huyền ký cho người kính trọng hoặc hủy báng kinh điển đều là sự thật không hư dối. Đến đây là trả lời xong câu hỏi trên.
Hỏi: Sau khi đức Phật diệt độ, tất cả các phàm phu hoặc thiện hoặc ác, phát Bồ đề tâm, nguyện sinh cõi Phật A Di Đà, ngày đêm buộc tâm, trọn cả cuộc đời, xưng danh, quán tưởng, lễ bái, tán thán, cúng dường hương hoa đến đức A Di Đà, đức Quán Âm, Thế Chí cùng các thánh chúng, trang nghiêm Tịnh độ. Niệm niệm quán tưởng, hoặc thành tựu hoặc chưa thành tựu tam muội, thì trong đời này được những công đức gì? Xin dùng kinh điển dẫn chứng rõ ràng để cho những người tu hành đời này đời sau, hoan hỷ tin ưa, tin tưởng phụng hành.
Đáp: Câu hỏi thật là thích đáng. Đây chính là đóng bít nhân duyên sinh tử của sáu nẻo, khai mở cửa vào sự vui của tịnh độ. Không những đức Phật A Di Đà khen ngợi, mà cả chư Phật mười phương cũng đều vui mừng. Hiện nay y vào kinh điển mà trả lời, như Bát Chu Tam Muội Kinh nói: “Phật bảo Bạt Đà Hòa Bồ tát: “Trong pháp tu Niệm Phật Tam Muội có bốn sự cúng dường giúp cho người tu hoan hỷ, đó là thức ăn uống, quần áo, giường chiếu và thuốc men. Chư Phật trong đời quá khứ, nhờ tu pháp môn Niệm A Di Đà Phật Tam Muội, được bốn sự cúng dường hoan hỷ, đều đã thành Phật. Hiện tại, mười phương chư Phật tu pháp môn Niệm A Di Đà Phật Tam Muội, được bốn sự cúng dường hoan hỷ, đều được thành Phật. Vị lai, mười phương chư Phật tu pháp môn Niệm A Di Đà Phật Tam Muội, được bốn sự cúng dường hoan hỷ, sẽ được thành Phật.” Đức Phật bảo Bạt Đà Hòa: “Bây giờ ta nói một ít ví dụ về công đức của bốn sự cúng dường hoan hỷ cho những hành giả tu Niệm Phật Tam Muội. Ví như có người sống lâu trăm tuổi, lúc mới sinh ra thì liền biết đi liên tục không ngừng (cho đến khi chết), tốc độ của người đó nhanh hơn gió thổi mau. Xin hỏi ai có thể tính được chiều dài khoảng đường mà người đó đi qua hay không? Bạt Đà Hòa thưa: “Dạ thưa, không cách nào tính nổi!” Phật bảo: “Nay ta nói cho ông và các Bồ tát biết, Nếu có người nam người nữ nào đem số trân bảo chất nhiều như khoảng không gian mà người đó đi qua ra bố thí, thì công đức của sự bố thí đó không bằng công đức của người nghe được công đức cúng dường bốn sự hoan hỷ cho người tu pháp Niệm Phật Tam Muội, trăm ngàn vạn lần, cũng không thể so sánh được.”
Phật bảo: “Trong thời quá khứ quá số kiếp vô số không thể tính đếm về trước, có Phật hiệu là Tư Ha Ma Đề, cõi nước tên là Bạt Đà Hòa, có một vị chuyển luân vương tên là Duy Tư Cầm, đến nơi đức Phật. Phật biết tâm ý của nhà vua bèn giảng về bốn sự cúng dường hoan hỷ cho pháp tu Niệm Phật Tam Muội. Nhà vua nghe xong rất vui mừng, bèn đem nhiều loại trân bảo rải lên thân đức Phật để cúng dường. Nhà vua phát nguyện rằng: “Nguyện đem công đức này, cầu cho người trời khắp mười phương đều được an ổn.” Phật bảo: “Sau khi nhà vua mệnh chung, bèn sinh trở lại hoàng cung làm thái tử, tên Phạm Ma Đạt. Lúc đó có một vị tỳ kheo tên là Trân Bảo, thường vì bốn chúng đệ tử giảng pháp Niệm Phật Tam Muội. Khi ấy, thái tử nghe giảng về bốn sự cúng dường hoan hỷ, bèn đem trân bảo rải lên tỳ kheo, đồng thời đem y phục đến cúng dường. Thái tử và một ngàn quần thần cùng nhau xuất gia với vị tỳ kheo đó, để cầu học Niệm Phật Tam Muội. Thái tử và quần thần thường theo hầu hạ vị thầy mình, trải qua tám ngàn năm, ngày đêm tinh tấn, không hề biếng nhác. Chỉ một lần nghe qua Niệm Phật Tam Muội mà được trí tuệ cao minh, những đời sau gặp thêm sáu vạn tám ngàn đức Phật, nơi mỗi đức Phật đều được nghe pháp Niệm Phật Tam Muội, mãi cho đến khi thành Phật.”
Phật bảo: “Nếu có người muốn nghe pháp Niệm Phật Tam Muội, thì dù trăm dặm, ngàn dặm, bốn ngàn dặm còn phải đến nghe, huống chi là ở gần bên mà không chịu cầu học.”
Kính bạch các hành giả tu pháp môn Vãng sinh, phần trên là đem những lời Phật dạy để chứng minh, còn phần chi tiết được nói rõ trong phẩm Tứ Sự Cúng Dường Công Đức.
Hỏi: Theo lời Phật dạy, siêng năng khổ hạnh, ngày đêm sáu thời, lễ lạy, niệm Phật, kinh hành, quán tưởng, tụng kinh, nghiêm trì giới luật, nhàm chán sinh tử, sợ khổ ác đạo, tu tập như vậy trọn đời, nguyện sinh về tịnh độ của Phật A Di Đà, nhưng lại e rằng tội chướng chưa hết, tập khí vẫn còn, có thể chướng ngại việc vãng sinh, làm sao để đoạn trừ nỗi lo sợ này. Xin đem kinh Phật dẫn chứng, chỉ cho phương pháp trừ diệt.
Đáp: Y vào kinh Phật để giải đáp. Quán Phật Tam Muội Hải Kinh nói: “Phật bảo phụ vương và mọi người: “Đời quá khứ có Phật hiệu Không Vương. Trong thời tượng pháp có bốn vị tỳ kheo phá giới phạm trọng. Khi ấy, trong đêm tối, đức Phật hiện ra trên không trung, nói với bốn tỳ kheo rằng: “Các ông phạm giới trọng, không thể cứu vớt được. Nếu muốn diệt tội, phải vào tháp Phật, quán sát hình tượng của ta, chí tâm sám hối, thì mới có thể trừ diệt tội này.” Lúc đó, bốn tỳ kheo nghe xong, buông bỏ mọi sự, một lòng tuân hành, vào trong tháp Phật, đến trước hình tượng, thành khẩn phủ phục sám hối, gào khóc bi ai, ngày đêm không ngừng, cho đến trọn đời. Sau khi mệnh chung lại sinh về cõi Phật Không Vương.” Nay đem kinh này làm bằng chứng, hành giả nếu muốn sám hối, cũng nên y theo lời dạy của kinh này. Phật bảo: “Sau khi ta diệt độ, các đệ tử của ta phải nên tránh xa điều ác, lìa bỏ thị phi. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời để một phần thời gian ngắn, chừng trong khoảnh khắc, quán tưởng tướng bạch hào. Dù chưa thành tựu, người ấy cũng đã trừ được chín mươi sáu ức na do tha hằng hà sa vi trần số kiếp tội chướng sinh tử. Nếu lại có người, nghe được pháp tu quán tưởng bạch hào này, sinh lòng vui mừng tin tưởng, không chút nghi ngờ, người đó cũng đã diệt được tám mươi ức kiếp tội chướng sinh tử. Nếu có các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di phạm bốn tội trọng, hoặc phạm mười điều ác, hoặc phạm năm tội nghịch, hoặc phạm tội phỉ báng Đại thừa, những người như vậy, nếu có thể sám hối, ngày đêm sáu thời, thân tâm thành khẩn, năm vóc gieo xuống đất, gào thét lăn lộn, nước mắt đầm đìa, chắp tay hướng về tôn tượng của Phật, quán tưởng tướng bạch hào giữa chặng mày, từ một cho đến bảy ngày, thì bốn tội nặng vừa nói, sẽ giảm rất nhiều. Người nào quán tướng bạch hào không thành, cần phải vào trong tháp Phật, một ngày cho đến ba ngày, chắp tay khẩn thiết sám hối. Lại như, có người nghe thoáng qua pháp tu quán bạch hào tướng này, cũng trừ được ba kiếp tội chướng sinh tử.” Đức Phật bảo phụ vương và ngài A Nan: “Ta nay vì tất cả đại chúng mà hiện thân tướng quang minh, nếu người nào tâm bất thiện, hoặc hủy phạm giới cấm, sẽ thấy thân tướng khác nhau.” Lúc đó, năm trăm người dòng họ Thích, thấy thân Phật màu xám như tro, một ngàn tỳ kheo thấy thân Phật màu như đất đỏ, mười sáu ưu bà tắc, hai mươi bốn ưu bà di thấy thân Phật màu đen như mực, còn các tỳ kheo ni thì thấy thân Phật màu bạc. Khi ấy, đại chúng đồng bạch Phật rằng: “Chúng con hôm nay không thấy hình tướng vi diệu của Phật.” Nói rồi bèn tự vò đầu bứt tóc, năm vóc phủ phục xuống đất, gào khóc kêu la, lăn lộn trên mặt đất. Phật bảo: “Như Lai ra đời chính là vì muốn trừ diệt tội lỗi cho các người. Các người phải nên xưng niệm danh hiệu của bảy đức Phật quá khứ, cung kính đảnh lễ, phát lộ tất cả tội lỗi đã tạo trong đời quá khứ. Các người phải nên đến trước đại tăng phát lộ tất cả tội lỗi, tuân theo lời Phật dạy. Ở trước chư Phật cúi đầu đảnh lễ chí thành khẩn thiết sám hối, sau khi đã sám hối xong, tâm nhãn sẽ được khai mở, thấy được thân Phật, trong lòng sẽ rất vui mừng.” Phật bảo các tỳ kheo: “Các ông trong vô lượng kiếp trong đời quá khứ, tà kiến điên đảo, nghi ngờ sư trưởng, phá giới phạm trai, ngang nhiên tiêu dùng của tín thí, do nhân duyên này đọa vào ngạ quỷ, địa ngục tám vạn năm thọ khổ, sau đó tuy ra khỏi, nhưng trong vô lượng đời không thấy được chư Phật mà chỉ nghe được danh hiệu của các ngài. Hiện nay thấy được thân Phật màu đất đỏ, chiều cao năm xích11.” Sau khi đức Phật nói lời ấy xong, một ngàn tỳ kheo cùng mọi người hướng về đức Phật sám hối, năm vóc sát đất, thành khẩn tha thiết, than thở khóc lóc, âm thanh vang động, giống như gió mạnh thổi tan mây mù, thấy được thân tướng của Phật. Sau khi thấy được thân Phật, các vị tỳ kheo vui mừng, phát Bồ đề tâm. Đức Phật bảo phụ vương: “Một ngàn tỳ kheo này, ân cần cầu pháp, tâm không nhàm mỏi.” Đức Phật bèn thọ ký cho họ trong tương lai thành Phật, đồng hiệu là Quang Chiếu Như Lai.” Phương pháp sám hối vừa trình bày ở trên là trích từ trong quyển hai và quyển ba của Quán Phật Tam Muội Hải Kinh.
11 Một xích Tàu độ ba tấc tây, năm xích độ khoảng 1.5 mét.
Trong phẩm mười hai, Mật Hạnh, quyển thứ mười của Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, đức Phật bảo A Nan: “Chúng sinh đời vị lai, người nào đắc được Niệm Phật Tam Muội, hoặc đắc được Quán Phật Tam Muội, hoặc đắc được Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội, nên bảo người ấy phải cẩn thận giữ gìn thân, khẩu, ý, đừng khởi tà mệnh, đừng sinh tâm cống cao. Nếu khởi tà mệnh, hoặc sinh tâm cống cao, nên biết người đó là kẻ tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, làm cho nhiều chúng sinh khởi tâm bất thiện, phá hoại sự hòa hợp của tăng đoàn, hiện dị tướng để mê hoặc quần chúng, là bạn của ma. Những kẻ ác đó, tuy cũng niệm Phật, nhưng đã mất mùi vị cam lộ. Người này do vì cống cao cho nên sinh vào nơi nào, thân thể cũng đều thấp lùn, giòng dõi hạ tiện, bần cùng khổ sở, đầy dẫy ác nghiệp đeo đuổi bên mình. Vì thế phải nên đề phòng những sự ác như vậy không cho sinh khởi. Nếu sinh khởi những tà nghiệp như vậy, chúng sẽ bại hoại thiện căn, giống như voi điên hủy hoại ao sen.” Phật bảo A Nan: “Người tu pháp niệm Phật, phải tự gìn giữ, không nên phóng dật. Người tu pháp Niệm Phật Tam Muội, nếu không giữ gìn tâm ý, khởi tâm cống cao, gió ác của tà mệnh thổi bừng lửa kiêu mạn, sẽ thiêu hủy tất cả thiện pháp. Thiện pháp tức là tất cả vô lượng thiền định. Các pháp niệm Phật đều từ tâm tưởng sinh khởi, gọi là tạng công đức.” Phật bảo A Nan: “Kinh này tên là Hệ Tưởng Bất Động, còn có tên là Quán Phật Bạch Hào Tướng, nên như thế mà thọ trì, lại còn có tên là Nghịch Thuận Quán Như Lai Thân Phần, lại còn có tên là Phân Biệt Thân Như Lai Từng Lỗ Chân Lông, lại còn có tên là Quán Tam Thập Nhị Tướng Bát Thập Tùy Hình Hảo Chư Trí Tuệ Quang Minh, lại còn có tên là Quán Phật Tam Muội Hải, lại có tên là Niệm Phật Tam Muội Môn, lại có tên là Chư Phật Diệu Hoa Trang Nghiêm Sắc Thân Kinh. Ông nên khéo thọ trì, cẩn thận đừng quên.” Lại như Tế Long Phẩm trong Đại Tập Kinh nói: “Lúc bấy giờ Sa Già La Long Vương thỉnh Phật vào cung cúng dường, đức Phật nhận lời. Sau khi thọ trai xong, Đại long vương thỉnh Phật thuyết pháp. Khi ấy thái tử của long vương tên Hoa Diện, đi đến trước Phật, cúi đầu đảnh lễ, bùi ngùi sám hối, bạch rằng không biết quá khứ đã tạo những ác nghiệp gì mà nay phải sinh vào loài rồng.” Dùng kinh này làm chứng cớ, nên biết, đây cũng là một phương pháp chí thành sám hối.
Trong tất cả kinh điển, đều có dẫn chứng những đoạn văn này, không thể ghi hết. Nay sao chép sơ lược từ ba bộ kinh, để cho người đời sau xem thấy mà tu học, ngoại trừ những kẻ không tha thiết. Mọi người đều biết rõ đức Phật không bao giờ nói lời hư vọng. Mộc Hoạn Kinh nói: “Lúc bấy giờ, vua nước Nan Đà tên Ba Lưu Ly, sai sứ giả đến nơi đức Phật, đảnh lễ dưới chân ngài xong bèn bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nước chúng con bé nhỏ, mỗi năm thường bị giặc cướp, sinh hoạt mắc mỏ, bệnh dịch lan tràn, nhân dân khốn khổ, con thường ăn ngủ không yên. Pháp tạng của đức Như Lai quảng đại thâm sâu, con bận rộn nhiều công vụ, không có thì giờ tu hành, xin nguyện đức Thế Tôn, nhỏ lòng từ bi, dạy cho con pháp thiết yếu, để con ngày đêm dễ dàng tu hành. Trong đời mai sau, lìa xa khổ não.” Phật bảo sứ giả: “Ông về nói lại với nhà vua, nếu muốn diệt trừ phiền não chướng, báo chướng, nên làm một xâu chuỗi một trăm lẻ tám hạt, mang theo bên mình, hoặc đi hoặc ngồi hoặc nằm, thường phải chí tâm chuyên nhất, xưng niệm Phật, Pháp, Tăng, hoặc niệm một chuỗi, mười chuỗi, hai chục, một trăm, một ngàn chuỗi, nhẫn đến trăm ngàn vạn. Nếu có thể thật lòng niệm đủ hai mươi vạn chuỗi, thân tâm không loạn, sau khi mệnh chung, sẽ được sanh về cõi trời Diệm Ma, y thực tự nhiên, thường được an lạc, đoạn trừ được một trăm lẻ tám kiết phược. Ngược dòng sinh tử, quy hướng Niết bàn, được quả Vô thượng.” Sứ giả trở về tâu lại, nhà vua nghe xong lòng rất vui mừng, bèn từ xa cúi đầu lễ tạ ơn Phật, bạch rằng: “Con xin đảnh lễ phụng hành lời Phật dạy.” Bèn ra lệnh cho quần thần chế tạo một ngàn xâu chuỗi hạt, phát cho lục thân hoàng tộc, mỗi người một xâu. Nhà vua thường dùng chuỗi tụng niệm. Tuy bận việc triều chánh, nhưng cũng không bao giờ bỏ phế. Lại thường suy ngẫm: “Lòng từ bi của đức Thế Tôn phổ cập đến muôn loài. Nếu như việc tu tập của con chắc chắc sẽ được thoát khỏi biển khổ triền miên, xin đức Thế Tôn hiện thân thuyết pháp cho con nghe.” Nhà vua ba ngày ba đêm không ăn không uống, đem lòng chí thành khẩn thiết cầu xin, đức Phật cùng các thánh chúng bèn hiện thân đến trong cung nói pháp cho nhà vua.” Đoạn kinh văn này chứng minh rằng tâm của nhà vua chân thực, niệm niệm trừ diệt được tội chướng, đức Phật biết tội của nhà vua đã được trừ diệt, bèn theo lời khẩn cầu hiện thân cho thấy.
*
Chú thích:
(1) Hán: Thập Phương Chư Phật Tất Tại Tiền Lập.