1
2
3

QUYỂN HẠ

Phẩm 33. – THỜI PHẦN ( PHẦN THỜI TIẾT )

Lại nữa Ta nay giải thích nói kiết tường thành tựu thời tiết như vậy: hành giả đã biết tìm cầu tất địa, cần phải biết thời tiết làm : Tháng 8, tháng chạp, tháng giêng, tháng hai và tháng 4. Hết thảy 5 tháng bạch nguyệt vào ngày 15 nên làm thì Thượng thành tựu.

Khi làm vào tháng 4 ắt có vũ nạn, vào tháng hai cũng có phong nạn, ở vào tháng giêng có chủng chủng nạn. Chỉ có tháng chạp là không có các nạn. Ở vào tháng 8 mới có các nạn sấm nổ, sét đánh và mưa đá rơi. Những nạn đã nói trên đều là những tướng thành tựu.

Cứ mỗi tháng trong năm tháng chỉ cầu thành tựu, đều phải làm Phiến Để Ca. Ngày 15 trong 5 tháng hắc nguyệt này nên làm 2 pháp Trung, Hạï thành tựu. Hai pháp đều phải nên làm đó là Bổ Sắc Trưng Ca và A Tỳ Giá Rô Ca.

Lúc nguyệt thực thành tựu các vật tối thượng. Lúc nhật thực thành tựu các vật khắp Thượng, Trung, Hạ. Hoặc trong tháng ngày 15, hoặc ngày 7, hoặc ngày 1 hoặc ngày 13, hoặc dùng ngày 3, nên làm thành tựu tất cả việc.

Nếu làm thành tựu tối thượng nên chọn lúc Thượng Tú Diệu, phải biết trong pháp loại Trung hạ này, trong các Tú, Quỷ Tú là hơn hết. Nếu làm Mãnh lợi thành tựu nên y lúc mãnh Lợi Tú Diệu.v.v…hoặc cúng 3 món tương ưng pháp, chỗ thành tựu y nơi ba việc mà làm. Hoặc như bổn pháp đã nói, hoặc y Bổn Tôn trao tay truyền thọ. Nhiên hậu từ ngày mùng 1 cho đến 15, giữa 2 tháng : tháng giêng và tháng 10 nên làm tất cả việc thành tựu. Hoặc lấy ngày Bổn Tôn, hoặc ngày 13 trong tháng hắc bạch nguyệt cũng được thành tựu.

Tháng 7 tháng 8 là vũ thời hậu tiết ( cuối mùa mưa ), nên ở thời này làm pháp Phiến Để Ca.

Tháng 9, tháng 10 là Đông sơ tiết ( đầu mùa đông ), nên ở thời này làm pháp Bổ Sắc Trưng Ca.

Tháng 3 tháng 4 là Xuân hậu tiết ( cuối mùa xuân ), nên ở thời này làm pháp A Tỳ Giá Rô Ca.

Tháng giêng và tháng 2 là Xuân sơ tiết ( đầu mùa xuân ), nên ở thời này làm thông tất cả việc.

Tháng 5, tháng 6 là vũ sơ tiết ( đầu mùa mưa ), thiết yếu người muốn làm chỉ thành tựu Hạ tất địa mà thôi.

Như thế mùa Xuân, Đông và vũ hậu tiết ( cuối mùa mưa ), cũng hay thành tựu 3 món tất địa. Trong này phân biệt chín phẩm, tùy loại phân phối.

– Ở vào lúc phân chia đầu hôm là Hạ thành tựu.

– Ở vào lúc phân chia giữa đêm là Trung thành tựu.

– Ở vào lúc phân chia cuối đêm là Thượng thành tựu.

– Vào lúc phân chia đầu hôm làm Phiến Để Ca.

– Vào lúc phân chia giữa đêm làm A Tỳ Giá Rô Ca.

– Vào lúc phân chia cuối đêm làm Bổ Sắc Trưng Ca.

Đối với 3 việc này phân biệt chín phẩm tùy loại mà tương ưng, biết đó là thời tiết. Lúc phân thời chỗ hiện tướng chọn Thượng, Trung và Hạ, nhưng lúc Nhật, Nguyệt thực liền làm pháp mà không xem thời phân. Phàm Mãnh Lợi thành tựu và A Tỳ Giá Rô Ca, thời Nhật Nguyệt thực là tối thượng tương ưng. Phàm khởi đầu thành tựu, ngày 1, 2, 3 không ăn, phải biết việc Thượng, Trung, Hạ trong các loại ngày này

Phẩm 34. – VIÊN BỊ THÀNH TỰU

Lại nữa, sẽ nói bổn Pháp thành tựu khuyết thiếu các chi thân ( các căn thân). Nếu thân lực khủng hoảng rũ rượi, các vật không nên ăn. Niệm tụng số biến đã mãn, muốn khởi thành tựu, nên thay đổi niệm tụng, hộ ma, hương hoa tán thán, các món cúng dường, quán niệm Bổn Tôn.

Lấy thật nhiều tơ lụa trắng, khiến đồng nữ se thành sợi dây, như trước làm pháp. Cột làm 7 gút, tụng thần chú 700 biến, vào sáng chiều cột ngang lưng dừng thất tinh ( di mộng tinh ). Chân ngôn rằng :

Úm nhã di câu mang thốc cậc ra mãng đà ninh sa ha, nhất ế nhất ế mãng man dà ninh khất sứ bát ra man vĩ xả tô ma ra đế mãng nhã nẵng mãng tỷ tăng thất lật để dã vi dã ngực đa man chỉ lạm úm ra khất sản câu rô câu lung nghỉ ni sa ha. Úm câu lan đạt lị mãng đà hồng phấn tra.

Phật bộ dùng câu : Câu ma la minh.

Liên Hoa bộ dùng : Câu lung nghỉ ni minh.

Kim Cang bộ dùng : Mãng mãng kế minh.

Phân thời đầu giữa và cuối tụng câu cầu thỉnh. Nếu tự mình không tụng câu cầu thỉnh ở bổn Pháp, nên lấy đó mà an đượng bộ dùng tam minh này trì tụng vào dây, hoặc mỗi ngày gút, hoặc làm quang hiển pháp, nên gút làm Mạn trà la.

Lúc niệm tụng ở ngày tiết nhựt đều phải gấp cột gút, lại trừ hôn trầm, nên hòa hợp nhãn dược : Tô rô đa an thiện na, sáp, sa, mật, long não hương, tất huyên, bà la môn quế, đắc nghiệt ra hương, tự sinh thạch mật.

Lấy các vật trên phân ra, xay nhỏ làm cháo đặc, lấy nước miếng ngựa, hòa thật đều, nghiền nhỏ. Lại lấy chân ngôn này trì tụng 100 biến. Lúc thành tựu, rửa mặt nhiều lần, dùng thuốc thoa mắt, trừ khử giải đãi và hôn trầm, có các nạn khởi, ở xa đều thấy rõ.

Phật bộ minh rằng ;

Úm, nhã phạ la lộ dã minh sa ha.

Liên Hoa bộ minh rằng :

Úm, vi lộ chỉ minh sa ha.

Kim Cang bô minh rằng :

Úm, mãn độ lị nễ dị bát đế sa ha.

Ba bộ Minh này dùng khắp tất cả. Người trì tụng, nay muốn thành tựu, niệm tụng nếu có mõi mệt lấy bạch đàn hương hòa với nước, dùng bộ Tâm Minh trì tụng bảy biến mà uống ba muỗng.

Khi muốn thành tựu, trước lấy nước vẩy sái nên giữ tướng tốt mới có thể làm thành tựu. Người có thiện tướng nghĩa là : Thương khư, Luân, câu ngư, Hữu tồn ấn, bạch liên hoa tràng, sa tất để ca ấn, mãn bình, vạn tự ấn, Kim Cang xử, Hoa man.

Hoặc thấy người phụ nữ đoan chính thân trang sức đeo chuỗi anh lạc, hoặc thấy người có thai nghén, hoặc cầm y phục, hoặc thấy đồng nữ hoan hỷ, hoặc thấy người tịnh hạnh bà la môn mặc y trắng mới, hoặc thấy đi xe tượng mã, rễ thuốc và trái. Hoặc thấy việc kỳ lạ, hoặc nghe tiếng sấm nổ, hoặc nghe tụng tiếng Phệ đà, hoặc nghe tiếng tù-và và sừng ốc, các âm thanh vui, hoặc nghe tiếng chim khổng tước, chim cốt cưu, chim trá cổ, chim nga, chim anh võ hết thảy tiếng chim kiết tường, hoặc nghe lời lành an ủi và dụ dẫn, nghĩa là khởi đầu có thể an lạc thành tựu ý ngôn.

Hoặc thấy mây lành, điện chớp, gió thổi hiu hiu, mưa phùn, hoặc mưa thiên hoa, hoặc có mùi hương tốt và thấy vừng hồng. Ở trong tướng này, chỗ Thiên giáng là Thượng thành tựu. Ở trong không hiện tướng là Trung thành tựu. Ở đất hiện là Hạ thành tựu.

Ba tướng này phân biệt cửu phẩm như trên đã hiện đều là kiết tường. Nếu thấy trái lại tức là không thành tựu. Thấy tướng này rồi, tâm sinh hoan hỷ, dụng tâm như thế mới làm thành tựu.

Phẩm 35. – THỈNH TÔN GIA BỊ THÀNH TỰU

Lại nữa nói pháp phụng thỉnh thành tựu, như trước đã nói thời tiết, tinh tú và điềm lành. v.v… Làm Mạn trà la là pháp Trung. Rộng trần thuyết : nếu không có thiện tướng hiện, tức là dùng bộ Mẫu minh, sữa bò hộ ma, trải qua tụng 100 biến, nhiên hậu làm pháp, cũng được thành tựu tất địa. Trước đã phân biệt Mạn trà la địa, cũng nên y kia mà làm thành tựu.

Nếu thượng thành tựu, ở trên núi làm. Nếu Trung thành tựu ở bên cạnh ao hồ mà làm. Nếu Hạ thành tựu, tùy chỗ mà làm hoặc cùng chỗ chân ngôn tương ứng sẽ thành tựu như kia mà làm.

Không y chỗ này thì thành tựu rất ít và châm chạp. Ở trong tháp thờ cốt Xá Lợi, làm tất cả nội pháp chân ngôn đều được thành tựu. Hết thảy chỗ Phật sinh là Bát đại chế để, trong đó là tối thắng hơn hết. Nhưng ở chỗ Bồ Đề đạo tràng không có tất cả nạn có thể cùng với thành tựu tương ưng. Ma Vương ở trên chỗ kia không có thể làm nạn, huống chi là các loại, thế cho nên tất cả chân ngôn quyết định thành tựu. Phàm làm Mãnh lợi thành tựu thì ở chỗ gò trũng mà làm, hoặc riêng ở thất thanh tịnh, hoặc ở nơi miếu Thần độc cư, hoặc ở dưới cội cây lớn xa xôi vắng vẻ, hoặc ở bên sông sẽ làm thành tựu

Nếu muốn thành tựu nữ Dược Xoa thì ở giữa rừng mà làm.

Nếu muốn thành tựu pháp Long Vương thì ở bên bờ suối mà làm.

Nếu muốn thành tựu pháp phú quý, ở trong trên nhà mà làm.

Nếu muốn thành tựu pháp Sứ Giả, ở chỗ các nhân dân tập hội mà làm.

Nếu muốn thành tựu Pháp vào các hang sâu A Tu la thì ở trong hang mà làm.

Đây là chỗ bí mật phân biệt thành tựu. Quyết định cần phải chọn đất, trước nên đoạn thực, như pháp Tịnh địa Mạn trà la hoặc như pháp niệm tụng trong thất, chỗ đất nên sạch sẽ, chỗ ở thanh khiết thì mau được linh nghiệm. Trước lấy Thành Biện Chư Sự chân ngôn hoặc dùng Quân Trà Lợi chân ngôn trì tụng trong bạch giới tử, hết thảy các vật rải tán trên đất, đây là pháp trừ tất cả nạn.

Lấy Khư đạt la mộc làm 4 cái cọc, dài độ 2 lóng tay, mỗi một đầu nhọn như chày Kim Cang một chia, lấy tử đàn hương thoa trên cọc, lại lấy tơ lụa đào quấn xung quanh. Dùng bạt chiết la quyết ấn làm quyền chấp đó. Dùng chân ngôn này trì tụng 100 biến, lấy đinh đóng ở 4 góc, ở đầu cọc đinh ló một chút, dán 1 lá cờ trắng, ở phía Đông, Tây Mạn trà la, treo ở trên cây sào tre dài.

Lấy Kim Cang Tường chân ngôn trì tụng vào thiết mạt ( sắt vụng ) 100 lần, lấy sắt vụn ấy đúc làm Bạt chiết ra có 3 chia dài bằng nhau, rồi vi nhiễu xung quanh Mạn trà la làm Kim Cang Tường.

Lại lấy Kim Cang Câu Lan chân ngôn trì tụng vào sắt vụn 100 lần, cũng đúc làm bạt chiết ra có 3 chia, đều an trí theo chiều ngang của Mạn trà la, dựng thẳng bạt chiết ra, vi nhiễu Mạn trà la, làm pháp Kim Cang Câu La.

Ngồi cửa Mạn trà la, lấy Quân Trà Lợi chân ngôn dùng bạt chiết ra ấn mà bảo hộ cửa. Thứ đến 2 cửa chính, lấy Ma Lợi Đế Mẫu mà hộ trì cửa. Trong cửa Thai viện, lấy vô năng thắng mà hộ cửa. Hết thảy ba bộ hộ cửa này đều thông dụng khắp.

Hoặc dùng một bộ thông khắp 3 cửa. Ba Thánh Giả này hay đuổi trừ các nạn, không có hay tổn hoại. Đây là bí mật hộ trì thành tựu các vật.

Ơû trung tâm Thai viện, chôn hết thảy 5 vật quý. Nếu chỗ nhân dân tập hội, lúc làm Mạn trà la, 5 vật quý này không nên chôn, chỉ thiết trí thành tựu vật Hạ, Nếu ở giữa sân và nội thất, hoặc trong Phật đường, lúc làm Mạn trà la cũng làm như thế. Lấy năm chỗ trên chỉ trì tụng trong nước hương thơm vẩy sái tức liền thanh tịnh.

Giả như chẳng đào đất chôn, mà ở trong bổn thất niệm tụng làm pháp này thì khiến được thành tựu. Ở trong các thất khác ắt chẳng hợp làm pháp thành tựu. Ở trong thất hư hoại cũng không hợp làm. Lúc làm Mạn trà la, mãn 7 ngày trước lúc hồng hôn tâm kính ngưỡng quán niệm chư Tôn như đối trước mặt mà nói phụng thỉnh:

“ Ở trong ba bộ, tất cả chư Tôn và ở trong bổn Tạng, chư Tôn cùng hết thảy các quyến thuộc. Con đã từ lâu niệm tụng hộ ma, kiên trì giới hạnh, lấy chân tâm này cúng dường chư Tôn, nguyện sau 7 ngày, giáng phó đạo tràng ai mẫn cho con, thọ những món cúng dường vi diệu này, dùng đại từ bi khiến cho con được thành tựu”

Như thế mãn 7 ngày, y thời khải thỉnh, nhiên hậu làm pháp. Lại lấy Ứ già, hương hoa, đồ ăn, thức uống và hết thảy những lời tán thán. Buổi chiều mỗi ngày riêng cúng một phương hộ thế các thần cho đến ba phương đều nên như vậy. Lại lấy hương thoa trên tay, lấy tay trì tụng đè lên các vật mà phụng thỉnh.

Lại nữa thiêu hương, xông hương các vật phụng thỉnh, phải đoạn thực, chọn ngày tốt lược làm Mạn trà la, hoặc dùng các vật phụng thỉnh, hoặc dùng một màu sắc, đặt làm một Mạn trà la tròn, chỉ mở một cửa. Chính giữa an trí hoa sen tám cánh khoảng độ 2 tấc. Kế còn ngoại viện tùy ý lớn nhỏ mà làm.

Trước nội viện an trí Tam Bộ Chủ. Mặt cửa hướng về phía Tây, phía Bắc an trí Ma Hê Thủ La và Phi. Bên hữu Phật an trí Đế Thù Ba Thí. Bên tả an trí Phật Nhàn, kế là Quán Tự Tại, bên hữu an trí Ma Ha Thất Lợi, bên tả an trí Lục Tý.

Thứ đến Kim Cang bên hữu an trí Man Mãng Kế, bên tả an trí Tâm Minh Vương. Bên cửa phía Tây, phía Nam an trí Kiết Lý Kiết Lợi Phẫn Nộ và Kim Cang Câu, như trên đã nói đều an trí ở trong nội viện.

Kế đến ngoại viện an trí Bát Phương Thần và có thể an trí Năng Biện Chư Sự Chủ Chân Ngôn.v.v…

Nội ngoại 2 viện, hết thảy chủ chân ngôn tâm mình vui vẽ kính trọng, đều nên an trí. Bên ngồi cửa phía Bắc an trí Quân Trà Lợi. Cửa phía Nam an trí Vô Năng Thắng, đều dùng tâm chân ngôn mà phụng thỉnh cúng dường. Ở trên Liên Hoa an trí Mãn Ca La Xà Bình, an trí các vật ở trên thành tựu, hoặc ở trên hoa sen, an trí hiệp tử ở trong các vật đầy đủ.

Hoặc ở trên hoa sen an trí ngõa khí, ở trong các vật đầy đủ. Hoặc đầy đủ các vật ở trong thai bình an trí trên hoa sen, lấy tay đè lên trì tụng vào các vật 1000 biến, 100 biến, kế đến lại trì tụng vào hoa tán rải các vật ở trên.

Thứ nữa là dùng bơ hòa với an tức hương mà khéo xông. Kế dùng nước hương thơm vẩy sái đều trên các vật, sau đó dùng bộ mẫu minh trì tụng vào các vật.

Ở Mạn trà la chỗ có chư Tôn đều dùng hết thảy chân ngôn như kia trì tụng vào các vật. Lại nữa lấy sữa bò chưng chín hộ ma, hoặc dùng sửa bò tươi, hoặc lấy bơ, mật ong, dầu mè hòa làm hộ ma, sau lấy sữa chín, cơm hộ ma.

Đối trong bổn pháp đã nói các vật đều nên hộ ma. Ở trong Mạn trà la chỗ có chân ngôn đều lấy dùng, biến làm hộ ma và đều lấy chân ngôn trì tụng vào nước hương thơm mà sái các vật. Như trước đã nói pháp quang hiển vật, ở đây cũng trì tụng như thế, tự mắt xem thấy các vật, tâm tụng chân ngôn như vậy mà tác pháp, các vật tức thành phụng thỉnh.

Phàm tất cả vật làm pháp phụng thỉnh khiến mau được thành tựu. Hoặc ở bổn pháp đã có tất cả món cúng dường và pháp thờ cúng, mỗi mỗi đều nên đầy đủ làm pháp phụng thỉnh này. Trong Mạn trà la cũng biến khắp thọ trì các vật, các vật cũng thông pháp quang hiển.

Ở trong đây nếu làm thành tựu, người làm các chướng ngại cũng không thể rình tìm, cũng thông tịnh các vật. Khi y pháp hốn đảnh, cũng biến thông thành vật hốn đảnh, khắp tự thân cũng thành hốn đảnh. Đây là bí mật hay làm thành tựu các sự tối thắng Mạn trà la. Nếu làm pháp này chẳng bao lâu sẽ được thành tựu.

Phẩm 36. – BỔ KHUYẾT THIẾU

Ta nay sẽ nói pháp Bổ Khuyết Thiếu, từ chỗ thọ trì các vật xong, mỗi ngày 3 thời tắm rửa, 3 thời cúng dường và làm hộ ma, Lấy tay đè lên các vật, 3 thời thay đổi y phục, ngày tiết nhựt nhịn ăn, gia thêm hết thảy pháp cúng dường. Ba thời lễ bái sám hối, tùy hỷ khuyến thỉnh phát nguyện, ba thời đọc kinh và làm Mạn trà la, ba thời quy y thọ giới, ba thời hộ thân. Như thế tác pháp quyết định thành tựu.

Hoặc do buông lung nên có chỗ khuyết thiếu, phải nên dùng bộ Mẫu Minh trì tụng 21 biến liền thành đầy đủ. Nếu pháp khuyết này, thành tựu cũng khuyết, hoặc nếu có khuyết, cần phải niệm tụng, trì 10 vạn biến. Lại nên làm Mạn trà la này, để bổ khuyết phần thiếu ở trước, nhiên hậu mới làm thành tựu.

Nơi Mạn trà la vuông, ở 4 góc an trí 4 cửa như trước đã nói, phân bố ranh giới. Mặt phía Đông an trí Phật, bên hữu an trí Phật Hào, bên tả an trí Phật Thước Để, bên hữu an trí Phật Từ, bên tả an trí Phật Nhãn.

Bên hữu an trí Luân Vương Phật Đảnh, bên tả an trí Bạch Tán Phật Đảnh.

Bên hữu an trí Đế Thù La Thí, bên tả an trí Tối Thắng Phật Đảnh.

Bên hữu an trí Siêu Việt Phật Đảnh, bên tả an trí Tu Bồ Đề.

Bên hữu an trí A Nan, ở góc Tây Nam an trí bình bát. Ở góc Tây Bắc an trí tích trượng. Ngồi cửa phía bên hữu an trí Ha Lị Đế Mẫu, bên tả an trí Vô Năng Thắng, ở ngồi Mạn trà la an trí Năng Biện Chư Sự.

Ơû trung ương an trí Luân ( bánh xe ), ở trên chỗ an trí thành tựu các vật, hoặc an trí Bổn Tôn, ngoại viện an trí Bát Phương Thần Môn, hai bên an trí Nan Đà và Bạt Nan Đà Long Vương, đều dùng bổn chân ngôn phụng thỉnh, hoặc lấy bộ Tâm Minh Đô phụng thỉnh. Y pháp cúng dường, nhiên hậu hộ ma.

Hết thảy chư Tôn, hoặc an trí ấn, hoặc an trí chỗ ngồi, dùng bổn chân ngôn trước thanh tịnh hỏa xong, hộ ma bơ, mật ong 108 lần, lại lấy sữa chín, cơm và dầu mè, đều dùng bổn chân ngôn hộ ma 100 lần.

Việc đã hồn tất tụng 100 biến, đây là bí mật bổ khuyết pháp lỗi lầm trước. Chỗ cúng dường các vật đều lấy hương thơm tốt. Chỗ hiến cúng thức ăn thì dùng Minh Ba Ra Để cúng, và đường cát hòa sữa chín. Người làm pháp này chư Tôn đều được sung tư hoan hỷ khiến được thành tựu.

Chẳng những riêng bổ khuyết, cũng nên mỗi mỗi nữa tháng ở ngày tiết nhựt, hoặc là mỗi ngày làm Mạn trà la này, cúng dường chư Tôn đều được sung tư, khiến ban cho thành tựu. Nếu không chọn thời, tùy sức mà làm.

Như trước đã nói Phật bộ pháp Mạn trà la, đây là pháp Liên Hoa Bộ cũng đều đồng pháp kia, chỉ sửa lại Mạn trà la tròn, độ lượng tùy ý. Phía Đông Tây an trí Quán Tự Tại, bên hữu an trí Mã Đầu Minh Vương, bên tả an trí Tỳ Thủ Rô Ba.

Bên hữu an trí Nhị Mục, bên tả an trí Tứ Tý, bên hữu an trí Lục Tý, bên tả an trí Thập Nhị Tý.

Bên hữu an trí Năng Mãn Chư Nguyện, bên hữu lại an trí Da Du Mạt Để, bên tả an trí Đại Kiết Tường.

Bên hữu an trí Đa La, bên tả an trí Chiến Nại La. Gần cửa phía bên hữu an trí Thấp Phệ Đa, bên tả an trí Bán Noa Ra Phạ Tất Ninh. Ở trung ương an trí Liên Hoa, ngồi Mạn trà la an trí bổn bộ Năng Biện Chư Sự. Đây là Liên Hoa Bộ bổ khuyết pháp Mạn trà la.

Như trước đã nói Phật bộ Mạn trà la, đây là Kim Cang bộ cũng lại như thế, nhiên hậu mới làm, độ lượng tùy ý.

Mặt hướng về phía Đông an trí Chấp Kim Cang, bên hữu an trí Minh Vương, bên tả an trí Man Mãng Kế..

Bên hữu an trí Quân Trà Lợi Phẫn Nộ, bên tả an trí Kim Cang Câu.

Bên hữu an trí bổng, bên tả an trí Đại Lực.

Bên hữu an trí quyền, bên tả an trí tốn ba.

Bên hữu an trí Đề Phòng Già, bên tả an trí Bát Na Ninh Khất Sai Bả.

Bên hữu an trí Phẫn Nộ Hỏa, gần cửa bên hữu an trí Kim Cang Khả Úy Nhãn. Bên hữu gần cửa an trí Kim Cang Vô Năng Thắng. Ngồi Mạn trà la an trí bổn bộ Năng Biện Chư Sự. Còn các ngoại viện và pháp cúng dường đều như trước đã nói. Đây là pháp Kim Cang Bộ bổ khuyết.

Như thế cúng dường đã hồn tất cầu được hảo mộng. Sáng chiều rửa tắm mặc y trắng sạch sẽ, lấy bông lúa nếp và cùng với cỏ lâu xanh, hương thơm tốt, hoa trắng chỗ cúng dường làm Mạn trà la địa, nhiên hậu lấy phân trâu bôi quét khắp, liền làm Tam Kỵ Đa hộ ma.

Bên hữu an trí Câu Lâu Thảo, củi, bơ, mật ong, dầu mè, cơm, tất cả vật hộ ma đều an trí bên hữu. Bên tả an trí bát ứ già, suất tô tiêu và suất chư vật tiêu, an trí ở trước hòa bơ, kế lấy muỗng chọn dùng các sự chân ngôn, múc vẩy sái hết thảy các vật. Thỉnh bộ Tôn chủ an trí cúng dường, dùng bổn chân ngôn lấy ứ già thỉnh, cũng lại an trí Bổn Tôn. Tự thân an trí bơ, trước bơ an trí hỏa, chính giữa bơ hỏa an trí thành tựu các vật. Tự thân lúc ban đầu lấy bơ, các vật, lửa, bổn trì tôn và bộ chủ tôn, như trước nên biết thứ lớp năm vật mà hộ ma.

Bộ chủ bên tả an trí Đế xà ninh minh. Bên hữu an trí Thành biện chư sự. Như trước đã nói trong pháp hộ ma kế đến an trí, trước đầy đủ thanh cao lâu thảo, an trí hòa với bơ, cơm, tán chung với bông lúa nếp, hiến cúng sa phạ tất để. Cúng dường hương thơm tốt, nhiên hậu y pháp làm hộ ma. Chỗ thành tựu các vật an trí đồ đựng bằng vàng hoặc bằng bạc, hoặc bằng đồng đỏ, bằng đá, thương khư, loa, mộc ra nha ca thổ khí.v.v…Trải lá A thuyết tha thọ ở trên chỗ để vật khí, hoặc trãi lá nhủ thọ, hoặc lá ứ già thọ, hoặc lá chuối, hoặc lá sen, hoặc lụa trắng mới thanh tịnh, tùy đó lấy mà trải.

Lại lá thì trải 5 lớp, trước trải ở trên đất an trí thành tựu các vật. Lại lấy lá 5 lớp mà che các vật, hoặc có thể căng ra như dù, hoặc các loại y vải, hoặc các tạp vật. Lần lượt nên biết đồ đựng đầy nhiên hậu dùng tâm không tán loạn làm pháp Tam Kỵ Đa.

Lấy tâm quang minh mà tán sái các vật. Tay cầm bơ lỏng an trí trên các vật, tụng bổn chân ngôn cho đến chữ SA liền rót vào trong lò, đọc lớn chữ HA, trở lại xúc đối các vật, cho đến đồ đựng bơ, như thế đi lại ba lượt, xúc đối các vật không được gián đoạn. Thế gọi là Tam Kỵ Đa hộ ma pháp.

Trong kinh dạy tụng 1000 biến hoặc 100 biến, hoặc quảng lược quán chân ngôn, hoặc lại thành tựu Thượng, Hạ khinh trọng cho đến hộ ma 21 biến, đây gọi là kỳ hạn Đô thuyết biến số. Lúc làm Tam Ky Đa, lấy các vật Câu Biến Triêm, khiến đều thấm ướt. Lúc ban đầu an trí các vật, lấy nước vẩy sái, kế lấy tay đè trì tụng, thứ lấy mắt xem, dâng hiến cúng dường. Hộ ma đã xong, trở lại như thế, ở nơi thành tựu Mạn trà la đã nói tướng thành tựu ba món lúc làm pháp này nếu có tướng hiện, liền giữ kín nên biết chẳng bao lâu được thành tựu.

Vật kia nếu lớn, an trí bên hữu, tay cầm bên hữu thì an trí bên tả mà làm Tam Ky Đa. Nếu các vật hữu tình làm thành hình tượng, lấy muỗng chạm ở trên đầu tượng mà làm hộ ma. Nếu tự thân thành tựu thì lấy muỗng chạm trên đảnh mà hộ ma. Nếu vì người khác làm Tam Ky Đa chỉ xưng tên mà làm hộ ma.

Chỗ thành tựu các vật có 3 món sai biệt : 1/ Chỉ xưng tên. 2/ Vật che cách. 3/ Mắt hiển lộ xem thấy. Như thế đều dùng bơ mà làm hộ ma. Nếu không được bơ nên dùng sữa bò, hoặc nếu có bơ lấy bơ hòa với sữa, hoặc ba vị ngọt, hoặc quán thành tựu sai biệt, nên dùng sữa chín hoặc như bổn sở nói mà dùng làm hộ ma. Hoặc lấy khí trượng, dầu mè hộ ma.

Nếu người muốn thành tựu phệ đa la, nên dùng Kiên mộc hương tâm hộ ma, hoặc dùng hết thảy tô hiệp, các nước thơm, hoặc quán sai biệt các vật và cùng sự sai biệt thành tựu. Nên lấy các loại hương, các vật cùng với pháp tương ưng mà làm hộ ma.

Nếu lấy phệ nhục ( thịt lồi có sừng ở Aán Độ, chó sói ở xứ ta ) trở lại dùng mỡ kia, còn các thịt khác cũng lại như thế. Các vật thành tựu, hết thảy an trí ở trước, dùng chỗ nói pháp Tam Ky Đa này, hoặc như pháp trước nói hộ ma phải nên rộng làm pháp Tam Ky Đa. Các vật hộ ma như thế làm xong mau được thành tựu.

Làm Tam Ky Đa xong, tẩy hoắn khiến được thanh tịnh, nhiên hậu như pháp hốn đảnh. Hốn đảnh đã xong, cúng dường hộ trì, trước an trí Bổn Tôn, thay đổi, gia thêm các món ẩm thực cúng dường Bổn Tôn và sẽ được thờ tự Bát Phương hộ ở đời.

Cũng cần như pháp cúng dường hộ ma, nhiên hậu lấy Tháo ..ậu và A ma la, tự mình như pháp tắm rửa, vào giờ ngọ, tay đè lên các vật mà gia trì niệm tụng. Lại riêng thay đổi chọn chỉ khâu, y trước như pháp trì tụng, tay đeo vòng xuyến, nước tro, Bạch giới tử, thủy, mỗi mỗi đều như trước niệm tụng. Lúc muốn làm thành tựu, như các vật hộ thân, trước nên trì tụng, sau dùng …hĩ Sung. Như vậy niệm tụng hộ thân, lúc các vật thành tựu có chỗ dụng làm đều thành hữu nghiệm.

Thế cho nên trước phải sẵn sàng, suy nghĩ chuẩn bị niệm tụng, cúng dường hết thảy hoa, các vật, cũng nên gia trì niệm tụng an trí gần một bên. Kế y pháp làm Mạn trà la, như pháp cúng dường mà làm thành tựu. Hay chọn dùng các sự chân ngôn, trì tụng chỉ ngũ sắc làm đường ranh giới, quấn trên 4 cái cọc, dùng Quân Trà Lợi chân ngôn trì tụng vào bình, an trí ngồi trước cửa. Chỗ quấn chỉ 2 đầu, câu cột cổ bình hơi lỏng một chút, mỗi thời ra vào nhớ niệm Quân Trà Lợi chân ngôn hay bổn pháp chân ngôn trì tụng cũng được.

Như vậy chỗ nói pháp tích trừ nạn, trước ở chỗ thanh tịnh làm pháp. Bấy giờ ở ngồi thờ tự Bát Phương hộ thế đại thần cùng chư quyến thuộc. Trên bình an trí bạt chiết la hoặc an trí quả chi điêu, bình và chỉ, hoặc trì tụng đương bộ Minh Vương hoặc dùng bộ Tâm hoặc bộ Mẫu trì tụng. Lấy chỗ hộ trì hoặc chỗ đương bộ có kiết ấn đều ở 4 phương mà an trí, dùng để tối trừ chư nạn, cọc kia lấy chốt Kim Cang, trì tụng chân ngôn 100 lần, ở trên đầu 1 cái chốt kia, làm hình chày 3 chia, hoặc hình 1 chia, như vậy làm xong ở tịnh thất thanh tịnh, ngồi 4 góc đàn vuông đóng đinh, nếu làm Mạn trà la, đóng đinh ở góc ranh giới, đây gọi là pháp Kim Cang Chốt. Hay chọn chư sự làm Mạn trà la, hoặc dùng càn mạt thải sắt, hoặc dùng chủng chủng hương mạt, hoặc lấy sắt dẻo, dùng lông trâu làm bút họa, ở các góc ngồi họa chày có 3 chia, các đường ranh giới biến làm hình chày 3 chia, trở lại dùng Kim Cang Tường chân ngôn trì tụng.

Lại ở trong hình giới sử, thay đổi trở lại chiều ngang an trí một chày, khắp nên như thế thì gọi là Kim Cang Câu La.. Trở lại dùng trì tụng Kim Cang Câu La chân ngôn. Như vậy làm xong không có thể tổn hoại. Cho nên ở trong pháp làm thành tựu, ngồi và trong các cửa đều do an trí bạt chiết la mà làm pháp thành tựu, hoặc làm ở trong tịnh thất, hoặc ở nơi đường đất làm mạn đà la dài độ 5 tấc hoặc 7 tấc hoặc 8 tấc, quán chỗ thành tựu tùy việc lớn nhỏ mà làm.

Ở trong các cửa an trí bạt chiết la. Ở các góc trên an trí bình. Ở ngồi cửa an trí bình Năng Biện Chư Sự. Ở trong mặt quay về hướng Đông an trí Pháp Luân Ấn. Bên hữu an trí Phật nhãn, bên tả an trí Phật hào. Bên hữu an trí Nha Ấn, bên tả an trí Thước Để Ấn.

Bên hữu an trí Ngũ Chủng Phật Đảnh và thứ lớp an trí tả hữu. Ở trong Phật bộ có chư Tôn tùy ý thứ lớp an trí tả hữu. Về sau, hai bên, an trí A Nan và Tu Bồ Đề. Kế gần dưới cửa an trí Vô Năng Thắng.

Thứ ở ngoại viện, quay mặt về phía Đông an trí Tất Đạt Đa Minh Vương. Mặt phía Bắc an trí Đại Thế Chí Tôn. Mặt quay về hướng Nam an trí Diệu Kiết Tường Tôn. Mặt quay về hướng Tây an trí …..Nghiệt Ra Tôn.

Mặt phía Đông bên hữu an trí Phạm Thiên và cùng Sắc Giới Chư Thiên. Bên tả an trí Nhơn Đà La lên đến Tha Hóa Tự Tại và……………..Địa Cư Thiên Thần.

Ở phương Đông Nam, an trí Hỏa Thần cùng chư Tiên nhơn vây làm quyến thuộc.

Ở phía Nam an trí Diễm Ma Vương cùng Tỳ Xá Giá, Bố Đơn Na, chư Ma Đát La mà làm quyến thuộc.

Ở phương Tây Nam an trí Nê Lị Đế Thần, cùng chư La sát làm quyến thuộc.

Ở mặt cửa phía Tây, phía Nam an trí Phạ Rô Noa Thần cùng chư Long chúng mà làm quyến thuộc.

Cửa phía Bắc an trí Địa Thần cùng chư A Tu La mà làm quyến thuộc.

Ở phượng Tây Bắc an trí Phong Thần cùng chư Già Lộ Noa mà làm quyến thuộc.

Ở phía Bắc an trí Đa Văn Thiên Vương, cùng chư Dược Xoa mà làm quyến thuộc.

Ở phương Đông Bắc an trí Y Xá Na Thần cùng chư Cưu Bàn Trà mà làm quyến thuộc.

Lại nữa mặt phía Đông ở một chỗ an trí Nhựt Thiên Tử và cùng các sao.

Lại nữa mặt phía Tây, ở một chỗ an trí Nguyệt Thiên Tử cùng các sao, vi nhiễu xung quanh.

Ở cửa phía Tây chỗ cong 2 bên, an trí Nan Đà và Bạt Nan Đà Long Vương.

Ở trong Phật bộ có hết thảy sứ giả các loại chân ngôn và Minh ( chánh chân ngôn ). Ở 4 mặt ngoại tùy ý mà an trí, nhiên hậu y pháp khải thỉnh. Kế đến cúng dường niệm tụng hộ ma. Ở trên trung ương an trí Bổn Tôn hoặc các vật thành tựu, như ở pháp Mạn trà la đã nói hết thảy việc hộ thân, đây cũng như vậy, thứ lớp thực hành. Đây là Phật bộ thành chư vật Mạn trà la, tất cả các nạn không thể hại ở trong làm pháp khiến mau được thành tựu, tất cả chư Tôn tăng gia hộ vệ.

Như trước lấy ngũ thải sắc ( sắc sáng 5 màu ) làm Mạn trà la duy chỉ cải tròn làm vuông. Ở nội viện chỗ mắt hướng về phía Đông an trí Liên Hoa Ấn. Bên hữu an trí Thất Đa La Minh, bên tả an trí Thất Kiết Tường Minh.

Kế đến an trí tả hữu Lục Đại Minh Vương, bên hữu an trí Bán Noa Phạ Tất Ninh, bên tả an trí Du Da Mạt Để.

Gần 2 bên cửa an trí Nhất Kế Minh Phi và Mã Đầu Minh Vương. Ở ngồi trước cửa an trí Năng Biện Chư Sự bình, ở góc cửa an trí bạt chiết la, trong cửa an trí Liên Hoa.

Ở ngoại viện an trí Kỳ Phạm Thiên và Nhơn Đà La Ma Hê Thủ La Đẳng Tịnh Cư Chư Thiên và Vô Cấu Hành Bồ Tát, Quang Mạng Bồ Tát, Trang Nghiêm Bồ Tát, Vô Biên Long Vương, Tôn Đà và Ưu Ba Tôn Đà Long Vương và Thương Khư Trì Minh Tiên Vương cùng các Trì Minh Tiên câu.

Như trước các phương hộ thế, ở trong bộ này đã có sứ giả các loại chân ngôn và chánh chân ngôn, tùy ý an trí. Như trước đã nói thứ lớp an trí, ở đây cũng lại như vậy, tất cả chư nạn không thể hại, phải nên y trong này làm pháp thành tựu. Như trước…………..làm, chỗ giới đạo ở nội viện mặt phía Đông an trí Tô Tất Địa Yết Ra.

Bên hữu an trí Thiên Thi Kim Cang Minh Phi, bên tả an trí Kim Cang Quyền Minh Phi.

Bên hữu an trí Tôn Bà Minh Vương, bên tả an trí Kế Lợi Chỉ Lí Minh Vương.

Bên hữu an trí Bạt Chiết La Tôn, bên tả an trí Bạt Chiết La Đát Tra.

Bên hữu an trí Kim Cang Sáp Đặc Già La Chùy, bên tả an trí Kim Cang Thương Yết La.

Bên hữu an trí Kim Cang Câu Minh Phi, bên tả an trí Nan Mãng Kế Minh Phi.

Ở bên phía Đông ngoại viện an trí Thắng Huệ Sứ Giả, Kim Cang Huệ Sứ Giả, Ma Hê Thủ La và Phi, Đa Văn Thiên Vương và chư Dược Xoa.

Ở trước cửa an trí Biện Chư Sự Bình. Ở trong Kim Cang bộ đã có sứ giả chân ngôn và Minh Bộ Đa, Tỳ Xá Giá, Càn Thát bà, Ma Hầu La Già và Trì Minh Tiên Bát Phương hộ thế, đều ở ngoại viện thứ lớp mà an trí. Nhiên hậu khải thỉnh, như pháp cúng dường niệm tụng hộ ma. Khởi đầu thành tựu, chỗ khải thỉnh chư Tôn nên dùng Minh Vương chân ngôn, hoặc dùng bộ Mẫu Minh triệu thỉnh, ở Mạn trà la nơi có chư Tôn, đều an trí bình.

Như trước Mạn trà la đã có các pháp, đây là pháp thành tựu cũng đều như thế. Nếu ở trong Mạn trà la làm hết thảy việc thành tựu này, dẫu không đầy đủ pháp hộ thân, cũng được tất địa. Vì ……………….có lời thề nguyền

“ Nếu triệu thỉnh, Ta và tất cả giáng phó Mạn trà la phải dùng tâm kiền thành như pháp cúng dường, Ta và hết thảy sẽ cùng lời cầu nguyện kia. Nên biết ở trong này không có tai nạn, ắt được thên gia hộ”.

Nếu dùng bộ tâm chân ngôn và bộ Mẫu. Hoặc dùng Minh Phi Năng Biện Chư Sự chân ngôn, tinh chuyên nội hộ thân chân ngôn, mà dùng khải thỉnh, hộ thân các giới khiến mau được thành tựu. Đấy là pháp bí mật Tam Bộ.

Lại nữa thay đổi nói khắp ba bộ bí mật Mạn trà la. Như pháp giới đạo an trí Bạt chiết la. Ở trung ương an trí bổn bộ chủ ấn, ở trước an trí bổn chân ngôn chủ, hoặc như trước an trí Yết la thi bình, các vật đựng đầy trong đồ.v.v… an trí trong bình kia.

Mặt hường về phía động nội viện, an trí Như Lai ấn. Mặt hướng về phía Bắc, an trí Quán Tự tại ấn. Mặt phía Nam an trí Kim Cang ấn. Mặt phía Tây bên hữu an trí Rô Đạt La, bên tả an trí Đa Văn Thiên Vương. Như trước đã nói Minh Vương Mạn trà la, đây cũng như thế thứ lớp mà an trí.

Bên hữu an trí bộ Mẫu Minh, bên tả bộ Biện Sự Minh, Liên Hoa Kim Cang nhị bộ, tả hữu cũng thế.

Mặt hướng phía Tây bên hữu, an trí Kiêu Lị, bên tả an trí Lạc Khất Sáp Di.

Mặt hướng 2 góc phía Đông an trí bình bát và Chi phạt la. Mặt hướng 2 góc phía Bắc an trí Đát Noa Bổng và Quân trì bình. Mặt hướng góc phía Nam an trí bạt chiết ra và Mẫu đặc già la.

Mặt hướng 2 góc phía Tây, an trí du la và bảo bình. Ở ngồi trước cửa, biệt lấp an trí Vô Năng Thắng.

Mặt trước cửa phía Đông an trí Ha Lợi Đế Mẫu. Mặt trước cửa phía Nam an trí Cu Tra Chỉ Lợi Ca. Mặt trước cửa phía Bắc, an trí Ế Ca Khiết ca. Ở ngoại viện tùy ý biến khắp an trí các ấn. Như pháp khải thỉnh cúng dường, đây là Bí Mật Đô Mạn trà la. Ở trong chỗ làm thành tựu các vật đều được Tất địa bực đảnh hạnh, ở đây còn không dám rình tìm, hà huống các Tỳ Na dạ Ca !

Lấy các dương hương, hoa, đèn, các món ẩm thực trì tụng quang hiển nhiên hậu cúng dường. Như niệm tụng và chỗ nói pháp cúng dường Mạn trà la, ở đây cũng nên làm như thế. Nếu ở trong tịnh thất mà làm cũng được như thế. Mạn trà la chủ kia và các món cúng dường, nên gia thêm 4 lần, đây là pháp bí mật.

Cúng dường đã hồn tất, kế nên ở ngồi như pháp tế tự, lấy bơ, đèn sáng, tim đèn thắp sáng, cúng dường Bổn Tôn, mỗi mỗi các vật đều nên phụng hiến ứ già. Nếu tác pháp như thế khiến được hữu nghiệm.

Lấy Minh Vương chân ngôn trì tụng vào Bạch giới tử hoặc dùng Năng Biện Chư Sự chân ngôn hoặc ở trước trì tụng hữu công chân ngôn, bên cạnh an trí thành tựu các vật, dùng đập nát chư nạn liền thối tán.

Lại dùng Bổn Bộ chủ ấn an trí bên tả, hoặc trì tụng đại đao an trí bên tả, ở chỗ bát phương đều an trí trượng phu. Ban đầu ở phương đông hành giả trang phục như Đế Thích, tay cầm Bạt chiết la, hình sắc như Đế Thích. Ở phía Nam hành giả trang phục như Diễm Ma, tay cầm Đát noa bổng. Ở phía Tây hành giả trang phục như Long Vương, tay cầm quyến tác. Ở phía Bắc hành giả trang phục như Tỳ Sa Môn, tay cầm Ca đà bổng. Ở phía Đông Bắc hành giả trang phục như Y Xá Na, tay cầm cây Tam xoa ba chia. Ở phía Đông Nam hành giả trang phục như Hỏa Thần, hình trạng như Tiên nhơn, tay cầm Quân trì và số châu. Ở phía Tây Nam hành giả trang phục như La sát Vương, tay cầm Hồng đao. Ở phía Tây bắc hành giả trang phục như Phong Thần, tay cầm tràng kỳ.

Đế Thích bạch sắc, Diễm Ma hắc sắc, Long Vương hồng sắc, Tỳ Sa Môn kim sắc, Y Xá Na bạch sắc đới huỳnh, Hỏa Thần hỏa sắc, La sát Vương thiên hắc vân sắc, Phong Thần thanh sắc, chỗ mặc y cũng đều như thế.

Hành giả đều phải thọ giới, khiến được thanh tịnh, có đại dũng trí đảm đương khéo làm pháp hộ thân, hình sắc đoan chính, thanh niên khỏe mạnh, chỗ giữ khí trượng đều nên trì tụng. Cổ và hai vai giao quấn tràng hoa, chuẩn bị Bạch giới tử, khéo như tướng nạn, nếu có nạn đến, tức dùng Bạch giới tử mà tán làm.

Hoặc ném tràng hoa, hoặc nếu các nạn Chúng Đa La hiện đại bố úy, liền cầm khí trượng, khiến các chúng đa la ở xa ngừa lại. Nếu hiện tướng bức ép kia, dùng khí trượng đánh, tán bạch giới tử và ném tràng hoa, dùng khí trượng giơ lên và lúc đánh không di động chỗ cũ. Nếu di động chỗ cũ sẽ bị chúng phá. Vậy cho nên không động bổn xứ, ở trong bổn tạng chỗ có ấn hộ thân đánh đuổi các nạn, quy phục. Trì tụng cúng dường an trí bên thân xong, nếu có nạn nguy hại cực hung mạnh đến, nên tự mình dùng các ấn kia ném làm, hoặc tỷ như nạn đến, tụng trì hữu công chân ngôn vào bạch giới tử tán đuổi các nạn, ắt nếu không dừng liền nên ra ngồi, lấy đồ ăn thức uống gia thêm thật nhiều. Như Pháp tế tự kia các chúng nạn tất cả hộ pháp tổng có 9 món : nghĩa là tích trừ chư nạn, kiết địa giới, kiết hư không giới, kiết Mạn trà la giới, kiết phương sở, kiết Kim Cang tường, kiết Kim Cang Câu Lan, hộ vật hộ thân.

Lấy trừ chư nạn, lúc làm thành tựu, như hết thảy pháp đều nên nhớ niệm. Hoặc nếu không chọn người trước hộ phương, phải nên an trí Đông phương khí trượng, đây cũng không chọn, ở các phương sở chỗ an trí Na Lã Giá khí trượng, hoặc trương cung bắn tên, an trí các phương sở, hoặc cùng người hộ trợ thành tựu.

Trong pháp tạng giải rõ. Có trí tuệ làm phương tiện trì tụng hữu công, giới hạnh thanh khiết, đứng ở trong cửa hộ trợ chọn các sự, tích trừ chư nạn, cho đến nội viện ngoại viện đều nên hộ trợ như kia. Chỗ có tất cả các việc, chí đến giữa buổi chiều đều phải chọn đầy đủ. Một ngày vừa qua, liền khởi đầu thành tựu, khi ở giữa khốn đốn, ra ngồi Mạn trà la, lấy nước súc miệng, dùng chân ngôn Quân Trà Lợi trì tụng vào nước mà uống 3 chén. Hoặc lấy Bổn Tôn Tâm chân ngôn trì tụng vào một ít lá tía tô, vò nát lấy nước mà uống, chỗ có bị mõi mệt đều được trừ lành.

Lại nữa lấy mật hòa với lá Tất huyên, dùng Phật Bộ Mẫu Minh trì tụng, đắp lên mắt, hôn trầm các nạn khởi tức liền trừ hết.

Trước nên thành tâm đứng về hướng Đông quán sát chư Tôn, quy mạng khải thỉnh, đối với ba món kiết tường thoại ứng, ở trong tùy thuận được hảo tướng.

Dụng tâm hoan hỷ mà làm thành tựu, tùy thuận thấy tướng tiên thoại trước, thành tựu cũng như vậy. Thế nên hành giả quán thoại tướng, trước phải nên một phút quán sát Tô Tất Địa Yết Ra Minh Vương. Kế đi nhiễu bên hữu biện chư sự bình, khi vào Mạn trà la tùy chỗ gặp bình, đều đi nhiễu qua bên hữu. Đến xong đãnh lễ chư Tôn và quán khắp, mỗi mỗi đều nên lấy bổn chân ngôn mà phụng thỉnh ứ già, hoặc lấy bộ Tâm chân ngôn phụng thỉnh hiến cúng. Chỗ thỉnh các chủ chân ngôn, nên lấy Minh Vương chân ngôn triệu thỉnh, chỗ thỉnh Minh Vương, nên dùng Minh Phi triệu thỉnh. Triệu thỉnh xong đều dùng bổn Thị ấn và tụng bổn chân ngôn Minh.v.v… hoặc Đát Đô Thị Nhất Ấn, tụng chân ngôn kia và Minh ( chánh chân ngôn ).

Nếu như thế mà làm khiến mau được tất địa. Các vật thành tựu trong có an trí bình ứ già, hoặc an trí trên bình, hoặc an trí trong giữa 2 tay, hoặc chỉ tâm niệm,hoặc an trí Phạ Ra Nhị Ca Khí, hoặc an trí trên lá cây, an trí gần trước Nội Bổn Tôn, chỗ thành các khí đều lấy ngưu huỳnh thoa, kế dùng bạch giới tử làm hộ ma.

Thứ trì tụng Ma Lạc Để Hoa, cúng dường các vật, thoa ngưu huỳnh liền thành trụ cấm. Dùng giới tử liền làm thành hộ thân, lấy hoa cúng dường, tức thành quang hiển.

Ba món pháp này thứ lớp nên làm, không được khuyết bỏ. Ở trước Bổn Tôn an trí thành tựu các vật, ở trong không được gián cách các vật, vật thành tựu dùng 2 món pháp làm hộ thân : Một nghĩa là thủ ấn, hai là bạch giới tử, khiến thành tựu các vật mau được hữu nghiệm.

Số lượng hiến ứ già đầy đủ tất cả hoa hương và sữa chưng chín. Số lượng cúng dường hộ trợ hành giả được thành tựu. Chỗ thường ở dùng các vật hộ ma, như thế an trí cúng dường các vật đã xong, nhiên hậu lấy tay đè lên, hoặc lấy mắt xem dụng tâm không được tán loạn, thong thả trì tụng, trung gian, số lượng các vật quang hiển phải tương tục như vậy, trọn đêm trì tụng khiến các vật không gián đoạn.

Mỗi đêm 3 thời dùng bình ứ già.v.v… thứ lớp cúng dường, nếu ra ngồi súc miệng, hảy tìm người thay thế hổ trợ ngồi trước các vật, liên tục như vậy thứ đến niệm tụng có chỗ bỏ niệm thì chỗ hổ trợ người đều phải bổ khuyết. Lúc trì tụng nếu có đại nạn đến, hổ trợ người thành phải chống cự tai nạn như không năng cấm, hành giả nên tự mình tán bạch giới tử, dùng đập các nạn, kỳ nạn, trợ giúp người trì tụng các vật.

Khi ở phía Đông có nạn hiện, nghĩa là : Đại Vũ Điện ( sấm sét mưa lớn ) nên biết đó là nạn Đế Thích.

Ở hướng Đông Nam có nạn hiện, nghĩa là : Hỏa Sắc Đại Nhơn, hoặc như ở ban ngày, nên biết tức là Hỏa Thiên nạn.

Ở hướng Nam có nạn hiện, nghĩa là : Tử thi hình thậm khả bố úy ( thây người chết hiện hình làm sợ hãi ), lớn tiếng kêu gọi, tay cầm đại đao, đều khiến cắt mũi, tay cầm đầu lâu người chết khiến hút máu nơi cổ người, trên đầu lửa sáng, nên biết tức là Diễm Ma nạn.

Ở hướng Tây Nam có nạn hiện, nghĩa là : Vũ Kỳ Thỉ (mưa phân, nước tiểu), làm cho hôi thúi Mạn trà la và các hình thậm khả bố úy, nên biết tức là Hê Lợi Đê nạn.

Ở phía Tây có nạn hiện, nghĩa là : Vũ lôi điện, Phích lịch bạc.v.v… ( sấm chớp, sét đánh và mưa đá ) nên biết tức là Long Vương nạn.

Ở hướng Tây Bắc có nạn hiện nghĩa là : Đại hắc phong khởi nên biết tức là phong thần nạn. Ở hướng Bắc có nạn hiện, nghĩa là Đại Dược Xoa và Nữ Dược Xoa não loạn hành giả, tức là Đa Văn Thiên Vương nạn. Ở hướng Đông Bắc có nạn hiện, nghĩa là : Tượng đầu, Trư đầu, Cẩu đầu hình tướng dị thường mỗi mỗi đều bưng núi lớn, nên biết tức là Y Xá Na nạn.

Ở thượng phương có chư Thiện hiện đầy đủ đại oai đức, nên biết là Thượng Phương Thiên nạn.

Hạ phương nạn : Động đất và nứt nẻ, nên biết tức là A Tu La nạn.

Làm Thượng thành tựu mới hiện các nạn, như vậy hết thảy nạn ở giữa đêm hiện. Phàm Thượng thành tựu thì nạn thì tướng lớn. Trung và Hạ chuẩn theo đây mà biết. Ở ban đêm 3 thời là tướng Thượng Trung ha, cùng khi đó nên biết tức là thành tựu. Khi không có tướng hiện tức là chẳng thành tựu.

Ba món tướng hiện là : nỗn, khí, yên quang ( ấm, hơi khói, ánh sáng ), như thế 3 món tương ứng thứ lớp hiện. Nếu thượng thành tựu tức là đủ 3 thứ. Nếu trung thành tựu tức là đầy đủ hai thứ trước. Nếu hạ thành tựu chỉ hiện tướng ban đầu.

Hoặc nếu kiền thành trì tụng, lúc đầu hôm 3 tướng thứ lớp hiện, tức là bộ Mẫu Minh, cấm trụ kỳ quang hoặc dùng Minh Vương Tâm, cấm trụ kỳ tướng và dùng ngưu huỳnh thoa trì tụng vẩy sái.

Hoặc lấy tay đè, hoặc dùng bơ vẩy sái, hoặc tán hoa, hoặc dùng bạch giới tử hoặc chỉ vẩy sái nước, cấm trụ kỳ tướng tức liền thọ dụng lời nguyện được kết quả.

Hoặc nếu đầu hôm liền làm thành cấm trụ niệm tụng, cho đến 4 thời mới có thể thọ dụng. Pháp Trung thành tựu chuẩn nơi đây mà biết , ở đầu hôm là Hạ Tất Địa thành tựu, ở giữa đêm được Trung thành tựu, lúc minh tướng động rõ ràng thì được Thượng thành tựu.

Trung thành tựu tức là giữa đêm thành tựu. Như pháp cấm trụ xong, dẫu cho đến sáng sớm, thọ dụng cũng được, nên biết pháp này định đúng là hạ thành tựu, đều ở nơi bổn thời mà thành.

Nếu không thọ dụng chẳng được tốt, các vật dẫu thành cũng không dùng được, lại bất cấm trụ cho đến thẳng chiều cũng không thọ dụng. Nguyên do các vật hoa héo cũng như uế thực ( đồ ăn dơ ) không chỗ kham dụng. Dùng niệm tụng khải thỉnh chân ngôn vào trong các vật thời khắc đã qua nghiệm lại cũng luống uổng. Đầy đủ thành tựu các vật dù ban đầu có tướng hiện nhưng thật ra chẳng thành tựu.

Đương lúc nếu cấm trụ tướng hiện, về sau trở lại làm pháp quang hiển.v.v…và các tiết nhựt, cúng dường hốn đảnh liền làm thành tựu. Trong kinh dạy : nếu ở 3 năm không thành tựu, phải biết các vật này không có thể được thành. Pháp Thượng thành tựu kỳ hạn cho đến 3 năm. Nếu Trung thành tựu cho đến 6 tháng. Nếu hạ thành tựu không kỳ hạn thời gian.Pháp thành tựu chắc chắn cũng lại như thế.

Phẩm 37. – BỊ THÂU THÀNH VẬT KHƯỚC TRƯNG PHÁP

Ta nay sẽ nói các vật bị thâu khước là Trưng pháp. Các vật thành rồi, hoặc lúc làm thành tựu các vật bị thâu, lúc thâu vật, hoặc thấy hình tướng, hoặc chỉ mất vật không thấy người thâu.

Đối với thời không chọn ngày đêm, cũng không đoạn thực, phát khởi sân nộ, hiện tiền khiến nên làm pháp Mạn trà la này. Dùng Thiên Thi Hôi ( tro xác chết bị thiêu ) ở 3 góc mà làm. Chỉ mở cửa phía Tây. Ở ngồi trước cửa an trí Bổn Tôn. Góc nội viện phía Đông an trí Tô Tất Địa Yết Ra Minh Vương.

Bên hữu an trí Kim Cang Phẫn, bên tả an trí Đại Nộ.

Bên hữu an trí Kim Cang Quyền, bên tả an trí Kim Cang Câu.

Bên hữu an trí Kim Cang Kế Lợi Kiết La, bên tả an trí Tỳ Ma.

Bên hữu an trí Nhiệt Tra, bên tả an trí Tân Nghiệt La.

Bên hữu an trí A Thiết Ninh, bên tả an trí Thương Yết La.

Bên hữu an trí Vi Nhã Da, bên cửa hữu an trí Ca Lợi, bên cửa tả an trí Nan Địa Mục Khư, bên tả an trí Kim Cang Quân.

Bên hữu an trí Tô Ma Hô và an trí hết thảy Đại Phẫn Nộ.v.v…

Vì thành tựu, thứ lớp an trí như pháp khải thỉnh, dùng hoa màu đỏ.v.v… thứ lớp cúng dường. Như trước đã nói pháp A Tỳ Giá Rô Ca ở đây nên làm. Ngồi cửa chỗ an trí Bổn Tôn, nên dùng Mỹ diệu hoa.v.v… như pháp cúng dường.

Ở ngoại viện an trí Bát Phương Thần và an trí Bổn Bộ các sứ giả đẳng Tôn.v.v…, cũng nên như thế cúng dường. Ở trung ương làm pháp hộ ma, ở 3 góc là mỗi mỗi như trước. Lấy Thất Mai Kiên Khước Địa La, lấy máu thân mình thoa mà dùng hộ ma. Hoặc dùng khổ luyện mộc, hoặc dùng thiêu thi tàn sài mà hộ ma. Sau khi bỏ vào lửa lấy thiêu thi hôi hòa với máu mình mà hộ ma, và dùng độc dược, máu của mình, dầu bạch giới tử và xích giới tử, bốn món cùng hòa mà làm hộ ma.

Lại lấy 4 vật làm hình tượng thâu vật mà ngồi ở trên, lấy tay tả bẻ cắt nhỏ mà lấy làm hộ ma. Nếu có thể hàng phục người sân và môn pháp của người thì nên làm pháp này. Kẻ thâu vật kinh hồng khiếp sợ, mang đồ đến cho hành giả, đáng cho thì nên cho, khiến kẻ kia không còn sợ hãi. Lúc đó cùng với người kia làm pháp Phiến Để Ca, nếu không làm người kia liền mạng chung, vật đem đến liền được gia thêm, bí mật mà an trí trước Bổn Tôn.

Lại nữa vật bị cắp muốn thành tựu, ngày đem đến quá chậm nếu muốn truy tìm đuổi lấy, liền nên làm pháp này thông khắp 3 bộ. Ở bốn phương thành biện chư sự Mạn trà la mà làm. Ở trung ương an trí Tô Tất Địa Yết Ra Minh Vương. Mặt nội viện phía Nam an trí Kim Cang Phẫn Nộ, Đại Phẫn, Mang Mãng Kê, Kim Cang Câu Thực, Kim Cang Quyền, Kim Cang Hỏa, Kim Cang Mẫu Đặc Già La, Kim Cang Bố Úy, Kim Cang Thương Yết Ra, Tỏa Kế Lợi Yết La, Huệ Kim Cang Vô Năng Thắng và an trí chư đại phẫn nộ và chư sứ giả, chư đại oai đức chân ngôn chủ.v.v… Ở phía Nam thứ lớp an trí

Mặt nội điện phía Bắc an trí Năng Mãng Chư Nguyện, Quán Tự Tại, Mã Đầu Minh Vương, Đa Diện Đa Thủ ( hay hiện nhiều hình Da Du Mạt Đế, Đại Kiết Tường, Lạt Khất Sáp Nhị, Thấp Phệ Đa Bán Noa Ra Phạ Tất Ninh Đa Ra, Kiến Nại Ra, Mạc Ra, chỗ có chân ngôn và chánh chân ngôn chư sứ giả.v.v… mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí.

Mặt hướng nội viện phía Đông, an trí hết thảy Kim Luân Phi Đảnh, chư Dư Phật Đảnh, Phật Hào, Phật Nhãn, Phật Thước Để, Phật Nha, Phật Từ và hết thảy Vô Năng Thắng tự Dư Minh Chủ và hết thảy Năng Biện Chư Sư Chân Ngôn, Chư Dư Chân Ngôn và chư Sứ giả.

Mặt phía Đông mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí gần 2 bên cửa và ngồi cửa cũng như trước y pháp an trí. Ở ngoại viện an trí Bát Phương Thần. Ở bên cửa Tây Nam an trí Phạm Thiên Vương và cùng quyến thuộc. Bên cửa Tây Bắc an trí Ma Hê Thủ La và hết thảy Phi Ngôn Na Bát Để đầy đủ chư quyến thuộc và Thất Mang Đát Ra Mẫu, và Bát Long Vương cùng chư quyến thuộc, A Tu La Vương cùng chư quyến thuộc, quy y Phật Đại Oai Đức Thần. Ở ngoại viện mỗi mỗi thứ lớp như pháp an trí, chí thành khải thỉnh thứ lớp cúng dường.

Ngồi mặt phía Tây an trí lò hộ ma, lấy sáp ong làm hình tượng kẻ trộm vật, an trí trong Ky Ky. Y pháp A Tỳ Giá Rô Ca khải thỉnh thờ tự, cúng dường hộ ma. Kế đến lấy dao cắt hình mà hộ ma, hoặc y bổn bộ đã nói pháp A Tỳ Giá Rô Ca, y kia mà làm. Hoặc Bổn Tôn tự mất và không cùng thành tựu cũng như thế mà làm

Từ tháng hắc nguyệt ngày 5 cho đến ngày 14, giữa thời gian làm pháp gọi là Thắng Đạt. Đối hình tượng lại lấy gậy, roi và lửa đốt, dùng các pháp mạnh như bưng đánh, lấy Mạt đát na thứ, y pháp Kim Cương Quyết, cắt phân thân, lấy dầu hắc giới tử hòa với muối, thoa khắp trên thân, tùy ý khổ sở mà hại đó.

Lại lấy áo người chết mà che trên hình, lấy chỉ đỏ quấn chung quanh, hiến cúng hoa màu đỏ, người trì tụng dùng đôi mắt tức giận, ở trong chân ngôn để câu : “ Kha Trạch” ( quở mắng ), mỗi ngày đánh, nếu đem vật lại liền dừng nghỉ.

Giữa đêm nên làm pháp Mãnh Lợi, dùng Câu trưng na mộc, thoa dầu hắc giới tử mà làm hộ ma. Lại lấy thuốc độc và máu của mình, dầu giới tử, muối và hắc giới tử tương hòa các vật, xưng tên kẻ trộm vật mà làm hộ ma. Trải qua tụng 800 biến, hoặc chỉ dùng máu của mình hòa với muối mà hộ ma. Như vậy là Khỗ Trị. Nếu vật không trở lại tức nên thay đổi làm pháp mạnh cho đến chết.

Đối với trong pháp A Tỳ Giá Rô Ca đã nói sát pháp, là pháp biến khắp mà làm. Ở chân ngôn để câu “ Kỳ Sát” ( giết kẻ kia ). Nếu vật mang đến liền dừng pháp lại, người kia khiến theo xin hoan hỷ. Nếu người kia trả lại các vật hay thay thế các vật, cũng dừng lại. Hoặc dùng các vật xong, lại không vật thế, chỉ đến hối lỗi tạ tội cũng dừng làm. Hoan hỷ bố thí cho người kia, hoặc người kia tổn mất và phân chia người khác, tùy các vật còn dư trả lại, thì cũng dừng việc.

Hoan hỷ bố thí cho người kia, phải nên lấy Kim Cang Trưng Na Ra chân ngôn mà làm hộ ma. Hoặc dùng Đại Nộ hoặc dùng Bất Tịnh Phẫn Nộ mà làm hộ ma, hoặc ở đương bộ đã nói khước truy thất vật chân ngôn mà làm hộ ma, tuy nhiên ba món chân ngôn này thông dụng ba bộ.

Chân ngôn rằng :

Nẵng mỗ ra đát nẵng đát ra dạ dã nẵng mãng thất chiến noa phạ nhựt ra ky nĩnh duệ mãng hạ dược khất sa tế na nẵng bát đa duệ úm hạ la hạ la phạ nhựt ra mãng tha mãng tha phạ nhựt ra độ nãng độ nãng phạ nhựt ra hạ nẵng hạ nẵng phạ nhựt ra bát dã bát dã phạ nhựt ra nại la nại la phạ nhựt ra na ra dã na ra dã phạ nhựt ra na ra dã vĩ na ra dã phạ nhựt ra sân na sân na phạ nhựt ra tần na tần na phạ nhựt ra hồng phấn tra

Được vật kia rồi, hoặc được thế vật, liền hộ vật kia và gồm hộ thân. Đương ở tiết nhựt thứ lớp mà làm hết thảy pháp quang hiển, trung thành tựu vật và hạ thành tựu một phần nên phụng cúng Thế Tôn, một phần nên phụng cúng a xà lê, ra ngồi Mạn trà la lấy một phần trước phụng cúng của người thành tựu, một phần sẽ cùng với những người đồng bạn. Thứ đến lấy năm phần, tự mình thọ dụng, hoặc chia làm 2 phần, một phần tự thọ dụng, một phần phụng cúng tứ xứ, các vật chưa có, pháp đều y như vậy.

Trước lấy ứ già phụng hiến Tôn đẳng, sau lấy phần bổn người thành tựu trước, phần lấy cúng dường ứ già. Giá trị vật gấp bội phần, tự lấy thọ dụng, đem vật giá trị kia mà cúng dường vậy. A xà lê nếu lúc không còn tại thế, phân ra thù đáp giá trị mà tự thọ dụng, người kia sanh tâm tàm quý tức là giá triï ngoại Mạn trà la.

Trước lúc phụng cúng nên làm thành tựu nói : các việc thành tựu trước thọ lấy bổn phần. Tay cầm ứ già lần thứ hai, lần thứ ba nên như vậy mà xướng. Nếu không lấy liền cầm cho người đồng bạn, chớ nên ôm lòng lo lắng nghi kỵ, vì kẻ kia đem tâm kiền thành lấy cúng dường, kiên trì giữ giới làm người hầu cận tức là thành tựu như ở trước.

Thế cho nên phân chia hết thảy vật kia nên thọ xướng ba lần : “ Người đồng bạn kia được quả báo như vậy, con và tất cả liền thành tựu như trước, người tu hành tự mình phân các vật hết thảy cho đồng bạn, các vật kia nếu ít không có thể phân như an thiên na và hết thảy ngưu huỳnh chẳng có thể phân chia vậy.

Ta nên dụng tâm phân lượng mà tự thọ dụng. Có các vật như thế chỉ có một người dùng chẳng có thể phân chia. Hết thảy Luân đeo.v.v…tùy nơi bổn pháp đã nói thành tựu nên như vậy mà làm.

Hết thảy dung tượng cũng không có thể phân chia. Ở trong bổn pháp các vật thành tựu số lượng tuy ít, tùy gia thêm bổn lượng mà làm thành tựu cùng với hết thảy đồng bạn, hoặc y trước số lượng vật, người thành tựu mà làm thành tựu, dẫu phân nữa cũng được thành tựu. Hoặc ở bổn pháp đã nói phân lượng đều nên y đó mà thực hành.

Người tu hành lúc phân chia vật cùng với đồng bạn, nên ở chỗ phân đó mà nói rằng : các ông tùy nơi tôi mà làm việc sai khiến các thứ ( người kia vâng theo làm việc rồi sau mới nên cho họ ). Hoặc nếu một thân thành tựu thì lợi ích tất cả, y tạng giáo này hoặc trong các pháp, đều cùng nhau thông hưá, lúc phân cho đồng bạn, tùy công lao thời tiết kỳ hạn mà phân vật, không nên bổng dưng phân phát.

Các vật đã thành tựu trước nên cúng dường Bổn Tôn, sinh lòng tàm quý sâu xa ân cần tái thỉnh, nhiên hậu mới có thể phân chia, tất cả các bộ pháp đều cũng như vậy. Nên biết định đúng thế này là Trung hạ thành tựu, sinh lòng tàm quý sâu xa, cung kính cúng dường và bố thí tài vật, đã được thì nên tiến tới, y chỗ phân dùng việc như thế.

Khi hồn trả những vật giá trị. Vật thành tựu rồi trước hiến cúng ứ già, như pháp phân cho, tụng bổn chân ngôn và dùng Tác Thủ ấn. Lấy tâm quán niệm Bổn Tôn và tụng kinh Vương Phi chân ngôn cho đến quán niệm, nhiên hậu thọ dụng các vật. Tùy ý bay vào hư không, cho đến chỗ chúng tiên, không có thể tổn hoại và bị khinh thường. Từ chỗ có ốn địch cũng không thể tổn hoại. Thành tựu các vật kia thường niệm Bổn Tôn không nên bỏ mất.

Thành tựu các vật thường nên tâm niệm, hoặc dùng mắt xem. Vì trì tụng Minh Vương chân ngôn cho nên được chư Thiên cung kính, trì Phi Minh không có các sợ hãi. Tác Tam Ma Gia ấn và tác Bộ ấn, mắt xem thấy các vật đều chẳng nên rời bỏ cùng Tiên chúng tương kiến.

Nên trước khởi tâm cung kính mà vấn hỏi “ Thịên lai an lạc lại từ nơi nào đến ?” Nếu chỗ hỏi kia và lời nói lành mà đáp, lúc du hành trên không gian nên ở cao quá thần miếu và độc thọ, ngã tư đường và các chỗ ở chư Thiên. Lấy thành quách tế tự làm đàn. Chỗ Bà La Môn tập hội, giả sử chỗ cư ngụ tà pháp tiên chúng, không nên vượt qua phạm lỗi Tăng thượng mạn. Trong kinh dạy phạm các lỗi kia ắt sẽ bị đọa lạc.

Vì phóng dật mà đọa lạc liền nên trì tụng Minh Vương chân ngôn, dũng tâm tư duy. Nếu đã đọa lạc và lúc sắp muốn đọa liền được 4 vị hư không, tuy không hình sắc có thiên nhãn thấy đường, thí như thành tựu, khởi tâm liền đến, cũng như tại định không động mà đến. Thế cho nên trước thành tựu con đường du không kia, dùng phước lực tư nhiên y phục cung điện tùy ý, dùng hoa lâm viên quán các loại chim, thiên nữ du hý ca vũ kỷ nhạc, các món dục lạc bổng nhiên quang minh, như ý tiếp thọ hay mãn các lời nguyện.

Vì dừng ở, lấy bảo thạch làm tòa, nước chảy dưới kinh, cỏ mọc đầy đất, các món anh lạc và trang nghiêm thân đầy đủ tồn ngu lạc ( khối lạc ). Các kiết tường thọ có quả cam lồ, cho đến tùy chỗ đã vui thích, chỗ nhớ niệm đều hiện ở trước.

Dẫu được như thế rồi thường cần phải hộ thân chẳng nên bỏ mất, nên trụ thanh tịnh viên lâm và các đỉnh núi, ở nơi biển châu ô, giang hà, bãi thác đã du hí rồi nên trụ ở những chỗ trên. Ở các chỗ kia như trước các thắng cảnh, hoặc cùng như trước thành tiên chúng cùng trụ.

Lại như trước đã nói đầy đủ mà làm phháp tất địa, các vật bất thành, như pháp cấm trụ hộ trì tạng khí, như trước thay đổi trước làm niệm tụng cho đến trở lại làm pháp thành tựu. Làm như thế xong, nếu không thành tựu, gia thênm tinh tấn. Lại càng thêm niệm tụng làm pháp thành tựu. Như vậy trãi qua đầy đủ 7 lần mà vẫn không thành, nên làm pháp này quyết định thành tựu. Nghĩa là : Khất thực, tinh cần niệm tụng, phát tâm đại cung kính, tuần xem tám thánh tích, lễ bái hành đạo hoặc là chuyển đọc kinh Bát Nhã.

Phải tụng 7 lần hoặc 100 lần hoặc đem những vật thù thắng phụng dâng bố thí các hàng tăng già, hoặc ở bên dòng sông, biển cả, hoặc ở hải ô. Nên làm một tháp Suất đổ ba ( tháp nhiều tầng ) bằng 1 khuỷ tay, số đủ 100 cái, ở trước mỗi mỗi suất đổ ba như vậy, như pháp niệm tụng 1000 lần. Tháp cuối cùng của 100 tháp nếu được phóng quang, phải biết pháp này quyết định thành tựu.

Lại nữa tất cả chân ngôn niệm tụng 1 cu chi ( 100 ức biến ) quyết định thành tựu. Nếu lúc niệm tụng, trãi qua 12 năm, dù có trọng tội cũng đều thành tựu. Giả sử pháp không đầy đủ đều được thành tựu.

Lại niệm số biến lúc đã mãn, tức liền phải làm Tăng Ích hộ ma. Hoặc lại làm thành biện chư sự mạn đà la này, ở trong mà làm 4 món hộ ma.

Hoặc ở trên đỉnh núi, hoặc ở trước chỗ trụ ở Ngu tích hoặc bãi Hằng hà, đất bình trị, làm mạn đà la độ 108 khuỷ tay an trí 108 bình ở 4 cửa, trước mỗi cửa kiến lập bảo đài các báu trang nghiêm, lấy những danh hoa, những nhánh đẹp làm tràng hoa quấn chung quanh trụ cửa và trên góc tràng, khắp chỗ lấy bơ đốt làm đèn, mãn 108 bày bố mạn đà la và 108 lò hương thiêu các danh hương cũng an trí cùng chỗ. Một mặt nội viện khoảng độ 7 khủy tay, một mặt ngoại viện khoảng độ 3 khủy tay, còn là ở trung ương.chỗ đã khải thỉnh và cúng dường.v.v… đều nên như trước định Pháp Hộ ma.

Kế riêng nói ở trong bổn chân ngôn an trí yết lã xá bình, bốn mặt bình làm pháp hộ ma. Ở mặt phía đông nội viện an trí khắp Phật bộ chư Tôn. Mặt phía Nam trong an trí khắp Kim Cang bộ chư tôn. Ở mặt phía Tây an trí Rô Đạt Ra Thần và Đa Văn Thiên Vương cùng chư quyến thuộc.

Như trước đã nói sứ giả tôn đẳng, nếu nội viện không dung thọ, sẽ an trí trước ngoại viện, hộ phương thần cùng chư quyến thuộc đều an trí 4 phương vị. Ba bộ chủ và Rô Đạt La Đa Văn Thiên Vương trước an trí chỗ cũ, kế lại đều an trí Minh Vương Phi Biện Chư Sự Chân Ngôn Chủ.v.v… cùng chư sứ giả, thứ lớp mà an trí.

Ở ngồi trước cửa an trí Quân Trà Lợi Tôn và Vô Năng Thắng Tôn như thế y pháp làm Mạn trà la đã thành. Dùng bổn Tâm mà khải thỉnh, thứ lớp cúng dường, liền đối 4 góc mà niệm tụng nhiên hậu 4 mặt bình chỗ an trí lò, đều y bộ Trung kia mà làm pháp hộ ma, gọi là Tăng Ích Chư Tôn hộ ma.Cúng dường thức ăn dùng Ô na la hiến dâng, làm pháp này xong tất cả chư Tôn liền thành tăng ích.

Như thế niệm tụng làm hộ ma xong, thay đổi lấy bộ Mẫu chân ngôn dùng bơ mà hộ ma. Kế lấy Bổn Tôn chân ngôn, sữa, cháo, bơ hòa mà làm hộ ma. Thay đổi lấy bộ Mẫu chân ngôn, dầu mè hòa với 3 vị ngọt mà làm hộ ma.

Lại lấy bộ Mẫu chân ngôn dùng bơ hộ ma. Làm pháp này xong, tất cả chư Tôn liền sung túc và thành Tăng ích, viên mãn đầy đủ, tất đều hoan hỷ và ban cho thành tựu.

Lấy sáp ong làm hình tượng, dùng chân ngôn mà niệm tụng đó. Trước tụng bộ Mẫu và Minh Vương Chân Ngôn, ở giữa an trí Bổn Tôn chân ngôn, dùng pháp A Tỳ Giá Rô Ca hộ ma. Dùng dầu giới tử thoa lên hình tượng, trạng thái vừa nóng, nếu hàng phục kẻ khác khắp thân đều thống khổ, lấy roi tức giận mà đánh và dùng hoa ném. Trước dùng hai chân ngôn lấy sản tâm mà cúng dường thí như trị phạt các lồi quỷ mị. Trị phạt Bổn Tôn pháp cũng lại như thế.

Như Pháp suy nghĩ, y giáo mà làm không được tự chuyên, thường thường Bổn Tôn liền đến hiện tiền, ban cho sự thành tựu và bổn nguyện đã mãn thì dừng việc làm ở trước.

Làm pháp Phiến Để Ca, hoặc lấy thuốc độc, máu của mình, dầu mè, muối, xích giới tử hiệp lại mà hồ, suốt đêm hộ ma. Lúc bấy giờ Bổn Tôn sợ hãi xướng rằng: chớ, chớ, dừng, dừng, ban cho thành tựu. Như thế làm Pháp trải qua 3 ngày xong, cũng lại không đến ban cho người thành tựu, lại gia thêm dõng mãnh, dùng tâm vô úy, liền cắt thịt mình hộ ma 3 lần, Bổn Tôn liền đến xin người kia hoan hỷ, chỗ tâm cầu nguyện liền được thành tựu.

Nếu có khuyết lỗi, mỗi mỗi mà nói. Giả sử phạm tội ngũ vô gián, trải qua 9 đêm cắt thịt hộ ma, quyết định mà đến ban cho người thành tựu.

Chân ngôn này là Pháp đấu tranh, lấy tâm vô úy như Pháp hộ thân mới có thể làm, ắt không sẽ bị lỗi. Đã được thành tựu phải mau làm pháp Phiến Để Ca. Nếu nói tội lỗi trong quá khứ liền nên bổ khuyết. Ở trong các việc thành tựu, Mạn trà la này là tối thắng. Ở trong làm 3 món, được 3 món quả, đối trong nên làm tất cả chư sự và lấy hộ ma. Trị phạt Bổn Tôn như trị quỷ mị, mỗi thời cúng dường đều thay đổi vật mới, các vật hộ ma cũng lại như thế.

    Xem thêm:

  • Đại luân Kim Cang Tổng Trì đà-ra-ni kinh - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bồ Đề Trường Trang Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Bảo Tạng Văn Thù Sư Lợi - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lộ Quân Nã Lợi Diệm Man Sí Thạnh Phật Đỉnh - Kinh Tạng
  • Kinh Thân Pháp - Kinh Tạng
  • Pháp Mật Yếu Trị Bệnh Thiền - Kinh Tạng
  • Pháp Nghi Quỹ Tôn Thắng Phật Đỉnh Tu Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đồng Tử Tô Bà Hô Thưa Hỏi - Kinh Tạng
  • Kinh Bí Mật Bát Danh Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 2 - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Tàng Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 4 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm tập 3 - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Đại Thánh Diệu Cát Tường Dạy Trừ Tai Giáo Linh Pháp Luân - Kinh Tạng
  • Kinh Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỹ Nghi - Kinh Tạng
  • Kinh Nhứt Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng