1
2
3
4
5

Kinh Vô Lượng Nghĩa

Việt dịch: Nguyên Thuận

***

PHẨM 1: ĐỨC HẠNH

TÔI NGHE NHƯ VẦY:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trên núi Thứu Phong gần Đại thành Vương Xá, cùng với 12.000 vị đại Tỳ-kheo và 80.000 vị đại Bồ-tát.

Lại có trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, và đại mãng xà; chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh Tín Nam, và Thanh Tín Nữ; đại Chuyển Luân Vương và tiểu Chuyển Luân Vương, như là kim Chuyển Luân Vương và ngân Chuyển Luân Vương; cũng như quốc vương, hoàng tử, đại thần, dân chúng, nam nữ, trưởng giả, và cùng với một tỷ quyến thuộc vây quanh.

Tất cả họ đều đến chỗ của Phật, cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Ngài, và đi nhiễu trăm ngàn vòng. Khi đã thắp hương rải hoa và làm muôn sự cúng dường cho Đức Phật xong, họ lui xuống và ngồi qua một bên.

Tên của các vị Bồ-tát, gồm có:

– Diệu Cát Tường Pháp Vương Tử,

– Đại Uy Đức Tạng Pháp Vương Tử,

– Vô Ưu Tạng Pháp Vương Tử,

– Đại Biện Tạng Pháp Vương Tử,

– Từ Thị Bồ-tát,

– Đạo Thủ Bồ-tát,

– Dược Vương Bồ-tát,

– Dược Thượng Bồ-tát,

– Hoa Tràng Bồ-tát,

– Hoa Quang Tràng Bồ-tát,

– Tổng Trì Tự Tại Vương Bồ-tát,

– Quán Thế Âm Bồ-tát,

– Đại Thế Chí Bồ-tát,

– Thường Tinh Tấn Bồ-tát,

– Bảo Ấn Thủ Bồ-tát,

– Bảo Tích Bồ-tát,

– Bảo Trượng Bồ-tát,

– Việt Tam Giới Bồ-tát,

– Vô Cấu Hiền Bồ-tát,

– Hương Tượng Bồ-tát,

– Đại Hương Tượng Bồ-tát,

– Sư Tử Hống Vương Bồ-tát,

– Sư Tử Du Hí Thế Bồ-tát,

– Sư Tử Phấn Tấn Bồ-tát,

– Sư Tử Tinh Tấn Bồ-tát,

– Dũng Duệ Lực Bồ-tát,

– Sư Tử Uy Mãnh Phục Bồ-tát,

– Trang Nghiêm Bồ-tát,

– Đại Trang Nghiêm Bồ-tát,

– và chư đại Bồ-tát khác như thế; tổng cộng là 80.000 vị.

Tất cả các vị Bồ-tát này đều là Pháp thân Đại Sĩ với giới, định, tuệ, giải thoát, và giải thoát tri kiến thành tựu. Tâm của các ngài tịch tĩnh, luôn ở trong chánh định, điềm tĩnh vắng lặng, vô vi vô dục. Điên đảo và loạn tưởng chẳng còn khởi sanh. Tâm họ tịch tĩnh, thanh tịnh, thâm sâu, quảng đại, có thể giữ bất động đến trăm ngàn ức kiếp và được vô lượng Pháp môn đều hiện ra ở trước. Khi đã được đại trí tuệ và thông đạt các pháp, họ hiểu rõ chân thật, phân biệt tánh và tướng của chúng: có, không, dài, ngắn–thảy đều hiển hiện rõ rệt.

Lại có thể khéo biết các căn tánh và điều mong muốn của chúng sanh. Với tổng trì và biện tài vô ngại, họ luôn thỉnh Phật chuyển Pháp luân và cũng có thể tùy thuận chuyển Pháp luân. Trước tiên, họ thấm ướt hại bụi của ái dục với những giọt nước nhỏ của giáo Pháp. Khi mở cánh cửa tịch diệt, họ quạt ngọn gió giải thoát, rồi chuyển nhiệt não của thế gian thành Pháp mát mẻ. Tiếp theo, họ mưa xuống Pháp Mười Hai Nhân Duyên thâm sâu để rưới lên vô minh, sanh già bệnh chết, và năm uẩn thống khổ đang bốc cháy hừng hực dữ dội như ánh nắng mặt trời. Rồi mới trút ào ạt Đạo lý của vô thượng Đại Thừa để thấm nhuần căn lành của chúng sanh ở ba cõi. Họ rải khắp những hạt giống lành xuống ruộng công đức, để khiến cho tất cả sẽ nảy mầm tuệ giác. Với trí tuệ như mặt trời và mặt trăng, cùng với phương tiện và thời gian, họ hỗ trợ và phát huy sự nghiệp Đại Thừa, khiến chúng sanh mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và thường trụ trong an lạc của chân thật vi diệu.

Với lòng đại bi vô lượng, chư Bồ-tát luôn cứu chúng sanh ra khỏi ách khổ.

– Họ là Thiện Tri Thức chân thật của những chúng sanh này.

– Họ là đại phước điền tốt lành của những chúng sanh này.

– Họ là vị thầy không thỉnh mời của những chúng sanh này.

– Họ là nơi an ổn, nơi cứu độ, nơi bảo hộ, và là nơi nương tựa rộng lớn của những chúng sanh này.

– Họ làm bậc đại đạo sư ở mọi nơi cho các chúng sanh.

– Họ có thể làm con mắt cho những ai mù lòa, làm tai mũi lưỡi cho những ai bị điếc, mất khứu giác, và ngọng.

– Họ có thể khiến những ai với các căn khiếm khuyết được hoàn chỉnh, hoặc bị điên cuồng rối loạn được đại chánh niệm.

– Như một đại thuyền trưởng trong những thuyền trưởng, họ chở chúng sanh ra khỏi sông sanh tử và đến bờ tịch diệt.

– Như một đại y vương trong những y vương, họ phân biệt chứng bệnh, biết rõ tánh thuốc, tùy bệnh cho thuốc, và làm bệnh nhân hoan hỷ uống thuốc.

– Như một huấn luyện viên giỏi trong những huấn luyện viên, họ không để phóng túng nảy sanh.

– Như người huấn luyện voi ngựa, họ khéo điều phục những việc không dễ điều phục.

– Như sư tử dũng mãnh uy phục các loài thú, họ du hí với các Pháp Đến Bờ Kia của Bồ-tát và không gì có thể trở ngại hay phá hoại được.

Với tâm kiên cố bất động để đạt đến Đạo của Như Lai, họ an trụ trong nguyện lực để rộng thanh tịnh Phật độ. Không bao lâu, họ sẽ được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chư đại Bồ-tát này đều có công đức không thể nghĩ bàn như thế.

Tên của các vị Tỳ-kheo, gồm có:

– Đại trí Thu Lộ Tử,

– Thần thông Đại Thải Thúc Thị,

– Tuệ mạng Thiện Hiện,

– Tôn giả Đại Văn Sức,

– Tôn giả Mãn Từ Tử,

– Tôn giả Liễu Bổn Tế,

– Thiên nhãn Vô Diệt,

– Trì luật Cận Thủ,

– Thị giả Khánh Hỷ,

– Phật tử Phú Chướng,

– Tôn giả Hiền Hỷ,

– Tôn giả Thất Tú,

– Tôn giả Phòng Tú,

– Tôn giả Thiện Dung,

– Tôn giả Tiểu Lộ,

– Tôn giả Thiện Lai,

– Khổ hạnh Đại Ẩm Quang,

– Tôn giả Mộc Qua Lâm Ẩm Quang,

– Tôn giả Thành Ẩm Quang,

– Tôn giả Hà Ẩm Quang,

– và các Tỳ-kheo khác như thế; tổng cộng là 12.000 vị.

Tất cả đều là những vị Ứng Chân, các lậu trừ sạch, không còn trói buộc, và được giải thoát chân chánh.

Lúc bấy giờ, khi Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát quán toàn thể đại chúng đã an tọa và định ý xong, ngài cùng với 80.000 vị đại Bồ-tát ở trong Pháp hội, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ của Phật. Họ cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, và đi nhiễu trăm ngàn vòng. Sau đó, họ rải hoa trời, hương trời, y phục cõi trời, xâu chuỗi anh lạc cõi trời, và châu báu vô giá cõi trời. Chúng từ hư không xoay lượn rơi xuống và tụ lại xung quanh như mây để phụng hiến Đức Phật.

Lại có chén bát đựng đầy thức ăn trăm vị ở cõi trời; phàm ai thấy sắc và ngửi hương thì tự nhiên no đủ. Tràng phan, lọng che, và nhạc khí vi diệu ở cõi trời được an trí ở khắp mọi nơi. Khi ấy âm nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức Phật.

Tiếp đến, họ liền chắp tay và quỳ gối phải ở trước Phật, rồi nhất tâm đồng thanh nói kệ tán thán rằng:

“Đại trí đại ngộ đại Thánh Chủ

Vô cấu vô nhiễm vô sở trước

Thiên nhân tượng mã điều ngự sư

Đạo phong đức hương xông tất cả

Trí yên tình lặng lo nghĩ dừng

Ý diệt thức vong tâm cũng tịch

Vĩnh đoạn mơ vọng tư tưởng niệm

Chẳng còn bốn đại uẩn xứ giới

Thân Ngài chẳng có cũng chẳng không

Chẳng nhân chẳng duyên chẳng ta người

Chẳng vuông chẳng tròn chẳng dài ngắn

Chẳng hiện chẳng mất chẳng diệt sanh

Chẳng tạo chẳng khởi chẳng làm nên

Chẳng ngồi chẳng nằm chẳng đứng đi

Chẳng động chẳng chuyển chẳng nhàn tĩnh

Chẳng tiến chẳng thoái chẳng an nguy

Chẳng đúng chẳng sai chẳng được mất

Chẳng kia chẳng đây chẳng đến đi

Chẳng xanh chẳng vàng chẳng đỏ trắng

Chẳng hồng chẳng tím chẳng mọi màu

Giới định tuệ giải tri kiến sanh

Ba Minh Sáu Thông Đạo Phẩm thành

Từ bi Mười Lực vô úy khởi

Chúng sanh nghiệp lành nhân duyên xuất

Thị hiện trượng sáu vàng tím sáng

Đoan chánh chiếu sáng rực rỡ khắp

Mày trắng uốn quăn rực hào quang

Tóc quăn xanh biếc đảnh nhục kế

Mắt sáng thanh tịnh nhìn trên dưới

Lông mi mày xanh miệng má vuông

Môi lưỡi đỏ tươi như trái gấc

Bốn mươi răng trắng như kha tuyết

Trán rộng mũi thẳng khuôn mặt mở

Ngực như sư tử hiện chữ vạn

Chân tay mềm mại đủ ngàn căm

Lòng tay màng lưới nách không rỗng

Ngón tay thon thẳng khuỷu tay dài

Làn da mịn màng lông xoáy phải

Mắt cá gối ẩn mã âm tàng

Bắp thịt quấn xương như bắp nai

Trong ngoài ánh triệt tịnh vô cấu

Thân chẳng dính bụi nước không thấm

Các tướng như thế ba mươi hai

Tám mươi vẻ đẹp có thể thấy

Nhưng thật vô tướng chẳng sắc tướng

Bởi tướng trước mắt là rỗng không

Tướng của vô tướng hiện tướng thân

Thân tướng chúng sanh hiện cũng thế

Khéo làm chúng sanh vui mừng lễ

Kiền thành cung kính lòng ân cần

Do trừ ngã mạn với tự cao

Thành tựu như thế diệu sắc thân

Chúng con cả thảy tám mươi ngàn

Đều cùng cúi đầu và quy mạng

Khéo diệt tư tưởng tâm ý thức

Điều phục tượng mã vô trước Thánh

Cúi đầu quy y Pháp sắc thân

Giới định tuệ giải tri kiến tụ

Cúi đầu quy y diệu tướng Tôn

Cúi đầu quy y chẳng nghĩ bàn

Tám loại Phạm âm như sấm rền

Vi diệu thanh tịnh vang xa thẳm

Bốn Đế Sáu Độ Mười Hai Duyên

Tùy thuận chúng sanh tâm nghiệp chuyển

Ai nghe thảy đều tâm ý khai

Vô lượng sanh tử trói buộc đoạn

Có vị hoặc đắc Quả Nhập Lưu

Nhất Lai Bất Hoàn Đạo Ứng Chân

Vô lậu vô vi Duyên Giác xứ

Vô sanh vô diệt Bồ-tát Địa

Hoặc đắc vô lượng môn tổng trì

Vô ngại nhạo thuyết đại biện tài

Diễn nói thâm sâu kệ vi diệu

Du hí tắm gội hồ Pháp tịnh

Hoặc nhảy bay lên hiện thần túc

Tự do ra vào trong nước lửa

Pháp luân như thế tướng như vậy

Thanh tịnh vô biên chẳng nghĩ bàn

Chúng con lại cùng đồng cúi đầu

Quy y Pháp luân chuyển đúng thời

Cúi đầu quy y tiếng Phạm âm

Bốn Đế Sáu Độ Mười Hai Duyên

Thế Tôn thuở xưa vô lượng kiếp

Gian khổ tu tập các đức hạnh

Vì ta trời người vua thần rồng

Và khắp hết thảy các chúng sanh

Khéo xả tất cả điều khó xả

Tiền tài vợ con cùng thành quách

Nội thí ngoại thí không keo tiếc

Đầu mắt xương não thảy cho người

Phụng trì chư Phật giới thanh tịnh

Thậm chí mất mạng chẳng hủy hoại

Dẫu người dao gậy đến gây hại

Ác khẩu nhục mạ chẳng hề sân

Nhiều kiếp thân tâm không mệt mỏi

Ngày đêm nhiếp tâm luôn trong thiền

Tu học tất cả mọi Pháp môn

Trí tuệ vào sâu căn chúng sanh

Cho nên nay được sức tự tại

Tự tại nơi pháp làm Pháp vương

Chúng con lại cùng đồng cúi đầu

Gắng sức thực hành việc khó làm”

***

PHẨM 2: THUYẾT PHÁP

Lúc bấy giờ, khi Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát và 80.000 vị đại Bồ-tát đã nói bài kệ trên để tán thán Đức Phật xong, họ đồng bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Tất cả 80.000 Bồ-tát chúng con, nay muốn hỏi về Pháp của Như Lai, nhưng không biết Thế Tôn sẽ rủ lòng thương xót mà cho phép chăng?”

Phật bảo Đại Trang Nghiêm Bồ-tát và 80.000 vị Bồ-tát rằng:

“Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Nên biết bây giờ chính là lúc. Ông hãy cứ hỏi. Chẳng bao lâu nữa Như Lai sẽ vào Cứu Cánh Tịch Diệt. Sau khi Ta vào tịch diệt, hãy khiến cho tất cả đều không còn hoài nghi nào khác. Ông hãy thưa hỏi, và Ta sẽ thuyết giảng cho.”

Khi ấy, Đại Trang Nghiêm Bồ-tát và 80.000 vị Bồ-tát liền đồng thanh bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát nào muốn mau được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì phải nên tu hành Pháp môn nào? Pháp môn nào sẽ có thể khiến các đại Bồ-tát mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?”

Phật bảo Đại Trang Nghiêm Bồ-tát và 80.000 vị Bồ-tát rằng:

“Này thiện nam tử! Có một Pháp môn mà sẽ khiến Bồ-tát mau đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nếu có Bồ-tát nào tu học Pháp môn này, thời sẽ có thể mau đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

“Bạch Thế Tôn! Pháp môn này tên là gì? Nghĩa của nó như thế nào? Và Bồ-tát phải tu hành ra sao?”

Đức Phật bảo:

“Này thiện nam tử! Pháp môn này tên là Vô Lượng Nghĩa. Phàm Bồ-tát nào muốn tu học vô lượng nghĩa, họ nên quán sát tánh và tướng của hết thảy các pháp xưa nay vốn Không Tịch: không lớn, không nhỏ, không sanh, không diệt, không trụ, không động, không tiến, không thoái. Chúng tựa như hư không và chẳng có hai pháp. Tuy nhiên, các chúng sanh suy tính sai lầm cho đây với đó, được với mất. Họ khởi niệm bất thiện và tạo những nghiệp ác. Thế nên họ luân hồi trong sáu đường và chịu các khổ độc đến vô lượng ức kiếp mà không thể tự ra khỏi.

Đại Bồ-tát hãy quán sát tường tận như thế, rồi sanh tâm thương xót và phát lòng đại từ bi để mong muốn cứu vớt họ.

Lại nữa, họ hãy vào sâu hết thảy các pháp:

– với pháp tướng như vậy nên pháp sanh như thế;

– với pháp tướng như vậy nên pháp trụ như thế;

– với pháp tướng như vậy nên pháp dị như thế;

– với pháp tướng như vậy nên pháp diệt như thế;

– với pháp tướng như vậy nên có thể sanh pháp ác;

– với pháp tướng như vậy nên có thể sanh Pháp lành;

– và đối với trụ, dị, diệt cũng lại như thế.

Khi đã quán sát và biết rõ ngọn ngành của bốn tướng như thế xong, Bồ-tát tiếp theo quán sát tường tận hết thảy các pháp đều niệm niệm bất trụ và sanh diệt liên tục. Kế đến, họ lại quán sự diễn biến xảy ra tức khắc của sanh trụ dị diệt.

Khi đã quán như thế xong, Bồ-tát sẽ nhìn thấu các căn tánh và điều mong muốn của chúng sanh. Bởi các căn tánh và điều mong muốn là vô lượng, nên Bồ-tát thuyết vô lượng Pháp. Do thuyết vô lượng Pháp, nên nghĩa cũng vô lượng. Vô Lượng Nghĩa là từ một pháp mà sanh ra. Một pháp này tức cũng là vô tướng. Tuy là vô tướng như thế, nhưng vô tướng chẳng rời khỏi tướng và tướng chẳng rời khỏi vô tướng, nên gọi là thật tướng.

Khi đại Bồ-tát đã an trụ trong thật tướng, thì lòng từ bi phát khởi của họ là chân thật và không hư dối. Lúc đó Bồ-tát có thể thật sự bạt trừ khổ đau của chúng sanh. Khi đã cứu họ ra khỏi thống khổ xong, Bồ-tát lại thuyết Pháp để khiến các chúng sanh thọ hưởng vui sướng.

Này thiện nam tử! Nếu Bồ-tát nào có thể tu một Pháp môn của Vô Lượng Nghĩa như vậy, thì họ tất sẽ mau được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Đây là diệu lý chân chánh và tôn quý tối thượng trong Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa, mà chư Phật ba đời đều cùng thủ hộ. Không có chúng ma và ngoại đạo nào có thể vào được, và nó cũng chẳng bị phá hoại bởi hết thảy tà kiến của sanh tử.

Bởi vậy, thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát nào muốn mau chứng tuệ giác vô thượng, họ phải nên tu học diệu lý sâu xa này trong Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa.”

Lúc bấy giờ Đại Trang Nghiêm Bồ-tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn! Pháp của Phật nói thật chẳng thể nghĩ bàn, căn tánh của chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn, và Pháp môn giải thoát cũng chẳng thể nghĩ bàn. Chúng con không còn hoài nghi nào đối với Pháp của Phật thuyết giảng. Tuy nhiên, vì các chúng sanh với tâm mê muội, con cần thưa hỏi thêm lần nữa.

Bạch Thế Tôn! Đã trên 40 năm kể từ khi Như Lai đắc Đạo cho đến nay, Ngài luôn diễn nói nghĩa lý về bốn tướng của các pháp cho chúng sanh, rằng chúng là khổ, không, vô thường, và vô ngã; chẳng lớn hay nhỏ, chẳng sanh hay diệt. Tất cả đều là vô tướng. Bổn lai của pháp tánh và pháp tướng là Không Tịch: chẳng đến hay đi, chẳng hiện hay mất.

Nếu có ai nghe những lời dạy này, hoặc sẽ đắc Noãn Pháp, Đảnh Pháp, Nhẫn Pháp, hay Thế Gian Đệ Nhất Pháp; có vị đắc Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, hay Đạo Ứng Chân; có vị đắc Đạo Độc Giác; có vị phát khởi Đạo tâm và thăng lên Địa Thứ Nhất, thứ nhì, thứ hai, thứ ba, và cho đến Địa Thứ Mười.

Thế nhưng, có sự khác biệt gì về nghĩa lý của các pháp đã thuyết giảng lúc xưa và đang thuyết giảng hôm nay, mà khiến Phật nói rằng, những Bồ-tát nào tu hành diệu lý sâu xa trong Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa, thời sẽ mau thành tựu tuệ giác vô thượng? Việc này là sao? Kính mong Thế Tôn hãy từ mẫn đối với tất cả chúng sanh, mà rộng phân biệt để khiến hết thảy những ai nghe Pháp này ở hiện tại cùng vị lai sẽ không còn rơi vào lưới nghi.”

Khi ấy Phật bảo Đại Trang Nghiêm Bồ-tát rằng:

“Lành thay, lành thay, đại thiện nam tử! Ông có thể hỏi Như Lai về nghĩa lý vi diệu của vô thượng Đại Thừa, thời phải biết rằng, ông có thể làm nhiều sự lợi ích an vui cho hàng trời người và bạt trừ khổ đau cho chúng sanh. Lòng đại từ bi của ông là chân thật, không hư ngụy. Do nhân duyên ấy, ông nhất định sẽ mau thành tựu tuệ giác vô thượng, và cũng làm cho tất cả chúng sanh trong ba cõi ở hiện tại cùng vị lai sẽ thành tựu tuệ giác vô thượng.

Này thiện nam tử! Sau khi ngồi ngay thẳng sáu năm dưới cội Đạo thụ ở Đạo Tràng, ta thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau đó Ta dùng Phật nhãn để quán hết thảy các pháp, và quyết định có những Pháp chưa nên tuyên nói.

Vì sao thế? Bởi căn tánh và điều mong muốn của các chúng sanh không giống nhau. Do căn tánh và điều mong muốn của họ không giống nhau, nên Ta thuyết đủ mọi Pháp. Với sức phương tiện, tuy Ta thuyết đủ mọi Pháp trên 40 năm, nhưng chưa từng hiển lộ thật nghĩa. Thế nên, chúng sanh đắc Đạo cũng có sai khác, và họ không thể mau thành tựu tuệ giác vô thượng.

Này thiện nam tử! Pháp ví như nước, có thể tẩy trừ cấu uế. Chẳng kể là nước từ giếng, ao hồ, suối nước, dòng sông, khe nước, kênh nước, hay biển cả–thảy đều có thể tẩy trừ những cấu uế. Và cũng thế, nước Pháp cũng có thể tẩy trừ các phiền não cấu uế của chúng sanh.

Này thiện nam tử! Mặc dầu tánh của nước thì giống nhau, nhưng suối nước, dòng sông, giếng nước, ao hồ, khe nước, kênh nước, và biển cả mỗi đều khác nhau. Và cũng thế, tánh của Pháp cũng có thể tẩy trừ trần lao–không chút sai khác. Tuy nhiên, Ba Pháp [Giáo Pháp, Hành Pháp, và Chứng Pháp], Bốn Quả của bậc Sa-môn, và Nhị Đạo [Kiến Đạo, Tu Đạo] thì chẳng giống nhau.

Này thiện nam tử! Tuy nước đều có thể tẩy rửa, nhưng giếng nước thì không phải là ao hồ, ao hồ không phải là suối nước hay dòng sông, và khe nước hoặc kênh nước thì không phải là biển cả. Đối với các Pháp thuyết giảng của Như Lai Thế Hùng, bậc tự tại nơi tất cả pháp, cũng lại như thế. Mặc dầu lời dạy ở lúc đầu, lúc giữa, và lúc cuối đều có thể tẩy trừ phiền não của chúng sanh, nhưng lúc đầu chẳng phải là lúc giữa, và lúc giữa chẳng phải là lúc cuối. Mặc dầu lời dạy ở lúc đầu, lúc giữa, và lúc cuối đều dùng văn từ giống nhau, nhưng nghĩa lý của chúng thì khác biệt.

Này thiện nam tử! Sau khi đứng dậy từ dưới cội Đạo thụ vương, Ta đi đến vườn Nai ở gần thành Lộc Dã và chuyển Pháp luân Bốn Thánh Đế để độ nhóm năm người của Tôn giả Liễu Bổn Tế. Lúc ấy Ta cũng thuyết các pháp xưa nay vốn Không Tịch, biến đổi không ngừng, niệm niệm sanh diệt. Thời kỳ giảng dạy ở lúc giữa, Ta tuyên nói Mười Hai Nhân Duyên và Sáu Độ ở khắp mọi nơi cho các Tỳ-kheo và chư Bồ-tát. Lúc ấy Ta cũng thuyết các pháp xưa nay vốn Không Tịch, biến đổi không ngừng, niệm niệm sanh diệt. Và bây giờ Ta diễn nói Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, Ta cũng thuyết các pháp xưa nay vốn Không Tịch, biến đổi không ngừng, niệm niệm sanh diệt.

Bởi vậy, thiện nam tử! Mặc dầu lời dạy ở lúc đầu, lúc giữa, và lúc cuối đều dùng văn từ giống nhau, nhưng nghĩa lý của chúng thì khác biệt. Do nghĩa lý khác biệt nên sự hiểu biết của chúng sanh cũng khác. Do sự hiểu biết khác nhau nên họ đắc Pháp, đắc Quả, và đắc Đạo cũng khác.

Này thiện nam tử! Thời kỳ giảng dạy ở lúc đầu, khi Ta thuyết Bốn Thánh Đế cho những người cầu Quả Thanh Văn, có tám ức chư thiên bay xuống để nghe Pháp và phát khởi Đạo tâm. Thời kỳ giảng dạy ở lúc giữa, khi Ta thuyết Pháp Mười Hai Nhân Duyên ở khắp mọi nơi cho những người cầu Đạo Độc Giác, có vô lượng chúng sanh phát khởi Đạo tâm, hoặc trụ ở Quả Thanh Văn. Ta tiếp theo thuyết giảng các Kinh điển trong 12 bộ–như là Phương Quảng, Đại Trí Độ, và Hoa Nghiêm Hải Vân–để diễn nói sự tu hành của Bồ-tát trong nhiều kiếp, có trăm ngàn Tỳ-kheo, vạn ức hàng trời người, và vô lượng chúng sanh đắc Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, hay Đạo Ứng Chân, hoặc có vị trụ trong Pháp Nhân Duyên và đắc Đạo Độc Giác.

Này thiện nam tử! Do đó phải biết rằng, tuy văn từ giống nhau nhưng nghĩa lý của chúng thì khác biệt. Do nghĩa lý khác biệt nên sự hiểu biết của chúng sanh cũng khác. Do sự hiểu biết khác nhau nên họ đắc Pháp, đắc Quả, và đắc Đạo cũng khác.

Vì thế, thiện nam tử! Sau khi đắc Đạo, kể từ lúc bắt đầu thuyết Pháp cho đến hôm nay diễn nói Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, Ta chưa hề ngừng nghỉ để nói các pháp là khổ, không, vô thường, vô ngã, chẳng thật hay giả, chẳng lớn hay nhỏ, bổn lai chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt. Tất cả đều là vô tướng, bởi pháp tánh và pháp tướng chẳng đến chẳng đi. Tuy nhiên, chúng sanh thì vẫn cuốn theo bởi bốn tướng mà họ nhận thức nơi các pháp.

Này thiện nam tử! Do bởi lẽ này nên chư Phật, bậc không bao giờ nói lời trái nghịch, có thể dùng một âm thanh để ứng khắp tất cả âm thanh, và có thể dùng một thân để hóa hiện tỷ ức nayuta vô lượng vô số Hằng Hà sa số thân. Trong mỗi thân lại có thể hóa hiện đủ mọi hình loại nhiều như số cát của vài tỷ ức nayuta vô số sông Hằng. Trong mỗi hình loại lại có thể hóa hiện vài tỷ ức nayuta vô số Hằng Hà sa số hình.

Này thiện nam tử! Đây chính là cảnh giới thâm sâu không thể nghĩ bàn của chư Phật, chẳng phải hàng Nhị Thừa có thể biết, và cũng chẳng phải Bồ-tát ở Trụ Thứ Mười có thể lường. Duy Phật với Phật mới có thể hiểu rõ hoàn toàn.

Cho nên, thiện nam tử! Ta tuyên thuyết diệu lý chân chánh và tôn quý tối thượng trong Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa vi diệu thâm sâu, mà chư Phật ba đời đều cùng thủ hộ. Không có chúng ma và ngoại đạo nào có thể vào được, và nó cũng chẳng bị phá hoại bởi hết thảy tà kiến của sanh tử.

Nếu đại Bồ-tát nào muốn mau chứng tuệ giác vô thượng, họ nên tu học Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa thâm sâu như thế.”

Khi Phật nói lời ấy xong, Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới liền chấn động sáu cách. Trên không trung tự nhiên mưa xuống muôn loại hoa cõi trời, như là hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, và hoa sen trắng.

Lại mưa xuống vô số muôn loại hương cõi trời, y phục cõi trời, xâu chuỗi anh lạc cõi trời, và châu báu vô giá cõi trời. Chúng từ trên không trung xoay lượn rơi xuống để cúng dường Đức Phật cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng.

Lại có chén bát đựng đầy thức ăn trăm vị ở cõi trời. Tràng phan, lọng che, và nhạc khí vi diệu ở cõi trời được an trí ở khắp mọi nơi. Khi ấy âm nhạc trời trỗi lên để tán thán Đức Phật.

Các thế giới nhiều như cát sông Hằng của chư Phật ở phương đông cũng lại chấn động sáu cách. Trên không trung cũng mưa xuống hương hoa cõi trời, y phục cõi trời, xâu chuỗi anh lạc cõi trời, và châu báu vô giá cõi trời. Lại có chén bát đựng đầy thức ăn trăm vị ở cõi trời. Tràng phan, lọng che, và nhạc khí vi diệu ở cõi trời được an trí ở khắp mọi nơi. Khi ấy âm nhạc trời trỗi lên để tán thán Đức Phật cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng. Nam tây bắc phương, bốn hướng ở bốn góc, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy.

Bấy giờ trong đại chúng này có 32.000 vị đại Bồ-tát đắc Vô Lượng Nghĩa Chánh Định. 34.000 vị đại Bồ-tát được vô lượng vô số môn tổng trì và có thể chuyển tất cả Pháp luân không thoái chuyển của chư Phật ba đời.

Bấy giờ chư Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh Tín Nam, và Thanh Tín Nữ; trời, rồng, quỷ tiệp tật, tầm hương thần, phi thiên, kim sí điểu, nghi thần, và đại mãng xà; đại Chuyển Luân Vương và tiểu Chuyển Luân Vương, như là kim Chuyển Luân Vương và ngân Chuyển Luân Vương; cũng như quốc vương, hoàng tử, đại thần, dân chúng, nam nữ, trưởng giả, và cùng với một tỷ quyến thuộc, khi nghe Đức Phật Như Lai thuyết giảng Kinh này,

– có vị đắc Noãn Pháp, Đảnh Pháp, Nhẫn Pháp, hay Thế Gian Đệ Nhất Pháp;

– có vị đắc Quả Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, hay Đạo Ứng Chân;

– có vị đắc Đạo Độc Giác;

– có vị đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ-tát;

– có vị đắc một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, hay mười môn tổng trì;

– có vị đắc một tỷ ức môn tổng trì;

– có vị đắc vô số môn tổng trì nhiều như vô lượng số cát trong vô số sông Hằng.

Tất cả đều có thể tùy thuận chuyển Pháp luân không thoái chuyển. Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

***

PHẨM 3: MƯỜI CÔNG ĐỨC

Lúc bấy giờ Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát lại thưa với Phật rằng:

Thưa Thế Tôn! Ngài đã thuyết giảng Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa vi diệu thâm sâu. Đây thật là thâm sâu và vô cùng thâm sâu.

Vì sao thế? Bởi chư đại Bồ-tát ở trong chúng hội đây, cùng bốn chúng đệ tử, trời, rồng, quỷ, thần, quốc vương, đại thần, dân chúng, và các chúng sanh, khi nghe Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa thâm sâu, chẳng ai là không đắc các môn tổng trì, Ba Pháp, Bốn Quả của bậc Sa-môn, hoặc phát khởi Đạo tâm. Phải biết diệu lý chân chánh và tôn quý tối thượng trong Kinh này được chư Phật ba đời đều cùng thủ hộ. Không có chúng ma và ngoại đạo nào có thể vào được, và nó cũng chẳng bị phá hoại bởi hết thảy tà kiến của sanh tử.

Vì sao thế? Bởi ai nghe qua chỉ một lần, họ có thể trì tất cả Pháp.

Nếu có chúng sanh nào nghe được Kinh này, họ sẽ được lợi ích to lớn.

Vì sao thế? Bởi nếu có thể tu hành như Pháp, họ tất sẽ mau được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Nếu có chúng sanh nào chẳng nghe Kinh này, thời phải biết đó là một sự mất mát lớn lao cho họ. Dẫu có trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp chẳng thể nghĩ bàn, họ vẫn không thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Vì sao thế? Bởi chẳng biết con đường lớn thẳng tiến đến tuệ giác, họ đi trên hiểm lộ nên gặp nhiều ách nạn.

Thưa Thế Tôn! Kinh này thật chẳng thể nghĩ bàn! Kính mong Thế Tôn từ bi vì đại chúng mà rộng diễn nói những việc chẳng thể nghĩ bàn của Kinh điển thâm sâu này.

Thưa Thế Tôn! Kinh này từ đâu đến, sẽ đi tới nơi nào, và trụ ở nơi đâu, mà có vô lượng công đức với sức chẳng thể nghĩ bàn để khiến chúng sanh mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như thế?”

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát rằng:

“Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Như thị, như thị! Đúng như lời ông nói.

Này thiện nam tử! Ta nói Kinh này thật là thâm sâu và vô cùng thâm sâu.

Vì sao thế?

– Bởi nó có thể khiến chúng sanh mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

– Bởi ai nghe qua chỉ một lần, họ có thể trì tất cả Pháp.

– Bởi nó mang đến lợi ích to lớn cho các chúng sanh.

– Bởi ai đi trên con đường thẳng lớn này, họ sẽ không gặp ách nạn.

Thiện nam tử! Ông đã hỏi Kinh này là từ đâu đến, sẽ đi tới nơi nào, và trụ ở nơi đâu? Ông hãy lắng nghe.

Thiện nam tử! Kinh này vốn từ trong cung điện của chư Phật mà đến, sẽ đi tới hết thảy chúng sanh nào phát khởi Đạo tâm, và trụ ở nơi tu hành của chư Bồ-tát.

Thiện nam tử! Kinh này đến như vậy, đi như vậy, và trụ như vậy. Cho nên Kinh này mới có vô lượng công đức với sức chẳng thể nghĩ bàn để khiến chúng sanh mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như thế.

Thiện nam tử! Kinh này lại có mười sức công đức chẳng thể nghĩ bàn, ông có muốn nghe chăng?”

Ngài Đại Trang Nghiêm thưa rằng:

“Dạ, con vui thích muốn nghe!”

Đức Phật bảo:

“Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ nhất của Kinh này là:

– có thể khiến Bồ-tát nào chưa phát khởi Đạo tâm sẽ phát khởi Đạo tâm;

– có thể khiến những ai chẳng có lòng nhân từ sẽ khởi lòng nhân từ;

– có thể khiến những ai thích giết chóc sẽ khởi tâm đại bi;

– có thể khiến những ai hay đố kỵ sẽ khởi tâm tùy hỷ;

– có thể khiến những ai tham ái và chấp trước sẽ có thể khởi tâm buông xả;

– có thể khiến những ai keo kiệt sẽ khởi tâm bố thí;

– có thể khiến những ai lắm kiêu mạn sẽ khởi tâm trì giới;

– có thể khiến những ai đầy sân hận sẽ khởi tâm nhẫn nhục ;

– có thể khiến những ai ưa lười biếng sẽ khởi tâm tinh tấn;

– có thể khiến những ai tán loạn sẽ khởi tâm thiền định;

– có thể khiến những ai si mê sẽ khởi tâm trí tuệ;

– có thể khiến những ai chưa có thể độ người khác sẽ khởi tâm độ người khác;

– có thể khiến những ai làm mười nghiệp ác sẽ khởi tâm làm Mười Nghiệp Lành;

– có thể khiến những ai thích pháp hữu vi sẽ khởi tâm vô vi;

– có thể khiến những ai thoái chuyển sẽ khởi tâm không thoái chuyển;

– có thể khiến những ai có hữu lậu sẽ khởi tâm vô lậu;

– và có thể khiến những ai nhiều phiền não sẽ khởi tâm diệt trừ.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ nhất của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ nhì của Kinh này là:

Nếu có chúng sanh nào nghe được Kinh này một lần, hoặc chỉ một bài kệ, hay cho đến chỉ một câu, thời sẽ có thể thông đạt trăm ngàn ức nghĩa, mà suốt vô lượng số kiếp họ chẳng thể diễn nói Pháp đã thọ trì.

Vì sao thế? Bởi Pháp trong Kinh này có vô lượng nghĩa.

Thiện nam tử! Kinh này ví như từ một hạt giống sanh ra một tỷ hạt giống. Rồi từ trong một tỷ hạt giống, mỗi hạt giống lại sanh ra một tỷ hạt giống khác. Triển chuyển như thế cho đến vô lượng. Kinh điển này thì cũng lại như vậy. Từ một Pháp sanh ra trăm ngàn nghĩa. Rồi từ trong trăm ngàn nghĩa, mỗi nghĩa lại sanh ra một tỷ nghĩa khác. Triển chuyển như thế cho đến vô lượng vô biên nghĩa. Cho nên Kinh này gọi là Vô Lượng Nghĩa.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ nhì của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ ba của Kinh này là:

Nếu có chúng sanh nào đã nghe được Kinh này một lần, hoặc một bài kệ hay cho đến chỉ một câu, thời sẽ có thể thông đạt trăm ngàn ức nghĩa. Mặc dầu họ vẫn có phiền não, nhưng sẽ như chẳng có phiền não. Họ sẽ trải qua sanh tử với tâm tưởng không có sợ hãi. Họ sẽ khởi lòng thương xót đối với các chúng sanh. Đối với tất cả pháp, họ sẽ được ý chí dũng mãnh.

Đây ví như vị tráng sĩ khỏe mạnh có thể gánh vác những đồ vật nặng. Người trì Kinh này thì cũng lại như vậy. Họ có thể gánh vác châu báu nặng của tuệ giác vô thượng và cõng mang chúng sanh ra khỏi đường sanh tử. Mặc dầu họ chưa có thể tự độ, nhưng đã có thể độ người khác.

Đây ví như vị thuyền trưởng ở bờ bên này do thân mắc trọng bệnh và tứ chi không còn linh hoạt, nhưng ngài có một chiếc thuyền vững chắc rất tốt được chuyên dùng chở người qua bờ, và ngài đã đưa nó cho người khác để lái đi. Người trì Kinh này thì cũng lại như vậy. Mặc dầu họ lưu chuyển trong năm đường, với các thân hữu lậu thường luôn bị 108 trọng bệnh siết trói và phải trú ở vô minh của bờ sanh tử bên này, nhưng người ấy có Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa kiên cố này và có thể độ chúng sanh. Hễ ai như thuyết tu hành, thời họ sẽ ra khỏi sanh tử.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ ba của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ tư của Kinh này là:

Nếu có chúng sanh nào nghe được Kinh này một lần, hoặc một bài kệ hay cho đến chỉ một câu, thời họ sẽ được ý chí dũng mãnh. Tuy chưa có thể tự độ, nhưng họ sẽ có thể độ người khác và với chư Bồ-tát làm quyến thuộc. Chư Phật Như Lai sẽ thường diễn nói Pháp cho người ấy. Khi nghe rồi, người ấy đều có thể thọ trì và tùy thuận chẳng nghịch. Họ lại triển chuyển và tùy lúc mà rộng nói cho người khác.

Thiện nam tử! Người ấy ví như vị hoàng tử mới chào đời của đức vua và hoàng hậu. Hoặc đã lớn lên được một ngày, hai ngày, hay cho đến bảy ngày; hoặc được một tháng, hai tháng, hay cho đến bảy tháng; hoặc được một tuổi, hai tuổi, hay cho đến bảy tuổi. Mặc dầu vẫn chưa có thể xử lý quốc sự, nhưng tiểu hoàng tử đã được thần dân cung kính. Tiểu hoàng tử sẽ được làm bạn lữ với các hoàng tử lớn, được vua cha và hoàng hậu với lòng thương yêu tha thiết thường hay cùng chuyện trò.

Vì sao thế? Bởi tiểu hoàng tử còn rất nhỏ.

Thiện nam tử! Người trì Kinh này thì cũng lại như vậy. Chư Phật ví như đức vua và Kinh này ví như hoàng hậu. Với sự hòa hợp nên cùng sanh ra người con là Bồ-tát.

Nếu có Bồ-tát nào nghe được Kinh này–hoặc một câu hay một bài kệ, hoặc một lần hay hai lần, hoặc 10, 100, 1.000, 10.000, ức vạn ức, hay cho đến vô lượng vô số lần nhiều như cát sông Hằng–tuy vẫn chưa có thể liễu giải chân lý tối diệu, và tuy vẫn chưa có thể chuyển đại Pháp luân với Phạm âm như sấm rền để chấn động Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, nhưng họ đã được tất cả bốn chúng đệ tử cùng thiên long bát bộ kính ngưỡng, và với chư đại Bồ-tát làm quyến thuộc. Họ vào sâu Pháp bí mật của chư Phật và lời thuyết giảng đều chẳng trái nghịch hay sai lầm. Bởi họ là những đệ tử mới học Pháp, nên luôn được chư Phật hộ niệm và từ bi che chở.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ tư của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ năm của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, mà thọ trì đọc tụng và biên chép Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa thâm sâu này, mặc dầu người ấy vẫn còn đầy phiền não bủa vây và vẫn chưa có thể xa rời các việc của phàm phu, nhưng họ sẽ có thể thị hiện Phật Đạo quảng đại. Họ có thể kéo dài 1 ngày thành 100 kiếp và thu giảm 100 kiếp thành 1 ngày để khiến các chúng sanh kia hoan hỷ tín thọ.

Thiện nam tử! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó ví như con của rồng, chỉ mới sanh bảy ngày thì liền có thể nổi mây và cũng có thể làm mưa.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ năm của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ sáu của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, mà thọ trì đọc tụng Kinh điển này, mặc dầu vẫn còn đầy phiền não, nhưng người ấy sẽ có thể thuyết Pháp để khiến chúng sanh xa rời sanh tử phiền não và đoạn trừ mọi thống khổ. Khi chúng sanh nghe rồi và tu hành, họ đắc Pháp, đắc Quả, và đắc Đạo cũng như được dạy chính từ chư Phật Như Lai–không chút sai khác.

Đây ví như tiểu hoàng tử, tuy vẫn còn rất nhỏ, nhưng nếu trong lúc vua cha đi tuần du hay đang mắc bệnh, ngài sẽ ủy thác quốc sự cho vị hoàng tử đó xử lý. Bấy giờ hoàng tử y theo chiếu chỉ của phụ vương mà quản lý triều chính đúng phép để mang đến thịnh vượng. Vương quốc và nhân dân sẽ sống an bình như vua cha trị vì–không chút sai khác. Các thiện nam tử và thiện nữ nhân thọ trì Kinh này cũng lại như vậy. Nếu đương lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, tuy vẫn chưa được trụ ở Hoan Hỷ Địa, nhưng họ sẽ có thể nương theo lời dạy của Phật mà diễn giải giáo Pháp. Khi chúng sanh nghe rồi và nhất tâm tu hành, họ sẽ đoạn trừ phiền não, đắc Pháp, đắc Quả, và cho đến đắc Đạo.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ sáu của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ bảy của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, khi nghe được Kinh này mà lòng hoan hỷ tín mến, sanh tâm hy hữu, rồi thọ trì đọc tụng, biên chép giảng giải. Họ lại như Pháp tu hành, phát khởi Đạo tâm, phát triển các căn lành, và khởi lòng đại bi để muốn độ tất cả chúng sanh khổ não. Tuy họ vẫn chưa tu hành Sáu Độ, nhưng Sáu Độ sẽ tự nhiên hiện ra ở trước và liền đắc Vô Sanh Nhẫn. Ngay khi ấy, phiền não của sanh tử lập tức đoạn trừ. Họ liền thăng lên Địa Thứ Bảy và ngồi vào vị trí của đại Bồ-tát.

Đây ví như có một người dũng mãnh dẹp trừ oán địch cho vua. Sau khi dẹp xong oán địch, nhà vua rất vui mừng, phong thưởng một nửa lãnh thổ và ban cho mọi thứ. Thiện nam tín nữ thọ trì Kinh này cũng lại như vậy. Trong số người tu hành, họ là bậc dũng mãnh nhất. Khi ấy, Pháp bảo Sáu Độ không cầu tự đến và sanh tử oán địch tự nhiên diệt trừ. Họ sẽ chứng Vô Sanh Nhẫn và được phong thưởng một nửa cõi Phật báu để sống an vui.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ bảy của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ tám của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, khi có được Kinh điển này, người ấy tín thọ và tôn kính như thân của Phật–không chút sai khác. Họ yêu mến Kinh này, thọ trì đọc tụng, biên chép, đội mang trên đỉnh đầu, và như Pháp phụng hành. Với trì giới và nhẫn nhục kiên cố, họ còn thực hành Bố Thí Độ. Họ phát lòng từ bi thâm sâu và rộng giảng Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa này cho người khác.

Nếu thính giả trước khi đến là những người đều chẳng tin có nghiệp tội hay phước báo, vị ấy sẽ dùng Kinh này và thiết lập mọi phương tiện mà chỉ bày để khiến họ tin tưởng. Do bởi uy lực của Kinh, nên sẽ khiến cho tâm của những người bất tín này hốt nhiên quay về. Một khi phát khởi tín tâm, họ sẽ tinh tấn dũng mãnh. Do uy lực và uy đức của Kinh này, họ sẽ đắc Đạo và đắc Quả.

Và như thế, các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó liền ở trong đời hiện tại đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn và thăng lên Địa cao hơn. Chư Bồ-tát là quyến thuộc của họ. Họ sẽ mau có thể giáo hóa thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, và không lâu sẽ chứng đắc tuệ giác vô thượng.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ tám của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ chín của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, khi có được Kinh điển này, họ vui mừng hớn hở và được điều chưa từng có, rồi thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường, và rộng phân biệt giảng giải nghĩa lý của Kinh này cho người khác, thì những nghiệp ác và trọng chướng còn sót lại ở đời trước sẽ đồng thời diệt sạch. Họ liền được thanh tịnh và có đại biện tài, tuần tự chứng các Pháp Đến Bờ Kia, và đắc các môn chánh định. Với Cứu Cánh Kiên Cố Chánh Định, họ sẽ vào môn đại tổng trì. Khi đã được sức tinh tấn chuyên cần, họ sẽ mau thăng lên Địa cao hơn. Họ sẽ khéo có thể phân thân đến khắp các cõi nước trong mười phương để cứu vớt tất cả chúng sanh trong 25 cõi, và đều khiến họ giải thoát. Cho nên, Kinh này có uy lực như thế.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ chín của Kinh này.

Thiện nam tử! Sức công đức không thể nghĩ bàn thứ mười của Kinh này là:

Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào, mà lúc Phật còn tại thế hay sau khi đã diệt độ, khi có được Kinh điển này, họ rất vui mừng và sanh tâm hy hữu, rồi liền tự mình thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường, và như thuyết tu hành. Họ lại có thể rộng khuyên người tại gia lẫn hàng xuất gia thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng giải và như Pháp tu hành. Khi những người ấy tu hành và do bởi uy lực của Kinh này, họ sẽ đắc Đạo hoặc đắc Quả. Sự thành tựu của họ đều là do lòng từ bi và nỗ lực khuyên nhủ của các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó.

Các thiện nam tử và thiện nữ nhân đó sẽ chứng vô lượng môn tổng trì ngay trong đời hiện tại. Mặc dầu còn ở địa vị phàm phu, nhưng họ sẽ tự nhiên có thể phát vô lượng vô số đại hoằng thệ nguyện để rộng cứu độ hết thảy chúng sanh. Họ thành tựu đại bi, rộng có thể cứu khổ, và vun bồi căn lành để làm lợi ích cho tất cả. Họ diễn nói Pháp vị để thấm nhuần chúng sanh khô héo và dùng Pháp dược ban cho các chúng sanh để tất cả được an vui. Họ sẽ dần dần thăng lên Pháp Vân Địa. Kể từ đó, ân huệ với từ bi sẽ rưới khắp không chướng ngại, và nhiếp độ chúng sanh khổ đau để khiến họ tiến vào Chánh Đạo. Cho nên, người ấy không lâu sẽ được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Thiện nam tử! Đây gọi là sức công đức không thể nghĩ bàn thứ mười của Kinh này.

Thiện nam tử! Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa này có sức uy thần cực đại và tôn quý tối thượng. Nó có thể khiến các phàm phu đều thành tựu thánh Quả và lìa xa sanh tử vĩnh viễn để được tự tại. Do đó Kinh này mới tên là Vô Lượng Nghĩa. Nó có thể khiến tất cả chúng sanh ở địa vị phàm phu sanh khởi vô lượng mầm Đạo của chư Bồ-tát. Nó có thể khiến cây công đức tươi tốt và trợ giúp tăng trưởng. Bởi vậy, Kinh này gọi là Mười Sức Công Đức Không Thể Nghĩ Bàn.”

Khi ấy, Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát và 80.000 vị đại Bồ-tát liền đồng thanh thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Đức Phật tuyên thuyết diệu lý chân chánh và tôn quý tối thượng trong Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa vi diệu thâm sâu, mà chư Phật ba đời đều cùng thủ hộ. Không có chúng ma và ngoại đạo nào có thể vào được, và nó cũng chẳng bị phá hoại bởi hết thảy tà kiến của sanh tử. Cho nên Kinh này mới có mười loại sức công đức không thể nghĩ bàn như thế để làm lợi ích rộng lớn đến vô lượng hết thảy chúng sanh. Nó có thể khiến tất cả chư đại Bồ-tát đắc Vô Lượng Nghĩa Chánh Định. Có vị đắc vô lượng trăm ngàn môn tổng trì. Có vị đắc các Địa và các Nhẫn của Bồ-tát. Có vị đắc Đạo Duyên Giác, hoặc chứng Bốn Quả của bậc Sa-môn.

Với lòng từ mẫn, Thế Tôn đã khéo thuyết Pháp này để khiến chúng con có được lợi ích to lớn của Pháp. Đây thật là kỳ đặc và chưa từng có bao giờ. Ân huệ từ bi của Thế Tôn thật khó có thể báo đáp.”

Bấy giờ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách. Ở trên không trung lại mưa xuống muôn loại hoa cõi trời, như là hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, và hoa sen trắng.

Lại mưa xuống vô số muôn loại hương cõi trời, y phục cõi trời, xâu chuỗi anh lạc cõi trời, và châu báu vô giá cõi trời. Chúng từ trên không trung xoay lượn rơi xuống để cúng dường Đức Phật cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng.

Lại có chén bát đựng đầy thức ăn trăm vị ở cõi trời; phàm ai thấy sắc và ngửi hương thì tự nhiên no đủ. Tràng phan, lọng che, và nhạc khí vi diệu ở cõi trời được an trí ở khắp mọi nơi. Khi ấy âm nhạc trời trỗi lên để tán thán Đức Phật.

Các thế giới nhiều như cát sông Hằng của chư Phật ở phương đông cũng lại chấn động sáu cách. Trên không trung cũng mưa xuống hương hoa cõi trời, y phục cõi trời, xâu chuỗi anh lạc cõi trời, và châu báu vô giá cõi trời. Lại có chén bát đựng đầy thức ăn trăm vị ở cõi trời; phàm ai thấy sắc và ngửi hương thì tự nhiên no đủ. Tràng phan, lọng che, và nhạc khí vi diệu ở cõi trời được an trí ở khắp mọi nơi. Khi ấy âm nhạc trời trỗi lên để tán thán Đức Phật cùng chư Bồ-tát và hàng Thanh Văn thánh chúng. Nam tây bắc phương, bốn hướng ở bốn góc, cùng phương trên và phương dưới cũng lại như vậy.

Lúc bấy giờ Phật bảo Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát và 80.000 vị đại Bồ-tát rằng:

“Các ông nên khởi lòng cung kính thâm sâu đối với Kinh này và như Pháp tu hành. Hãy rộng giáo hóa tất cả, hết lòng lưu truyền Kinh này, và ngày đêm phải luôn ân cần thủ hộ để khiến khắp chúng sanh có được lợi ích của Pháp.

Các ông thật là đại từ đại bi! Hãy dùng thần thông nguyện lực mà thủ hộ Kinh này. Đừng cho phép nó rơi vào sự hoài nghi mà khiến phải đình trệ. Ở vào đời vị lai, các ông hãy rộng lưu hành đến khắp châu Thắng Kim để khiến tất cả chúng sanh được thấy nghe, đọc tụng, biên chép, và cúng dường. Và do thực hành như thế, nó cũng sẽ giúp các ông mau đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Khi ấy Đại Trang Nghiêm Đại Bồ-tát và 80.000 vị đại Bồ-tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến chỗ của Phật, cúi đầu đảnh lễ với trán chạm sát chân của Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, rồi liền quỳ gối phải ở trước.

Họ đồng thanh thưa với Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn! Chúng con thật may mắn được Thế Tôn từ mẫn thuyết giảng Kinh Vô Lượng Nghĩa của vô thượng Đại Thừa vi diệu thâm sâu cho chúng con. Chúng con xin kính thọ giáo sắc của Phật.

Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ rộng lưu truyền Kinh điển này để khiến tất cả thọ trì đọc tụng và biên chép cúng dường. Kính mong Thế Tôn chớ lo lắng. Chúng con sẽ dùng nguyện lực để làm cho hết thảy chúng sanh thấy nghe, đọc tụng, biên chép, cúng dường, và được sức uy thần của Kinh Pháp này.”

Bấy giờ Đức Phật ngợi khen rằng:

“Lành thay, lành thay, các thiện nam tử! Các ông nay đích thật là con của Phật. Với lòng đại từ đại bi, các ông rộng có thể cứu vớt chúng sanh ra khỏi khổ ách. Các ông là phước điền tốt lành của hết thảy chúng sanh, rộng làm vị đạo sư giỏi cho tất cả, là nơi nương tựa rộng lớn của hết thảy chúng sanh, là vị đại thí chủ của hết thảy chúng sanh, và luôn dùng lợi ích của Pháp để rộng bố thí cho tất cả.”

Lúc đó, đại chúng trong Pháp hội đều rất vui mừng. Họ thọ trì lời Phật dạy, đảnh lễ và cáo lui.

    Xem thêm:

  • Tâm Kinh Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 136 – Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt (Mahàkammavibhanga) - Kinh Tạng
  • Xưng Tán Thích Nghĩa Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sở Thuyết Tối Thắng Danh Nghĩa - Kinh Tạng
  • Kinh Ðại Thừa Phương Quảng Tổng Trì - Kinh Tạng
  • Phật Nói Kinh Đại Thừa Thiện Kiến Biến Hóa Văn Thù Sư Lợi Hỏi Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Chư Phật Tâm Ấn Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa – Đường Bát Nhã Cộng Lợi Ngôn Đẳng - Kinh Tạng
  • Kinh Tu Ðạt - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 9 – Kinh Chánh Tri Kiến (Sammàditthi sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Tam Mạn Đà Bạt Đà La Bồ Tát - Kinh Tạng
  • Kinh Ðại Phương Ðẳng Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 1 – Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mùlapariyàya sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 41 – Kinh Sàleyyaka (Sàleyyaka sutta) - Kinh Tạng
  • Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Tán Phật Pháp Thân Lễ - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Nhứt Thiết Bí Mật Tối Thượng Danh Nghĩa Đại Giáo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 21 – Kinh Ví Dụ Cái Cưa (Kakacùpama sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Di Lặc Hỏi Đức Phật Về Bổn Nguyện - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 117 – Ðại Kinh Bốn Mươi (Mahàcattàrìsaka sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Chuyển Pháp Luân - Kinh Tạng