QUYỂN 6
Phẩm 8.3: Hành Môn
Hỏi rằng: Vì sao gọi là Hư Không Nhứt Thiết Nhập? Tu cái gì? Có tướng như thế nào? Vị gì? Xứ gì? Thành tựu công đức ra sao? Vì sao mà chấp lấy tướng nầy?
Đáp rằng: Hư không nhứt thiết nhập có 2 loại. Đó là có hư không lìa sắc và có hư không chẳng lìa sắc. Hư không nhập xứ tướng, cho nên lìa sắc hư không. Hư không nầy có tướng như cái giếng. Đây nghĩa là chẳng lìa sắc hư không. Kia tu tướng nầy, tâm trụ không loạn. Đối với hư không tưởng phóng ý làm tướng. Chẳng lìa hư không tưởng làm vị. Tác ý vô nhị biên làm xứ. Có công đức gì? – Chẳng cùng với 2 công đức. Đối với hư không nhập chướng ngại xứ, lại chẳng thể ngại. Nếu bờ tường hay vách núi v.v… thân đi ngang qua không ngại, tự tại chẳng sợ.
Vì sao mà giữ lấy tướng nầy?
Đối với hư không nhập, chấp vào tướng hư không; hoặc chỗ làm hoặc chỗ tự nhiên. Người tọa thiền cũ đối với chỗ tự nhiên chấp làm tướng. Hay ở nơi xứ mà thấy xứ. Hoặc ở lỗ trống; hoặc nơi cửa sổ; hoặc giữa cành cây; từ kia thường thấy. Tùy vui chẳng vui, liền thấy phần kia tướng hư không liền khởi. Chẳng phải như người mới ngồi thiền. Người mới ngồi thiền lấy chỗ làm mà chấp tướng, chẳng thể đối với chẳng phải chỗ làm; người tọa thiền kia; hoặc ở trong phòng; hoặc ở ngoài phòng, chẳng nơi nào chướng ngại. Tạo nên lỗ trống tròn, tạo tưởng hư không; lấy tam hành làm tướng. Lấy đẳng quán; lấy phương tiện; lấy ly loạn. Đối với hư không nhứt thiết nhập, sanh vào tứ thiền, ngũ thiền. Ngoài ra như đã nói rộng lúc ban đầu.
Hỏi rằng: Thức nhứt thiết nhập là gì?
Đáp rằng: Đó là thức hư không xứ định. Đây nghĩa là thức nhứt thiết nhập. Ngoài ra như ban đầu đã nói rõ.
Hỏi rằng: Đối với nhứt thiết nhập nầy, vì sao mà tán cú?
Đáp rằng: Nếu một tướng được tự tại, tất cả tướng khác tùy theo tác ý nầy. Nếu đối với một xứ nhứt thiết nhập; đối với sơ thiền được tự tại; kham nhận ngoài nhứt thiết nhập; hay khởi đệ nhị thiền. Như thế đệ nhị thiền được tự tại; hay khởi đệ tam thiền. Đệ tam thiền được tự tại, hay khởi đệ tứ thiền.
Hỏi rằng: Vì sao đối với tất cả nhập là tối thắng?
Đáp rằng: Tứ sắc nhứt thiết nhập là tối thắng, thành giải thoát vậy, được trừ nhập vậy gọi là nhứt thiết nhập tối thắng. Tạo nên ánh sáng nên tâm được tự tại. Đối với bát nhứt thiết nhập đối với bát định, lấy 86 hạnh an tường mà khởi; tùy theo xứ vui. Chỗ lạc định nầy tùy ý không chướng. Thứ đệ thượng, thứ đệ hạ; thứ đệ thượng hạ làm cho mỗi mỗi tăng trưởng; hoặc làm cho tăng trưởng; hoặc trung thiểu; hoặc thiểu phần; hoặc việc ít; hoặc chia ra ít việc; hoặc phần đầy đủ; hoặc việc đầy đủ; hoặc phần việc đầy đủ. Tùy theo chỗ vui; hoặc ở nơi thôn xóm; hoặc ở nơi A Lan Nhã. Đây là chỗ vui. Nhập vào 3 vị; như chỗ vui; đây là chỗ thiền lạc; nhập vào nơi thiền định. Như đây là chỗ vui. Lúc ấy tùy theo đó mà vui; nhập vào tam muội; hoặc nhiều lúc nhập chánh thọ. Lần lượt bên trên, đối với sơ thiền nhập định, lần lượt cho đến Phi phi tưởng xứ. Lần lượt bên dưới, từ sơ nhập Phi phi tưởng định. Lần lượt đến sơ thiền. Lần lượt trên dưới vượt qua khỏi nơi tới lui. Từ sơ thiền nhập vào tam thiền. Từ tam thiền nhập vào nhị thiền. Từ nhị thiền nhập vào tứ thiền. Như thế cho đến nhập vào Phi phi tưởng định, làm cho mỗi mỗi tăng trưởng. Lấy lần lượt nhập vào tứ thiền; hoặc trên; hoặc dưới đều làm cho tăng trưởng. Nhập đệ tứ thiền, từ hư không nầy nhập vào tam thiền. Như thế 2 loại nhập định. Trung thiểu nhập sơ thiền rồi; từ đây nhập Phi phi tưởng xứ. Từ đây nhập vào đệ nhị thiền. Từ đây nhập vào vô sở hữu xứ. Như thế hiện nhập chánh thọ. Hay biện hư không xứ. Phần thiểu là nhứt thiền nơi bát nhứt thiết nhập, nhập định. Sự thiểu là đối với 2 nhứt thiết nhập, nhập vào bát định phần. Sự thiểu nghĩa là hai định và tất cả nhập. Phân Cụ nghĩa là đối với 2 nhứt thiết nhập, nhập hai hai thiền. Sự cụ là đối với hai hai tất cả nhập, nhập nhị thiền. Phần sự cụ là 2 câu tán.
Hỏi rằng: Những gì là tướng tăng trưởng? Tu cái gì? Tướng gì? Vị gì? Xứ gì? Công đức nào? Vì sao lại chấp giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Tướng tăng trưởng là đầy khắp tất cả nơi; giống như bài tiết đầy khắp nơi xứ chết hôi thối. Đây nghĩa là sình trướng. Tướng sình trướng nầy như thế mà rõ biết. Đây nghĩa là sình trướng tưởng. Kia tu tưởng nầy mà tâm trụ chỗ bất loạn. Đây gọi là tu. Ở nơi tướng sình trướng tưởng tướng tùy quán làm tướng. Tưởng sự xa lìa sự sình trướng làm vị. Xú uế bất tịnh tác ý làm xứ. Có công đức gì? – Tưởng sình trướng có 9 công đức; được niệm nhập thân, được vô thường tưởng; được tưởng chết, nhiều yểm hoạn, phục dâm dục, đoạn sắc kiêu, đoạn vô bịnh kiêu; hướng thiện, vui hướng đề hồ.
Vì sao mà chấp giữ tướng nầy?
– Kẻ mới tọa thiền hiện giữ sự sình trướng, chẳng tưởng sạch sẽ, lấy vô nhị hành, lấy niệm bất động, bất ngu si, lấy các căn nội nhập; lấy tâm chẳng ra ngoài, lấy đến nơi kia; nơi nầy bất tịnh, có các xác chết. Trụ ở nơi kia, lìa nơi gió ngược, đối tướng bất tịnh chẳng xa chẳng gần; hoặc dựa hoặc ngồi. Người tọa thiền kia hoặc dựa hoặc ngồi gần chỗ bất tịnh; hoặc trên đá hoặc trên đất; hoặc nơi cây, hoặc nơi ghế; hoặc bụi cây. Ví tác tướng, tác sự tư duy. Đá nầy bất tịnh. Tướng nầy bất tịnh. Đá nầy cũng như đất vậy, lấy đó tác tướng, lấy đó tác sự. Lấy mười việc làm về tướng bất tịnh của sự sình trướng. Từ tự tánh nầy tu hành hay quán, lấy sắc của hình nam nữ, lấy phương, lấy xứ, lấy phân biệt, lấy tiết; lấy lỗ hổng, lấy hầm; lấy đất bằng, lấy bình đẳng. Quán ở nơi tất cả xứ.
Lấy sắc nghĩa là nếu đen, lấy quán đen. Nếu chẳng đen chẳng trắng, lấy quán chẳng đen chẳng trắng. Nếu trắng, lấy quán trắng. Nếu da hôi, lấy da hôi. Dùng hình nghĩa là nếu hình người nữ hay hình người nam; theo đó mà quán nhỏ, lớn, già. Tùy quán nghĩa là nếu dài thì lấy dài; nếu ngắn thì lấy ngắn; nếu mập thì lấy mập. Nếu nhỏ thì lấy nhỏ, tùy theo đó mà quán.
Lấy phương nghĩa là lấy phương nầy làm đầu; đối với phương nầy là tay; đối với phương nầy là chân; đối với phương nầy là lưng; đối với phương nầy là bụng; đối với phương nầy là chỗ của người ta; đối với phương nầy là tướng bất tịnh. Như thế tùy theo quán mà chỗ sáng sủa. Đối với sự sáng sủa nầy là chỗ của tay. Đối với chỗ sáng sủa nầy là chỗ của chân; đối với sự sáng sủa nầy là chỗ của chân; đối với chỗ sáng sủa nầy là chỗ ngồi của ta; đối với chỗ sáng sủa nầy là chỗ tướng bất tịnh. Lấy sự phân biệt quán từ đầu đến chân, từ dưới lên đầu. Tóc da làm biên là một chỗ tụ hội; lấy phân biệt quán, quán sự chẻ lìa ra. Đối với 2 tay chẻ làm 6; đối với 2 chân chẻ làm 6. Xương chẻ ra từng mảnh. Đây là 14 phần lớn.
Lấy thịt ở miệng hoặc đóng hoặc mở. Tùy theo đó quán mắt; hoặc khai hoặc bế. Tùy theo quán nơi khoảng tay, khoảng chân, lỗ chơn lông; lấy hầm, lấy bình đẳng địa. Bất tịnh tướng tùy theo nơi nầy. Hoặc ở trên không; hoặc ở trên đất; xứ nầy tùy theo đó quán. Lại nữa ta ở trên không, tướng bất tịnh ở trên đất. Hoặc bất tịnh tướng ở phía dưới. Ta ở trên mặt đất, tùy theo đó quán tất cả nơi. Từ ta, không thủ gần xa. Chừng 2 hay 3 tầm tùy đó mà quán. Kẻ tọa thiền kia như thế tất cả theo đúng mà quán tướng kia.
Lành thay! lành thay! Như thế thọ trì, lấy thiện tự an. Kẻ ngồi thiền kia lấy thiện giữ làm tướng; thọ trì thiện nầy; tự yên thiện nầy; một không, hai đi; lấy niệm bất động, tâm chẳng ngu si, các căn nội nhập, tâm chẳng ra ngoài; đi đến trên đường hoặc đi hoặc ngồi, quán kia tâm bất tịnh thường thọ trì.
Không 2 người đi là nghĩa gì?
– Vì được thân tịch tĩnh, làm cho niệm chẳng động; lấy chẳng ngu si, lấy các căn nội nhập, tâm chẳng ra ngoài.
Đến đi trên đường nghĩa là gì?
– Vì được thân tịch tĩnh.
Lìa ngược gió là nghĩa gì?
– Vì lìa mùi hôi thối.
Ngồi chẳng xa chẳng gần là nghĩa gì?
– Nếu giữ xa cách, chẳng thành tướng trừ; nếu giữ gần, chẳng thành việc yểm ly, chẳng thấy tánh nầy, lấy chẳng thấy tánh nầy; tướng kia chẳng khởi. Cho nên chẳng giữ xa, chẳng giữ gần.
Ngồi một bên quán tất cả tướng là gì?
– Vì chẳng ngu si, gọi là chẳng ngu si. Nếu người tọa thiền nhập tịch tĩnh xứ, thấy tướng bất tịnh như ở phía trước, tâm khởi lên sợ hãi. Cho nên người tọa thiền nầy chẳng nên khởi với tử thi. Tâm suy nghĩ như thế rồi niệm chánh trí, thọ trì rồi quán tướng biến. Đây là biến tướng, như thế mà tác ý. Đây có tên là chẳng ngu si.
Hỏi rằng: Giữ 10 loại hành tướng là nghĩa gì?
Đáp rằng: Vì tâm bị cột chặt.
Quán đến đi đường sá là nghĩa gì?
– Vì khởi lên pháp lần lượt vậy. Đây có tên là thứ đệ pháp. Nếu người tọa thiền nhập vào nơi tịch tĩnh có lúc tâm loạn; lấy bất thường quán, chẳng khởi tướng bất tịnh. Cho nên người tọa thiền nhiếp tất cả tâm, hay quán con đường đến đi, hay quán chỗ ngồi thiền. Sẽ quán biến tướng, sẽ quán 10 loại tướng thủ. Kẻ tọa thiền kia như thế lần lượt hiện quán. Lại liền khởi tướng. Như lấy mắt thấy. Đây nghĩa là khởi thứ đệ pháp. Người mới ngồi thiền đối với tử thi nầy thành tưởng trân bảo. Như thế tâm hoan hỷ được thọ trì. Tâm thường tu hành, diệt nơi các sự che đậy; thiền phần thành khởi. Người tọa thiền kia, lìa dục rồi, liền lìa các pháp bất thiện. Có giác có quán, tịch tĩnh sở thành. Có hỷ lạc, vào sơ thiền định và tướng sình trướng.
Hỏi rằng: Vì sao lấy bất tịnh hành khởi nơi sơ thiền? mà chẳng khởi ngoài thiền?
Đáp rằng: Việc làm nầy là chưa quán vậy. Sự thành nầy là sự cột chặt vậy. Thường tùy giác quán. Giác quán thường hiện tướng nầy được khởi. Chẳng lìa giác quán để tâm nầy được an. Cho nên sơ thiền khởi chẳng ngoài thiền.
Lại nói: Đây là tướng bất tịnh về hình sắc. Lấy chẳng phải một việc làm mà suy nghĩ, làm cho khởi lên nơi hành tư duy. Đây là giác quán sự. Chẳng thể kham nhiệm lìa nơi giác quán, là tư duy hành. Cho nên chỉ có sơ thiền khởi chẳng phải ngoài thiền.
Lại nói: Đây là tướng bất tịnh chẳng thể nhẫn nại. Đối với việc chẳng nại, chẳng thể đưa tâm lên. Đối với nơi bất tịnh, tâm do hỷ lạc vậy. Trừ giác quán phương tiện, lấy giác quán phương tiện lực. Lúc ấy sự tu hành do như phẫn hôi. Cho nên duy chỉ sơ thiền khởi,chẳng phải ngoài thiền.
Hỏi rằng: Đối với việc bất nại vì sao khởi hỷ lạc?
Đáp rằng: Việc chẳng nại chẳng có nguyên nhơn làm khởi hỷ lạc. Lại nữa hỷ đoạn việc che nóng vậy. Lấy tu tâm tự tại vậy. Khởi công việc hỷ lạc. Như đã nói rộng phần đầu.
Hỏi rằng: Vì sao tướng ứ màu xanh? Tu gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao mà chấp vào tướng nầy?
Đáp rằng: Màu ứ xanh hoặc là chết đã qua một đêm; hoặc 1 hay 3 đêm, thành tướng xanh lè. Như màu xanh ấy do chỗ nhiễm sắc mà sanh ra. Đây nghĩa là tướng ứ xanh. Màu ứ xanh kia là tướng xanh. Lấy trí chơn chánh mà biết. Đây nghĩa là tướng ứ xanh. Tâm trụ chẳng loạn đây nghĩa là tu. Thọ trì tướng xanh làm tướng. Xa lìa làm vị. Tác ý chẳng nại làm xứ và tướng sình trướng lên là công đức. Tu tướng nầy như trước đã nói rõ.
Hỏi rằng: Vì sao là tướng Hội Lạn? (rửa thối) Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao mà chấp tướng nầy?
Đáp rằng: Hội Lạn là hoặc chết một hai đêm rồi như nát chảy ra nồng nặc; giống như nước sữa. Thân thành mục rữa. Đây có nghĩa là Hội Lạn. Đối với tướng rữa thối nầy lấy chánh trí mà biết. Đây gọi là tướng mục rữa; tâm trụ bất loạn nghĩa là tu. Thọ trì sự mục rữa là tướng. Xa lìa là vị. Tác ý chẳng nại là ý. Tướng sình trướng lên là công đức. Thủ tướng nầy như đã nói rộng ở trước.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tướng đoạn lìa? tu gì? tướng gì? vị gì? xứ nào? công đức gì? Vì sao giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Sự chặt khúc tan ra là lấy dao kiếm đoạn cho thân thể nầy lìa ra. Lại nói chỗ tử thi bị chặt đứt ra. Đối với sự phân đoạn nầy là do chánh trí biết được. Đây gọi là phân đoạn tưởng. Tâm trụ chỗ không loạn gọi là tu. Tưởng đến sự chặt khúc ra làm tướng. Xa rời là vị. Tác ý bất tịnh làm xứ và tướng sình trướng lên là công đức.
Hỏi rằng: Vì sao chấp tướng nầy?
Đáp rằng: Đối với 2 lỗ tai, hai ngón tay làm tưởng từng mảnh, tạo ra tưởng chặt từng đoạn; như thế giữ tướng nầy. Đối với một hai, bên trên chấp tướng không nầy. Ngoài ra như đã nói rộng phía trước.
Hỏi rằng: Tưởng về ăn là gì? Tu gì? tướng gì? vị gì? xứ nào? công đức gì? Vì sao chấp giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Việc ăn là do chim ưng, chim kênh kênh, chim thứu, giả can, chó sói, chồn, hổ, beo ăn tử thi ấy. Đây nghĩa là ăn xác chết. Đối với sự ăn kia; tướng nầy lấy chánh trí mà biết. Đây nghĩa là tưởng về ăn. Tâm trụ bất loạn nghĩa là tu. Lấy tưởng ăn xác chết làm tướng. Xa lìa làm vị. Tác ý bất tịnh làm xứ và tưởng sình trướng là công đức. Ngoài ra như đã nói rộng ở trước.
Hỏi rằng: Thế nào là tưởng về sự ném bỏ? Tu gì, tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao lại chấp vào tướng nầy?
Đáp rằng: Ném bỏ nghĩa là bỏ tay chân khắp nơi. Đây nghĩa là ném bỏ. Đối với tưởng ném bỏ là dùng trí chơn chánh mà biết. Đây nghĩa là tưởng về sự ném bỏ. Tâm trụ bất loạn đấy là tu. Thọ trì về tưởng ném bỏ là tưởng. Xa lìa là vị. Tác ý bất tịnh là xứ. Tưởng về sình trướng là công đức.
Vì sao lại chấp vào tướng nầy?
Tất cả phần của thân tụ lại một nơi, để yên các phần đã cắt cách nhau 2 tấc. Để yên rồi tác ý tưởng về sự ném bỏ và giữ làm tướng. Ngoài ra như đã nói rộng phía trước.
Hỏi rằng: Vì sao tưởng về sự ghét bỏ loài có cánh? Tu gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Vật bị giết hại kia hoặc dùng dao, hoặc dùng cung tên. Đối với tử thi đoạn lìa nơi nơi. Đây nghĩa là giết rồi ném những con vật có cánh. Đối với sự ném bỏ ấy, tưởng nầy là do chánh trí mà biết. Đây gọi là tưởng sự giết và ném bỏ loài có cánh. Tâm trụ chẳng loạn gọi là tu. Thọ trì tướng bị giết loài có cánh ấy là tướng. Xa lìa là vị. Tác ý bất tịnh là xứ. Và sình trướng lên là công đức.
Vì sao chấp giữ tướng nầy?
– Như phần phía trước đã nói rộng rồi.
Hỏi rằng: Vì sao tưởng đến huyết đồ nhiễm? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao chấp giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Huyết đồ nhiễm nghĩa là chặt tay chân và thân hình ra từng phần và máu ra nơi thân. Đây gọi là huyết đồ nhiễm. Đối với tướng huyết đồ nhiễm dùng chánh trí để biết. Đây gọi là huyết đồ nhiễm tưởng. Tâm trụ nơi chẳng loạn gọi là tu. Lấy việc thọ trì huyết đồ nhiễm tưởng làm tướng. Xa lìa làm vị. Tác ý bất tịnh làm xứ. Tưởng đến sự sình trướng lên là công đức. Vì sao lại phải chấp giữ vào tướng nầy? – Như trước đã nói rõ.
Hỏi rằng: Vì sao lại tưởng đến trùng xú? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ nào? và công đức ra sao? Vì sao lại chấp giữ tướng nầy?
Đáp rằng: Trùng xú là các trùng sanh đầy nơi thân thể, giống như trên xương thịt trùng tụ lại. Đây gọi là trùng xú. Đối với trùng xú tưởng, lấy chánh trí mà biết được. Đây gọi là trùng xú tưởng. Tâm trụ chẳng loạn gọi đây là tu. Lấy thọ trì về trùng xú tưởng làm tướng. Xa lìa làm vị. Sự tác ý bất tịnh làm xứ. Tưởng đến sự sình trướng lên là công đức. Vì sao lại phải chấp giữ lấy tướng nầy? – Như trước đã giải rõ.
Hỏi rằng: Vì sao nghĩ đến xương cốt. Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? và công đức nào? Tại sao chấp giữ vào tướng nầy?
Đáp rằng: Xương cốt có nghĩa là những ống xương tròn; hoặc máu thịt vẫn còn dính nơi ấy; hoặc chẳng có máu thịt mà chỉ có gân; hoặc chẳng có máu thịt. Đây gọi là xương cốt. Đối với việc tưởng đến xương cốt nầy, lấy chánh trí mà biết. Đây gọi là cốt tưởng. Tâm trụ chẳng loạn gọi là tu. Lấy việc thọ trì cốt tưởng làm tướng. Lấy sự xa rời làm vị. Tác ý bất tịnh làm nơi. Lấy tưởng về sự sình trướng lên làm công đức. Vì sao lại chấp giữ vào tướng nầy? – Như trước đã giải rồi.
Hỏi rằng: Vì sao đối với nơi bất tịnh lại tán cú?
Đáp rằng: Với người mới ngồi thiền có nhiều phiền não chẳng có loại nào là chẳng lấy đó để chấp tướng. Chẳng có loại nào nghĩa là như thân nam thân nữ; hoặc người nghiệp bất tịnh thì tướng chẳng tịnh và chẳng nên tác ý. Vì sao vậy? – Vì hay quán các việc; nhưng chẳng xa lìa được. Đối với thân súc sanh, chẳng thể khởi tướng thanh tịnh được. Lấy một cái xương rồi khởi lên tướng tự tại đối với đống xương. Lại cũng như thế; nếu tướng bất tịnh lấy sắc để khởi. Do tất cả nhập vào chỗ đang quán. Nếu lấy các không để khởi nơi người nam thì lúc đang quán, lấy bất tịnh khởi, lấy bất tịnh mà quán.
Hỏi rằng: Vì sao 10 bất tịnh ấy chẳng nhiều chẳng ít?
Đáp rằng: Việc mất thân nầy có 10 loại. Lại do 10 người nên thành 10 tưởng. Có người muốn tu về sự quán tưởng sự sình trướng lên. Người có ái dục về sắc nên tu về tưởng đến sự ứ đọng màu xanh. Như người muốn tu thanh tịnh thì nên tu về tưởng hủy hoại. Ngoài ra lại cũng có thể biết. Lại nữa tướng bất tịnh chẳng thể được. Cho nên tất cả bất tịnh tưởng muốn đối trị vậy. Nếu có người sở đắc được việc nầy thì chấp vào tướng kia. Cho nên nói là tất cả bất tịnh làm 10 loại tưởng bất tịnh.
Hỏi rằng: Vì sao chẳng làm cho tăng trưởng?
Đáp rằng: Nếu người vui lìa dục, làm cho tự tánh thân tưởng. Vì sao vậy? – Nếu có tự tánh thân tưởng thì đối với tưởng ấy mau được xa lìa. Phần kia làm cho tăng trưởng rồi tưởng đến bất tịnh. Đây là tướng của thân được trừ. Trừ tự thân tưởng rồi, chẳng mau được xa lìa; cho nên chẳng nên làm cho tăng trưởng. Lại nói nếu được vô dục mà tu tâm lớn, rồi làm cho tăng trưởng. Như A Tỳ Đàm nói: Nơi ly dục sơ thiền, chánh thọ ở nơi sình trướng, lại khởi lên nhiều việc như được việc lớn, liền nói kệ rằng:
Tỳ Kheo, Phật gia trì
Nơi rừng kia sợ hãi
Liền nên tu tưởng cốt
Làm cho đầy đất nầy
Ta biết Tỳ Kheo kia
Liền xa rời dục nhiễm.
Hỏi rằng: Vì sao niệm Phật? Tu gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? và công đức như thế nào? Vì sao mà tu hành?
Đáp rằng: Đức Phật Thế Tôn tự nhiên chẳng có Thầy mà chứng. Đối với việc chưa nghe pháp mà chánh giác, chánh đế thì có thể biết rằng tất cả được lực tự tại. Đây gọi là Phật. Khi niệm Phật, Thế Tôn, bậc Chánh Biến Tri thì được công đức của Đạo Bồ Đề. Niệm tùy, niệm niệm, trì niệm, chẳng vọng niệm, căn niệm, lực chánh niệm. Đây nghĩa là niệm Phật. Tâm trụ nơi chẳng loạn; đây nghĩa là tu. Làm cho khởi lên công đức của Phật; ấy là tướng. Cung kính là vị. Tăng trưởng tín tâm là xứ. Nếu tu hành niệm Phật, thành được 18 công đức. Niềm tin tăng trưởng; niệm tăng trưởng; huệ tăng trưởng; công đức tăng trưởng; nhiều hoan hỷ, sâu vào khổ hạnh, lìa sự sợ hãi. Đối với việc thọ pháp ác được sanh xấu hổ. Thường cùng với Thầy ở chung. Tâm vui cảnh Phật, làm việc hướng đến chỗ lành. Sau cùng nhuần nhuyễn, như nói Tu Đa La (Kinh) Bàn Đề Lí Cú. Nếu người muốn niệm Phật. Nơi đây có thể cung kính như chỗ tượng Phật. Và sẽ tu hành như thế nào?
– Đối với người mới tọa thiền đến nơi yên ổn nhiếp tâm bất loạn; dùng tâm bất loạn niệm danh hiệu Đức Như Lai Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Đối với điều nầy thì kẻ kia sẽ được tất cả công đức bỉ ngạn.
Thế Tôn có nghĩa là được đời xưng tán cho nên có tên là Thế Tôn. Lại được diệu pháp cho nên gọi là Thế Tôn. Lại nữa được cúng dường cho nên gọi là Thế Tôn. Được đầy đủ phước đức cho nên gọi là Thế Tôn. Vị chủ tể của Đạo Pháp nên gọi là Thế Tôn. Do những nguyên nhơn nầy mà gọi là Thế Tôn.
Từ cái nguyên nhơn kia thọ của cúng dường gọi là A La Hán. Diệt phiền não oán nên có tên là A La Hán. Đoạn lìa bánh xe sanh tử; nên gọi là A La Hán.
Chánh Biến Tri nghĩa là tất cả các hạnh đều rõ cũng như tất cả các pháp; nên gọi là Chánh Biến Giác. Lại có tên là giết vô minh; nên có tên là Chánh Biến Giác, mà Độc Giác Vô Thượng Bồ Đề; nên gọi là Chánh Biến Giác.
Minh Hạnh Túc có nghĩa là kẻ biết rõ Tam Minh. Đó là túc, mệnh, trí minh. Đó là trí rõ biết sanh tử của chúng sanh. Rõ biết trí lậu tận. Đức Thế Tôn đủ túc, mệnh, trí minh, đoạn dứt quá khứ vô minh và sáng rõ sanh tử của chúng sanh, đoạn giết vị lai vô minh. Dùng trí sáng lậu tận đoạn trừ vô minh trong hiện tại. Lại cũng đoạn trừ những vô minh trong quá khứ vậy. Dùng tất cả hạnh của tất cả pháp quá khứ. Thế Tôn ưng niệm, liền hiện. Đã đoạn trừ vị lai vô minh; nên tất cả hạnh của tất cả pháp vị lai. Thế Tôn ưng niệm liền hiện, để đoạn diệt hiện tại vô minh vậy; dùng tất cả hạnh, tất cả pháp hiện tại, Thế Tôn ưng niệm liền hiện. Hành có nghĩa là giới định huệ đầy đủ. Giới đây nghĩa là tất cả nơi pháp lành. Cho nên nói là Minh Hạnh. Túc có nghĩa là tất cả thần thông; nên gọi tên là Minh Hạnh Túc. Cụ có nghĩa là tất cả Định. Đối với Thế Tôn dùng tất cả trí lấy 3 Minh, dùng hành để được Đại Từ Bi, mà việc làm ấy lợi lạc cho thế gian, minh đắc tự tại. Dùng trí tuệ để luận đạo thì chẳng có người nào có thể thắng. Diệt trừ những phiền não, lấy thanh tịnh chánh hạnh, dùng Minh Hạnh Túc thành con mắt thế gian. Chỗ nhiêu ích hay không nhiêu ích (lợi lạc) làm cho đầy đủ, làm chỗ nương tựa cho thế gian. Làm việc cứu hộ sự sợ hãi. Lấy Minh giải thoát đối với đệ nhứt nghĩa lại được thông đạt; lấy việc làm để tế độ, làm nghĩa của thế gian. Đối với tất cả việc, tự nhiên chẳng có Thầy. Chỗ làm bình đẳng được vô thượng tịch tĩnh; lấy Minh Hạnh Túc, Thế Tôn thành tựu. Đây nghĩa là Minh Hạnh đầy đủ.
Thiện Thệ nghĩa là đến con đường lành; nên gọi là Thiện Thệ. Lại chẳng hề đến nơi cảnh giới đề hồ (giải thoát) mà Vô Vi Niết Bàn; nên gọi là Thiện Thệ. Lại nói chẳng điên đảo pháp; nên gọi là Thiện Thệ. Lại nói pháp chẳng đua đòi; cho nên gọi là Thiện Thệ. Lại nói pháp chẳng lo lắng; nên có tên là Thiện Thệ. Lại nói pháp chẳng nhiều chẳng ít; cho nên nói là Thiện Thệ.
Thế Gian Giải nghĩa là Thế Gian có 2 loại. Nghĩa là chúng sanh thế gian và hạnh thế gian. Đức Thế Tôn dùng tất cả hạnh biết chúng sanh trong thế gian, biết được tất cả nhiều loại dục lạc của chúng sanh, dùng căn sai biệt, dùng túc mệnh, thiên nhãn, từ quá khứ đến, lấy sự hòa hợp mà thành tựu. Dùng nhiều loại có thể giáo hóa, dùng nhiều loại sâu xa hoặc chẳng sâu, dùng những loại sanh, dùng những cõi, những đất để trồng các loại nghiệp, dùng các loại phiền não, lấy nhiều loại quả báo; lấy nhiều loại thiện ác, dùng nhiều loại trói, mở. Như thế các việc làm mà Đức Thế Tôn đều biết chúng sanh trong thế gian. Lại nói Hành Thế Gian nghĩa là Đức Thế Tôn lại cũng biết tất cả nghiệp về thiện, bất thiện, vô ký. Lấy những loại ấm, lấy các giới, lấy các nhập, dùng trí tuệ để rõ biết. Lấy vô thường, khổ, vô ngã; lấy sanh chẳng sanh, như thế những việc làm Đức Thế Tôn đều biết những việc làm ở thế gian. Đây gọi là Thế Gian giải.
Vô Thượng nghĩa là trong thế gian không có gì trên. Đây nghĩa là Vô Thượng. Lại nữa chẳng có ai có thể sánh được. Lại cũng có nghĩa là tối thắng chẳng thể so sánh. Lại chẳng thể qua khỏi nên gọi là Vô Thượng.
Điều Ngự Trượng Phu có nghĩa là gồm có 3 loại người; hoặc nghe pháp được ngộ; hoặc nói nhơn duyên; hoặc nói túc mệnh: Đức Thế Tôn ngự nơi 8 con đường giải thoát để điều ngự chúng sanh; nên gọi là Điều Ngự Trượng Phu.
Thiên Nhơn Sư nghĩa là Đức Thế Tôn hay độ cho Trời, Người. Từ nơi sanh, già, chết sợ hãi rừng vườn ấy; nên gọi là Thiên Nhơn Sư. Lại nữa chỉ dạy con đường tư duy nên có tên là Thiên Nhơn Sư. Như thế đây là cửa ngõ đây là việc làm; nên niệm đến Như Lai.
Lại nữa như Đức Bổn Sư dạy lấy 4 loại việc làm tu niệm Đức Thế Tôn. Do từ xưa nhơn duyên đã khởi nên tự thân mà được thắng pháp, mà làm cho thế gian được lợi lạc. Từ sở nguyện lúc ban đầu cho đến sau cùng, sanh ra trong đời nầy, từ xa xưa kia trải qua 20 A Tăng Kỳ Kiếp, một trăm, ngàn, ức quán sát căn tánh phàm phu, niệm chỗ căn tánh. Đầu tiên tâm yêu thương thế gian, ta đã được giải thoát; nên làm cho kia được giải thoát. Ta đã được điều phục; nên sẽ làm cho kia được điều phục. Ta đã được an; nên sẽ làm cho kia an. Ta sẽ được vào Niết Bàn; nên sẽ làm cho kia được vào Niết Bàn. Thí giới, xuất nhẫn đế, thọ trì, từ xả, tinh tấn, trí huệ đều làm cho đầy đủ mà được Bồ Đề. Thế Tôn lúc còn làm Bồ Tát nói về nhơn duyên đời trước đã làm thân con thỏ, thường hay bố thí, hay làm cho giữ gìn; hoặc sanh làm Ma Cù Tần Đà; hoặc hay niệm xuất ly, sanh nhẫn nhục; hay nhớ đến nhẫn, sanh vào chỗ sáng; hay nhớ đến lời nói thật; hay nhớ đến lần sanh vào chỗ câm; hay nhớ nghĩ đến việc thọ trì; hay nhớ nghĩ đến Đế Thích từ bi; hay nhớ đến xả bỏ lông; hay nhớ đến người buôn bán chân chánh; hay nhớ đến lúc sanh làm nai; hay nhớ đến lúc sanh cõi Trường Thọ; đều do lời Phật mà nhớ đến voi trắng 6 ngà cung kính Tiên nhơn. Nhớ đến lúc sanh làm ngựa trắng đi đến nước La Sát để độ cho chúng sanh. Lúc sanh làm hươu để giữ gìn thọ mạng kia và xả thọ mạng của chính mình. Nhớ lại lúc sanh làm khỉ làm cho được giải thoát chỗ khổ lớn. Lại nhớ lúc sanh làm khỉ, thấy người bị rơi vào hầm liền dùng lòng từ để cứu ra khỏi. Làm tổ trên gốc cây để cúng dường. Kẻ kia vì thích thịt; nên đã tự chặt đầu và lấy lòng từ bi để thuyết pháp để đi con đường lành. Như thế mà các cửa nguyện. Nhớ lại những công đức của Đức Thế Tôn.
Vì sao mà nhớ lại công đức tự bỏ thân của Thế Tôn được?
Đức Thế Tôn có những kiếp sống trước đầy đủ như thế mà lúc còn nhỏ đã dứt hết tất cả chỗ đắm trước; đoạn lìa chỗ dính mắc của vợ con, cha mẹ thân tộc rồi bỏ điều khó bỏ, bỏ sự liên hệ, đến nơi vắng lặng muốn cầu vô vi Niết Bàn tịch tĩnh và tịch diệt tại nước Ma Kiệt (Già) Đà. Qua khỏi sông Ni Liên Thiền; ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, hàng phục ma vương và các binh ma. Đầu đêm tự nhớ về đời trước. Giữa đêm chứng được thiên nhãn và cuối đêm rõ khổ, đoạn tập, chứng được cảnh giới đề hồ (giải thoát). Tu hành Bát Chánh Đạo; rồi chứng lậu tận được Bồ Đề Giác. Từ đó đối với thế gian ra khỏi tự thân, trụ ở đệ nhất nơi cảnh giới thanh tịnh lậu tận. Như thế những việc làm của Đức Thế Tôn là những công đức đã mang tự thân ra khỏi chỗ kia.
Vì sao mà nhớ đến Đức Thế Tôn được thắng pháp công đức?
Như thế Đức Thế Tôn có giải thoát và tâm giải thoát mà Như Lai có Thập Lực, dùng 14 Phật trí huệ, lấy 18 Phật Pháp. Cùng với đây chẳng phải một pháp thiền mà thành tựu tự tại đến bờ kia.
Nghĩ đến vì sao mà Đức Thế Tôn thành tựu được Thập Lực?
Như Lai biết rằng đây là xứ, đây là phi xứ, như thật mà biết. Như Lai biết quá khứ, vị lai, hiện tại và nhơn duyên của nghiệp lành. Lấy giới làm nhơn và quả báo cũng biết rõ như thật. Như Lai biết tất cả nơi, đầy đủ như thật mà biết. Như Lai chẳng phải biết chỉ một giới mà nhiều loại giới. Thế gian như thật mà biết. Như Lai biết nhiều loại dục lạc của chúng sanh. Như thật mà biết. Như Lai biết nhiều căn tánh của chúng sanh. Như thật mà biết. Như Lai biết Thiền, giải thoát, định, chánh thọ, có phiền não, không phiền não. Như Thật mà biết. Như Lai biết đời trước với cái biết như thật. Như Lai biết sự sanh tử của chúng sanh với cái biết như thật. Như Lai biết lậu tận với cái biết như thật.
Đây là Thập Lực mà Thế Tôn thành tựu.
Vì sao Đức Thế Tôn thành tựu 14 Phật Trí Huệ?
Đó là biết về khổ. Biết về tập. Biết về diệt. Biết về đạo. Biết về ý nghĩa biện tài. Biết về pháp biện tài. Biết về từ biện tài. Biết về vui nói biện tài. Biết về các căn. Biết về chúng sanh bị dục lạc phiền não sai sử. Biết về song biến. Biết về đại từ bi định. Biết về tất cả. Biết về chẳng chướng ngại.
Đây là 14 trí mà Thế Tôn thành tựu.
Vì sao Đức Thế Tôn thành tựu 18 pháp?
Đó là đối với quá khứ, trí Phật không chướng ngại. Đối với vị lai, trí Phật không chướng ngại. Đối với hiện tại, trí Phật không chướng ngại. Tùy nơi mà Phật rõ sự biến khởi của thân nghiệp. Tùy nơi mà Phật rõ biến khởi của khẩu nghiệp. Tùy nơi mà Phật rõ biến khởi của ý nghiệp. Đây là 6 pháp Thế Tôn thành tựu.
Dục chẳng thoái, tinh tiến chẳng thoái, niệm chẳng thoái, định chẳng thoái, huệ chẳng thoái, giải thoát chẳng thoái. Đây là 12 pháp mà Thế Tôn thành tựu.
Chẳng có việc nghi, không có việc lừa dối Thầy, không có việc bất minh, chẳng có việc gấp, chẳng có nơi che khuất, chẳng có chẳng quán xả, chẳng có việc và người nghi, chẳng có uy nghi làm việc xảo quyệt, kẻ gian dối việc với Thầy. Chẳng gấp rút xa rời oai nghi. Kẻ chẳng phải chẳng phân minh, dùng trí chẳng phải chẳng xúc. Kẻ không việc gấp, không có oai nghi mà việc gấp. Kẻ chẳng bị che, tâm làm mà chẳng có hay chẳng biết. Kẻ chẳng phải chẳng quán xả là chẳng có chẳng biết xả. Đây là 18 Phật Pháp mà Thế Tôn thành tựu.
Lại nữa Đức Thế Tôn dùng Tứ Vô úy; Tứ Niệm xứ; Tứ Chánh Cần; Tứ như ý túc; Ngũ căn, Ngũ lực; Lục thần thông; Thất Bồ đề phần; Bát Thánh Đạo phần; Bát trừ nhập; Bát giải thoát; Cửu thứ đệ định; Thập thánh cư chỉ; Mười lậu tận lực. Ngoài ra chẳng có một pháp lành nào mà Thế Tôn không thành tựu đến bờ bên kia một cách tự tại. Như thế đây là cửa ngõ, đây là việc làm mà nên nhớ nghĩ đến Thế Tôn để được những thắng pháp công đức.
Vì sao lại nhớ đến công đức làm lợi lạc thế gian của Đức Thế Tôn?
Đức Thế Tôn thành tựu tất cả việc làm, đến bờ bên kia tất cả công đức. Vì lòng từ bi đối với chúng sanh mà lần đầu tiên chuyển pháp luân ở nơi thế gian khó thể chuyển nầy. Dùng mật hộ chẳng trong chẳng ngoài để khai mở cửa đề hồ (nhu nhuyến, giải thoát), đã làm cho vô lượng trời người cũng như đối với quả Sa Môn có vô lượng chúng sanh được phần công đức; hay làm cho công đức đầy đủ. Dùng 3 loại thay đổi. Đó là thân biến, thuyết biến và giáo biến. Làm cho thế gian tin tưởng, hàng phục tà kiến và các Thầy bói tướng. Với con đường ác liền mở cửa lành; qua được cảnh trời được quả giải thoát. Làm an ổn Thanh Văn ở nơi pháp Thanh Văn, rồi chế ra các giới rồi nói Ba La Đề Mộc Xoa; rồi được thắng lợi dưỡng, được Phật thắng pháp, rồi được tự tại trải khắp thế gian. Tất cả chúng sanh cung kính tôn trọng, cho đến trời người tất cả đều nghe biết. An trụ bất động, từ bi thế gian làm cho thế gian được lợi lạc. Đức Thế Tôn đã làm như cửa nầy việc nầy vậy.
Lại hay nhớ nghĩ đến những việc làm của Thế Tôn, vì lợi lạc thế gian là công đức, mà kẻ ngồi thiền kia lấy cửa nầy và việc làm nầy và công đức nầy là do hiện nhớ nghĩ đến Như Lai. Tâm nầy thành chỗ tin tưởng, mà lòng tin tự tại và lấy niệm tự tại thì tâm thường chẳng loạn. Nếu tâm chẳng loạn thì diệt được một phần thiền bị che khuất, khởi lên bên trong hành thiền sẽ thành trụ (ở yên).
Hỏi rằng: Vì sao niệm Phật khởi lên việc làm bên trong lại chẳng an?
Phật công đức là đối với nghĩa đệ nhứt sâu biết hành xứ. Việc nghĩa đệ nhứt đối với chỗ sâu rõ biết việc làm. Tâm chẳng được an, vì vi tế vậy. Lại nữa việc nhớ nghĩ ấy chẳng phải một công đức. Nếu người tọa thiền nhớ lại chẳng phải một công đức thì tâm có nhiều loại duyên vào, tác ý cùng khởi lên, tâm thành chẳng an. Đây là tướng mà tất cả ngoại hành hành xứ.
Hỏi rằng: Nếu niệm chẳng một công đức thì tâm tức chẳng phải một. Ngoại hành thiền chẳng thể thành. Nếu chuyên nhứt tâm, ngoại hành thiền sẽ ở yên?
Đáp rằng: Nếu như niệm công đức của Như Lai và niệm Phật thành một tâm thì chẳng sai. Lại nói đây là niệm Phật tứ thiền lại khởi.
Hỏi rằng: Vì sao niệm Pháp? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ gì? Vì sao mà tu hành?
Đáp rằng: Pháp nghĩa là Niết Bàn và tu hành là để đến Niết Bàn.
Sao gọi là Nê Hoàn (Niết Bàn)?
Diệt tất cả các việc làm, ra khỏi tất cả những phiền não, diệt ái, chẳng nhiễm, tịch tĩnh. Đây có nghĩa là Nê Hoàn.
Vì sao tu hành để đến Niết Bàn?
Nghĩa là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực; Thất Giác Chi; Bát Thánh Đạo Phần. Đây gọi là sự tu hành để đến Niết Bàn. Niệm Pháp lìa khỏi công đức và được công đức. Niệm kia, tùy niệm chánh niệm. Đây gọi là niệm Pháp. Tâm kia trụ nơi bất loạn đây nghĩa là tu. Lấy khởi công đức pháp làm tướng. Chọn pháp làm vị. Giải nghĩa làm xứ. Niệm Phật làm công đức v.v…
Kẻ nào tu vậy?
Người mới ngồi thiền nhập tịch tĩnh, ngồi nhiếp tất cả tâm, dùng tâm bất loạn niệm pháp, lành nói pháp Thế Tôn. Hiện chứng không phân biệt, lại thấy chẳng có phân biệt, lại thấy việc tương ưng. Người trí huệ hiện chứng có thể rõ biết. Kẻ lành nói pháp của Thế Tôn là lìa lưỡng biên; cho nên gọi là lành nói. Chẳng khác cho nên gọi là lành nói. Chẳng ngoa với 3 loại thiện; cho nên nói là lành nói. Đầy thanh tịnh cho nên nói là lành nói. Làm cho hiện Niết Bàn và tu hành đến Niết Bàn cho nên gọi là lành nói. Kẻ hiện chứng là lần lượt được đạo quả nên gọi tên là hiện chứng. Tác chứng Niết Bàn và đạo quả; nên gọi là hiện chứng. Vô thời tiết nghĩa là chẳng khác thời, được quả; nên gọi là hiện chứng. Lai kiến nghĩa là: Anh đến nơi tôi, ta dùng tánh pháp thật lành để chỉ cho kia. Đây gọi là lai kiến. Thừa tương ưng nghĩa là nếu người thọ sự hàng phục, rồi nhập vào cảnh giới giải thoát; nên gọi tên là thừa tương ưng. Hướng Sa Môn quả gọi là thừa tương ưng. Người trí huệ hiện chứng có thể biết. Nếu người thọ sự hàng phục, chẳng thọ sự chỉ dạy kia, khởi lên diệt trí, vô sanh trí, giải thoát trí. Đây có tên là trí huệ hiện chứng. Ngoài việc làm ấy nên niệm Pháp. Đây chính là cửa ngõ của mắt, trí tuệ; sự an lạc và vào cửa giải thoát. Đây chính là sự xuất ly, là phương tiện; cho đến diệt, cho đến Niết Bàn. Chẳng có đọa lạc đó là giải thoát. Vô vi tịch diệt, vi diệu, chẳng phải tướng chỗ làm của Thầy. Đây là người trí diệu nên biết. Tế độ qua bờ kia là chính chỗ nương nhờ. Kẻ tọa thiền kia lấy cửa nầy, lấy việc làm nầy, công đức nầy hiện niệm nơi pháp để tâm nầy thành thục tin sâu. Do sự tín niệm nầy mà tâm trụ chẳng loạn. Lấy tâm bất loạn diệt các sự che khuất, thiền phần được khởi; ngoại hành thiền thành trụ, như ban đầu đã nói rõ.
Hỏi rằng: Niệm Tăng là thế nào? Tướng gì? vị gì? xứ gì? công đức nào? Vì sao mà tu?
Đáp rằng: Tăng là sự hòa hợp của Thánh Nhơn. Đây nghĩa là Tăng. Hiện niệm tăng, tu hành công đức. Niệm kia tùy việc chánh niệm. Đây gọi là niệm Tăng. Niệm kia trụ chẳng loạn, gọi đây là tu. Làm cho khởi công đức tăng làm tướng. Tâm cung kính làm vị. Hoan hỷ hòa hợp công đức làm xứ. Cùng với công đức niệm Phật vậy.
Vì sao phải tu?
Kẻ mới ngồi thiền nhập tịch tĩnh, ngồi nhiếp tất cả tâm, bất loạn tâm niệm tưởng, lành hay tu hành. Thế Tôn, Sa Môn chúng tùy theo đó làm lành. Thế Tôn , Sa Môn chúng tùy theo đó mà như pháp. Thế Tôn Thánh Chúng tùy theo đó mà hòa hợp. Thế Tôn Thánh Chúng – gọi đây là tứ song bát bối. Thế Tôn, Sa Môn chúng thật có thể cung kính cúng dường. Thật hay chắp tay, là phước điền vô thượng của thế gian, là chỗ lành tu hành. Thế Tôn, Sa Môn chúng tùy theo việc lành nầy mà thuyết pháp. Đây gọi là tu hành tùy theo và làm lợi lạc cho mình cũng như cho kia. Gọi đây là tu hành tùy tòng. Cho đến đầy đủ như vậy; gọi là tu hành tùy tòng. Chẳng oán, đầy đủ vậy. Gọi đây là tu hành tùy tòng. Lìa nhị biên, đầy đủ vậy. Đây gọi là tu hành tùy tòng. Lìa huyễn ảo nên gọi là việc lành. Lìa thân, miệng tà khúc ác; nên gọi là thật lành. Tùy tòng như là Bát Chánh Đạo. Sự tùy theo kia gọi là tùy tòng. Lại nữa cũng gọi là Nê Hoàn và tùy theo kia mà được Nê Hoàn nên như thế mà tu hành. Đức Thế Tôn đã nói về Tứ Thánh Đế. Tùy theo như trí; nên gọi là như tu hành. Tùy tòng hòa hợp nghĩa là tùy tòng Sa Môn hòa hợp đầy đủ; nên gọi tên là tùy tòng hòa hợp. Nếu như thế tùy tòng tạo việc hòa hợp.
Tứ Song Bát Bối nghĩa là trụ ở con đường Tu Đà Hoàn và trụ ở quả nầy nên gọi là một đôi. Trụ ở Tư Đà Hàm và trụ ở quả nầy; nên gọi là một đôi. Trụ ở A Na Hàm và trụ ở quả nầy; nên làm một đôi. Trụ ở A La Hán và trụ ở quả nầy; nên làm một đôi. Đây gọi là Tứ Song (bốn đôi). Trụ ở con đường kia và trụ ở quả nầy; nên gọi là bốn đôi.
Tám bối nghĩa là 4 hướng đến 4 quả. Đây gọi là bát bối (tám bực).
Sa Môn có nghĩa là từ việc nghe mà thành tựu; cho nên gọi là Sa Môn. Tăng được gọi là Thánh hòa hợp chúng. Có thể thỉnh, có thể cúng dường, có thể bố thí, có thể cung kính. Đây là phước điền vô thượng của thế gian. Có thể thỉnh có nghĩa là thọ việc thỉnh nên gọi là có thể thỉnh. Có thể cúng dường nghĩa là đối với các việc cúng thí thành quả lớn hay thọ cúng dường. Có thể thí nghĩa là đối với các việc bố thí có thể được quả báo lớn. Có thể cung kính nghĩa là người thọ sự cung kính; nên gọi là có thể cung kính. Vô thượng có nghĩa là công đức tối đa; nên gọi là vô thượng. Thế gian phước điền nghĩa là công đức của chúng sanh; nên gọi là thế gian phước điền. Ngoài ra những việc nhớ nghĩ đến chúng sanh như thế hơn các việc chơn thật; nên gọi đây là giải thoát. Giới đầy đủ, định đầy đủ, huệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ thì với người tọa thiền kia, lấy cửa ngõ nầy và công việc làm nầy để nhớ nghĩ đến các công đức; như thế hiện niệm các công đức vậy. Tâm do lòng tin mà thành. Đối với lòng tin niệm, tâm thành ấy chẳng loạn. Khi tâm chẳng loạn thì có thể diệt được các sự che đậy nơi thiền. Một phần khởi ngoại thiền thành ở yên, như ban đầu đã nói rõ.
Hỏi rằng: Vì sao niệm giới? Tu cái gì? tướng nào? vị gì? xứ gì? và có công đức như thế nào? Vì sao phải tu hành?
Đáp rằng: Lấy công đức niệm thanh tịnh giới. Niệm kia tùy niệm, chánh niệm và gọi đây là niệm giới. Niệm giới trụ chẳng loạn, đây gọi là tu. Làm cho khởi lên giới công đức lấy đó làm tướng. Thấy quá lo sợ lấy làm vị. Hoan hỷ vô quá lạc lấy làm xứ. Nếu người tu hành niệm giới, thành được 13 công đức. Thành được những việc như tôn trọng Sư trưởng, trọng giáo pháp, trọng Tăng, trọng học giới, trọng việc cúng dường và trọng việc chẳng buông lung. Đối với việc lo sợ nhỏ nhoi cũng thường hay thấy lo sợ: gìn giữ cho chính mình và cũng gìn giữ cho người khác nữa. Từ đời nầy lo sợ việc giải thoát, cho đến đời khác cũng lo ngại việc giải thoát. Nhiều hoan hỷ dễ thương với tất cả công đức của giới. Đây có nghĩa là công đức của việc niệm giới.
Kẻ tu hành như thế nào?
Người mới ngồi thiền khi nhập vào tịch tĩnh, ngồi nhiếp tất cả tâm, niệm tâm bất loạn; giới ở tự thân chẳng lệch, chẳng thủng, chẳng nhơ, chẳng bẩn, chẳng tạp. Tự tại trí huệ được xưng tán. Chẳng chỗ gặp, làm cho khởi lên định. Nếu chẳng lệch tức chẳng thủng; nếu chẳng thủng tức chẳng nhơ. Như thế tất cả có thể biết. Lại nữa nếu lậu thanh tịnh giới thì thiện pháp sẽ trụ xứ vậy. Gọi đây là chẳng lệch, chẳng thủng. Tạo tánh xưng tán nên gọi là chẳng nhơ, chẳng bẩn. Lấy đoạn ái nên gọi là tự tại. Vui chỗ Thánh nên gọi là không có lo lắng. Ca ngợi trí tuệ là lìa giới trộm cướp. Cho nên gọi là vô sở xúc. Thành chỗ chẳng lùi nên làm cho định khởi. Ngoài ra còn làm việc niệm giới; nên gọi tên là giới. Đây là niềm vui chẳng lo sợ. Đây là tánh quý hóa; đây là tài vật tự tại. Như trước đã nói về giới công đức, như thế nói rộng ra có thể rõ. Đối với người tọa thiền kia, đây là cửa ngõ, đây là những hành đối với các công đức. Hiện niệm giới do lòng tin mà niệm nên tâm bất loạn. Lấy tâm bất loạn nầy để diệt các sự che khuất. Thiền từng phần thành tựu khởi lên, thiền ngoại hành thành trụ. Như trước đã nói rộng.
Hỏi rằng: Vì sao niệm thí? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ nào? và công đức ra sao? Vì sao phải tu?
Đáp rằng: Thí có nghĩa là vì lợi lạc cho kẻ khác vậy. Làm vui lợi lạc cho người khác, làm cho người khác được xả bỏ tài vật của riêng mình. Đây gọi là thí. Dùng niệm thí công đức hiện ra niệm xả. Niệm kia tùy niệm, chánh niệm. Đây gọi là niệm thí. Niệm kia ở chỗ chẳng loạn; nên gọi là tu. Làm cho khởi lên thí công đức làm tướng. Chẳng phải súc sanh làm vị. Chẳng keo kiệt làm xứ. Nếu người tu hành theo niệm thí thì thành tựu được 10 công đức. Như thế việc bố thí đem đến niềm vui, không keo kiệt, không có ý tham lam. Vì nhiều người niệm thiện và giữ ý kia. Đối với mọi việc chẳng lo; nhiều hoan hỷ và tâm từ bi. Hướng đến con đường lành, con đường giác ngộ.
Vì sao phải tu hành?
Đối với kẻ mới ngồi thiền vào chỗ yên lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, tâm chẳng loạn, tự niệm đến thí. Nhờ chỗ xả bỏ đồ vật mà ta có lợi, ta có được thiện lợi. Người đời vì keo kiệt mà tiến thoái không được. Ta trụ tâm nơi chẳng keo kiệt. Ta thường hay thí và thường hay vui việc làm bố thí. Thường hay cung cấp, thường hay chia xẻ. Đối với người ngồi thiền kia, đây là cửa ngõ, đây là việc làm và đây là công đức. Hiện niệm thí mà tâm kia thành chỗ tin tưởng. Do chỗ lòng tin mà cũng do niệm nầy vậy. Tâm chẳng loạn động. Dùng tâm chẳng loạn ấy diệt các sự che khuất. Thiền từng phần sẽ khởi lên; ngoại hành thiền sẽ trụ. Ngoài ra như ban đầu ta đã nói rõ rồi.
Hỏi rằng: Vì sao niệm Thiên? Tu cái gì? tướng gì? vị gì? xứ nào? và công đức ra sao? Vì sao phải tu hành?
Đáp rằng: Nương vào chỗ sanh Thiên công đức; nên niệm công đức của tự thân. Niệm kia tùy niệm, chánh niệm. Đây gọi là niệm Thiên. Niệm kia trụ chẳng loạn, gọi là tu. Làm cho khởi lên nơi tự thân công đức cõi Thiên và các công đức ấy lấy làm tướng. Đối với công đức ấy ái kính làm vị. Tín công đức quả làm xứ. Nếu kẻ tu hành niệm Thiên thì được 8 công đức. Như thế người kia 5 pháp được tăng trưởng. Cho nên tin giới, nghe thí huệ, thành trời người chỗ niệm ái kính. Việc bố thí nói được công đức quả báo, đại hoan hỷ, dũng dược, tự trọng thân nầy và được trời người tôn quý. Niệm giới niệm thí vào trong nầy, hướng đến con đường lành và hướng đến chỗ giải thoát.
Vì sao phải tu hành?
Kẻ mới ngồi thiền nhập vào chỗ tịch tĩnh, nhiếp tất cả tâm. Dùng tâm chẳng loạn ấy để niệm Thiên và có 4 Thiên Vương, có 33 cõi trời. Đó là cõi trời Diệm Ma, cõi trời Đẩu Suất; cõi trời Hóa Lạc và cõi trời Tha Hóa Tự Tại Thiên. Có Phạm thân Thiên, có Thiên hướng sanh. Lấy lòng tin để thành tựu ở các cõi trời. Từ đây sanh, kia, ta lại cũng có niềm tin như thế. Giới như thế, nghe như thế, thí như thế và huệ như thế, thành tựu các cõi trời kia. Từ đây sinh kia, ta lại cũng có trí huệ như thế, đương niệm thân nầy, sẽ nghĩ về chư thiên, tin ở giới, văn, thí, huệ. Với người tọa thiền kia cửa nầy và việc làm nầy là công đức để hiện thời niệm thiên. Tâm kia thành tín là do tín, do niệm. Tâm trở thành chẳng loạn. Lấy tâm chẳng loạn ấy để diệt các sự che khuất. Thiền từng phần khởi lên và thiền ngoại hành thành trụ.
Hỏi rằng: Niệm Thiên có công đức như thế nào? mà chẳng phải niệm công đức của người?
Đáp rằng: Chư thiên công đức tối diệu, sanh vào chỗ tối diệu, thành ra tâm diệu xứ. Đối với chỗ vi diệu tu hành diệu dụng. Cho nên niệm thiên có công đức mà chẳng phải niệm công đức của con người. Ngoài ra như trước đã nói rộng rồi.