1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa

Nhiếp Đại Thừa Luận Thích Luận

Thế Thân Bồ Tát tạo, Tùy Cấp Đa Cộng Hành Củ Đẳng dịch

Bản Việt dịch của Nguyên Hồng

***

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1

Chương 1 : Vô đẳng Thánh giáo

Luận nói : Trong Kinh Đại thừa A-tì-đạt-ma, các Bồ-tát đã khéo ngộ nhập Đại thừa đối trước đức Bà-già-bà nói chư Phật Thế Tôn có 10 thắng tướng thắng ngữ để hiển dương đại thể của Đại thừa.

Giải thích : Hỏi vì sao tạo luận ? Đáp để phu diễn. Phải biết pháp tính sâu xa rộng lớn, nếu không phải vâng theo sức của Phật Bồ-tát, không ai có thể giải thích nghĩa lý này.

Lại nữa vì nghĩa gì luận này nói các tướng như vậy ? Nếu không nói A-tì-đạt-ma thì không biết đó là Phật nói. Vì nghĩa ấy nên nêu tên kinh, như nói Kinh Thập Địa. Nay sẽ giải thích tên kinh ấy để người không biết được biết. Nói A-tì-đạt-ma Tu-đa-la là trong Tu-đa-la kia nói pháp môn A-tì-đạt-ma này, và cũng để hiển thị tên Tu-đa-la. Nói Đại thừa là để phân biệt khác với A-tì-đạt-ma của Thanh Văn, cũng không phải thứ A-tì-đạt-ma không phải Phật nói. Có người tự dùng tuệ phân biệt gọi là Phật nói A-tì-đạt-ma, hoặc nói do Thanh Văn nói, hoặc nói do người trí ở đời làm ra. Vì vậy nên nói Đại thừa Tu-đa-la, tức cho thấy khác với Thanh Văn v.v…Lại nữa nói A-tì-đạt-ma được hiển thị trong Bồ-tát tạng. Lại nói thâu nhiếp trong tạng là hiển thị sự điều phục tự phiền não. Cho nên trong Đại thừa là Bồ-tát phiền não. Bồ-tát lấy phân biệt làm phiền não. A-tì-đạt-ma là tướng sâu xa rộng lớn. Tạng có 3 loại : Tu-đa-la, A-tì-đạt-ma, Tì-na-da. Tức 3 loại này có thượng hạ thừa riêng biệt nên thành 2 là Thanh Văn tạng và Bồ-tát tạng.

Lại nữa 3 và 2 này vì sao có tên là tạng ? Đáp là do bao gồm thâu nhiếp. Nghĩa là thâu gồm tất cả các nghĩa cần phải biết. Vì sao thành 3 ? Vì có 9 nhân duyên. Đối trị những người nghi ngờ là Tu-đa-la. Nếu có người nghi về nghĩa thì làm cho họ giải quyết được nghi ngờ nên nói. Đối trị đắm trước nhị biên là Tì-na-da, ngăn ngừa sự thụ dụng tội lỗi, nghĩa là đắm trước bên dục lạc thụ dụng cho là không tội lỗi, ngăn ngừa bên tự hành khổ hạnh. Đối trị sự tự kiến chấp là A-tì-đạt-ma do làm rõ tướng không điên đảo.

Lại nữa nói tam học là Tu-đa-la. Đầy đủ tăng thượng giới, tăng thượng tâm là Tì-na-da, do trì giới được sự không hối hận v.v…lần lượt được Tam-ma-đề. Đầy đủ tăng thượng tuệ là A-tì-đạt-ma, phân biệt lựa chọn nghĩa không điên đảo.

Lại nữa thuyết pháp và nghĩa, là Tu-đa-la. Thành tựu pháp nghĩa, là Tì-na-da. Nếu người tu hành điều phục phiền não, được thông đạt, đối với pháp nghĩa quyết định khéo léo, là A-tì-đạt-ma. Do 9 nhân duyên này nên thành lập 3 tạng. Những thứ này đều vì giải thoát sinh tử.

Lại nữa làm sao được giải thoát ? Huân tri tịch thông nên được giải thoát. Do nghe nên huân tập trong tâm, do suy nghĩ nên biết tu hành, do Xa-ma-tha nên tịch tĩnh. Tì-bát-xá-na nên thông đạt.

Tu-đa-la, Tì-na-da, A-tì-đạt-ma này, lược nói có 4 nghĩa. Bồ-tát hiểu đây tức được Nhất thiết trí. Thanh Văn tùy theo hiểu được nghĩa một kệ thì được lưu tận.

Mỗi thứ đều có 4 nghĩa là thế nào ? Một y, hai tướng, ba pháp, bốn nghĩa. Xuyên suốt đây là Tu-đa-la. Trong đó y là y xứ, y nhân, y sở vi. Tướng là thế đế tướng, đệ nhất nghĩa đế tướng. Pháp là ấm, giới, nhập, duyên sinh, đế, niệm, định, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, nhất thiết xứ, Bồ-đề phần, biện tài, vô tránh v.v… Nghĩa, là tùy thuận tương tục. Một hướng, hai số, ba phục, bốn phổ gập. Nên biết rằng đây là A-tì-đạt-ma. Hướng là A-tì-đạt-ma, là pháp hướng đến vô trụ xứ Niết-bàn, vì nói các môn đế, Bồ-đề phần, giải thoát v.v…Số, là pháp số của A-tì-đạt-ma. Trong mỗi mỗi pháp quyết liễu sự sai biệt của tự tướng, thông tướng của nó vì có vô lượng thuyết. Phục, là A-tì-đạt-ma là pháp làm kẻ khác phải hàng phục, có thể đè bẹp các luận khác do lập tông đầy đủ. Phổ tập, là do A-tì-đạt-ma tập họp khắp các nghĩa của Tu-đa-la.

Lại nữa, phải biết 4 của Tì-na-da là : một tội lỗi, hai duyên khởi, ba hoàn tịnh, bốn xuất ly. Trong đó tội lỗi là tội Ngũ thiên. Duyên khởi là nguyên do gây tội lỗi, có 4 : một không biết, hai phóng túng, ba phiền não nung náu, bốn không tôn trọng. Hoàn tịnh là pháp tịnh tâm chứ không phải trị phạt, như nhiếp trì cấm giới. Xuất ly có 7 thứ : Một là tự phát lồ. Hai là trị phạt với đồng học. Ba là hoàn toàn cấm không cho học mà dùng đạo lý khác. Bốn là đã giải quyết xong, nghĩa là chúng tăng đồng ý cùng giải quyết. Năm là chuyển thân, nghĩa là Tì-khưu, Tì-khưu-ni chuyển đổi giới tính nếu không có tội chung. Sáu là chân thật quán do tác pháp Uất-đà-na thắng quán. Bảy là được pháp nhĩ, nghĩa là được kiến đế rồi thì tiểu tội và tùy tiểu tội, theo pháp nhĩ là không có. Lại nữa phải biết Tì-na-da có 4 nghĩa : Một là người, tức y vào đó lập học xứ. Hai là lập chế, tức như chỗ thưa bạch về tội lỗi người ấy, Đại sư họp chúng chế học xứ. Ba là phân biệt, tức lập câu học xứ rồi theo đó giải thích cho tách bạch từng phần. Bốn là phán quyết, nghĩa là quyết định trong các phần ấy thế nào là có tội thế nào là vô tội. Nay giải thích câu “trước đức Bà-già-bà “ là bày tỏ sự cung kính, không nói gì khác. Nói “khéo ngộ nhập Đại thừa” là được công đức Đà-la-ni v.v…, cho thấy rằng được các công đức ấy rồi thì đối với văn, với nghĩa có thể thụ trì đúng, giảng nói đúng. Các Bồ-tát như thế gọi là khéo nhập Đại thừa. Nói vậy để làm gì ? Là để hiển phát cái thể to lớn của Đại thừa. Hiển phát là nói rõ ràng rộng rãi cái đại thể ấy. Đó là Đại thừa, y nơi Đại thừa nên có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ. Dùng thắng ngữ nói 10 thắng tướng do đó có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ. Lại nói thắng ngôn là hai tướng hình nên có vật này hơn vật kia. Tối thượng nghĩa là thắng nghĩa. Lại nữa do nhân thể thắng nên quả ngữ thắng. Nay sẽ nói về 10 thứ ấy.

Luận nói : Chư Phật Thế Tôn có y chỉ thắng tướng thắng ngữ cần phải biết : Ưng tri thắng tướng thắng ngữ. Nhập ưng tri thắng tướng thắng ngữ. Nhập nhân quả thắng tướng thắng ngữ. Nhân quả tu thắng tướng thắng ngữ. Trong đó có : Tu sai biệt tăng thượng giới thắng tướng thắng ngữ, Tu tăng thượng tâm thắng tướng thắng ngữ, Tu tăng thượng tuệ thắng tướng thắng ngữ, Tu diệt thắng tướng thắng ngữ, Tu trí thắng tướng thắng ngữ. Như vậy những câu Tu-đa-la đã nói hiển thị Đại thừa là Phật nói.

Giải thích : Nói “Ưng tri y chỉ thắng tướng thắng ngữ” là pháp sở tri cần phải biết, gọi là ưng tri. Nghĩa là các pháp nhiễm tịnh v.v…tức là 3 tính. Y chỉ là nghĩa của nhân. Nên biết y chỉ tức là thắng tướng này. Cho nên nói “ưng tri y chỉ thắng tướng”. Do thắng tướng ấy nên nói là thắng, tức là thức A-lê-da. Như vậy là những giải thích nghĩa sơ lược. Cho đến trí thắng tướng cũng vậy. Trí tức thắng tướng, nên nói trí thắng tướng. Ưng tri tướng nghĩa là ưng tri tự tính. Ưng tri tức là tướng, cho nên nói ưng tri tướng, tức là 3 tính. Nhập ưng tri thắng tướng là trong cái ưng tri tướng này, nếu sở nhập và năng nhập đều gọi là nhập, tức là duy thức, tức đây nhập là kia nhập. Nói kia nhập nhân quả là duy thức gọi là nhập. Nhân là thế gian thí v.v…các Ba-la-mật., tức là khi gia hành. Quả thể, tức khi đây thông đạt là xuất thế gian thể. Kia nhân quả tu sai biệt, tức nhân quả trước ở trong nhân quả này tu sai biệt. Tu, tức là tập nhiều lần. Sự tu tập nhiều lần này trong các địa trở nên tiến triển hơn, nên gọi là sai biệt., tức 10 địa tu sai biệt trong đó. Tăng thượng giới học là giới tu học gọi là tăng thượng giới, tức là trong 10 địa có các giới cấm Bồ-tát. Đối với các bất thiện không mống tâm, nên tăng thượng tâm học là nội quán tâm. Tâm này tức là tăng thượng học, gọi là Tam-ma-đề. Tăng thượng tuệ học là thắng hơn được tuệ gọi là tăng thượng tuệ. Tuệ này tức là tăng thượng học. Tăng thượng tuệ học tức là vô phân biệt trí. Diệt thắng tướng là tự thể của tối thắng chủng loại diệt phiền não chướng trí chướng, tức là vô trụ xứ Niết-bàn. Trí thắng tướng thắng ngữ là trí không chướng ngại gọi là trí thắng tướng. Trí vô phân biệt kia có đối trị. Phật trí là lìa tất cả chướng tùy miên, tức sự thù thắng của trí vô phân biệt.

Luận nói : Lại nữa, hiển phát như thế nào? Có 10 chỗ nói về điều này. Trong Thanh Văn thừa không nói đến. Chỉ có Đại thừa nói. Đó là thức A-lê-da, nói là cái thể y chỉ cần phải biết. Ba thứ tự tính : phân biệt, y tha, thành tựu nói là cái thể tướng cần phải biết. Duy thức nói là ngộ nhập cái thể tướng cần phải biết. Sáu Ba-la-mật nói là nhập nhân quả thể tướng. Mười địa Bồ-tát nói là nhập nhân quả tu sai biệt thể. Nói giới cấm Bồ-tát là thể của giới tăng thượng. Nói kiện hành và hư không khí v.v…Tam-ma-đề là thể của tâm tăng thượng. Nói vô phân biệt trí là thể của tuệ tăng thượng. Nói vô trụ Niết-bàn là thể của quả diệt kia. Nói 3 thân của chư Phật : tự tính thân, cộng dụng thân, hóa thân là thể của quả trí kia. Do 10 chỗ này nên đặc biệt khác với Thanh Văn thừa. Chỗ đặc biệt khác đó là cao tột cho nên Thế Tôn chỉ nói cho Bồ-tát. Vì vậy cho nên nói chư Phật Thế Tôn vì Đại thừa mới có 10 thứ thắng tướng thắng ngữ cần phải biết.

Giải thích : Thế nào là hiển phát ? Nghĩa là có tướng mạo như thế nào. Sáu Ba-la-mật là thể của ngộ nhập nhân quả kia, nghĩa là duy thức quán được nhập 3 tính, tức là nhân của thanh tịnh Ba-la-mật. Tuy là thế gian có thể dẫn đến xuất thế gian cho nên đã nhập địa trở đi tức là thanh tịnh, là thể của quả xuất thế. Bồ-tát 10 địa là thể của tu sai biệt nhân quả kia, tức là tu tập 3 học trong các địa. Quả, tức là quả của quả tam học. Trong quả này, diệt là thể của quả diệt, nghĩa là diệt phiền não trí chướng. Vô phân biệt trí là thể của tăng thượng tuệ học, nghĩa là Thanh Văn không phân biệt 4 điên đảo nên gọi vô phân biệt. Chư Bồ-tát thì vô phân biệt đối với tất cả pháp. Đây là chỗ khác nhau của 2 thứ vô phân biệt. Ba thứ Phật thân là thể của quả trí, là quả tam học kia gọi là quả kia. Quả kia tức là trí, nên nói quả trí kia. Thể này tức là thể của quả trí kia. Trong đây nếu lìa tự tính thân tức không có pháp thân. Như nhãn nếu tách rời đây tức không có báo thân. Như nhãn thức, nên biết rằng đây 2 pháp năng y sở y bình đẳng, nếu tách rời báo thân, thì các Bồ-tát đã nhập đại địa thụ dụng pháp cũng bất thành. Nếu không thụ dụng pháp thì Bồ-đề tư lương đầy đủ cũng bất thành. Như kiến sắc hóa thân cũng vậy. Nếu tách rời đây thì các Bồ-tát trong giải hạnh, các Thanh Văn thô thiển giải, và sơ phát tâm tu hành cũng bất thành. Vì vậy cho nên nhất định phải có 3 thân. Cho nên Đại thừa với Thanh Văn thừa đặc biệt khác đó là trong Thanh Văn thừa không nói. Tối thượng là hiển thị trong Đại thừa cũng thù thắng.

Luận nói : Lại nữa vì sao lấy 10 thứ thắng tướng thắng ngữ của Như Lai này có thể rõ Đại thừa là Phật nói ? Cũng ngăn chận được

Thanh Văn thừa khác với Đại thừa ? Bởi vì 10 chỗ này không thấy nói trong Thanh Văn thừa, chỉ nói trong Đại thừa dẫn sinh Đại Bồ-đề. Mười chỗ này tùy thuận thành tựu không mâu thuẫn, được trí Nhất thiết trí. Ở đây có kệ như sau :

Phải biết y tướng nhập,

Nhân quả tu sai biệt,

Tam học quả diệt trí,

Trong thượng thừa thù thắng.

Đây nói nơi khác không,

Thấy nhân thắng giác này,

Nên Đại thừa Phật nói,

Do nói 10 thắng xứ.

Giải thích : Nghĩa này là thế nào ? Có thể dẫn đến Đại Bồ-đề nên hiển thị nghĩa này. Mười chỗ này thành tựu tùy thuận không mâu thuẫn, nên có thể dẫn sinh Đại Bồ-đề. Dẫn sinh Đại Bồ-đề là vì nhân. Thành tựu là trong tam học tư lường quan sát như đạo sư hiển thị đạo tướng. Tùy thuận là trong thắng được, khi khởi tu hành tùy thuận tương ưng trụ, trong đó tùy thuận mà trụ như đạo sư đã nói. Không mâu thuẫn là trong các địa không có sự chướng ngại, như nói trên đường đi không có giặc v.v… cản trở. Nghĩa là sinh tử Niết-bàn không chướng ngại nhau.

Chương 2 : Thứ tự của 10 nghĩa

Luận nói : Lại nữa 10 chỗ này vì sao được nói theo thư tự như vậy ? Chư Bồ-tát tối sơ do các pháp như vậy, trong nhân được khéo léo, tức trong duyên sinh sẽ được khéo léo. Chúng sau đó các pháp sở sinh trong duyên được biết rõ tướng của chúng, biết rõ lỗi hai bên tăng ích tổn giảm. Bồ-tát khéo tương ưng đối với các tướng ấy rồi, tiếp đến đối với chúng khéo nhiếp trì, trong tướng phải thông đạt, thì trong chướng ngại tâm được giải thoát. Thông đạt các tướng cần phải biết kia rồi, cái thắng nhân xưa gia hành trong 6 Ba-la-mật phải được thành tựu. Y nội tâm thanh tịnh nên 6 Ba-la-mật được thâu nhiếp trong nội tâm thanh tịnh phải tu 3 a-tăng-kì kiếp làm thanh tịnh từng phần từng phần. Tiếp đến Bồ-tát phải viên mãn tam học. Đã viên mãn rồi, cần phải tu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề và quả Niết-bàn kia. Mười chỗ nói theo thứ tự như vậy. Trong đây, tất cả Đại thừa đều được cứu cánh.

Giải thích : Vì lý do gì nói theo thứ tự như vậy ? Nghĩa là ban đầu từ các Bồ-tát do trong các nhân như vậy cho đến quả Niết-bàn kia chính giác A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề v.v…là do biết nhân các pháp nên được thiện xảo trong duyên sinh. Do có nhân nên sinh quả. Chẳng phải Tự tại thiên v.v… Cho nên được nhân quả 2 trí. Tiếp đến phải biết cái tướng của pháp do nhân sinh ra. Tướng ấy như thế nào ? Tính phân biệt là không, chấp cho là có, gọi là tăng ích. Tăng ích nơi không, tức là tổn giảm. Tính thật hữu thành tựu lìa lỗi nhị biên này, nên nói là thiện xảo. Tiếp đến về sở thủ phải dùng duy thức quán biết tướng của chúng. Do quán này nên được không chướng ngại. Tiếp đến trong tùy thuận nhập duy thức 6 Ba-la-mật thế gian, y thế tục được rồi phải tu đắc đệ nhất nghĩa. Nghĩa là phải tu tịnh tâm nhiếp thủ Ba-la-mật. Tiếp đến trong 10 địa trải qua 3 a-tăng-kì kiếp phải tu từng phần, không phải như Thanh Văn thắng đắc trong 3 đời khởi đối trị là được giải thoát. Tiếp đến trong lúc tu phải viên mãn giới v.v. tam học. Tiếp đến phải được học quả Niết-bàn, diệt phiền não chướng, được 3 thân A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Nếu thứ tự Đại thừa thì đều phải biết như vậy. Bởi vì sao ? Nếu muốn nói duyên sinh tức nhập trong thức A-lê-da. Nếu nói tướng tức vào trong 3 tính. Nếu nói thắng đắc tức là duy thức. Nếu nói Ba-la-mật tức vào trong các Ba-la-mật. Nếu nói địa tức vào trong địa. Nếu nói học tức vào trong học xứ. Nếu nói diệt và trí tức gồm trong vô trụ xứ Niết-bàn và 3 thân. Phật nói như vậy, cho nên nói theo thứ tự như thế. Lại có nghĩa khác, dẫn sinh Đại Bồ-đề nghĩa là có thể sinh trí không phân biệt không hý luận. Thành tựu là tương ưng. Tùy thuận là không mâu thuẫn với 3 lượng. Không mâu thuẫn là không phải trước thuận theo sau trái chống. Như kệ nói :

Nhiếp trì cầu và bi,

Cũng tùy thuận các thiện,

Chẳng hắc bạch, ngã kiến,

Có ích cũng có tổn.

Được trí Nhất thiết trí nghĩa là trong tất cả pháp, nhất thiết chủng trí sinh không gián đoạn. Những thành tựu này cũng có nghĩa riêng. Thành tựu tùy thuận không mâu thuẫn v.v… Câu trước là gốc, câu sau là giải thích. Thế nào là thành tựu ? Nghĩa là tùy thuận. Thế nào là tùy thuận ? Nghĩa là không mâu thuẫn. Cứ lần lữa như vậy.

Chương 3 : Các tên

Luận nói : Trong đây trước tiên phải biết y chỉ là thức A-lê-da. Thế Tôn ở đâu nói thức A-lê-da này ? Thế Tôn nói trong bài kệ Kinh A-tì-đạt-ma.

Giới thể thời vô thủy,

Các pháp cùng y chỉ.

Do đây có các thú,

Và Niết-bàn thắng đắc.

Giải thích : Thế Tôn trong A-tì-đạt-ma A-hàm nói tên thức A-lê-da. Thức A-lê-da tức luận này trước tiên nói A-tì-đạt-ma Tu-đa-la. Trong đây “giới” tức là nghĩa của nhân. “Các pháp cùng y chỉ” là do nhân này nên tất cả pháp đều dựa vào đó. Nghĩa là y chỉ vào đây làm thể của nhân. Có chỗ cho các pháp y chỉ này nên quả báo các thú do đây được sinh, có lực trong vô lượng sinh, có thể hiểu nghĩa các pháp thiện thuyết ác thuyết. Nếu vượt thứ tự được thắng đắc, lại làm thể y chỉ cho phiền não, do đó có phiền não rất nặng và phiền não bền chắc. Trong 4 thứ quả báo này, người thắng có thể kham chịu được, ngược lại thì không. Nên biết tất cả ở trong sinh tử tùy thuộc thú nào ? Chẳng phải chỉ các thú mà cũng có thắng đắc Niết-bàn, bởi vì có phiền não tức có Niết-bàn. A-hàm này cho thấy cái y chỉ cần phải biết, đó là thức A-lê-da. A-hàm lại nói :

Luận nói : Tức kinh ấy lại nói kệ rằng :

Chỗ các pháp y trú :

Nhất thiết chủng tử thức.

Nên gọi thức Lê-da.

Ta vì thắng nhân nói.

Giải thích : Bài kệ này, câu thứ hai giải thích câu thứ nhất. Thắng nhân là chỉ các Bồ-tát.

Luận nói : Có các chứng minh trong A-hàm này, nhưng thức này vì nhân duyên gì gọi là A-lê-da ? Tất cả các nhiễm pháp của loài hữu sinh y trụ làm quả, thức này cũng dựa vào các pháp kia làm nhân, nên gọi là thức A-lê-da. Lại nữa chúng sinh y trụ lấy làm tự ngã cho nên gọi là thức A-lê-da.

Giải thích : Thức này gọi là A-lê-da là vì các pháp y trụ. Y trụ là cùng chuyển. Hữu sinh là những loài có sinh khởi đều gọi là hữu sinh. Nhiễm pháp là khác với tịnh pháp. Chúng sinh y trụ làm tự ngã là chấp thủ.

Luận nói : Thức A-lê-da này còn tên là thức A-đà-na. Như Thế Tôn có nói trong Kinh Giải Tiết :

A-đà-na sâu xa vi tế,

Chủng tử hằng chuyển như dòng chảy.

Trẻ con, phàm phu ta không nói,

Không cho phân biệt gọi là ngã.

Giải thích : Lại trong Giải Tiết A-hàm, Phật bảo Quảng Tuệ : Các chúng sinh trong 6 đường sinh tử tùy loại chúng sinh, nào sinh trứng, sinh thai,sinh nơi ẩm ướt, hóa sinh, trong khi sinh tự thân chuyển sinh, khi ấy tất cả chủng tử tâm lúc mới đầu thành thục liền được hòa hợp, rồi tăng trưởng lớn lên đầy đủ. Có hai loại thủ đắc là có loại y sắc căn mà thủ đắc nên tướng gọi là phân biệt thế tục hý luận v.v…huân tập thủ. Trong sắc giới có 2 loại thủ. Trong vô sắc giới không có 2 loại thủ. Quảng Tuệ ! Thức này hoặc gọi là A-đà-na vì nó biến khắp gìn giữ trong thân, hoặc gọi là A-lê-da vì nó ẩn tàng khắp cả trong thân cùng thịnh suy lợi hại, nên hoặc gọi là tâm vì nó tích tụ và tăng trưởng sắc thanh hương vị xúc pháp. Quảng Tuệ ! Y A-đà-na thức làm trụ xứ chuyển sinh 6 thức thân tức là nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức trong đó có thức. Nhãn căn và sắc là duyên sinh nhãn thức, tức nhãn thức kia cộng hành đồng thời cùng với cảnh giới có ý thức phân biệt sinh. Nếu mỗi một nhãn thức sinh, tùy theo mỗi một nhãn phân biệt ý thức, với nhãn thức cùng hành, đồng thời cùng cảnh giới sinh. Tùy mỗi lúc, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm thức thân chuyển sinh, tức mỗi lúc một phân biệt ý thức với 5 thức thân cùng hành, đồng thời cùng cảnh giới sinh. Như dòng sông lớn chảy, nếu một duyên khởi sóng xảy đến thì một đợt sóng sinh, nếu hai hoặc nhiều duyên khởi sóng xảy đến thì nhiều đợt sóng sinh trong khi con sông kia vẫn chảy bình thường không gián đoạn không chấm dứt. Lại ví như mặt gương sạch, nếu có một vật tượng đến thì có một ảnh tượng sinh, nếu hai hay nhiều vật tượng đến thì có nhiều ảnh tượng sinh, nhưng mặt gương kia không chuyển thành ảnh tượng, cũng không tổn giảm, nên biết như vậy. Như vậy thức A-đà-na như con sông lớn, y nơi đó mà trụ. Nếu có tùy một duyên khởi đến với nhãn thức thì tùy theo đó có một nhãn thức sinh. Nếu cho đến tùy theo đó có duyên 5 thức thân khởi đến, thì tùy theo đó có 5 thức thân sinh. Như vậy Quảng Tuệ ! Bồ-tát trụ pháp trụ trí được bí mật thiện xảo của tâm ý thức. Như Lai nhất thiết chủng nhất thiết trí không nói Bồ-tát đều như nhau cái gọi là bí mật thiện xảo của tâm ý thức này. Quảng Tuệ ! Nếu Bồ-tát ở bên trong, ở bên ngoài, như thật không thấy A-đà-na A-đà-na thức, không thấy A-lê-da A-lê-da thức, không thấy tăng trưởng, không thấy các thứ ( hai này gọi là tâm ), không thấy nhãn sắc nhãn thức, không thấy nhĩ thanh nhĩ thức, không thấy tỹ hương tỹ thức, không thấy thiệt vị thiệt thức, không thấy thân xúc thân thức. Quảng Tuệ ! Nếu Bồ-tát y pháp trụ trí, trụ pháp trụ trí được tâm ý thức thiện xảo. Lại nữa như nghĩa này hiển thị trong kệ : “Thức A-đà-na sâu xa vi tế” là vì khó biết. “Tất cả chủng tử chuyển biến như dòng nước chảy” nghĩa là tất cả chủng tử lần lượt chuyển sinh như nước chảy, mỗi niệm mỗi niệm tiếp nối. Cho nên A-đà-na hiển thị một tên đặc biệt. “Không cho phân biệt gọi là ngã” là vì một tướng chuyển nên phân biệt gọi là ngã.

Luận nói : Vì nhân duyên gì gọi thức này tên là A-đà-na ? Vì nó nhiếp trì tất cả các căn hữu sắc và tất cả tự thân lấy làm nơi nương tựa. Nơi nó, sắc căn được giữ gìn không mất cho đến khi nào mạng còn sống. Và nó tương tục khi thụ sinh khiến được tự thân. Cho nên gọi là A-đà-na.

Giải thích : Nói nhiếp trì các căn của tất cả hữu sắc, nghĩa là các sắc căn này bị thức kia nhiếp trì. Cho đến khi nào mạng còn sống, là lấy câu này giải thích. Bởi vì sao ? Vì thức A-lê-da nhiếp trì nhãn v.v…các sắc căn. Cho nên không bị tím bầm như thân đã chết. Nếu khi chết thức kia rời bỏ thân thì sẽ có tướng bị tím bầm, cho nên biết do thức kia nhiếp trì thọ mạng khi còn sống nên không hư hoại. Đó là nơi tất cả thân mạng lấy làm nơi nương tựa, cho nên có sự sống tiếp tục, sự sống tiếp tục khiến có tự thân. Điều này giải thích thức là nơi duy trì sự sống tiếp tục. Bởi vì sao ? Vì có thể duy trì tự thân đầy đủ bởi trong thức A-lê-da đầy đủ tự thân huân tập ở trong đó. Cho nên khi sinh gọi là chuyển sinh, tức là khi nó sinh thì lấy tên là chuyển sinh thủ. Do thủ này nên giữ đưọc tự thân. Vì nghĩa này thức A-lê-da gọi là thức A-đà-na.

Luận nói : Cũng gọi tên là tâm, như Thế Tôn nói tâm, ý, thức. Trong đó y có 2 thứ : Một là lần lượt duyên với tác y xứ, do thức lần lượt diệt, ý thức y vào đó sinh. Hai là ý ô nhiễm thường tương ưng cùng 4 phiền não là thân kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh. Ý này tức là nơi y chỉ của các nhiễm ô của các thức khác. Các thức khác do đệ nhất y chỉ sinh, do đệ nhị nhiễm ô. Do nghĩa liễu cảnh, do nghĩa lần lượt, do niệm nghĩa, nên ý có 2 loại.

Giải thích : Lại nói tên là tâm có nghĩa là đây nói thức A-lê-da tức là tâm.Ý và thức 2 thứ có nghĩa riêng có thể thấy. Nên biết rằng tâm này cũng có nghĩa riêng. Để làm rõ nghĩa này, trong sự lần lượt duyên và làm nơi nương tựa, nghĩa là thức nếu lần lượt diệt rồi được làm nhân cho ý thức. Đây là đệ nhất ý. Lại có đệ nhị nhiễm ô ý, vì 4 thứ phiền não. Trong đó thân kiến tức là ngã chấp. Do chấp này nên có ngã mạn bởi thủ ngã tự cao. Do đây trong vô ngã khởi ngã ái. Ba thứ này đều bởi vô minh làm nhân. Vô minh là vì vô trí. Các thức khác do đệ nhất y chỉ sinh, do đệ nhị nhiễm ô là nếu thức lần lượt diệt rồi gọi là ý, với nơi sắp sinh thức làm y chỉ cho sự sinh kia nên đệ nhị nhiễm ô ý là y chỉ của nhiễm ô. Bởi vì sao ? Trong thiện tâm cũng có ngã cho nên liễu cảnh nghĩa, thứ đệ nghĩa, niệm nghĩa nên ý có 2 thứ nghĩa là ở trong thủ cảnh nghĩa nên gọi là thức, với xứ sở nghĩa nên gọi là đệ nhất ý, ngã tướng v.v… nhiễm ô nghĩa nên gọi là đệ nhị ý.

Luận nói : Lại nữa làm sao biết có ý nhiễm ô ? Đây nếu không có xúc hành vô minh, cũng không có đây là lỗi lầm. Năm thức tương tự cũng không có đây là lỗi lầm. Như 5 thức thân có y chỉ đồng thời nên được các tên là nhãn v.v… không có đây là lỗi lầm. Vô tưởng định, Diệt tận định không có sai biệt, đây là lỗi lầm. Vô tưởng định được tên nhiễm ô ý, Diệt tận định thì không, nên có sai biệt. Lại tức vô tưởng này một khi sinh thì không có pjhiền não, đây là sai lầm. Nếu trong cõi trời kia không có ngã và mạn v.v…Lại tất cả thời ngã chấp đều được hnhf, nghĩa là tâm thiện ác vô ký nếu không như vậy, chỉ tâm bất thiện được tương ưng, ngã chấp là phiền não cho nên không cho tâm thiện và vô ký cùng hành. Vì vậy cho nên nếu câu hữu và cộng hành thì không có lỗi này. Nếu tương ưng hiện hành thì không có lỗi này. Ở đây có kệ như sau :

Nếu độc hành vô minh,

Và 5 pháp tương tự.

Hai thứ định sai khác,

Được tên không lỗi này.

Sinh vào trời Vô tưởng,

Vô ngã thì có lỗi.

Ngã chấp tùy thuận chuyển,

Mọi nơi đều không có.

Lìa nhiễm ý không có,

Hai ba tức trái nhau.

Không đây tức cũng không,

Ngã chấp khắp mọi nơi.

Khi tâm hành thật nghĩa,

Thường làm thành chướng ngại.

Cộng hành trong mọi lúc,

Là độc hành vô minh.

Giải thích : Đệ nhị nhiễm ô ý này lấy đạo lý nào thành lập ? Ý này nếu không thì độc hành vô minh không thành. Độc hành vô minh là gì ? Khi chưa khởi đối trị nó chướng ngại trí chân như, si này không tương ưng với 5 thức vì ở đây không bị chướng ngại. Nếu nơi nào khởi đối trị thì nơi đó bị chướng. Cũng không ở trong nhiễm ô ý thức. Nếu tức là nhiễm ô ý thức thì có lỗi. Chẳng phải nhiễm ô ý thức thì vì cộng hành cùng với các phiền não khác nên không gọi là độc hành. Lại nữa nếu muốn khiến tức là phiền não nhiễm ô ý thức thì có thường tội lỗi nhiễm ô.

Làm sao các tâm thí v.v…được thành thiện ? Bởi thường cùng kia tương ưng. Nếu nói có ý cùng thiện tương ưng sinh, tức kiến lập đây là dẫn sinh đối trị có thể trị nhiễm ô ý thức đây bất thành. Nếu nói có thiện tâm cùng nhiễm ô ý cộng sinh, thiện tâm này có thể dẫn sinh đối trị, trị diệt các thức khác. Cái diệt này thì không có lỗi.

Lại nữa cùng 5 thức tương tự nên như nhãn thức v.v… 5 thức thì có nhãn v.v.. 5 căn đồng thời làm y chỉ. Ý thức này cũng phải đồng thời y chỉ.

Hai định không sai biệt tức là nếu nói có nhiễm ô ý, trong Vô tưởng định kia thì có, trong Diệt tâm định thì không, có sai biệt đó. Trong 2 định này, ý thức không hành vì không sai biệt. Nói “được tên”, tức là do niệm tự thân nên tên là ý. Nếu không có thể, tên này dựa vào đâu ? Nếu 6 thức lần lượt qua rồi, thức này gọi là ý thì không hợp lý vì nó đã diệt. Lại nữa sinh vào trời Vô tưởng, một thời kỳ phải không có ngã cho nên nếu nói nơi ấy không nhiễm ô ý là sinh ở nơi ấy tức phải không có ngã. Các thánh nhân không nên chán ghét. Đã chán ghét nên biết rằng sinh nơi ấy chắc chắn có ngã.

Nói “ngã chấp tùy thuận chuyển” là vì thí v.v…các thiện tương ưng với ngã cho nên nếu lìa ngã chấp này thì vô minh không thành. Vô minh không lìa y chỉ, vì y chỉ này lìa nhiễm ô ý là không thể được.

Luận nói : Vì ý này nhiễm ô nên chướng ngại vô ký. Hằng cùng 4 phiền não tương ưng. Như phiền não cõi Sắc cõi Vô sắc là chướng ngại vô ký. Sắc, Vô sắc giới là Xa-ma-tha sở tàng. Ý này nhất thời nhiễm trước cho nên tâm thể đệ tam lìa thức A-lê-da là không thể được. Cho nên thành tựu thức A-lê-da là tâm. Do đây là chủng tử cho nên ý và ý thức v.v… chuyển sinh.

Vì duyên gì gọi là tâm ? Vì tụ họp các thứ chủng tử huân tập của các pháp.

Giải thích : Lấy kiến ý và chuyển thức, lấy thức A-lê-da làm nhân sinh, cho nên tâm thể không thể được các nơi khác. Phật nói thức tức là gồm trong thứ đệ diệt ý. Do thức ấy diệt rồi, nói là ý. Lại nữa do tập hợp chủng tử huân tập của các pháp nên được tên gọi là tâm. Trong đó các thứ là các tướng của các pháp, cho nên chủng tử huân tập tức là có công năng làm nhân sai biệt kia. Nói tập họp tức là tích hợp lại dày đặc thành một khối.

Luận nói : Lại nữa vì sao trong Thanh Văn thừa không nói tâm này tên là thức A-lê-da, thức A-đà-na ? Vì thâu nhiếp trong cảnh giới vi tế. Người Thanh Văn không biết tất cả cảnh giới cho nên đối với họ tuy lìa thuyết này nhưng được thành tựu trí kia khiến được giải thoát. Do đó nên không nói. Chư Bồ-tát vì muốn biết tất cả cảnh giới, cho nên nói. Do lìa trí này nên không thể được trí Nhất thiết trí.

Giải thích : Nói “Vì thâu nhiếp trong cảnh giới vi tế” nghĩa là đây cũng vừa là vi tế, cũng vừa là cảnh giới nên gọi là cảnh giới vi tế. Lại nữa nhập vào trong cảnh giới vi tế vì khó biết được, lại các Thanh Văn không muốn biết tát cả cảnh giới nên tu hành chỉ nhằm tự lợi cho nên họ đối với các thô phiền não chỉ dùng khổ v.v…các trí để diệt trừ. Còn Bồ-tát thì tu hành là để trừ tự tha phiền não chướng và trí chướng cho nên nói.

Luận nói : Nhưng trong Thanh Văn thừa cũng có dùng đạo lý khác để nói về thức A-lê-da. Như trong Tăng Nhất A-hàm nói chúng sinh ưa A-lê-da, thích A-lê-da, nương tựa A-lê-da, tìm cầu A-lê-da. Để diệt A-lê-da này nên khi Như Lai thuyết pháp thì chuyên chú lắng nghe, khởi tâm tìm hiểu, tùy thuận thụ pháp nguyện diệt A-lê-da. Vì Như Lai xuất thế nên có pháp hy hữu khó được mới hiển hiện nơi thế gian. Như Lai xuất thế có 4 thứ đáng tán thán. Trong kinh đã dùng biệt danh như vậy để hiển hiện thức A-lê-da trong Thanh Văn thừa.

Giải thích : “Chúng sinh ưa A-lê-da” câu này là gốc. Sau dùng hiện tại, quá khứ, vị lai 3 thời để giải thích. Ba câu khác như các câu lần lượt. Lại có nghĩa khác hỷ A-lê-da tức là nói hiện thế, lạc A-lê-da là nói quá khứ thế. Do lạc A-lê-da của đời trước cho nên lại có tập A-lê-da. Do hỷ A-lê-da, tập A-lê-da nên lại có tìm cầu A-lê-da đời sau. Thuận theo pháp nghĩa là thực hành đúng như giáo pháp đã nói.

Luận nói : Trong Ma-ha Tăng-kì A-hàm cũng dùng đạo lý khác nói thức này, gọi là căn bản thức, ví như gốc rễ của cây.

Giải thích : Nói căn bản thức như gốc rễ của cây nghĩa là căn bản thức kia là cái thể, làm nhân cho tất cả thức . Ví như gốc rễ củ cây là nhân phát sinh các thứ nhánh nhóc. Nếu không có gốc rễ không thể có được cành nhánh. Thức A-lê-da làm căn bản cho các thức cũng vậy.

Luận nói : Trong Di-sa-tắc cũng dùng đạo lý khác nói về thức này, gọi là cùng sinh tử tụ. Có nơi, có lúc thấy sắc tâm đoạn dứt, nhưng chủng tử trong thức A-lê-da thì không đoạn dứt.

Giải thích : Cũng dùng đạo lý khác nói là cùng tận sinh tử tụ, nghĩa là cái thể tụ họp của cái thức này là cho đến tận cùng sinh tử. Bởi vì sao ? Vì có nhân duyên. Nói có nơi, tức là cõi. Tức là nói trong cõi Vô sắc thì không còn có sắc. Nói có lúc, tức có lúc ở trong định, như Vô tưởng định v.v… Nói chủng tử trong thức A-lê-da không đoạn dứt, nghĩa là sắc tâm huân tập là nhân, thời gian sau sắc tâm trở lại theo đây sinh.

Luận nói : Do đó nên biết rằng các tên Y chỉ A-đà-na thức, Tâm A-lê-da thức, Căn bản thức, Cùng sinh tử tụ v.v… thức A-lê-da này đã thành con đường lớn của đại vương đi.

Giải thích : Thành con đường của đại vương đi là nói con đường rộng lớn.

Luận nói : Lại có các sư chấp cho rằng tâm ý và thức tên khác nhưng nghĩa là một. Không đúng như vậy. Do kiến ý và thức nghĩa, cho nên nghĩa của tâm kia cũng phải khác. Lại có các sư chấp rằng các câu Thế Tôn nói Hỷ A-lê-da của chúng sinh v.v.. trong đó 5 thủ tụ là A-lê-da. Lại có các sư chấp cho rằng các thụ đi đôi với dục là A-lê-da. Lại có các sư chấp cho rằng thân kiến là A-lê-da. Các sư này do mê không rõ A-hàm và sự tu đắc cho nên đối với thức A-lê-da khới các chấp như vậy. Đạo lý được thành lập trong Thanh Văn thừa này, đạo lý do họ thành lập không tương ưng. Nếu người không mê thể tướng của A-lê-da, lấy đạo lý của họ thành lập gọi là thức A-lê-da thì tuyệt vời. Vì sao tuyệt vời nếu nói 5 thủ tụ là A-lê-da ? Tuyệt vời là như thế này. Thụ sinh vào ác thú, một bề chịu khổ, tức sẽ sinh chán ghét, các chúng sinh trong đó sẽ một bề không yêu thích. Vậy mà nói đắm trước là không đúng đạo lý, vì thường cầu lìa bỏ. Nếu bảo các lạc thụ cùng đi đôi với dục là A-lê-da thì Đệ tứ thiền trở lên không có thụ này. Đã chán ghét mà nói các chúng sinh lấy đó làm nơi đắm trước là không đúng lý. Nếu nói thân kiến là A-lê-da thì người trong Phật pháp tin hiểu vô ngã sẽ chán ghét nó mà lấy nó làm nơi đắm trước là không đúng lý. Nhưng trong thức A-lê-da cái ngã vẫn còn tồn tại. Nếu thụ sinh vào cái nơi một bề chịu khổ, chỉ cầu lìa thoát khổ, trong thức A-lê-da, ngã ái trói buộc nên chưa hề cầu lìa thoát. Lại nữa người sinh từ Tứ thiền trở lên, tuy chán ghét nhưng thụ dục và lạc cùng đi đôi, trong thức A-lê-da, sự ràng buộc với ngã ái còn tồn tại. Lại nữa người trong Phật pháp tin hiểu vô ngã, chán ghét ngã kiến, nhưng trong thức A-lê-da cái ràng buộc vào ngã ái cũng còn tồn tại. Cho nên lấy đó thành lập A-lê-da, thành tựu cái thể của thức A-lê-da thì tuyệt vời hơn cả. Đó là đường lối đặc biệt an lập thức A-lê-da.

Giải thích : Trong đây nói người không mê tức nói các Bồ-tát. Ác thú là các nẻo đường dữ như ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục v.v…Một bề chịu khổ là cái báo thể của các nẻo kia chỉ là phi ái cho nên nơi kia nếu có sinh thụ lạc tức là quả tân dịch. Người sinh nơi kia thụ báo chỉ có khổ. Các lạc thụ cùng với dục đi đôi là A-lê-da nghĩa là từ Tứ thiền trở lên không có thụ này vì đã chán ghét. Chúng sinh nơi ấy, tức chúng sinh từ Tứ thiền trở lên và đang ở trong Tứ thiền. Nơi ấy, tức là được sinh nơi ấy. Nội ngã còn tồn tại, tức là quyết định lấy thức này làm nội ngã. Cầu lìa khổ tụ , tức là nguyện xả bỏ khổ thụ. Nói ngã ái trói buộc trong thức A-lê-da, tức là vì thức A-lê-da là tự ngã, do sự khát ái này nên thành trói buộc.

***

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1 – 2

Chương 4 : Tướng

Luận nói : Làm sao có thể thấy sự thành lập tướng của thức này ? Lược có 3 thứ : một là thành lập tự tướng, hai là thành lập nhân tướng, ba là thành lập quả tướng. Trong đó thức A-lê-da là tự tướng. Tất cả nhiễm pháp huân tập đã là nhân sinh ra nó. Trong đó tướng của nhân là các nhiễm pháp. Thức A-lê-da này tất cả chủng tử, tất cả mọi thời hiện khởi là nhân. Trong đó thành lập tướng của quả là thức A-lê-da này vì sức huân tập của các nhiễm pháp kia từ vô thủy đến nay nên được sinh.

Giải thích : Vì có nhiều biệt danh như vậy, nói thức A-lê-da theo biệt thuyết này, chưa biết tướng nó như thế nào. Nói tự tướng, nhân tướng, quả tướng của thức A-lê-da, trong đó tự tướng là vì duyên tất cả nhiễm pháp huân tập cho nên thức có sinh công năng khác hơn, hiển thị thể của thức có công năng. Nhiếp trì chủng tử tương ưng, tức là tất cả nhiễm pháp huân tập xong tức là nhân sinh ra pháp kia nên nói nhiếp trì chủng tử. Sự huân tập kia hợp với thắng năng của nó nên gọi là tương ưng. Tức là tự tướng này tất cả nhiễm pháp huân tập rồi làm cho nó được sinh nhân nhiếp trì chủng tử tương ưng thức được các nhiễm pháp huân tập rồi được công năng hơn, có thể làm sinh nhân cho nó. Đây là nhân tướng của thức A-lê-da. Trong đây bắt đầu từ thành lập quả tướng cho đến nói do sức huân tập từ vô thủy đến nay nên được sinh là được các pháp huân tập rồi thức này mới được sinh, nhiếp trì những huân tập từ vô thủy nên gọi là quả tướng.

Chương 5 : Huân tập

Luận nói : Lại nữa thế nào là huân tập ? Tên huân tập này còn có tên gì ? Với pháp kia cùng sinh cùng diệt. Đã có thể làm nhân sinh ra pháp kia, đó là nghĩa của nhân. Ví như mè dùng hoa ướp, mè và hoa cùng sinh cùng diệt. Vì trong mè có sinh nhân của mùi thơm của hoa kia nên mè có mùi thơm. Lại như dục v.v… các hành huân tập thì dục v.v…cùng với tâm đồng sinh đồng diệt, sau đó làm sinh nhân của dục v.v…Lại cũng như đa văn, có đa văn huân tập, suy tư nghĩ nhớ những điều đã nghe, cùng với tâm đồng sinh đồng diệt, rồi làm thành sinh nhân ghi nhớ vì do nhiếp trì huân tập, nên nói là trì pháp. Nên biết thức A-lê-da có các đạo lý như vậy.

Giải thích : Nói pháp kia tức nhiễm pháp trước. Nói sau khi đồng sinh đồng diệt rồi làm sinh nhân cho kia, nghĩa là trở lại làm thể cho nhân nhiễm pháp kia.

Chương 6 : Không một không khác

Luận nói : Lại nữa trong thức A-lê-da các chủng tử nhiễm pháp kia là từng phần từng phân biệt lập hay không sai biệt ? Không có một thể của vật nào biệt lập ở trong thức, cũng không phải không có khác nhau. Nhưng thức A-lê-da sinh như thế, có công năng vượt trội có thể sinh pháp kia, nên có tên là Nhất thiết chủng tử thức.

Giải thích : Trong thức A-lê-da các chủng tử nhiễm pháp kia là từng phần từng phân biệt lập hay không sai biệt, nếu vậy thì có lỗi gì ? Các chủng tử này nếu có từng phần từng phần sai biệt thì thức A-lê-da cũng phải có từng phần từng phần sai biệt. Nghĩa sát-na diệt của thức A-lê-da sẽ bất thành do từng phần từng phần sai biệt. Lại nữa pháp thiện ác huân tập tức thành thể của chủng tử thiện ác. Nhưng đây nó là vô ký cho nên nếu nói từng phần từng phần làm sao nói là nhiều ? Nghĩa này bất thành. Cho nên cả hai đều lỗi. Không có một thể của vật gì biệt lập trong thức, cũng không phải là không có khác. Cho đến tên Nhất thiết chủng tử thức, trong đó nói phi biệt phi bất biệt là vì để cái lỗi đã nói ở trước. Nói sinh như thế, nghĩa là mỗi chủng loại của nó sinh. Nói sinh nó có thắng năng, tức là khi sinh các nhiễm pháp thì tương ưng với thắng năng, cho nên cũng là sinh nó có thắng năng. Nói Nhất thiết chủng tử thức là như trong đây có thí dụ như hạt lúa mì khi nảy mầm nó có năng lực làm hạt giống. Nếu để ra ngoài lâu, hoặc bị lửa nóng làm tổn thương khả năng sinh của hạt lúa thì cái quả của công năng đó cũng bị hủy diệt. Tướng của hạt lúa là gốc. Công lực bị hủy hoại nên không còn là hạt giống. Thức A-lê-da cũng vậy. Có công năng sinh tất cả pháp, do tương ưng với công năng đó nên gọi là Nhất thiết chủng tử thức.

Chương 7 : Làm nhân quả cho nhau

Luận nói : Lại nữa thức A-lê-da cùng các nhiễm pháp đồng thời làm nhân cho nhau, làm sao có thể thấy ? Ví như ngọn lửa đèn với tim đèn khi thắp làm nhân cho nhau vậy. Cũng như bó cây lau đồng thời giữ cha nhau mà đứng không ngã. Nên biết thức và các pháp cũng tương quan với nhau như vậy. Như thành lập thức A-lê-da là nhân của nhiễm pháp, thì nhiễm pháp cũng là nhân của thức A-lê-da. Các nhân duyên khác không được như vậy.

Giải thích : Lại nữa thức A-lê-da cùng các nhiễm pháp đồng thời làm nhân cho nhau, làm sao có thể thấy ? Dùng thí dụ để cho thấy. Như ngọn lửa đèn cháy từng một sát-na với tim đèn đồng thời làm nhân. Do dựa vào tim đèn mà sinh ngọn lửa, tức tim đèn là nhân của ngọn lửa đèn, nghĩa là từng sát-na ngọn lửa đốt tim đèn, tức ngọn lửa là nhân của tim đèn cháy. Đây tức hiển thị nghĩa của câu hữu nhân. Do nhân hiện trụ tức thấy quả sinh. Như thức A-lê-da là nhân của nhiễm pháp. Nhiễm pháp là nhân của thức A-lê-da cũng vậy. Cho đến các nhân duyên khác đều không thể được nghĩa là đây hiển thị thức A-lê-da với các nhiễm pháp là làm nhân cho nhau và cũng tức hiển thị nhân duyên.

Chương 8 : Nhân quả khác hay không khác

Luận nói : Vì sao huân tập là không khác , không nhiều thứ lại có thể làm nhân cho các pháp có khác có nhiểu thứ ? Ví như nhiều sợi kết thành áo. Khi ấy không thấy nhiều thứ khác nhau. Nếu cho vào thùng thuốc nhuộm thì sẽ có nhiều màu nhiều vẻ hiển hiện trên áo. Thức cũng vậy, vì các huân tập huân vào, khi huân không có các thứ khác nhau nhưng khi sinh quả thì tướng mạo các pháp hiện ra.

Giải thích : Vì sao huân tập không khác không có các thứ lại có thể làm tác nhân cho các thứ có khác nhau ? Đạo lý này được hiển thị bằng thí dụ. Như áo dùng nhiều thứ sợi đan thành, khi ấy không thấy có các thứ tướng mạo. Nếu cho vào nhuộm rồi thì có nhiều tướng mạo có thể trông thấy. Thức A-lê-da cũng vậy. Ví như áo sinh quả, như nhuộm nên gọi là sinh quả. Cho nên khi huân tập chưa có các thứ, đến khi sinh quả thì thành thể nhân của vô lượng tướng mạo. Các pháp hiển hiện như chiếc áo đã nhuộm.

Chương 9 : Duyên sinh

Luận nói : Duyên sinh này trong Đại thừa rất sâu xa vi tế. Lược nói có 2 thứ duyên sinh: Một là tự thể phần. Hai là ái phi ái phần. Trong đó do thức A-lê-da nên các pháp sinh khởi. Đây là tự thể phần duyên sinh, vì là duyên với các thứ tự thể phần. Lại có 12 chi duyên sinh là ái phi ái phần, vì là duyên với các thứ thân phần khả ái không khả ái của các nẻo thiện thú ác thú.

Giải thích : Nói đây là rất sâu xa vi tế trong Đại thừa, tức là trong trí phàm phu không thể biết nên là vi tế. A-la-hán v.v…không thể tư lường được nên là rất sâu. Trong này nói sơ lược có 2 thứ tức đây là lập môn tự thể phần và ái phi ái phần, lấy 2 thứ duyên sinh này gọi là giải thích. Nói do thức A-lê-da, nghĩa là thức A-lê-da là nhân cho nên các pháp được sinh. Đây gọi là tự thể phần. Nói cùng các loại thân phần làm nhân cho nên nếu nói vô minh v.v…đây là ái phi ái phần. Bởi vì sao ? Vì là nhân của các thứ thân phần ái phi ái.

Luận nói : Nếu trong thức A-lê-da mê đệ nhất duyên sinh, hoặc chấp tự tính là nhân, hoặc chấp việc làm đời trước là nhân, hoặc chấp trời Tự Tại thiên biến hóa là nhân , hoặc chấp ngã là nhân, hoặc chấp không nhân duyên. Lại nữa nếu mê đệ nhị duyên sinh chấp ngã tác giả thụ giả, ví như có nhiều người mù bẩm sinh chưa từng biết con voi là gì, có người đem voi đến cho chúng tiếp xúc. Có người sờ vòi, có người sờ ngà, có người sờ tai, có người sờ đuôi, có người sờ chân, có người sở lưng. Khi hỏi con voi hình dáng thế nào, người thì đáp như cái chuôi cày, người nói hư cái rổ, người nói như cái thùng gỗ, người nói như cây chổi, người nói như núi đá. Nói như vậy như vậy là không biết 2 thứ duyên sinh. Vô minh mù bẩm sinh hoặc chấp tự tính, hoặc nói đời trước làm, hoặc nói trời Tự Tại thiên biến hóa, hoặc nói cái ngã làm, hoặc nói không có nhân, hoặc chấp tác giả, hoặc chấp thụ giả, do không biết thể tướng và nhân tướng quả tướng của thức A-lê-da, như không biết thể của con voi. Nếu lược nói thức A-lê-da tức Quả báo thức, Nhất thiết chủng tử thức là thể tướng của nó, do nhiếp trì tất cả thân, tất cả nẻo thú trong 3 cõi.

Giải thích : Hoặc nói nhân làm đời trước, là do không chấp nhận sức công phu hiện tại làm nhân, cho nên dùng đám người mù bẩm sinh làm thí dụ để hiển thị. Nói vô minh mù bẩm sinh, tức là cái vô minh đầu tiên trong 12 chi duyên sinh. Do vô minh nên gọi là mù bẩm sinh. Không hiểu thể tướng, nhân tướng, quả tướng của thức A-lê-da, là như trước đã lập thể tướng của thức A-lê-da, gọi là thể tướng, lập nhân tướng gọi là nhân tướng, lập quả tướng gọi là quả tướng. Không hiểu ở đây là do sức vô minh không hiểu tự thể phần của thức A-lê-da cho nên chấp tự tính v.v…5 nhân làm nhân của các pháp do không hiểu đệ nhị ái phi ái phần. Chấp ngã là tác giả thụ giả, tức là ở trong nhân là tất cả pháp huân tập vì có trong thức A-lê-da. Quả tức là các pháp sở huân. Quả báo thức, Nhất thiết chủng tử là thể tướng của nó, do được thân thành thục nên gọi là quả báo. Nói Nhất thiết chủng tử, tức là huân tập rồi gọi là chủng tử . Nói tất cả các thú tức là ngũ thú. Nhất thiết thân là nói các thân đồng loại hoặc không đồng loại ở trong các thú. Đã nói thức A-lê-da là chủng tử của tất cả pháp. Để làm rõ thể của chủng tử kia nên dùng kệ hiển thị.

Luận nói : Ở đây có kệ như sau :

Ngoại nội bất minh hai,

Thế số đệ nhất nghĩa.

Nhất thiết chủng tử này,

Phải biết có sáu thứ.

Sát-na và câu hữu,

Với kia theo nhau chuyển.

Quyết định và đợi duyên,

Cũng dẫn sinh tự quả.

Kiên, vô ký, khả huân,

Cùng năng huân hợp nhau.

Khác đây không thể huân,

Đó là tướng huân tập.

Sáu thức không hợp nhau,

Ba sai biệt mâu thuẫn.

Hai niệm không câu hữu,

Các đời ví như vậy.

Đây chủng tử ngoài trong,

Có sinh và có dẫn.

Khô chết do dẫn nhân,

Tự thể sau diệt hết.

Giải thích : Chủng tử ngoài, trong 2 thứ không rõ ràng v.v.. được hiển thị bằng 5 bài kệ. Trong đây nói ngoài là hạt thóc v.v…, trong là thức A-lê-da. Bất minh là chủng tử ngoài có nghĩa không rõ ràng. Hai, tức là nói thức A-lê-da có thiện có bất thiện. Lại có nghĩa khác, tức lấy nhiễm ô, thanh tịnh là hai. Thế số, là ngoại pháp chỉ lấy thế số nói là chủng tử. Bởi vì sao ? Vì cũng lấy thức A-lê-da có biến khác. Nói đệ nhất nghĩa, tức là chỉ thức A-lê-da là chủng tử các pháp kia. Chủng tử các pháp này có 6 thứ. Sát-na , tức là 2 chủng tử này sinh diệt không gián đoạn, cho nên nếu thường thì không được là chủng tử, là vì luôn luôn vẫn như cũ không khác. Câu hữu, tức là không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải nơi khác. Nếu lúc này chủng tử có, tức lúc này quả sinh. Nói “với kia theo nhau chuyển”, tức là thức A-lê-da tùy chuyển cho đến đối trị đạo sinh ngoại chủng tử, cho đến căn chưa hoại và quả thành thục. Quyết định, tức là lấy chủng tử quyết định cho nên chẳng phải tất cả. Tất cả được sinh đều tự quyết định. Nếu là chủng tử này thì lại sinh ra vật này. Nói đợi duyên, tức là không phải lúc nào, vật gì cũng sinh, cho nên ở đâu, lúc nào được sinh duyên thì nơi đó, lúc đó sinh. Nói cũng dẫn sinh quả, tức là tự chủng tử có thể dẫn sinh tự quả. Tự chủng tử có thể dẫn sinh tự quả cho nên như thức A-lê-da trở llại dẫn sinh thức A-lê-da. Lúa thóc dẫn sinh ra lúa thóc. Như vậy 6 thứ hiển thị nghĩa chủng tử sinh quả.

Nay sẽ hiển thị tướng huân tập này. Kiên, là do kiên cố chắc chắn nên có thể huân. Không phải như gió động, gió không thể có huân tập được. Do huân tập không thể theo gió chuyển đến một do-tuần. Cho nên nếu hoa Chiêm-ba-ca xong ướp dầu, mùi hương của nó có thể nghe đến ngoài một trăm do-tuần. Nói vô ký, nghĩa là không ghi nhận. Như tỏi không thể đem mùi hôi xông ướp. Mùi thơm cũng vậy, không thể lấy gì xông ướp cho mùi thơm. Nếu là vật vô ký thì có thể xông ướp. Có thể huân, nghĩa là vật có thể xông ướp thì nó chịu xông ướp chứ không phải không thể xông ướp được. Như vàng, bạc, đá v.v..đều là thứ không xông ướp được. Nếu có thể thâu giữ sự huân tập mới có thể được huân, nghĩa là như áo v.v…là vật được xông ướp. Nói hợp với năng huân, là nếu hợp nhau thì có thể huân được, chẳng phải như không hợp nhau. Hợp nhau nghĩa là cộng sinh không gián đoạn. Nếu khác thì không thể huân, tức là khác nghĩa là khác thức A-lê-da. Không phải đây thức khác có thể thụ huân, bởi vì lìa thức A-lê-da, các thức khác không thể huân. Do đó trong thức A-lê-da đầy đủ sát-na v.v… các nghĩa. Nghĩa là sát-na diệt nên câu hữu với sinh khởi thức, cho nên cho đến đối trị đạo sinh có sinh tử thì theo nhau chuyển do nhân quyết định thiện ác v.v…nên phúc hay phi phúc, hữu lậu thiện đợi duyên nơi thiện ác thú thành thục. Bởi thức A-lê-da tương ưng với các công năng như vậy nên được thụ huân, cần phải thành lập các sinh khởi thức không hợp đạo lý. Sáu thức không hợp nhau là các thức động chuyển. Ba sai biệt mâu thuẫn là mỗi mỗi thức mỗi mỗi y chỉ sinh, mỗi mỗi phan duyên, mỗi mỗi tác ý. Lại có nghĩa khác, nghĩa là các thức có tướng riêng khác. Thí dụ là nói niệm trước được huân niệm sau là để ngăn nghĩa này.

Luận nói : Hai sát-na không cùng nhau, không có nghĩa 2 sát-na cùng khởi. Nếu đồng sinh đồng diệt huân tập mới được trụ. Nếu nói tuy không hợp nhau, nhưng thức được sinh giống loại mà sinh cho nên được huân nhau. Các đời khác ví du cũng như vậy. Nghĩa là các biệt tướng cũng phải như vậy. Như nhãn v.v… các căn đồng lấy tịnh sắc làm tướng, nên được huân nhau, nên nói như thế. Bởi nhãn căn tịnh sắc với nhx tịnh sắc đồng loại cho nên các tịnh sắc kia phải huân lẫn nhau, tuy tịnh sắc là cùng đồng xứ sở. Riêng biệt không nói huân nhau là thức tuy đồng loại làm sao huân nhau được ? Như kia có nói 2 loại chủng tử là ngoại và nội đều có sinh nhân và dẫn nhân. Trong đó sinh nhân của ngoại chủng tử là cho đến quả thục. Sinh nhân của nội chủng tử là cho đến mạng chung. Dẫn nhân của ngoại chủng tử là đã thục chưa gieo. Dẫn nhân của nội chủng tử là thi hài sau khi chết. Do dẫn nhân cho nên trụ nhiều thời gian. Nếu 2 chủng tử này chỉ có sinh nhân thì đã lìa nhân kia tức phải diệt mất, không thể tương tục trụ nhiều thời gian. Nếu nói sát-na chuyển dần dần nên sát-na trước là nhân sát-na sau thì không có lúc diệt. Bởi có diệt cho nên phải biết chắc chắn có dẫn nhân. Dẫn nhân của 2 chủng tử này ví như kéo cung là nhân cho mũi tên bay đi xa.

Luận nói : Nội chủng tử này không phải ngoại chủng tử, nên nói kệ như sau :

Ngoại chủng không huân tập,

Nội chủng thì không vậy.

Văn v.v…không huân tập,

Quả sinh phi đạo lý.

Đã làm và chưa làm,

Được mất lỗi trái nhau.

Ngoại chủng nội là duyên,

Bởi nội huân nên sinh.

Lại nữa các sinh khởi thức khác ở trong các thân và các thú, nên biết nó là kẻ thụ dụng.Giải thích : Nói “trong các thân và các thúnó là kẻ thụ dụng” nghĩa là nó vì thụ dụng mà sinh trong đó nên có thụ dụng. Nói “kẻ thụ dụng” nghĩa này được hiển thị trong Trung Biên Sai Biệt A-hàm.

Luận nói : Như trong Luận Trung Biên Sai Biệt nói :

Đệ nhất là duyên thức,

Đệ nhị thụ dụng thức.

Các tâm pháp trợ giúp,

Hiểu biết thụ dụng này.

Giải thích : Hai thức này lại làm nhân quả cho nhau. A-hàm là nói bài kệ trong A-tì-đạt-ma Tu-đa-la.

Giải thích : Mỗi mỗi làm nhân cho nhau là thức A-lê-da trong mọi lúc nó là nhân sinh các pháp, và cũng hằng là quả. Nếu thức A-lê-da là nhân thì các pháp là quả, các pháp là nhân thì thức A-lê-da là quả.

Chương 10 : Bốn duyên

Luận nói : Trong đệ nhất duyên sinh, các pháp và thức làm nhân duyên cho nhau. Trong đệ nhị duyên sinh duyên gì là duyên tăng thượng ? Lại nữa 6 thức này do mấy duyên sinh ra ? Đó là 3 thứ duyên sinh : tăng thượng duyên, duyên duyên, thứ đệ duyên. Và có đủ 4 duyên là cùng sinh tử, ái, phi ái, thú thụ dụng.

Giải thích : Ba duyên sinh này đều có đủ 4 duyên là cùng sinh tử, ái, phi ái và thụ dụng. Nghĩa là trong đệ nhất duyên sinh, thức A-lê-da cùng các pháp huân tập làm nhân duyên. Trong đệ nhị duyên sinh, vô minh v.v…là tăng thượng duyên. Do vô minh tăng thượng cho nên hành v.v… được sinh. Lại nữa 6 thứ thức gọi là thụ dụng duyên sinh là có đủ 3 duyên sinh. Trong đó tăng thượng duyên của nhãn thức là nhãn, duyên duyên là sắc, thứ đệ duyên là thức trước diệt duyên lần tượt sinh thức sau. Nếu thức trước không rời bỏ chỗ thì thức sau không sinh được. Nhĩ v.v… các hức khác cũng vậy.

Chương 11 : Phiền não nhiễm

Luận nói : Như vậy là đã nói về sự thành lập các biệt danh và tướng của thức A-lê-da. Nhưng làm sao biết các tên gọi và tướng này là chỉ nói riêng cho thức A-lê-da mà không mà không nói cho các sinh khởi thức ? Vì nếu chẳng phải thức A-lê-da được thành lập thì nhiễm tịnh đều bất thành. Tức phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm, sinh tạp nhiễm đều bất thành, và tịnh phẩm thế gian xuất thế gian cũng bất thành.

Vì sao phiền não tạp nhiễm bất thành ? Vì phiền não và tùy phiền não huân tập chủng tử trong 6 thức thân đều bất thành. Như nhãn thức với dục v.v…các phiền não tùy phiền não cùng sinh cùng diệt, tức nhãn thức này bị phiền não huân tập thành chủng tử chứ chẳng phải cái nào khác. Tức như khi nhãn thức diệt rồi, thức khác xen vào sinh huân tập và chỗ huân tập y chỉ đều không thể được, vì không có cho nên nhãn thức diệt trước thức khác xen vào sinh không có nghĩa cùng sinh với dục bởi đã là quá khứ rồi nên không thành. Như nghiệp đã diệt rồi, quả báo không sinh được. Lại như cùng sinh với dục thì sự huân tập nhãn thức cũng không thành vì sự huân tập này cũng không có trong dục, do các thức đều có chỗ y chỉ riêng biệt. Lại nữa không đồng sinh diệt nên cũng không tự tại trong thể, vì tự thể không có 2 thức cùng sinh diệt. Cho nên dục v.v…các phiền não, tùy phiền não huân tập nhãn thức không được. Thức huân tập thức cũng không được. Như nhãn thức, các chuyển thức khác cũng không được. Phải biết tướng của chúng là như vậy.

Giải thích : Như vậy là đã nói các tên và sự thành lập tướng của thức A-lê-da. Nay muốn thành lập 2 cái này. Vì ở trong thức A-lê-da chứ không phải thức khác, nên dùng đạo lý hiển thị. Như nhãn thức với các phiền não như dục v.v… cùng sinh cùng diệt thì đây nhãn thức bị kia huân tập thành chủng tử chứ không phải cái nào khác. Trong luận này nói đây là chỉ nhãn thức, kia là chỉ cho tham v.v… thành chủng tử là nhân. Nói không phải cái nào khác nghĩa là không phải nhĩ thức v.v… Thức khác xen vào nghĩa là nhĩ thức v.v…xen cách v.v… Huân tập là các tham v.v…tập khí. Huân tập y chỉ là nhãn thức cùng sinh với tham, nghĩa là cùng với tham đồng thời sinh khởi. Vì là quá khứ nên không làm nhân được. N hư nghiệp đã tàn tạ diệt rồi, không sinh quả báo lại được nữa. Đây cũng vậy không thể thành được.

Lại có các sư Tì-bà-sa chấp như thế này : Nếu cho quá khứ là có, nhưng cái quá khứ ấy chỉ là cái tên không có nghĩa. Bởi vì sao ? Nếu pháp là có thì sao lại là quá khứ. Cho nên cái chấp kia không thành bởi không huân tập. Lại nữa nhãn thức kia nếu cùng sinh với dục thì không thành huân tập. Nghĩa là đây cùng sinh với dục. Nhãn thức tự huân tập còn không thể được lại đem nhãn thức này huân tập sinh dục v.v… làm sao thành được ? Nói “ cũng không có trong dục” nghĩa là nhãn thức huân tập ở trong dục là không có nghĩa. Bởi vì sao ? Vì dục y chỉ nơi nhãn thức, lại không trụ vững, cũng không có trong các thức khác. Nghĩa là nhĩ thức v.v…do chỗ y chỉ khác nhau cho nên chính vì y chỉ khác nhau thì không thể đồng sinh diệt. Nhãn thức y vào nhãn, nhĩ thức y vào nhĩ. Như vậy cho đến ý thức y chỉ vào ý, mỗi mỗi đều có nơi riêng biệt. Thức khác huân tập thức khác không được. Nói “cũng không có trong tự thể” nghĩa là nhãn thức không thể huân tập nhãn thức vì không có 2 nhãn thức cùng sinh. Đã không có 2 thức đồng sinh thì cũng không đồng diệt. Vì lẽ đó trong nhãn thức, các phiền não tùy phiền não như dục v.v…huân tập bất thành. Cho đến nhãn thức huân tập nhãn thức cũng không được.

Luận nói : Lại nữa như từ trời Vô tưởng thoái đọa sinh xuống đây, phiền não tùy phiền não nhiếm cái thức đầu tiên, khi sinh không có chủng tử mà sinh bởi vì huân tập và chỗ y chỉ đã thành quá khứ không còn nữa.

Giải thích : Nói đầu tiên là trước tiên khi khởi thức. Nói không chủng tử mà sinh, nghĩa là không có nhân mà sinh. Huân tập và y chỉ, nghĩa là tâm và phiền não tập khí.

Luận nói : Lại nữa khi thức đối trị phiền não sinh, thì tất cả thức thế gian đều diệt. Nếu không có thức A-lê-da thì chủng tử phiền não tùy phiền não không thành tự thể trong thức đối trị, không giải thoát được, không cùng phiền não đồng sinh đồng diệt. Nếu sau đó cái thức thế gian sinh, lìa dục tâm không có y chỉ kia và tập khí diệt đã lâu, nếu lìa thức A-lê-da thì phải sinh mà không có chủng tử. Cho nên lìa thức A-lê-da phiền não tùy phiền não đều bất thành.

Giải thích : Nói “Khi thức đối trị sinh, tất cả thức thế gian đều diệt” nghĩa là 6 thức đều diệt, cho nên chủng tử phiền não tùy phiền não cũng không ở trong thức đối trị, vì thức đối trị là nhân, không sinh thức thế gian được. Nói “sau đó” tức sau tâm xuất thế. Nói “y chỉ và huân tập” tức y chỉ là thức, huân tập là phiền não tùy phiền não huân tập v.v… Nói “không chủng tử” nghĩa là lìa A-lê-da không nhân mà sinh. Trong đó phiền não tức là nhiễm ô. Vì nghĩa đó phiền não nhiễm không thành.

Chương 12 : Nghiệp nhiễm

Luận nói : Vì sao nghiệp nhiễm bất thành ? Hành duyên thức bất thành vì đây không có, thủ duyên hữu cũng bất thành.

Giải thích : Nay lại làm rõ tướng nghiệp nhiễm bất thành. Vì sao bất thành ? Vì hành duyên thức bất thành. Cho nên phúc, phi phúc, bất động hành sinh đã diệt, lìa thức A-lê-da thì đặt vào đâu mà huân tập ? Sáu thức thân không thể nhiếp trì huân tập. Nghĩa này đã nói trong phần nói về phiền não nhiễm. Nói “ vì đây không có”, nghĩa là hành duyên thức bất thành, nên thủ duyên hữu cũng bất thành. Bởi vì sao ? Vì có nhân duyên. Các hành huân thức do sức của thủ. Huân tập đầy đủ biến thành hữu, cho nên tên nhiễm ở trong nghiệp tức là nghiệp nhiễm. Lại do nghiệp nên có nhiễm gọi là nghiệp nhiễm. Do đó nghiệp nhiễm bất thành.

Chương 13 : Sinh nhiễm

Luận nói : Vì sao sinh nhiễm bất thành ? Vì kết sinh bất thành. Nếu đọa ở bất tĩnh địa, trụ trung hữu, do nhiễm ô ý kết sinh. Ý thức nhiễm ô này diệt ở trung hữu, trong thai mẹ nó hòa hợp với Ca-la-la. Nếu chỉ là ý thức hòa hợp thụ sinh thì hòa hợp sinh rồi y chỉ thức này. Ở trong thai mẹ ý thức chuyển sinh, tức là ở trong thai mẹ 2 ý thức cùng sinh một nơi, ý thức thụ sinh hòa hợp kia không thể thành lập vì ý thức luôn luôn y chỉ nhiễm ô, như ý thức duyên cảnh, đây là không thể được. Giả thiết ý thức này cùng với đỏ trắng hòa hợp, tức là ý thức hòa hợp này là tất cả chủng tử, là y chỉ thức này sinh các thức khác là tất cả chủng tử. Nếu thức hòa hợp kia là tất cả chủng tử thì đó tức là thức A-lê-da. Ông tự đặt tên riêng là ý thức. Nếu lấy y chỉ sinh thức là tất cả chủng tử mà không lấy sở y thể của nhân kia là tất cả chủng tử là không đúng. Do nghĩa ấy cho nên cái được thành tựu thức hòa hợp này không phải ý thức, chính là quả báo thức, là tất cả chủng tử.

Giải thích : Lìa thức A-lê-da thì không thành việc sinh nhiễm ô. Nay sẽ làm rõ nghĩa này. Nói “kết sinh bất thành” nghĩa là không thành tự thân được. Bất tĩnh địa là cõi Dục. Nói “đọa” tức là chết. Nhiễm ô ý thức là ý thức cùng với các phiền não. Thụ sinh là thụ lấy tự thân. Nhiễm ô ý thức kia phan duyên sinh hữu, nên trung hữu liền diệt. Hòa hợp là một tướng đồng thành hoại, nên nói ý thức với đỏ trắng hòa hợp. Y chỉ ý thức hòa hợp sinh các ý thức khác. Nói “ hai thức cùng có”, nghĩa là cùng lúc có ý thức hòa hợp và dựa nơi đây sinh ý thức khác. Hai thức cùng có cho nên cái ý thức hòa hợp kia không thể thành lập là ý thức. Bởi vì sao ? Mọi lúc nhiễm ô là y chỉ cho nên ý thức hòa hợp kia lấy dục v.v…các phiền não nhiễm ô ý làm y chỉ, phan duyên sinh hữu là nhiễm ô nên y chỉ nơi đây gọi là nhiễm ô. Vì y chỉ đây thức đã trụ thai không lấy nhiễm ô làm y chỉ mà lấy báo thể vô ký. Cho nên như ý thức phan duyên đây là không thể được. Ý thức phan duyên thì được gọi là các pháp. Cái hòa hợp thức này không có phan duyên cho nên không thành. Đây là ý thức.

Luận nói : Lại nữa kết sinh là đã nhiếp trì sắc căn. Nếu khác, không được nghĩa quả báo thức. Ngoài ra các thức khác đều có y chỉ riêng biệt, lại không trụ vững, mà các sắc căn không có thức thì không thành.

Giải thích : Nói “đã kết sinh” nghĩa là đã được có thân. Nói “Nếu khác “ nghĩa là đã bỏ thức A-lê-da. Sáu thức khác đều có chỗ riêng biệt, động chuyển, cho nên như nhãn thức chỉ định y chỉ nơi nhãn, cũng như vậy nhĩ v.v…các thức đều tự y chỉ. Nhĩ v.v… các sắc căn cũng vậy. Nếu không có thức A-lê-da, các thức này mỗi mỗi tự nhiếp trì y chỉ căn. Các thức này động chuyển cho nên có khi không có, không nhiếp trì thì nhãn v.v…các căn liền hư hoại.

Luận nói : Thức và danh sắc dựa vào nhau như bó lau dựa vào nhau mà đứng. Nghĩa này cũng không thành.

Giải thích : Nay muốn làm rõ nghĩa vì sao bất thành này. Như Thế Tôn nói : Thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức. Trong đó thức bị danh duyên, danh đây là 6 thức thân, tức nói danh chẳng phải là sắc 4 nhóm. Sắc là Ca-la-la. Cái danh sắc duyên thức nếu không có thức A-lê-da thì đó là cái gì ? Do y chỉ danh sắc cho nên được sát-na tương tục chuyển sinh không dứt.

Luận nói : Nếu lìa quả báo thức thì chúng sinh thức thực bất thành. Vì lìa quả báo thức , tùy theo một thức trong 6 thức chúng sinh trong 3 cõi không thể ăn để nuôi dưỡng.

Giải thích : Đây là nói về nghĩa thức thực không thành. Thế Tôn nói có 4 cách ăn : một là đoàn, hai là xúc, ba là ý tư, bốn là thức. Đoàn có nghĩa là tướng biến thành, khi đã biến đổi thì có thể duy trì thân thể. Xúc là tướng cảnh giới. Như cảnh giới sắc v.v…là chỉ để thấy nhưng cũng có thể làm lợi ích cho thân. Ý tư là tướng của ức niệm, nghĩa là chỉ nghĩ nhớ cũng làm lợi ích cho thân. Như người khát thấy được nước tuy chưa uống nhưng không chết. Thức là tướng của nhiếp trì, nghĩa là do thức này duy trì gìn giữ nên thân được tồn tại. Nếu không có thức này thì như thây chết hôi thối. Cho nên phải biết rằng thức cũng gọi là thực, nghĩa là ăn, là làm lợi ích cho thân thể. Trong đây xúc thực thuộc 6 thức của thân. Ý tư thuộc tâm nghĩ nhớ. Đã nói thức thực thì biết là có thức khác. Lại như khi ngủ say, vô tâm, ngất xỉu, trong diệt định v.v… 6 thức của thân diệt, thì cái gì là cái duy trì cho thân không hư rã ? Khi thức A-lê-da rời bỏ thì thân sẽ hư rã.

Luận nói : Nếu từ cõi Dục này chết sinh lên cõi thượng tĩnh địa, vì ý thức nhiễm ô của cõi bất tĩnh kết sinh nơi kia, cái tâm nhiễm ô của cói bất tĩnh này, ở trong cõi kia nếu lìa thức A-lê-da thì không có chủng tử được.Giải thích : Trước đã nói kết sinh bất tính địa bất thành. Nay sẽ nói về tĩnh địa bất thành. Vì đem cái thức nhiễm ô kết sinh nơi kia, nếu ở tĩnh địa cũng dùng cái nhiễm ô của bất tĩnh kết sinh. Nhiễm ô là vì bị phiền não cõi kia nhiễm. Phiền não cõi kia là đắm trước mùi vị của định. Cái nhiễm ô này là ở bất tĩnh địa. Người này chết ở bất tĩnh địa. Đã chết rồi làm sao cái tâm thượng địa hiện tiền ? Đã không hiện tiền làm sao kết sinh nơi kia được ? Vì vậy nên quyết chắc phải có thức A-lê-da, do đã có tâm huân tập cõi kia từ vô thủy. Do cái tâm huân tập này hiện tiền nên được kết sinh nơi kia.

Luận nói : Giả sử sinh cõi Vô sắc, có tâm thiện và nhiễm ô, nếu lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức thì tâm thiện và nhiễm ô này sẽ không có chủng tử và không có chỗ trụ.

Giải thích : sinh cõi Vô sắc là giải thoát khỏi cõi Sắc. Tâm thiện và nhiễm ô là ưa thích mùi vị của Tam-ma-đề. Nói không chủng tử và không có chỗ trụ là không có nhân và không nơi y chỉ. Lại có nghĩa khác là nếu không chủng tử thì nhân nào mà sinh, nếu không chỗ trụ thì y chỉ vào đâu ? Tâm kia là do thức A-lê-da nhiếp trì nên từ tự chủng tử sinh, tức y chỉ thức này, do có y chỉ nên được tương tục trụ.

Luận nói : Ngay ở nói cõi kia, tâm xuất thế hiện tiền thì bao nhiêu tâm thế gian diệt hết, liền diệt lìa cõi kia.

Giải thích : Ngay trong cói kia nếu tâm xuất thế hiện tiền, chỉ trừ tâm xuất thế này, ngoài ra đều là tâm thế gian. Các tâm thế gian kia đều không có nên lìa cắt đứt cõi kia, tức không phải dụng công mà được vô dư Niết-bàn. Đã không có lý này, nên lìa thức A-lê-da là bất thành.

Luận nói : Nếu sinh trong cõi Phi tưởng phi phi tưởng, y vô sở hữu xứ, tâm xuất thế gian hiện tiền thì liền lìa bỏ 2 nẻo thú. Cái thức xuất thế này không y chỉ nơi Phi tưởng phi phi tưởng, cũng không y chỉ nơi vô sở hữu xứ, và y chỉ Niết-bàn cũng bất thành.

Giải thích : Nếu sinh ở Phi tưởng phi phi tưởng, có khi dựa vào vô sở hữu xứ, tâm xuất thế hiện tiền, do nơi ấy tâm sáng suốt nhạy bén, tâm nơi Phi tưởng phi phi tưởng chậm lụt. Ở tâm sáng suốt nhạy bén tu tâm xuất thế hiện tiền, tâm xuất thế y chỉ kia, nẻo thú thứ nhất và nẻo thú thứ hai đều bất thành, bởi 2 địa vị này đều là thế gian. Lại nữa nếu sinh vào địa vị khác, tâm của địa vị khác hiện tiền, sự y chỉ vào 2 nẻo thú cũng bất thành, vì do thân hữu dư. Nếu tâm này lấy Niết-bàn làm y chỉ cũng bất thành. Ba thứ y chỉ đã bất thành như thế, nếu lìa thức A-lê-da thì tâm xuất thế trụ ở đâu ?

Luận nói : Nếu người tạo thiện tạo ác khi chết nếu lìa thức A-lê-da thì sẽ không xảy ra trên thân lạnh lần lượt từ trên hay từ dưới. Cho nên nếu lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức sinh nhiễm ô cũng bất thành.

Giải thích : Trong đó nếu tạo thiện hay tạo ác thì sẽ xảy ra thân lạnh từ trên hay từ dưới không đồng nhau. Bởi tạo thiện thì đi lên, tạo ác thì đi xuống. Cho nên nếu không chấp nhận có thức A-lê-da như là kẻ nhiếp trì, làm sao có hiện tượng thân lạnh như vậy ? Do thức A-lê-da làm kẻ gìn giữ cho nên có sự buông bỏ lần lượt từ trên hoặc từ dưới. Tùy chỗ buông bỏ thì thành tử thi và thân trở nên lạnh.

***

Phải biết y chỉ thắng tướng thắng ngữ 1 – 3

Chương 14 : Thế gian tịnh

Luận nói : Vì sao nói thế gian thanh tịnh bất thành ? Như chưa lìa bỏ cái dục của cõi Dục, chưa được cái tâm của cõi Sắc, tức đem cái thiện tâm của cõi Dục tu hành trừ cái dục của cõi Dục. Cái tâm tu hành của cõi Dục này với cái tâm của cõi Sắc không cùng sinh cùng diệt nên không huân tập không thành chủng tử. Quá khứ không có tâm cõi Sắc, trong vô lượng kiếp bao nhiêu tâm xen cách nên chủng tử tĩnh tâm kia không thành tựu. Đã không có cho nên thành tựu cái tĩnh tâm cõi Sắc kia là do Nhất thiết chủng tử quả báo thức tuần tự truyền đến làm nhân duyên, tu hành thiện tâm là tăng thượng duyên. Như thế tất cả địa vị lìa Dục đều có tương trạng như vậy. Như vậy thanh tịnh thế gian mà lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức cũng bất thành.

Giải thích : Như thế gian tịnh bất thành, nay sẽ nói rõ. Như khi khởi tu hành lìa dâm dục, tu hành thiện tâm cõi Dục không có huân tập tâm cõi Sắc vì không đồng sinh đồng diệt, cho nên tâm cõi Sắc kia là không chủng tử mà sinh bởi quá khứ tâm cõi Sắc trong vô lượng kiếp các thức khác xen cách, đã là quá khứ không có nên bất thành, chủng tử tĩnh tâm kia làm nhân duyên, từ tự chủng tử trong thức A-lê-da sinh nên phương tiện thiện tâm kia chẳng phải không công lực. Được làm tăng thượng duyên tức là có công lực nhưng chẳng phải nhân duyên. Do tăng thượng nên tâm cõi Sắc được sinh. Như vậy khi phá dục cõi Sắc cũng vậy.

Chương 15 : Xuất thế gian tịnh

Luận nói : Vì sao nói xuất thế gian thanh tịnh bất thành ? Như Thế Tôn nói : Nghe âm thanh từ người khác và tư duy đúng đắn, do 2 nhân này được sinh chính kiến. Cái âm thanh và chính tư duy này huân tập vào nhĩ thức hay huân tập vào ý thức hay huân tập cả hai nhĩ thức và ý thức ? Trong pháp kia khi khởi chính tư duy thì nhĩ thức không sinh. Ý thức cũng bị các thức khác phan duyên xen cách. Nếu khi sinh tâm tương ưng chính tư duy, ý thức kia đã diệt lâu và trở thành quá khứ không con có cái năng huân tập sở huân tập của cái nghe nữa thì được chủng tử ở đâu ? Thời gian sau cái tâm tương ưng sinh chính tư duy và cái tương ưng chính tư duy là tâm thế gian với cái tương ưng chính kiến là tâm xuất thế gian không có nghĩa cùng sinh cùng diệt cho nên không bị kia huân tập. Đã không bị huân tập thì không thành chủng tử. Vì vậy sự thanh tịnh xuất thế gian mà lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức cũng bất thành, vì trong đó sự nhiếp trì chủng tử nghe bất thành.

Giải thích : Nay sẽ làm rõ nghĩa xuất thế gian tịnh bất thành. Nói âm thanh từ người khác và chính tư duy nghĩa là chính cùng với thanh tư duy, ý thức này bị các thức khác phan duyên làm xen cách nghĩa là cùng chính kiến tương ưng tâm xuất thế cách tuyệt, cho nên nếu tâm tương ưng chính tư duy sinh nghĩa là cái chính tư duy của thời gian sau. Nói kia diệt thành quá khứ đã lâu, nghĩa là ý thức trước đã tạ diệt trải vô lượng thời gian, cái văn sở huân và huân tập đều không có, làm sao được làm nhân sinh tương ưng chính tư duy ? Nói trong ý thức kia, nghĩa là trong ý thức thế gian. Văn huân tập là do nghe âm thanh người khác huân tập trong ý thức. Nếu nghĩ như vậy thì sự nhiếp trì chủng tử kia bất thành. Nghĩa là sự nhiếp trì chủng tử xuất thế tịnh bất thành, cho nên nếu có chủng tử sinh mới có nghĩa.

Luận nói : Lại nữa Nhất thiết chủng tử quả báo thức đã là nhân nhiễm pháp, làm sao lại thành chủng tử của tâm xuất thế đối trị lại kia ? Lại nữa cái tâm xuất thế này xưa chưa từng có, nên không huân tập. Đã không huân tập thì do đâu sinh chủng tử ? Ông nên trả lời rằng : Thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất cái nghe, huân tập làm sinh chủng tử.

Giải thích : Cái quả báo thức này đã là cái thể chướng ngại nhân, tức không thành cái thể của nhân đối trị. Lại nữa cái tâm xuất thế này ban đầu chưa từng có, nghĩa là từ xưa nay chưa sinh. Không huân tập là do xưa nay chưa sinh cái tâm xuất thế kia, huân tập nhất định chưa có. Nói “thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất văn huân tập làm chủng tử được sinh” là nghe một thứ âm thanh khác cho nên nói nghe từ thiện thanh tịnh pháp giới lưu xuất huân tập. Do thiện thanh tịnh pháp giới diệt trí chướng phiền não chướng cho nên gọi là thiện thanh tịnh pháp giới. Nói “lưu xuất ra” tức là thuyết pháp, nghĩa là Tu-đa-la v.v…ở nơi pháp giới này lưu xuất ra Tu-đa-la. Nghe được, cho nên nói là “nghe từ pháp giới lưu xuất ra”. Tức là cái văn huân tập này, cho nên nói là “cái văn huân tập được lưu xuất từ pháp giới”. Lại nữa văn tức là huân tập, cho nên nói là văn huân tập. Cái văn huân tập kia trụ trong thức A-lê-da làm nhân sinh khởi tâm xuất thế.

Luận nói : Cái văn huân tập này là tự tính của thức A-lê-da hay chẳng phải ? Nếu là tự tính của thức A-lê-da thì sao được thành chủng tử đối trị ? Nếu chẳng phải tự tính của thức ấy thì làm sao thấy được y chỉ của chủng tử văn huân tập ? Cho đến địa vị Phật Bồ-đề cái văn huân tập này ở nơi nào trong thân ? Nó cùng với quả báo thức đồng tướng mà sinh, như nước với sữa nhưng không phải là thức A-lê-da để thành chủng tử đối trị lại A-lê-da.

Giải thích : Nói cái văn huân tập là tự tính hay không phải tự tính của thức A-lê-da ? Giả sử là như vậy thì có lỗi gì ? Nếu là tự tính của thức A-lê-da thì sao thức A-lê-da lại tự trở thành chủng tử đối trị. Nếu chẳng phải tự tính của thức ấy thì cái văn huân tập này phải có chỗ y chỉ khác. Cho đến quả vị Phật Bồ-đề, văn huân tập tức là sức huân tập lưu xuất từ thiện thanh tịnh pháp giới, cho nên tùy ở tại trong thân, tùy thân nào đồng thể thì sinh, nhưng không phải tự tính của nó. Như nước với sữa tuy đồng một thể sinh, nhưng văn huân tập này chẳng phải thức A-lê-da, bởi vì nó đối trị thức A-lê-da.

Luận nói : Trong đây y hạ huân tập thành trung huân tập, y trung huân tập thành thượng huân tập, do văn tư tu huân tập nhiều lần.

Giải thích : Nói hạ trung thượng trong đây là vì văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ mỗi mỗi đều có 3 bậc. Lại có nghĩa khác là văn tuệ là hạ, tư tuệ là trung, tu tuệ là thượng. Nói văn tư tu huân tập nhiều lần là nơi văn v.v…tăng thượng tu hành, lấy hạ phẩm làm nhân được trung phẩm, trung phẩm làm nhân được thượng phẩm.

Luận nói : Chủng tử văn huân tập kia tùy hạ trung thượng đều là chủng tử của pháp thân. Vì là đối trị thức A-lê-da nên không thâu nhiếp trong thức A-lê-da. Vì được lưu xuất từ xuất thế thanh tịnh pháp giới, nên tuy ở thế gian mà là chủng tử của tâm xuất thế. Khi cái thể của tâm xuất thế chưa sinh, nhưng có khả năng hiện khởi đối trị phiền não, đối trị ác thú, đối trị tất cả ác nghiệp phá hoại, có thể tùy thuận được thân cận chư Phật Bồ-tát nên tuy là sở đắc của Bồ-tát mới tu hành ở thế gian đều nhiếp thuộc pháp thân, còn sở đắc của Thanh Văn Duyên Giác thì nhiếp thuộc giải thoát thân.

Giải thích : Đối trị hiện khởi phiền não, nghĩa là dục v.v… xuất sinh, vì nhân trừ diệt, nên do trừ diệt phiền não nên đối trị ác thú phải thụ hậu báo ác nghiệp đạo làm nhân phá hoại kia. Nói vắn tắt là quá khứ vị lai hiện tại đối trị tất cả ác nghiệp nên vào đời vị lai tự thân được thân cận thiện hữu . Nói mới tu hành nghĩa là nhiếp thuộc phàm phu pháp thân là thể của chủng tử pháp thân, nhiếp thuộc giải thoát thân là thể của nhân giải thoát của các Thanh Văn. Bởi vì sao ? Vì Thanh Văn chỉ được giải thoát thân, không được pháp thân.

Luận nói : Đây không phải thức A-lê-da, mà nhiếp thuộc pháp thân và giải thoát thân. Tùy theo hạ trung thượng mà tuần tự tăng dần. Cũng như vậy y chỉ của quả báo thức giảm dần, tức là chuyển y chỉ. Tất cả chuyển hết rồi thì chủng tử của Nhất thiết chủng tử quả báo thức này đều không, tức tất cả đều diệt. Lại nữa cái chẳng phải thức A-lê-da với thức A-lê-da sinh đồng chỗ như nước với sữa. Thế nào là tất cả đều diệt ? Như con ngỗng uống sữa trong nước. Lại như thế gian lìa dục thì huân tập của bất tĩnh địa diệt, huân tập tĩnh địa tăng, tức chuyển y chỉ.

Giải thích : Như thức A-lê-da voái cái chẳng phải thức A-lê-da đồng sinh một chỗ, nhưng thức A-lê-da hết, thức chẳng phải A-lê-da còn, như con ngỗng uống sữa trong nước, sữa hết nhưng nước còn. Lại như thế gian lìa dục, ở trong một thức A-lê-da huân tập phiền não bất tĩnh địa diệt, huân tập thiện pháp tĩnh địa đầy đủ, y chỉ được chuyển. Huân tập xuất thế cũng vậy.

Chương 16 : Thuận đạo lý

Luận nói : Như nói nhập Diệt tận định thức không lìa thân. Đây là nói quả báo thức không lìa thân. Bởi Diệt tận định không bị thức này đối trị nên sinh. Cũng không phải khi xuất định thức này sinh trở lại. Quả báo thức này đoạn dứt rồi không kết sinh khác thì không sinh trở lại.

Giải thích : Nói Diệt tận định thức không lìa thân, đây là thành tựu có thức A-lê-da. Do Thế Tôn nói thức không lìa thân là nếu lìa quả báo thức thì không thành các thức khác. Bởi vì sao ? Vì Diệt tận định đối trị sinh khởi thức, nên sinh thấy định này vắng lặng. Nếu lại chấp bảo rằng khi xuất định thức sinh trở lại, do ý này nên gọi là thức không lìa thân. Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao ? Vì khi xuất định rồi thức không sinh trở lại. Sự tiếp nối của quả báo thức đã đứt. Nếu khi lìa thì thác sinh mà không sinh trở lại.

Luận nói : Nếu người chấp vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm người ấy chấp là bất thành. Vì nghĩa không thành nghĩa của định, vì không thể có tướng của phan duyên, vì tương ưng với thiện căn là lỗi, vì không tương ưng với bất thiện và vô ký, vì tưởng và thụ cùng hiện hành là lỗi tức là có xúc, vì trong Tam-ma-đề có năng lực này, vì chỉ diệt tưởng là lỗi, vì tư duy tức cùng với tín v.v… các hiện căn đều khởi là lỗi, vì năng y không thể lìa sở y, vì có thứ dụ, vì không phải tất cả hành giả cũng không có.

Giải thích : Nếu có người chấp vì có ý thức nên nói Diệt tận định có tâm thì cái tâm người ấy chấp là bất thành. Vì nghĩa không thành nghĩa của định. Nếu muốn lìa bỏ như trước đã nói tự tướng của thức A-lê-da, ở trong sinh khởi thức tùy theo một thức trong Diệt tận định có cái tâm này thì nghĩa này không thành. Bởi vì sao ? Vì nghĩa của định không thành. Chưa từng thấy tâm lìa tâm pháp, như bao nhiêu tâm pháp chưa từng lìa tâm. Nếu tưởng thụ không diệt, không được gọi là diệt. Vậy thì định này không thành định. Nếu như còn có thức A-lê-da thì không có lỗi này, vì trụ trong vắng lặng. Các tâm tâm pháp đối trị oán kia nên diệt định sinh. Vì thức A-lê-da không phân minh, không đối trị thức này nên sinh. Vì vậy định này không được có các tâm. Bởi vì sao ? Vì tướng phan duyên là không thể được. Tâm và tâm pháp nếu tương tục không đứt ắt có tướng sở duyên. Diệt định nếu có tâm cũng phải không lìa tướng sở duyên. Cả hai trường hợp này đều không thể được, cho nên định này không có các tâm. Nếu lập có thức A-lê-da thì không có lỗi này. Thức này do nhiếp trì thân mà được tên. Lại nữa nếu trong Diệt định có các thức sinh, các thức ắt có các phần thiện v.v… nghĩa là thiện, bất thiện, vô ký. Tâm này không được là thiện. Nếu thiện thì phải tương ưng với thiện căn, như vậy là mâu thuẫn. Cũng chẳng phải tự tính của thức là thiện vì lìa thiện căn tương ưng không được nghĩa là thiện. Cho nên nếu định tâm là thiện thì không chấp nhận nghĩa cùng các thiện căn như không tham v.v…tương ưng. Đây không thể chấp nhận tức không khác với thiện tâm mọi nơi khác, nên cũng không được là bất thiện và vô ký. Không tương ưng với bất thiện và vô ký nên khi lìa dục ở cõi Dục, tất cả bất thiện căn đã diệt không thành bất thiện, cũng chẳng phải vô ký vì định này là thiện. Cũng không thể cho tâm này là thiện vì cùng tưởng thụ cộng hành là lỗi. Nếu lìa thiện căn không được là thiện. Chỉ có thiện mới tương ưng với thiện căn. Nếu tương ưng với thiện căn ắt cùng với tưởng thụ tương ưng vì không có nhân nào khác. Sở trị hiện hành lại có năng trị, nghĩa này bất thành. Như dục v.v. hiện hành không thể có bất tịnh quán. Lại nữa trong định nếu lìa thức A-lê-da mà có các tâm khác thì có xúc sinh lỗi. Nay sẽ lấy việc trụ các định khác làm thí dụ. Chỉ có các thiện căn khi tương ưng định tâm sinh thì chắc chắn cùng với xúc. Nghĩa là nhân định sinh, dựa làm tướng. Nếu xúc lạc thụ, nếu xúc bất khổ bất lạc thụ, lấy xúc này làm duyên nên có sinh lạc thụ và bất khổ bất lạc thụ. Bởi vì sao ? Vì xúc này có năng lực ở trong định cho nên thấy xúc này sinh trong các định khác, hai thụ có năng lực nên trong Diệt định cũng phải như vậy, vì không có nhân nào khác chướng ngại. Nếu vậy xúc duyên thụ thì nghĩa này không thành. Bởi vì sao ? Vì chỉ diệt tưởng là lỗi, cho nên nếu nói có xúc duyên thụ, tu hành định này chỉ là diệt tưởng, đây là điều không thể chấp nhận, vì nói thụ tưởng đều diệt. Lại nữa không nên có xúc. Trong các thức khác nếu có xúc thì có tư duy tương ưng cộng hữu, tín v.v…các thiện căn cùng sinh là lỗi. Kinh nói : Nếu có thức cùng xúc tương ưng sinh thì có tư duy cùng sinh, vì vậy cho nên ở trong định thành nghĩa có tư duy hiện hành. Nếu có tư duy hiện hành tức là khởi tác thiện tâm. Dây chắc chắn phải cùng tín v.v…các thiện căn cùng sinh. Nghĩa này không thể chấp nhận. Nếu muốn lìa các lỗi như trước đã nói và lỗi mâu thuẫn với A-hàm nên nói nhổ bỏ tâm pháp, không có tâm pháp, chỉ có tâm là đúng. Đây cũng không thành. Bởi vì sao ? Vì từ sở y trừ bỏ năng y là không thể được. Tâm là sở y, tâm pháp là năng y. Tâm và tâm pháp năng y sở y này, từ sinh tử vô thủy đến nay hằng nương vào nhau chưa hề tách rời. Do sự dắt dẫn nhau như thế nên chắc chắn phải tương ưng cùng các thiện căn vô tham v.v… Nếu ông nói định và định phương tiện đều mâu thuẫn với chúng nên vô tham v.v… không sinh chỉ sinh thiện. Điều đó chưa hề thấy ở đâu nói đến. Bởi vì sao ? Nếu pháp tương ưng sinh chắc chắn có quả tương ưng lưu xuất sinh ra. Cho nên nghĩa đó không thành. Lại nữa còn có bất thành nữa là như Thế Tôn nói : Thanh hành diệt cho đến ngôn ý hành diệt . Trong đó thân hành là hơi thở ra vào, ngữ ngôn hành là giác quán, ý hành là tư duy và tưởng. Như giác quán diệt thì ngôn ngữ không được sinh. Cũng như vậy ý hành diệt thì ý không được sinh. Nếu ông nói như thân hành diệt trụ ở trong định thì thân không được diệt. Cũng như vậy ý hành tuy diệt, ý vẫn tồn tại. Nghĩa này không đúng. Bởi vì sao ? Vì có nhân duyên, lại có thân hành khác là nhân của thân được trụ. Như Thế Tôn nói : Do ăn uống mạng căn và thức cho nên tuy không có hơi thở ra vào thân cũng trụ được. Ý thì không như vậy, lại vì không có các ý hành khác duy trì, cho nên ở trong định kia không thể lấy ý thức làm chỗ trụ của tâm. Như Thế Tôn nói : Thức không lìa thân. Đây là nói quả báo thức. Bởi vì sao ? Vì có chủng tử. Cho nên sau khi xuất định, sinh khởi thức từ đó mà sinh. Năng y sở y này mọi lúc đều sinh như thế, dù thêm dụng công cũng khôngn thể khiến tách rời nhau. Bởi vì sao ? Vì có thí dụ. Điều này như trong thế gian từ khi sinh đến chết không tách rời nhau, mọi lúc cùng sinh, không thể nào đánh bạt năng y ra khỏi sở y. Ví như tứ đại và cái do tứ đại tạo ra. Tâm pháp cũng vậy, không có đạo lý nào khiến chúng tách rời nhau chỉ để riêng một tâm tồn tại. Nếu nói từ sở y nhổ bỏ năng y là không thể được. Chỉ dùng tưởng thụ là lỗi cho nên chỉ 2 pháp này không hiện hành chứ không phải pháp nào khác. Đây cũng không thành. Bởi vì sao ? Chẳng phải hiện hành tất cả mọi nơi, trong đây không có, cho nên kinh nói : Trong Diệt tận định thức không rời thân, điều này tức thành tựu nghĩa có thức A-lê-da. Vì vậy Thế Tôn nói thức không rời thân. Nếu lìa quả báo thức thì không thành các thức khác. Bởi vì sao ? Vì Diệt tận định đối trị sự sinh khởi của sinh khởi thức do đó mà vắng lặng. Nếu có người chấp từ định khởi rồi, thức trở lại từ thân sinh cho nên nói là không rời. Nói vậy cũng không thành. Bởi vì khi xuất định không có nghĩa thức sinh trở lại. Bởi vì báo thức kia nếu đoạn đứt sự liên tục lìa kết sinh thân sau, không có nghĩa sinh trở lại. Nếu chấp cho rằng lìa thức A-lê-da dùng ý thức nên nói trong Diệt tận định có tâm thì tâm kia không được là thiện, bất thiện, vô ký, đều là bất thành. Cho nên do định này là thiện nên không thể là bất thiện, cũng không được là oai nghi biến hóa khéo léo ra vô ký v.v… Nếu nói là quả báo vô ký tức là thức A-lê-da, vì là vô ký thứ 5. Nếu nói tâm này là thiện thì phải tương ưng với các thiện căn vô tham v.v… Lại nữa khi tâm này tồn tại, nhiễm ô ý đã diệt, chỉ trụ trong thiện, thiện tâm này tức có chỗ y chỉ và có sở duyên, ba việc hòa hợp làm sao không sinh xúc ? Đã sinh xúc làm sao không sinh thụ v.v… Nếu vậy thì nghĩa Diệt tận định không thành vì trong đó tâm và tâm pháp không diệt. Nếu ông chấp nói rằng sức mạnh của thiện tâm dẫn sinh định này, đó là do sức thiện tâm phương tiện. Định này tuy thiện nhưng không cùng các thiện căn vo tham v.v… tương ưng. Nếu có năng lực hòa hợp, được gọi là hòa hợp. Cho nên định này tuy thiện nhưng không có năng lực đối với 3 sự hòa hợp. Đây không như vậy, như quả lưu xuất sinh do phương tiện tâm kia là thiện nên định này tương ưng với thiện căn.

Luận nói : Nếu lại chấp sắc tâm tuần tự sinh làm chủng tử các pháp, đây là phá cái lập luận như trước cũng bất thành. Ở cõi Vô sắc và trời Vô tưởng thoái đọa, từ Diệt tận định xuất định, nghĩa này không thành, tâm sau cùng của A-la-hán cũng không thành, chỉ trừ nghĩa duyên tuần tự là thành mà thôi. Như vậy nếu lìa Nhất thiết chủng tử quả báo thức thì nhiễm ô hay thanh tịnh đều bất thành. Vì vậy như trước đã nói thành tựu tướng thức A-lê-da là có.

Giải thích : Nếu chấp cho rằng sắc tâm tương tục sinh ra các pháp, sát-na trước được coi là chủng tử làm nhân cho sát-na sau. Thức của sát-na ban đầu sinh thức của sát-na sau cũng vậy. Nếu từ cõi Vô sắc thoái, sắc kia đoạn dứt đã lâu làm sao được là chủng tử sinh lại nơi sắc ? Nếu từ trời Vô tưởng thoái, và từ Diệt tận định xuất định, tâm này diệt đã lâu làm sao được coi là nhân cho tâm sau sinh ? Nếu như vậy thì A-la-hán không có được vô dư Niết-bàn, vì nhân của sắc tâm không bao giờ hết. Cái sắc của sát-na trước nơi sắc của sát-na sau, cái thức của sát-na trước ở nơi thức của sát-na sau. Phải biết chỉ được là duyên tuần tự, không được là nhân duyên. Vì vậy cho nên việc thành tựu thức A-lê-da là có. Nếu trụ trong sinh khởi thức thì nghĩa chuyển y không thành. Nghĩa này nay sẽ dùng 3 bài kệ hiển thị như sau.

Luận nói : Ở đây có kệ như sau :

Trong thiện tâm Bồ-tát,

Thì lìa xa 5 thức.

Lại không có thức khác,

Chuyển y thành tâm nào.

Đối trị là chuyển y,

Chưa diệt nên bất thành.

Quả nhân không sai biệt,

Với diệt thành sai lầm.

Không chủng tử, không thể,

Cho đây là chuyển y,

Kia vì không có hai,

Nên chuyển y bất thành.

Giải thích : Nói “Trong thiện tâm Bồ-tát” nghĩa là trong ý thức thiện, tức tương ưng đối trị xuất thế. “Thì lìa xa 5 thức “ nghĩa là lìa nhãn v.v… 5 thức. Nói “không có thức khác” nghĩa là lìa nhiễm ô ý thức và hữu lưu thiện thức. Vì lìa hữu lưu thiện thức nên nói là thiện tâm. “Lại nói không thức khác chuyển y thành tâm nào” nghĩa là trong thức A-lê-da, tất cả chủng tử nhiễm ô không có chủng tử nào làm như thế. Nếu nói đối trị sinh là chuyển y thì đối trị là chuyển y. Vì không diệt thì không thành cho nên phiền não diệt gọi là chuyển y. Chẳng phải đối trị tức là diệt. Bởi vì sao ? Vì đối trị chỉ là nhân của diệt. Nếu vậy thì quả nhân không sai biệt. Kia diệt tức có sai lầm. Quả gọi là diệt, là Niết-bàn. Nhân gọi là đối trị, là đạo. Đối trị kia với diệt thì thành một thể. Lại khi đối trị sinh tức là Niết-bàn cho nên nếu ông lấy vô chủng tử, vô thể, cho đó là chuyển y thì trong sinh khởi thức không chủng tử và không thể, như thế là chuyển y. Kia không có hai cái không, nên chuyển y bất thành. Khi trụ trong Xuất thế định, các sinh khởi thức đều không có, cho nên không có vô chủng tử và không có vô thể, vì vậy không thành nghĩa chuyển y. Nếu có thức A-lê-da, các sinh khởi thức tuy không có, các chủng tử kia trụ trong thức A-lê-da tức có thể làm vô chủng tử và vô thể. Do chuyển y bất thành nên biết là có thức A-lê-da.

Chương 17 : Sai biệt

Luận nói : Lại nữa sự sai biệt của thức A-lê-da này là thế nào ? Nói đại lược có 3 hoặc có 4 thứ sai biệt. Trong đây 3 thứ là do 3 thứ sai biệt về huân tập : 1.Danh ngôn huân tập sai biệt, 2.Ngã kiến huân tập sai biệt, 3.Hữu phần huân tập sai biệt. Bốn thứ là : 1.Dẫn sinh sai biệt, 2.Quả báo sai biệt, 3.Duyên tướng sai biệt, 4.Tướng mạo sai biệt. Trong đây dẫn sinh sai biệt nghĩa là tân sinh huân tập. Nếu không có cái hành duyên thức này thì thủ duyên hữu không thành. Quả báo sai biệt là vì hành và hữu là duyên với các thú thành thục. Nếu không có đây thì không có chủng tử. Hậu hữu các pháp sinh không thành. Duyên tướng sai biệt là ý sở thủ ngã tướng. Nếu không có đây thì ngã thủ ý niệm sở duyên không thành.

Giải thích : Như vậy là đã thành lập xong thức A-lê-da. Nay sẽ hiển thị các phẩm loại sai biệt của thức này. Ở đây trong 3 thứ huân tập sai biệt, danh ngôn huân tập là như nhãn danh huân tập trong quả báo thức là sinh nhân của nhãn kia. Sau khi quả báo nhãn căn sinh, do danh ngôn nhãn này nói là nhân nên sinh. Nhĩ v.v… tất cả danh ngôn sai biệt của các căn cũng vậy. Ngã kiến huân tập sai biệt nghĩa là do sức thân kiến trong nhiễm ô ý, lấy thức A-lê-da làm ngã, huân tập sinh rồi thì có sự phân biệt đây là ta kia là khác. Hữu phần huân tập nghĩa là do sức hành nghiệp thiện, bất thiện, bất động cho nên có thụ sinh khác nhau trong các thú. Nghĩa này sau ở phần nói về tướng sẽ nói rộng. Dẫn sinh sai biệt nghĩa là thu giữ các chủng loại sai biệt. Tân sinh huân tập nghĩa là khi mới khởi huân tập nếu không có thức A-lê-da này dẫn sinh sai biệt thì cái thức huân tập các hành sinh diệt, do thủ nhiếp trì nên sinh có hiện khởi. Cái hữu này không thành, năng hữu hậu sinh nên gọi đây là hữu. Cái hữu này tức là thiện, bất thiện do thủ huân tập nhiều lần. Quả báo hữu sai biệt nghĩa là do nhiếp tụ hành hữu làm duyên, thành thục trong các thú. Nếu không có dẫn nhiếp phần của thức A-lê-da này thì không có nhân, về sau trong hữu các pháp như nhãn v.v… các sắc căn sinh khởi bất thành. Đây tức là báo quả. Duyên tướng sai biệt tức là phần thức A-lê-da cùng với kia y chỉ nhiễm ô ý ngã kiến làm duyên tướng ngã thủ. Nếu không có duyên tướng này, thức A-lê-da cùng với ý của nhiễm ô ý dều lấy thân kiến làm nhân, ngã chấp này duyên cảnh bất thành. Đây tức là quả lưu xuất.

Luận nói : Trong đây, tướng mạo sai biệt nghĩa là thức này có tướng chung có tướng không chung, có tướng chủng tử không thụ sinh, có tướng chủng tử thụ sinh. Tướng chung là chủng tử khí thế giới. Tướng không chung là các chủng tử nội nhập riêng biệt. Tướng chung này là chủng tử không thụ sinh. Nếu khi khởi đối trị thì tướng không chung chướng ngại diệt, cho nên tướng chung do tha phân biệt duy trì. Người tu quán trong đó thấy thanh tịnh. Trong tất cả các vật thấy lạc dục , thành tựu. Ở đây có kệ như sau :

Khó diệt và khó biết,

Đó là cộng tướng kết.

Người tu quán tâm khác,

Ở ngoài các đại tướng.

Người thanh tịnh không diệt,

Ở trong thấy thanh tịnh.

Chư Phật thấy thanh tịnh,

Thành cõi Phật nghiêm tịnh.

Lại có các kệ khác như sau :

Tùy các thứ dục lạc,

Các chỗ thấy thành tựu.

Người tu thấy một vật,

Tùy các thứ dục lạc.

Các chỗ thấy thành tựu,

Sở thủ chỉ có thức.

Tướng không chung này là có chủng tử thụ sinh. Những thứ này nếu không có khí thế giới và chúng sinh thế giới chuyển sinh thì sai biệt bất thành.

Giải thích : Tướng mạo sai biệt có nhiều thứ. Nói “Trong đây” là trong tướng chung và không chung, tướng chủng tử có thụ sinh, tướng chủng tử không thụ sinh. Thức A-lê-da này là cái thể của nhân cái khí thế giới chung cùng của tất cả chúng sinh, tức là chủng tử không thụ sinh. Thức A-lê-da của tướng không chung là cái thể của nhân các nhập như sắc v.v…của mỗi mỗi tự thân, tức là chủng tử có thụ sinh. Nếu lìa các tướng loại như thế của thức A-lê-da thì cái nhân thụ dụng chung cùng của tất cả chúng sinh, tức khia thế giới bất thành. Cũng vậy nếu lìa cái đệ nhị A-lê-da thức thì chúng sinh thế giới bất thành, tức như cây khô không có tri giác.

Luận nói : Lại có tướng thô ác và tướng khinh an. Tướng thô ác là chủng tử phiền não và tiểu phiền não. Tướng khinh an là chủng tử hữu lưu thiện pháp. Nếu không có đây trong quả báo thân thì không thành sự sai biệt có kham năng hay không kham năng.

Giải thích : Tướng thô ác là thân không kham năng. Tướng khinh an là thân có kham năng.

Luận nói : Lại có tướng thụ dụng và tướng không thụ dụng. Tướng thụ dụng là chủng tử thiện bất thiện quả báo đã chín muồi. Tướng không thụ dụng là chủng tử huân tập của ngôn thuyết, là chủng tử sinh khởi hý luận từ vô thủy, nếu không có đây hằng tạo các nghiệp thiện ác, thì nghĩa được quả thụ dụng không thành. Và những ngôn thuyết mới huân tập sinh ra cũng không thành.

Giải thích : Tướng thụ dụng nếu lìa thức A-lê-da này, các nghiệp thiện ác thường huân tập đều không thành. Tướng không thụ dụng là chủng tử ngôn thuyết huân tập, như nói chủng tử các ngôn thuyết sai biệt huân tập sinh khởi hý luận từ vô thủy. Nghĩa là nhân thường lưu bố từ vô thủy đến nay. Nếu không có tướng không thụ dụng đây, thức A-lê-da không có sinh khởi ngôn thuyết huân tập cũ mới gì cả. Bởi vì sao ? Trong thế gian không có ngôn thuyết hiện tại nào lìa gốc mà có được.

Luận nói : Lại có tướng tương tự, nghĩa là như ảo hóa, sóng nắng, chiêm bao, đau mắt v.v…Nếu không có những tướng tương tự này của thức A-lê-da thì do chủng tử hư vọng phân biệt thành tướng điên đảo, nghĩa này sẽ không thành.

Giải thích : Tướng tương tự là như các sự ảo hóa làm nhân nên vọng thấy các hiện tượng. Như vậy các tướng tương tự của A-lê-da là chủng tử hư vọng phân biệt nên có tướng điên đảo. Nếu không có thức A-lê-da đây thì các tướng điên đảo kia không thành.

Luận nói : Lại có tướng đủ và tướng không đủ. Người có đầy đủ các tướng trói buộc gọi là đủ tướng thế gian. Người lìa dục là tướng tổn giảm. Hữu học Thanh Văn và các Bồ-tát là nhổ bỏ tướng một phần. A-la-hán, Bích-chi-phật là nhổ bỏ hết phiền não chướng và Như Lai là ứng hợp với nhổ bỏ hết phiền não chướng và tri chướng. Nếu không có thức A-lê-da đây thì sự tuần tự diệt phiền não không thành.

Vì nhân duyên gì quả báo thiện ác chỉ là vô chướng vô ký ? Vì quả báo này là vô chướng vô ký nên không trái chống với thiện ác. Nếu trái chống với thiên ác thì khi quả báo là thiện hay ác rồi không có đạo lý nào diệt được phiền não. Cho nên quả báo thức chỉ là vô chướng vô ký.

Giải thích : Vô chướng vô ký nghĩa là vô chướng là vô nhiễm, do vô nhiễm vô ký nên gọi là vô chướng vô ký. Chẳng phải như sinh cõi Sắc lấy phiền não bất thiện làm vô ký. Quả báo này nếu là thiện hay bất thiện thì không diệt được phiền não. Bởi vì sao ? Vì nếu là thiện thì sẽ sinh thiện, nếu là bất thiện sẽ sinh bất thiện. Như vậy có nghĩa là sinh tử không bao giờ hết. Sinh tử tức là phiền não và hữu lưu thiện v.v… Đến đây là đã giải thích xong về nghĩa của y chỉ.

    Xem thêm:

  • Luận Bồ Đề Tư Lương - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 3 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Ma Ha Diễn - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 5 - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ - Luận Tạng
  • Bửu Tạng Luận - Luận Tạng
  • Luận Bảo Tạng - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Luận Thủ Trượng - Luận Tạng
  • Luận Giải Thoát Đạo - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 1 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 2 - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng