1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Phải biết thắng tướng thắng ngữ 2 – 1

Chương 1 : Tướng

Luận nói : Đã nói về y chỉ rồi. Vậy thấy tướng như thế nào ? Đây lược nói có 3 thứ là tướng y tha, tướng phân biệt và tướng thành tựu. Trong đây cái gì là tướng y tha ? Thức A-lê-da là chủng tử hư vọng phân biệt nhiếp thu các thức.

Các thức là những gì ? Là thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, tự tha sai biệt thức, thiện ác hai đường sinh tử thức. Trong đây thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, các thức này từ chủng tử ngôn thuyết huân tập sinh. Tự tha sai biệt thức từ chủng tử ngã kiến huân tập sinh. Thiện ác hai đường sinh tử thức từ chủng tử hữu phần huân tập sinh. Các thức này thâu nhiếp tất cả giới thú và phiền não v.v…dựa vào tha tướng hư vọng phân biệt nên được hiển hiện. Các thức này thâu nhiếp mọi hư vọng phân biệt, chỉ là thức lượng, không có, không thật, hiển hiện do nương tựa. Đó là tướng y tha.

Giải thích : Nay giải thích về tướng y tha. Nói sơ lược tức là nói tóm tắt. Nói “thâu nhiếp các hư vọng phân biệt” vì hư vọng phân biệt là thể tính. Trong đây thân thức là nhãn v.v… 5 giới. Thân giả thức là nhiễm ô ý. Thụ giả thức là ý giới. Ứng thụ thức là sắc v.v… 6 ngoại giới. Chính thụ thức là 6 thức giới. Thế thức là sinh tử tiếp nối không đứt. Số thức là tính toán. Xứ thức là khí thế giới ngôn thuyết. Nói thức, nghĩa là thấy, nghe, hay, biết 4 thứ ngôn thuyết. Chín thức này đều có y chỉ, thấy nghe v.v…các danh ngôn huân tập sai biệt làm nhân. Tự tha sai biệt thức là y chỉ vào sai biệt của thân, lấy ngã kiến huân tập làm nhân. Thiện ác hai đường sinh tử thức là vô lượng nẻo đường sinh tử, từ chủng tử hữu phần huân tập sinh. Các thức này là nói tiếp các thức đã nói trước. Thâu nhiếp phiền não tất cả giới thú nghĩa là các phiền não trong tam giới ngũ thú. Thâu nhiếp là thể tính của thức kia. Nói “tướng y tha” nghĩa là dựa vào cái khác làm thể. Trong đây hư vọng phân biệt thâu nhiếp là thể tính của kia. Nói “ không có, không thật do y chỉ hiển hiện” là nhân hiển hiện cái không có, không thật. Trong đây không có là vì không thật thể. Như ngã, trần là không thật. Trong cái không có mà chấp lấy, ví như ngã, tức là không có mà có tướng ngã hiển hiện. Sự y chỉ đây gọi là hiển hiện y chỉ. Nói y chỉ là nhân nơi nghĩa, cho nên tức là tướng y tha.

Luận nói : Trong đây cái gì là tướng phân biệt ? Là cái nghĩa hiển hiện trong cái chỉ có thức lượng mà không có nghĩa.

Giải thích : Trong tướng phân biệt nói không có nghĩa, tức là ví như không có thật ngã. Đây chỉ có thức lượng nghĩa là trong cái không có nghĩa, mà hiển hiện ra. Ví như ngã, chỉ là một cái gì tương tự hiển hiện mà thôi. Nghĩa hiển hiện là tướng sở thủ hiển hiện. Ví như vô ngã mà tướng ngã hiển hiện.

Luận nói : Trong đây cái gì là tướng thành tựu ? Tức trong tướng y tha, nghĩa tướng của nó rốt ráo là không có.

Giải thích : Tướng thành tựu là đây không có, không có thật nghĩa. Trong nhân hiển hiện, nó không hiển hiện thật nghĩa vì nó không có. Như ngã tướng, tương tự như thật mà không có, nhưng vô ngã là có.

Luận nói : Trong đây, thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, phải biết là nhãn v.v… 6 nội giới. Ứng thụ thức, phải biết là sắc v.v…6 ngoại giới. Chính thụ thức là nhãn v.v… 6 thức giới. Còn các thức khác là sai biệt của các thức này. Phải biết những thức này chỉ là duy lượng, vì không có nghĩa. Trong đây lấy gì làm ví dụ ? Lấy thí dụ chiêm bao v.v…để hiển thị. Ví như trong chiêm bao, lìa nghĩa chỉ còn có thức. các thứ sắc thanh hương vị xúc nhà cửa núi non v.v…nghĩa tương tự như tướng hiển hiện nhưng trong đó không có thật nghĩa. Do thí dụ đó nên biết rằng tất cả mọi nơi duy chỉ có thức, lấy thức làm đầu. Lại có những thí dụ khác như ảo hóa, con nai khát nước, đau mắt v.v…Phải biết cũng như chiêm bao, khi thức dậy, mọi thứ chỉ có thức.

Nói như chiêm bao tất cả chỉ có thức, vậy vì sao khi thức dậy không chuyển được như thế ? Người có trí giác chân thật cũng chuyển như vậy. Như chính khi chiêm bao sự hiểu biết này không sinh. Khi tỉnh dậy trí biết này mới sinh. Cũng như vậy, chưa được trí giác chân thật thì trí này không sinh. Nếu được trí giác chân thật thì trí này liền sinh. Nếu chưa có trí giác chân thật làm sao đối với duy thức có thể khởi so sánh biết được ? Do A-hàm và đạo lý mà biết được. A-hàm như là trong Kinh Thập Địa Thế Tôn nói 3 cõi chỉ có tâm. Lại nữa trong Kinh Giải Tiết, Thế Tôn nói như sau :

Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc hỏi Thế Tôn rằng : Những cảnh tượng được thấy trong Tam-muội với tâm trong định có thể nói là khác nhau hay không khác nhau ? Thế Tôn bảo Di-lặc là không khác.

Bởi vì sao ? Định tâm duyên, duy thức hiển. Ta nói là thức.

Thế Tôn ! Nếu cảnh tượng trong Tam-muội không khác tâm trong định thì làm sao tâm ấy lại chấp thủ tâm ấy ?

Di-lặc ! Không có một pháp nào là năng thủ pháp khác, nhưng tâm kia sinh như vậy tức cũng hiển hiện như vậy. Ví như nhân cái mặt của mình mà trông thấy ảnh rồi nói ta thấy ảnh. Tức là cái ảnh trông thấy đó khác với cái mặt của mình. Tâm kia sinh khởi cũng như vậy. Tức ở nơi ngay tâm kia nói là có vật khác có thể thấy. Do A-hàm và đạo lý này mà được thấy rõ.

Giải thích : Nói “đây chỉ có thức” là như Kinh Thập Địa và Kinh Giải Tiết đã nói. Phan duyên này do duy thức hiển hiện nên ta nói duy thức là do phan duyên duy thức hiển hiện. Đây là có nghĩa gì ? Là để hiển thị duy thức thức tách rời nghĩa. Do đó thức thâu nhiếp. Phật nói : Ta nói là thức hiển hiện, cảnhngiới Tam-muội kia là thức. Nhưng sinh khởi như vậy là do tướng loại kia sinh. Nói “ở trong lấy làm nghĩa riêng”, “ở trong” tức là ở trong cảnhn giới Tam-muội. Nói “lấy làm nghĩa riêng” là ảnh tượng của thức kia gọi là vật riêng khác bị chấp thủ là thể.

Luận nói : Như vậy trong trường hợp tĩnh tâm, nếu thấy ảnh tượng màu xanh, tức thấy tự tâm, không có nghĩa riêng có vật màu xanh. Do đạo lý này, Bồ-tát trong tất cả thức, phải so sánh mà biết rằng đó chỉ là thức lượng. Lại nữa cái xanh thấy đó không phải do thức nhớ ra, vì cảnh giới thấy đây đang hiện hữu trước mắt. Cho nên cái thức nghĩ nhớ những gì đã nghe và suy nghĩ cũng chỉ là phan duyên cảnh của quá khứ nên cũng là duy thức. Do sự so sánh suy lường này, tuy chưa được gọi là trí giác chân như nhưng cũng có thể so sánh mà biết được lý duy thức.

Giải thích : Cảnh giới Tam-muội này, những ảnh tượng màu xanh v.v… cũng không phải thức nghĩ nhớ. Bởi vì sao ? Vì không phải như trước đã thấy, mà ngay ở nơi đó nghĩ biết như vậy vì nó hiện tiền. Thức nghĩ nhớ thì mù mờ, còn đây thì hiện tiền thấy một cách rõ ràng. Nếu nói nghe và suy nghĩ huân tập nhiều lần thì tuy nó là quá khứ nhưng sau khi nghĩ nhó, nó sinh ra như xưa. Nói “đây cũng như vậy” tức là cái nghe và suy nghĩ đã thuộc về quá khứ, nay không có, trong cái không có đó nếu sinh trở lại thì đây là thức tương tự như kia mà sinh, chứ không phải đó là cái nghe và suy nghĩ đã diệt trong quá khứ. Cho nên nghĩa này cho thấy việc thành duy thức trần là không thể có được.

Luận nói : Như trước đã nói các thứ thức, ví như chiêm bao v.v… trong đó thức thể của nhãn thức v.v… là duy thức, thức thể của nhãn căn v.v… là sắc thì đạo lý duy thức làm sao có thể thấy chúng như A-hàm và đạo lý đã nói ở trước ? Nếu chúng là thức thể vì sao hiển hiện tựa như sắc ? Vì là một loại trụ vững liên tục chuyển. Các phiền não điên đảo trụ giữ cho nên nếu khác đây thì trong vô nghĩa không thành nghĩa điên đảo. Nếu không có các phiền não chướng trí chướng này nhiễm thì không thành. Cái này không thì thanh tịnh cũng không thành. Cho nên nhãn v.v… được sinh khởi như vậy. Ở đây có bài kệ rằng :

Loạn nhân và loạn thể,

Là sắc thức thể và

Chẳng phải sắc thức thể,

Trước không sau cũng không.

Giải thích : Thức thể của nhãn thức v.v… chẳng phải sắc nên mới thành duy thức. Thức thể của nhãn căn v.v… là sắc vì sao thành duy thức ? Điều này như trước trong A-hàm và đạo lý đã nói rõ. Nói “một loại trụ vững liên tục chuyển” nghĩa là một loại là vì tương tự, trụ vững là trụ lại qua nhiều thời gian. Do phiền não chướng trí chướng các điên đảo phiền não làm nhân, cho nên trụ giữ tức là nhân. Nếu lìa các sinh khởi như vậy thì không phải nghĩa là nghĩa tâm điên đảo. Nếu không có phiền não chướng này nhiễm và trí chướng này nhiễm thì không có. Nghĩa này lấy bài kệ hiển thị. Nói “Loạn nhân và loạn thể” là thể của sắc thức và thể của phi sắc thức. Nếu theo thứ tự đó thì thể của sắc thức là loạn nhân, phi sắc thức là loạn thể. Thể của nhân là sắc thức nếu không thì thể của quả là phi sắc thức cũng không,

Chương 2 : Sai biệt

Luận nói : Vì sao thân thức, thân giả thức, thụ giả thức, ứng thụ thức, chính thụ thức đều hòa hợp cùng sinh trong tất cả loài có thân ? Là để có đầy đủ sự thụ dụng của đời sống.

Vì sao thế thức v.v… các thức như trước nói có các thứ thức sinh ? Vì từ vô thủy sinh tử lưu chuyển không dứt, vì có vô lượng cõi chúng sinh, vì thế giới vô lượng, vì ngôn ngữ và việc làm vô lượng, vì tiếp nhận và thụ dụng vô lượng sai biệt, vì thụ dụng của nghiệp ái phi ái vô lượng sai biệt, vì thụ vô lượng sinh già chết sai biệt.

Vì sao lập các thức này thành duy thức ? Lược nói có 3 tướng : Một là duy lượng, vì vô sở hữu. Hai là duy nhị, nghĩa là chỉ có 2 là tướng phần của thức và kiến phần của thức. Ba là duy chủng chủng, nghĩa là nhiều tướng sinh khởi khác nhau. Các thức này không có nghĩa cho nên gọi là duy lượng. Nhãn v.v… các thức có tướng và kiến. Lấy sắc v.v…làm tướng, lấy các thức kia làm kiến, cho đến thân thức làm kiến. Ý thức thì lấy nhãn v.v…tất cả thức thể cho đến pháp thức làm tướng, lấy thức của ý thức làm kiến, vì ý thức có khả năng phân biệt vả lại tựa như tất cả thức sinh khởi. Ở đây có bài kệ như sau :

Duy lượng, nhị, chủng chủng,

Người tu quán ngộ nhập.

Khi ngộ nhập duy tâm,

Tâm đó cũng lìa diệt.

Giải thích : Thế nào là đầy đủ thụ dụng của thân phần ? Tức chỉ thân thức, thân giả thức, thụ giả thức v.v… 5 thức. Nói “nên biết tất cả có thân” nghĩa là nhất thời đều có, nói “cộng hữu” nhất thời cùng sinh. Nói “làm rõ” tức là vì thể của nhân nên thành lập nghĩa của 3 thứ duy thức, như trong chính văn trường hàng và kệ này đã hiển thị. Trong trường hàng nói duy lượng, nghĩa là chỉ là thức lượng, cho nên tất cả các thức đều chỉ là thức lượng. Bởi vì sao ? Bởi nghĩa của thức là vô sở hữu, chỉ có 2 thành lập ra có tướng và kiến. Cho nên một thức này một phần thành tướng, phần thứ hai thành kiến. Đây là nhãn thức v.v…chia làm hai phần. Nói “thành lập các thứ khác nhau” nghĩa là vốn là một thức này tùy theo hiện khởi mà một phần sinh ra nhiều tướng khác nhau, phần thứ hai làm năng thủ. Nếu ý thức sở thủ thì kia nhãn thức v.v…cho đến pháp thức là tướng, ý thức này là kiến. Nói “ các thứ” nghĩa là chỉ ý thức làm việc ấy, vì bất định. Còn các thức khác có cảnh giới nhất định. Lại nữa vì là không phân biệt, cho nên nếu là năng phân biệt thì gọi là kiến. Do đạo lý ấy mà thành duy thức. Kệ nói “nhập duy lượng” là vì không có nghĩa, “nhập duy nhị” là vì thức có tướng và kiến, “nhập chủng chủng” là do thức sinh các thứ tướng mạo. Nói “Người tu quán ngộ nhập” nghĩa là người tu hành tương ưng. Vì sao khi ngộ nhập duy tâm, tâm này cũng lìa diệt ? Là vì do chính khi ngộ nhập duy tâm thì nghĩa không có, thức cũng không có. Nghĩa đã không có sở thủ thì làm gì có được tâm năng thủ. Nói “duy nhị và chủng chủng” nghĩa là chỉ nói nhập nhân duyên duy lượng, các nghĩa khác như trước đã nói.

Luận nói : Có một số luận sư nói chỉ một ý thức này tùy theo nơi y chỉ sinh mà có được tên ấy, như tư nghiệp của ý được tên là thân nghiệp, khẩu nghiệp. Ý thức này ở tts cr nơi y chỉ sinh các thứ tướng mạo. Tựa như 2 mà sinh chỉ tựa như nghĩa. Tựa như phân biệt nên tất cả nơicũng tựa như xúc mà sinh. Trong cõi Sắc ý thức y chỉ thân nên như các sắc căn khác y chỉ thân vậy.

Giải thích : Có các Bồ-tát muốn khiến chỉ có một ý thức tuần tự sinh khởi. Nay sẽ làm rõ điều này. Ví như tư nghiệp của ý mà được tên là thân nghiệp khẩu nghiệp, nghĩa là như tư nghiệp của ý từ nơi thân sinh ra gọi là thân nghiệp, từ miệng sinh ra gọi là khẩu nghiệp. Ý nghiệp cũng vậy. Như vậy một ý thức nếu y chỉ nơi mắt sinh thì được tên là nhãn thức. Cũng như vậy cho đến y chỉ thân sinh được tên thân thức. Trong đây lìa ý thức ra ngoài không có thức nào khác, chỉ trừ thức A-lê-da. Nếu ông nói nhãn v.v… các căn không phân biệt, nếu ý thức y chỉ đó sinh cũng phải không phân biệt, như nhiễm ô ý y chỉ nhiễm ô nên sinh khởi cũng nhiễm ô. Đây cũng phải như vậy nghĩa là như luận nói ở tất cả mọi nơi y chỉ sinh các thứ tướng mạo tựa như hai mà sinh, chỉ là nghĩa tương tự cho nên tương tự phân biệt, vì vậy mà chẳng ngại gì. Trong đây tất cả chỗ y chỉ là y chỉ các nơi như mắt v.v… Các thứ tướng mạo tương tự như hai mà sinh là chỉ là nghĩa tương tự nên phân biệt tương tự. Do 2 câu này nên có thể hiểu được. Hai câu này nói tức là một thức có một phần tương tự duy nghĩa mà sinh, còn phần thứ hai là ở trong nghĩa tương tự, phan biệt tương tự mà sinh, cho nên nói như trước không có lỗi. Lại nữa tất cả mọi nơi cũng tương tự xúc mà sinh nghĩa là ở nơi sắc xứ, tâm tại trong định, 5 thức không khởi hiện hành, trong sắc thân có nội thụ sịnh. Nói “như các sắc căn khác y chỉ nơi thân” nghĩa là như nhãn căn v.v…y chỉ nơi thân. Các căn này do y chỉ nơi thân nên ngay nơi tự thân có khả năng làm tổn ích. Ý thức cũng vậy, y chỉ thân nên khiến thân tổn ích. Nên biết rằng lại còn nghĩa khác như thân căn y chỉ nơi thân, nếu có ngoại duyên đến xúc, tức ngay trong thân căn tương tự xúc sinh. Khi tương tự xúc này sinh liền tự y chỉ trong thân làm tổn ích. Ý thức cũng vậy, vì y chỉ thân nên khi tương tự xúc sinh tức ngay nơi thân làm tổn ích.

Luận nói : Ở đây có bài kệ như sau :

Đi xa đi một mình,

Không thân ở hang trống.

Điều phục tâm khó phục ,

Ta nói là Phạm hạnh.

Giải thích : Các Bồ-tát thành tựu kia đã nói, nên dẫn kệ trong A-hàm. Nói đi xa tức là phan duyên tất cả cảnh giới. Đi một mình là không có người thứ hai. Không thân là lìa sắc thân. Ở hang trống là ẩn trong hang trống rỗng của sắc thân. Có thể điều phục là tác dụng tự tại. Khó điều phúc là chỉ các xấu ác.

Luận nói : Như kinh nói những cảnh giới 5 căn đi đến ý thức đều có thể thụ dụng, vì ý thức là chỗ dựa của chúng.

Giải thích : Lại A-hàm có nói các cảnh giới mà 5 căn này đi đến ý thức đều có thể thụ dụng. Nghĩa là nơi căn đi đến là cảnh giới. Ý thức này có thể phân biệt tất cả pháp, nên mỗi mỗi cảnh giới đều thụ dụng nên nói là có thể thụ dụng. Các căn y chỉ nơi ý thức là vì ý thức là thể của nhân của các căn kia khi sinh. Bởi vì sao ? Vì nếu ý có duyên khác thì nhãn v.v… không sinh.

Luận nói : Lại như kinh nói trong 12 nhập, 6 thức thân là ý nhập.

Giải thích: Lại có A-hàm nói 6 thức thân gọi là ý, vì không có tên thức nào khác. Phật nói 6 thức thân gọi là ý nhập. Cho nên được biết chỉ độc có ý mà thôi.

Luận nói : Nếu có an lập thức thể là nghĩa của thức A-lê-da, thức thể ở trong đó, thì tất cả thức thể thành lập là tướng, thức thể, thức thể của ý thức và các y chỉ là kiến. Nên biết rằng chúng là thức thể của tướng mạo, là nhân sinh kiến kia. Nghĩa tương tự hiển hiện là y chỉ sinh kiến kia.

Giải thích : Cũng thành lập thức A-lê-da là tướng kiến 2 thức. Ý thức và y chỉ là kiến phần của thức A-lê-da. Các thức thể của nhãn v.v… và tất cả pháp là tướng phần. Những thứ này là thức thể của A-lê-da cho nên chúng là thức thể của tướng mạo nghĩa là thể của nhân sinh thức của nhãn v.v…thành chỗ phan duyên cho kia. Nói “là nhân sinh kiến cho kia” là khởi kiến nơi kia gọi là kiến của kia. Vì hiển hiện nghĩa sở kiến của kia nên có thể làm nhân cho kiến của ý thức tương tục trụ không gián đoạn, cho nên nói là có khả năng làm y chỉ cho sinh ra kiến.

Luận nói : Đã thành lập các thức thể như vậy là duy thức, các nghĩa đã rõ ràng có thể thấy.

Làm sao biết được là phi hữu ?

Như Thế Tôn nói Bồ-tát đầy đủ 4 pháp được tùy thuận nhập tất cả thức thể vô nghĩa. Một là thức tướng biết khác nhau. Như ngạ quỷ, súc sinh, người, trời, đồng một vật nhưng do thức thể thấy khác nhau. Hai là biết không có cảnh giới, do thức sinh như phan duyên quá khứ, vị lai và hình ảnh trong mộng. Ba là biết lìa dụng công mà được không điên đảo. Như phan duyên nghĩa trong nghĩa thật hữu. Thức thì không điên đảo do không dụng công mà được trí chân thật. Bốn là trí tùy thuận 3 tuệ. Như các Bồ-tát và người đắc định, được tâm tự tại cho nên tùy ý muốn mà nghĩa kia hiển hiện. Như có người tu quán đắc Xa-ma-tha, khi tu pháp quán chỉ dùng ý niệm, nghĩa liền hiển hiện. Lại được trí vô phân biệt, khi trụ vô phân biệt tất cả nghĩ không hiển hiện. Các nghĩa do tùy thuận 3 tuệ và nhân duyên trước cho nên nghĩa vô sở hữu liền được thành tựu. Trong nghĩa này phải nói 6 kệ. Sau sẽ nói trong phần Tăng thượng tuệ học thắng tướng. Nghĩa là ngạ quỷ, súc sinh, người v.v…

Giải thích : Một là thức tướng biết khác nhau nghĩa là những sự khác nhau đó là do thức duyên nghĩa gọi là tướng và biết trong cái tướng đó. Biết không cảnh giới, do thức sinh, nghĩa là thấy không có cảnh phan duyên mà là do thức sinh, như quá khứ v.v…Biết lìa dụng công mà được không điên đảo nghĩa là nếu như nghĩa được hiển hiện liền có như vậy thì không cần phải khởi đối trị mà được không điên đảo, hiểu biết như vậy. Tùy thuận 3 trí nghĩa là trí này biết các nghĩa đều tùy thuận 3 nghĩa. Và người được định nghĩa là Thanh Văn, Bích-chi-phật v.v… Được tâm tự tại nghĩa là đã được tùy tâm làm, tùy tâm thích muốn. Nghĩa kia hiển hiện tức như là nếu muốn cõi đất biến thành nước hay lửa thì liền thành như ý nghĩ. Được Xa-ma-tha nghĩa là đã được Tam-ma-đề. Người tu pháp quán là người tu hành quan sát trong các Tu-đa-la. Chỉ dùng ý nghĩ thì nghĩa hiển hiện, nghĩa là trong một nghĩa,tùy theo các thứ tác ý thì có các tướng hiển hiện. Đã được trí vô phân biệt nghĩa là nếu như nghĩa được hiển hiện là có thì không được trí vô phân biệt. Vì trí này là thật có nên phải biết nghĩa nó quyết định là phi hữu.

Chương 3 : Phân biệt

Luận nói : Nếu chỉ có nghĩa thức hiển hiện sở y chỉ gọi là tính y tha thì vì sao, nhân duyên gì gọi là y tha ? Từ tự huân tập chủng tử sinh nên là y tha. Y tha là duyên sinh rồi, không có công năng, qua một sát-na tự trụ nên gọi y tha.

Giải thích : Nếu chỉ có nghĩa của thức hiển hiện y chỉ nghĩa là lìa nghĩa, chỉ có thức thể là nghĩa, nhân của hiển hiện là ngay nơi thức thể là y tha.

Nếu tự nhiếp lấy sao gọi là y tha, nhân duyên gì gọi là y tha ? Vì nhân của chính nó sinh ra, sinh ra rồi không có năng lực mà trụ được, tức nơi sự tự nhiếp lấy này gọi nó là cái khác, cho nên gọi là y tha.

Luận nói : Nếu tính phân biệt dựa vào cái khác, không thật có mà nghĩa hiển hiện, làm sao thành phân biệt ? Vì sao nói là phân biệt ? Vì nó là nhân sinh ra ý thức phân biệt điên đảo đối với vô lượng tướng mạo, cho nên thành phân biệt. Không có tự tướng, chỉ thấy phân biệt nên gọi phân biệt.

Giải thích : Dựa vào cái khác nghĩa là y chỉ vào tính y tha của duy thức. Không thật có là không có tự thể. Nghĩa hiển hiện là có nghĩa có thể thấy. Nhân duyên gì gọi là phân biệt ? Câu này sau sẽ tuần tự nói đến. Nói vô lượng tướng nghĩa là tướng của tất cả cảnh giới. Ý thức phân biệt, tức ý thức là phân biệt. Nhân sinh điên đảo là nhân phan duyên khi ý thức vọng khởi điên đảo. Không có tự tướng là không có thể. Chỉ thấy phân biệt là chỉ thấy loạn thức.

Luận nói : Nếu tính thành tựu, tính phân biệt rốt cuộc là tướng vô sở hữu thì thành tựu là thành tựu như thế nào ? Vì nhân duyên gì nói là thành tựu ? Thể không thay đổi nên được thành tựu. Cảnh giới thanh tịnh nên vượt trội hơn tất cả trong các thiện pháp. Do nghĩa tối thắng đó nên nói là thành tựu.

Giải thích : Kia rốt cuộc là tướng vô sở hữu, nghĩa là vì tính của phân biệt là lấy vô sở hữu làm tính. Nói vì sao và nhân duyên gì thì như đã nói trong tính y tha ở trước. Thể không thay đổi nghĩa là không hư dối, như thành thật. Nói do cảnh giới này thanh tịnh nên vượt trội trong tất cả thiện pháp, tức là cái thể của cảnh giới thanh tịnh này là vượt trội nên gọi là thành tựu. Như cái áo đã hoàn thành xong.

Luận nói : Lại nữa có năng phân biệt, có sở phân biệt. Vậy trong tính có phân biệt, cái gì là năng phân biệt, cái gì là sở phân biệt, cái gì là tính phân biệt ? Ý thức là năng phân biệt. Vì phân biệt nên ý thức này từ chủng tử danh ngôn huân tập, chủng tử tất cả thức thể danh ngôn huân tập mà sinh ra có vô lượng chủng tử phân biệt, phân biệt tất cả mọi nơi, vì có khả năng phân biệt như vậy nên gọi là năng phân biệt. Lại nữa tính y tha là sở phân biệt. Lại nữa do nhân duyên này khiến tính y tha thành sở phân biệt. Đó là tính phân biệt do nhân duyên này cho nên khiến tính y tha hiển hiện nghĩa tương tự như nghĩa. Lại nữa thế nào là phân biệt năng phân biệt ? Phan duyên cái gì, thủ tướng mạo gì ? Thế nào là chấp trước ? Phát ngôn như thế nào ? Làm sao lưu bố, làm sao tăng ích ? Phan duyên nơi danh nên thủ lấy tính y tha làm tướng, chấp trước nơi kiến, nhân giác quán phát ngôn, kiến v.v…4 thứ lưu bố làm lưu bố, thật trong vô nghĩa có nghĩa tăng ích. Hãy phân biệt như vậy.

Giải thích : Thế nào là phân biệt ? Ý thức là phân biệt. Tính y tha là sở phân biệt. Do nhân duyên này khiến thành phân biệt. Để hiển thị điều này nên luận nói phan duyên nơi danh v.v… Thủ tính y tha làm tướng tức là thủ lấy danh tự như nhãn v.v… trong tính y tha làm tướng. Bởi vì sao ? Chấp thủ tướng kia rồi sinh khởi phân biệt. Kiến là chấp trước, nghĩa là cái tướng chấp thủ kia, quyết định cho là như vậy. Giác quán khởi phát ngôn, nghĩa là như chỗ chấp trước, dùng giác quán làm nhân mà nói ra. Kiến v.v…4 thứ ngôn thuyết, nói ngôn thuyết là những điều nói ra. Kiến, văn, giác, tri, tức thấy nghe hay biết 4 thứ lưu bố. Cộng tướng lưu bố thật không có nghĩa, bởi nếu có nghĩa tức là tăng ích. Điều này có nghĩa là cái được lưu bố thật không có nghĩa mà chấp thủ cho là có nghĩa.

Luận nói : Lại nữa vì sao 3 tính này thể của chúng là khác nhau hay không khác nhau ? Nên nói chẳng phải khác, chẳng phải không khác. Tính y tha này do đạo lý khác thành y tha. Do đạo lý khác tức đây thành phân biệt. Do đạo lý khác tức đây thành thành tựu.

Vì đạo lý khác nào đây thành y tha ? Y tha huân tập chủng tử sinh nên thành y tha. Vì đạo lý khác nào đây thành phân biệt ? Cùng với tướng phân biệt làm nhân duyên nên đây thành phân biệt. Vì đạo lý khác nào đây thành thành tựu ? Như sở phân biệt rốt cuộc không có như vậy. Vì đạo lý khác nào nơi một thức thể là tướng mạo của tất cả các thứ thức thể ? Thức thể của thức A-lê-da là các thứ tướng mạo của các sinh khởi thức. Phải biết là vì nó duyên tướng sinh khởi.

Giải thích : Với phân biệt là tướng nhân duyên, nghĩa là ý thức là năng phân biệt. Vì năng phân biệt này thủ lấy thể của cảnh giới mà sinh, cho nên nó tức là phân biệt. Ý thức này phân biệt tướng kia chấp thủ là thể của cảnh giới sở phân biệt. Vì nghĩa đó nên tính y tha thành tính phân biệt. Như phân biệt ý thức chính phân biệt, khi sở phân biệt thì phân biệt này hoàn toàn không có. Do nghĩa này nên tính y tha thành tình thành tựu.

Luận nói : Tính y tha có mấy thứ ? Đại khái có 2 thứ. Một là y tha chủng tử huân tập. Hai là y tha nhiễm tịnh không thành tựu. Do 2 thứ y tha này nên gọi là y tha. Tính phân biệt cũng có 2 thứ là tự tính phân biệt và sai biệt phân biệt nên gọi là phân biệt. Tính thành tựu cũng có 2 thứ là bản tính thành tựu và thanh tịnh thành tựu nên gọi là tính thành tựu.

Giải thích : Thể nhiễm tịnh không thành tựu nên gọi là y tha, nghĩa là do tính y tha phần phân biệt thành nhiễm, phần vô phân biệt thành tịnh. Trong 2 phần này, nếu là một phần thì không thành tựu. Tự tính phân biệt là như mắt v.v… có tự tính của mắt làm việc phân biệt này. .Sai biệt phân biệt là như mắt kia v.v… tự tính có vô thường v.v… các sai biệt làm việc phân biệt này. Tự tính thành tựu là hữu cấu chân như. Thanh tịnh thành tựu là vô cấu chân như.

Luận nói : Lại có 4 thứ phân biệt là tự tính phân biệt, sai biệt phân biệt, hữu giác phân biệt và vô giác phân biệt. Hữu giác là biết rõ ngôn thuyết của chúng sinh. Vô giác là không biết rõ ngôn thuyết của chúng sinh.

Giải thích : Biết rõ ngôn thuyết nghĩa là có trí về ngôn thuyết. Không biết rõ ngôn thuyết là như bò dê tuy có phân biệt nhưng không có khả năng về tên gọi hay chữ viết.

Luận nói : Lại có 5 thứ phân biệt. Một là tự tính dựa theo tên gọi mà phân biệt nghĩa. Như tên gọi như thế này là có nghĩa như thế này. Hai là tự tính dựa vào nghĩa mà phân biệt tên gọi. Như nghĩa như thế này thì gọi tên là thế này. Ba là tự tính dựa vào tên mà phân biệt tên. Như phân biệt trong các tên mà không biết nghĩa. Bốn là tự tính dựa vào nghĩa mà phân biệt nghĩa. Như phân biệt trong các nghĩa mà không biết tên. Năm là dựa vào danh nghĩa mà phân biệt danh nghĩa. Như nghĩa này là thể như vậy tên như vậy.

Lại nữa gồm chung tất cả phân biệt thì có 10 thứ. Một là phân biệt căn bản, tức là thức A-lê-da. Hai là phân biệt tướng sở duyên, như thức thể của sắc v.v…Ba là phân biệt tương tự, tức là cùng y chỉ thức thể của nhãn thức v.v… Bốn là phân biệt tướng biến đổi, như già v.v…, lạc thụ v.v…, tham v.v…, thời tiết biến đổi v.v…, các biến đổi như địa ngục v.v… các thú, cõi Dục v.v… Năm là phân biệt các biến đổi tương tự, tức như trên đã nói các biến đổi trong những biến đổi. Sáu là phân biệt cái gì người khác trao cho mình, tức phân biệt nhân duyên nghe phi chính pháp, nhân duyên nghe chính pháp. Bảy là phân biệt không đúng, nghĩa là nhân duyên người ngoài Phật pháp nghe phi chính pháp. Tám là phân biệt đúng, nghĩa là nhân duyên người trong Phật pháp nghe chính pháp. Chín là phân biệt chấp trước, nghĩa là phân biệt nhân duyên không chính tư duy, căn bản là thân kiến cùng với các phân biệt tương ưng với 62 kiến. Mười là phan biệt tạp loạn, tức là 10 thứ phân biệt của các Bồ-tát.

Giải thích : Gồm chung tất cả phân biệt có 10 thứ phân biệt. Để nói 10 thứ này nên trong đó phân biệt căn bản là các phân biệt căn bản tự thể, phân biệt tức cũng là thức A-lê-da. Phân biệt về tướng là lấy tướng mạo làm tướng, tức phân biệt sắc v.v…các thức thể. Phân biệt tương tự là trong các chủng loại tướng kia, nếu phân biệt sinh ra năng phân biệt trong các sở phân biệt đó thì có tên này, tức là thức thể của nhãn thức v.v…và y chỉ. Phân biệt tướng biến đổi, nghĩa là kia duyên tướng nếu biến đổi, tức phân biệt thể danh của tướng biến đổi như già nghĩa là thân suy nhược 4 đại biến đổi, phân biệt trong đó gọi là phân biệt tướng biến đổi. Nói v.v.. là gồm có bệnh, chết v.v… Lạc thụ v.v… nghĩa là thân có biến đổi ra tướng cũng vậy. Nói v.v… là gồm có khổ và bất khổ bất lạc v.v… Tham v.v… cũng vậy. Nói v.v… là gồm có sân, si v.v…Uổng hoành và thời tiết biến đổi, nghĩa là trong tướng biến đổi của thân nếu phan duyên sinh phân biệt. Uổng hoành nghĩa là giết, trói v.v…Thời tiết biến đổi là tướng biến đổi vì thời tiết lạnh nóng v.v… Địa ngục v.v…, nói v.v…là gồm có súc sinh, ngạ quỷ. Cõi Dục v.v…, nói v.v… là gồm cả cõi Sắc và Vô sắc. Phân biệt biến đổi tương tự nghĩa là tựa như kia duyên tướng nhãn thức v.v… có các biến đổi, nơi cái thể biến đổi tương tự này khởi sinh phân biệt, tức như trước nói sự biến đổi trong cái già v.v… Bởi vì sao ? Vì trong khi trụ trong cái già v.v… nhãn thức v.v… cũng sinh biến đổi. Phân biệt cái gì người khác rao cho mình nghĩa là cái gì người khác nói là có 2 thứ, đó là nhân duyên nghe phi chính pháp và nhân duyên nghe chính pháp. Hai thứ phân biệt các pháp này là do nghe pháp sinh thiện bất thiện, cũng được giải thích như vậy. Phân biệt không đúng tức là việc nghe phi chính pháp là nhân. Người ngoài pháp này tức những người xuất gia ngoại đạo. Phân biệt dúng là việc nghe chính pháp là nhân, Người trong pháp này là người trong Phật pháp. Phân biệt chấp trước là việc tư duy không đúng là nhân, như Tu-đa-la nói ngã kiến là y chỉ 62 kiến v.v…và phân biệt tương ưng với các kiến chấp này. Phân biệt tán động, tức là 10 thứ phân biệt của các Bồ-tát.

Luận nói : 1.tán động không có tướng, 2.tán động có tướng, 3.tán động tăng ích, 4.tán động tổn giảm, 5.tán động một chấp, 6.tán động khác chấp, 7.tán động tự tính, 8.tán động sai biệt, 9.tán động lấy nghĩa theo tên, 10.tán động lấy tên theo nghĩa. Để đối trị 10 thứ tán động này trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật đều nói đến trí vô phân biệt. Phải biết những chướng ngại và đối trị này đều có đầy đủ trong nghĩa Bát-nhã Ba-la-mật. Kinh nói : Bồ-tát làm thế nào thực hành Bát-nhã Ba-la-mật ? Xá-lợi-phất ! Bồ-tát này đối với Bồ-tát không thấy Bồ-tát. Không thấy Bồ-tát là không thấy Bát-nhã Ba-la-mật, không thấy tu hành, không thấy sắc, không thấy thụ tưởng hành thức. Bởi vì sao ? Tự tính của sắc là không, phi không, nên gọi là không. Nếu sắc không tức chẳng phải sắc, cũng chẳng phải khác không cho nên có sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Bởi vì sao ? Xá-lợi-phất ! Chỉ có tên gọi là sắc. Tự tính không sinh không diệt không nhiễm không tịnh, giả lập tên mượn tạm phân biệt các pháp. Cái tên tạm mượn này lại cứ lưu hành rồi tùy theo chỗ lưu hành mà khởi sinh chấp trước. Bồ-tát đối với thứ danh tự này nhất thiết đều không thấy. Không thấy nên không chấp trước. Như sắc cho đến thức cũng vậy. Phải biết rằng câu Bát-nhã Ba-la-mật này có thể thông đạt nghĩa của 10 thứ phân biệt này.

Giải thích : Trong đây nói “Tán động không có tướng” tức là duyên cái không có này làm tướng, gọi là tán động. Để đối trị tán động này nên trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói thật có Bồ-tát. Nói thật có tức là hiển thị rằng Bồ-tát thật có cái thể không. Ngay nơi cái không đó là cái thể, nên gọi là thể của không. Tán động có tướng, nghĩa là duyên tướng hữu vi, gọi là tán động. Để đối trị tán động này nên trong kinh ấy nói không thấy có Bồ-tát, nghĩa là không thấy lấy phân biệt y tha làm thể. Do ý này nên tán động tăng ích là đối trị cái này. Vì vậy trong kinh ấy nói tự tính của sắc là không, là hiển thị tính phân biệt sắc không. Tán động tổn giảm, tức là đối trị với cái này nên trong kinh ấy nói “bất không”, nghĩa là sắc pháp như là bất không vậy. Tán động một chấp, tức là để đối trị lại cái này nên trong kinh nói cái sắc không này chẳng phải sắc. Bởi vì sao ? Nếu tính y tha với tính thành tựu là một thì tính y tha cũng phải như tính thành tựu, là cảnh giới thanh tịnh. Tán động chấp khác là để đối trị cái chấp này, nên kinh nói chẳng phải sắc khác không. Bởi vì sao ? Nếu 2 cái này có khác nhau thì pháp và pháp tính cũng phải khác nhau. Chấp khác nhau là không đúng, như pháp vô thường và vô thường không thể có khác nhau. Đứng về tính phân biệt nên nói sắc tức là không, không tức là sắc. Bởi tính phân biệt sắc vô sở hữu tức là không. Cái không này là cái sắc vô sở hữu, chẳng phải như tính y tha với tính thành tựu. Tán động tự tính, nghĩa là để đối trị cái này, nên kinh nói : Xá-lợi-phất ! Chỉ có danh gọi là sắc. Vì tự tính của sắc là vô sở hữu. Tan động sai biệt, nghĩa là để đối trị cái này nên kinh nói tự tính không sinh không diệt không nhiễm không tịnh. Trong đó nếu sinh tức có nhiễm, nếu diệt tức có tịnh. Do không sinh không diệt nên tức không nhiễm không tịnh. Các câu này, nghĩa của nó là như vậy. Như tán động lấy nghĩa theo tên, nghĩa là tùy theo tên mà lấy nghĩa tức là tán động. Để đối trị cái này kinh nói giả lập các thứ danh tự. Phân biệt các pháp nhiều thứ khác nhau, nghĩa là lấy tên theo nghĩa, tức là tán động này. Để đối trị cái này, nên kinh nói giả lập tên tạm rồi lưu hành, nghĩa là không phải tự tính của nghĩa có tên như vậy. Để đối trị 10 thứ tán động này nên nói Kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Do thuyết này là nhân, nên sinh trí vô phân biệt.

Luận nói : Nếu do đạo lý khác, tính y tha được thành 3 tính. Vì sao 3 tính này không được thành một ? Do đạo lý khác nên thành tính y tha, chứ không phải do đạo lý ấy nên thành phân biệt và thành tựu. Do đạo lý khác nên thành tính phân biệt, chứ không phải do đạo lý ấy nên thành y tha và thành tựu. Do đạo lý khác nên thành thành tựu, chứ không phải do đạo lý ấy nên thành y tha và phân biệt.

***

Phải biết thắng tướng thắng ngữ 2 – 2

Chương 3 : Phân biệt

Luận nói : Lại nữa, làm sao biết được tính y tha là tính phân biệt ? Tướng hiển hiện mà trụ, nhưng chẳng phải thể của tính phân biệt. Trước khi có tên không có trí, tức mâu thuẫn với thể. Nhiều tên có nhiều thể là mâu thuẫn với đây. Tên không nhất định mâu thuẫn với tạp thể. Ở đây có kệ như sau :

Trước tên không có trí,

Nhiều tên và bất định,

Đồng và nhiều tạp thể,

Thành tựu mâu thuẫn đây.

Pháp không mà thấy được,

Không nhiễm mà có tịnh.

Phải biết như ảo hóa,

Cũng tựa như hư không.

Giải thích : Như trong tính y tha, tuy phân biệt một phần có thể thấy, nhưng không thành tính của nó, hiển thị đây nên trước tên không có trí. Đồng thể mâu thuẫn nhau, nghĩa là nếu phân biệt với y tha là một thể thì lìa tên trong nghĩa trí sinh. Như cái bình lìa tên bình, trong nghĩa bình trí bình không sinh. Nếu tên bình và nghĩa bình là một tướng thì trí phải tự sinh. Vì không phải một tướng nên nếu nói tên và nghĩa đồng một thể tức là mâu thuẫn. Trong đây thành lập tên là y tha, nghĩa tức là phân biệt. Bởi vì sao ? Y tha này do sức của tên nên thành sở phân biệt. Lại nữa một nghĩa có nhiều tên, nếu tên và nghĩa, là một tướng, nếu như tên có nhiều, nghĩa cũng phải nhiều. Nếu vậy nghĩa này tức phải có nhiều thể. Một nghĩa này có nhiều thể, tức là mâu thuẫn. Vì vậy cho nên hai tính một thể tức là mâu thuẫn thứ hai. Lại nữa tên không nhất định là một, như tên “Cù” có thể có 9 nghĩa. Nếu chấp cho là tên và nghĩa là một, tức các nghĩa đồng thể. Cái chấp này là mâu thuẫn thứ ba. Bởi nghĩa của vô lượng biệt tướng đều thành một thể bình đẳng. Cho nên trong kệ cũng có nói nghĩa này. Trong kệ nói thành tựu tức nói rõ y tha và phân biệt không có nghĩa đồng thể. Thành tựu pháp là không mà có thể thấy v.v… một kệ này là dạy các đệ tử. Thí dụ ảo hóa v.v… cho nên đệ tử có 2 thứ mâu thuẫn nghi ngờ hỏi pháp không mà có thể thấy, không nhiễm mà có tịnh. Ở đây có nghi là như ảo hóa nghĩa là ảnh tượng ảo hóa thật không có mà có thể thấy. Nghĩa cũng như vậy, tuy không có mà cũng có thể thấy. Lại nữa như mây trong hư không, không thể nhiễm ô bản tính thanh tịnh. Nhưng những lúc không mây gọi là thanh tịnh. Các pháp cũng vậy bản tính thanh tịnh không có nhiễm ô. Nhưng khi không có khách trần chướng cấu, gọi là thanh tịnh.

Luận nói : Lại nữa, như chỗ hiển hiện đã không có, tính y chỉ này tất cả mọi thứ đều không, vì sao bất thành ? Nếu không y tha, tính thành tựu cũng không. Tất cả vô sở hữu thì nghĩa này bất thành. Nếu tính y tha và tính thành tựu đều không thì không có lỗi nhiễm ô vạ thanh tịnh. Hiện thấy nhiễm ô và thanh tịnh, cho nên không phải tất cả là không. Ở đây có bài kệ như sau :

Nếu không tính y tha,

Tính thành tựu cũng không.

Thì cũng hằng chẳng có,

Nhiễm ô và thanh tịnh.

Giải thích : Tính y tha như chỗ hiển hiện không có như vậy. Nay để hiển thị tất cả mọi thứ đều không là không đúng nên nói y tha này nếu không có thì thành tựu cũng không có. Bởi vì sao ? Do có nhiễm cho nên phải có tịnh. Vì vậy nếu cẩnhi thứ đều không thì tất cả đều không. Nghĩa này không thành. Nay sẽ hiển thị sự chê trách không nhiễm tịnh. Đây là sai lầm. Bởi vì sao ? Vì hiện thấy có nhiễm có tịnh nên y tha và thành tựu 2 pháp hiện thấy là có. Nếu chấp nói không tức thật có nhiễm tịnh mà chê trách nói không.

Luận nói : Trong Kinh Đại Thừa Phương Quảng Phật Thế Tôn đã nói : Phải biết tính phân biệt như thế nào ? Phải biết nếu nói là vô sở hữu. Phải biết tính y tha như thế nào ? Phải biết nếu nói như các thí dụ ảo hóa, sóng nắng, ảnh tượng chiêm bao, tiếng vang, trăng dưới nước. Phải biết tính thành tựu như thế nào ? Phải biết nếu nói 4 pháp thanh tịnh. Bốn pháp thanh tịnh là : Một là bản tính thanh tịnh. Như nói chân như, không, thật tế, vô tướng, đệ nhất nghĩa, pháp giới v.v…Hai là ly cấu thanh tịnh. Nghĩa là xa lìa tất cả chướng cấu. Ba là đắc đạo cùng tột thanh tịnh. Tức tất cả các pháp Bồ-đề phần, Ba-la-mật v.v… Bốn là đạo sinh cảnh giới thanh tịnh. Nghĩa là các chính pháp Đại thừa nói ra là nhân thanh tịnh, chẳng phải tính phân biệt, là lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh, nên chẳng phải là tính y tha. Trong 4 pháp này thâu nhiếp được tất cả tịnh pháp. Ở đây có kệ như sau :

Ảo hóa …nói là sinh,

Nói không, hiển phân biệt.

Bốn thứ pháp thanh tịnh,

Đây là tính thành tựu.

Thanh tịnh có bản tinh,

Vô cấu, đạo phan duyên.

Tất cả pháp thanh tịnh,

Bốn thứ đây gồm hết.

Giải thích : Bản tính thanh tịnh là tự thể thanh tịnh. Tự thể này tức chân như, tất cả chúng sinh đều có. Vì tướng bình đẳng cho nên do có đây mà nói tất cả pháp là Như Lai tạng. Ly cấu thanh tịnh nghĩa là chân như này đã xa lìa tất cả phiền não trí chướng. Do chân như thanh tịnh này nên được gọi là Phật. Được đạo rất thanh tịnh nghĩa là đạo được kia cũng là thanh tịnh, tức Bô-đề phần, Niệm xứ v.v..các Ba-la-mật. Đạo sinh cảnh giới thanh tịnh nghĩa là các pháp Bồ-đề phần vượt trội được sinh duyên. Sinh duyên này cũng thanh tịnh nên nói là đạo sinh cảnh giới thanh tịnh. Tức là ngôn giáo của 12 bộ Tu-đa-la v.v… Các ngôn giáo này nếu là phân biệt tức thành nhân nhiễm ô, nếu là y tha tức thành hư vọng. Vì lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh nên chẳng phải hư vọng. Do lìa 2 tính này nên được thành tựu. Lại nữa phải biết 4 tướng này trong Đại thừa tùy nói một thứ. Tức là nói tính thành tựu, trong đó 2 cái đầu là thành tựu không biến đổi, nên gọi là thành tựu. Hai cái sau vì không điên đảo nên gọi là thành tựu. Trong bài kệ sau nói rõ đầy đủ nghĩa này. Ảo hóa v.v… nói với sinh là tính y tha nói là sinh, tùy theo nơi nào mà nói tất cả pháp như huyễn như hóa v.v… Đây nói tính y tha là nói không hiển lộ phân biệt. Nếu nói không có sắc, nói vô sở hữu, cho đến tất cả pháp là vô sở hữu, tức là nói tính phân biệt.

Luận nói : Lại nữa, vì nhân duyên gì như kinh nói tính y tha ví như chuyện ảo hóa v.v… Là vì để loại bỏ mối nghi ngờ hư vọng đối với tính y tha của người. Thế nào là sinh nghi ngờ hư vọng đối với tính y tha ? Người ta nghĩ như thế này : Vì sao thật không có mà thành có cảnh giới ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên ví dụ như ảo hóa. Nếu không thật có, làm sao só tâm và tâm pháp sinh ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví như sóng nắng. Nếu không thật có, làm sao có được sự thụ dụng yêu thích và không yêu thích ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví như chiêm bao. Nếu không thật có, làm sao sinh được nghiệp thiện bất thiện và quả báo yêu thích không yêu thích ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói thí dụ ảnh trong gương. Nếu không thậ có, làm sao sinh được các thức ? Để trừ nghi ngờ này nên nói ví dụ như bóng nắng. Nếu không thật có, làm sao sinh ra các thứ ngôn thuyết lưu bố ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví dụ như tiếng vang. Nếu không thật có, làm sao được thành cảnh giới thật trong Tam-ma-đề ? Để trừ bỏ nghi ngờ này nên nói ví dụ như trăng dưới nước. Nếu không thật có, làm sao Bồ-tát được tự tại dùng tâm không điên đảo làm việc lợi ích chúng sinh ? Để trừ nghi ngờ này nên nói ví như biến hóa.

Giải thích : Để hiển thị tính y tha nên nói ví dụ ảo hóa. Nói “trong hư vọng nghi ngờ” nghĩa là trong thể hư vọng sinh nghi ngờ, cho nên trong tính y tha lấy ảo hóa v.v…làm thí dụ hiển thị như ảnh tượng ảo hóa không thật có mà thành cảnh giới, các pháp cũng vậy. Để trừ bỏ nghi ngờ kia nên làm thí dụ ảo hóa. Nếu không có thì không có chỗ phan duyên, tâm và tâm sở làm sao sinh được ? Để đối trị nghi ngờ này nên nói thí dụ sóng nắng. Trong đó sóng nắng thí dụ tâm và tâm pháp. Nước dụ cho sóng nắng rung động. Nước như thức sinh, thật không có nước. Tâm và tâm pháp cũng như vậy, do động nên không thật có mà sinh ra nơi thức. Các phàm phu, Tiểu thừa lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao được thụ dụng ái phi ái ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ như chiêm bao. Tính y tha như trong chiêm bao, không thật có mà được thụ dụng ái phi ái. Trong đây được thành thụ dụng cũng vậy. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có nghiệp thiện bất thiện, làm sao thành quả báo ái bất ái ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ ảnh tượng trong gương. Tính y tha như ảnh tượng trong gương, không thật có mà chính mặt mình sinh trí thấy có ảnh tượng, thật sự không có ảnh tượng. Quả báo ái phi ái cũng như vậy không thật có, nhưng có thể thấy. Lại nữa có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao có sinh các thứ thức ? Để đối trị nghi ngờ này nên dùng bóng sáng thí dụ.Tính y tha như người chơi đùa với ảnh. Tùy mỗi tướng mạo có nhiều thứ hiện, nhưng không có ảnh nào là thật có. Thức cũng vậy, thật không có các thứ, nhưng có thể thấy các thứ. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao có thể sinh vô lượng ngôn thuyết lưu bố ? Để trừ nghi ngờ này nên thí dụ như tiếng vang. Tính y tha như tiếng vang, không thật có, nhưng có thể nghe được. Cũng như vậy, ngôn thuyết lưu bố không thật có, nhưng có thể tiếp nhận được. Lại có nghi ngờ rằng nếu không có, làm sao được định ? Tâm và tâm pháp thấy được là do kinh nói mà người được định tâm thấy biết như thật. Để đối trị nghi ngờ này nên nói thí dụ như trăng dưới nước. Trăng dưới nước không thật có nhưng có thể trông thấy vì nước trong trẻo lặng yên. Định tâm cũng vậy, thật không có cảnh giới mà vẫn trông thấy được vì Tam-ma-đề như thể của nước trong trẻo. Lại có nghi ngờ rằng nếu không thật có chúng sinh, làm sao có được chư Bồ-tát như thật trí v.v…? Trước dùng trí tuệ quán sát là các chúng sinh kia thụ thân nơi các thú. Để đối trị nghi ngờ này nên lấy thí dụ là biến hóa. Tính y tha như biến hóa, không thật có, tùy tâm người biến hóa mà thành có các việc, chẳng phải không do biến hóa mà có thể thấy được. Như vậy tuy thật không thụ thân, nhưng là tất cả chúng sinh nên thụ thân.

Lại nữa vì ý gì Thế Tôn nói 8 thí dụ này ? Nay sẽ nói rõ. Trong đó nói dụ như ảo hóa là đối trị nhãn v.v…6 nội nhập. Do mắt v.v…các ảo ảnh không có thật mà cũng có thể thấy. Thí dụ sóng nắng là ví dụ cho khí thế gian, do thể rộng lớn nên như sóng nắng dao động, thật không có nước mà thấy có nước. Để đối trị sự thụ dụng sắc v.v… nên nói ví như chiêm bao. Trong chiêm bao, sắc v.v… không thật có, nhưng vì đó là nhân của yêu ghét v.v…mà thành có sự thụ dụng. Để đối trị thân nghiệp nên nói ví dụ ảnh trong gương, do thân nghiệp thiện bất thiện làm nhân duyên nên có các sắc sinh ảnh tượng. Để đối trị khẩu nghiệp nên nói ví dụ tiếng vang. Do khẩu nghiệp là nhân nên có quả của khẩu nghiệp, như tiếng vang vậy. Ý nghiệp có 3 thứ : một Dục giới, hai tĩnh địa, ba văn v.v…sinh. Trong đó để đối trị ý nghiệp của Dục giới nên nói ví như bóng sáng. Do quả báo của ý nghiệp giống như bóng sáng vậy. Để đối trị ý nghiệp của tĩnh địa, nên nói ví dụ trăng dưới nước. Do quả của ý nghiệp của tĩnh địa như trăng trong nước, không thật có nhưng trong tĩnh tâm hiển hiện các thứ quả. Để đối trị ý nghiệp của văn v.v… nên nói ví dụ biến hóa. Trong đó nói văn v.v… tức là các văn, tư huân tập, hiển thị sinh ý của văn v.v… này như hóa hiện.

Luận nói : Thế Tôn dựa vào nghĩa gì trong Kinh Phạm Thiên Vấn nói Như Lai không thấy sinh tử không thấy Niết-bàn ? Dựa vào trong tính y tha, về tính phân biệt và tính thành tựu nên không có nghĩa sai biệt về thể của sinh tử Niết-bàn. Trong đó tính y tha này phân biệt thành sinh tử, thành tựu thành Niết-bàn.

Giải thích : Pháp tướng của 3 tính này, như Tu-đa-la nói là tùy thuận tương ưng. Nay sẽ nói rõ. Dựa vào nghĩa gì mà trong Kinh Phạm Thiên Vấn nói Như Lai không thấy sinh tử và Niết-bàn. Vì dựa vào nghĩa sinh tử và Niết-bàn là vô sai biệt. Tính y tha chẳng phải là sinh tử do phần thành tựu tức là Niết-bàn. Cúng chẳng phải Niết-bàn do phần phân biệt thành sinh tử. Vì vậy không thể nói thiên về một phần. Thế Tôn thấy trong y tha không thiên về một tính, do ý này nên trong kinh ấy nói không thấy sinh tử không thấy Niết-bàn.

Luận nói : Như Thế Tôn trong Kinh A-tì-đạt-ma nói có 3 thứ pháp là phần nhiễm ô, phần thanh tịnh và cả hai phần. Dựa vào nghĩa gì mà nói như vậy ? Trong tính y tha, tính phân biệt là phần nhiễm ô, tính thành tựu là phần thanh tịnh. Tức tính y tha này là 2 phần kia. Do nghĩa này mà có thuyết như vậy. Nghĩa này hiển thị bằng thí dụ gì ? Lấy thí dụ vàng ở trong đất. Như vàng ở trong đất có thể thấy được 3 thứ : một là cõi đất, hai là đất, ba là vàng ở trong cõi đất. Đất chẳng phải có mà có thể thấy. Vàng thật có mà không thể thấy. Nếu dùng lửa nung thì đất không hiện mà vàng hiển hiện. Lại nữa ở trong cõi đất khi tướng đất hiện là hiện thể hư vọng, khi thể vàng hiện là hiện thể chân thật. Vì vậy cõi đất có 2 phần. Cũng như vậy, tính của thức này khi chưa bị lửa vô phân biệt trí nung đốt thì trong thức tính, tính hư vọng phân biệt hiển hiện, tính thành tựu không hiển hiện. Thức tính này nếu được lửa vô phân biệt trí nung đốt thì trong thức tính, thật có tính thành tựu hiển hiện, mà tính hư vọng phân biệt không hiển hiện. Vì vậy cái thể của thức hư vọng phân biệt này, tính y tha có 2 phần như cõi đất có vàng chứa trong đất vậy.

Giải thích : Như vậy trong A-tì-đạt-ma Tu-đa-la nói phân biệt là tính nhiễm ô, thành tựu là tính thanh tịnh, y tha là thể của 2 phần kia. Do nghĩa này nói 3 thứ pháp là phần nhiễm ô, phần thanh tịnh và hai phần kia, được hiển thị bằng thí dụ cõi đất có đất chứa vàng. Trong đó vàng là chủng tử vàng, cõi đất là tính cứng, đất là sở tạo sắc. Nơi tướng đất có 3 thứ có thể được. Cõi đất kia có chứa vàng, chỉ thấy tướng đất hiển hiện. Thể vàng kia sau mới biết có. Bởi vì sao ? Nếu dùng lửa nung thì vàng mới hiện. Vì vậy biết rằng vàng là có từ bản lai.

Luận nói : Thế Tôn có chỗ thì nói tất cả pháp là thường, hoặc có chỗ thì nói là vô thường, hoặc có chỗ thì nói phi thường phi vô thường. Vì nghĩa gì nói là thường ? Trong tính y tha, đứng về phần tính thành tựu nên nói là thường, đứng về phần tính phân biệt nên nói là vô thường, đứng về cả 2 phần nên nói là phi thường phi vô thường. Vì nghĩa này nên nói là thường, vô thường, không hai. Khổ vui cũng không hai. Thiện bất thiện cũng không hai. Không phi không, không hai. Ngã vô ngã, không hai. Tịch tĩnh phi tịch tĩnh không hai. Có tự tính, không tự tính, không hai. Sinh, không sinh, không hai. Diệt, không diệt, không hai. Vốn vắng lặng, chẳng phải vốn vắng lặng, không hai. Bản tính Niết-bàn, chẳng phải bản tính Niết-bàn, không hai. Sinh tử, Niết-bàn, không hai. Như vậy các sai biệt, tất cả mật ngữ của chư Phật Thế Tôn đều tùy thuận 3 tính mà nói như thường, vô thường. Ở đây có bài kệ như sau :

Như pháp vô sở hữu,

Mà hiện vô lượng thứ.

Phi pháp, phi phi pháp,

Nên nói không hai nghĩa.

Y một phần hiển thị,

Hoặc hữu hoặc phi hữu.

Y hai phần mà nói,

Phi hữu, phi phi hữu.

Như hiển hiện phi hữu,

Cho nên nói là không.

Do như vậy hiển hiện,

Cho nên nói là có.

Tự hiển vô sở hữu,

Vì tự thể không trụ.

Như thủ đã không có,

Nên thành vô tự tính.

Do vô tính nên thành,

Trước là sau y chỉ.

Vô sinh tịch diệt tĩnh,

Và bản tính Niết-bàn.

Giải thích : Như pháp là vô sở hữu mà hiện ra vô lượng chủng loại, nghĩa là nửa kệ trên theo tuần tự là phi pháp, phi phi pháp. Bởi vì sao ? Vì vô sơ hữu nên gọi là phi pháp. Vì chẳng phải pháp không hiển hiện nên gọi là phi phi pháp. Vì phi pháp phi phi pháp nên nói là nghĩa không hai. Một phần nghĩa là một bên. Hoặc hữu hoặc phi hữu nghĩa là hoặc ở bên hữu hoặc ở bên vô. Hiển thị nghĩa là nói. Dựa vào 2 phần nói là phi hữu phi phi hữu, nghĩa là do tính y tha có đủ 2 thể. Lấy nghĩa này nên nói phi hữu phi phi hữu. Như hiển hiện phi hữu nghĩa là như pháp được trông thấy, nó là chẳng phải có, vì vậy nói nó là không. Vì vậy nói là có, nghĩa là vì theo nghĩa này nên nói là có. Nay sẽ nói về ý vô tự tính. Tự chẳng có là do tất cả pháp không có. Lìa nhân duyên mà có thể tự có, đây là một loại ý vô tự tính. Thể không có, cũng là một loại vô tự tính. Nếu pháp diệt rồi, thể kia không sinh trở lại, nên vô tự tính. Vì tự thể không trụ, nghĩa là các pháp ngay khi sinh không có lực có thể trụ quá một sát-na, đây cũng là vô tự tính. Các pháp vô tự tính này cộng hữu với Thanh Văn. Nếu đã không có thì không cộng hữu với Thanh Văn. Cái tính phân biệt như phàm phu chấp thủ không phải như cái hữu này. Cho nên ý này là nói pháp vô tự tính trong Đại thừa. Lại vì cái vô tự tính này nên vô sinh v.v…tất cả đều được thành tựu. Bởi vì sao ? Do tự vô tính nên không sinh, do không sinh nên không diệt, do không sinh diệt nên xưa nay vắng lặng, do xưa nay vắng lặng nên tự tính Niết-bàn. Trước là y chỉ của sau tức trước là nhân của sau.

Chương 4 : Bốn ý bốn hợp nghĩa

Luận nói : Lại có 4 thứ ý, 4 thứ hợp nghĩa, tất cả lời Phật nói, nên tùy thuận mà hiểu cho đúng. Một là ý bình đẳng, như nói ta xưa kia là Tì-bà-thi Chính biến tri. Hai là ý theo lúc khác, như nói tụng trì tên Đa Bảo Như Lai chắc chắn được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Lại như kinh nói chỉ phát nguyện là được sinh thế giới Cực Lạc. Ba là ý theo nghĩa riêng, như kinh nói thân cận chư Phật nhiều như cát sông Hằng, hiểu được nghĩa của pháp Đại thừa. Bốn là ý tùy theo tâm người, nghĩa là hoặc vì người này khen ngợi sự bố thí, sau lại vì người này chê bai sự bố thí. Giống như bố thí, giới và các tu pháp khác cũng vậy. Đó gọi là 4 ý.

Giải thích : Như có người lấy cùng một pháp nên nói kia tức là ta. Thế Tôn cũng vậy, tâm ở nơi pháp thân bình đẳng nên nói ta khi ấy là Tì-bà-thi v.v… chẳng phải Tì-bà-thi tức là Phật Thích-ca Mâu-ni. Đây là lấy ý bình đẳng. Ý theo lúc khác, nghĩa là ý này không phải nói chỉ xưng danh hiệu Phật là quyết định được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Như nói dùng một đồng tiền vàng được ngàn đồng tiền vàng, lẽ nào một mà nói là được ư ? Ý này là nói ở một lúc đặc biệt nào đó, vì một đồng tiền vàng là nhân được ngàn đồng tiền vàng. Cũng như vậy, chỉ phát nguyện là được sinh thế giới Cực Lạc cũng với ý đó. Phải biết rằng trong ý theo nghĩa riêng, hiểu được pháp Đại thừa, nghĩa là trong 3 tính đạo lý tự giác tướng ấy. Nếu ý của Thế Tôn chỉ được hiểu nghĩa theo văn từ thì phàm phu cũng hiểu đúng được. Hiểu nghĩa kia là ắt phải do thân cận vô lượng chư Phật mới được, cho nên đây là ý của Phật. Ý tùy theo tâm người, nghĩa là hoặc với người này khen ngợi bố thí, rồi lại cũng với người này che bai bố thí. Ý như vậy là tùy theo người kia mà sử dụng. Nếu là người keo kiệt thì khen ngợi sự bố thí. Nếu người này đối với bố thí mà đắc thắng thì chê bai sự bố thí. Nếu không có ý này mà đối với một việc bố thí khi khen khi chê tức là mâu thuẫn. Do có ý này nên hoặc khen hoặc chê đều thích hợp. Giới v.v… cũng vậy. Phải biết một phần tu nghĩa là thế gian tu. Ý và nghĩa khác nhau nghĩa là nếu như Thế Tôn có tâm sở tại mà nói, đó là ý. Còn do nói ra chắc chắn khiến người vào trong Phật giáo, đó là nghĩa.

Luận nói : Bốn thứ hợp nghĩa, đó là : Một là nghĩa khiến nhập. Như trong Thanh Văn thừa, nếu trong Đại thừa, y vào đạo lý thế đế nói sự sai biệt của 2 thứ tự tính nhân và pháp. Hai là nghĩa tướng, nghĩa là tùy theo tướng thuyết pháp, đều dùng 3 tính hiển thị. Ba là nghĩa đối trị, như nói có 8 vạn 4 ngàn hạnh môn đối trị.

Giải thích : Trong đây nói nghĩa khiến nhập, tức là đối với 2 thứ nhân và pháp, đứng về đạo lý thế đế, hoặc nói tự tính, hoặc nói sai biệt, là khiến chúng sinh vào trong Phật pháp, cho nên gọi là nghĩa khiến nhập. Nghĩa tướng là trong đó lấy nghĩa của tướng mà nói các tướng do nói 3 tính. Nghĩa đối trị, nghĩa là nói chúng sinh làm việc đối trị, tức nói chư chúng sinh đối trị phiền não, để an lập chỗ đối trị phiền não cho chúng sinh.

Luận nói : Bốn phiên nghĩa, như chữ tiếng có nghĩa riêng. Để hiển thị nghĩa riêng, ở đây có bài kệ như sau :

A-sa-lê Sa-la-mạt-đa-da Tì-bát-rị-da-tư-chá Tố-tất-đa giả Cát-lê-đà-nại-chá Tố-tăng-cát-lợi-sắt-tra La-bàn-đê-bồ-đề-một-đáp-ma

Giải thích : Trong đây A-sa-lê nghĩa là hiển liễu nghĩa, gọi là không thật, ẩn mật nghĩa, gọi là bất động. Tức là định này vì bất động nên gọi là A-sa-lê. Sa-la-mạt-đa-da nghĩa là dịch là đối với định khởi ý tôn trọng. Tì-bát-rị-da-tư-chá nghĩa là nếu hiển thị liễu nghĩa gọi là điên đảo, ẩn mật nghĩa gọi là chuyển đảo. Tố-tất-đa nghĩa là khéo trụ trong chuyển đảo. Khéo trụ nên vô thường gọi là thường. Đây là điên đảo, chuyển vô thường kia gọi là thường, vì khéo trụ trong điên đảo. Cát-lê-đà-nại-chá nghĩa là nếu hiển thị liễu nghĩa thì gọi là phiền não, ẩn mật nghĩa gọi là cần khổ. Tố-tăng-cát-lợi-sắt-tra nghĩa là khéo nhiễm, cho nên kinh nói ở lâu trong sinh tử nhiễm cần khổ. La-bàn-đê-bồ-đề-một-đáp-ma dịch nghĩa là sẽ được thắng Bồ-đề. Câu này có thể hiểu.

Luận nói : Nếu muốn giải thích pháp Đại thừa, đại khái nên dùng 3 tướng giải thích : một là giải thuyết về duyên sinh, hai là giải thuyết về nhân duyên sở sinh pháp, ba là giải thuyết nghĩa trong ngôn giáo. Trong đây giải thuyết duyên sinh như kệ nói :

Ngôn huân tập sinh pháp,

Đây với kia cũng vậy.

Đây là nói quả báo thức và sinh khởi thức làm duyên sinh cho nhau. Nhân duyên sở sinh pháp kia, sinh khởi thức là tướng có thể tính của tướng và kiến thức. Kia do trụ trì tướng, phân biệt tướng, pháp nhĩ tướng, tức đây được hiển thị 3 tính tướng, như kệ nói :

Có tướng và có kiến,

Thế là biết 3 tướng.

Lại nữa, thế nào là giải thích tướng kia ? Nghĩa là tướng phân biệt trong tướng y tha thì không thể, tướng thành tựu trong y tha thì có. Do 2 cái này, nên không có và có, không thể được có thể được, không thấy chân thật thấy chân thật 2 cái này đồng thời. Lại nữa ở trong tính y tha, phân biệt thì vô sở hữu mà thành tựu thì hữu, cho nên được kia thì không được đây, không được kia thì được đây. Như kệ nói :

Y tha : phân biệt không,

Chỉ thành tựu là có.

Không được với lại được,

Trong đó hai như nhau.

Giải thích : Ngôn thuyết huân tập sinh các pháp, nghĩa là bên ngoài phân biệt huân tập thức A-lê-da, tức trụ ở trong thức do huân tập này làm nhân sinh tất cả pháp., tức là tự tính của sinh khởi thức. Đây với kia cũng vậy, nghĩa là cái phân biệt huân tập này lấy ngay các pháp kia làm nhân. Đây hiển thị thức A-lê-da với sinh khởi thức làm nhân cho nhau. Lại nữa tính của sinh khởi thức có các pháp có thức thể của tướng và kiến làm tính, nghĩa là nếu thức thể có tướng và có kiến tức là thể của kia. Nói các pháp có 3 tướng là trụ trì tướng, tức là tướng y tha. Do các thuyết nói đây nên 3 tính có các tướng được hiển thị. Các nghĩa như vậy dùng nghĩa của kệ hiển hiện có tướng có kiến. Vậy nên biết 3 tướng là 3 tướng này như được hiển thị trong giải thích của luận bản. Không có và có, không thể được và có thể được, không thấy chân thật và thấy chân thật, cả hai đồng thời v.v… nghĩa là để hiển thị điều đó, trong đây nói hai tức là phân biệt và thành tựu. Trong 2 phần này, một là không có, một là có. Nói có không có là nếu được phân biệt thì không được thành tựu, bởi không thấy chân thật. Tức lúc ấy không được phân biệt mà được thành tựu, bởi thấy chân thật. Những nghĩa như vậy lại dùng kệ hiển thị. Trong kệ nói bình đẳng, nghĩa là một sát-na cho nên nói trong tức là trong tính y tha. Nói hai tức là thấy chân thật và không thấy chân thật. Nói “cho nên” tức là do có nhân duyên. Bởi trong tính y tha, phân biệt là không, thành tựu là có. Cho nên phàm phu thấy là do điên đảo, các Thánh nhân thấy là do chính kiến.

Luận nói : Giải thích nghĩa trong ngôn giáo, nghĩa là như nói câu đầu tiên làm chính rồi dùng các câu khác làm rõ phần ấy. Hoặc công đức y chỉ hoặc nghĩa y chỉ. Công đức y chỉ là như nói công đức của Phật thanh tịnh giác cùng tột không có 2 pháp, hành pháp vô tướng là thắng đạo, trụ nơi Phật trụ, được bình đẳng tất cả Phật, đến chỗ không còn chướng ngại, pháp không thoái chuyển, thành lập cảnh giới vô ngại không thể nghĩ bàn, nhập tam thế bình đẳng, thân biến khắp tất cả thế giới, trí thông suốt không ngại tất cả pháp, tất cả hạnh đầy đủ, trí biết không ngại đối với các pháp, thân không phân biệt, trí tất cả Bồ-tát mong cầu, đến chỗ Phật trụ không hai, đến cứu cánh đệ nhất Ba-la-mật, trí giải thoát không sai biệt của Như Lai, nhập vào pháp giới bình đẳng không ở ngoài biên không ở chính giữa của Phật địa, đệ nhất tận cùng cõi hư không, thanh tịnh giác cùng tột làm gốc. Ngoài ra các câu khác đều là sai biệt của câu này. Phải biết rằng tất cả như thế gọi là giải thích tốt. Các pháp thể thanh tịnh giác cùng tột là cái thanh tịnh giác cùng tột này của Phật Thế Tôn. Phải biết thâu nhiếp 21 công đức khác của Phật. Tức là công đức hoàn toàn không chướng ngại chuyển khiến nhập vào hữu vô không hai tướng. Công đức chân như thanh tịnh cùng tột. Công đức Phật trụ không dụng công mà Phật sự không ngừng nghỉ, pháp thân làm y chỉ. Công đức tâm nghiệp không sai biệt. Công đức tu đối trị tất cả chướng. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức sinh tại thế gian không bị pháp thế gian trở ngại. Công đức thành lập pháp. Công đức thụ ký. Công đức thị hiện thụ dụng thân, hóa thân trong tất cả thế giới. Công đức đoạn nghi. Công đức khiến nhập vào các hạnh. Công đức sinh trí pháp vị lai. Công đức hiển thị như chỗ mong muốn. Công đức vì giáo hóa chúng sinh hiện vô lượng thân. Công đức thành tựu pháp thân bình đẳng Ba-la-mật. Công đức tùy theo tín lạc

hiển thị cõi Phật vô sai biệt. Công đức 3 thứ Phật thân không giới hạn phương sở. Công đức hằng vì lợi lạc chúng sinh cho đến tận cùng sinh tử. Công đức vô tận.

Giải thích : Hiển thị trong phần đó, nghĩa là như chỗ cần phải giải thích. Nay sẽ làm rõ nghĩa này. Hoặc gồm trong công đức, hoặc gồm trong nghĩa. Gồm trong công đức tức thanh tịnh giác cùng tột là câu đầu tiên. Ngoài ra các câu khác là làm rõ nghĩa đó. Trong đây không hai hạnh là hai hạnh không thể được gọi là không hai hạnh. Chẳng phải như trí Thanh Văn, Bích-chi-phật cũng có chướng ngại cũng không chướng ngại, hữu vô không hai tướng. Đệ nhất thanh tịnh nghĩa là chân như thanh tịnh, tức là pháp vô tướng. Chân như này chẳng phải có tướng bởi tất cả pháp là vô sở hữu. Cũng chẳng phải không có tướng bởi có tướng tự thể. Chân như này trong pháp vô tướng là đệ nhất thanh tịnh. Nhập xứ cho nên nói công đức khiến nhập. Tối thắng cho nên gọi là đạo. Đạo là nghĩa nhập xứ nên gọi là đạo. Công đức Phật trụ không dụng công mà Phật sự không ngừng nghỉ nghĩa là đối với công việc Phật sự thường làm mà không dừng lại. Công đức tu đối trị tất cả chướng nghĩa là dùng tất cả thời gian hằng tu chính giác, cho nên có thể đối trị tất cả chướng ngại. Công đức sinh tại thế gian mà không bị pháp thế gian chướng ngại nghĩa là phàm sinh trong thế gian tất hành động trong cảnh giới thế gian, nhưng tuy sinh thế gian không bị 8 pháp lợi thế gian làm nhiễm. Công đức thành lập pháp là Tu-đa-la v.v…các pháp vô lượng không thể nghĩ bàn, bởi phàm phu không thể ngộ nhập cho nên gọi là thanh tịnh giác cùng tột. Đây tức là đều tương ưng với một câu thanh tịnh giác cùng tột này. Công đức sinh trí pháp vị lai nghĩa là ccs pháp sinh ở đời vị lai như vậy đều có thể biết được. Công đức tương ưng vô lượng thân để giáo hóa chúng sinh nghĩa là vô lượng các thân Bồ-tát nếu làm công việc giáo hóa chúng sinh, chư Phật được trí tự tha bình đẳng, cho nên trí kia tức gồm trong Phật trí, tức là việc giáo hóa của Phật. Công đức thành tựu pháp thân bình đẳng Ba-la-mật nghĩa là pháp thân không hai nên gọi là bình đẳng. Vì đây không có 2 pháp thân nên gọi là được cùng tột Ba-la-mật thanh tịnh. Trí giải thoát đến cứu cánh không sai biệt, nghĩa là trong trí không sai biệt của Như Lai, cứu cánh giải thoát, nên trong giải thoát này là tăng thượng giải. Công đức 3 thứ Phật thân không giới hạn phương sở, nghĩa là pháp thân ở bao nhiêu phương xứ cũng không có giới hạn. Và thụ dụng thân, hóa thân ở các thế giới cũng vậy. Pháp giới đệ nhất là pháp giới thanh tịnh củng tột là đệ nhất nên gọi pháp giới đệ nhất. Tận hư không giới là Phật trí như hư không không cùng tận, vị vậy nên gọi thanh tịnh giác không cùng tột.

Luận nói : Lại nữa, y chỉ nghĩa, tức như kinh nói : Bồ-tát đủ 32 pháp gọi là Bồ-tát : Đối với tất cả chúng sinh khởi ý lợi lạc. Khiến nhập nhất thiết trí. Biết giá trị của ta là gì. Xả bỏ kiêu mạn. Ý chí vững chắc. Không phải làm vì thương xót. Tâm bình đẳng không thân sơ. Làm người bạn thân cho đến khi được Niết-bàn. Suy lường đúng đắn mà nói. Tươi cười trước khi nói. Đại bi vô hạn. Gánh vác trách nhiệm nặng nề không thoái lui bỏ cuộc. Không có ý mệt mỏi. Nghe nghĩa lý không chán. Tự thấy tội lỗi mình làm. Đối với tội lỗi người khác, không chê bai mà khuyên răn chỉ bảo. Tu tâm Bồ-đề trong tất cả oai nghi. Hành thí không cầu báo. Giữ giới mà không nhắm vào các nẻo đường còn có sinh tử. Tu hành nhẫn nhục không ngại đối với tất cả chúng sinh. Tu hành tinh tiến giữ lấy tất cả thiện pháp. Lìa bỏ cõi Vô sắc mà tu thiền. Phương tiện tương ưng với trí tuệ. Lấy Tứ nhiếp làm phương tiện nhiếp hóa chúng sinh. Từ ái đối với người giữ giới phá giới, không phân biệt có hai. Cung kính nghe chính pháp. Cung kính trụ nơi A-lan-nhã. Không vui đắm trước các tạp sự thế gian. Không mong cầu bậc hạ thừa thấp kém. Thấy công đức Đại thừa. Xa lìa bạn xấu. Gần gũi bạn lành. Tịnh tu 4 Phạm hạnh. Vận dụng tự tại 5 thần thông. Hành động theo trí tuệ. Không xả bỏ chúng sinh nào dù chúng sinh đó trụ hay không trụ trong chính hạnh. Nói chắc chắn, trọng chân thật. Lấy tâm Bồ-tát làm đầu. Phải biết các câu như vậy đều là phân tích các sai biệt của câu đầu. Ý lợi lạc trong tất cả chúng sinh, nghĩa là câu ý lợi lạc này có 16 nghiệp sai biệt. Mười sáu nghiệp sai biệt là : Lần lượt thực hành. Không điên đảo. Không ai mời cũng tự làm. Không dao động đổ vỡ. Không có ý mong cầu. Đây có 3 ý không cầu báo đáp. Đối với chúng sinh thuận hay nghịch không có tâm yêu ghét, đời đời vẫn theo đuổi không xa bỏ. Tức trong loại này có 2 câu về thân khẩu nghiệp. Bình đẳng đối với khổ, vui và không hai. Không thấp kém. Không thoái chuyển. Dùng phương tiện nhiếp thủ. Chán ghét chướng ngại. Đây có 2 câu tư duy không gián đoạn và tiến thắng. Đây có 7 câu chính tu hành 6 Ba-la-mật và tu hành Tứ nhiếp sự, tu hành thành tựu phương tiện. Đây có 6 câu gần gũi người lành. Nghe chính pháp. Ở nơi A-lan-nhã. Xa lìa các hiểu biết xấu xa sai lầm. Công đức chính tư duy có 2 thứ, công đức về sự có 2 thứ. Nghiệp thành tựu có 3 thứ : vô lượng thanh tịnh, được oai đức lớn, được công đức vượt trội. Nghiệp an lập kia. Đây có 4 câu : Thâu nhiếp các công đức. Quyết định dạy dỗ. Gồm hai pháp tài làm một. Không tâm nhiễm ô. Các câu như vậy đều là các câu sai biệt. Như trong kinh có bài kệ nói :

Câu đầu tiên bao gồm

Các câu về công đức.

Câu đầu tiên bao gồm

Các câu nói về nghĩa.

Giải thích : Y chỉ nghĩa, tức là ý lợi lạc trong tất cả chúng sinh. Nghĩa của câu này nói có 16 nghiệp và hiển thị với các câu khác. Trong đây ý lợi lạc làm những nghiệp gì ? Khiến nhập trí Nhất thiết trí là nếu khiến các chúng sinh nhập vào trí Nhất thiết trí thì đay là hành động lần lượt, ví như một ngọn đèn thắp lên một ngàn ngọn đèn. Đó là hiển thị ý lợi lạc. Các câu như vậy đều tương ưng với ý lợi lạc. Tự biết giá trị của mình là gì, nghĩa là tự có ý lợi lạc, nhưng là điên đảo. Như có người ý muốn lợi lạc mà đem rượu cho uống. Nếu như thật tự biết phần lượng mình dạy dỗ chúng sinh, thì không dùng kiêu mạn, tự mình không biết, khởi tâm lợi ích trở thành không có lợi. Nói xả bỏ kiêu mạn tức là hỉ xả bỏ tâm kiêu mạn nên không đợi mời thỉnh tự vì nói pháp.. Ý chí vững chắc, nghĩa là không vì chúng sinh có hành vi điên đảo mà cái tâm lợi lạc vững chắc bị dao động đổ vỡ. Chẳng phải ra làm vì có ý thương xót, nghĩa là không vì lợi dưỡng mà làm việc lợi ích chúng sinh. Làm sao biết được ý lợi lạc này ? Do làm thuận theo thân khẩu nghiệp, cho nên trong đó ứng lượng mà nói và trước nói là khẩu nghiệp. Tươi cười và Đại bi vô hạn v.v… là thân nghiệp. Trong đây nói ứng lượng mà nói nghĩa là chỉ nói pháp ngữ. Lòng thương vô hạn là thương 3 cái khổ : Khổ là khổ khổ, vui là hoại khổ, không khổ không vui là hành khổ. Chẳng phải hai nghĩa là không khổ không vui. Nghiệp không thấp kém, nghĩa là không tự ti coi mình thấp kém nói rằng ta không thể thành Phật, đại loại như thế. Ý không mệt mỏi, nghĩa là nếu không mệt mỏi thì có thể tu Phật đạo. Nghe nghĩa lý không chán, nghĩa là nếu không đa văn thì không có trí phương tiện giáo hóa chúng sinh. Nói “Trong tất cả oai nghi” , nghĩa câu này như nói trong Tịnh Hạnh Tu-đa-la. Nghiệp tiến thắng tức là ý lợi lạc, vì là thể của nhân thẳng đến tăng trưởng. Nghiệp tu thành tựu phương tiện có 6 câu là nếu người thân cận đây tu hành tức được thành tựu. Cung kính ở nơi A-lan-nhã, nghĩa là ở nơi đó có thể lìa các hiểu biết xấu xa sai lầm. Những tạp sự thế gian như ca múa vui chơi các thứ. Nghiệp thành tựu, nghĩa là biểu hiện tướng thành tựu kia. Oai đức, tức 6 thần thông. Tùy theo trí tuệ mà hành động, nghĩa là theo trí chứ không theo thức, từ trí tuệ sinh. Do trí tuệ này tương ưng với chính chứng. Trụ trong các pháp an lập nghiệp kia, tức là do có ý lợi lạc nên có thể dùng lợi lạc an lập chúng sinh. Trong đây nói “nhiếp chúng” nghĩa là đối với người phá giới vẫn không bỏ cũng không xua đuổi, khiến lìa bỏ điều không tốt hợp với điều tốt. Quyết định dạy dỗ, nghĩa là do cứ một mực lập dạy dỗ ngăn cấm, không tự nói, sau lại nói điều ta nói trước đây là không tốt. Người nghe, tức là người thụ giáo. Gồm tài pháp, là do những lời thành thật bảo cho người kia, vì gồm cả pháp và y phục tài lợi v.v… như nói gồm đủ. Không có tam nhiễm ô, nghĩa là thực hành tâm Bồ-đề làm việc lợi ích chúng sinh, không phải để cầu cúng dường mình, chỉ nghĩ rằng làm sao các điều thiện này khiến chúng sinh chính giác vô thượng Bồ-đề. Nhiếp thụ như vậy cho nên nghĩa trong kệ cũng vậy. Giải thích về tướng xong.

    Xem thêm:

  • Luận Bồ Đề Tư Lương - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 3 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Ma Ha Diễn - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 5 - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ - Luận Tạng
  • Bửu Tạng Luận - Luận Tạng
  • Luận Bảo Tạng - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Luận Thủ Trượng - Luận Tạng
  • Luận Giải Thoát Đạo - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 1 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 2 - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng