1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Tăng thượng tuệ học thắng tướng thắng ngữ 8

Luận nói : Như vậy là đã nói xong về thắng tướng của tăng thượng tâm học, vậy làm sao có thể thấy thắng tướng của tăng thượng tuệ học ? Nghĩa là trí vô phân biệt, như tự tính, y chỉ, nhân duyên, sở duyên, tướng mạo, thiết lập, giải thích câu hỏi, trụ trì, trợ bạn, quả báo, lưu xuất, xuất ly, đến cứu cánh, phương tiện, các công đức của vô phân biệt hậu đắc, sai biệt, thí dụ trí vô phân biệt, vô công dụng làm việc nên làm, sự sâu xa v.v… Phải biết đây là các sai biệt về tuệ tăng thượng của trí vô phân biệt.

Giải thích : Nay sẽ nói về thắng tướng của tăng thượng tuệ học. Trí này lại có 3 thứ : 1.phương tiện vô phân biệt, tức là tầm tư, 2.vô phân biệt, 3.hậu đắc. Trong đây trí muốn tìm cầu là tuệ tăng thượng đầu tiên, trí tự bên trong là tăng thượng tuệ thứ hai, trí nhiếp trì là tăng thượng tuệ thứ ba. Trong đây chỉ có thành tựu trí vô phân biệt là chính thể. Do nhân tầm tư, trí tức là quả của nó. Do sau được quả trí, nên kia là nhân. Nếu trí này thành tựu 2 trí trước và sau, tức là được thành tựu. Nay giải thích trước tự tính của trí vô phân biệt. Tự tính tức là thể tướng. Tự tính của trí vô phân biệt của Bồ-tát phải lìa bỏ 5 thứ tướng. Nay sẽ đề cập.

Luận nói : Tự tính của trí vô phân biệt này lìa 5 thứ tướng : lìa phi tư duy, lìa quá giác quán, lìa diệt thụ tưởng định, lìa tự tính của sắc, lìa các tướng suy tính nghĩa chân thật. Phải biết rằng lìa 5 thứ tướng này là trí vô phân biệt.

Giải thích : Trong 5 thứ tướng, nếu không tác ý tức là không phân biệt, vậy thì khi ngủ say, hoặc say rượu là trí vô phân biệt ? Lại nữa nếu quá giác quán là không phân biệt thì nhị thiền trở lên phải là trí vô phân biệt ? Nếu vậy người thế gian cũng có được trí vô phân biệt ? Lại nữa nếu tâm và tâm pháp không hiện hành là trí vô phân biệt thì trụ ở diệt thụ tưởng định phải là trí vô phân biệt ? Trí này không thành. Bởi vì sao ? Vì khi trụ ở diệt định v.v…thì không có tâm. Lại nữa nếu thể tính của trí như sắc, tức là như sắc thì ngoan độn không tri giác, vậy là trí cũng ngoan độn không tri giác ? Lại nữa nếu trong nghĩa chân thật thủ lấy các tướng là vô phân biệt, cái thủ lấy này tức là phân biệt, vì lấy phân biệt nói đây là chân thật. Nếu trí lìa 5 thứ tướng duyên nghĩa chân như, trong nghĩa chân như nếu không khởi các chủng tướng nói đây là chân thật thì đó là tướng của trí vô phân biệt. Cho nên khi duyên nghĩa chân thật, như nhãn thức duyên sắc không có các chủng tướng thì đó là nghĩa của nó.

Luận nói : Để thành lập như đã nói về trí vô phân biệt nên nói kệ như sau :

Chư Bồ-tát tự tính,

Thoát ly 5 thứ tướng.

Là trí vô phân biệt,

Không kế đạc chân như.

Chư Bồ-tát y chỉ,

Không mà có tư duy,

Là trí vô phân biệt,

Không tư duy chủng loại.

Chư Bồ-tát nhân duyên,

Có ý ngôn văn huân,

Là trí vô phân biệt,

Tương ưng chính tư duy.

Chư Bồ-tát sở duyên,

Không thể nói thuyết pháp,

Là trí vô phân biệt,

Vô ngã và chân như.

Chư Bồ-tát tướng mạo,

Ở trong sở duyên kia,

Là trí vô phân biệt,

Nhĩ diệm không có tướng.

Tương ưng nghĩa tự tính,

Không ngoài sở phân biệt.

Chữ chữ đều tương ưng,

Đó là tương ưng nghĩa.

Nếu tách rời ngôn thuyết,

Với nghĩa, trí không sinh.

Vì ngôn thuyết bất đồng,

Không thể nói tất cả.

Chư Bồ-tát trụ trì,

Là trí vô phân biệt,

Hiện hành trí hậu đắc,

Được tăng trưởng tiến thú.

Chư Bồ-tát trợ bạn,

Nói có hai đường lối,

Là trí vô phân biệt,

Các chủng loại ngũ độ.

Chư Bồ-tát quả báo,

Nhị luân trong chư Phật,

Là trí vô phân biệt,

Phương tiện và chính đắc.

Chư Bồ-tát lưu xuất,

Sinh trong các đời sau,

Là trí vô phân biệt,

Vì tự thể chuyển thắng.

Chư Bồ-tát xuất ly,

Được tương ưng thành tựu,

Là trí vô phân biệt,

Phải biết trong10 địa.

Chư Bồ-tát cứu cánh,

Do được tịnh 3 thân,

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại cao tột,

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Các thứ nghệp cực ác,

Chỉ tin là quyết định.

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Giải thoát tất cả chướng,

Được thành tựu tương ưng.

Như hư không không nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Thường hành trong thế gian,

Pháp thế gian không nhiễm.

Như người câm muốn biết,

Đúng như người câm biết,

Như người không câm biết,

Ba trí nói như vậy.

Như người ngu muốn biết,

Đúng như người ngu biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí nói như vậy.

Như 5 đều muốn biết,

Đúng như 5 biết,

Như ý thức muốn biết,

Ba trí nói như vậy.

Như chưa biết muốn biết,

Như biết pháp và nghĩa,

Ba trí tuần tự vậy,

Phải biết là phương tiện.

Như người lúc nhắm mắt,

Là trí vô phân biệt,

Thì người ấy mở mắt,

Chính là trí hậu đắc.

Trí vô phân biệt này,

Phải biết như hư không,

Như hình sắc trên không,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Như Ma-ni, nhạc trời,

Tác động lìa phân biệt,

Chư Phật các chủng nghiệp,

Cũng thường lìa phân biệt.

Chẳng đây cũng chẳng khác,

Chẳng phải trí mà trí.

Với nhĩ diệm không khác,

Là trí vô phân biệt.

Bởi nói tất cả pháp,

Tự tính lìa phân biệt,

Sở phân biệt phi hữu,

Không trí vô phân biệt.

Giải thích : Trong kệ thứ nhất hiển thị nghĩa này, tức nói tự tính do y chỉ nên được sinh. Nay sẽ đề cập. Do nói trí này là vô phân biệt nên trí này phải y chỉ tâm sinh. Nếu y chỉ tâm sinh, do có khả năng tư niệm nên gọi là tâm. Nếu y chỉ tư niệm sinh tức nghĩa vô phân biệt không thành. Lại nếu y chỉ phi tâm sinh thì không thành trí. Vì 2 lỗi này nên kệ nói “Chư Bồ-tát y chỉ “ v.v… Trong này trí y chỉ không phải là tư. Bởi vì sao ? Bởi nghĩa không tư lường. Lại nữa chỗ y chỉ đây cũng chẳng phải phi tư. Bởi vì sao ? Vì tư có công dụng dẫn sinh, cho nên khi y chỉ sinh là thuộc chủng loại tư, cho nên được gọi là tư. Lại nữa trí này do nhân sinh khởi, cho nên kệ tiếp theo là hiển thị nhân đó. Câu “Chư Bồ-tát nhân duyên, có ý ngôn văn huân.” Nghĩa là chính khi nghe do âm thanh người khác mà huân tập. Lấy huân tập này làm nhân sinh tư duy ý ngôn, gọi là chính tư duy. Trí này lấy gì làm duyên ? Lại dùng kệ hiển thị. Câu “Chư Bồ-tát sở duyên” v.v… nghĩa là trong đó không thể nói là pháp tính, tức là trong tính phân biệt không thể nói tất cả các pháp. Lại nữa pháp nào không thể nói ? Là vô ngã, chân như, thể của nhân pháp, vô ngã của tính phân biệt. Cái thể của vô thể gọi là chân như. Chớ nên chấp thủ một cách độc đoán. Lại nữa duyên này tướng mạo như thế nào ? Tiếp theo dùng kệ hiển thị. Câu “Chư Bồ-tát tướng mạo” v.v… nghĩa là trong đó vô tướng tức trí này cùng với chân như bình đẳng mà sinh, không có tướng nào là tướng riêng. Đó là tướng mạo, như mắt bắt lấy sắc, trong đó thấy xanh v.v…các tướng mạo cùng với sắc không khác. Đây cũng như vậy. Trí với chân như tướng mạo không khác. Nếu có tất cả pháp đều không thể nói thì lấy gì làm sở phân biệt ? Tương ưng nghĩa của tự tính là sở phân biệt, không gì khác. Không gì khác hơn là nó nên gọi là phi dư. Lại nữa làm sao thành tựu ? Để thành tựu nên kệ nói “Chữ chữ tự tương ưng”. Đó là tương ưng với nghĩa, tức là nếu chữ này tương ưng với chữ kia thì nghĩa nói trong đây là nghĩa hòa hợp. Như 2 chữ Chước-sô không thể cắt rời ra mà nói được, tức là có sự hòa hợp mà sinh nghĩa là con mắt ( chữ Chước-sô là tiếng Phạn, Tùy tức đời nhà Tùy, chỉ Trung Hoa, gọi là nhãn nghĩa là con mắt). Đó là sở phân biệt. Dùng nghĩa lý gì mà nói tất cả pháp là không thể nói ? Nếu lìa ngôn thuyết thì đối với nghĩa, trí không sinh cho nên như có người chưa biết đã có thể nói tên. Đốu với nghĩa được nói thì trí không sinh. Nếu ông nói chỉ nói được tên thì biết nghĩa, điều đó không thành. Như kệ nói “ Vì ngôn thuyết bất đồng”, vì tên năng thuyết với nghĩa sở thuyết không đồng nhau, vì tên và nghĩa đều có biệt thể. Kệ nói “Tất cả không thể nói”, nghĩa là do nghĩa này nên năng thuyết và sở thuyết đều không thể nói. Lại nữa trí vô phân biệt này trụ giữ như thế nào ? Kệ nói “Chư Bồ-tát trụ trì”, tức là trí hậu đắc trong trí vô phân biệt. Tức là cái trí do vô phân biệt mà người hành giả về sau có được. Bồ-tát tu các hành tức dựa vào trí này được tăng trưởng tiến lên. Bồ-tát có được các hành trong nghĩa tăng trưởng này, y vào trí vô phân biệt mà trụ giữ. Lại nữa trí này lấy gì làm trợ bạn ? Kệ nói “Chư Bồ-tát trợ bạn”, nghĩa là nói có 2 đường lối. Trí vô phân biệt này lấy 5 Ba-la-mật làm trợ bạn. Trong đó có 2 đường lối gọi là tư lương đạo và y chỉ đạo. Tư lương đạo là đường lối sử dụng như hành trang lên đường, tức là các Ba-la-mật như thí, giới, nhẫn, tinh tiến v.v…Y chỉ đạo là đường lối nương tựa, tức thiền Ba-la-mật. Như trước nói các Ba-la-mật sinh các thiện căn và nương tựa vào thiền định nên được sinh trí vô phân biệt. Trí này tức Bát-nhã Ba-la-mật. Lại nữa cho đến chưa được Phật quả đến nay có trí vô phân biệt có thể thành thục quả báo. Kệ nói “Chư Bồ-tát quả báo, trong nhị luân chư Phật”, nghĩa là người có trí vô phân biệt. Những gì là nhị luân của chư Phật ? Đó là thụ dụng thân luân và hóa thân luân. Nếu tu phương tiện vô phân biệt có thể thành thục quả hóa thân. Nếu chính được vô phân biệt có thể thành thục quả thụ dụng thân. Để hiển thị nghĩa này nên kệ nói “Phương tiện và chính đắc”. Lại nữa cái gì là trí vô phân biệt lưu xuất ? “Chư Bồ-tát lưu xuất, sinh trong các đời sau”, nghĩa là ở trong nhị luân kia nơi các đời sau thể của trí vô phân biệt này chuyển được thắng tiến. Phải biết khi trí vô phân biệt này chuyển thành thắng tiến tức đó là quả lưu xuất. Lại nữa thế nào là xuất ly ? Chư Bồ-tát xuất ly, nghĩa là cứu cánh gọi là xuất ly. Tức là Niết-bàn được thành tựu tương ưng. Nói trí vô phân biệt này, tức trí này mới được tương ưng. Từ đó trải vô lượng trăm ngàn kiếp được thành tựu tương ưng. Nói phải biết trong 10 địa tức tuần tự từ sơ địa cho đến địa thứ 10. Trong sơ địa chỉ có được tương ưng. Từ đó về sau vô lượng thời được thành tựu tương ưng. Cho nên chư Bồ-tát trong 3 kiếp a-tăng-kì được Niết-bàn. Do trải qua thời gian như vậy mới được cứu cánh. Những ai là vô phân biệt cứu cánh ? Như trướcv đã nói. Đó là kệ nói chư Bồ-tát cứu cánh do được 3 thân thanh tịnh, là người có trí vô phân biệt. Trong đây 3 thân thanh tịnh là do 3 thân này trong sơ địa chỉ có đắc. Trong 10 địa được thiện thanh tịnh. Được tự tại cao tột, nghĩa là trí vô phân biệt này không phải chỉ cứu cánh được thanh tịnh 3 thân, lại còn có 10 thứ tự tại. Như sau sẽ đề cập. Lại nữa trí vô phân biệt có công đức gì ? Trong đây có 3 thứ vô phân biệt : 1.phương tiện vô phân biệt, 2.căn bản vô phân biệt, 3.hậu đắc vô phân biệt. Trong đây phương tiện vô phân biệt nghĩa là người này ban đầu ở một nơi nào đó được nghe Bồ-tát vô phân biệt nhưng chưa thấy phương tiện ấy tâm vẫn sinh tin yêu, y chỉ sự tin yêu này tu quán vô phân biệt, khi ấy gọi là phương tiện vô phân biệt. Do quán hạnh này được sinh vô phân biệt, nên được gọi là vô phân biệt. Phương tiện vô phân biệt này có công đức vô nhiễm. Ví dụ như gì ? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, trí vô phân biệt này”. Để hiển thị pháp gì ? Vô nhiễm nên nói các thứ nghiệp cực ác, để hiển thị nhân không nhiễm nên nói chỉ có tin quyết định, do nơi vô phân biệt này chỉ có tin là quyết định nên có khả năng đối trị ác thú. Đây tức hiển thị căn bản không nhiễm các ác. Công đức vô phân biệt còn dụng được gì ? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, là trí vô phân biệt”. Pháp gì không nhiễm ? Là tất cả chướng ngại. Vì sao không nhiễm ? Vì được thành tựu tương ưng. Hiển thị trong các địa là nhân do đó được tương ưng và thành tựu tương ưng. Đây tức là hiển thị đối trị tất cả chướng. Công đức của trí vô phân biệt hậu đắc còn có công dụng gì ? Kệ nói “Như hư không không nhiễm, là trí vô phân biệt” Như hư không không nhiễm, trí vô phân biệt này, thường hành trong thế gian, “pháp thế gian không nhiễm.”, nghĩa là do sức của trí này thấy nơi nào có lợi ích chúng sinh thì tùy niệm sinh qua đó. Tuy sinh thế gian nhưng không bị pháp thế gian nhiễm. Pháp thế gian có 8 thứ là được lợi, không được lợi, tiếng tốt, tiếng xấu, chê, khen, khổ, sướng. Đây tức là vô phân biệt, từ trí vô phân biệt sinh. Nay sẽ hiển thị sai biệt của 3 trí này. Phải biết như tướng của chúng. “Như người câm muốn biết”, là không có ngôn thuyết, phương tiện vô phân biệt cũng vậy. “Đúng như người câm biết”, là không có ngôn thuyết, căn bản vô phân biệt cũng vậy. “Như người không câm biết”, là như chỗ biết, tức có ngôn thuyết, vô phân biệt hậu đắc cũng vậy. Các tên gọi chữ viết v.v…là ngôn thuyết. “Như người ngu muốn biết”, nghĩa là chưa hiểu biết gọi là ngu. Cái ngu này v.v… ví cho 3 trí. Giống như nói về người câm. “Như 5 đều muốn biết”, nghĩa là vô phân biệt có 5 thứ, phải biết đó là nhãn v.v… 5 thứ. Những thứ này cầu biết chính thụ. Đây ví chi 3 trí, tất cả nói gì cũng như người câm nói. “Như ý thức muốn biết” nghĩa là như ý thức đối với trần có thể phân biệt, có thể thụ dụng, trí hậu đắc cũng vậy đối với trần cũng phân biệt cũng thụ dụng. “Như chưa biết muốn biết”, phương tiện vô phân biệt cũng vậy. Như khi tụng tập luận, chỉ thụ dụng nơi pháp, căn bản vô phân biệt cũng vậy. Pháp là hiểu như văn tự. Luận là đều thụ dụng pháp và nghĩa, phải biết trí hậu đắc cũng vậy. Lại nữa, để gồm thâu pháp và nghĩa này nên hiển thị 2 trí. “Như người lúc nhắm mắt”, kệ này hiển thị 2 tướng sai biệt của vô phân biệt và hậu đắc. Nói “như hư không” là như hư không không nhiễm, không phân biệt, cũng không bị cái khác phân biệt nó, trí vô phân biệt cũng vậy. Phổ biến khắp tất cả pháp chỉ một mùi vị. Trong hư không, tất cả pháp đều không thể nhiễm ô nên gọi là vô nhiễm. Tự thể không phân biệt nên gọi là vô phân biệt, cũng không bị cái khác phân biệt thành tướng mạo, nên gọi là phi sở phân biệt. Phải biết trí này là như vậy.

“Như hình sắc trên không, trí hậu đắc cũng vậy.”, như sắc hiển hiện cũng là năng phân biệt, cũng là sở phân biệt. Lại nữa nếu lấy trí vô phân biệt gọi là Phật thì đã lìa phân biệt chúng sinh làm sao làm việc lợi ích chúng sinh được ? Tuy lìa phân biệt nhưng như lý được thành. Kệ lấy ngọc Ma-ni và nhạc trời làm ví dụ để hiển thị. “Như Ma-ni, nhạc trời,”, nghĩa là như ngọc như ý lìa nghiệp phân biệt, tùy ý muốn chúng sinh mà làm việc lợi ích. Lại giống như nhạc trời không có người diễn tấu, tùy ý muốn của trời kia mà phát ra các thứ âm thanh. Chư Phật cũng vậy, lìa phân biệt mà mọi thứ sự thành. Vô phân biệt này rất sâu làm sao trí duyên tính y tha mà phân biệt vật ? Vì có biệt duyên. Nếu vậy thì có lỗi gì ? Nếu phân biệt sở phan duyên thì không được gọi là vô phân biệt. Nếu nói có phan duyên riêng thì phan duyên riêng này cũng phi hữu. “Chẳng đây cũng chẳng khác”, nghĩa là trong đây nói chẳng phải cái này bởi chẳng phải phân biệt năng duyên, bởi vô phân biệt nên cũng chẳng phải cái khác. Bởi vì tác pháp ngay nơi pháp của tính y tha như phan duyên, nên pháp và pháp như 2 thứ, không thể nói là một, không thể nói là khác. Đây cũng vậy, không thể nói là phân biệt sở duyên. Cũng không thể nói là khác duyên. Lại nữa vì sao đây là trí cũng là phi trí ? Nếu vậy có lỗi gì ? Nếu là trí thì đã tên là trí rồi vì sao không phân biệt ? Nếu phi trí tự tính vì sao nói là trí vô phân biệt ? Cho nên lấy kệ “Chẳng phải trí mà trí” để hiển thị.

Đây không thể là trí. Bởi vì sao ? Do phương tiện có trí phân biệt, vì trong tự tính không sinh. Cũng là phi phi trí, bởi phương tiện có trí phân biệt làm nhân sinh. Lại có nghĩa khác là “phi tức” cũng là “phi dị”, “phi trí” cũng là “trí”, nghĩa là do “phi tức” duyên trong phân biệt sinh, nên gọi là “phi trí cũng phi dị”. Do “tức” duyên trong pháp như sinh, nên là “phi phi trí”. Tức là lấy câu trước giải thích câu sau. “Với nhĩ diệm không khác, là trí vô phân biệt.”, nghĩa là không phải như trí phương tiện có năng thủ sở thủ sinh nên gọi là vô phân biệt. Nếu trong sở thủ nhĩ diệm, không biệt dị bình đẳng bình đẳng sinh là vô phân biệt. Trí này không trụ trong năng thủ sở thủ. Thế Tôn trong Tu-đa-la nói tất cả pháp là vô phân biệt, trong đó muốn hiển thị vô phân biệt này cho nên lại nói kệ : “Bởi nói tất cả pháp, tự tính lìa phân biệt”, nghĩa là tất cả pháp tức tự tính vô phân biệt. Vì sao kệ nói như vậy ? Sở phân biệt phi hữu. Lấy đó hiển thị do vật sở phân biệt là phi hữu. Nếu sở phân biệt phi hữu nên tức tất cả pháp tự tính vô phân biệt thì vì sao tất cả chúng sinh không được giải thoát ngay ? “Không trí vô phân biệt.” lấy câu này hiển thị sự không được giải thoát. Tuy tất cả pháp tự tính vô phân biệt, bởi tất cả pháp tự tính vô phân biệt cho nên không có sở phân biệt. Néu trong đây trí thông đạt sinh chứng kiến vô phân biệt này nên được giải thoát. Nếu trí thông đạt không sinh, tức không được giải thoát. Nói trí vô phân biệt tức trí này có 3 phần. Nay sẽ nói rõ.

***

Tăng thượng tuệ học thắng tướng thắng ngữ 8-2

Luận nói : Trong trí phương tiện vô phân biệt có 3 thứ là nhân duyên, dẫn nhiếp và thường tập, vì xuất sinh sai biệt. Trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là biết đủ, không điên đảo và không hý luận vì vô phân biệt. Trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ là thông đạt, ức niệm, thành lập, hòa hợp và như ý, hiển thị sự sai biệt.

Giải thích : Nhân duyên, dẫn nhiếp và thường tập do xuất sinh sai biệt, đây là 3 thứ phương tiện vô sai biệt. Hoặc do sức của chủng tính, hoặc do sức hiện tiền thường tập mà được sinh. Trong đó sức của chủng tính tức là từ nhân được sinh. Sức thường tập tức lực tác của thân hiện tại chắc chắn, không phải từ nhân sinh. Biết đủ, không điên đảo, không hý luận vì vô phân biệt, nghĩa là trong đó biết đủ không phân biệt là biết rốt ráo cải thể của văn, tư, do đầy đủ nên không phân biệt nữa. Do đó gọi là tri túc vô phân biệt. Khi đã rốt ráo ở nơi địa vị văn, tư thì tự biết đã đến chỗ cứu cánh. Bồ-tát này trụ tại địa vị phàm phu, sinh tâm thỏa mãn nghĩ rằng việc văn, tư chỉ bằng được đến đây. Vì nghĩa đó nói là tri túc vô phân biệt. Lại nữa phải biết rằng có thế gian tri túc vô phân biệt, nếu đạt được đến Hữu đỉnh cho là Niết-bàn sinh tâm tri túc, nghĩa là cho rằng không còn nơi nào nữa, nên gọi là tri túc vô phân biệt. Không điên đảo vô phân biệt là Thanh Văn v.v… Do các Thanh Văn thông đạt chân thật nên được 4 trí vô đảo như vô thường v.v…đối với thường v.v… 4 đảo tướng không còn điên đảo phân biệt nữa. Không hý luận vô phân biệt là các Bồ-tát do các Bồ-tát biết tất cả pháp cho đến Bồ-đề không hý luận vô phân biệt cho nên không phân biệt nữa. Không hý luận nghĩa là phát ngôn nói ra vượt quá trí thế gian, trí này chẳng phải ngôn ngữ nói ra, cũng chẳng phải trí thế gian biết được. Lại nữa trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ sai biệt là thông đạt, ức niệm, thành lập, hòa hợp và như ý hiển thị sự sai biệt. Trong đó thông đạt hiển thị, ức niệm hiển thị, thành lập hiển thị, hòa hợp hiển thị và như ý hiển thị 5 thứ sai biệt. Trong đây thông đạt hiển thị là nếu đã thông đạt tức khi ấy hiển thị nói rằng ta đã thông đạt. Hiển thị nghĩa là biết một cách quyết chắc. Ức niệm hiển thị là nếu xuất định rồi nghĩ nhớ nói rằng ta đã thông đạt vô phân biệt rồi. Thành lập hiển thị là như chỗ đã thông đạt mà giải nói cho người khác. Hòa hợp hiển thị là đem tất cả pháp làm thành một khối. Trí phan duyên tổng tướng, do quán trí này tức được chuyển y. Như ý hiển thị là do chuyển y này liền được hiển thị như ý, do tùy theo tâm niệm tất cả tự tại. Do tự tại này nếu muốn lấy đất làm vàng v.v… đều được thành tựu. Do hiển thị được như ý nên gọi là như ý hiển thị. Bởi vì sao ? Do kinh nói vì lấy hiển thị và như ý nên đã thành lập trí vô phân biệt. Vì chưa noi nhân duyên thành tựu nên lại dùng kệ hiển thị.

Luận nói : Lại có kệ khác thành tựu trí vô phân biệt :

Quỷ súc và người, trời,

Đều tùy theo chỗ ứng.

Tâm ý đều khác nhau,

Nên biết nghĩa không thành.

Quá khứ và chiêm bao,

Cùng 2 thứ ảnh tượng,

Vô hữu làm phan duyên,

Nhưng phan duyên kia thành.

Nếu nghĩa thành là cảnh,

Không trí vô phân biệt.

Nếu trí này không có,

Phật quả không thể được.

Bồ-tát được tự tại,

Nên lạc dục tự tại.

Như muốn đất thành vàng,

Người được định cũng vậy.

Người thành tựu quán hạnh,

Người trí được tịch tĩnh.

Tư duy tất cả pháp,

Như nghĩa ấy hiển hiện.

Trí hành vô phân biệt,

Tất cả nghĩa không hiện.

Tức biết không có nghĩa,

Thì thức cũng không có.

Giải thích : Trong đây nói “Quỷ súc và người, trời, đều tùy theo chỗ ứng.”, nghĩa là súc sinh thấy là nước, ngạ quỷ là cao nguyên, người thấy là phân nhơ, heo thấy là vật sạch. Như người thấy thức ăn uống là sạch thì chư thiên là không sạch. Dùng đạo lý này hiển thị, trong một vật tùy theo ý thức mỗi loài thấy khác nhau. Cho nên biết nghĩa, là không sở hữu. Vì vậy cái chấp thủ của họ là không thành. Nếu vậy, nghĩa, là vô sở hữu, thì thức phải không duyên cảnh mà sinh ? Đáp : Cũng có trường hợp thức không duyên cảnh mà sinh.. Như chiêm bao và quá khứ vị lai v.v… Phan duyên cái không thật, tức là phan duyên tự thể. Như cảnh trong gương và cảnh trong định cũng vậy. Tiếp đến là dùng kệ hiển thị. Kệ nói quá khứ v.v… và chiêm bao, trong đó nửa kệ sau giải thích nửa kệ trước. Tuần tự cũng như vậy. Do phan duyên không thật nên không có phan duyên. Chẳng phải không phan duyên tức là tự phan duyên. Nghĩa là tự tâm làm cảnh mà phan duyên. Tức là quá khứ, vị lai và mộng cùng 2 ảnh tượng v.v… tuần tự nên biết như vậy. Nếu nghĩa thành, là cảnh không có trí vô phân biệt. Nếu nghĩa có tự tính, tức là không có trí vô phân biệt. Nếu ông nói không có trí vô phân biệt thì có lỗi gì ? Nếu không có trí này thì không thể đắc Phật quả. Nếu không có trí vô phân biệt thì không thể đắc Phật quả. Cho nên chắc chắn phải có. Bồ-tát được tự tại, nghĩa là đã được năng lực tự tại nên thắng giải tự tại, được lạc dục tự tại nên nghĩ muốn như thế nào thì được như thế đó, nghĩa là như muốn dất v.v… các vật thành vàng v.v… liền được như vậy. “Người được định cũng vậy.”, nghĩa là những người được định và các Thanh Văn. “Người thành tựu quán hạnh”, nghĩa là thành tựu Tì-bát-xá-na. Người trí tức các Bồ-tát. Người được tịch tĩnh là được Tam-ma-đề. “Tư duy tất cả pháp, như nghĩa ấy hiển hiện.”, nghĩa là do các Bồ-tát khi tư duy nghĩ nhớ nghĩa các pháp như vậy như vậy trong Tu-đa-la thì sẽ được hiển hiện như nghĩ nhớ. Như khi niệm Phật tùy theo tư niệm, Phật nghĩa trong các pháp kia sẽ được hiển hiện. Các nghĩa như sắc, thụ v.v… cũng hiển hiện như vậy. “Trí hành vô phân biệt, tất cả nghĩa không hiện.”, nghĩa là khi trí chính hành vô phan biệt, do tất cả nghĩa không hiện nên biết tức là không có nghĩa. Do nghĩa không có nên thức cũng thành không có. Nay sẽ nói về thức này vô sở hữu. Nói “Thức cũng không có được”, nghĩa là cái sở thức đã không có thì cái năng thức không thành. Cho nên phải biết nghĩa vô sở hữu là như vậy. Trong tướng đã giải thích đầy đủ.

Luận nói : Bát-nhã Ba-la-mật với trí vô phân biệt không khác nhau. Như kinh nói : Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật rồi, và không trụ tương ưng, nên tu các Ba-la-mật được viên mãn. Thế nào là không trụ tương ưng mà được viên mãn ? Nghĩa là xa lìa 5 thứ trụ xứ : 1. Xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo. 2. Xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát không thấy chân thật. 3. Xa lìa chỗ 2 cực đoan của sinh tử và Niết-bàn. 4. Xa lìa tư tưởng cho rằng chỉ đoạn trừ phiền não chướng là đủ. 5. Xa lìa việc bỏ làm lợi ích chúng sinh mà an trụ vô dư Niết-bàn.

Giải thích : Trí vô phân biệt này tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Bởi vì sao ? Như kinh nói : Trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật rồi và không trụ tương ưng. Như vậy là muốn khiến biết nghĩa này nên dùng văn kinh hiển thị. Như vậy trụ và không trụ trong tương ưng, đầy đủ các Ba-la-mật. Xa lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo, nghĩa là như ngoại đạo trụ trong Bát-nhã có ngã chấp, nghĩ rằng ta trụ trong Bát-nhã, đây là Bát-nhã. Bồ-tát xa lìa trụ tướng như thế của ngoại đạo cho nên được trụ trong vô trụ tương ưng Bát-nhã. Xa lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát không thấy chân thật, nghĩa là nếu không thấy chân thật thì Bồ-tát trong Bát-nhã Ba-la-mật vô phân biệt, lại phân biệt nói rằng đây là Bát-nhã Ba-la-mật. Không phân biệt như vậy nên gọi là không trụ tương ưng. Xa lìa chỗ 2 cực đoan của sinh tử và Niết-bàn, nghĩa là như thế gian trụ bên sinh tử, Thanh Văn trụ bên Niết-bàn. Bồ-tát không như vậy, không trụ 2 bên này, tức không trụ tương ưng. Xa lìa tư tưởng cho rằng chỉ đoạn trừ phiền não chướng là đủ, nghĩa là như Thanh Văn chỉ đoạn phiền não chướng cho là đủ. Bồ-tát không như vậy. Do ý này nên nói chư Bồ-tát không trụ tương ưng hạnh. Xa lìa việc bỏ làm lợi ích chúng sinh mà an trụ vô dư Niết-bàn, nghĩa là Bồ-tát không như vậy, là không trụ chỗ trụ của Thanh Văn . Đó là không trụ tương ưng. Trí của Thanh Văn với trí của Bồ-tát có 5 tướng sai biệt, nay sẽ nói đến.

Luận nói : Trí của Thanh Văn với trí của Bồ-tát này có gì khác nhau ? Có 5 thứ khác nhau : 1. Khác nhau ở chỗ vô phân biệt, nghĩa là ấm v.v…các pháp không phân biệt. 2. Khác nhau ở chỗ không có giới hạn, nghĩa là thông đạt chân như, nhập nhất thiết chủng, vì đô tất cả chúng sinh không giới hạn. 3. Khác nhau ở chỗ vô trụ, nghĩa là nhập vô trụ Niết-bàn. 4. Khác nhau ở chỗ rốt ráo, nghĩa là hướng đến Niết-bàn vô dư mà không cùng tận. 5. Khác nhau ở chỗ vô thượng, nghĩa là đạt đến cao tột không còn có thừa nào hơn.

Năm thứ trí sai biệt,

Lấy Đại bi làm thể.

Quả báo thế xuất thế,

Phải biết chẳng bao xa.

Giải thích : Trong đây, khác nhau ở chỗ vô phân biệt, nghĩa là các Thanh Văn phan duyên các ấm v.v… sinh trí phân biệt. Trí các Bồ-tát đối với ấm v.v… không sinh phân biệt. Khác nhau ở chỗ không giới hạn, nghĩa là người thông đạt nhân pháp 2 vô ngã nên không có phân chia giới hạn. Bởi các Bồ-tát sinh trí trong tất cả những gì phải biết, còn Thanh Văn chỉ biết khổ đế v.v…, Bồ-tát vì chúng sinh không có giới hạn, vì tất cả chúng sinh cầu Bồ-đề, còn Thanh Văn chỉ vì tự lợi. Khác nhau ở chỗ vô trụ, nghĩa là các Bồ-tát được vô trụ xứ Niết-bàn chẳng phải như các Thanh Văn. Khác nhau ở chỗ rốt ráo, nghĩa là trong vo dư Niết-bàn giới thì Niết-bàn Thanh Văn có tận diệt, Niết-bàn Bồ-tát thì không như vậy. Khác nhau ở chỗ vô thượng, nghĩa là Thanh Văn thừa còn có bậc trên, Bồ-tát Đại thừa thì không còn thừa nào trên. Đó là chỗ khác nhau. Nghĩa này trong kệ hiển thị 5 thứ sai biệt về trí. Quả báo thế xuất thế, nghĩa là cõi Sắc, Vô sắc là quả báo thế gian, Thanh Văn v.v… là quả báo xuất thế gian.

Luận nói : Nếu Bồ-tát đã đầy đủ quả báo công đức của giới tăng thượng, tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng, đã được tự tại trong tất cả nghĩa lợi, vì sao hiện thấy còn có các chúng sinh chịu các nghèo khổ ? Do thấy các chúng sinh ấy có các nghiệp chướng trong các nghĩa lợi kia. Do thấy nếu cho quả báo sung sướng thì đối với các thiện pháp trở ngại việc khởi thiện. Do thấy không có nghĩa lợi thì chán ghét hiện tại. Do thấy nếu được quả báo thì thành nhân tụ tập các pháp bất thiện. Do thấy nếu được quả báo là làm nhân bức não cho vô lượng chúng sinh khác. Do nghĩa đó mà hiện thấy có chúng sinh chịu các khổ não. Trong đây có kệ như sau :

Thấy nghiệp ngại hiện tiền,

Gom ác bức não người,

Phải biết chúng sinh ấy,

Không được Bồ-tát thí.

Giải thích : Bồ-tát được tự tại. Do nhân duyên này, tuy có Đại bi mà không cho chúng sinh giàu có sung sướng. Nay sẽ nói rõ ý này. Trong đây nói thấy nghiệp chướng các chúng sinh, nghĩa là các chúng sinh này trong oai lực của Bồ-tát có trở ngại nghiệp chướng, có trở ngại Bồ-tát trí nên tuy Bồ-tát kham năng, thấy việc này nên sinh tâm xả đối với sự nghèo khổ kia. Điều này có thể lấy thí dụ ngạ quỷ thấy nước sông thì rõ. Như sông có nước, nếu muốn uống cũng không ai cản trở. Nhưng ngạ quỷ do tự tội nghiệp không thể uống được. Đây cũng vậy, sông ví dụ cho Bồ-tát. Của cải ví dụ cho nước. Ngạ quỷ ví dụ cho chúng sinh. Cũng như nước kia, các chúng sinh này đối với của cải không thể thụ dụng cũng có nghĩa như vậy. Do thấy sự sung sướng có trở ngại việc khởi thiện, nghĩa là lại có những người khác tuy không nghiệp chướng, nhưng người này khi được gặp Bồ-tát, trong tương tục sinh khởi thiện pháp, nếu cho người này quả báo hưởng thụ giàu có sung sướng thì sẽ đứt mất việc khởi thiện. Bồ-tát suy nghĩ như vậy thà để cho nghèo khổ mà tùy thuận khởi thiện. Do đạo lý này mà không cho giàu có sung sướng. Do thấy chán ghét hiện tiền, nghĩa là hoặc lại có người chán ghét hiện tiền, Bồ-tát thấy kia nghèo khổ mà trong thiện bất thiện suy nghĩ chán ghét hiện tiền hơn, vì vậy đối với chúng sinh kia không cho sự giàu có sung sướng. Do thấy quả báo chịu khổ kia thêm lớn nhân bất thiện, nghĩa là lại có người khi nghèo cùng không tụ tập các pháp bất thiện được, Bồ-tát tháy vậy nghĩ rằng thà khiến nghèo khổ chớ khiến tạo tác bất thiện, cho nên đối với chúng không cho sự giàu có sung sướng. Do thấy khổ kia mà được quả báo. Cho các vô lượng chúng sinh khác tạo nhân bức não, nghĩa là lại có người được đại quả báo thì làm khổ não vô lượng chúng sinh, cho nên thà một thân chịu nghèo khổ là hơn, chớ để khổ não vô lượng chúng sinh, vì vậy không cho giàu có sung sướng. Kệ hiển thị các nghĩa như vậy. Trong đây vì nghiệp chướng ngại, vì sinh khởi thiện căn, vì thiện hiện tiền, vì tụ tập bất thiện, vì bức não các chúng sinh, Bồ-tát thấy những việc như thế không cho giàu có sung sướng, tức trong kệ là nghiệp và ngại hiện tiền, tập họp các ác bức não người khác. Lấy đó hiển thị có thể hiểu các nghĩa khác. Đến đây giải thích xong về tăng thượng tuệ học.

    Xem thêm:

  • Luận Bồ Đề Tư Lương - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 3 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Thích Ma Ha Diễn - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 5 - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận - Luận Tạng
  • Niệm Phật Tam Muội Bửu Vương Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 4 - Luận Tạng
  • Luận Giảng Rộng Ý Nghĩa Năm Uẩn Theo Giáo Pháp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ - Luận Tạng
  • Bửu Tạng Luận - Luận Tạng
  • Luận Bảo Tạng - Luận Tạng
  • Sớ Giải Kinh A Di Đà - Luận Tạng
  • Luận Thủ Trượng - Luận Tạng
  • Luận Giải Thoát Đạo - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 1 - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Tập Bồ Tát Học - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ Tập 2 - Luận Tạng
  • Thiền Ba La Mật - Luận Tạng