Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán
Tùy Trí ỷ thuật
Bản Việt dịch của Thích Thanh Từ
***
Chương I: Phần Duyên Khởi
Chớ làm các việc ác,
Tuân hành các điều lành,
Tự lóng tâm ý mình,
Đây lời chư Phật dạy.
Nói về pháp Niết-bàn, nhập ắt có nhiều lối. Lối cần-thiết nhanh chóng nhất, không ngoài chỉ và quán. Sở-dĩ như thế, vì chỉ là cửa đầu để dẹp kiết, quán là con đường chánh-yếu để đoạn hoặc. Chỉ là phương-pháp hay nuôi lớn tâm-thức, quán là diệu-thuật dẫn khởi thần-giải. Chỉ là thắng-nhơn của thiền-định, quán là chỗ nương tựa của trí-huệ. Nếu người thành-tựu hai pháp định và huệ, ấy là pháp tư-lợi, lợi-tha đầy-đủ. Cho nên kinh Pháp-Hoa chép: “Phật ở trong Đại-thừa, như pháp minh đã chứng, sức định, huệ trang-nghiêm, lấy đó độ chúng-sanh”. Phải biết hai pháp nầy như hai bánh, như chim hai cánh, nếu tu tập chênh lệch liền rơi vào tà đảo. Kinh chép: “Nếu thiên tu thiền-định phước-đức, không học trí-huệ, gọi đó là ngu; thiên học trí-huệ, không tu thiền-định phước đức, gọi đó là cuồng”. Lỗi cuồng, ngu tuy có chút ít khác, nhưng về tà-kiến luân-chuyển đâu có sai biệt. Nếu tu không đồng đều, tức là hành không tròn vẹn, thì làm sao chóng lên cực quả. Kinh lại chép: “Người Thinh-văn vì định-lực nhiều, không thấy Phật-tánh. Hàng Thập-trụ Bồ-tát trí huệ lực nhiều, tuy thấy Phật tánh mà không rõ-ràng. Chư Phật Như-Lai định-huệ lực đồng, nên thấy Phật-tánh rõ ràng”. Lấy đây mà xét, chỉ-quán đâu không phải cửa thẳng tắt đến đại quả Niết-bàn; là con đường tốt để người tu-hành tiến bước, là chỗ chung hội của muôn ngàn công-đức; là chánh thể của cực-quả Vô-thượng.
Nếu biết như thế, pháp-môn chỉ-quán thật chẳng phải tầm thường. Muốn tiếp dẫn những kẻ sơ-cơ, pháp mê-mờ mà tiến đạo, phải nương chỉ-quán mà hướng dẫn. Nhưng nói thì dễ mà thật-hành rất khó, nên không thiết bàn nhiều về lý cao sâu. Nay lượt trình-bày mười ý, để chỉ lối cho kẻ sơ tâm hành-đạo biết hướng tiến lên nấc thang chánh đạo, đi vào ngôi nhà Niết-bàn. Hành-giả nên tự thấy thực hành khó được, chớ chê văn nầy thiển-cận. Nếu ý nghĩ, lời nói hợp nhau, chỉ trong chớp mắt trí-đức, đoạn đức khó lường, thần giải khôn xiết. Nếu chỉ chấp suông trên văn ngôn, khẩu, ý trái nhau. Như kẻ nghèo đếm của bán cho người, rốt cuộc nơi mình nào có ích gì?
Mười ý:
1- Cụ-duyên
2- Trách dục
3- Xả cái
4- Điều-hòa
5- Phương-tiện
6- Chánh tu
7- Thiện phát
8- Tri ma
9- Trị bịnh
10- Chứng quả.
Trình-bày mười ý nầy để rõ lối tu Chỉ-Quán. Đây là điều-kiện cần-thiết cho kẻ mới học tọa-thiền. Nếu người khéo hội ý tu-tập, khả dĩ an tâm vượt các chướng nạn, được định sanh huệ và chứng vô-lậu thánh quả.
*
Chương II – Phần Chánh Tông
I. Cụ Duyên
Phàm người phát tâm thực-hành, muốn tu chỉ-quán cần phải đủ năm duyên:
1- Giữ giới thanh tịnh.
2- Ăn mặc đầy đủ.
3- Yên ở chỗ vắng.
4- Dứt các sự ràng-buộc.
5- Gần-gũi thiện-tri-thức.
1. Giữ giới thanh-tịnh
Như trong kinh dạy: “Nương nơi giới-luật được sanh các thứ thiền-định và trí-huệ diệt khổ. Thế nên, Tỳ-kheo phải giữ giới thanh-tịnh”. Nhưng người giữ giới chia ba hạng:
a) Người khi chưa làm đệ-tử Phật, không tạo tội ngũ-nghịch, sau gặp thầy lành dạy thọ Tam-quy, ngũ-giới làm đệ-tử Phật, hoặc được xuất gia thọ mười giới làm Sa-di, kế thọ Cụ-túc giới làm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Từ khi thọ giới về sau gìn-giữ thanh-tịnh không có hủy-phạm, ấy gọi là người trì giới bậc thượng. Người ấy tu hành Chỉ-Quán ắt chứng được Phật-pháp, ví như cái áo trắng dễ nhuộm màu.
b) Nếu người thọ giới rồi, tuy không phạm giới trọng, phần nhiều phạm các giới khinh, vì tu thiền-định nên theo đúng pháp sám-hối. Người ấy cũng gọi là trì-giới thanh-tịnh, phát sanh trí-tuệ. Ví như cái áo đã dơ, nay đem giặc sạch, nhuộm cũng có thể được.
c) Hoặc người thọ giới rồi, không kiên tâm gìn giữ, các giới khinh, giới trọng, phần nhiều đều phạm. Nếu y theo giáo-lý Tiểu-thừa thì phạm tứ trọng không thể sám-hối. Nếu y theo giáo-lý Đại-thừa thì có thể trừ diệt được. Cho nên kinh chép: “Trong Phật-pháp có hai hạng người mạnh mẽ: 1- Người không làm ác. 2- Người làm rồi, biết sám-hối”.
Người muốn sám-hối phải đủ 10 pháp trợ lực mới thành-tựu:
1- Tin chắc nhân-quả.
2- Sanh tâm kinh sợ.
3- Khởi lòng hổ thẹn.
4- Cầu phương pháp diệt tội. – Như trong kinh Đại-thừa dạy các phương-pháp thực-hành phải đúng như vậy mà tu-tập.
5- Phát lồ các tội trước.
6- Đoạn tâm tương-tục.
7- Khởi tâm hộ-trì Phật-pháp.
8- Phát đại thệ-nguyện, độ thoát chúng sanh.
9- Thường tưởng nhớ mười phương chư Phật.
10- Quán tội tánh vốn không sanh.
Nếu đã đủ 10 duyên, hành-giả trang-nghiêm đạo tràng, tẩy rửa sạch-sẽ, đắp y thanh-tịnh, đốt hương và tán-hoa, ở trước Tam-bảo như pháp Sám-hối. Hoặc 7 ngày, 21 ngày, một tháng, ba tháng, cho đến nhiều năm, hành-giả chuyên tâm Sám-hối tội trọng đã phạm, khi nào diệt được mới thôi.
Thế nào là tướng tối trọng diệt? – Nếu hành-giả khi chí tâm sám-hối như thế, tự biết thân-tâm nhẹ-nhàng, thấy mộng tốt, hoặc thấy điềm linh, tướng lạ hoặc biết thiện tâm khai-phát, hoặc tại chỗ ngồi biết thân như mây, như bóng, nhơn đó lần lần chứng được các cảnh giới thiền. Hoặc tâm hiểu ngộ, rỗng suốt, hay biết pháp tướng, tùy nghe kinh liền thấu-đạt nghĩa lý, nhơn đó được pháp hỷ, tâm không lo rầu hối-hận. Những tướng trạng ấy tức là tướng tội phá giới được tiêu-diệt. Từ đây về sau kiên trì giới cấm, cũng gọi là trì giới thanh-tịnh có thể tu thiền-định được. Ví như cái áo rách và dơ, nếu vá lành lại, đem giặt sạch sẽ cũng có thể nhuộm được.
Nếu người phạm trọng giới rồi, e chướng ngại thiền-định, tuy không y các kinh tu các hạnh pháp, chỉ sanh tâm rất hổ thẹn, đối trước Tam-bảo phát lồ tội trước, đoan tâm tương tục, thân thường ngồi ngay thẳng, quán tội tánh vốn không, niệm mười phương chư Phật; hoặc khi xuất thiền, chí tâm thắp hương lễ bái, sám-hối, tụng giới và tụng các kinh Đại-thừa, trọng tội chướng đạo lần lần tiêu diệt, nhơn đây giới được thanh-tịnh, thiền-định khai phát. Cho nên kinh Diệu-Thắng-Định chép: “Nếu người đã phạm tội trọng, sanh tâm kinh sợ, muốn tìm cách trừ diệt, nếu ngoài thiền-định không có pháp nào diệt được. Người ấy nên ở chỗ vắng vẽ thường ngồi nhiếp tâm và tụng kinh Đại-thừa, tất cả tội trọng thảy đều tiêu diệt, các thiền tam-muội tự nhiên hiện tiền”.
2. Ăn mặc đầy đủ
A) Sự mặc có 3 thứ:
a) Như vị Đại-sĩ núi Tuyết – Đức-Thích-Ca – chỉ cần một chiếc y rách che thân là đủ, vì không dạo trong xóm làng, sức kham nhẫn được thành-tựu.
b) Như ngài Đại Ca-Diếp thường tu hạnh Đầu đà, chỉ chứa ba cái y phấn-tảo, không chứa các y khác.
c) Nếu ở xứ lạnh nhiều và nhẫn lực chưa thành, ngoài ba y, Như-Lai cũng cho chứa các vật khác; nhưng cần phải thuyết-tịnh, biết lượng sức mình và biết đủ, nếu tham-cầu cốt chứa nhiều thì loạn tâm, chướng ngại đạo.
B) Sự ăn có bốn thứ:
a) Nếu là bậc Thượng-nhơn Đại-sĩ vào nơi thâm sơn, xa hẳn thế tục, chỉ tùy thời dùng rau quả nuôi thân.
b) Thường hành Đầu-đà thọ pháp khất thực, phá 4 thứ tà mạng, sống theo chánh mạng hay sanh thánh đạo. Bốn thứ tà mạng là:
1- Trồng trọt nuôi sống.
2- Xem thiên văn.
3- Tìm cách mưu sinh.
4- Dong ruổi bốn phương mong cầu sự sống hoặc coi bói, thuốc thang…
Tướng tà mạng như ngài Xá-Lợi-Phất vì Thanh-Mục-Nữ nói.
c) Ở chổ vắng-vẻ nhờ đàn-việt đem đến cúng.
d) Ở trong chúng tăng ăn uống đúng pháp.
Bởi có những duyên nầy, nên gọi ăn mặc đầy đủ. Vì cớ sao? – Vì không có những duyên nầy thì tâm không an-ổn, chướng-ngại trên đường đạo.
3. Yên ở chỗ vắng-vẻ
Không làm các việc gọi là yên. Chỗ không ồn náo gọi là vắng-vẻ. Có ba chỗ có thể tu thiền-định:
a) Chỗ núi sâu không có người đến.
b) Chỗ vắng-vẻ hành Đầu-đà, cách xa làng xóm ít nữa cũng ba, bốn dặm, bặt tiếng mục đồng không còn các tiếng ồn.
c) Ở trong ngôi già-lam thanh-tịnh, cách xa kẻ thế tục.
Ở những nơi ấy đều gọi là “yên ở chỗ vắng-vẻ”.
4. Dứt các sự ràng buộc
Có bốn thứ:
a) Dứt việc làm nuôi sống. Tức là không tạo sự nghiệp thế gian.
b) Dứt việc kết giao với nhân gian. Không kết bạn thân với người thế tục.
c) Dứt các kỹ thuật khéo léo. Không làm thợ khéo, thầy thuốc, thầy bùa, thầy bói, thầy tướng, thấy số…
d) Dứt sự học vấn. Những việc đọc sách, học hỏi đều bỏ.
Tại sao bỏ các việc nầy? – Vì còn nhiều việc ràng buộc thì việc hành đạo phải bê trễ, tâm loạn động khó nhiếp phục.
5. Gần gũi thiện-tri-thức
Thiện-tri-thức có:
a) Ngoại hộ thiện-tri-thức. Là người hay kinh doanh, cúng-dường, ủng-hộ người tu, để cho người tu khỏi lo phiền rối loạn.
b) Đồng hạnh thiện-tri-thức. Người đồng đạo tu hành, nhắc nhở cảnh-giác lẫn nhau, không nhiễu-loạn nhau.
c) Giáo-thọ thiện-tri-thức. Bậc thầy chỉ đạo, lấy những pháp-môn thiền-định, phương-tiện điều phục nội, ngoại, chỉ dạy cho được lợi hỷ.
*
II. Trách Dục
Nói trách dục là trách ngũ-dục. Phàm muốn tọa thiền tu-tập chỉ quán quyết phải quở trách ngũ dục. Ngũ dục: sắc, thinh, hương, vị, xúc ở thế-gian. Nó hay làm mê hoặc tất cả phàm phu khiến phải say đắm. Nếu người biết tội lỗi của nó liền xa lìa, ấy gọi là trách dục.
1. Trách sắc dục
Những hình dáng kiều-diễm của nam, nữ như mắt trong, mày dài, môi son, răng trắng… Và bao nhiêu màu sắc mỹ lệ xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, lam, lục của các vật báu ở thế-gian. Nó hay khiến kẻ phàm phu trông thấy sanh lòng yêu-mến, tạo các ác-nghiệp. Như vua Tần-Bà-Ta-La vì sắc dục đem thân vào nước địch, cam ở trong phòng nàng A-Phạm-Ba-La. Lại Ưu-Điền cũng vì sắc dục chặc tay, chân 500 vị tiên. Sắc dục còn gây biết bao tội-lỗi như vậy.
2. Trách thinh dục
Là tiếng đờn tranh, đờn cầm, ống tiêu, ống sáo, tiếng ty, tiếng trúc, kim, thạch tấu thành âm-nhạc và giọng ca ngâm, tán tụng của nam nữ. Nó hay cám dổ kẻ phàm phu vừa nghe liền sanh tâm đắm nhiễm, tạo các ác nghiệp. Như 500 vị tiên ở núi Tuyết nghe giọng ca của nàng Chân-Đà-La liền mất thiền-định, tâm say mê cuồng loạn. Mê âm thinh tạo nên tội lỗi còn biết bao việc như thế.
3. Trách hương dục
Mùi hương của nam, nữ, của các thức ăn uống và các thứ hương xông, ướp, kẻ ngu không biết xét tướng trạng của nó, vừa ngửi liền sanh mê-đắm, mở cửa cho kiết-sử. Như vị Tỳ-kheo ở bên hồ sen, ngửi mùi hương của hoa sanh tâm ưa thích, bị vị thần giữ ao quở trách: “Tại sao dám trộm mùi hương của ta?” Vì thích mùi hương khiến các kiết-sử đang nằm liền đứng dậy. Còn biết bao nhân duyên do hương dục gây tai hại như thế.
4. Trách vị dục
Là những mùi vị đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt…,. Những thứ cao-lương mỹ-vị hay khiến phàn phu sanh tâm nhiễm trước, tạo các nghiệp ác. Như ông Sa-di vì thích vị tô-lạc nên sau khi chết làm con giòi ở trong tô-lạc. Vị dục còn lắm việc hại tương tợ như thế.
5. Trách xúc dục
Da thịt mềm mại mịn màng của nam, nữ; khi lạnh chạm ấm, khi nóng xúc mát và các cái xúc chạm hợp với nhu cầu, kẻ ngu không trí vì đó chìm đắm, khiến ngăn ngại đạo nghiệp. Như vị tiên một sừng vì xúc dục mà mất thần thông, bị dâm nữ cỡi cổ. Xúc dục có lắm việc tai hại như thế.
Phương pháp trách dục như trên đều rút trong luận Ma-Ha-Diễn.
Lại than rằng: “Than ôi! Chúng sanh thường bị ngũ-dục não loạn, mà mãi tìm cầu không thôi. Ngũ dục nầy, nếu cầu được càng hăng; như lửa thêm củi, ngọn lửa càng mạnh. Ngũ-dục không vui như chó gặm xương khô. Ngũ-dục gây tranh đấu, như bầy quạ dành thịt thúi. Ngũ-dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ-dục hại người, như đạp rắn độc. Ngũ-dục không thật, như mộng được của báu. Ngũ-dục tạm bợ không lâu bền, như chọi đá lửa. Trí-giả suy xét coi nó như giặc thù; thế-nhân lầm mê tham đắm ngũ-dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô-lượng khổ não”.
Đến các loại súc sanh vẫn có 5 dục nầy, nên tất cả chúng-sanh thường bị ngũ-dục sai sử, đều làm tôi mọi cho ngũ-dục; lao mình trong tệ dục, chìm đắm trong tam đồ. Ta nay tu thiền-định lại bị chúng ngăn che, chúng là giặc dữ phải chóng gấp xa lìa. Như bài kệ kinh Thiền chép:
Chết sống không đoạn dứt
Vì ưa dục thích vị
Nuôi thù vào gò nổng
Luống chịu các đắng cay
Thân thúi như tử thi
Chín lỗ chảy bất tịnh
Như trùng phân ưa phân
Kẻ ngu thân không khác
Người trí nên xét thân
Không tham nhiễm thế lạc
Không mắc, không ham muốn
Ấy gọi chân Niết-bàn
Như chư Phật đã nói:
Nhứt tâm, nhất ý hành
Sổ tức tu thiền-định
Ấy gọi hành Đầu-đà.
*
III. Xả Cái
Xả cái tức là bỏ ngũ-cái: tham-dục, giận-hờn, mê-ngủ, diêu-động và hối-hận, nghi-ngờ.
1. Xả tham-dục
Trước đã nói đối ngũ-trần bên ngoài sanh tham muốn, nay nói chính trong ý-căn sanh tham muốn. Nghĩa là khi hành-giả ngồi ngay thẳng tu thiền, tâm khởi tâm tham muốn niệm niệm tiếp nối, che đậy thiện tâm không được tăng trưởng, biết rồi liền bỏ. Tại vì sao? – Vì như nàng Thuật-Bà-Gia trong tâm khởi tham-dục, còn bị đốt cháy cả thân thể thay! Huống chi trong tâm sanh lửa tham-dục mà không thiêu hết các pháp lành? Người tham-dục cách đạo rất xa. Tại sao? – Vì dục là chỗ trú của bao nhiêu sự não loạn. Nếu trong tâm ôm-ấp tham-dục thì không do đâu được gần đạo. Như bài kệ “trừ cái” nói:
Người hổ-thẹn vào đạo
Ôm bát phước chúng-sanh
Tại sao theo trần dục
Chìm lặn trong ngũ tình?
Đã xả ngũ dục-lạc
Bỏ nó không luyến tiếc
Vì sao lại muốn được?
Như người ăn đồ mửa
Các dục khi cầu khổ
Khi được nhiều sợ-hãi
Khi mất lại lo rầu
Tất cả thời không vui
Họa các dục như thế
Do đâu xả được nó?
Được vui sâu thiền-định
Liền không bị nó lừa.
2. Xả giận hờn
Giận là cội gốc làm mất Phật-pháp, là nhân-duyên sa vào ác-đạo, là oan-gia của pháp an-lạc, là bọn giặc dữ của thiện tâm, là tạng phủ của bao nhiêu ác-khẩu. Thế nên hành giả khi tọa thiền suy-nghĩ người nầy hiện tại phá hại ta, phá hại gia-quyến ta, khen-ngợi người thù của ta; suy-nghĩ quá-khứ, vị lai cũng thế, ấy là chín thứ phiền-não. Do đó sanh sân-hận, khởi sân-hận nên sanh oán thù, do tâm oán-thù, bèn khởi tâm tàn hại kẻ ấy. Sân-hận che đậy tâm như thế, nên gọi là “Cái”. Phải gấp bỏ nó, không cho nó tăng-trưởng. Như ngài Thích-Đề-Bà-Na dùng bài kệ hỏi Phật:
Vật gì giết an-lạc?
Vật gì giết vô ưu?
Vật gì gốc của độc?
Nuốt tiêu tất cả thiện?
Phật đáp:
Giết sân thì an-lạc
Giết sân thì vô-ưu
Sân là gốc của độc
Sân diệt tất cả thiện
Đã biết sân nguy-hiểm như thế, phải chóng tu từ-bi, nhẫn-nhục để diệt-trừ nó cho tâm được thanh-tịnh.
3. Xả mê ngủ
Ngủ hay phá-hoại cái vui chân thật nơi tâm đời nầy và đời sau, cùng cái vui cõi Trời và Niết-bàn. Nó rất ác, không có chút thiện. Tại sao? – Vì những phẩn “CÁI” khác dễ biết nên trừ được, còn khi ngủ như chết, không thể hiểu biết, vì không biết nên khó trừ. Như bài kệ chư Phật, Bồ-tát quở các đệ-tử mê ngủ:
Ông dậy! chớ ôm thây thúi nằm,
Những thứ nhớp nhúa tạm gọi người,
Như bệnh nặng, têm cắm vào thân,
Dẫy đầy đau khổ đâu yên ngủ.
Như người bị trói sắp đem giết,
Tai hại kề bên đâu thể ngủ!
Giặc kiết chưa diệt, hại chưa trừ,
Như cùng rắn độc chung nhà ở,
Như vào trận, giữa hai đao bén,
Khi ấy làm sao yên ngủ được?
Ngủ là đen tối không thể thấy,
Ngày ngày cướp mất ánh sáng ta,
Do ngủ khiến tâm không thấy được,
Hại to như thế đâu yên ngủ?
Còn lắm việc như thế để quở trách mê ngủ. Lấy vô thường cảnh-giác sự ngủ nghỉ khiến giảm bớt, không che mờ tâm tánh. Nếu tâm mê ngủ quá nặng phải dùng thiền-trượng đuổi nó.
4. Xả diêu-động và hối-hận
Diêu-động có ba thứ:
a) Thân diêu-động. Thân ưa chạy rong đùa giỡn lăng-xăng, ít khi ngồi yên.
b) Miệng diêu-động. Ưa ca hát, tranh cãi phải quấy, nói những việc vô ích, nói những việc thế-gian.
c) Tâm diêu-động. Tâm tình phóng-túng, ý-nghĩ lăng-xăng, suy-nghĩ văn-chương, kỹ-nghệ, thế-gian, các điều xét nghĩ xấu ác…
Diêu-động hay phá tâm của người xuất-gia. Người cố nhiếp-tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tán-loạn. Người tâm tán-loạn như con voi say mà không câu móc, con lạc-đà không dây mũi không thể kềm giữ được. Có bài kệ:
Ông đã cạo tóc mặc áo nhuộm,
Ôm bình bát vào xóm xin ăn.
Vì sao lại ưa thích diêu động?
Buông-lung ý, mất cả lợi lành.
Đã mất pháp lợi, lại mất cả cái vui ở đời, biết lỗi ấy rồi phải gấp đuổi nó.
Nếu diêu-động không, chưa thành che đậy, phải có hối-hận mới thành. Vì sao? – Vì khi diêu-động là còn ở ngoài. Trong khi nhập định mới hối-hận việc làm trước, lo rầu che đậy cả tâm tính. Hối hận có hai thứ:
1- Nhơn diêu-động, sau mới sanh hối-hận.
2- Người đã gây tội trọng thường ôm lòng sợ hãi, mũi tên hối-hận cắm sâu vào tim khó nhổ ra.
Có bài kệ:
Không nên làm mà làm
Nên làm mà không làm,
Lửa hối hận thiêu cháy,
Đời sau đọa ác đạo.
Nếu phạm tội nên hối,
Hối rồi chớ lo phiền.
Như thế tâm an vui,
Không nên thường nhớ mãi.
Nếu có hai thứ hối:
Hoặc nên làm không làm,
Không nên làm lại làm.
Ấy là tướng kẻ ngu,
Vì không làm lại làm,
Những việc ác đã làm,
Không thể bảo không làm.
5. Xả nghi ngờ
Do nghi che đậy tâm, đối trong chánh pháp không khởi lòng tin. Vì không tín tâm, nên ở trong Phật-pháp không được chi cả. Ví như người vào núi vàng, mà không có tay nên không thể lấy được. Nhưng nghi rất nhiều tai hại, không riêng gì chướng định. Nay nói về chướng định. Nghi có ba thứ:
a) Nghi mình.- Nghĩ rằng ta là kẻ ngu tối, tội chướng nặng nề, không phải như những bậc kia ! Tự khởi nghi như thế pháp thiền định không thể phát sanh. Nếu muốn tu thiền-định, chớ có khinh mình, vì căn lành nhiều đời trước đâu thể lường được.
b) Nghi thầy.- Nghi thầy ấy tướng mạo, oai nghi như thế, chính còn chưa có đạo đức thì làm sao dạy ta được? Khởi nghi mạn như thế, tức là chướng ngại định. Muốn trừ được bịnh nầy, như trong các luận Ma-Ha-Diễn dạy: “Ví như trong đãy da thúi mà có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ cái đãy thúi. Người tu cũng như thế, thầy tuy chưa hoàn toàn thanh-tịnh, vẫn tưởng như Phật”.
c) Nghi pháp.- Người đời phần nhiều hay chấp điều mình nghĩ trước là phải, nên sau khi thọ giáo-pháp không thể liền sanh tâm tin kính phụng-hành.
Nếu tâm dụ dự thì pháp không thể nhiễm tâm. Vì sao?- Vì nghi làm chướng-ngại, như trong bài kệ nói:
Như người trước ngã ba,
Nghi ngờ không biết lối,
Trong các pháp thật tướng,
Nghi cũng lại như vậy,
Vì nghi không cần cầu,
Thật tướng của các pháp,
Thấy nghi từ si sanh,
Là ác trong các ác,
Trong Pháp lành và ác,
Sanh tử và Niết-bàn,
Quyết-định thật có pháp,
Ở trong chớ sanh nghi,
Ông nếu ôm lòng nghi,
Chết bị chúa ngục trói,
Như sư-tử chụp nai,
Không thể nào thoát khỏi,
Ở đời tuy có nghi,
Phải tùy-hỷ pháp lành,
Ví như thấy ngả ba
Đường tốt, lợi nên đi.
Lòng tin hay vào được Phật-pháp. Nếu người không tin, tuy ở trong Phật-pháp, mà hoàn-toàn không được gì cả. Những việc như thế, đủ biết nghi là tai hại, hãy gấp bỏ nó.
Có người hỏi: “Những việc ác nhiều như bụi không thể tính hết, tại sao ở đây chỉ dạy bỏ 5 điều mà thôi?” Đáp: Trong 5 điều nầy gồm cả tam độc và đẳng-phần, 4 thứ nầy làm căn-bản, nhiếp cả tám muôn bốn ngàn trần-lao. Đó là:
1- Tham muốn thuộc tham độc.
2- Giận hờn thuộc sân độc.
3- Mê ngủ và nghi thuộc si độc
4- Diêu-động và hối hận thuộc đẳng phần.
Chúng hiếp thành 4 phần phiền-não. Trong mỗi phần có 2 muôn một ngàn. Họp 4 phần là 8 muôn 4 ngàn. Thế nên, trừ ngũ-cái là trừ tất cả pháp ác. Người tu nên lấy những việc như thế trừ bỏ ngũ-cái. Ngũ-cái bỏ rồi, ví như người mang nặng được gỡ bỏ, như bệnh được lành, như người đói được đến nước giàu có, như giặc bị bao vây được cứu thoát, yên ổn không lo sợ. Người tu cũng vậy, trừ được ngũ-cái rồi, tâm yên ổn, mát mẻ an vui, như mặt trời, mặt trăng bị 5 việc che tối: khói, bụi, mây, mù, nhật nguyệt thực, nên không thể chiếu sáng. Tâm người bị ngũ-cái cũng như thế.
*
IV. Điều Hòa
Hành-giả mới học tọa thiền, muốn tu theo giáo pháp của mười phương chư Phật, trước phải phát đại thệ nguyện, độ thoát tất cả chúng-sanh, nguyện cầu Phật đạo vô-thượng, tâm kiên cố như kim-cang, tinh tấn dũng mãnh không tiếc thân mạng. Nếu thành-tựu tất cả Phật-Pháp, hoàn-toàn không thối chuyển rồi, nhiên hậu trong khi tọa thiền chánh niệm suy nghĩ tướng chơn thật của các pháp. Nghĩ rằng: pháp thiện, ác, vô ký, trong, ngoài, căn, trần, thức, tất cả pháp phiền não hữu lậu, pháp hữu vi, nhân quả, sanh-tử trong tam giới đều nhơn tâm mà có. Cho nên kinh Thập Địa chép: “Tam giới không riêng có, chỉ do nhất tâm tạo tác. Nếu biết tâm không tánh thì các pháp không thật, tâm không nhiễm trước thì tất cả hạnh nghiệp sanh tử đều dứt”. Quán như thế rồi, kế nên theo thứ lớp khởi hạnh tu tập.
Thế nào là điều hòa?- Dùng thí dụ để so sánh cho dễ hiểu. Ví như người thợ gốm khéo trộn nước, đất nhồi thành mềm dẻo, sau mới để lên khuôn mà nặn. Như cây đờn cầm, trước phải điều hòa giây, không dùn, không thẳng, sau mới khảy ra những bản nhạc âm thanh vi diệu. Hành giả tu tâm cũng như vậy, khéo điều năm việc khiến được hòa thích thì chánh định dễ sanh. Nếu có việc không điều thì sanh nhiều chướng nạn, căn lành khó phát sanh. Điều năm việc:
1. Điều hoà sự ăn uống
Sự ăn uống cốt để nuôi thân tiến tu đạo-nghiệp. Nếu ăn no quá thì bao tử đầy, hơi thở gấp, trăm mạch không thông, tâm bị bế tắc, ngồi niệm không yên. Nếu ăn quá ít thì thân gầy, bao tử lỏng-lẻo, ý lao lư xao động không vững. Hai việc nầy đều không được định. Nếu ăn những vật trược uế khiến tâm thức phải hôn mê. Nếu ăn những vật không thích nghi hay khơi bệnh cũ, khiến tứ đại chống nghịch nhau. Người mới tập tu thiền định phải dè-dặt tránh những điều nầy. Cho nên kinh chép: “Thân yên thì đạo đầy đủ, ăn uống có tiết độ, thường ưa ở chỗ vắng vẻ, tâm lặng ưa tinh-tấn, ấy là lời dạy của chư Phật”.
2. Điều hòa sự ngủ nghỉ
Ngủ là bị vô minh che đậy, không nên ngủ nhiều. Nếu người ngủ nhiều quá, không những bỏ bê sự tu hành, lại mất hết những công phu, khiến tâm ám muội, căn lành tan mất. Phải giác-ngộ lý vô-thường, điều phục sự ngủ nghỉ để tinh-thần trong sáng, tâm niệm minh-tịnh. Được thế mới có thể gá tâm nơi thánh cảnh, chánh định hiện tiền. Cho nên kinh chép: “Đầu hôm và buổi khuya cũng chớ bỏ phế, không do nhơn duyên ngủ nghỉ để một đời luống trôi qua, không được gì cả. Phải nghĩ rằng: ngọn lửa vô-thường thiêu cả thế-gian, sớm cầu tư độ chớ nên ngủ nghỉ”.
Phương-pháp điều thân, điều hơi thở, điều tâm, ba việc nầy phải hợp nhau dùng, không thể nói riêng. Nhưng pháp hành có trước, giữa và sau không đồng. Do đó tướng nhập, trụ và xuất cũng có khác nhau.
3. Điều thân
Hành-giả muốn nhập chánh định phải áp dụng phương-pháp điều thân. Khi ở ngoài định đi, đứng, nằm, ngồi và mọi hành-động thảy đều nhẹ-nhàng thư thả; nếu hành-động gấp gáp, nặng nề thì hơi thở hào-hển, hơi thở hào-hển thì tâm tán loạn khó kềm chế, đến khi ngồi bức rức tâm không thư-thới. Do đó tuy chưa nhập định hành-giả vẫn phải dụng ý, sớm tìm phương tiện hạn-chế nó dần. Lúc nhập-định phải khéo an thân cho được định.
Khi đến chỗ ngồi thiền, trước phải ngồi yên, mỗi bộ phận đều nghe yên ổn, lâu lâu thấy không có gì chướng ngại, mới bắt đầu sửa soạn chân. Nếu ngồi bán già thì lấy chơn trái để trên đùi mặt, kéo sát vào thân, để bàn chân trái bằng với đùi mặt, bàn chân mặt bằng với đùi trái. Nếu ngồi toàn già phải kéo chân mặt để lên chân trái. Nới rộng giây lưng và cổ áo, sửa cho ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên lòng bàn tay mặt và các ngón tay chông lên nhau trừ ngón cái, rồi đặt trên bàn chân, kéo sát vào thân. Thân ngay thẳng, chuyển động thân và các chi tiết bảy lần, giống như pháp xoa bóp, không cho tay chân xê dịch. Như thế rồi giữ xương sống cho thẳng không để cong vẹo. Cổ sửa cho ngay, đầu cúi hơi, giữ chót mũi ngay rún không chinh không vạy, không ngước không cúi, gương mặt bình thản ngồi yên. Kế dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, phải đều đều nhẹ nhẹ, hơi ra tưởng như mạch máu trong thân những chỗ không thông đều theo hơi thở mà lưu thông, rồi ngậm miệng dùng mũi hít hơi trong sạch vào. Thở như thế đến ba lần, nếu khi thân và hơi thở đã điều hòa thì thở một lần cũng được. Thở xong ngậm miệng lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để lên ổ gà. Con mắt nhắm vừa khuất ánh sáng bên ngoài thôi. Thân ngồi phải ngay thẳng như tấm vách đá. Thân và chân tay không được cử động. Đó là phương pháp ban đầu khi nhập thiền định điều thân. Tóm lại, không hoãn mà cũng không gấp, đó là tướng trạng thân điều hòa.
4. Điều hơi thở
Hơi thở có 4 tướng: 1- Tướng Phong. 2- Tướng Xuyển. 3- Tướng Khí. 4- Tướng Tức. Ba tướng trước không điều-hòa, tướng sau mới điều hòa. Thế nào là tướng Phong, tướng Xuyển v.v…?
– Khi ngồi thiền, hơi thở ra vào trong mũi nghe có tiếng, là tướng Phong; hơi thở tuy không có tiếng mà ra vào ngăn trệ không thông, là tướng Xuyển; hơi thở tuy không có tiếng, không ngăn trệ, mà ra vào không nhẹ-nhàng, là tướng khí; hơi thở không có tiếng, không bị ngăn và không thô, ra vào nhẹ như còn như mất, tinh-thần an-ổn, thư-thới, ấy là tướng Tức. Nếu bị bệnh Phong thì tán-loạn, bị bịnh Xuyển thì ngăn trệ, bị bịnh Khí thì nhọc nhằn; chỉ được tướng Tức là an-định. Khi ngồi thiền có ba tướng Phong, Xuyển, Khí gọi là không điều-hòa; khi ấy nếu dụng tâm thì hại tâm, tâm khó được định.
Nếu muốn điều-hòa phải y ba pháp:
1- Chuyên tưởng tâm ở tại rún.
2- Buông thả thân-thể một cách tự-tại.
3- Tưởng khắp lỗ chân lông hơi thở ra vào thông đồng không ngăn-ngại.
Nếu tâm được tế-vi thì hơi thở nhẹ nhàng. Hơi thở điều-hòa thì các bệnh không sanh, tâm dễ được định. Ấy gọi là phương-pháp điều-hòa hơi thở, khi hành giả mới tập ngồi thiền. Tóm lại, hơi thở nhẹ nhẹ, dài và đều là tướng điều-hòa.
5. Điều tâm
Điều tâm có ba cách: Nhập, Trụ, và Xuất.
a) Nhập: Nhập có hai lối:
1- Điều phục loạn tưởng không cho buông-lung.
2- Phải điều-hòa giữa Phù, Trầm, Khoan, Cấp.
Thế nào là tướng Trầm? – Nếu trong khi ngồi tâm mờ-mịt, không ghi nhớ gì cả, đầu ưa gục xuống, ấy là tướng Trầm. Khi ấy phải chú tâm tại chót mũi, khiến tâm duyên trong một cảnh, không cho ý phân tán, đây là trị bệnh Trầm.
Thế nào là tướng Phù? – Nếu khi ngồi tâm ưa phóng-túng loạn động, thân cũng không yên, nhớ những việc đâu đâu, đó là tướng Phù. Khi ấy nên tưởng tâm tại rún, ngăn các loạn niệm, tâm liền dừng trụ, dễ được an tịnh. Tóm lại, không Trầm, không Phù là tướng điều-hòa.
Tâm định ấy cũng có tướng Khoan, Cấp. Tướng bệnh định tâm Cấp, do trong khi ngồi dụng niệm nhiếp tâm mà được vào định. Thế nên hơi xông lên trên hông, ngực đau nhói, phải buông xả tâm ấy, tưởng hơi đều dồn xuống, bệnh liền được lành. Nếu tâm mắc bệnh Khoan thì tâm chí tản mác, thân ưa xiêu vẹo, hoặc trong miệng chảy nước miếng, hoặc khi ấy mờ mịt. Bấy giờ phải thúc liễm thân và tâm chuyên-niệm, khiến tâm trụ trong một chỗ, thân thể kềm giữ nhau, lấy đó mà trị bệnh. Tâm có tướng thô phù hay trầm lặng, cứ xét đó có thể biết. Ấy là phương-pháp điều tâm khi mới vào định.
Phàm nhập định là từ thô vào tế, thân là thô, hơi thở là trung-bình, tâm là tế-nhị, nên điều từ thô đến tế khiến tâm được an-tịnh, đó là phương-tiện ban đầu vào định. Đây gọi là khi nhập định điều-hòa được hai việc.
b) Trụ: Hành-giả trong thời-gian tọa thiền tùy dài hay ngắn, hoặc đến hai ba giờ trong 12 giờ nhiếp niệm dụng tâm. Trong ấy phải khéo biết thân, hơi thở, tâm được điều-hòa hay không điều-hòa. Nếu khi ngồi tuy điều thân xong, nhưng thân hoặc buông thả, hoặc kềm thúc, hoặc nghiêng, cong, cúi, ngước không ngay thẳng, biết rồi liền sửa cho thẳng khiến được an-ổn. Sửa thân bậc trung không kềm, không thả, bình thường ngay thẳng an-trụ.
Lại nữa, trong thời-gian ngồi thiền thân tuy điều-hòa, mà hơi thở không điều-hòa. Tướng hơi thở không điều-hòa như trước đã nói, hoặc Phong, Xuyển, Khí, hoặc trong thân đầy hơi, phải dùng những phương-pháp ở trước tùy bệnh mà trị, khiến hơi thở êm, dài như có như không.
Thứ đến, trong thời-gian ngồi thiền, thân, hơi thở tuy điều-hòa, mà tâm hoặc Phù, Trầm, Khoan, Cấp không định. Khi ấy, nếu biết nên dùng những phương-pháp ở trước điều-hòa khiến được thích-ứng bậc thường.
Ba việc nầy không nhứt định trước, sau. Tùy cái nào không điều-hòa sửa cho được điều-hòa, khiến thời gian ngồi, thân, hơi thở và tâm, ba cái đều điều-hòa thích-ứng, không thể trái nhau, dung hòa không hai. Thế là hay trừ được bệnh trước, những chướng-ngại không sanh, pháp thiền-định quyết-định được.
c) Xuất: Hành-giả nếu tọa thiền sắp xong, khi muốn xuất định, nên trước phóng tâm duyên cảnh khác, kế hả miệng thở hơi ra, tưởng khắp trăm mạch máu đều theo ý mà lưu-chuyển. Nhiên hậu, nhẹ nhẹ động thân, kế động vai, bắp tay (chỗ con chuột); lần lượt đến tay, đầu, cổ và sau động hai chân, tất cả đều phải êm-ái, rốt sau lấy tay xoa khắp lỗ chơn lông, rồi hai tay xoa nhau cho nóng áp lên hai con mắt, sau mới mở mắt, đợi sức nóng trong người tan hết mới tùy ý ra đi. Nếu không đúng như vậy, khi ngồi được trụ tâm, mà khi xuất buông xả mau quá thì phần vi tế chưa tan, trụ lại trong thân khiến người nhức đầu, trăm lóng xương cứng đờ như mắc chứng phong lao; về sau trong khi tọa thiền bức-rức không yên. Thế nên muốn xuất định, mỗi việc đều phải lưu ý. Đây là phương-pháp điều thân. hơi thở và tâm, từ tế đến thô.
Thế gọi là khéo Nhập, Trụ và Xuất, như bài kệ:
Tiến dừng có thứ tự,
Thô tế không trái nhau.
Ví như khéo lập mưu,
Tùy ý muốn đứng đi.
Kinh Pháp-Hoa chép: “Đại-chúng và chư Bồ-tát v.v… ở hội nầy, đã trong vô-lượng ức, kiếp chỉ vì Phật-đạo, siêng tu tinh-tấn, khéo nhập, trụ, xuất được vô-lượng trăm ngàn muôn ức chánh-định, được đại thần-thông, đã lâu tu hạnh thanh-tịnh, khéo hay thứ-tự lập các pháp lành”.
*
V. Hành Phương Tiện
Phàm muốn tu chỉ quán phải đủ pháp-môn phương tiện. Pháp phương tiện có năm:
1. Dục. Muốn lìa tất cả vọng tưởng điên-đảo của thế-gian, muốn được tất cả pháp-môn thiền-định trí-huệ. Dục cũng gọi là Chí, là Nguyện, là Ưa, là Thích. Vì người ấy có chí nguyện ưa thích tất cả pháp-môn thâm diệu, nên gọi là dục. Như Phật dạy: “Tất cả pháp lành lấy Dục làm gốc”.
2. Tinh-tấn. Kiên trì giới luật, xả dứt ngũ-cái, đầu hôm và khuya tinh chuyên không bê trễ, như người kéo lửa chưa nóng trọn không dừng nghỉ, ấy gọi là pháp tinh-tấn thiện đạo.
3. Niệm. Tưởng nhớ pháp thế-gian dối trá rất hèn, nhớ pháp thiền-định tôn trọng đáng quí. Nếu được thiền-định tức là phát đầy đủ các trí-huệ vô-lậu, tất cả đạo lực thần thông, thành bậc Đẳng chánh-giác, rộng độ chúng-sanh, ấy là đáng quí nên phải nhớ.
4. Xảo huệ. Tính lường giữa cái vui thế-gian và cái vui thiền-định trí-huệ, sự đắc, thất, khinh, trọng thế nào? – Cái vui thế-gian vui ít khổ nhiều, dối trá không thật, là thất, là khinh. Cái vui thiền-định trí-huệ là vui vô-lậu, vô-vi, lặng lẽ thênh thang, hằng lìa sanh tử, xa hẳn khổ não, là đắc là trọng. Phân biệt như vậy, gọi là xảo huệ.
5. Nhứt tâm phân-minh. Thấy rõ thế-gian đáng lo, đáng ghét, khéo biết công-đức định-huệ đáng tôn đáng quí. Bấy giờ nên nhất tâm quyết định tu tập Chỉ, Quán, tâm cứng như Kim-Cang, thiên ma ngoại đạo không thể ngăn trở phá hoại; dù tu như vậy mà không chứng được cái gì, cũng không thay đổi, ấy gọi là nhất tâm. Ví như người đi đường trước phải biết đường thông hay bít, sau mới nhất tâm theo đường tiến bước, nên gọi rằng “Xảo huệ nhất tâm”. Kinh chép: “Không phải người trí thì không thể tu thiền, không tu thiền thì không thể được trí”, chính là nghĩa nầy vậy.
*
VI. Chánh Tu
Tu Chỉ, Quán có hai thứ: tu trong khi ngồi thiền và tu trong khi tiếp duyên đối cảnh.
A. Tu Trong Khi Ngồi Thiền
Cả bốn oai nghi đều tu được, nhưng người học đạo trong lúc ngồi tu thù thắng hơn, nên trước cuộc trong phạm vi ngồi để giải rõ Chỉ, Quán. Lược nói có 5 ý:
1. Tu Chỉ, Quán đối trị tâm thô loạn ban đầu
Nghĩa là hành-giả khi mới ngồi thiền vì tâm thô loạn nên phải tu Chỉ, Quán để phá trừ nó. Chỉ nếu không phá được liền nên tu Quán, cho nên nói: “Tu Chỉ, Quán đối trị tâm thô loạn ban đầu”. Nay nói tu Chỉ, Quán có hai ý:
a) Tu Chỉ. Có ba thứ:
1) Hệ duyên thủ cánh chỉ: Là buộc tâm tại chót mũi và giữa rún v.v…, khiến tâm không tán loạn. Kinh chép: “Buộc tâm không buông lung, cũng như xích con vượn”.
2) Chế tâm chỉ: Là tùy tâm vừa khởi liền kềm hãm lại, không cho nó dong ruổi tán loạn. Kinh chép: “Năm căn, tâm là chủ, thế nên các ông phải khéo dứt tâm”.
Hai phần trên thuộc về sự tướng không cần phân biệt rộng.
3) Thể chơn chỉ: Là tùy tâm khởi niệm tất cả pháp đều biết do nhơn duyên sanh, nó không có tự-tánh thì tâm không chấp. Nếu tâm không chấp thì vọng niệm dứt, cho nên gọi là Chỉ. Như bài kệ trong kinh:
“Trong hết thảy các pháp,
Nhơn duyên sanh không chủ.
Dứt tâm suốt nguồn gốc,
Gọi là trí sa-môn”.
Hành-giả khi mới tập ngồi thiền, tùy tâm khởi niệm tất cả pháp vọng niệm tiếp tục không dừng; tuy dùng phương-pháp thể chơn-chỉ như trên mà vọng niệm không dứt, phải quán trở lại chỗ khởi của tâm: “quá-khứ đã qua, hiện-tại chẳng dừng, vị-lai chưa đến, cùng tột ba thời trọn không thể được. Pháp đã không thể được thì tâm cũng không thể có; nếu tâm không có thì tất cả pháp đều không”. Hành giả tuy quán tâm không trụ, đều không thể có, mà không phải không có cái hiểu biết niệm khởi liên-tục từng sát-na.
Loại quán tâm-niệm nầy do sáu căn bên trong và sáu trần bên ngoài, căn trần đối nhau cho nên có thức sanh, căn trần chưa đối thì thức hẳn không sanh. Quán sanh như thế, quán diệt cũng vậy. Danh-từ sanh diệt chỉ là giả-lập, tâm sanh-diệt đã diệt thì tịch diệt hiện-tiền. Trọn không có chỗ được, ấy gọi là Niết-bàn không tịch, thế là tâm vọng tự đứng vậy. Luận Đại-Thừa Khởi-Tín chép: “Nếu tâm dong-ruổi tán-loạn, liền phải thu nhiếp trụ nơi chánh-niệm. Nói chánh-niệm, nên biết chỉ có tâm, không có ngoại cảnh; lại nội tâm nầy cũng không có tự tướng, mỗi niệm không thể có được”. Người sơ tâm tu-học, tâm chưa có thể dừng trụ. Nếu cố ép cho nó trụ, thường hay phát cuồng. Phải như người tập bắn, tập lâu mới bắn trúng.
b) Tu Quán: Quán có hai thứ:
1) Đối trị quán: Như quán bất-tịnh đối-trị tham dục, quán từ-bi đối-trị giận hờn, quán giới phân-biệt đối-trị chấp ngã, quán sổ-tức đối-trị loạn động v.v… Ở đây khỏi phải giải thích.
2) Chánh quán: Quán các pháp không tướng đều do nhân-duyên sanh; nhân duyên không tánh tức là thật tướng. Trước rõ cảnh bị quán tất cả đều không thì tâm năng quán tự-nhiên không khởi những đoạn văn trước và sau đã bàn nhiều về lý nầy, xin để tự hiểu. Như bài kệ trong kinh nói:
Các pháp không bền chắc
Thường ở trong tâm niệm
Người thấu đạt lý không
Tất cả không khởi niệm.
2. Tu Chỉ, Quán đối-trị tâm bệnh trầm, phù
Hành-giả khi ngồi thiền tâm mê muội không nhớ, hoặc nhiều ngủ gục, khi ấy nên tu Quán để chiếu phá nó. Nếu trong khi ngồi, tâm ấy phù động lăng xăng không yên, khi ấy nên tu Chỉ để chận đứng nó. Ấy là đã được nói tướng tu Chỉ Quán đối trị tâm bệnh phù, trầm; nhưng phải khéo biết thuốc và biết tướng bệnh mà đối dùng, mỗi mỗi đừng để mắc phải lỗi đối trị sai lạc.
3. Tùy tiện nghi tu Chỉ Quán
Hành-giả khi tọa thiền, tuy vì đối trị tâm trầm nên tu Quán chiếu, mà tâm vẫn không tỉnh sáng, cũng không có pháp-lợi; khi ấy nên thử tu Chỉ mà chận đứng nó. Nếu khi tu Chỉ liền biết thân tâm an-tịnh, là biết hợp với tu Chỉ, nên dùng Chỉ để an tâm. Nếu khi tọa thiền, tuy vì đối trị tâm phù-động nên tu Chỉ, mà tâm vẫn không an-trụ, cũng không có pháp-lợi, nên thử tu Quán. Nếu trong khi Quán liền biết thân tâm tỉnh sáng, an-ổn lặng-lẽ, là biết hợp tu Quán, liền nên dùng Quán để an tâm. Đó là lược nói tướng tùy tiện-nghi tu Chỉ Quán. Chỉ cần khéo chọn pháp thích hợp mà tu thì tâm thần an-ổn loạn phiền não dứt, chứng được các pháp-môn.
4. Đối-trị tế tâm trong định tu Chỉ Quán
Nghĩa là hành-giả trước dùng chỉ quán đối phá tâm thô loạn, loạn tâm đã dứt, liền được nhập-định; vì định tâm vi-tế, nên cảm biết như thân rỗng lặng thọ sự khoái lạc, hoặc tâm tiện-lợi phát khởi, thu nhận tâm tế-vi nầy, chấp lý lệch lạc tà vạy. Nếu không biết định tâm để ngăn dứt sự hư dối ấy, ắt sanh tham trước chấp cho là thật. Nếu biết nó là hư-dối không thật thì hai thứ phiền-não ái kiến không khởi ấy là tu chỉ. Nếu tâm đắm trước ái kiến kết nghiệp không dứt, khi ấy nên tu Quán. Quán tâm vi-tế trong định, nếu không thấy tâm ấy thì không chấp-định kiến; nếu không chấp định kiến thì ái kiến nghiệp phiền-não thảy đều diệt sạch, ấy gọi là tu Quán. Đây là lược nói tướng đối-trị tâm vi-tế trong định tu Chỉ Quán. Phân biệt phương-pháp Chỉ, Quán cũng đồng như trước duy có phá lỗi định kiến vi-tế là khác.
5. Quân bình định-huệ tu Chỉ Quán
Hành-giả trong khi tọa thiền nhơn tu Chỉ, hoặc nhơn tu Quán được nhập thiền-định. Tuy được nhập định mà không có Quán-huệ, ấy là si định, không thể đoạn kiết. Hoặc quán-huệ kém ít thì không thể phát khởi được chân huệ, đoạn các kiết-sử, phát các pháp-môn. Khi ấy nên tu Quán mà phá dẹp thì định-huệ được quân-bình, hay đoạn được kiết-sử và chứng các pháp-môn.
Hành-giả trong khi tọa thiền nhơn quán, tâm rỗng-rang khai-ngộ, trí-huệ sáng-suốt, mà định tâm kém ít, nên tâm tán động, như ngọn đèn trước gió không chiếu rõ các vật, không thể xuất ly sanh-tử. Khi ấy nên tu Chỉ, do tu Chỉ mà tâm được định, như ngọn đèn để trong nhà kín, hay phá được tối tăm và soi vật rõ-ràng. Đó là lược nói Quán-bình định huệ tu Chỉ-Quán. Hành giả nếu như thế trong khi ngồi thân ngay thẳng khéo dùng 5 ý tu Chỉ-Quán nầy, thủ hay xả không mất sự thích ứng của nó, là người ấy đã khéo tu Phật-pháp, vì khéo tu nên một đời không luống uổng vậy.
B. Tu Chỉ Quán Khi Trải Duyên Đối Cảnh
Thân thường ngồi ngay thẳng tu Chỉ-Quán là phương-pháp thù-thắng cần-yếu để vào đạo, nhưng còn ngại khi thân tiếp duyên, đối cảnh. Nếu khi tiếp duyên đối cảnh mà không tu Chỉ-Quán, ấy là tu tâm có gián-đoạn, những kiết nghiệp khi xúc-cảnh liền sanh khởi, không thể chóng tương-ưng với Phật-pháp được. Nếu trong tất cả thời đều tu phương-tiện Chỉ-Quán thì chắc chắn người ấy thông-đạt Phật-pháp một cách nhanh chóng.
Thế nào là tu Chỉ-Quán khi trải duyên? – Nói duyên có 6 thứ: 1- Đi, 2- Đứng, 3- Ngồi, 4- Nằm, 5- Làm việc, 6- Nói năng.
Thế nào là tu Chỉ-Quán khi đối-cảnh? – Nói cảnh là 6 trần: 1- Mắt đối sắc, 2- Tai đối tiếng, 3- Mũi đối mùi, 4- Lưỡi đối vị, 5- Thân đối xúc, 6- Ý đối pháp.
Hành-giả tùy trong 12 việc nầy mà tu Chỉ-Quán, gọi là khi trải duyên đối cảnh tu Chỉ-Quán.
Trải Duyên Tu Chỉ Quán
1. Đi: Nếu khi đi nên khởi nghĩ thế nầy: Ta nay vì những việc gì muốn đi? Nếu bị phiền-não sai-sử và việc ác, vô-ký mà đi thì không nên đi; nếu không phải bị phiền-não sai-sử, vì việc thiện lợi-ích, đúng pháp thì nên đi. Thế nào trong khi đi tu Chỉ? Nếu khi đi liền biết nhân sự đi mà có tất cả phiền não pháp thiện, ác v.v…, biết rõ tâm và tất cả pháp trong khi đi đều không thể được, thì tâm vọng niệm tự dứt, đó gọi là tu Chỉ. Thế nào trong khi đi tu Quán? Nên khởi nghĩ thế này: do tâm khiến thân động, cho nên có tới lui, gọi là đi. Nhơn việc đi nầy mà có tất cả phiền-não pháp-thiện, ác v.v…, liền phản quán tâm trong khi đi không thấy tướng mạo, phải biết người đi và tất cả pháp trong khi đi rốt ráo rỗng lặng, ấy gọi là tu Quán.
2. Đứng: Khi đứng nên khởi nghĩ như thế nầy: ta nay vì những việc gì mà muốn đứng? Nếu vì các phiền não và việc ác, vô ký mà đứng thì không nên đứng; nếu vì việc thiện, lợi ích thì nên đứng. Thế nào trong khi đứng tu Chỉ? Nếu khi đứng liền biết nhơn đứng mà có tất cả phiền não, pháp thiện, ác v.v… biết rõ râm và tất cả pháp trong khi đứng đều không thể được thì tâm vọng niệm dứt, ấy là tu Chỉ. Thế nào trong khi đứng tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Do tâm khiến thân dừng, nên gọi là đứng. Vì nhơn đứng mà có tất cả phiền-não, pháp thiện, ác v.v… phải phản quán tâm trong khi đứng không thấy tướng mạo, nên biết người đứng và tất cả pháp trong khi đứng rốt-ráo, rỗng lặng, ấy gọi là tu Quán.
3. Ngồi: Khi ngồi nên khởi nghĩ thế nầy: Ta nay vì những việc gì mà muốn ngồi? Nếu vì phiền-não và việc ác, vô ký v.v… thì không nên ngồi; vì việc thiện, lợi-ích thì nên ngồi. Thế nào trong khi ngồi tu Chỉ? Nếu khi ngồi phải biết rõ nhơn ngồi nên có tất cả phiền-não pháp thiện, ác v.v… mà thật không có một pháp có thể được, thế là tâm vọng-niệm không sanh, ấy gọi là tu Chỉ. Thế nào trong khi ngồi tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Do tâm nghỉ nên xếp chân ngồi yên, nhơn đó có tất cả pháp thiện, ác v.v… cho nên gọi là ngồi. Phải quán trở lại tâm trong khi ngồi không thấy tướng mạo, nên biết người ngồi và tất cả pháp trong khi ngồi rốt-ráo rỗng lặng. Ấy gọi là tu Quán.
4. Nằm: Khi nằm nên khởi nghĩ thế nầy: Ta nay vì việc gì mà muốn nằm? Nếu vì việc không lành, phóng-túng v.v… thì không nên nằm; nếu vì điều-hòa tứ đại mà nằm thì nên nằm như Sư-tử nằm. Thế nào trong khi nằm tu Chỉ? Nếu khi nằm ngủ, nghỉ, phải biết rõ vì nhơn nằm mà có tất cả pháp thiện, ác… nhưng thật không có một pháp có thể được, thế là vọng niệm không khởi, ấy gọi là tu Chỉ. Thế nào trong khi nằm tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Do sự nhọc-nhằn nên sanh mờ-mịt, buông lung sáu tình, nhơn đó mà có tất cả phiền-não pháp thiện, ác v.v… liền phải phản quán tâm trong khi nằm không thấy tướng mạo, nên biết người nằm và tất cả pháp trong khi nằm rốt-ráo rỗng lặng, ấy gọi là tu Quán.
5. Làm việc: Nếu khi làm việc nên khởi nghĩ thế này: Ta nay vì việc gì mà muốn làm như thế? Nếu vì việc bất thiện, vô ký v.v… thì không nên làm; nếu vì việc thiện, lợi-ích thì nên làm. Thế nào trong khi làm việc tu Chỉ? Nếu khi làm việc nên biết rõ vì nhơn làm việc mà tất cả pháp thiện, ác v.v…, nhưng thật không có một pháp có thể được, thế là vọng-niệm không khởi ấy gọi là tu Chỉ. Thế nào khi làm việc tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Do tâm khiến thân chuyển động, nay mới tạo-tác các việc không có tướng mạo, nên biết người làm việc không có tướng mạo, nên biết người làm và tất cả pháp trong khi làm rốt-ráo rỗng lặng ấy gọi là tu Quán.
6. Nói năng: Nếu khi nói lên khởi nghĩ thế nầy: Ta nay vì việc gì muốn nói? Nếu tùy thuận phiền-não luận bàn những việc ác, vô ký v.v… thì không nên nói; nếu vì việc thiện, lợi-ích thì nên nói. Thế nào trong khi nói tu Chỉ? Nếu khi nói liền biết bởi nhơn lời nói nầy mà có tất cả phiền-não pháp thiện, ác v.v… biết rõ tâm và tất cả phiền-não, pháp thiện, ác v.v… trong khi nói đều không thể được thì tâm vọng-niệm liền dứt, ấy gọi là tu Chỉ. Thế nào trong khi nói tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Do tâm xét nghĩ kích-động hơi thở xông lên cổ họng, môi, lưỡi, răng, ổ gà, cho nên xuất ra những tiếng nói. Bởi nhơn tiếng nói nầy, mà có tất cả pháp thiện, ác v.v… nên gọi là nói. Phản quán tâm trong khi nói không thấy tướng mạo, phải biết người nói và tất cả pháp trong khi nói rốt-ráo rỗng lặng, ấy gọi là tu Quán.
Trở lên 6 nghĩa tu-tập Chỉ-Quán tùy thời thích hợp mà dùng, mỗi nghĩa đều có ý tu Chỉ Quán của 5 phần trước. Như trước đã nói.
Đối Cảnh Tu Chỉ Quán
1. Khi mắt thấy sắc tu Chỉ Quán: Tùy khi thấy sắc, tưởng như trăng thấy đáy nước không có thật thể. Nếu thấy sắc đáng yêu không khởi lòng tham ái, thấy sắc đáng ghét không sanh tâm giận ghét, thấy sắc không yêu, không ghét, không khởi si-mê và loạn tưởng, ấy là tu Chỉ. Thế nào là khi mắt thấy sắc tu Quán? Nên khởi nghĩ thế nầy: Những hình sắc trông thấy, tướng của nó là không-tịch. Tại sao? Vì ở trong căn, trần, không, minh kia, do nhân-duyên hòa-hiệp mới sanh nhãn-thức, kế sanh ý-thức phân biệt các thứ hình sắc, nhơn đó, có tất cả pháp phiền-não, thiện, ác v.v… Phản quán tâm nghĩ tưởng sắc ấy không thấy tướng mạo, nên biết thấy sắc và tất cả pháp cứu-kính không tịch, ấy là tu Quán.
2. Khi tai nghe tiếng tu Chỉ Quán: Tùy khi nghe tiếng, nên xét tiếng, như âm vang. Nếu nghe tiếng êm tai thích ý, không khởi lòng yêu mến, nghe tiếng trái tai nghịch ý không sanh tâm giận hờn, nghe tiếng không thích, không trái chẳng khởi tâm phân biệt, ấy là tu Chỉ. Thế nào trong khi nghe tiếng tu Quán? Nên khởi nghĩ thế này: Những tiếng nghe, nó không thực có, chỉ do căn, trần hòa hợp sanh nhĩ thức, kế sanh ý-thức gắng khởi phân biệt, nhơn đây có tất cả pháp phiền-não, thiện, ác v.v…, gọi là nghe tiếng. Phản quán tâm nghe tiếng không thấy tướng mạo, nên biết nghe tiếng và tất cả pháp cứu kính không tịch, ấy là tu Quán.
3. Khi mũi ngửi mùi tu Chỉ Quán: Tùy khi mũi ngửi mùi, biết nó như hơi như khói không thật. Nếu ngửi mùi thơm thích ý không khởi lòng đam mê, ngửi mùi hôi trái ý không khởi tâm ghét giận, ngửi mùi thơm, không hôi chẳng sanh loạn niệm, ấy là tu Chỉ. Thế nào trong khi ngửi mùi tu Quán? Phải nghĩ thế nầy: ta nay ngửi mùi tu Quán? Phải nghĩ thế nầy: ta nay ngửi mùi nó hư dối không thật. Tại sao? Vì căn trần hòa-hợp sanh tỷ thức, kế sanh ý thức cố chấp nhận tướng mùi, nhơn đó có tất cả pháp phiền-não, thiện, ác v.v…, cho nên gọi là ngửi mùi . Phản quán tâm ngửi mùi không thấy tướng mạo, nên biết ngửi mùi và tất cả pháp cứu-kính không tịch, ấy là tu Quán.
4. Khi lưỡi nếm vị tu Chỉ Quán: Tùy lưỡi nếm liền nghĩ như trong mộng được thức ăn. Nếu được vị ngon không khởi lòng tham đắm, được vị dở không khởi tâm giận ghét, vị không ngon, không dở chẳng khởi ý phân biệt, đó là tu Chỉ. Thế nào trong khi lưỡi nếm vị tu Quán? Nên xét thế nầy: Ta nay nếm các vị thật không thể được. Tại sao? Vì sáu vị trong, ngoài tánh nó không có phân biệt, nhơn hòa-hiệp với thiệt căn bên trong mà sanh thiệt-thức, kế sanh sanh ý-thức cố gắng chấp nhận tướng vị, nhơn đó mới có tất cả pháp phiền-não, thiện, ác v.v… Phản quán thức duyên vị không thấy tướng mạo, nên biết người nếm vị và tất cả pháp cứu-kính không-tịch, ấy là tu Quán.
5. Khi thân xúc chạm tu Chỉ Quán: Tuy khi xúc chạm liền biết nó như bóng huyễn hòa không thật, nếu xúc cái vui thích ý không khởi tham trước, xúc chạm cái khổ trái ý không khởi tâm ghét giận, xúc chạm cái không vui, không khổ chẳng khởi nhớ tưởng phân biệt, ấy là tu Chỉ. Thế nào khi xúc chạm tu Quán? Nên khởi nghĩ thế này: Chạm những cái nhẹ, nặng, lạnh, nóng, trơn, nhám, v.v…, gọi là xúc; đầu mình sáu phần gọi là thân; tánh xúc đã hư giả, thân cũng không thiệt, do nhân duyên hòa hợp liền sanh thân thức, kế sanh ý thức nhớ tưởng phân biệt tướng khổ, vui v.v…, gọi là xúc. Phản quán tâm duyên xúc nầy không thấy tướng mạo, phải biết người xúc chạm và tất cả pháp cứu-kính không tịch, ấy là tu quán.
6. Trong khi ý biết pháp tu Chỉ Quán: Như trong đoạn dạy sơ tọa thiền đã nói rõ. Từ trước y sáu căn tu Chỉ Quán, tùy ý thích dùng mà áp dụng, mỗi mỗi đều có đủ năm ý ở trước, trong đó đã phân biệt rộng, ở đây không cần biện giải lại. Hành-giả nếu hay trong tất cả chỗ: đi, đứng, ngồi, nằm, thấy, nghe, hiểu, biết, v.v…, mà tu Chỉ Quán, là người ấy chân thật tu theo Đại-Thừa. Như kinh Đại Phẩm chép: “Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: Nếu Bồ-tát khi đi thì biết đi, khi ngồi thì biết ngồi cho đến mặc y Tăng-già-lê, nhìn, chợp mắt… đều nhứt tâm, ra vào điều trong thiền-định, chính người ấy là Bồ-tát Đại-Thừa”.
Lại nữa, nếu người hay như thế trong tất cả chỗ tu hạnh Đại-Thừa, người ấy ở thế-gian là bậc tối thắng, tối thượng không có ai bì kịp. Trong Bộ-Thích-Luận, bài kệ nói:
Yên ngồi trong rừng vắng,
Lặng lẽ diệt các ác,
Đạm bạc được nhứt tâm,
Vui đây trời khó bì.
Người cầu lợi thế-gian,
Giường, nệm, áo quần đẹp,
Vui vầy không an ổn,
Cầu lợi không chán nhàm.
Áo nhuộm ở chỗ vắng,
Động tịnh tâm thường nhứt,
Tự lấy trí-huệ sáng,
Quán thật tướng các pháp,
Trong tất cả các pháp,
Thảy đều do quán nhập,
Tâm giải huệ lóng lặng,
Ba cõi khôn so kè.
*
VII. Tướng Thiện Căn Khai Phát
Hành-giả nếu hay từ Giả nhập Không quán Trung, tu Chỉ Quán như thế thì trong khi tọa thiền thân tâm sáng suốt. Khi ấy sẽ có các thứ thiện-căn khai phát cần phải biết rõ. Nay lược nói Tướng-Thiện-Căn khai phát có hai thứ:
A. Tướng Thiện Căn Khai Phát Bên Ngoài
Nghĩa là những việc thiện khai phát như: bố-thí, trì-giới, ở hiếu thuận cha mẹ, tôn trưởng, cúng dường Tam-Bảo và nghe kinh, học đạo v.v… Nếu không tu hành chân chánh sẽ bị ma cảnh chen vào. Ở đây khỏi phải giải thích.
B. Tướng Thiện Căn Khai Phát Bên Trong
Nghĩa là những pháp-môn thiền-định thiện-căn khai phát. Có chỗ nói các pháp-môn thiền-định thiện-căn khai phát có ba ý:
1. Hiểu rõ tướng Thiện-căn khai phát
Có năm thứ:
a) Tướng sổ tức thiện-căn khai phát: Hành-giả vì khéo tu Chỉ Quán nên thân tâm được điều hòa, vọng-niệm dừng bặt, nhơn đó tự biết tâm dần dần nhập định, phát các định Dục-giới Vị-đáo-địa, thân tâm lặng lẽ rỗng rang, định tâm an ổn. Ở trong định nầy đều không thấy có tướng-mạo của thân tâm. Về sau, hoặc trải một phen ngồi, hai phen ngồi, nhẫn đến một ngày, hai ngày, một tháng, hai tháng lần lần dứt hết không còn đắc thắc hay lui sụt. Chính ở trong định chợt biết thân tâm vận động phát ra tám thứ cảm-giác. Nghĩa là cảm-giác thân đau, ngứa, lạnh, ấm, nhẹ, nặng, nhám, trơn. Trong khi cảm-giác thân tâm an-định, rỗng rang thư thới, vui-vẻ thanh-tịnh không có gì sánh bằng. Ấy là biết tướng “Sổ-tức Thiền-định căn-bản thiện-căn khai phát”. Hành-giả hoặc ở trong định Dục-giới vị-đáo-địa thoạt-nhiên biết hơi thở ra, vào, dài, ngắn, những lỗ chân lông khắp thân đều trống hở. Dùng tâm nhãn thấy cả 36 vật ở trong thân, như mở cửa kho thấy các thứ đậu, mè v.v…, tâm sợ, mừng, vắng-lặng, an vui. Ấy là tướng “Tùy tức đặc thằng hiện căn khai phát”.
b) Tướng bất tịnh quan thiện-căn khai phát: Hành giả nếu được định Dục-giới vị-đáo-địa, ở trong định nầy thân tâm rỗng lặng, thoạt nhiên thấy thân người nam, nữ chết; chết rồi phát sình, nức nở, vôi tửa, máu mủ tươm ra, thấy xương trắng bừa bãi, trong tâm sanh buồn, mừng, nhàm chán sự yêu thương. Đó là Tướng “Cửu tưởng thiện-căn khai phát”. Hoặc ở trong định yên lặng chợt thấy bên trong thân nhớp nhúa, bên ngoài thân sình chương, rạn nứt, thân mình xương trắng từ đầu đến chân từng lóng gá nhau. Thấy việc ấy rồi, định tâm an-ổn tỉnh ngộ lý vô-thường, chán nhàm ngũ-dục, không chấp ngã, nhơn. Đó là Tướng “Bội Xả thiện-căn khai phát”. Hoặc trong khi định tâm thấy trong thân tất cả loài phi cầm tẩu thú, đồ mặc, thức ăn uống, phòng nhà, rừng núi thảy đều bất tịnh. Đây là Tướng “Đại Bất Tịnh thiện-căn khai phát”.
c) Tướng từ tâm thiện-căn khai phát: Hành-giả tu Chỉ Quán, hoặc được định Dục-giới vị-đáo-địa, ở trong định nầy thoạt-nhiên phát tâm thương, nhớ tưởng, chúng-sanh. Hoặc vin nơi người thân, được tướng an vui liền phát thâm-định, nội tâm vui vẻ thanh-tịnh không thể thí-dụ. Hoặc vin nơi người không thân, không sơ, kẻ oán thù, nhẫn đến năm loài chúng-sanh trong mười phương cũng lại như thế. Sau khi xuất định tâm vãn vui-vẻ thấy người nào gương mặt cũng hòa nhã. Ấy là Tướng “Từ tâm thiện-căn khai phát”. Tướng Bi tâm, Hỷ tâm, Xả tâm khai phát, so cái nầy có thể biết.
d) Tướng nhân duyên quán thiện-căn khai phát: Hành-giả nhơn tu Chỉ Quán, hoặc được định Dục-giới vị-đáo-địa thân tâm an-tịnh. Thoạt nhiên tâm sanh giác ngộ, suy tầm các nhân duyên: vô minh, hành v.v… trong ba đời, không thấy tướng nhân, ngã, lìa đoạn-kiến, thường-kiến, phá các chấp kiến, đư định an ổn, giải huệ khai phát, tâm sanh pháp-hỷ, không nhớ việc thế-gian, nhẫn đến trong ngũ ấm, thập nhị-xứ, thấp bát-giới phân-biệt cũng như vậy. Đó là Tướng “Nhân duyên quán thiện-căn khai phát”.
e) Tướng niệm Phật thiện-căn khai phát: Hành giả nhơn tu Chỉ Quán hoặc được định Dục-giới vị-đáo-địa thân tâm rỗng lặng. Thoạt nhiên nghĩ nhớ chư Phật có công đức, tướng-hảo không thể nghĩ bàn; có pháp thập-lực, từ-vô-sở-úy, thập-bát-bất-cộng, tam-muội, giải-thoát v.v… không thể nghĩ bàn; có thần thông, biến-hóa, thuyết pháp không ngăn ngại, lợi ích chúng-sanh không thể nghĩ bàn; như thế, những công-đức vô lượng không thể nghĩ bàn. Khi khởi niệm ấy liền sanh tâm kính mến, tam-muội khai phát, thân tâm khoái-lạc, thanh-tịnh an-ổn, không có các tướng ác. Sau khi xuất định, thân thể nhẹ nhàng tự biết có công-đức cao vọi, được người yêu kính. Ấy là Tướng “niệm Phật tam-muội thiện-căn khai phát”.
Lại nữa, hành-giả nhơn tu Chỉ, Quán nếu được thân tâm lóng sạch, hoặc phát tướng vô-thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tướng nhàm chán sự ăn uống, bất tịnh ở thế gian, tưởng khi chết lìa tất cả, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiên, niệm xứ, chánh-cần, như-ý, ngũ-căn, ngũ-lực, thất giác-chi, bát thánh đạo, không, vô-tướng, vô tác, lục-độ, các thứ ba-la-mật, thần thông, biến hóa v.v…, tướng tất cả pháp-môn phát hiện, trong ấy nên rộng phân biệt. Cho nên trong kinh nói: “Giữ tâm một chỗ không việc gì chẳng xong”.
2. Phân biệt chơn ngụy
Có hai thứ:
a) Biện tướng thiền tà-ngụy phát hiện: Hành-giả nếu khi phát các thứ Thiền như trước, mỗi pháp tùy nhơn hiện ra: Hoặc thân xao động, hoặc thân nặng nề như bị vật gì đè lên, hoặc thân nhẹ nhàng muốn bay, hoặc như bị trói buộc, hoặc xiêu vẹo ngũ mê, hoặc rất lạnh, rất nóng, hoặc thấy bao nhiêu cảnh giới khác lạ, hoặc tâm mờ-mịt, hoặc khởi nghĩ tưởng dữ, hoặc nhớ các việc thiện tạp nhạp bên ngoài khiến tâm tán-loạn, hoặc vui mừng loạn động, hoặc buồn-bã lo rầu, hoặc những thứ dữ chạm vào rợn người lòng dựng đứng, hoặc rất vui khiến say mê. Những thứ tà pháp như thế cùng với thiền đồng phát gọi là tà-ngụy.
Những thứ tà định nầy, nếu người mê thích tức là cùng 95 thứ quỉ thần tương-ưng, phần nhiều ưa mất trí điên cuồng. Hoặc khi các loài quỉ thần biết được những điều mà người tu thiền ưa thích liền giúp thế lực khiến các thứ tà định, tà trí, biện-tài, thần-thông làm mê lầm xao-động người thế-gian. Những kẻ ngu trông thấy cho là chứng đạo quả, thảy đều tin phục; kỳ thật người kia trong tâm điên-đảo, chuyên hành pháp quỉ làm mê loạn thế gian. Người ấy khi chết hằng không gặp Phật, lại đọa trong các loài quỉ thần. Nếu khi ngồi phần nhiều hành theo pháp ác tức đọa địa-ngục. Hành-giả khi tu Chỉ, Quán, nếu chứng các thứ thiền như thế, có những tướng tà-ngụy nầy liền phải đuổi nó. Làm thế nào đuổi nó? – Hoặc biết nó là hư dối, chánh tâm không thọ, không đắm trước liền tự tiêu diệt; nên dùng chánh quán phá nó tức thì dứt sạch.
b) Biện-tướng thiền chân-chánh phát hiện: Hành-giả nếu trong khi ngồi phát các thứ thiền không có những tướng tà-ngụy như trước đã nói, tùy mỗi thứ thiền khi phát hiện liền biết cùng với định tương-ưng; sáng suốt, thanh-tịnh, trong tâm vui mừng, lặng-lẽ khoái lạc, không có che đậy, thiện tâm khai phát, lòng tin kính tăng-trưởng, trí soi xét phân-minh, thân tâm êm dịu, tinh-tế rỗng lặng, nhàm chán thế-gian, không tác-động, không tham muốn, ra vào tự-tại, ấy là người chánh thiền khai phát. Ví như cộng sự với người ác thì thường bị lo phiền, nếu cộng sự với người thiện thì hằng gặp những việc tốt, phân-biệt tướng hai thứ thiền tà, chánh phát hiện cũng như vậy.
c) Khéo dùng Chỉ Quán nuôi lớn các thiện-căn: Nếu trong khi ngồi, các thứ thiện-căn khai phát nên dùng hai pháp Chỉ Quán tiến tu, khiến nó tăng-trưởng. Nếu nên dùng Chỉ thì lấy Chỉ mà tu, nếu nên dùng Quán thì lấy Quán mà tu. Phần trước đã nói đủ, ở đây chỉ lược bày đại-ý.
*
VIII. Hiểu biết Ma Sự
Tiếng Phạn gọi là Ma-la (Mara), đời Tần dịch là Sát. Nó cướp của công-đức và giết mạng trí-huệ của người tu-hành, nên gọi là ác ma. Sự là lấy công-đức trí-huệ độ thoát chúng-sanh vào Niết-bàn là Phật-sự; thường phá-hoại căn lành của chúng-sanh khiến lưu chuyển trong vòng sanh-tử là Ma-sự. Nếu người khéo an tâm trong chánh-đạo mới biết đạo càng cao, ma càng thạnh. Phải biết Ma-sự có bốn loại:
1- Ma phiền-não.
2- Ma ấm, nhập, giới.
3- Ma chết.
4- Ma quỉ thần.
Ba loại ma trước đều là việc thường ở thế-gian và tùy tâm người sanh ra, nên phải tự tâm chân chánh đuổi trừ nó, ở đây không phân-biệt. Tướng ma quỉ thần là điều cần phải biết, đây lược nêu ra. Quỉ thần có ba loại:
a) Ma Tinh-mị: Là loài thú theo 12 giờ, nó biến-hóa làm các thứ hình sắc. Hoặc nó hóa người thiếu-nữ, người già nua, nhẫn đến những hình tướng đáng sợ không phải ít để làm não loạn người tu-hành. Các loài Tinh-mị nầy não hại người tu, mỗi loài đến theo giờ của nó, phải biết rành rõ. Nếu giờ Dần (3 giờ – 5 giờ) đến, ắt là loài cọp v.v… Nếu giờ Mẹo (5 giờ – 7 giờ) đến, ắt là loài thỏ, nai v.v… Nếu giờ Thìn (7 giờ – 9 giờ) đến, ắt loài rồng, trạnh v.v… Nếu giờ Ty9 giờ – 11 giờ) đến, ắt loài rắn, trăn v.v… Nếu giờ Ngọ (11 giờ – 1 giờ) đến, ắt loài ngựa, lừa, lạc đà v.v… Nếu giờ Mùi (1 giờ – 3 giờ) đến, ắt loài dê v.v… Nếu giờ Thân (3 giờ – 5 giờ) đến, ắt loài khỉ, vượn v.v… Nếu giờ Dậu (5 giờ – 7 giờ) đến, ắt loài gà, chim v.v… Nếu giờ Tuất (7 giờ – 9 giờ) đến, ắt loài chó, chó sói v.v… Nếu giờ Hợi (9 giờ – 11 giờ) đến, ắt loài lợn v.v… Nếu giờ Tý (11 giờ – 1 giờ) đến, ắt loài chuột v.v… Nếu giờ Sửu (1 giờ – 3 giờ) đến, ắt loài trâu v.v… Hành giả nếu thấy chúng thường dùng những giờ này đến, tức biết những loài tinh thú ấy, kêu tên nó mà quở trách liền phải tiêu diệt.
b) Ma Đôi-dịch: Nó cũng làm những việc xúc chạm não loạn người tu hành. Hoặc hóa như con sâu, con mọt bò lên đầu, mặt người vùi, chích, chớp nhán; hoặc bươi, vạch dưới hai nách của người; hoặc chợt ôm người giữ người; hoặc kêu vang lên làm ồn hóa hình các loài thú rất nhiều tướng lạ. Khi nó đến não loạn, người tu liền nên nhứt tâm nhắm mắt lại, thầm mắng nó thế nầy: “Ta nay đã biết ngươi, ngươi là loài quỉ Thâu-lạp-kiết-chi tà-kiến ưa phá giới ngửi mùi ăn lữa trong cõi Diêm-phù-đề, ta nay giữ giới quyết không sợ ngươi”. Nếu người xuất-gia nên tụng Giới bổn, nếu người tại-gia nên tụng tam-qui, ngũ-giới v.v… thì bọn quỉ nầy khúm-rúm rút lui. Nếu có hóa các thứ tướng mạo làm chướng nạn người tu như thế và các phương-pháp đoạn trừ, ở trong kinh thiền có nói rộng.
c) Ma nảo: Bọn ma nầy hay hóa làm ba thứ cảnh-tướng ngũ-trần đến phá thiện tâm người.
1) Hóa cảnh nghịch ý: Như hóa cọp, sói, sư-tử, những hình-tượng đáng sợ, là ngũ-trần ghê sợ khiến người phải khinh khủng.
2) Hóa cảnh thuận ý: Như hóa hình-tượng cha mẹ, anh em, chư Phật và nam, nữ đẹp đẽ đáng yêu, là ngũ-trần yêu thích khiến người sanh tâm đắm mến.
3) Hóa cảnh không thuận không nghịch: Là cảnh ngũ-trần bình thường làm loạn động tâm người tu-hành khiến mất thiền-định.
Thế nên, ma gọi là “Sát”, cũng gọi là “Mũi tên hoa”, cũng không là “năm mũi tên”; vì nó bắn vào năm giác quan của người. Giữa vật-chất và tinh-thần nó tạo ra bao nhiêu cảnh-giới làm mê-lầm não-loạn người tu hành, nên gọi là ma. Hoặc nó tạo ra những thứ âm-thinh: hay, dở; những thứ mùi: thơm, hôi; tạo ra những thứ vị: ngọt, đắng, những cảnh-giới: khổ, vui, đến làm xúc-não thân người đều là việc của ma, tướng nó rất nhiều ở đây không thể kể hết. Tóm phần trọng-yếu, nếu tạo những thứ ngũ-trần làm não-loạn người, khiến mất pháp lành, khởi các phiền-não đều là ma-quân. Do nó hay phá hoại tính bình-đẳng của Phật-pháp, khởi các pháp chướng đạo: tham-dục, lo buồn, giận hờn, ngủ mê v.v… Như bài kệ trong Kinh chép:
Dục ma quân thứ nhứt,
Ưu sầu đội thứ hai,
Đói khát quân thứ ba,
Mến yêu là thứ tư,
Ngủ mê quân thứ năm,
Kinh sợ đội thứ sáu,
Nghi hối quân thứ bảy,
Giận hờn là thứ tám,
Mê danh-lợi thứ chín,
Ngã-mạn là thứ mười.
Như thế, những thứ quân,
Đắm người xuất-gia.
Ta lấy sức thiền trí
Phá dẹp các quân ma,
Được thành Phật đạo rồi,
Độ thoát tất cả người.
Hành giả đã biết việc ma, cần phải đuổi nó. Phương pháp đuổi có hai:
1. Tu chỉ đuổi: Phàm thấy tất cả cảnh ma bên ngoài đều biết là hư dối, không lo, không sợ, cũng không thủ, không xả hay vọng chấp phân biệt, dứt tâm lặng yên thì ma tự tiêu diệt.
2. Tu quán đuổi: Nếu thấy các cảnh ma như trước đã nói, dùng Chỉ đuổi không đi, phải phản quán tâm năng kiến không thấy chỗ nơi thì bọn ma kia chỗ nào mà não loạn? Khi quán như thế ma liền diệt hết. Nếu nó trì hoãn không đi, cần phải chánh tâm, chớ sanh tưởng kinh sợ, không tiếc thân mạng, chánh-niệm không động, biết trên bản tánh chân-như ma-giới tức là Phật-giới; nếu ma-giới là Phật-giới thì chỉ có một không hai; rõ biết như vậy thì ma-giới không xả, Phật-giới không thủ, Phật-pháp tự sẽ hiện tiền, ma cảnh tự nhiên tiêu diệt.
Lại nữa, nếu thấy ma cảnh không tiêu chẳng cần phải lo, nếu thấy tiêu diệt cũng chớ sanh mừng. Vì cớ sao? – Vì chưa từng thấy có người ngồi thiền thấy ma hóa làm cọp, sói đến ăn thịt, cũng chưa từng thấy ma hóa là nam, nữ đến kết làm vợ chồng, chính nó là huyển-hóa. Người ngu không rõ tâm sanh kinh sợ và khởi lòng tham đắm, nhơn đó mà tâm loạn, mất thiền-định và sanh cuồng, tự chuốc lấy họa hoạn đều tại mình không có trí-huệ mà thọ hại, không phải tại ma gây nên. Nếu các ma cảnh làm não loạn người tu, hoặc trải qua nhiều tháng đến cả năm mà không đi, chỉ phải đoan tâm chánh-niệm cho kiên cố, không tiếc thân mạng, chớ ôm lòng lo sợ, phải tụng các kinh Đại-thừa, Phương-đẳng và Thần-chú trị ma, thầm tụng niệm và hằng nhớ Tam-bảo. Nếu khi xuất định cũng phải tụng chú để tự đề phòng, sám hối, hổ-thẹn và tụng giới-luật, tà không can phạm được chánh, lâu lâu nó tự diệt. Ma-sự rất nhiều nói không thể hết, phải khéo biết nó.
Thế nên, người sơ tâm tu-hành cần phải gần gũi thiện-tri-thức. Nếu có những việc nan như vậy ấy là ma nhập tâm người hay khiến người tâm thần cuồng loạn, hoặc mừng, hoặc lo, nhơn đó thành bệnh đến chết. Hoặc khi ma cho được tà thiền-định, trí-huệ, thần-thông, đà-la-ni, thuyết pháp giáo hóa, người đều kính phục, về sau phá hoại việc lành xuất-thế của người và phá hoại chánh-pháp. Những việc ma như thế, có nhiều loại sai biệt không thể nói hết. Nay lược chỉ bày những điều cần yếu để cho người tu trong lúc tọa thiền không lầm nhận các cảnh-giới ma.
Nói tóm lại, nếu muốn dẹp tà về chánh phải quán thật tướng của các pháp, khéo tu Chỉ Quán thì không có cái tà nào mà không dẹp được. Cho nên trong Kinh Luận chép: “Trừ thật tướng của các pháp, kỳ dư tất cả là ma-sự”. Như bài kệ chép:
Nếu phân-biệt nhớ tưởng,
Tức là lưới của ma,
Không động, không phân biệt,
Ấy tức là pháp ấn.
*
IX. Trị Bệnh
Hành-giả chuyên tâm tu hành, hoặc tứ đại có bệnh là vì dùng quán tâm, quán hơi thở kích động bệnh cũ phát khởi. Hoặc không khéo điều hòa ba việc – thân, tâm, hơi thở – trong, ngoài có chỗ sai siển, cho nên có bệnh-hoạn. Phàm phương-pháp tọa thiền nếu khéo dụng tâm thì 404 bệnh tự nhiên lành, nếu dụng tâm sai siển thì 404 bệnh nhơn đó phát sanh. Thế nên, nếu tự tu hay dạy người tu, phải khéo biết gốc bệnh, phải khéo biết phương-pháp dùng nội tâm trị bệnh trong lúc tọa thiền. Một phen phát bệnh chẳng những chướng ngại sự tu-hành, còn lo mất mạng là khác.
Nay nói về pháp trị bệnh có hai ý:
1.- Tướng bệnh phát khởi.
2.- Phương-pháp trị bệnh.
1. Tướng bệnh phát khởi.
Bệnh phát tuy có nhiều cách, lược nói không ngoài hai thứ:
a) Tướng bệnh do tứ đại tăng giảm: Nếu địa đại tăng thì mắc bệnh thủng kiết trầm trọng, thân thể khô gầy, như thế 101 bệnh sanh. Nếu thủy đại tăng thì đàm ấm dẫy đầy, ăn uống không tiêu, đau bụng, hạ hơi v.v… 101 bệnh sanh. Nếu hỏa đại tăng thì chợt lạnh, chợt nóng toàn thân đau nhức, hôi miệng, đại tiểu không thông v.v… 101 bệnh sanh. Nếu phong đại tăng thì thân-thể lơ lửng trên không, lăn lộn đau nhức, phổi ưng thở gấp, ụa mửa mệt lả, như thế v.v… 101 bệnh sanh. Cho nên trong Kinh nói: “Một đại không điều-hòa thì 404 bệnh sanh, tứ đại không điều-hòa thì 404 bệnh đồng khởi”. Tứ đại phát bệnh mỗi thứ có tướng mạo của nó, chính trong khi ngồi thiền và trong khi mộng phải khảo sát cho rõ.
b) Tướng ngũ-tạng sanh bệnh: Từ tim sanh bệnh thì thân-thể nóng, lạnh, đầu nhứt, miệng khô v.v…, vì tim là chủ về miệng. Từ phổi sanh bệnh thì thân thể mập phù, tứ chi mỏi mê, mũi nghẹt v.v…, vì phổi chủ về mũi. Từ gan sanh bệnh trong lòng thường không vui, buồn rầu, thương lo, giận hờn, đầu nhức, mắt mờ v.v…, vì gan chủ về con mắt. Từ lá lách sanh bệnh thì thân-thể và trên mặt nổi phong khắp cả, ngứa ngáy đau nhức, ăn uống không ngon v.v…, vì lá lách chủ về lưởi. Từ trái cật sanh bệnh thì ở cổ sanh nấc-cục, bụng no, lỗ tai bùng v.v…, vì trái cật chủ về lỗ tai. Năm tạng sanh bệnh rất nhiều, mỗi cái có tướng của nó, phải xem xét trong khi ngồi thiền và trong mộng thì biết được.
Như thế nguyên-nhân sanh bệnh của tứ-đại, ngũ-tạng không phải một, tướng bệnh rất nhiều không thể nói hết. Hành-giả nếu muốn tu pháp-môn Chỉ Quán để thoát ly sanh-tử, phải khéo biết nguyên-nhân sanh bệnh. Hai thứ bệnh nầy nguyên nhân chung là do trong và ngoài phát động. Hoặc do dụng tâm không điều hòa, quán hạnh sai lạc, hoặc do khi pháp định phát sanh không biết giữ gìn đến khiến tứ đại, ngũ tạng sanh bệnh, ấy là tướng bệnh do bên trong phát khởi.
Lại nữa, có ba thứ nhơn-duyên khiến người mắc bệnh:
1.- Tứ đại, ngũ tạng tăng giảm khiến người mắc bệnh như đã nói trên.
2.- Quỉ thần gây nên khiến người mắc bệnh.
3.- Nghiệp báo khiến người mắc bệnh. Những bệnh như thế, mới mắc phải sớm trị rất dễ được lành, nếu để qua thời-gian lâu bệnh thành thục, thân gầy bệnh nặng chữa trị rất khó lành.
2. Phương-pháp trị bịnh
Đã rõ nguyên-nhân phát bệnh, cần tạo phương-pháp trị bệnh. Phương-pháp trị bệnh có nhiều cách, tóm lược không ngoài hai phương tiện Chỉ và Quán. Thế nào là dùng Chỉ trị bệnh? – Có thầy nói: “Phải an tâm ngưng tại chỗ bệnh, tức là bệnh lành. Tại sao? Vì tâm là chủ của thân quả báo trong một thời-kỳ, ví như vua đến chỗ nào thì bọn trộm cướp đều tan sạch”. Lại có thầy bảo: “Dưới rốn một tấc gọi là Đơn-điền, nếu ngưng tâm tại chỗ nầy không tán loạn, trải qua thời-gian lâu đa số bệnh đều dứt”. Có thầy bảo: “Thường ngưng tâm dưới chân, bất luận đi, đứng hay nằm nghỉ liền trị được bệnh. Vì cớ sao? – Vì người do tứ đại không thông điều hòa cho nên sanh các bệnh đó là tâm thức duyên lên trên khiến tứ đại không điều-hòa. Nếu an tâm ở dưới thì tứ đại tự nhiên điều hòa các bệnh điều lành”.
Dùng Quán trị bệnh. Có thầy nói: Dùng Quán tâm-tưởng sáu thứ hơi thở trị bệnh, tức là dùng Quán trị bệnh. Thế nào là sáu thứ hơi thở? Nghĩa là: suy, hô, hy, ha, hư, hứ. Sáu thứ hơi thở nầy đều do trong lưỡi, miệng và tâm-tưởng phương-tiện chuyển động mà thành, phải dùng đều đều nhẹ nhẹ. Bài tụng chép:
Tâm thuộc về Ha, thận thuộc Suy.
Tỳ Hô, phổi Hứ thánh đều biết.
Gan và tạng nhiệt do chữ Hư.
Tam tiêu ngăn trệ chỉ nói Hy.
Có thầy nói: Nếu khéo dùng Quán tưởng vận chuyển 12 thứ hơi thở thì trị được nhiều bệnh. 12 thứ hơi thở:
1- Hơi thở lên.
2- Hơi thở xuống.
3- Hơi thở đầy.
4- Hơi thở tiêu.
5- Hơi thở tăng trưởng.
6- Hơi thở diệt-hoại.
7- Hơi thở ấm.
8- Hơi thở lạnh.
9- Hơi thở xông lên.
10- Hơi thở gìn giữ.
11- Hơi thở điều hòa.
12- Hơi thở bồi bổ.
12 thứ hơi thở nầy đều do tâm quán-tưởng mà có. Nay lược tướng đối trị của 12 thứ hơi thở. Hơi thở lên trị bệnh trầm trọng. Hơi thở xuống trị bệnh lơ lững. Hơi thở đầy trị bệnh khô gầy. Hơi thở tiêu trị bệnh thủng phù. Hơi thở tăng-trưởng trị bệnh ốm yếu. Hơi thở diệt hoại trị bệnh tăng thạnh. Hơi thở ấm trị bệnh lạnh. Hơi thở lạnh trị bệnh nóng. Hơi thở xông lên trị bệnh ngăn nghẹn không thông. Hơi thở gìn giữ trị bệnh lăn lộn. Hơi thở điều hòa chung trị bệnh tứ đại bất hòa. Hơi thở bồi bổ bồi dưỡng tứ đại suy kém. Khéo dùng các thứ hơi thở nầy, có thể trị lành các bệnh, suy ra có thể biết.
Có thầy nói: “Khéo dùng giả tưởng quán hay trị hết các bệnh. Như người mắc bệnh lạnh, tưởng trong thân hơi lửa xông ra liền trị được bệnh lạnh. Cách trị bệnh này trong kinh Tạp-A-Hàm về 72 thứ bi pháp trị bệnh có nói rộng.
Có thầy bảo: “Dùng Chỉ Quán kiểm xét tứ đại trong thân có bệnh, tâm cũng không có chỗ sanh bệnh thì các bệnh tự lành. Như thế, bao nhiêu thuyết nói dùng Quán trị bệnh chỗ ứng dụng không đồng, nếu khéo hiểu được ý đều trị lành bệnh.
Hai pháp Chỉ, Quán nếu người khéo hiểu được thì không bệnh nào mà trị chẳng lành. Nhưng người thời nay, căn-cơ tối, cạn, đa số tập quán tưởng không thành-công nên pháp này ít được lưu truyền. Lại, có người tu không được pháp nầy, sanh kiến chấp tà dị, những thứ thuốc bằng cây, cỏ, vàng, đá… thích hợp với bệnh thì nên dùng.
Nếu là bệnh do quỉ phá thì phải lập tâm cho vững. thêm tụng chú để giúp sự trị bệnh. Nếu là bệnh nghiệp báo cần phải tu phước và sám-hối, bệnh ắt tiêu-diệt. Hai pháp Chỉ, Quán trị bệnh, nếu người khéo hiểu một pháp cũng đủ tự tu và dạy người, huống là thông đạt cả hai. Nếu cả hai pháp đều không biết thì bệnh sanh không thể trị, chẳng những bỏ bê sự tu-hành, còn e tánh mạng khó bảo toàn làm sao tự tu và dạy người? Thế nên, người muốn tu Chỉ, Quán phải hiểu phương pháp nội tâm trị bệnh. Pháp nầy không phải hiểu một, hiểu ý tại người, chớ không thể truyền bằng văn-tự.
Lại nữa, trong khi ngồi thiền dụng tâm trị bệnh cần phải gồm đủ 10 pháp sẽ được lợi-ích. Mười pháp: 1- Tin. 2- Dùng. 3- Siêng. 4- Thường-trụ trong duyên. 5- Phân-biệt nguyên nhân bệnh khởi. 6- Phương-tiện. 7- Thực-hành lâu. 8- Biết thủ xả. 9- Gìn giữ. 10- Biết ngăn cản.
Thế nào là tin? – Nghĩa là tin pháp nầy hay trị được bệnh.
Sao là dùng? – Chuyên cần không nghỉ, đến khi lành bệnh mới thôi.
Sao là trụ trong duyên? – Tâm vi-tế luôn luôn y nơi pháp, không duyên cái gì khác.
Sao là phân biệt nguyên nhân bệnh khởi? – Như đoạn trước đã nói.
Sao là phương-tiện? – Là thở ra, hít vào tâm tưởng vận chuyển khéo léo thành-tựu không cho trái phép.
Sao là thực-hành lâu? – Nếu áp dụng chưa có lợi ích chẳng kể ngày tháng thường tập không phế bỏ.
Sao là biết thủ xả? – Biết có cái ích liền chuyên cần, cái có hại liền xả đi, chín chắn chuyển tâm điều trị.
Sao là gìn-giữ? – Khéo biết các duyên xúc phạm mà giữ-gìn.
Sao là ngăn cản? – Được điều ích lợi không đến người khác nói, chưa tổn hại không sanh nghi chê.
Nếu y mười pháp nầy trị bệnh quyết định có hiệu nghiệm không dối vậy.
*
X. Chứng Quả
Nếu hành-giã khi tu Chỉ-Quán như thế, biết rõ tất cả pháp đều do tâm sanh, nhơn-duyên hư giả không thật, nên là không; vì biết không, nên không thấy có tướng danh-tự của tất cả pháp, thế là thể nhập chân thật. Khi ấy, trên không thấy có Phật-quả đáng cầu, dưới không thấy có chúng-sanh đáng độ. Ấy gọi là Quán từ giả nhập không, là Quán nhị-đế, là huệ-nhãn, là nhất-thế-trí. Nếu trụ nơi Quán nầy tức là sa vào quả vị Thinh-văn, Bích-Chi Phật. Cho nên trong kinh nói: “Các vị Thinh-văn v.v… tự than rằng: chúng ta nếu nghe cõi Phật thanh-tịnh, giáo-hóa chúng-sanh, tâm không vui mừng. Vì sao? Vì tất cả pháp thảy đều rổng lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô-lậu vô-vi, suy nghĩ như thế nên không vui mừng”. Phải biết người thấy được pháp vô-vi mà vào chánh-vị, người ấy trọn không thể phát ba thứ tâm bồ-đề, vì sức định nhiều mà không thấy Phật-tánh.
Nếu Bồ-tát vì tất cả chúng-sanh thành-tựu, tất cả Phật-Pháp thì không nên chấp giữ vô-vi tự tịch-diệt, khi ấy nên tu Quán từ Không nhập Giả. Nghĩa là phải thật Quán tâm-tánh tuy không, nhưng khi đối duyên liền sanh ra tất cả các pháp cũng như huyển hóa, tuy không quyết định thật mà vẫn có các tướng thù, nghe, hiểu biết v.v… khác nhau. Hành-giã khi Quán như thế, tuy biết tất cả pháp rốt-ráo là rỗng lặng, mà hay ở trong không tu các hạnh, như gieo giống trong không; cũng hay phân biệt các-căn của chúng-sanh tánh dục vô-lượng, nên thuyết pháp cũng vô-lượng. Nếu chứng được vô ngại biện tài thì hay làm lợi ích chúng-sanh khắp lục đạo. Ấy gọi là Phương-tiện tùy-duyên Chỉ, là Quán từ Không nhập Giả, là Quán bình-đẳng, là pháp nhãn, là Đạo-chủng trí. Trụ trong Quán nầy sức trí huệ nhiều, tuy thấy được Phật tánh mà không rõ ràng.
Bồ tát tuy thành-tựu hai pháp Quán trên, đó gọi là Quán môn phương-tiện, không phải là Chánh-quán. Kinh chép: “Hai thứ trước là đạo phương tiện, nhơn hai thứ Quán không ấy được và Quán Trung-đạo đệ nhất nghĩa, song chiếu cả hai đế, tâm thường vắng lặng, tự nhiên trôi vào biển Đại-Giác. Nếu Bồ-tát muốn ở trong một niệm đầy đủ tất cả Phật-Pháp nên tu “Chỉ dứt hai bên phân-biệt”, thực hành Chánh-Quán Trung-Đạo.
Thế nào là Chánh-Quán? – Nếu thấu hiểu tâm tánh không phải Chơn, không phải Giả, dứt tâm duyên Chơn. Giả gọi là Chánh Thật Quán tâm tánh không phải không, không phải giả, mà không phá hoại pháp không, giả. Nếu hay chiếu liễu như thế thì ở nơi tâm tánh thông-đạt được Trung-đạo, viên chiếu cả nhị-đế. Nếu hay tự tâm thấy được Trung đạo, nhị đế, thì thấy Trung-đạo, nhị-đế của tất cả pháp, mà không chấp Trung-đạo, nhị-đế. Bởi vì quyết định tánh không thể có, ấy gọi là Chánh-quán Trung-đạo. Như bài kệ trong Luận nói:
Nhơn duyên sanh các pháp,
Ta nói tức là Không,
Cũng gọi là Giả danh,
Cũng gọi nghĩa Trung-đạo.
Sưu tầm ý bài kệ nầy, không những đầy đủ phân biệt tướng Trung-Quán, cũng gồm nói chỉ thú hai thứ quán-môn phương-tiện trước. Phải biết Chánh-quán Trung-đạo tức là Phật-nhãn, nhứt-thế chủng-trí. Nếu trụ nơi quán nầy thì sức định và huệ đồng đẳng, thấy Phật-tánh rõ-ràng, an trụ trong Đại-thừa, bước đi bằng phẳng nhanh như gió, tự nhiên vào trong biển Đại-giác. Thực hành hạnh Như-Lai, vào nhà Như-Lai, mặc y Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai, dùng đồ trang-nghiêm của Như-Lai, mà tự trang-nghiêm. Được sáu căn thanh-tịnh vào cảnh-giới của Phật, đối với tất cả pháp không nhiễm trước, tất cả Phật-pháp đều được hiện-tiền, thành-tựu niệm Phật tam-muội. An trụ trong định Thủ-Lăng-Nghiêm, thế là phổ hiện sắc thân Tam-muội, khắp vào cõi Phật trong mười phương, dạy bảo chúng-sanh trang-nghiêm tất cả cõi Phật, cúng dường mười phương chư Phật, thọ trì pháp-tạng của chư Phật, đầy đủ tất cả hạnh Ba-la-mật, ngộ nhập vị Đại-Bồ-Tát, cùng với Ngài Văn-Thù, Phổ-Hiền kết bạn. Thường-trụ trong thân pháp tánh, vì chư Phật khen ngợi thọ ký, ấy là trang-nghiêm Đẩu-Xuất Đà-Thiên, thị-hiện giáng trần trong thai mẹ, xuất-gia, đến Đạo-tràng, hàng phục ma oán, thành chánh-giác, chuyển pháp-luân, vào Niết-bàn. Ở các cõi nước khắp mười phương làm viên-mãn tất cả Phật-sự, đầy đủ hai thân – chơn và ứng – ấy là Sơ-Phát-Tâm Bồ-tát.
Trong kinh Hoa-Nghiêm nói: “Khi Sơ-phát-tâm liền thành Chánh-giác, thông suốt tánh chân thật của các pháp, được huệ-thân không phải do người khác mà ngộ”. Cũng nói: “Sơ phát-tâm Bồ-tát được một thân Như-Lai làm vô-lượng-thân”. Cũng nói: “Sơ phát-tâm và cứu-kính-tâm hai cái không khác, hai tâm như thế, tâm trước là khó”. Kinh Đại-Phẩm nói: “Tu Bồ-đề! Có Đại Bồ-tát mới sơ-phát-tâm liền tọa Đạo-tràng, chuyển bánh xe chánh-pháp, phải biết Bồ-tát ấy như Phật vậy”. Trong Kinh Pháp-Hoa nàng Long-Nữ dâng hạt châu làm chứng, những kinh như thế đều nói sơ-phát-tâm làm đủ tất cả Phật-pháp, như kinh Đại-Phẩm nói “Chữ A”, kinh Phát-Hoa nói “khiến chúng sanh khai Phật tri-kiến”, kinh Niết-bàn nói “Thấy Phật tánh cho nên trụ Đại Niết-bàn”. Đã lược nói tướng Sơ-phát-tâm nhơn tu Chỉ, Quán được chứng quả.
Kế nói Hậu-tâm chứng quả. Cảnh-giới của Hậu-tâm chứng không thể biết, nay suy theo giáo-lý để rõ, trọn không rời hai Pháp Chỉ và Quán. Tại sao? Kinh Pháp-Hoa nói: “Ân cần khen ngợi trí-huệ chư Phật là nghĩa Quán”. Đây là đứng về Quán để rõ quả. Kinh Niết-bàn luận rộng về “Một trăm câu giải-thoát” để giải thích Đại Niết-bàn. Niết-bàn nghĩa là Chỉ. Đó là đứng về Chỉ để rõ quả. Cho nên nói Đại Niết-Bàn là Thường-tịch-định. Định tức là nghĩa Chỉ. Trong kinh Pháp-Hoa tuy đứng về mặt Quán để rõ quả, nhưng cũng nhiếp Chỉ. Cho nên nói: Nhẫn đến tướng cứu-cánh niết-bàn thường-tịch-diệt trọn qui về không. Trong Kinh Niết-Bàn tuy đứng về mặt Chỉ để rõ quả, nhưng cũng gồm Quán. Bởi vì lấy ba đức làm Đại Niết-Bàn. Hai bộ kinh lớn này tuy văn có hiện, có ẩn khác nhau, nhưng đều đứng về hai môn Chỉ, Quán biện chỗ cứu-cánh của nó, gồm căn-cứ hai pháp Định, Huệ để rõ quả-vị cùng tột.
Hành-giả phải biết quả ban đầu, bậc giữa, rốt sau đều không thể nghĩ bàn. Cho nên bản Tân dịch kinh Kim-Quang-Minh nói: “Như-Lai lúc ban đầu không thể nghĩ bàn, Như-Lai khoảng giữa bao nhiêu thứ trang-nghiêm. Như-Lai rốt sau thường không thể phá hoại”. Đó là ước về hai tâm tu Chỉ, Quán để biện kết-quả của nó. Bài kệ trong Kinh Ban-Châu-Tam-Muội chép:
Chư Phật từ tâm được giải-thoát,
Tâm ấy thanh tịnh gọi không nhớp.
Năm đạo sạch-sẽ chẳng nhuốm màu,
Học được pháp nầy thành Đại-đạo.
Thệ nguyện tu-hành phải trừ tam-chướng và ngũ-cái. Nếu như không trừ, tuy siêng-năng dụng công trọn không lợi ích.