QUYỂN HẠ
Thế nào là nhập trí tướng ?
Nơi y chỉ của các đa văn huân tập, không thuộc thức A-lê-da mà như A-lê-da huân thành chủng tử. Nó thuộc về tịch tĩnh tư duy, các pháp nghĩa hiện tướng sở sinh, khả thủ, sự, xứ, có ý thức phân biệt.
Ai là người ngộ nhập trí tướng ?
Là người đa văn liên tục huân tập Đại thừa, được thân cận vô lượng và nhất tâm tin tưởng, khéo tập họp các công đức thiện căn.
Trí hành Bồ-tát từ đâu ngộ nhập ?
Kia hiện kiến pháp nghĩa, hiện tướng tư duy, nhân pháp Đại thừa mà phát sinh, trong bậc tín giải kiến đạo, thực hành tu đạo cho đến đạt được tất cả pháp là duy thức. Do tùy thuận nghe và tin, do phân biệt chứng đắc, đối trị tất cả chướng và lìa chướng.
Do đâu ngộ nhập ?
Do duy trì sức thiện căn, chuyển minh 3 tướng của tâm, chủng chủng trang nghiêm diệt, tất cả mọi thời, chính hành niệm pháp nghĩa định tuệ và không buông lung phóng túng. Vô lượng các loài chúng sinh trong thế giới, trong vô lượng mỗi niệm mỗi niệm, thành A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.
Người mới chuyển tâm thì tùy tâm hành bố thí v.v…tập họp hạnh Ba-la-mật. Tâm kia ta đã được cho nên ta không dùng thêm các Ba-la-mật, tu đạo có thể viên mãn.
Người chuyển minh thứ hai thì các thiền pháp đã thành tựu. Sau khi chết sẽ được tùy chỗ thụ thân. Đó là với người còn có chướng thiện căn, huống ta khéo tu thiện căn, được vô chướng thiện căn thì tất cả thế lực không cản trở được.
Người chuyển minh thứ ba, ở đây có bài kệ như sau :
Loài người được Bồ-đề,
Trong mỗi niệm mỗi niệm,
Chúng sinh vô số lượng,
Thời đến là bỏ đi.
Tùy tâm mà hành thí,
Tâm thanh tịnh không nhơ.
Kia được tâm chính hạnh,
Mạnh mẽ bố thí thành.
Người thiện sau khi chết,
Sức mình tùy theo tâm.
Người thiện sau khi chết,
Sức kia sao lại không ?
Bỏ cái tâm Thanh Văn, Duyên giác, dứt niệm, đối với Đại thừa dứt bỏ mọi nghi hoặc, nghe và tư duy các pháp, dứt trừ ngã tướng, các chấp tướng ngã và ngã sở, diệt pháp kiêu mạn, hiện tiền an trụ không niệm không phân biệt và diệt phân biệt. Ở đây có bài kệ như sau :
Trước mặt tùy các thứ,
Tướng, niệm nơi trụ xứ,
Trí đều không phân biệt,
Được vô thượng Bồ-đề.
Làm sao ngộ nhập cái nghiệp văn huân tập kia ?
Vắng lặng tư duy pháp và nghĩa, tư duy hiện tướng, suy tìm 4 thứ : danh, nghĩa, tự tính và thắng an, suy tìm 4 thứ tri kiến như thật. Như thật kia là không thể được, cho nên Bồ-tát nhập duy thức tùy thuận tu tập. Tư duy danh và nghĩa của hiện tướng kia, danh kia là tư duy chính quán, cái nghĩa mà cái tên lấy làm sở y, chỉ là tư duy chính quán, nhưng tự tính của cái tên kia và thắng an chỉ là quán. Cuối cùng tư duy về danh, nghĩa, tự tính, thắng an đều không thể được.
Bốn thứ suy tìm và 4 thứ quán này đã biết danh, nghĩa, hiện tướng của chúng là tư duy trong duy thức, chúng đã nhập và sẽ nhập vào trong thức. Chúng có 2 tướng phần và kiến phần và các thứ nhập vào như danh, nghĩa, tính, thắng nghĩa, 6 thứ tướng đều không có thật nghĩa. Sự hiện khởi có tướng sở thủ năng thủ liên tục không gián đoạn, nhưng chỉ là hiện tướng sở sinh. Như trong tối thấy sợi dây là con rắn. Nói như sợi dây, con rắn đều không thật vì không phải chúng sinh ra. Vậy cái nghĩa của sự hiểu biết đó là phi hữu, chẳng có nghĩa hiện hữu. Tránh cái tư duy con rắn, dừng tư duy nơi sợi dây, thì kia cũng chỉ là cái tướng suy lường của sắc, hương, vị, xúc, cho nên trong đó cái tuệ dựa vào là cái tuệ biết đó là sợi dây, cũng phải tránh mới thành. Như thế 6 thứ tướng đây gọi là hiện tướng. Trong tư duy như cái tuệ biết là sợi dây, thật nghĩa thật xứ của 6 thứ tướng chỉ là tuệ của duy thức, cũng là tuệ của tính tư lương, tính thành tựu .
Như vậy là Bồ-tát ngộ nhập tư duy hiện tướng nghĩa tướng, ngộ nhập tính phân biệt, thành ngộ nhập chủ thức.
Làm sao tha tính nhập vào tính thành tựu ?
Tránh cái tưởng duy thức. Chúng là các tư duy do nghe pháp huân tập. Bồ-tát lúc bấy giờ phân biệt nghĩa tướng thấy tất cả nghĩa tướng không sinh, cho nên hiện tướng duy thức cũng không sinh. Vì vậy tất cả nghĩa vô phân biệt gọi là trụ. Bấy giờ Bồ-tát đồng niệm bình đẳng, phát sinh trí vô phân biệt. Vì vậy Bồ-tát này gọi là nội nhập tính thành tựu. Ở đây có bài kệ như sau :
Pháp, chúng sinh, pháp nghĩa,
Nghĩa có tính chung riêng.
Cho đến tịnh, bất tịnh,
Phân biệt là cảnh giới.
Như vậy trí Bồ-tát này đã ngộ nhập tướng duy thức, ngộ nhập như vậy là trụ vào Hoan hỷ địa, khéo đạt pháp giới và sinh vào nhà Như Lai, được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, được tâm bình đẳng của tất cả Bồ-tát. Đó là địa vị kiến đạo của Bồ-tát.
Phật vì nghĩa gì nhập duy thức xứ, lìa niệm pháp kia ?
Đó là trí định tuệ xuất thế gian, nhờ được các tướng thức trí đồng tướng, tất cả nhân chủng tử thức A-lê-da diệt, nên pháp xúc chủng tử tăng trưởng đã chuyển thân. Tất cả Phật pháp tập họp nhập vào trí nhất thiết trí, nhờ sở đắc trí kia, tất cả tướng xứ của thức A-lê-da, đều thấy như huyễn v.v…nên không điên đảo. Vì vậy Bồ-tát kia ví như nhà ảo thuật. Nghĩa xứ tương đồng, tuy có nhân quả, mọi thời giảng nói không điên đảo.
Kia trong khi nhập duy thức, lấy 4 thứ thiền định làm sở y.
Làm sao biết được 4 thứ toản tướng pháp ?
Vì do 4 thứ tìm cầu, nếu không có thân thì trong nhẫn không có ánh sáng Tam-muội. Y vào noãn, tăng ánh sáng trong nhẫn, thì được quang minh tăng trưởng Tam-muội. Trên y vào 4 thứ như thật, quán nhập vào trong duy thức, dùng vô nghĩa quyết định tâm, trong chân thật, nhập vào tất cả Tam-muội, y thuận đế nhẫn. Từ đây về sau, duy thức tướng tư lương kia, lần lượt các Tam-muội, y thế gian thượng pháp quán kiến. Nên biết đây là các Tam-muội của những hành giả gần nhập địa. Như vậy nhập địa là được kiến đế.
Bồ-tát nhập duy thức, hành tu đạo như thế nào ?
Tùy chỗ phân biệt nói có 10 địa. Mười địa này gồm thâu tất cả kinh giáo hiện có. Do các niệm xuất thế gian khác nhau và nhờ kinh giáo kia tu tập được định trí tuệ, trải vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập như vậy, sau khi chuyển thân được 3 thứ Phật thân.
Vì để chứng đắc nên tu hành, vậy pháp chứng đạo của các Thanh Văn với của các Bồ-tát , hai pháp này có gì khác nhau ?
Chứng nhập trong Thắng Thanh văn, chứng nhập Bồ-tát có 11 thứ thắng sự :
1. Niệm thắng, nghĩa là nghĩ nhớ pháp Đại thừa.
2. Thuần chí thắng, nghĩa là công đức lớn trợ giúp một cách thuần thành.
3. Chứng thắng, nghĩa là chứng chúng sinh pháp là vô ngã.
4. Niết-bàn thắng, nghĩa là nhiếp thủ ý chí không trụ Niết-bàn.
5. Địa thắng, nghĩa là đến tận địa thứ 10.
6. Tịnh thắng, nghĩa là diệt phiền não huân tập, khiến thế giới Phật thanh tịnh.
7. Tất cả chúng sinh đều được ký tâm thắng, nghĩa là hạnh giáo hóa chúng sinh không tuyệt dứt.
8. Sinh thắng, nghĩa là sinh vào nhà Như Lai.
9. Thủ sinh thắng, nghĩa là tất cả mọi thời đều được sinh nhằm Đại tập hội của thế giới chư Phật.
10. Quả thắng, nghĩa là thành tựu vô lượng công đức của 10 lực, 4 không sợ hãi, 18 pháp không chung. Ở đây có bài kệ như sau :
Là khách thể cho nhau,
Nên tìm danh và nghĩa .
Chỉ tìm nơi sự tướng,
Phân biệt lập thành hai.
Nếu tri kiến như thật,
Lìa phân biệt ba nghĩa.
Thấy kia là chẳng phải,
Không có ba sở chấp.
Dụ như thuận phân biệt,
Lại có kệ dạy bảo.
Ý nói ảnh trong gương,
Bồ-tát trong các định.
Tránh nghĩa kia tưởng mình,
Ôm giữ việc hồi ức.
Trụ tâm ở bên trong,
Biết không có sở thủ.
Và năng thủ cũng không,
Vô phân biệt thì biết.
Lại có bài kệ chứng đạo được nói trong Luận Đại Thừa Trang Nghiêm như sau :
Tập họp vô biên hạnh,
Bồ-tát đủ đức trí.
Tư duy quyết định pháp,
Ngôn ngữ đạt hết nghĩa.
Biết được nghĩa đúng rồi,
An trụ nơi định tâm.
Vì pháp giới hiện rồi,
Nên phải lìa hai tướng.
Lìa tâm không gì khác,
Biết tâm ấy cũng không.
Cả hai đều là không,
Chính là trụ pháp giới.
Sức vô phân biệt trí,
Đồng thời thường đồng hành.
Thân là ổ tội hoạn,
Tựa như diệt các độc,
Mâu-ni thuyết chính pháp,
Khéo trụ ý tư duy
Nơi căn bản pháp giới,
Niệm đến ý trí tri.
Phân biệt đúng nghĩa thú
Mau đạt đến công đức.
Như vậy đã nói xong về nhập trí tướng. Vậy nhân quả của nó như thế nào ?
Do 6 Ba-la-mật, tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ.
Vì sao do 6 Ba-la-mật này nhập vào duy thức được ? Và vì sao 6 Ba-la-mật là thành quả nhập duy thức ?
Đó là Bồ-tát với thí không chấp trước, với giới không phá, với khổ không giận tức, với sự tu tập không lười biếng. Không làm các loạn nhân như vậy, vì nhân không làm, nên cứ vắng lặng tư duy các pháp, nhập vào duy thức rồi, y vào 6 Ba-la-mật và nhập duy thức, nên Bồ-tát thâu giữ tịnh tâm sâu xa, được 6 Ba-la-mật. Trong khi thực hành 6 Ba-la-mật, thuận thuyết tín, lạc cầu tùy hỷ, được lợi nhuận ly nhẫn, Bồ-tát từ trong Đại thừa nói thâm nhập Đại thừa , duy phân biệt chính giác được trí vô phân biệt.
Dục tín tịnh tâm minh,
Vốn là pháp giác ngộ.
Mười địa gần Bồ-đề,
Chẳng nhờ tự nhiên được.
Vì nghĩa gì chỉ nói 6 Ba-la-mật ?
Vì đối trị chướng, an lập sai biệt, vì là cơ sở của tất cả Phật pháp và vì tùy thuận giáo hóa chúng sinh. Để đối trị tướng không động nên nói Đàn Ba-la-mật và Thi-la Ba-la-mật. Tướng không động nghĩa là không tham đắm của cải nhà cửa ở đời. Động là tránh tướng đối trị nên nói, tức Sằn-đề Ba-la-mật và Tì-li-da Ba-la-mật. Tránh tướng nhân, tức là chúng sinh trong thế gian tạo các ác nghiệp, chịu khổ dài lâu, và đối với việc tu hành thiện pháp thì sinh mệt mỏi, nên để phát khởi sự đối trị sự lỗi lầm, tức là Xà-na Ba-la-mật và Bát-nhã Ba-la-mật. Tướng lỗi lầm tức loạn tâm và vô trí. Vì số đối trị chướng sai biệt như vậy nên 4 Ba-la-mật là tướng không tán động. Một Ba-la-mật là thành tướng không tán động. Do y nơi tán động nên chính pháp như thật của chư Phật, tập hợp Phật pháp có các sai biệt. Như dùng Đàn Ba-la-mật làm lợi ích chúng sinh, Thi-la Ba-la-mật không làm ác, chịu đựng nhẫn nhục, Tì-li-da Ba-la-mật làm việc đến nơi đến chốn. Những việc lợi ích giáo hóa chúng sinh mà điều phục chúng sinh, sau đó người chưa nhập định tâm thì khiến nhập định tâm, người đã nhập định tâm, để được giải thoát thì khuyến khích được giải thoát. Như vậy phải biết có nhiều cách sai biệt khác nhau để giáo hóa chúng sinh.
Nhưng làm sao biết tướng các Ba-la-mật này ?
Bởi vì chính 6 Ba-la-mật là chỗ y cứ cao tột của tâm Bồ-tát. Phổ biến khắp cả, không gián đoạn, luôn luôn tăng tiến giúp ích chúng sinh. Là phương tiện khéo léo cao nhất, và tất cả gồm thâu trong trí vô phân biệt. Phát nguyện cao nhất là nguyện được A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề, cho nên thanh tịnh cao tột, tất cả phiền não trí chướng, tu tập không chướng ngại.
Có bố thí cũng gọi là Ba-la-mật. Có Ba-la-mật mà bố thí chẳng phải Ba-la-mật. Trong bố thí có 4 câu nói như vậy thì trong các Ba-la-mật khác cũng có 4 câu như vậy.
Vì nghĩa gì các Ba-la-mật này được nói theo thứ tự như vậy ?
Ba-la-mật trước theo thuận tự sinh Ba-la-mật sau.
Lại có giải thích vì sao biết tất cả Thanh Văn, Duyên Giác trong thế gian bố thí v.v…thì thiện căn tăng trưởng đạt đến bờ kia. Vì Ba-la-mật phá trừ tâm ganh ghét keo kiệt bần cùng, nên được sức công đức rất mạnh. Bố thí, trì giới diệt ác đạo khiến được thiện đạo. Tam-muội giới diệt trừ giận dữ, đem lại yên ổn là nhẫn. Có năng lực làm xa lìa sự biếng nhác và các pháp bất thiện, tăng trưởng vô lượng thiện pháp, nên tinh tiến phá loạn tưởng. Đem lại sự an trụ nội tâm, nên gọi thiền định. Diệt trừ cái trí phủ nhận, thấy tất cả đều không, chân thật không có tưởng phân biệt đối với các pháp nên gọi là trí.
Thế nào là sự tu tập các pháp Ba-la-mật này ?
Sự tu tập đại lược có 5 thứ : Đó là tu tập đồng hành, tu tập tín dục, tu tập tâm chính niệm, tu tập phương tiện khéo léo, tu tập ghi nhớ gìn giữ. Trong đó 4 việc làm như trước đã làm. Tu tập nghĩ nhớ gìn giữ là như chư Phật vận dụng Phật sự một cách tự nhiên, không loạn động, không thôi nghỉ, tu viên mãn các Ba-la-mật rồi tu các tâm niệm hỷ lạc, tùy hỷ, ức niệm v.v…gồm có 6 thứ tâm : tâm tu rộng rãi các pháp tu, tâm không gián đoạn, tâm hoan hỷ, tâm làm việc lợi ích, tâm đại lượng và tâm chân thật. Vì vậy có Bồ-tát tùy số kiếp A-tăng-kì mới được A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Trong thời gian như vậy, mỗi niệm mỗi niệm xả bỏ thân mạng và của cải 7 báu đầy trong thế giới nhiều như cát sông Hằng đem ra bố thí chư Phật Như Lai, cho đến khi chưa ngồi vào đạo tràng, mà cái tâm hành bố thí của Bồ-tát chưa cho là đủ. Lại cũng trong thời gian như vậy, mỗi niệm mỗi niệm lửa cháy đầy trong 3 ngàn đại thiên thế giới, mà hiện 4 thứ oai nghi, tuy thiếu tất cả đồ tư dụng cần thiết mà tâm vẫn giữ trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ, cho đến khi tọa đạo tràng, Bồ-tát không chán bỏ tâm tu trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Đây là tâm tu rộng rãi của Bồ tát. Có Bồ-tát tu tâm không biết chán đủ này cho đên khi tọa đạo tràng không gián đoạn, không bỏ. Đó gọi là thân này. Nếu Bồ-tát vì tâm hoan hỷ hành 6 Ba-la-mật lợi ích chúng sinh, chứ không phải chúng sinh vui mừng vì đã được lợi ích. Đó là tâm hoan hỷ của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát làm lợi ích chúng sinh, nhiếp thủ 6 Ba-la-mật làm việc lợi ích, thấy chúng sinh được lợi ích như chính thân mình được lợi ích. Đây là tâm làm việc lợi ích của Bồ-tát. Nếu vị Bồ-tát ấy đem tất cả căn lành 6 Ba-la-mật như vậy hồi hướng phát nguyện khiến tất cả chúng sinh được quả báo như mong muốn. Đó là tâm to lớn của Bồ-tát. Nếu vị Bồ-tát ấy đem tất cả căn lành 6 Ba-la-mật như vậy làm cho chúng sinh đồng phát nguyện hướng về A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Đây là tâm chân thật của Bồ-tát. Như vậy 6 thứ tâm bao gồm đó là tâm tu lạc hoan hỷ. Nếu vị Bồ-tát ấy thực hành tu tập 6 thứ tâm, bao nhiêu vô lượng thiện căn đều khiến các Bồ-tát khác tùy hỷ. Như vậy 6 tâm của Bồ-tát thâu nhiếp tâm tùy hỷ khiến tu hành. Nếu vị Bồ-tát ấy thâu nhiếp thứ tâm của tất cả chúng sinh tu tập 6 Ba-la-mật mong cầu thâu nhiếp 6 tâm tu tập 6 Ba-la-mật không rời cho đến khi tọa đạo tràng. Như vậy Bồ-tát thâu nhiếp 6 thứ tâm mong cầu tu tập. Nếu Bồ-tát tu tập thâu nhiếp 6 thứ tâm này, nếu có người nghe biết, rồi phát được một hảo tâm thì công đức sẽ vô lượng và tất cả ác nghiệp chướng đều tiêu diệt, huống chi là Bồ-tát.
Các Ba-la-mật này có những sai biệt như thế nào ?
Các sai biệt này có 3 tướng. Ba tướng của thí là pháp thí, tài thí và vô úy thí. Ba tướng của giới là giới ngăn chận các ác hạnh, giới thâu giữ các thiện pháp và giới làm lợi ích chúng sinh. Ba tướng của nhẫn là tác ác nhẫn Sằn-đề, nhẫn khổ Sằn-đề và pháp tư duy nhẫn khổ Sằn-đề. Ba tướng của tinh tiến là dũng mãnh tinh tiến, hành trì tinh tiến và tinh tiến không khiếp nhược không giận dữ hay vui mừng. Hiện tướng làm ghi nhớ, không phân biệt các hạnh phương tiện, không phân biệt và có phân biệt, và nhờ đó được trí tuệ.
Các Ba-la-mật này ra làm như thế nào ?
Các Ba-la-mật này thâu giữ tất cả thiện căn. Các tướng kia là tùy thuận của Ba-la-mật, là nhân khí của Ba-la-mật.
Các Ba-la-mật này chướng tất cả phiền não như thế nào?
Đó là tướng, nhân và quả của Ba-la-mật.
Các Ba-la-mật này có ích lợi như thế nào ?
Là nếu sinh trong thế gian thì có thế lực hơn mọi người, dòng họ bà con đông, có sự nghiệp lớn, mọi việc thành tựu tốt đẹp, ít nhiễm trần tục phiền não, giỏi về học thuật công xảo, không có ác sự, cho đến khi tọa đạo tràng làm các việc nghĩa lợi cho chúng sinh. Đó là Bồ-tát làm việc lợi ích.
Các Ba-la-mật này phân biệt quyết định lẫn nhau như thế nào ?
Là tùy theo nơi, đối với tất cả 6 Ba-la-mật, có nơi dùng tiếng Bố thí mà nói, có nơi lấy tiếng Trì giới mà nói, hoặc tiếng Nhẫn nhục, hoặc tiếng Tinh tiến, hoặc tiếng Thiền định, hoặc tiếng Trí tuệ.
Như vậy là vì nghĩa gì ?
Vì trong tất cả các hạnh của Ba-la-mật đều hỗ trợ cho nhau. Vì ý đó mà nói như vậy là đã nhập vào nhân tướng quả.
Làm sao biết sự tu hành sai biệt ấy ?
Đó là sự sai biệt 10 địa của Bồ-tát.
Những gì là Hoan hỷ, Ly cấu, Minh tác, Diệm, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ và Pháp vân ? Mười sự sai biệt của các địa như thế nào ?
Phải biết đó là đối trị 10 thứ vô minh làm chướng ngại. Như vậy là vì trong 10 tướng trí và pháp giới có 10 thứ chướng ngại.
Thế nào là 10 thứ tướng trí pháp giới ?
Là nghĩa của tất cả xứ. Trong địa thứ nhất là thượng nghĩa, trong địa thứ hai là nhân thượng nghĩa, trong địa thứ ba là vô sở thủ nghĩa, trong địa thứ tư là nghĩa thân tâm không sai biệt, trong địa thứ năm là nghĩa không phiền não không thanh tịnh, trong địa thứ sáu là nghĩa các pháp không sai biệt, trong địa thứ bảy là nghĩa không hơn không kém, trong địa thứ tám là nghĩa y thân tướng tự tại và thế giới tự tại, trong địa thứ chín là nghĩa y trí tự tại, trong địa thứ mười là nghĩa y nghiệp tự tại, y Đà-la-ni Tam-muội môn tự tại. Ở đây có bài kệ như sau :
Là thượng nghĩa và nhân thượng nghĩa,
Bất nhiếp nghĩa và thân tương tục,
Vì không nghĩa phiền não nhiễm tịnh.
Cho đến không nghĩa khác,
Nghĩa không hơn không kém.
Y đệ tứ tự tại,
Trong pháp giới vô minh,
Hai thứ cho đến mười,
Mười địa có chướng ngại,
Đối trị nói các địa.
Nhưng các vô minh này đối với Thanh Văn thì không tạp nhiễm mà đối với Bồ-tát thì có tạp nhiễm.
Vì sao địa thứ nhất gọi là hoan hỷ ? Vì đây là bậc đầu tiên có nghĩa là công đức có khả năng làm lợi ịch cho mình và người.
Vì sao địa thứ hai gọi là ly cấu ? Vì ở đây xa lìa sự phá giới nhơ bẩn.
Vì sao địa thứ ba gọi là minh ? Vì làm chỗ sở y cho Bất động Tam-muội Tam-ma-bạt-đề và sở y của Đại pháp quang.
Vì sao địa thứ tư gọi là diệm ? Vì pháp Bồ-đề phần đốt cháy hết tất cả chướng.
Vì sao địa thứ năm gọi là nan thắng ? Vì siêu vượt Bồ-đề phần, hợp hai thứ mâu thuẫn khó hợp là trí chân đế và trí thế gian làm cho tương ưng nhau.
Vì sao địa thứ sáu gọi là hiện tiền ? Vì dựa vào trí nhân duyên hành Bát-nhã Ba-la-mật làm hiện khởi tác dụng.
Vì sao địa thứ bảy gọi là viễn hành ? Vì đây đã đi đến tận cùng của các hành có công dụng.
Vì sao địa thứ tám gọi là bất động ? Vì tất cả tướng đều không động.
Vì sao địa thứ chín gọi là thiện tuệ ? Vì được trí biện tài.
Vì sao địa thứ mười gọi là pháp vân ? Vì gồm chứa trí tất cả pháp, tất cả Đà-la-ni Tam-muội môn, như mây như hư không, diệt thượng phiền não chướng, viên mãn pháp thân.
Làm sao chứng đắc trí của các địa này ?
Có 4 thứ tướng. Được tín địa, từ tín thực hành 10 pháp, tuần tự được các địa. Chứng đắc sơ địa, trong đó chứng đắc pháp giới, là chứng tất cả các địa. Thành tựu được các địa, là tu chứng đến tận cùng cứu cánh.
Làm sao nhận biết sự tu tập của các địa ?
Chư Bồ-tát trong mỗi địa tu Xa-ma-tha và Tì-bà-xá-na rồi có 5 thứ tu tập. Những gì là 5 thứ ? Tức tạp tu, vô tướng tu, vô công dụng tu, chuyển minh tu và chuyển chuyển tu. Chư Bồ-tát tu 5 thứ này rồi sẽ được 5 thứ quả. Đó là 1.Trừ diệt các ác. 2.Thân lìa các tưởng. 3.Ý được pháp lạc. 4.Ở vô lượng mọi chỗ mọi nơi không bị ngăn trở. 5.Hiện tướng chính pháp quang minh, biết thanh tịnh các tướng phân biệt. Đồng hành với các niệm phân biệt, thành tựu pháp thân viên mãn . Là nhân cao tột trong các nhân nên phần nhiều trong 10 địa do tu 10 Ba-la-mật mà thành. Trong 6 địa tùy theo chỗ tu 6 Ba-la-mật đó nói có 4 : Phương tiện Ba-la-mật là tập hợp các thiện căn, cùng tất cả chúng sinh phát nguyện hướng về A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Nguyện Ba-la-mật là duyên Ba-la-mật dắt dẫn, hiện tướng các nguyện tương lai. Lực Ba-la-mật là năng lực tu bình đẳng 6 Ba-la-mật, đồng hành không gián đoạn. Trí Ba-la-mật là trí sai biệt của 6 Ba-la-mật đồng thụ báo hóa độ chúng sinh. Nhưng 4 Ba-la-mật này do trí vô phân biệt của Bát-nhã Ba-la-mật nhờ nhiếp thuộc vào trí hậu đắc. Nhưng trong tất cả các địa, không phải không tu tập tất cả Ba-la-mật mà thành nhiếp thuộc trong Ba-la-mật.
Pháp môn này trải qua bao nhiêu thời gian tu hành các địa được viên mãn ?
Có 5 thứ chúng sinh tin tưởng tu hành trong 3 A-tăng-kì kiếp. A-tăng-kì thứ nhất tâm thanh tịnh sâu xa, hành hạnh vô tướng và hạnh hữu tướng có 6 địa và 7 địa. A-tăng-kì thứ hai không hiện tướng, từ đây trở lên cho đến 10 địa. A-tăng-kì thứ ba tu đạo viên mãn thành tựu. Ở đây có bài kệ như sau :
Vì sức thắng thượng,
Kiên tâm, thắng trí,
Bồ-tát ba kì,
Tu hành đạt tới.
Như vậy là đã nói xong về tu sai biệt nhân quả. Còn thế nào là thù thắng của giới tăng thượng ?
Như trong Kinh Bồ-tát Địa Trì, phẩm Thụ Bồ-tát giới có lược nói 4 thứ thù thắng. Đó là sai biệt thắng, đồng giới bất đồng giới thắng, thường thắng và thậm thâm thắng. Trong đó sai biệt thắng nghĩa là giới thụ, giới gồm thâu thiện pháp và giới làm lợi ích chúng sinh. Trong đó thượng giới là trụ vào nghĩa của 2 thứ giới. Biết giới gồm thâu các thiện pháp trụ vào nghĩa tập họp Phật pháp, giới làm lợi ích chúng sinh trụ vào nghĩa giáo hóa chúng sinh. Biết đồng giới của Thanh Văn, còn chư Bồ-tát tính trọng thì không đồng. Hành bất đồng giới là chế và trong đồng hành. Trong các giới đó tùy trường hợp Thanh Văn thì phạm mà Bồ-tát thì không phạm, tùy trường hợp Bồ-tát thì phạm mà Thanh Văn thì không phạm. Giới của Bồ-tát phòng phạm cả thân miệng và tâm, còn Thanh Văn chỉ thân và miệng. Cho nên Bồ-tát khởi tâm mống ý là phạm giới rồi, không như chư Thanh Văn. Nói vắn tắt có tất cả chúng sinh ác mà có nghiệp thân miệng ý có lợi ích thì tất cả Bồ-tát đều phải làm. Và trong cái học như vậy, là chỗ thù thắng của chung và không chung.
Phải biết thượng thắng còn có 4 thứ. Vì là thượng nên giới có vô lượng và nhiều thứ. Vì thượng nên nhiếp thủ vô lượng công đức. Vì thượng nên là quyến thuộc của tâm làm lợi lạc giúp ích tất cả chúng sinh. Vì thượng nên trụ A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Vì thượng nên được vô lượng công đức, mau chóng được A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.
Trong đó nói thậm thâm tức rất sâu xa, nghĩa là nếu Bồ-tát có những phương tiện khéo léo như vậy, sát sinh v.v…10 thứ nghiệp tu hành vì bởi không ác, được thành vô lượng công đức, mau được A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề. Hoặc ứng hóa thân nghiệp khẩu nghiệp, phải biết đó là giới sâu xa. Vì vậy khi làm quốc vương trị nước, lập ra các thứ bức não chúng sinh là để giáo hóa chúng sinh đặt chúng vào chỗ thiện. Thị hiện các sự bức não, thị hiện các việc lợi ích, hoặc khiến phát tâm, phát tâm rồi thì giáo hóa trước, giáo hóa rồi đem tâm hồi hướng. Đây là chỗ thù thắng sâu xa của giới Bồ-tát.
Như vậy 4 thứ thù thắng, lược nói sự thù thắng về thượng giới của Bồ-tát cần phải biết. Như vậy về sự phân biệt, giới Bồ-tát có vô lượng sai biệt như trong Tì-ni Hương Phương Quảng Tu-đa-la.
Như vậy là đã nói về sự thù thắng của giới tăng thượng rồi, vậy thế nào là sự thù thắng của tâm tăng thượng ?
Vắn tắt có 6 thứ sai biệt cần phải biết : niệm sai biệt, chủng chủng sai biệt, nghiệp tác sự sai biệt, hiện khí sai biệt, nghiệp sai biệt.
Nghĩ nhớ pháp Đại thừa nên ánh sáng Đại thừa chứa nhóm tất cả công đức Tam-muội. Tam-muội vương Hiện Hộ, Thủ-lăng-nghiêm v.v…vô lượng các Tam-muội. Trí tạp niệm hiện thuận tất cả pháp. Khiến trừ tất cả chướng, các ác trong thức A-lê-da. Thiền định lạc hành rồi thụ sinh về nơi theo ý muốn. Hiển hiện thần thông không trở ngại trong tất cả thế giới. Phóng ánh sáng biến khắp, làm các việc khác lạ, đi lại tự tại, tất cả sắc thân nhập đồng hành, lên xuống ẩn hiện tự tại, thần thông hiện niệm, phóng ánh sáng hiện thần thông lớn, thâu nhiếp tất cả khổ hạnh, hiện 10 thứ khổ hạnh.
Mười thứ khổ hạnh là : Một, thụ hứa khổ hạnh, tức thệ nguyện đắc vô thượng Bồ-đề. Hai, bất thoái khổ hạnh, tức các khổ thế gian không làm thoái lui. Ba, bất bội hướng khổ hạnh, tức không quay lưng đối với tất cả chúng sinh làm các khổ hạnh tà ác. Bốn, hiện khổ hạnh, tức đối với các ác chúng sinh vẫn làm việc lợi ích cho chúng. Năm, bất nhiễm khổ hạnh, tức sinh trong thế gian không nhiễm pháp thế gian. Sáu, tín khổ hạnh, tức tin vào tất cả sự cao cả của Đại thừa mặc dầu chưa hiểu thấu đáo. Bảy, chứng khổ hạnh, tức chứng vô ngã trong chúng sinh pháp. Tám, thuận giác tri khổ hạnh, tức hiểu biết thuận các mật ngữ sâu xa của Như Lai nói. Chín, bất tịch tĩnh bất nhiễm khổ hạnh, tức không bỏ thế gian vì không nhiễm thế gian. Mười, hành khổ hạnh, tức trụ ở nơi giải thoát tất cả chướng của chư Phật, cho đến biên giới sinh tử của chúng sinh, làm tất cả nghĩa lợi một cách tự nhiên cho chúng sinh. Lại thuận sự hiểu biết khổ hạnh, sự hiểu biết các mật ngữ do chư Phật tùy cơ nói ra. Chẳng hạn như nói :
Thế nào là Bồ-tát thành tựu bố thí ?
Là nếu bố thí vô lượng mười phương thế giới mà không có gì bố thí.
Thế nào là thành tựu tâm hoan hỷ bố thí ?
Là nếu tất cả sự bố thí đều không có gì là vui mừng.
Thế nào là thành tựu tín tâm bố thí ?
Là nếu không hành tín tâm đến chư Như Lai.
Thế nào là thành tựu ý bố thí ?
Là nếu khiến tự thân đem bố thí.
Thế nào là thành tựu tâm vui mừng bố thí ?
Là trong tất cả mọi thời không có gì là bố thí.
Thế nào là thành tựu đại sự bố thí ?
Là đối với sự bố thí không khởi tướng kiên cố.
Thế nào là thành tựu sự tăng trưởng bố thí ?
Là nếu khởi tâm đố kỵ.
Thế nào là thành tựu hết ý bố thí ?
Là nếu khi không trụ tân pháp.
Thế nào là thành tựu tự tại bố thí ? Thế nào là thành tựu vô lượng bố thí ?
Là nếu không trụ nơi vô tận.
Cũng giống như bố thí, trì giới v.v… cho đến Bát-nhã Ba-la-mật nên tùy thuận theo đó mà biết.
Thế nào là thành sát sinh ? Là nếu khiến thế gian chúng sinh sát hại. Thế nào là thành trộm cắp ? Là nếu khiến chúng sinh người chưa cho mà tự lấy. Thế nào là thành tà dâm ? Là nếu khiến làm việc tà dâm. Thế nào là thành vọng ngữ ? Là nếu khiến nói dối như nói dối. Thế nào là thành nói thêu dệt ? Là nếu khiến thường hành theo hạnh không môn. Thế nào là thành ác khẩu ? Là nếu khiến đến trí đáo bỉ ngạn. Thế nào là thành nói hai lưỡi ? Là nếu khiến biết rõ các pháp mà giảng nói năng thuyên. Thế nào là thành tham ? Là nếu khiến tu hành để được pháp thiền định thường và vô thường. Thế nào là thành sân tâm ? Là nếu khiến tất cả phiền não trong tâm khởi hiện hành. Thế nào là thành tà kiến ? Là nếu khiến đến tất cả mọi nơi làm mọi việc như thật, như Phật pháp sâu xa nói rõ trong Kinh Tà Kiến.
Những pháp nào gọi là pháp sâu xa ?
Ở đây có thuyết nói như thế này : Pháp thường trú là pháp của Phật , vì pháp thân thường trú. Pháp đoạn diệt là pháp của Phật, vì diệt tất cả chướng. Pháp sinh khởi là pháp của Phật vì có thể sinh ứng thân. Pháp có giác ngộ là pháp của Phật , vì đối trị 8 vạn 4 ngàn hành nghiệp của chúng sinh. Pháp có tham là pháp của Phật, vì tham nhiếp thủ chúng sinh như mình. Cũng như vậy, pháp có sân là pháp của Phật. Pháp có si là pháp của Phật. Pháp thấy có phàm phu là pháp của Phật. Pháp không nhiễm ô là pháp của Phật, vì thành tựu chân như rồi thì tất cả chướng không thể nhiễm. Pháp lìa ô nhiễm là pháp của Phật, vì sinh trong thế gian mà pháp thế gian không thể làm nhiễm ô. Vì các nghĩa lý như vậy nên gọi Phật pháp là rất sâu.
Tu các Ba-la-mật hóa độ chúng sinh, làm cho cõi Phật thanh tịnh, hiện tất cả Phật pháp, cho nên phải biết Tam-muội của Bồ-tát làm các việc sai biệt.
Như vậy là đã nói về tăng thượng thắng tâm rồi, vậy tăng thượng thắng tuệ là thế nào ?
Đó là tính xứ, thân xứ, nhân xứ, tướng xứ, trì xứ, bạn xứ, báo xứ, nhân khí xứ, xuất xứ, tận chí xứ nhờ vô phân biệt kia có công dụng, đẳng xứ, sai biệt xứ nhờ vô phân biệt mà có, và các xứ như trì, tự nhiên tác sự xứ, thậm thâm xứ ý của trí vô phân biệt. Như vậy nên biết trí vô phân biệt là thù thắng của tuệ tăng thượng.
Trong đây lìa 5 thứ tướng vì là trí tính vô phân biệt : ý lìa niệm, quả lìa hữu giác hữu quán, lìa định tưởng thụ diệt, lìa sắc tính, chân thật xứ xả bỏ các tướng. Phải biết trí vô phân biệt kia được nói lìa 5 thứ tướng như vậy. Trong sự an lập sai biệt của trí tính vô phân biệt có bài kệ như sau :
Chư Bồ-tát chân thật,
Xa lìa 5 thứ tướng.
Vô phân biệt trí xứ,
Trong đó có nhiều tên.
Trong thân các Bồ-tát,
Thiện tâm chính là tâm.
Trong trí vô phân biệt,
Nghĩa tâm chân thật nói.
Nhân của các Bồ-tát,
Đều nói văn huân tập.
Trong trí vô phân biệt,
Ý hành đồng tư duy.
Niệm của các Bồ-tát,
Không năng thuyên sở thuyên.
Trong trí vô phân biệt,
Vô ngã và chân như.
Tướng của các Bồ-tát,
Ở nơi chính niệm kia.
Trong trí vô phân biệt,
Trí xứ không các tướng.
Tùy thuận nghĩa chân thật,
Không biệt cũng không dị.
Thứ tự cùng thuận theo,
Nghĩa kia thuận hợp thành.
Lìa trí không ngôn thuyết,
Có nói là có làm.
Bởi nói có mâu thuẫn,
Nên nói mà không nói.
Trí của các Bồ-tát,
Trí kia vô phân biệt.
Nhờ kia mà được kia,
Kia đến chỗ tăng trưởng.
Bạn của các Bồ-tát,
Là có hai thứ hạnh.
Trong trí vô phân biệt,
Tính 5 Ba-la-mật.
Báo của các Bồ-tát,
Trong 2 cõi chư Phật.
Trí xứ vô phân biệt,
Để được hành tùy thuận.
Nhân của các Bồ-tát,
Thượng thượng các cõi sinh.
Trong trí vô phân biệt,
Chính thuyết đạt thù thắng.
Các Bồ-tát xuất sự,
Là vì được thuận nghĩa.
Trong trí vô phân biệt,
Hiểu rõ ràng 10 địa.
Các Bồ-tát tận chí,
Nhân được 3 tịnh thân.
Trong trí vô phân biệt,
Đạt được thượng thần thông.
Như hư không không nhiễm,
Trí kia không phân biệt.
Các thứ ác nghiệp tăng,
Chỉ lấy tin làm chính.
Như hư không không nhiễm,
Trí kia không phân biệt.
Xa lìa tất cả chướng,
Để được thuận thành tựu.
Như hư không không nhiễm,
Trí kia không phân biệt.
Vì thường hành thế gian,
Không nhiễm thế gian pháp.
Như người câm muốn biết,
Như người câm biết được,
Chẳng như người không câm,
Mà nói 3 thứ trí.
Như người ngu si biết,
Như người ngu biết được,
Chẳng phải như ngu biết,
Mà nói 3 thứ trí.
Thần thông có 5 nghĩa,
Thông đạt 5 thứ ấy,
Như chỗ ý thức biết,
Mà nói 3 thứ trí.
Không thông luận muốn thông,
Như thông hiểu pháp nghĩa,
Theo tuần tự hiểu biết,
Biết rồi thì gia hành.
Như người bịt hai mắt,
Trí kia không phân biệt.
Sau đó được mở mắt,
Trí kia nhờ đó được.
Như không trí cũng vậy,
Trí kia không phân biệt,
Nơi kia sắc hiện tướng,
Trí kia nhờ đó được.
Như châu ngọc, kỹ nhạc,
Sử dụng không phân biệt,
Như vậy lìa sở trụ,
Nghiệp chư Phật trang nghiêm.
Chẳng kia hay nơi đâu,
Có trí hay không trí,
Trí kia không sai biệt,
Là trí không phân biệt.
Thể tính không phân biệt,
Rõ biết tất cả pháp.
Trong chúng sinh phân biệt,
Trí kia không phân biệt.
Như vậy trong công dụng của vô phân biệt có 3 thứ gia hành khác nhau là nhân, hiện tướng và thủ sinh. Trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là thiểu dục, tri túc và không điên đảo. Không phân biệt, không chống báng, nhờ đó trí hậu đắc kia cũng có 5 thứ : chứng đắc, ức niệm, sai biệt ly, thành tựu và thời hiện phân biệt. Đó là giải thích nghĩa của trí vô phân biệt. Ở đây có các bài kệ như sau :
Ngạ quỷ, Súc sinh, Người,
Chư thiên cùng La-hán,
Đồng đẳng mà ý khác,
Thành ra nghĩa các trần.
Quá khứ như chiêm bao,
Không khác cũng không hai.
Chẳng có, nhưng khởi niệm,
Tùy niệm thành các nghĩa.
Nghĩa và nghĩa thành tựu,
Trí kia không phân biệt.
Kia không tức không Phật,
Nói đắc là bất thành.
Bồ-tát được thần thông,
Là nhờ sức tin kia.
Địa v.v..cũng là không,
Tùy hành giả mà biết.
Thành tựu trí tuệ này,
Dũng mãnh được thiền định.
Tất cả pháp chính y,
Và thấy nghĩa như vậy.
Trí hành trong phân biệt,
Và hiện tất cả nghĩa.
Phải biết sự không nghĩa,
Thì thức kia cũng không.
Trong Bát-nhã Ba-la-mật, trí không phân biệt và không hơn kém. Như Kinh Đại Phẩm nói :
Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật, do không trụ nên có thể tu hành viên mãn.
Vì sao do không trụ mà có thể viên mãn các Ba-la-mật, xa lìa các chỗ như xa lìa chỗ kiến chấp ngã kiến của ngoại đạo, xa lìa chỗ vọng niệm phân biệt của các Bồ-tát chưa chứng đắc, xa lìa hai cực đoan thế gian và Niết-bàn, xa lìa sự vui mừng vì mới diệt chướng phiền não, xa lìa cảnh giới vô dư Niết-bàn không nghĩ đến lợi ích chúng sinh.
Trong Thanh Văn thừa và Bồ-tát thừa có chỗ nào hơn nhau ?
Có 5 thứ khác nhau : tướng thắng hơn, vô phân biệt thắng hơn vì chỉ không phân biệt pháp 5 uẩn, chẳng phải có phương thắng chứng mà chính là biết tất cả tướng và dựa vào tất cả chúng sinh, không trụ thắng nhân vì không trụ Niết-bàn, vĩnh viễn thắng vì trong Vô dư Niết-bàn giới trụ đến số vô lượng, và quả vô thượng. Ở đây có bài kệ như sau :
Có 5 thứ thắng nghĩa,
Lấy từ bi làm thân.
Thế gian xuất thế gian,
Không lâu sẽ hiển hiện.
Nếu các Bồ-tát thành tựu công đức của giới tăng thượng, tâm tăng thượng và tuệ tăng thượng như vậy được tự tại trong lợi ích của chúng sinh. Thế tại sao lại có các chúng sinh bị khổ trói buộc ?
Vì để cho thấy các chúng sinh kia, có chúng sinh đối với nghiệp chướng của chúng, nếu cho chúng thiện pháp thì khiến chúng trở ngại việc sinh khởi điều thiện, làm nhân tăng thêm pháp bất thiện, làm nhân chướng ngại bao nhiêu chúng sinh khác. Vì thế mà thấy có chúng sinh có các trói buộc như vậy. Ở đây có bài kệ như sau :
Hiện các chướng phiền não,
Đau mắt thấy không đúng.
Các chúng sinh Bồ-tát,
Không phải như nghĩa đó.
Như vậy là đã nói về nghĩa thù thắng của tuệ tăng thượng rồi, vậy thù thắng của tịch diệt là thế nào ?
Tịch diệt của Bồ-tát là không chấp trước, không an trụ Niết-bàn. Cái tướng không chấp trước, không an trụ kia, đồng nghĩa với sự xả bỏ các phiền não tạp nhiễm mà không xả bỏ thế gian. Trong kệ nói chuyển thân, trong đó thế gian là tính tướng. Tức phiền não là phần ô nhiễm. Niết-bàn là phần thanh tịnh. Thân là thuộc hai phần đó. Tính tướng đó, nói chuyển thân tức trở lại đối trị trong tính tướng đó. Chuyển phần nhiễm thành phần tịnh. Nói đại lược có 6 thứ. Nghĩa là bớt tăng ích mà dùng sức tin, trụ nơi đa văn huân tập, dựa vào sự hổ thẹn mà không khởi các phiền não, được chứng nhập địa Bồ-tát hiện chính , không hiện bất chính, cho đến địa thứ 6 tu chuyển không hiện, hiện tướng có chướng niệm, vì thiện tịnh chính ý cho đến viên mãn quả trong 10 địa hiện không chướng ngại tất cả tướng niệm, được tất cả tướng niệm tự tại nhỏ mọn của Tiểu thừa, chứng chúng sinh vô ngã, cho nên một bề quay lưng với thế gian, một bề chối bỏ thế gian, lên đến chư Bồ-tát rồi chứng pháp vô ngã, trở lại nơi đó thấy tịch diệt các sử phiền não mà không xả bỏ.
Nếu các Bồ-tát chuyển tâm niệm thành nhỏ hẹp thì có lỗi gì ?
Đó là lỗi xả bỏ việc làm lợi ích chúng sinh, xa lìa pháp Bồ-tát, chỉ biết giải thoát như tâm lượng Tiểu thừa.
Nếu các Bồ-tát có tâm hướng thượng thì có lợi ích gì ?
Có lợi ích là nếu trong pháp thế gian thì bản thân mình và người khác được tự tại, vì coi chúng sinh trong tất cả các nẻo, đều như bản thân mình, nên dùng tất cả các phương tiện khéo léo trong ba thừa hóa độ an trụ chúng sinh. Ở đây có bài kệ như sau :
Phàm phu bị mê mờ,
Nên chỗ thấy không đúng.
Các Bồ-tát thấy đúng,
Nên hành động tự nhiên.
Không nói tức là nói,
Phi nghĩa là chính nghĩa.
Thân thường chuyển các việc,
Chính thuyết là giải thoát.
Thế gian và Niết-bàn,
Chúng sinh là người trí.
Bấy giờ thế gian kia,
Nói tức là Niết-bàn.
Chẳng bỏ, chẳng chẳng bỏ,
Vì biết rõ thế gian.
Không lợi cũng không tổn,
Vì biết rõ Niết-bàn.
Như vậy là đã nói xong về sự thù thắng của tịch diệt. Còn sự thù thắng của trí là thế nào ?
Vì có 3 thứ Phật thân nên nói về thù thắng của trí. Một là chân thân, hai là báo thân, ba là ứng thân. Chân thân chư Phật là pháp thân y cứ tất cả pháp được tự tại. Báo thân là pháp thân hiển rõ trong các Đại chúng hội của chư Phật, là chỗ sở y thanh tịnh của thế giới Phật, thụ pháp lạc Đại thừa cho nên tuy pháp thân mà từ Đâu-suất thiên cung thị hiện, thác thân thụ sinh, hiện thụ dục lạc, xuất gia, gần gũi ngoại đạo,, khổ hạnh, thành đạo, chuyển pháp luân, thị hiện Đại Niết-bàn. Ở đây có bài kệ như sau :
Được sự tướng tự tại,
Vì có nhiếp thụ thân.
Phân biệt đức rất sâu,
Là nói về chư Phật.
Pháp thân chư Phật Như Lai có những tướng gì ?
Tóm tắt có 5 thứ : Một là tướng chuyển thân. Tất cả phần phiền não chướng, trong tha tướng tính hồi chuyển, tất cả chướng được giải thoát chuyển y vào phần thanh tịnh của hiện pháp tự tại.
Vì hồi tha tướng tính nên thể tướng của bạch pháp có thể viên mãn 10 Ba-la-mật, được 10 tự tại. Trong đó mạng tự tại, tâm tự tại và tư dụng tự tại là do viên mãn Đàn Ba-la-mật. Nghiệp tự tại và sinh tự tại do viên mãn Thi Ba-la-mật. Tín tự tại do viên mãn Sằn-đề Ba-la-mật. Nguyện tự tại do viên mãn Tì-li-da Ba-la-mật. Trí tự tại và pháp tự tại do viên mãn Bát-nhã Ba-la-mật.
Tướng không hai là không có hai tướng sự và phi sự, vì y tất cả pháp là phi sự nên hữu vi vô vi là tướng không hai. Nghiệp phiền não và vô vi có hiện tướng thì hiện tướng tự tại cho nên khác hay không khác chỉ là một, không có hai tướng. Trong đó tất cả chư Phật không có thân khác, cho nên vô lượng thân tâm thị hiện thành Phật. Ở đây có bài kệ như sau :
Vì tự xưng vô ngã,
Không có thân riêng biệt.
Nhưng vì gốc trước kia,
Nên lập ra phân biệt.
Tính sai biệt không khác,
Đầy đủ và vô thủy.
Không phân biệt một Phật,
Hay là có nhiều Phật.
Tướng thường trụ, tức y tịnh tướng chân như, từ sức bản nguyện ra làm không có kỳ kết thúc.
Tướng không thể nghĩ bàn. Trong chân như thanh tịnh kia chỉ bên trong chứng biết, thế gian chưa từng có, cũng chẳng phải cảnh giới có thể lường đạc dược.
Pháp thân này làm sao quán thấy biết được ?
Là do lúc đầu được tạm niệm Đại thừa vô phân biệt, nhờ đó được tu thành thục 5 thứ trí, trong tất cả các địa tập họp các hạnh trợ đạo, khiến phá trừ các chướng vi tế khó phá trừ, như Kim cương Tam-muội phá được tất cả các chướng.
Y pháp thân chuyển, được bao nhiêu thứ tự tại mà pháp thân được gọi là tự tại ?
Nói sơ lược có 5 thứ . Thế giới, thân tướng tốt, vô phân biệt vô biên âm thanh, tướng vô kiến đỉnh, tự tại chuyển sắc uẩn. Vô lượng an lạc thượng diệu tự tại chuyển về thụ uẩn. Danh thân cú thân tự thân, tất cả ngôn thuyết tự tại chuyển về tưởng uẩn. Ứng thân nguyện giáo hóa dẫn dắt chúng sinh tiếp thu bạch pháp tự tại chuyển về hành uẩn. Như tấm gương quán chiếu, trí ức trì tự tại chuyển về thức uẩn.
Có bao nhiêu ý thân của pháp thân ?
Nói sơ lược có 3 thứ thân là nơi sở y của Phật thân. Ở đây có bài kệ như sau :
Được 5 thứ ái thân,
Là chư Phật tự được.
Lợi ái muốn cầu được,
Là cầu nơi nghĩa kia.
Sở tác không năng chướng,
Được nghĩa pháp nhiệm mầu.
Được vô phi tối ái,
Phật thường không tận kiến.
Thụ các báo thân làm y cứ để giáo hóa các Bồ-tát. Y cứ các ứng thân phần nhiều để giáo hóa Thanh Văn.
Có mấy thứ pháp thân ?
Nên biết là thâu nhiếp trong Phật pháp. Một là thanh tịnh, chuyển thức A-lê-da mà được pháp thân. Báo là chuyển sắc căn được trí báo. Hành là chuyển hành dục được vô lượng trí hành. Tự tại là chuyển các thứ nghiệp, được tự tại thần thông trí tự tại không trở ngại trong tất cả thế giới. Giả dụng là tất cả sự thấy nghe hiểu biết, chuyển giả danh thành trí ngôn thuyết tự tại, làm đẹp lòng chúng sinh. Khiển trừ là chuyển tất cả tai nạn thành trí, khiển trừ được tai nạn cho chúng sinh. Nên biết pháp thân chư Phật bao gồm tất cả 6 thứ Phật pháp này.
Pháp thân chư Phật là xen tạp hay không xen tạp ?
Nghiệp thân tâm sai biệt nên không xen tạp. Coi vô lượng xứ thành chính giác nên xen tạp. Như pháp thân, báo thân cũng vậy. Tâm nghiệp sai biệt nên không tạp. Chẳng phải thân sai biệt vì chuyển vô lượng thân. Nên biết ứng thân cũng giống như báo thân.
Pháp thân đủ bao nhiêu công đức ?
Nên biết là thanh tịnh thuần thục 4 thứ vô lượng, giải thoát, thoái biến tịnh xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 vô ngại, 6 thần thông, 32 tướng, 80 vẻ đẹp, 4 thứ nhất thiết tướng tịnh, 10 lực, 4 vô sở úy, 3 bất hộ, 4 niệm xứ, diệt tập khí, pháp không vong thất, đại bi, 18 pháp không chung và trí đầy đủ tất cả tướng. Ở đây có bài kệ như sau :
Thương xót các chúng sinh,
Thuận lợi và các tâm,
Bất lợi, thế lạc tâm,
Quy mạng lợi ích kia.
Được lìa tất cả chướng,
Mâu-ni xuống thế gian,
Trí sở tri biến khắp,
Quy mạng tâm giải thoát.
Không sót tất cả chúng,
Diệt tất cả phiền não,
Không tạp, diệt phiền não,
Quy mạng đấng ngôi cao.
Tự nhiên không có chướng,
Bất thoái thường nhập định,
Trong tất cả nạn vấn,
Quy mạng đấng giải thích.
Năng y và sở y,
Trí tuệ và ngôn thuyết,
Tâm thường không nao núng,
Quy mạng đấng thuyết giáo.
Rõ ngôn thuyết quá khứ,
Tâm quá khứ vị lai,
Chúng sinh trong không thật,
Quy mạng khéo giáo hóa.
Khen ngợi pháp trượng phu,
Chúng sinh thấy Hiền thánh,
Thấy rồi sinh cung kính,
Quy mạng đấng phân biệt.
Thủ xứ và thế lực,
Ứng thân và thệ nguyện,
Trí Tam-muội tự tại,
Quy mạng đấng chứng đắc.
Phương tiện quy y tịnh,
Khiến lợi lạc chúng sinh,
Đại thừa lợi xuất thế,
Quy mạng hàng phục ma.
Trí diệt và các việc,
Tác chướng và diễn thuyết,
Tự tha và ngoại đạo,
Quy mạng không thoái chuyển.
Hay thuyết giảng điều thiện,
Xa lìa hai nhiễm ô,
Không hộ, không quên mất,
Quy mạng đấng dắt dẫn.
Tu hành tất cả hạnh,
Không Thánh nào chẳng biết,
Tất cả thời đều biết,
Quy mạng chân thật nghĩa.
Việc làm cho chúng sinh,
Thánh thấy đều không trái,
Làm việc không ngừng nghỉ,
Quy mạng đấng không quên.
Trong một ngày một đêm,
Sáu thời quán chúng sinh,
Thành tựu đại từ bi,
Quy mạng tâm lợi ích.
Thực hành và chứng đắc,
Trí tuệ và các nghiệp,
Các Thanh Văn, Duyên Giác,
Quy mạng bậc tối thượng.
Ba thân đại Bồ-đề,
Được đủ tất cả tướng,
Khắp xứ tất cả chúng,
Quy mạng đấng quyết nghi.
Pháp thân chư Phật thành tựu các công đức như vậy. Lại còn có các công đức của tính, nhân, quả, nghiệp, thuận và hành. Vì vậy nên biết rằng pháp thân chư Phật Như Lai là vô thượng công đức. Ở đây có bài kệ như sau :
Thành tựu các chân thật,
Vượt qua tất cả địa,
Đến tất cả chúng sinh,
Độ thoát hết chúng sinh.
Đủ vô lượng vô biên,
Thế gian thấy công đức.
Thế giới không thể thấy,
Tất cả các nhân thiên.
Nhưng pháp thân lại rất sâu xa. Sự sâu xa của pháp thân chư Phật làm sao biết được ? Ở đây có bài kệ như sau :
Không sinh, chư Phật sinh,
Không trụ, mà là trụ.
Mọi việc đều tự nhiên,
Ăn, là ăn thứ tư.
Không phá và vô lượng,
Vô lượng đồng như một.
Không thấy và nghiệp thấy,
Chư Phật thành ba thân.
Không có thành chính giác,
Chẳng tất cả chẳng Phật.
Niệm niệm không thể lường,
Sự, phi sự hiển hiện,
Không nhiễm cho đến nhiễm,
Và chỗ nhiễm sở y,
Phi nhiễm, phi nhiễm rồi,
Nhập chân chính pháp thể.
Chư Phật quá các uẩn,
Mà chính trụ trong uẩn.
Kia không khác không một,
Xả bỏ được tịch diệt.
Tất cả là tạp nghiệp,
Chỉ lìa nước biển lớn.
Làm việc tiếp làm việc,
Lợi người chẳng để tâm.
Chúng sinh tội, không thấy,
Như đồ bể không trăng.
Khắp tất cả thế gian,
Ánh sáng pháp mặt trời.
Hoặc khi thành chính giác,
Hoặc Niết-bàn lửa tắt.
Không lúc nào mà không,
Phật thân vẫn thường trụ.
Chư Phật phi chính pháp,
Các người nẻo đường ác.
Trong pháp phi phạm hạnh,
Thường ở thân chân thật.
Kia đi khắp mọi nơi,
Và nơi không đi đến.
Thấy tất cả trong thân,
Tất cả căn không cảnh.
Trừ diệt các phiền não,
Như chú cấm, thuốc độc.
Phiền não đến khi hết,
Là chứng nhất thiết trí.
Phiền não chuyển giác phần,
Là thế gian tịch diệt.
Cho nên phương tiện lớn,
Chư Phật bất tư nghị.
Nhưng sự sâu xa này có 12 thứ. Đó là sự sâu xa về sinh thành nghiệp trụ, sự sâu xa về sai biệt toán số, sự sâu xa về thành chính giác, sự sâu xa về yếm ly, sự sâu xa về đoạn diệt các uẩn, sự sâu xa về giáo hóa, sự sâu xa về thị hiện, sự sâu xa về thành chính giác thị hiện Niết-bàn, sự sâu xa về hành, sự sâu xa về thị hiện bản thân, sự sâu xa về đoạn diệt phiền não, sự sâu xa về bất tư nghị.
Khi các Bồ-tát ức niệm về nghĩa pháp thân của chư Phật thì niệm như thế nào ?
Tóm tắt mà nói, Bồ-tát có 7 tướng ức niệm pháp thân. Tùy niệm chư Phật thì được tất cả chư Phật, vì thời pháp tự tại. Niệm chư Phật thì được thần thông không chướng ngại tất cả thế giới. Ở đây có bài kệ như sau :
Trong chướng và thiếu nhân,
Trong khắp cõi chúng sinh,
Kẻ có hai quyết định,
Chư Phật không tự tại.
Chư Như Lai thân thường trụ, vì chân như không gián đoạn, giải thoát cấu uế. Chư Như Lai tối thắng không tội lỗi, vì xa lìa tất cả phiền não trí chướng. Chư Phật thì tự nhiên, tự nhiên làm tất cả Phật sự mà không thôi nghỉ. Chư Phật có thế lực lớn mạnh, vì cõi Phật thanh tịnh an vui. Chư Phật không nhiễm ô, vì sinh ra trong thế gian mà không bị pháp thế gian làm ô nhiễm. Chư Phật Như Lai làm thành việc lớn, vì thị hiện thành chính giác và Niết-bàn, chúng sinh chưa hóa độ thì khiến được hóa độ, hóa độ rồi thì khiến được giải thoát. Ở đây có bài kệ như sau :
Tự tại nơi tâm mình,
Hiển thanh tịnh thường trú.
Đại pháp vô công dụng,
Vì vậy được báo thân.
Không gấp thường tinh tiến,
Thị hiện nhiều kiếp sinh.
Tất cả tất cả Phật,
Người trí phải ghi nhớ.
Thế giới chư Phật thanh tịnh như thế nào ?
Như trong phần Tựa của Bồ-tát Tạng, Kinh Phật Thập Vạn Kệ có nói :
Như Lai ở nơi hết sức rực rỡ bảy báu trang nghiêm biến khắp vô lượng thế giới phóng ánh sáng lớn. Là nơi trụ xứ vô lượng thiện phân biệt. Là cảnh giới siêu quá ba cõi, cảnh giới không thể sai biệt. Là nơi thiện tịnh của thức tướng tự tại, hơn cả thượng thiện căn thế gian sinh ra. Là nơi Như Lai gia trì. Là trụ xứ của Đại Bồ-tát. Là nơi hành trì của vô lượng Thiên long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và Phi nhân. Là nơi thấm nhuần đại pháp vị ái lạc. Nơi hiện tất cả Phật sự của tất cả chúng sinh. Nơi lìa tất cả phiền não. Nơi lìa tất cả ma. Nơi siêu quá tất cả trang nghiêm được Như Lai trang nghiêm gia trì. Nơi siêu quá đại niệm. Nơi lấy Đại Xa-ma-tha, Tì-bà-xá-na làm thừa giáo. Nơi nhập vào Đại không, vô tướng, vô nguyện. Nơi vô lượng kiếp trang nghiêm đại liên hoa vương. Đó là trụ xứ trung tâm to lớn vi diệu của Như Lai. Trong cõi Phật thanh tịnh này, sắc tướng quang minh vô lượng, cho đến tướng thí xứ, thí nhân, thí quả, trợ bạn, quyến thuộc, lợi ích, tác nghiệp, nhuận trạch, vô úy, trụ xứ, gia hành, thừa, trì, đường sá nhà cửa đều hiển hiện sự quang minh thanh tịnh. Sắc tướng thanh tịnh của thế giới đức Phật kia chỉ thuần thanh tịnh, thuần an lạc, hoàn toàn không có cái ác, hoàn toàn tự tại.
Nên biết pháp giới chư Phật trong tất cả mọi thời đều làm 5 việc : Phòng hộ các tai nạn cho chúng sinh. Chúng sinh nào gặp được Phật thì khỏi các nạn đui mù câm điếc cuồng loạn v.v…Phòng hộ các đường ác. Ở nơi không lành thì khiến an trụ chỗ lành. Giúp người không có phương tiện phòng ngừa tai nạn, như các ngoại đạo không có phương tiện thực hành giải thoát khiến họ được ở trong Phật pháp. Giúp người ngăn ngừa nạn tà kiến bằng thực hành các pháp trợ đạo vượt qua ba cõi. Giúp cho thừa giáo tránh nạn thiên tiểu, như các Bồ-tát trụ ở các thừa khác và các bất định tính Thanh Văn khiến tu hành trụ vào Đại thừa. Nên biết 5 việc làm này là việc làm của tất cả chư Phật. Ở đây có bài kệ như sau :
Nhân, thân, tác nghiệp do sai biệt,
Và nói các hành sai biệt kia,
Có sai biệt đó là thế gian.
Không sai biệt ấy là chư Phật.
Nếu sự thành tựu công đức pháp thân của chư Phật không đồng với Thanh Văn, Duyên Giác thì vì ý gì Phật nói nhất thừa ? Ở đây có bài kệ như sau :
Vì riêng loại hữu dư,
Và giữ các hữu dư,
Bất định tính nên nói,
Lý nhất thừa chư Phật.
Tin nơi pháp vô ngã,
Bình đẳng tính sai biệt.
Vì thâm tâm ứng hóa,
Tất cả chỉ nhất thừa.
Vì nghĩa gì tất cả chư Phật Như Lai đều đồng một pháp thân mà nói có nhiều Phật ? Ở đây có bài kệ như sau :
Một cõi không hai Phật.
Nhiều người đồng thành Phật.
Nói tuần tự không đúng.
Giải thích thành nhiều Phật.
Làm sao biết pháp thân chư Phật không vĩnh viễn Niết-bàn cũng chẳng phải không vĩnh viễn Niết-bàn ? Ở đây có bài kệ như sau :
Xa lìa tất cả chướng,
Nhưng không hết độ thoát.
Nên Phật tuy diệt độ,
Mà vẫn không diệt độ.
Vì sao báo thân không phải là đầy đủ chân thân ?
Vì có 6 tướng : Vì thị hiện có sắc thân và phân biệt thị hiện trong vô lượng cõi Phật. Vì tùy theo tín tâm mà thị hiện nên thấy khác nhau không thấy nhất định. Vì thị hiện đồng sinh đồng sự nên Bồ-tát, Thanh Văn, chư thiên v.v…đều thấy khác nhau. Vì thức A-lê-da và các chuyển thức thị hiện lúc chuyển thân. Đó là ý nghĩa báo thân không gọi là thành chân thân.
Chỉ là ứng thân không gọi là chân thân vì có 8 tướng : Các Bồ-tát từ lâu xa đã được Bất động Tam-muội, nên thụ sinh trời Đâu-suất, thụ sinh cõi người đều không đúng lý. Đã biết túc mạng mà không biết văn học toán số công xảo, lại thụ dục lạc và làm các việc mà không biết là không đúng lý. Đã biết nói thiện pháp và bất thiện pháp mà còn đến hỏi đạo ngoại đạo là không đúng lý. Đã biết các hạnh ba thừa mà con tập khổ hạnh là không đúng lý. Đã xả bỏ trăm ức Diêm-phù-đề mà chỉ thành chính giác và chuyển pháp luận ở một Diêm-phù-đề là không đúng lý. Nếu thành chính giác là thị hiện phương tiện còn các cõi khác thì ứng hóa thân làm Phật sự thì tại sao chỉ thành chính giác ở trời Đâu-suất ? Tại sao không đồng thời thành chính giác ở tất cả Diêm-phù-đề ? Điều này trong A-hàm cũng như không thấy trong các nghĩa khác giải thích. Lại nữa không có 2 Phật đồng thời xuất hiện trong một thế giới vì trái nhau, vì giáo hóa rất nhiều, thâu gồm 4 phương thế gian, cũng như không có hai Chuyển luân thánh vương sinh đồng thời với nhau. Ở đây có bài kệ như sau :
Chư Phật chưa ứng hóa,
Đồng ở pháp thân tàng.
Tất cả tướng thành giác,
Nên có thể thị hiện.
Vì lợi ích tất cả chúng sinh mà hành muôn hạnh tu tập Đại Bồ-đề, không nguyện vĩnh viễn nhập Niết-bàn, vì chỉ tu tập và cứu độ mà không cầu báo đáp, vì báo thân, ứng thân là vô thường.
Thế nào là thân thường trụ của chư Phật ?
Là y cứ vào pháp thân thường trụ. Phải biết các nhân thân, ứng thân, báo thân là bất định. Pháp thân chư Phật tuy vô lượng vô biên thời là nghĩa xứ của chư Phật mà không tạm làm công dụng. Ở đây có bài kệ như sau :
Chư Phật đức thắng,không khác không lường,
Chúng sinh nhân yếu, kia mà không mất,
Được rồi được kia, tất cả không nhân,
Có đoạn kia đây, không nên thuận thành.