LUẬT MA HA TĂNG KỲ

Việt dịch: Thích Phước Sơn – Chứng nghĩa: Thích Đỗng Minh

Quyển thứ mười hai

-ooOoo-

NÓI RÕ PHẦN THỨ NHẤT CỦA CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ĐƠN ĐỀ

1. GIỚI: CỐ Ý VỌNG NGỮ.

[324b] Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ chúng Tăng đang tập họp tại một chỗ định làm Yết-ma, nhưng trưởng lão Thi Lợi Da Bà không đến, họ bèn sai sứ giả đi gọi: “Trưởng lão, chúng Tăng đang tập họp, định làm các pháp sự”.

Thi Lợi Da Bà suy nghĩ: “Chính là họ đang vì ta mà làm Yết-ma đó”, liền sinh tâm sợ hãi, nhưng không trốn được đành phải đến.

Khi thầy tới rồi, các Tỉ-kheo hỏi: “Trưởng lão, thầy phạm Tăng-già-bà-thi-sa phải không?”

Đáp: “Phạm”.

Các Tỉ-kheo liền sinh tâm hoan hỉ. Nhưng thầy suy nghĩ: “Các vị phạm hạnh ở trước ta nêu sự việc có thể sám hối, chứ không phải việc không thể trị phạt”, liền bạch với chúng Tăng: “Cho phép tôi ra ngoài một lát”.

Các Tỉ-kheo sau đó bàn nhau: “Vị Tỉ-kheo này đa trá, bất định, đi ra ngoài rồi, lát nữa đây sẽ nói dối, vậy nên hỏi lại 3 lần để xác định cho chắc”.

Thi Lợi Da Bà ra ngoài rồi, suy nghĩ: “Vì sao ta vô sự mà lại nhận tội? Các Tỉ-kheo này thường thường hay trị tội ta. Nay ta không nên nhận tội ấy, mà nên nói dối, bất quá chúng Tăng sẽ trị tội nói dối, dù có trị tội vẫn nhẹ”.

Các Tỉ-kheo bèn gọi Thi Lợi Da Bà vào. Khi thầy vào rồi, Tăng hỏi: “Có phải thầy phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa không?”

– Không phạm.

-Vừa rồi, vì sao thầy nhận là có phạm?

– Vì vừa rồi chúng Tăng muốn nói tôi phạm, nên tôi đáp là có phạm. Giờ đây tôi không nhớ là mình có tội.

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy bạch đầy đủ lên Thế tôn. Phật liền bảo gọi Thi Lợi Da Bà đến. Khi thầy đến rồi, Phật bèn hỏi lại các việc trên: “Ông có thật như vậy không?”

– Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.

– Đó là việc xấu. Ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện chê trách sự nói dối, khen ngợi nói thật hay sao? Nay vì sao ông biết mà nói dối? Đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.

Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

— “Nếu Tỉ-kheo [325a] biết mà vọng ngữ thì phạm Ba-dạ-đề”.

Giải thích :

– Biết: Đã nghĩ biết trước.

– Vọng: Sự việc không phải như vậy.

– Ngữ: Dùng miệng nói ra.

– Ba-dạ-đề: Tên tội được phân biệt chế định

Lại có các trường hợp: Tám cách nói của hiền Thánh, nói thẳng, vọng ngữ, không vọng ngữ, nghi, không nghi, quyết đinh, không quyết đinh, nói một chiều.

– Tám cách nói của hiền thánh: Thấy nói là thấy, nghe nói là nghe, dối nói là dối, biết nói là biết, không thấy nói là không thấy, không nghe nói là không nghe, không dối nói là không dối, không biết nói là không biết. Đó gọi là 8 cách nói của hiền thánh. Nói như thế thì không có tội.

– Tám cách nói không phải hiền thánh: Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, dối nói không dối, biết nói không biết, không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không dối nói dối, không biết nói biết. Đó gọi là 8 cách nói không phải hiền thánh. Nói như vậy thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Nói thẳng: Thấy nghe hay biết (mà nói) không thấy, không nghe, không hay, không biết. Đó gọi là nói thẳng, phạm tội Ba-dạ-đề .

– Vọng: Thấy vọng mà nói là không vọng, nghe vọng mà nói là không vọng, hay vọng mà nói là không vọng, biết vọng mà nói là không vọng; không thấy, không nghe, không hay, không biết vọng (sai lầm) mà nói là không vọng. Nói như vậy thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Không vọng: Thấy nghe hay biết không vọng mà nói là vọng; không thấy, không nghe, không hay, không biết không vọng mà nói là vọng. Nói như vậy thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Nghi: Thấy nghe hay biết nghi nói không nghi; không thấy, không nghe, không hay, không biết nghi nói không nghi, thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Không nghi: Thấy nghe hay biết không nghi ngờ mà nói là nghi ngờ. Không thấy không nghe, không hay không biết không nghi ngờ mà nói là nghi ngờ, thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Quyết định: Thấy nghe hay biết quyết định (một cách chắc chắn) mà nói là không quyết định; không thấy không nghe không hay không biết quyết định mà nói là không quyết định thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Không quyết định: Thấy nghe hay biết không quyết định (không chắc chắn) mà nói là quyết định; không thấy không nghe không hay không biết không quyết định mà nói là quyết định, thì phạm tội Ba-dạ-đề.

– Nói một chiều: Thấy nghe hay biết mà nói là không thấy không nghe không hay biết thì phạm tội Ba-dạ-đề.

Biết là có mà nói không, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Biết là không mà nói là có, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Thật có mà cho là không, rồi nói rằng có, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Thật không mà cho là có, rồi nói rằng không, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Thật có rồi tưởng là có, mà lại nói không, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Thật không rồi tưởng rằng không, mà lại nói có, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

[325b] Thật có rồi tưởng là không mà lại nói có, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Thật không rồi tưởng là có, mà lại nói không, đó là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Có 5 pháp thành tựu biết mà nói dối phạm tội Ba-dạ-đề. Năm pháp đó là gì? Đó là thật có, tưởng là có, rồi đổi ý, tưởng trái lại, nói khác đi, đó là 5 việc biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Có 4 pháp thành tựu, biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề. Bốn pháp đó là gì? Đó là tưởng rằng có, mà đổi ý, tưởng trái lại, rồi nói khác đi. Đó gọi là 4 pháp, biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Có 3 pháp thành tựu, biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề. Ba pháp đó là gì? Đó là đổi ý, tưởng trái lại, nói khác đi, như vậy, là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Có 2 pháp thành tựu, biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề. Hai pháp đó là gì? Đó là tưởng trái lại, nói khác đi, như vậy, là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề.

Có một pháp thành tựu, biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề. Một pháp đó là gì? Đó là nói khác đi, như vậy là biết mà nói dối, phạm tội Ba-dạ-đề. Thế nên nói (như trên).

2. GIỚI: DÈM PHA THÀNH PHẦN, NGHỀ NGHIỆP NGƯỜI KHÁC.

Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm 6 Tỉ-kheo dùng lời lẽ nhã nhặn dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo trẻ tuổi: “Ông tên là gì? Tộc họ ông là gì? Cha mẹ ông tên gì? Nhà ông trước đây làm nghề gì?”.

Các Tỉ-kheo trẻ tuổi, tính tình chất trực, cứ thực mà đáp: “Nhà tôi như vậy. Tên họ như vậy, nghề nghiệp như vậy”.

Nhóm 6 Tỉ-kheo sau đó có việc hiềm khích, liền nói như sau: “Ngươi thuộc dòng giống rất hạ tiện. Ngươi là loại chiên-đà-la, là kẻ hớt tóc, là thợ dệt, là thợ làm đồ gốm, là thợ làm da”.

Các Tỉ-kheo trẻ tuổi nghe những lời nói ấy, rất lấy làm hổ thẹn. Các Tỉ-kheo nghe sự việc ấy, bèn đến bạch với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật bèn hỏi: “Có thật các ông dùng những lời nhã nhặn, dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo trẻ tuổi, rồi sau đó hiềm khích, liền nói.v.v., (cho đến) là thợ gốm, thợ da phải không?”

Họ đáp: “Có thật như vậy”.

Phật liền khiển trách: “Đó là việc xấu. Này nhóm 6 Tỉ-kheo, vì sao đối với những người phạm hạnh mà lại phân biệt nói về hình tướng chủng loại? (như trong kinh Nan-đề-bản-sinh đã nói rõ). Cho đến Phật nó với các Tỉ-kheo: “Loài súc sinh còn ghét sự hủy báng, huống chi là người”.

Rồi Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

— “Nếu Tỉ-kheo nói về hình tướng chủng loại, thì phạm Ba-dạ-đề”.

Giải thích

– Hủy báng về chủng loại: Gồm có 7 thứ: [325c] Chủng tánh, nghiệp, tướng mạo, bệnh, tội, mắng, kiết sử.

1- Chủng tánh: Gồm có 3: Bậc hạ, trung, thượng.

– Bậc hạ: Như nói: “Người là hạng ngưởi Chiên-đa-la, là thợ hớt tóc, thợ dệt, thợ đồ gốm, thợ làm da”. Nếu nói như vậy làm cho họ xấu hổ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Cha mẹ ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”, khiến cho người ấy hổ thẹn, thì phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Hoà thượng, A-xà-lê của ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”, khiến cho người ấy hổ thẹn thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu nói: “Bạn bè quen biết của ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”, khiến cho người ấy hổ thẹn, thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bậc hạ.

– Bậc trung: Như nói: “Các ngươi thuộc chủng tánh trung lưu”. Nói như vậy là muốn cho người ấy hổ thẹn, thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu nói: “Cha mẹ của ngươi thuộc dòng dõi trung lưu”, thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu nói: “Hòa thượng, A-xà-lê của ngươi thuộc dòng dõi trung lưu”, khiến cho người ấy xấu hổ, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nói: “Bạn bè quen biết của ngươi thuộc dòng dõi trung lưu”, khiến cho người ấy xấu hổ, thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là bậc trung.

– Bậc thượng: Như nói với người kia rằng: “Ngươi là dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”, khiến cho họ xấu hổ thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nói: “Cha mẹ của ngươi là dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”, nói như vậy là muốn cho người ấy hổ thẹn, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nói: “Hòa Thương, A-xà-lê của ngươi thuộc dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”, nói như vậy là muốn cho người ấy hổ thẹn, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nói: “Bạn bè quen biết của ngươi thuộc dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”, khiến cho người ấy hổ thẹn, thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là bậc thượng của chủng tánh.

2. Nghiệp: Gồm có 3 loại: Hạ, trung và thượng.

– Hạ nghiệp: Chẳng hạn nói: “Ngươi là tên đồ tể, là kẻ bán heo, là kẻ chài lưới, săn bắn, là kẻ rập chim, là kẻ giăng lưới, là quân giữ thành, là kẻ bán nem”, nói như thế là muốn cho người ấy xấu hổ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ cũng thế. Hoặc nói: “Hoà thượng, A-xà-lê của ngươi là quân đồ tể, (cho đến) là kẻ bán nem”, thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu nói: “Bạn bè quen biết của ngươi là tên đồ tể, (cho đến) là kẻ bán nem”, thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là hạ nghiệp.

– Trung nghiệp: Chẳng hạn nói: “Ngươi là kẻ bán hương, là kẻ ngồi quán xá, là kẻ làm ruộng, là kẻ trồng rau, là người sứ giả”, nói như vậy vì muốn làm cho người ta xấu hổ, thì phạm tội Thâu-lan-giá; về cha mẹ cũng như vậy. Nếu nói: “Hòa thượng, A-xà-lê của ngươi …”, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu nói: “Bạn bè quen biết của ngươi …”[326a] khiến cho người ấy xấu hổ, thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là trung nghiệp.

– Thượng nghiệp: Nếu nói: “Ngươi là người ở nhà vàng, bạc, ma ni, nhà đồng”, nói như thế là muốn cho người ấy xấu hổ, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê, cũng như vậy. Nếu nói về bạn hữu tri thức, thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là thượng nghiệp.

3- Tướng mạo: Gồm có hạ, trung, thượng.

– Bậc hạ: Nếu nói: “Ngươi là kẻ mắt mù, lưng gù, chân tay cán giá giống như cánh chim, đầu ngoẹo, răng khểnh”, nói như thế khiến cho người ấy hổ thẹn, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, cũng như vậy. Nếu nói về Hòa thượng, A-xà-lê, thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu nói về bạn bè quen biết thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bậc hạ của tướng mạo.

– Bậc trung: Chẳng hạn nói: “Ngươi rất đen, rất trắng, rất vàng, rất đỏ”, nói như vậy khiến cho người kia hổ thẹn thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nói về cha mẹ cũng vậy. Nói về Hoà thượng A-xà-lê thì phạm tội Việt-tì-ni. Nói về bạn bè quen biết thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là tướng mạo bậc trung.

– Bậc thượng: Nếu nói: “Ngươi có 32 tướng viên mãn, sáng sủa, màu vàng”, nói như vậy khiến cho người kia hổ thẹn, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê cũng như vậy. Nếu nói về bạn bè, quen biết thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Đó gọi là tướng mạo bậc thượng.

4- Bệnh: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả đều gọi là bậc hạ. Chẳng hạn nói: “Các ngươi bị bệnh ghẻ lở, bệnh hoàng đãng, bệnh hủi, bệnh ung thư, bệnh trĩ, bệnh da vàng, bệnh sốt rét, bệnh còi, bệnh điên cuồng”; nói các bệnh như thế khiến cho người kia hổ thẹn, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ cũng vậy. Nói về Hòa thượng, A-xà-lê thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nói về bạn hữu quen biết, thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là bệnh.

5- Tội: Không có thượng, trung, hạ, mà tất cả tội đều được gọi là hạ. Nếu như nói: “Ngươi phạm tội Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Việt-tì-ni”, nói như vậy khiến cho người kia hổ thẹn, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ cũng vậy. Nếu nói về Hoà thượng, A-xà-lê, thì phạm tội Thâu-lan. Nói về bạn bè thì phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là tội.

6- Mắng: Không có hạ, trung, thượng, mà tất cả sự mắng đều thuộc về hạ. Mắng nhiếc những lời ác độc theo kiểu thế tục như: “Dâm dật, ô uế,….”, khiến cho người kia xấu hổ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Mắng cha mẹ cũng vậy. Mắng Hòa thượng, A-xà-lê phạm tội Thâu-lan-giá. Mắng bạn bè quen biết phạm tội Việt-tì-ni. Đó gọi là mắng.

7- Kiết sử: Không có hạ, trung, thượng, mà tất cả kiết sử đều thuộc về loại hạ. Nếu nói: “Ngươi là kẻ ngu si, ám độn, vô tri, giống như cục đất, như con dê, [326b] như ngỗng trắng, như chim cú”, nói những lời như vậy khiến cho người kia xấu hổ, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ cũng như vậy. Nói về Hòa thượng, A-xà-lê thì phạm tội Thâu-lan. Nói về bạn hữu tri thức, thì phạm tội Việt-tì-ni.

Nếu Tỉ-kheo dùng nhưng lời dèm pha hủy báng về 7 phương diện trên thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu hủy báng Tỉ-kheo-ni thì phạm tội Thâu-lan; hủy báng Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm tội Việt-tì-ni. Hủy báng người thế tục thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên).

3. GIỚI: NÓI ĐỂ LY GIÁN KẺ KHÁC .

Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm 6 Tỉ-kheo tìm cách dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo tuổi trẻ: “Ngươi có biết nghề nghiệp, dòng dõi của cha mẹ Tỉ-kheo mỗ giáp kia không?”

Các Tỉ-kheo trẻ tuổi ấy tính tình chất trực, tùy việc mà đáp. Về sau, khi nổi giận, nhóm 6 Tỉ-kheo liền nói: “Ngươi là Chiên-đà-la, là thợ hớt tóc, là thợ dệt, thợ đồ gốm, thợ làm da”.

Nói thế rồi, lại bảo: “Ta vốn không biết mà do Tỉ-kheo mỗ giáp kia nói về ngươi như vậy”.

Tỉ-kheo nghe lời nói ấy, rất lấy làm xấu hổ. Các Tỉ-kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: “Có thật các ông dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo trẻ tuổi (cho đến) Tỉ-kheo kia xấu hổ không?”

Họ đáp: “Có thật như vậy, bạch Thế Tôn”.

– “Vì sao các ông lại làm như vậy?”

– Chúng con làm việc đó vì thấy thích thú.

– Này những kẻ ngu si! Đó là việc xấu, đối với bậc phạm hạnh mà nói 2 lưỡi. Đấy là việc khổ mà bảo là vui.

Phật dùng vô số phương tiện khiển trách rồi, bèn nói về nhân duyên, như trong kinh Bản-sinh 3 con thú đã nói rõ. Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

— “Nếu Tỉ-kheo nói 2 lưỡi, thì phạm Ba-dạ-đề”.

Giải thích :

– Nói 2 lưỡi: Gồm có 7 loại, đó là chủng tánh, nghề nghiệp, tướng mạo, bệnh, tội, mắng, kiết sử.

1- Chủng tánh: Gồm có hạ, trung, thượng.

– Bậc hạ: Như nói: “Ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”lại nói: “Ai có biết ngươi đâu, chính là mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là mong kẻ ấy lìa bỏ người kia và thân thiện với mình. Dù họ rời nhau, hoặc không rời nhau đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Cha mẹ của ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”. Lại nói: “Ai có biết ngươi đâu, chính là do Tỉ-kheo mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là mong kẻ ấy rời bỏ người kia để thân thiện với mình. Nếu họ rời nhau hay không rời nhau đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Hòa thượng,, A-xà-lê của ngươi là Chiên-đà-la [326c] (cho đến) là thợ làm da”, cũng phạm Ba-dạ-đề. Nói về bạn hữu tri thức, cũng như vậy. Đó gọi là bậc hạ.

– Bậc trung: Chẳng hạn nói: “Trưởng lão, Ngài thuộc dòng dõi trung lưu, thuộc dòng dõi binh sĩ, dòng dõi ca kỹ”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, chính là do mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là muốn cho người này lìa bỏ người kia, để trở về với mình. Dù họ chia lìa nhau hay không chia lìa đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc trung.

– Bậc thượng: Nếu nói: “Trưởng lão, Ngài là dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”. Lại nói: “Tôi đâu có biết thầy, đó là do mỗ giáp kia nói”, với suy nghĩ là muốn cho người ấy bỏ người kia để về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về chủng tánh.

2- Nghề nghiệp: Gồm có hạ, trung, thượng.

– Bậc hạ: Chẳng hạn nói: “Ngươi làm nghề đồ tể, (cho đến), làm nghề bán nem”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với mong muốn người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc hạ.

– Bậc trung: Chẳng hạn nói: “Ngươi là kẻ bán hương, là người buôn bán, (cho đến) là người đưa tin”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc trung.

– Bậc thượng: Chẳng hạn nói: “Ngươi ở cửa hàng vàng, bạc, (cho đến) ở cửa hàng đồ đồng”, lại bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về nghề nghiệp.

3- Tướng mạo: Gồm có hạ, trung, thượng

– Bậc hạ:: Nếu nói: “Ông là kẻ mù lòa (cho đến) là kẻ răng khểnh”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy, với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc hạ.

– Bậc trung: Nếu nói: “Ông rất đen, rất trắng, rất vàng, rất đỏ”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ, Hòa thượng,, A-xà-lê, bạn hữu quen biết, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó là bậc trung.

– Bậc thượng: Chẳng hạn nói: “Ông có 32 tướng [327a] viên mãn, sáng rỡ sắc vàng”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia hướng về mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về tướng mạo.

4- Bệnh: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả bệnh đều là hạ. Chẳng hạn nói: “Ông bị ghẻ lở, (cho đến) bị điên cuồng”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bệnh.

5- Tội: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả tội đều thuộc về hạ. Chẳng hạn nói: “Ông phạm Ba-la-di, (cho đến) phạm tội Việt-tì-ni”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hũu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề.

6- Mắng: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả sự mắng đều gọi là hạ. Nếu mắng nhiếc những lời ác độc theo kiểu thế gian, như: “Dâm dục, ô uế, xấu xa”, thì dù họ có lìa nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu mắng cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức của người ấy, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là mắng.

7- Kiết sử: Không có hạ, trung, thượng, mà tất cả kiết sử đều gọi là hạ. Chẳng hạn nói: “Ngươi là kẻ ngu si, ám độn, vô tri, giống như cục đất, như con dê, như ngỗng trắng, như chim cú”, nói những lời như vậy, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ngươi mà do mỗ giáp kia nói đó”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là kiết sử.

Nếu nói 2 lưỡi đối với Tỉ-kheo, thì phạm Ba-dạ-đề; nói 2 lưỡi đối với Tỉ-kheo-ni, phạm tội Thâu-lan-giá; đối với Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, phạm tội Việt-tì-ni; đối với người thế tục, phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên).

4. GIỚI: KHƠI LẠI SỰ TRANH CÃI.

Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm sáu Tỉ-kheo biết chúng Tăng như pháp, như luật diệt trừ sự tranh chấp rồi, liền nói:

– Việc ấy chưa xong, phải xử đoán lại. Nhóm 6 Tỉ-kheo nói những lời ấy xong, sự tranh chấp liền khởi lên trở lại, chư Tăng sống không hòa hợp. Các Tỉ-kheo liền đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật hỏi:

– Có thật các ông biết chúng Tăng như pháp [327b], như luật dập tắt sự tranh chấp rồi, bèn làm cho phát sinh trở lại phải không?

– Có thật như vậy.

-Vì sao như thế?

– Chúng con tạo ra sự việc ấy là vì thấy thích thú.

– Này những kẻ ngu si, làm não loạn các bậc phạm hạnh, đó là việc ác, vì sao lại cho là vui? Các ông không từng nghe ta dùng vô số phương tiện khen ngợi những người phạm hạnh thường có tâm từ bi, thân khẩu từ bi hay sao? Do đó, cần phải tôn kính họ. Nay vì sao các ông lại làm việc ác như thế?. Đó là điều phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.

Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

— “Nếu Tỉ-kheo biết Tăng đã như pháp, như luật dập tắt sự tranh cãi rồi mà làm phát sinh trở lại, nói rằng: Việc Yết-ma ấy chưa xong, phải làm lại, chỉ vì lý do như vậy, chứ không có gì khác, thì phạm Ba-dạ-đề”.

Giải thích:

(Một số từ đã được giải thích ở trước)

Sự tranh cãi: Gồm có 4 việc: 1- sự tranh cãi về lời nói; 2- sự tranh cãi do hủy báng; 3- sự tranh cãi về tội phạm; 4- sự tranh cãi về những việc thường làm.

Dập tắt sự tranh cãi đúng pháp đúng luật: Trong 7 cách dập tắt sự tranh cãi nhất nhất đều đã dập tắt đúng pháp, đúng luật, rồi làm phát sinh trở lại mà không có lý do nào chính đáng, thì phạm Ba-dạ-đề.

Ba-dạ-đề: Như trên đã nói.

Bốn sự tranh cãi: 1- sự tranh cãi về lời nói; 2- sự tranh cãi do hủy báng; 3- sự tranh cãi về tội phạm; 4- sự tranh cãi về những việc thường làm.

Sự tranh cãi về lời nói, dùng 3 pháp Tì-ni (nguyên tắc) mỗi mỗi diệt trừ. Ba pháp đó là gì? Đó là: Dùng Hiện-tiền-tì-ni để diệt trừ; dùng Đa-mích-tì-ni để diệt trừ; dùng Bố-thảo (rải cỏ) Tì-ni để diệt trừ.

1- Hiện tiền Tì-ni: Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, bấy giờ các Tỉ-kheo ở Câu Diệm Di đấu tranh nhau, những người cùng sống một chỗ không hòa hợp. Pháp họ bảo là phi pháp; luật bảo là phi luật; tội bảo gọi là không phải tội; tội nặng, tội nhẹ; có thể trị, không thể trị; đúng pháp Yết-ma, phi pháp Yết-ma; Yết-ma có hòa hợp, Yết-ma không hòa hợp; nên làm, không nên làm. Bấy giờ có một Tỉ-kheo ngồi trong ấy nói như sau: “Này các Đại-đức, đó là việc phi pháp, phi luật, không phù hợp với kinh, không phù hợp với luật, không phù hợp với Ưu-ba-đề-xá (luận). Trái với kinh, luật, luận, sinh khởi các sự nhiễm ô, lậu-hoặc; như tôi nói mới đúng là pháp, là luật, là lời Phật dạy, tương ứng với kinh, luật, luận không sinh ra nhiễm ô, Lậu-hoặc. Này các Đại-đức, tôi không thể dập tắt sự tranh cãi này. Tôi phải đến thành Xá Vệ, chỗ Thế Tôn, để hỏi về giải pháp dập tắt sự tranh cãi này”.

Thế rồi, Tỉ-kheo này đi đến chỗ Thế Tôn cúi đầu đảnh lễ [327c] chân Phật rồi đứng một bên, bạch với Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Tỉ-kheo ở Câu Diệm Di đấu tranh nhau, cùng sống một chỗ mà không hòa hợp. Những việc như pháp mà họ bảo là phi pháp, (cho đến) con không thể dập tắt sự tranh đấu ấy, nên đến chỗ Thế Tôn hỏi về phương pháp dập tắt sự tranh đấu ấy. Cúi xin Thế Tôn, vì các Tỉ-kheo mà dập tắt sự tranh đấu ấy.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Ưu Ba Li:

– Ông hãy đến nước Câu Diệm Di dập tắt sự tranh đấu ấy như pháp, như luật, theo nguyên tắc hiện tiền Tì-ni. Này Ưu Ba Li, sự tranh đấu có 3 chỗ khởi lên: Hoặc một người, hoặc nhiều người, hoặc chúng Tăng. Do đó, cũng phải 3 chỗ xả, 3 chỗ thủ, 3 chỗ diệt. Này Ưu Ba Li, ông hãy đến chỗ các Tỉ-kheo tại Câu Diệm Di, dập tắt sự tranh đấu ấy như pháp, như luật, theo nguyên tắc hiện tiền Tì-ni.

Tôn-giả Ưu Ba Li bèn bạch với Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vị Tỉ-kheo thành tựu bao nhiêu pháp thì có thể dập tắt được sự tranh đấu?

Phật nói với Ưu Ba Li:

– Vị Tỉ-kheo thành tựu năm pháp thì có thể dập tắt sự tranh đấu. Năm pháp đó là: Biết việc đó là có thật chứ không phải không có thật; làm vì lợi ích chứ chẳng phải không lợi ích; được mọi người tán thành, chứ chẳng phải không được tán thành; làm một cách công bằng chứ không phải không công bằng; hợp thời chứ chẳng phải không hợp thời.

Này Ưu Ba Li, nếu giải quyết sự việc không hợp thời, thì Tăng hoặc bị phá (bị chia rẽ), hoặc Tăng tranh cãi, hoặc Tăng ly tán. Trái lại, nếu dập tắt sự tranh đấu đúng lúc thì Tăng không bị phá, không tranh cãi, không phân tán. Đó gọi là vị Tỉ-kheo thành tựu năm pháp có thể dập tắt sự tranh đấu, làm cho các vị phạm hạnh thương nhớ, ca ngợi. Nay ông hãy đi đến chỗ các Tỉ-kheo ở Câu Diệm Di, giải quyết việc ấy như pháp, như luật, theo nguyên tắc hiện tiền Tì-ni.

Bấy giờ Tôn-giả Ưu Ba Li bèn đảnh lễ chân Thế Tôn, đi tới chỗ Tỉ-kheo (sứ giả) của Câu Diệm Di, nói:

– Này trưởng lão, hãy trở về lại chỗ có sự tranh chấp, sinh khởi mà dập tắt ngay tại đó, chứ không giải quyết sự việc ở đây. Vì sao vậy? Vì ở đây chúng Tăng hòa hợp, hoan hỉ, không tranh chấp, cùng sống chung, không nên nhiễu loạn họ.

Khi ấy, Tỉ-kheo (sứ giả) của Câu Diệm Di liền bạch với Tôn-giả Ưu Ba Li:

– Thưa Đại-đức, nếu tôi có thể dập tắt sự tranh chấp tại đó được thì đã không tới đây. Nguyện xin Tôn-giả vì tôi mà đến đó dập tắt sự tranh chấp ấy.

Ưu Ba Li nói:

– Nếu tôi đến đó thì việc gì đáng làm Yêt-ma, tôi sẽ làm Yết-ma, việc gì đáng trị phạt thì sẽ trị phạt, hoặc đáng làm Yết-ma chiết phục, Yết-ma không nói, Yết-ma Ma-na-đỏa, Yết-ma A-phù-ha-na, có những lỗi lầm như vậy, như vậy, tôi sẽ làm Yết-ma như vậy, để trị phạt. Khi ấy, các Vị chớ nên sinh tâm không vui.

Vị Tỉ-kheo sứ giả ấy liền bạch với [328a] Tôn-giả Ưu Ba Li:

– Nếu chúng tôi có những lỗi lầm như vậy, thì sẽ chịu những sự trị phạt như vậy, trong lòng chẳng có gì là không vui.

Khi ấy Tôn-giả Ưu Ba Li bèn trở lại chỗ Phật, bạch với Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn! Muốn dập tắt sự tranh chấp của các Tỉ kheo ấy phải dụng tâm như thế nào?

Phật nói với Ưu Ba Li:

– Muốn dập tắt sự tranh chấp thì trước hết phải trù tính năng lực của bản thân mình, năng lực phước đức, năng lực biện tài và năng lực vô úy và biết rõ sự duyên sinh khởi. Tỉ-kheo trước hết phải tự suy nghĩ xem mình có những khả năng như vậy không. Nếu thấy sự tranh chấp ấy khởi lên chưa lâu; tâm người đó nhu nhuyến, sự tranh chấp có thể dễ dập tắt, thì Tỉ-kheo này, lúc ấy mới dập tắt sự tranh chấp. Trái lại, nếu tự tư duy thấy mình không có các khả năng trên, sự tranh chấp khởi lên đã lâu, người ấy cang cường, không thể dập tắt nhanh được, thì nên tìm một Tỉ-kheo có đức vọng cùng với mình dập tắt việc ấy. Nếu không có Tỉ-kheo có đức vọng, thì nên tìm một Tỉ-kheo đa văn. Nếu không có Tỉ-kheo đa văn thì nên tìm một Tỉ-kheo ở A Luyện Nhã. Nếu không có Tỉ-kheo ở A Luyện Nhã, thì nên tìm một Ưu-bà-tắc có thế lực lớn. Vị Tỉ-kheo tranh chấp kia thấy Ưu-bà-tắc rồi, tâm sẽ sinh xấu hổ, thì sự tranh chấp dễ dập tắt. Nếu không có Ưu-bà-tắc như vậy, thì nên nhờ nhà vua, hoặc vị đại thần có thế lực. Khi ấy, Tỉ-kheo tranh chấp kia thấy người hào quí có thế lực như vậy, thì tâm sinh kính sợ, do đó, sự tranh chấp dễ dập tắt. Nếu sự tranh chấp được dập tắt vào mùa đông, thì nên đem đến chỗ không có giá lạnh, khí hậu ấm áp, một nơi vắng vẻ. Khi Tỉ-kheo khách đến, nên cung cấp lò sưởi. Nếu vào mùa xuân, nên đem đến một nơi mát mẻ, sắp giường ghế dưới gốc cây, trang bị nước lạnh, nước giải khát, nên dùng quạt để quạt. Nếu vào mùa hạ nên đem đến một nơi cao ráo mát mẻ, và cung cấp các thứ cần thiết theo thời. Bấy giờ, nên cử một Tỉ-kheo có khả năng và có trí tuệ, biết rõ nhân duyên sự việc, không khiếp sợ, không tìm lỗi người, không sợ số đông. Nếu có Ưu-bà-tắc đến, nên tán thán công đức làm cho chúng Tăng hòa hợp, lại nói với Ưu-bà-tắc: “Như đức Thế Tôn nói, một pháp xuất hiện ở đời khiến cho trời người khổ não, trời người bất lợi. Một pháp đó là: Phá hoại, làm rối loạn chúng Tăng, đến khi thân hoại mệnh chung sẽ rơi thẳng vào địa ngục”.

Lại nữa, này Ưu-bà-tắc, như đức Thế Tôn nói: “Một pháp xuất hiện ở đời khiến cho trời người an lạc, trời người được lợi. Một pháp đó là: Làm cho chúng Tăng hòa hợp, thì sau khi thân hoại mệnh chung sẽ sinh vào cõi Thiện, trên cõi trời, hoặc trong cõi người. Như vậy đó Ưu-bà-tắc, muốn được công đức lớn, nên làm cho chúng Tăng hoà hợp”.

Khi 2 nhóm trình bày, thầy Tỉ-kheo này (người xử đoán) phải xem xét sự việc cặn kẽ, ghi nhớ từng lời nói, từng câu, từng chữ, từng ý nghĩa. Bấy giờ trong hội chúng có một Tỉ-kheo không phải Thất-lại-tra (?) mà giả bộ Thát-lại- tra, nói như sau:

– Tôi nghe các Đại-đức trước kia nói: [328b] Những lời như vậy mà giờ đây lại nói những lời như vậy là không ăn khớp nhau.

Nếu thấy người này tính tình nhu nhuyến có thể chiết phục được thì nên nói giữa chúng Tăng như thế này để ông ta hổ thẹn: “Ông là kẻ bất thiện, gây nên việc bất hòa, làm cho chúng Tăng không hòa hợp. Hôm nay vì việc đó mà phải tập trung tại đây”. Trái lại, nếu đó là người ác tính, tính cang cường cố chấp, có thể làm tăng thêm sự tranh đấu, thì nên nói nhỏ nhẹ bằng những lời sau: “Trưởng lão, hôm nay chúng Tăng tập họp là để dập tắt sự tranh đấu, vậy trưởng lão nên hợp tác với tôi để dập tắt sự tranh đấu này”. Nếu thấy tâm ý của Tỉ-kheo ấy đã nhu nhuyến rồi thì bấy giờ vị Tăng đoán sự (người xử đoán) nói với thầy Tỉ-kheo hữu sự thế này: “Giờ ông hãy trình bày sự việc đó”.

Rồi Tỉ-kheo ấy nói như sau: “Nay tôi trình bày sự việc này, mong chúng Tăng giải quyết cho tôi đúng pháp, đúng luật”.

Bấy giờ, Tỉ-kheo đoán sự nên khiển trách người này bằng những lời sau, để cho ông hổ thẹn: “Ông là kẻ bất thiện, có chúng Tăng nào lại dùng điều phi pháp, phi luật để giải quyết công việc!”. Nếu Tỉ-kheo ấy nói: “Tôi không định nói như thế với chúng Tăng, mong chúng Tăng hãy dạy bảo tôi về những cách thức”.

Bấy giờ người đoán sự nên dạy ông ta nói thế này: “Nay tôi trình bày nguyên nhân của sự tranh chấp này, tùy theo chúng Tăng chỉ dạy, tôi sẽ phụng hành”.

Nếu Tỉ-kheo ấy không theo lời nói mà Tăng chỉ dạy, thì nên nói với ông: “Nếu ông không vâng lời Tăng chỉ dạy, thì tôi sẽ lấy biểu quyết giữa Tăng, đuổi ông ra khỏi chúng”.

Nếu Tỉ-kheo ấy vẫn không chịu vâng lời, thì bấy giờ nên bảo một Ưu-bà-tắc hỏi ông ta: “Ông có chịu nghe lời Tăng dạy không? Nếu ông không chịu nghe lời, tôi sẽ áp dụng luật pháp của bạch y đối với ông, đuổi ông ra khỏi thành ấp xóm làng”.

Nếu biết sự tranh chấp của Tỉ-kheo ấy là sự tranh chấp nhỏ nhặt, thì Tăng có thể dập tắt sự tranh chấp trước mặt Ưu-bà-tắc. Nếu sự việc ấy bỉ ổi, xấu xa thì nên khuyên nhủ Ưu-bà-tắc ra khỏi hội chúng, rồi Tăng mới tùy theo sự thật, áp dụng hiện tiền Tì-ni mà diệt trừ sự việc ấy đúng pháp, đúng luật, đúng theo kinh giáo.

Bấy giờ, Tôn giả A Nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là dùng hiện tiền Tì-ni để dập tắt tranh chấp?”

Phật nói với A Nan: “Này A Nan, những sự tranh cãi của Tỉ-kheo gồm có: Như pháp, phi pháp; như luật, phi luật; tội, chẳng phải tội; tội nhẹ, tội nặng; tội có thể trừng trị, tội không thể trừng trị; như pháp Yết-ma, phi pháp Yết-ma; hòa hợp Yết-ma, không hòa hợp Yết-ma; Yết-ma nên làm, Yết-ma không nên làm. Này A Nan, nếu có những việc như thế phát sinh, thì nên nhanh chóng tập họp Tăng, tập họp Tăng rồi, kiểm điểm sự việc, như pháp, như luật, như kinh giáo, tùy theo sự thật mà áp dụng hiện tiền Tì-ni để diệt trừ. Nếu hội đủ 5 điều phi pháp (sau đây) thì không thành hiện tiền Tì-ni. Thế nào là năm? Đó là: Bất hiện tiền dữ (giải quyết sự việc không có mặt đương sự); [328c] không hỏi; không nhận lỗi; không đúng pháp; giải quyết việc không hòa hợp. Đó gọi là 5 điều phi pháp, áp dụng hiện hiền Tì-ni nên không thành. Nếu thành tựu 5 pháp thì mới thành áp dụng hiện tiền Tì-ni. Năm pháp đó là: Có sự hiện diện của đương sự; hỏi; nhận lỗi; đúng pháp; giải quyết sự việc trong sự hòa hợp.

Đó gọi là 5 pháp thành tựu áp dụng hiện tiền Tì-ni, như vậy đó A Nan, như pháp, như luật, như Phật dạy.

Khi áp dụng hiện tiền Tì-ni để dập tắt sự tranh chấp rồi, nếu có khách Tỉ-kheo, hoặc Tỉ-kheo ra đi, hoặc Tỉ-kheo gởi dục, hoặc Tỉ-kheo không gởi dục, hoặc Tỉ-kheo mới thọ giới, hoặc Tỉ-kheo đang ngồi ngủ gục, những Tỉ-kheo này nói như sau: “Yết-ma như vậy là không tốt, trái với Phật, pháp, Tăng giống như trâu dê, Yết-ma bất thiện, Yết-ma không thành tựu”. Này A Nan, do nói như thế mà sự tranh chấp khởi lên trở lại, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Đó gọi là tướng ngôn tránh (sự tranh cãi do những lời bắt bẻ).

Dùng hiện tiền Tì-ni để dập tắt sự tranh cãi do hủy báng: Nếu Tỉ-kheo không thấy, không nghe, không nghi Tỉ-kheo khác phạm 5 thiên tội: Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Việt-tì-ni mà dùng 5 thiên tội ấy hủy báng, đó gọi là sự tranh cãi do hủy báng. Trong trường hợp này nên dùng 2 pháp Tì-ni là “Ức niệm Tì-ni”và “Bất si Tì-ni”để dập tắt.

2- Ức niệm Tì-ni: Khi Phật an trú tại thành Vương Xá, Tỉ-kheo-ni Từ Địa làm điều phi phạm hạnh, bị mang thai, bèn đến chỗ nhóm 6 Tỉ-kheo nói như sau: “Tôi làm việc phi phạm hạnh, nay bị mang thai, Tôn-giả có hiềm thù với ai, tôi sẽ vu cáo họ giúp cho”.

Nhóm 6 Tỉ-kheo nói: “Lành thay này chị em, nay muốn làm việc lợi ích cho chúng tôi. Này chị em, Đà-phiêu-ma-tử là kẻ thù suốt đời của chúng tôi, đã cho chúng tôi phòng ở dột nát, cung cấp mền gối không tốt, và thức ăn uống thô xấu. Nếu người này còn sống lâu trong nếp sống phạm hạnh, thì chúng tôi còn chịu khổ dài dài. Cô hãy chờ ngày chay, khi đại chúng thuyết pháp, rồi cô đến giữa đại chúng tố cáo Tỉ-kheo ấy đã làm điều phi phạm hạnh (đã giao hợp) với cô”.

Cô ấy đáp: “Tôi sẽ làm như lời Tôn-giả dạy”.

Thế rồi, Tỉ-kheo-ni ấy, vào các ngày mồng 8, 14, 15 lúc đại chúng thuyết pháp, bèn đến trước chúng, nói như sau: “Này Tôn-giả (Đà phiêu), hãy sắm các thức ẩm thực như sữa, dầu, nếp.v.v., và sửa chữa phòng ốc, tìm người hộ sinh giúp cho tôi, vì tôi sắp đến lúc sinh nở”.

Trưởng lão (Đà Phiêu) đáp: “Này cô, cô hãy tự biết, tôi không có việc ấy”.

Tỉ-kheo-ni Từ Địa lại nói: “Kỳ quái! Kỳ quái! Ông là kẻ trượng phu (nhân tình của tôi) sớm đi, tối đến, cùng với tôi chăn gối, mà giờ đây lại nói: “Tôi không có việc ấy”. Chớ có nhiều lời, hãy sắm cho tôi các thứ sữa, dầu .v..v.., Vì giờ sinh nở của tôi đã đến”.

[329a] Trưởng lão lại nói: “Cô tự biết lấy. Tôi không có việc đó”, nói như thế 3 lần, rồi bỏ đi.

Khi ấy trong dân chúng, những người không tin Tam bảo thì liền suy nghĩ: “Hai người này đều còn trẻ tuổi, ắt có việc đó”. Còn những người có ít lòng tin thì đều sinh nghi ngờ: Chẳng biết có hay không. Trái lại, những người có lòng tin kiên cố, thì nói: “Tôn-giả này đã diệt xong 3 độc, ác pháp đã đoạn tận vĩnh viễn, không thể có việc ấy”.

Bấy giờ, những tiếng xấu về Tôn-giả Đà Phiêu Ma La Tử làm điều phi phạm hạnh được truyền đi khắp nơi, ở chỗ kín đáo cũng nghe, ở chỗ nhiều người cũng nghe, ở giữa chúng Tăng cũng nghe. Các Tỉ-kheo bèn đem sự kiện ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bảo:

– Này các Tỉ-kheo, những tiếng xấu đồn về Đà Phiêu Ma La tử làm điều phi phạm hạnh được truyền đi khắp nơi, vậy các ông phải đến chỗ kín đáo hỏi 3 lần, ở chỗ đông người hỏi 3 lần, ở giữa chúng Tăng hỏi 3 lần. Tại chỗ kín đáo nên hỏi như sau: “Trưởng lão Đà-phiêu-ma-la-tử, Tỉ-kheo-ni Từ Điạ đã nói như thế đó, thầy có biết chăng?”Nếu lúc ấy, trưởng lão nói: “Tôi không biết mình có làm hay không cũng không nhớ nữa”, thì phải hỏi như vậy đến lần thứ 2, thứ 3, rồi hỏi ở chỗ nhiều người 3 lần cũng như vậy, rồi lại hỏi ở giữa chúng Tăng: “Trưởng lão Đà Phiêu Ma La Tử, Tỉ-kheo-ni Từ Địa đã nói như thế, thầy có biết việc đó không?”. Nếu đáp: “Tôi không biết mình có làm hay không cũng không nhớ nữa”, thì lần thứ 2, thứ 3 cũng hỏi như vậy”.

(Sau khi đã làm theo lời Phật dạy) Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Đà Phiêu Ma La Tử đã được hỏi ở chỗ kín đáo 3 lần, ở chỗ nhiều người 3 lần, ở giữa chúng Tăng 3 lần, ông đều nói: “Tôi không biết có làm hay không cũng không nhớ nữa”.

Khi ấy, Phật nói với các Tỉ-kheo: “Ông Đà Phiêu Ma La Tử này thanh tịnh, không có tội. Còn Tỉ-kheo-ni Từ Địa tự nói mình phạm tội thì phải khu xuất”.

Bấy giờ, các Tỉ-kheo-ni ở tại thành Vương Xá hiềm trách Thế Tôn như sau: “Xem ra việc xử đoán ấy không công bằng. Cả 2 người đều phạm tội, vì sao lại giữ Tỉ-kheo, đuổi Tỉ-kheo-ni! Nếu cùng có tội thì cùng đuổi, nếu không có tội thì đều giữ lại. Vì sao Thế Tôn lại đuổi một, giữ một?”

Các Tỉ-kheo liền đem sự kiện ấy đến bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật bèn bảo A Nan: “Ông đi gọi các Tỉ-kheo-ni Tăng đang sống tại thành Vương Xá đến cả đây”.

Thế rồi, A Nan vâng lời Thế Tôn, đi đến chỗ các Tỉ-kheo-ni Tăng nói như sau: “Này các chị em, đức Thế Tôn cho gọi các vị!”

Lúc ấy, các Tỉ-kheo-ni nói với tôn giả A Nan: “Chúng tôi chẳng có duyên sự gì ở chỗ Thế Tôn, vì sao lại gọi đến? Nếu có sự duyên thì không gọi, chúng tôi cũng đến. Tôn-giả hãy trở về. Chúng tôi không có duyên sự nên không thể đến”.

Bấy giờ, A Nan bèn suy nghĩ: “Đây thật là điều lạ lùng! Nhờ ân đức của Thế Tôn mới được xuất gia [329b] hành đạo, thế mà vì sao đối với Phật không khởi tâm kính trọng, không vâng theo mệnh lệnh?”. Thế rồi, A Nan trở về lại chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đem sự tình ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật liền bảo A Nan: “Ông hãy đến nói với các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá rằng: Các ngươi có lỗi, Thế Tôn ra lệnh cho các ngươi ra đi, không được ở đây”.

A Nan vâng lời dạy, liền đến chỗ Tỉ-kheo-ni nói như sau: “Này các chị em, các ngươi có lỗi, đức Thế Tôn ra lệnh các ngươi phải đi, không được ở đây nữa”.

Các Tỉ-kheo-ni trả lời tôn giả A Nan: “Chúng tôi không có duyên sự gì ở ngoài thành nên không đi đâu hết; nếu có duyên sự thì không cần ra lệnh cũng tự ra đi”.

Bấy giờ A Nan suy nghĩ: “Thực là lạ kì, nhờ ân đức của Thế Tôn mà được xuất gia tu hành, vì sao đối với Phật lại không có tâm kính trọng, bảo đến không đến, khiến đi cũng không đi! “

Thế rồi, A Nan bèn trở về chỗ Phật cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đem sự tình ấy bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật nói với A Nan: “Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, nếu đối với các Tỉ-kheo, Tỉ- kheo-ni Tăng ở các thành ấp thôn xóm mà bảo đến không đến, khiến đi cũng không đi, thì Như Lai phải tự mình đi lánh (nạn). A Nan, ông hãy lấy y Tăng-già-lê đưa đây”.

Khi ấy, Tôn giả A Nan bèn trao y Tăng-già-lê cho Thế Tôn. Thế rồi, vào giữa trưa, Thế Tôn không nói với các Tỉ-kheo-tăng, chỉ đem theo A Nan, đi qua thôn xóm có cư sĩ Ngũ-Thông, hướng về thành Xá Vệ. Bấy giờ, Vua A Xà Thế con bà Vi Đề Hi, sau khi sát hại phụ vương, ôm lòng ưu sầu cực độ, hằng ngày thường đến Thế Tôn sám hối 3 lần, vào bình minh, giữa trưa và buổi chiều. Ông sám hối sớm mai rồi giữa trưa lại đến mà không thấy Thế Tôn, bèn hỏi các Tỉ-kheo: “Thế Tôn đang ở đâu?”.

Các Tỉ-kheo đáp: “Thế Tôn đã đi rồi”.

Nhà vua nói: “Đức Thế Tôn mỗi lần đi đâu một tháng, nửa tháng đều nói với tôi. Nay vì nhân duyên gì mà im lặng ra đi?”

Khi ấy các Tỉ-kheo đã nghe được Phật nói, bèn đáp: “Thưa đại Vương, các Tỉ-kheo-ni ở Thành Vương Xá không vâng theo mệnh lệnh của Thế Tôn, gọi đến không đến, khiến đi cũng không đi, như thế đó Đại Vương có biết không, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, nếu đối với các Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni Tăng đang sống tại các thành ấp xóm làng mà bảo đến không đến, khiến đi cũng không đi, thì Như Lai bèn tự mình đi ẩn lánh. Ngày nay các Tỉ-kheo-ni Tăng tại thành Vương Xá không vâng theo lời Phật dạy, vì vậy Thế Tôn im lặng mà đi”.

Nhà vua nghe lời trình bày, cực kỳ giận dữ, bèn ra lệnh cho các quan: “Hiện giờ trong lãnh thổ của ta có bao nhiêu Tỉ-kheo-ni Tăng phải đuổi đi tất cả”.

Khi ấy, có vị quan trí tuệ liền can nhà vua: “Không phải tất cả Tỉ-kheo-ni trong lãnh thổ đều có lỗi, mà chỉ có Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá trái lời dạy của Thế Tôn mà thôi”.

Nhà Vua bèn chấp nhận lời can của [329c] vị đại thần, ra lệnh quan Hữu ty đuổi các Tỉ-kheo-ni tại thành Vương Xá đi. Lúc ấy, quân lính bèn cầm cây gậy đất đá ngói gạch, đánh ném các Tỉ-kheo-ni, đuổi ra khỏi kinh thành, dùng những lời trách cứ thế này: “Các ngươi là những kẻ tệ ác, nhờ ân đức của Thế Tôn mới được xuất gia tu hành, thế mà không biết cung kính, trái lời Phật dạy, hãy rời khỏi đây nhanh, hỡi những mụ già tệ ác. Vì các ngươi mà chúng ta không gặp Thế Tôn, không nghe chánh pháp. Các ngươi hãy đi nhanh, không được ở đây nữa”.

Bấy giờ tại các thôn làng, dân chúng thấy sự kiện như vậy, đều từ xa mắng rằng: “(cho đến) Khiến chúng ta không gặp Thế Tôn, không nghe chánh pháp. Các ngươi hãy ra đi nhanh, không được ở đây nữa”.

Khi ấy, Ưu Đà Di cũng cầm gậy xua đuổi các Tỉ-kheo-ni, và cũng trách cứ những lời như trên. Nhà vua bèn ra lệnh cho các quan: “Các ngươi thấy Tỉ-kheo-ni nào đi theo đức Thế Tôn thì phải tìm cách bảo vệ họ, để cho họ được yên ổn. Nếu họ đi về hướng khác thì tùy ý họ, không cần phải bảo vệ”.

Khi các Tỉ-kheo-ni ra khỏi thành rồi, người nào cũng đều nói: “Nếu chúng ta đi tới những phương khác thì ở đâu cũng đều bị xua đuổi, không có chỗ nào ở được. Vậy, giờ đây chúng ta nên đi theo sau đức Thế Tôn”.

Do vậy, nơi nào đức Thế Tôn buổi sớm ra đi, thì các Tỉ-kheo-ni buổi chiều tới đó. Như vậy ở trên đường đi thường cách nhau một ngày.

Bấy giờ, Thế Tôn vì muốn hóa độ nên đi qua xóm làng có cư sĩ Ngũ-thông hướng về thành Xá Vệ. Cư sĩ Ngũ-thông theo lệ thường hễ nghe Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni tới thì đi cách một do tuần đón rước và dâng các thức cúng dường. Bấy giờ, ông nghe các Tỉ-kheo-ni kia sắp đến, liền nhập định quan sát xem các Tỉ-kheo-ni vì nhân duyên gì mà đến. Quán sát rồi, ông thấy rằng các Tỉ-kheo-ni ấy tất cả đều có lỗi, đều bị trị phạt đuổi đi, chưa được giải tội, chẳng phải là khí cụ thanh tịnh, không có phần nào thánh pháp. Quán sát thấy thế nên ông không đến nghênh đón và dâng các thức cúng dường. Các Tỉ-kheo-ni lần lượt hỏi thăm, bèn tìm đến được nhà ông, nói: “Các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá nay đang ở ngoài cửa, xin báo cho cư sĩ biết”.

Cư sĩ bèn ra lệnh cho những người giúp việc giao cho (các Tỉ-kheo-ni) nhà dột, mền gối rách nát, không cung cấp nước nóng, nước rửa chân và dầu thoa chân, cũng không cho nước uống phi thời, cũng không hỏi thăm, an ủi, ban đêm không thắp đèn, sáng sớm không cung cấp tăm xỉa răng và nước sạch, và đưa cho các thứ ẩm thực thô sơ. Họ ăn rồi, liền bảo đi nhanh.

Các Tỉ-kheo-ni rời khỏi nhà ông rồi liền bảo nhau: “Tôi nghe nói ông cư sĩ này thường có tín tâm, cung kính cúng dường chúng Tăng, nhưng nay xem ra thì không có lòng kính tín”.

Trong số họ, có một Tỉ-kheo-ni bảo với mọi người: “Thôi im đi các dì! [330a] Hãy tự quán sát chính mình. Chúng ta đã trái lời dạy của Thế Tôn, được cúng dường như thế là quá lắm rồi”.

Thế rồi, các Tỉ-kheo-ni dần dần đi tới, đến thành Xá Vệ, tới chỗ A Nan, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng qua một bên, bạch vớiù A Nan: “Chúng tôi muốn được yết kiến Thế tôn để đảnh lễ thăm hỏi, mong Tôn-giả hãy vì Tỉ-kheo-ni Tăng mà bạch giúp Thế Tôn, xin thương xót hứa cho”.

A Nan đáp: “Lành thay này các chị!”Liền đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân đứng qua một bên, bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá muốn đến hầu Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép, con sẽ gọi đến”.

Phật nói với A Nan: “Ông chớ bảo Tỉ-kheo-ni Tăng ở Vương Xá đến gặp Ta”.

A Nan nói: – Lành thay!

Rồi lễ Phật, trở lại chỗ các Tỉ-kheo-ni, nói: “Này các chị, đức Thế Tôn dạy không cho các vị tới”.

Rồi thầy xin đến lần thứ 2, thứ 3 cũng như vậy.

Phật liền nói với A Nan: “Vì sao ông tỏ ra ân cần đối với Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá đến như thế?”

A Nan liền bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không nghĩ họ là Tỉ-kheo-ni, mà Thế Tôn gọi đến không đến, khiến đi không đi, nhưng vì Thế Tôn đã nhắc đến Tỉ-kheo-ni Tăng ở thành Vương Xá với một lý do khác. Chính vì Tăng (đoàn) cho nên con mới ân cần”.

Phật nói: “Ta cho phép Tỉ-kheo-ni Tăng ở thành Vương Xá đến đây”.

A Nan liền trở về chỗ các Tỉ-kheo-ni, nói: “Các chị được lợi ích rất lớn! Vì Thế Tôn đã cho phép các vị tới hầu”.

Các Tỉ-kheo-ni nghe thế rồi, liền khen ngợi: “Lành thay, lành thay A Nan!”, rồi đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng qua một bên, bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con bất thiện, dại dột như trẻ con, không biết ruộng phước, không biết ân tình, chẳng vâng lời Thế Tôn dạy. Nay chúng con đã tự thấy biết tội lỗi. Kính xin Thế Tôn nhận sự hối lỗi của chúng con”.

Phật liền nói với các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá: “Các ngươi bất thiện, dại dột như trẻ con, không biết ruộng phước, chẳng biết ân tình, Thế Tôn (Ta) gọi đến không đến, khiến đi cũng không đi. Nay các ngươi đã tự thấy lỗi lầm, Ta cho phép các ngươi sám hối. Trong giáo pháp của bậc thánh, ai có thể hối lỗi thì căn lành tăng trưởng. Từ nay trở đi chớ có phạm trở lại”.

Nếu Tỉ-kheo-tăng như pháp gọi Tỉ-kheo-ni Tăng, thì Tỉ-kheo-ni Tăng đúng pháp phải đến liền, nếu không đến, thì phạm tội Việt-tì-ni. Do đó, Tỉ-kheo-tăng được phép ngăn Tỉ-kheo-ni Tăng này Bố tát, tự tứ, hoặc khi họ đến thì không cho vào cửa.

Nếu Tỉ-kheo-tăng như pháp gọi nhiều Tỉ-kheo-ni, hoặc gọi một Tỉ-kheo-ni thì cũng như vậy.

Nếu nhiều Tỉ-kheo như pháp gọi Tỉ-kheo-ni Tăng, thì đúng pháp Tỉ-kheo-ni Tăng phải đến, nếu không đến thì phạm tội Việt-tì-ni. Do đó, phải ngăn những Tỉ-kheo-ni này [330b] Bố tát, tự tứ, hoặc khi họ đến, thì không cho vào cửa.

Nếu nhiều Tỉ-kheo như pháp gọi nhiều Tỉ-kheo-ni, hoặc gọi một Tỉ-kheo-ni cũng như vậy.

Nếu một Tỉ-kheo như pháp gọi Tỉ-kheo-ni Tăng, hoặc gọi nhiều Tỉ-kheo-ni, hoặc gọi một Tỉ-kheo-ni thì Tỉ-kheo-ni đúng pháp phải đến, nếu không đến thì phạm tội Việt-tì-ni. Do đó, cần phải ngăn Tỉ-kheo-ni này Bố tát, tự tứ, hoặc lúc họ đến thì không cho vào cửa.

Nếu Ni Tăng, hoặc nhiều Tỉ-kheo-ni, hoặc một Tỉ-kheo-ni hướng về Tỉ-kheo-tăng, hướng về nhiều Tỉ-kheo, hướng về một Tỉ-kheo sám hối lỗi lầm thì cũng như trong pháp hướng về Phật sám hối lỗi lầm trước kia đã nói rõ.

Khi ấy, Thế Tôn vì các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá tùy thuận thuyết pháp, chỉ dạy khiến họ được lợi ích, vui vẻ. Do thế một Tỉ-kheo-ni đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Phật liền nói với các Tỉ-kheo-ni: “Các ngươi hãy trở về men theo con đường cũ, nếu cư sĩ Ngũ-thông có chỉ bảo điều chi thì hãy thọ trì”.

Bấy giờ, các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá liền trở về ngang qua thôn Ngũ-thông. Lúc ấy, cư sĩ Ngũ-thông liền nhập định, quán sát thấy các Tỉ-kheo-ni này đã hướng về Phật sám hối, đều được thanh tịnh, thành tựu pháp khí. Thế nên, theo thường lệ, ông ngồi xe ngựa trắng đi một do tuần nghênh đón, từ xa trông thấy các Tỉ-kheo-ni Tăng, bèn xuống xe, đi bộ, trật vai áo bên phải, quỳ gối phải trên đất, chấp tay bạch rằng: “Lành thay quí Ni-sư, đi đường không vất vả đấy chứ?”.

Thế rồi, ông mời các Tỉ-kheo-ni đi trước, ông đi theo sau mà trở về. Khi về đến nhà, ông cung cấp phòng ở và giường nệm ngọa cụ mới đẹp, lại cung cấp nước nóng, nước rửa chân, dầu thoa chân, nước giải khát, buổi tối thắp đèn, an ủi hỏi thăm rằng: “Quý Ni-sư hãy nghỉ ngơi yên ổn”.

Thế rồi, vào buổi sáng sớm, ông cung cấp tăm xỉa răng, nước rửa mặt và cháo sáng, đến giờ ăn lại dâng các thức ẩm thực thích hợp. Sau khi họ ăn xong, ông trật vai áo bên phải, quỳ gối phải trên đất, chấp tay bạch rằng: “Nay con xin mời quý Ni-sư an cư mùa hạ, con sẽ cung cấp các thứ cần thiết như y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc chữa bệnh, và sẽ chỉ bảo cho các cô đọc tụng kinh kệ, chỉ trừ việc Bố- tát, Tự-tứ”.

Bấy giờ các Tỉ-kheo-ni liền suy nghĩ: “Nay đã đến ngày 12 tháng 4, việc Hạ-an cư đã gấp rút, hơn nữa, đức Thế Tôn đã dạy chúng ta phải lãnh giáo Ngũ-thông cư sĩ”. Suy nghĩ thế rồi, họ liền chấp nhận an cư mùa Hạ tại đấy. Và hàng ngày cư sĩ thuyết giảng về Tứ-niệm-xứ cho các Tỉ-kheo-ni. Các Tỉ-kheo-ni nghe được pháp đó rồi, thì đầu đêm, cuối đêm tinh cần không biếng nhác, tụ tập thánh đạo, thành tựu quả chứng. Sau khi thọ Tự-tứ xong, các Tỉ-kheo-ni suy nghĩ: “Chúng ta [330c] hãy đi đến Thế Tôn, đảnh lễ thăm hỏi và trình bày quả chứng”. Nghĩ thế rồi, các Tỉ-kheo-ni bèn hướng về thành Xá Vệ đi đến chỗ A Nan, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng qua một bên, bạch với Tôn giả A Nan: “Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri vì các Thanh-văn giảng Tứ Niệm Xứ, chúng tôi đầu đêm, cuối đêm tinh tấn không lười biếng, tu tập thánh đạo, thành tựu quả chứng”. Nói như thế rồi họ bèn trở về trú xứ.

Sau khi các Tỉ-kheo-ni đi không bao lâu, tôn giả A Nan bèn đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, đứng hầu một bên, đem những gì mà các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá đã nói, trình bày đầy đủ với Thế Tôn, cho đến việc tu đạo, chứng quả. Sau khi trình bày xong, thầy liền bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Việc ấy như thế nào xin Thế Tôn-giải thích rõ”.

Phật liền nói với A Nan: “Đúng như các Tỉ-kheo-ni đã nói chân thật không khác. Tại vì sao? Là vì, nếu Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, ai có khả năng tu tập Tứ Niệm Xứ một cách tinh cần, thì tất cả đều thành tựu, chứng quả, như trong kinh Tứ Niệm Xứ đã nói rõ”.

Khi ấy các Tỉ-kheo liền bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà các Tỉ-kheo-ni ở thành Vương Xá không biết tri ân đối với Thế Tôn? Rồi khi tới thành Xá Vệ, lại đi thẳng đến chỗ A Nan mà không hầu thăm Thế Tôn, khiến cho Ưu Đà Di phải cầm gậy gộc xua đuổi, rồi tôn giả A Nan ân cần giải cứu, xin Thế Tôn giải thích rõ việc ấy”.

Phật liền nói với các Tỉ-kheo: “Các Tỉ-kheo-ni không những ngày nay đối với Ta không biết tri ân, khiến Ưu Đà Di cầm gậy xua đuổi, rồi A Nan ân cần cầu xin Ta giải cứu mà trong đời quá khứ cũng đã từng có như thế, như trong Kinh Bổn Sinh Tượng Vương đã nói rõ”.

    Xem thêm:

  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 13 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 11 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 08 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 10 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 01 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 15 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 14 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 39 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 36 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 03 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 37 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 18 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 17 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 06 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 29 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 16 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 20 - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 35 - Luật Tạng
  • Luật Tứ Phần – Phần 3: Tăng Sự – Chương 4. Tự Tứ - Luật Tạng
  • Luật Ma Ha Tăng Kỳ – Quyển 28 - Luật Tạng