Kinh Đà La Ni Thánh Tối Thắng

Tống Thi Hộ dịch,

Bản Việt dịch của Huyền Thanh

*

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại Tịnh Xá Ngu Di Nẵng trong đại thành Tinh Tả thuộc nước Ba La Bát Đa. Qua Hạ đó xong, đến ngày 20 tháng 9 có một vị Bật Sô tên là Phộc Dã Khư Nẵng . Thời vị Bật Sô ấy ra khỏi đại thành Tinh Tả đến một nơi cách thành Chi Na khoảng bốn do tuần , nhìn thấy một Đại Nhân đứng giữa đường, thân dài ba trượng, mặt dài bốn xích (4 thước Tàu) thì biết đó là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nên liền lễ bàn chân , quỳ dài, chắp tay bạch với Bồ Tát rằng :”Vì sao hiện thân mà đi đến chốn này ? Aét có Nhân Duyên chi ? ”

Bồ Tát đáp rằng:”Như thị ! Như thị ! Này Bật Sô ! Các hàng chúng sinh trong cõi Đêm Phù Đề này đang có bệnh khổ. Nhóm A Tu La, CA Lâu La trụ ở một mặt của núi Tu Di (Tu Di Sơn Vương) với các người Trời đang cùng nhau giao chiến. Thế nên Mặt Trời, mặt trăng không có ánh sáng, Tinh Thần (các vì sao) chẳng hiện.

Người Trời bị thua, Tu La được thắng. Thời các Quỷ Thân Thần nhân đây được dịp thuận tiện hố hình người nữ gây não loạn chúng sinh, sinh các bệnh tật : Hoặc đau đầu, đau bụng, đau mắt tai mũi… Hoặc sinh ung nhọt, rôm sảy, chứng tràng nhạt, bệnh trĩ, bệnh lậu, ghẻ lở, bệnh cùi hủi, nổi nhọt bọc, Hắc Lào … Hoặc lại bị bệnh sốt rét phát theo thời hoặc cách mộc ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày phát bệnh một lần. Cho đến bệnh trúng gió, bệnh vàng da, bệnh đàm rãi, bệnh đau bộ phận sinh dục , tất cả bệnh ác

Lại bên trong cõi Diêm Phù Đề , tuôn mưa gió lớn . Hoặc lạnh, hoặc nóng, hoặc lụt lội, hoặc hạn hán .. Ngũ Cốc chẳng nhiều , người dân đói kém thảy đều bị chết yểu. Lại hiện nhóm thù: cọp, sói, sư tử, Miểu Noa … xâm tổn Hữu Tình, cướp đoạt tinh khí của người

Như vậy mọi nạn tranh nhau gây bức não

Khi ấy Đại Nhân nói việc đó xong thì bảo Bật Sô rằng:”Ta có Thánh Tối Thắng Đà La Ni tăng trưởng căn lành, hay trừ các ác. Nếu lại có người phát tâm trong sạch đem nhóm hương hoa… cúng dường Tam Bảo với cá Hiền Thánh. Ngày đêm ở trong Thất khiết tịnh trai giới, tụng Đà La Ni này thì các Chúng Nạn liền được tiêu trừ. Đà La Ni là:

Nẵng mô bà nga phộc đổ, vĩ ma la một địa, nghiễm tỳ la, nga lý-nhĩ đa , la nhạ tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Vĩ ma la , nga lý-nhị đế, vĩ ma la du nễ thủy, a la nga đế, a la nga đế, sa-phộc hạ (NAMO BHAGAVATO VIMALA-BUDDHI-GAMBHÌRA GARJITA-RÀJASYA TATHÀGATASYA_ TADYATHÀ: VIMALA GARJITE , VIMALA YONI’SE, ÀLAGATE ÀLAGATE SVÀHÀ )

Nẵng ma sa lý-phộc nễ phộc la noa vĩ sắt-kiếm tỳ nẵng tát đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Hứ, ma hứ, ma hạ ma hứ, sa-phộc hạ (NAMAHÏ SARVA NÌVARANÏA VISKAMBHINAS-TATHÀGATASYA_ TADYATHÀ: HE MAHE, MAHÀ MAHE SVÀHÀ )

Nẵng mô ngu noa ca la tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Nga nga nẵng ca lý, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng chỉ lý-để đế, sa-phộc hạ (NAMO GUNÏAKARASYA TATHÀGATASYA_ TADYATHÀ: GAGANAKARI, GAGANA SAMÏBHAVE , GAGANA KÌRTITE SVÀHÀ )

Nẵng mô tam mãn đa hiến độ đa ma tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Tam ma duệ, sa-phộc hạ (NAMO SAMANTA GANDHOTTAMASYA TATHÀGATASYA _ TADYATHÀ: SAMAYE SVÀHÀ)

Nẵng mô a ba la nhĩ đa, nga di nẵng sa-đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: A ma, ma hứ, sa-phộc hạ (NAMO APARÀJITA GÀMINAS-TATHÀGATASYA _TADYATHÀ: AMÀT MAHÌ SVÀHÀ )

Nẵng mô ma nẵng sa-đam bà tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Ma nẵng vĩ thú đệ, bát nột-di thấp-phộc lý, bát nột ma tam bà bệ, khẩn ca lý, hứ đán, ca lý-duệ, sa-phộc hạ. (NAMO MANASTAMBHASYA TATHÀGATASYA_ TADYATHÀ: MANA VI’SUDDHE , PADME’SVARI , PADMA SAMÏBHAVE, KIMÏKARI HITAMÏ KÀRYE SVÀHÀ)

Nẵng mô tát lý-phộc một đà, mạo địa, tát đát-phộc nam. Nẵng mô a lý-dã mạn tổ thất-lý dạ. Đát nể-dã tha:Nhạ duệ, nhạ duệ, la ma địa, hứ ma hứ , ma hạ ma hứ, sa-phộc hạ (NAMO SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ _ NAMO ÀRYA MAMÏJU’SRÌYA _ TADYATHÀ: JAYE JAYE RAMATI , HE MAHÌ , MAHÀ MAHÌ SVÀHÀ)

Nẵng mô a lý-dã phộc lộ chỉ đế thấp-phộc la tả, mạo địa tát đát-phộc tả. Đát nễ-dã tha: Nga nga nẵng trà-duệ, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng đặc-duệ, nga nga nẵng vĩ cật-lan đế, ê hạ-duệ hứ, sa-phộc hạ (NAMO ÀRYA AVALOKITE’SVARASYA BODHISATVASYA _ TADYATHÀ: GAGANA ADÏYE , GAGANA SAMÏBHAVE, GAGANA MADYE, GAGANA VIKRÀNTE , EHYEHI SVÀHÀ)

Nẵng mô a lý-dã tam mãn đa bạt nại-la tả, đát tha nga đa tả. Đát nễ-dã tha: Hứ bạt nại-lý, ma hạ bạt nại-lý , a mật-lý đa bạt nại-lý, vĩ nga đa la nhạ tế, ma hạ vĩ nga đa la nhạ tế, sa-phộc hạ ( NAMO ÀRYA SAMABTABHADRASYA TATHÀGATASYA_ TADYATHÀ: HE BHADRI, MAHÀBHADRI, AMRÏTA BHADRI , VIGATA RAJAS , MAHÀ VIGATA RAJAS SVÀHÀ)

Nẵng mạc a lý-dã vĩ ma la chỉ lý-đế đát tả, đát tha nga đa tả, a nễ chỉ lý-để đa, tát lý-phộc nhĩ nễ tỳ , phộc nhật-la tam bà phệ, phộc nhật-la tỳ nại ca lý, sa-phộc hạ (NAMAHÏ ÀRYA VIMALAKÌRTITASYA TATHÀGATASYA [?TADYATHÀ] ANIKÌRTITA SARVA JIT-NIR-BHÌ, VAJRA SAMÏBHAVE , VAJRA BHIDA-KARI SVÀHÀ)

Nẵng mạc tát-lý phộc một đà mạo địa tát đát-phộc nam. Đát bễ-dã tha: Khế đa ca la tỵ nhập-phộc la nễ duệ, sa-phộc hạ (NAMAHÏ SAVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ _ TADYATHÀ: KETA KALÀPI JVALANÌYE SVÀHÀ)

Nhạ cảm bà nễ, sa-đam bà nễ, mô hạ nễ, bôn noa lý ca dã, sa-phộc hạ (JAMBHANI STAMBHANI MOHANI PUNÏDÏARÌKÀYA SVÀHÀ)

Mô hạ nan đế , nan bà nễ duệ, sa-phộc hạ (MOHA DÀNTE, DAMBHANÌYE SVÀHÀ)

Nỗ la, vĩ nỗ lý duệ, ca la, vĩ cật-lý đế, sa-phộc hạ (DHURA VIDHURÌYE KÀRA VIKRÏTE SVÀHÀ)

Tán đế, sa vĩ nễ lý-phộc ba nễ duệ, sa-phộc hạ (‘SÀNTE ‘SIVI NIRVÀPANÏÌYE SVÀHÀ)

Nỗ la, vĩ nỗ lý duệ, sa-phộc hạ (DHURA VIDHURÌYE SVÀHÀ)

Lãm ma tố noa dã, sa-phộc hạ (LAMBA CUDÏÀYA SVÀHÀ)

Lộ chỉ ca, lộ câu đa la dã, sa-phộc hạ (LOKIKA LOKOTTARÀYA SVÀHÀ)

A nghê-dã nẵng, vĩ luân đạt nễ duệ, sa-phộc hạ (AJNÕÀNA VI’SODHANÌYE SVÀHÀ)

Đà đổ ca lý-duệ, sa-phộc hạ (DHÀTU KÀRYE SVÀHÀ)

Di già, sa-phổ tra nẵng dã, sa-phộc hạ (MEGHA SPHOTÏANÀYA SVÀHÀ)

Một-la hám nhị, nga-la hạ dã, sa-phộc hạ (BRAHME GRAHÀYA SVÀHÀ)

Tát lý-phộc ca lý-ma tỳ thủy cật-đa dã, sa-phộc hạ (SARVA KARMA ABHI’SIKTÀYA SVÀHÀ)

Tát lý-phộc một đà tỳ tăng sa cật-lý đa dã, sa-phộc hạ (SARVA BUDDHA ABHISAMÏSKRỌTÀYA SVÀHÀ)

Ê ca thất-lăng nga dã, sa-phộc hạ (EKA ‘SRINÕGÀYA SVÀHÀ)

Bộ đa dã, sa-phộc hạ (BHUTÀYA SVÀHÀ)

A bộ đa dã, sa-phộc hạ (ABHUTÀYA SVÀHÀ)

Tát lý-phộc nột khế, ba xá ma dã, sa-phộc hạ (SARVA DUHÏKHA UPA’SAMÀYA SVÀHÀ)

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói Thánh Tối Thắng Đà La Ni này xong thì bảo Bật Sô rằng:”Các ông y theo nghi tắc của Chính Pháp này , mỗi ngày chí thành phát tâm trong sạch cúng 7 vị Tỳ Khưu, cúng dường Tam Bảo với cá Hiền Thánh. Vào đầu đêm , làm Hộ Ma , thắp lửa sáng sẽ hay trừ tai , mau được tiêu tan tật bệnh (hoạn)

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với Chính Pháp này, thọ trì, đọc tụng , rộng vì người nói thì tất cả các bệnh đều được trừ khỏi

Lại nữa Văn Thù Sư Lợi bảo Bật Sô rằng:”Nay ông hãy lắng nghe ! Thánh Tối Thắng Đà La Ni này có sức sáng tỏ to lớn, rộng lợi chúng sinh. Hãy nên ở cõi Diêm Phù Đề lưu truyền nơi nơi , hết thảy đất nước, thành, ấp, tụ lạc … khiến các chúng sinh lắng nghe, thọ trì.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện hay đối với Kinh này đọc tụng một biến thì mau được trừ khỏi bệnh khổ của thân mình. Nếu đọc hai biến thì hết thảy bệnh khổ của vợ con, nam nữ đều được trừ khỏi. Nếu đọc ba biến thì hết thảy bệnh khổ của tất cả quyến thuộc thảy đều trừ khỏi. Nếu đọc bốn biến thì hết thảy bệnh khổ của người dân trong một nước đều được trừ khỏi. Nếu đọc năm biến thì tất cả người dân trong đất nước nhỏ do vua ban phong đều được an vui, không có các bệnh tật

Lại nữa Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói:”Nay Chính Pháp này có lợi ích rộng lớn thâm sâu , rất hiếm có. Hãy mau lưu truyền khiến cho các Hữu Tình được công đức trên

Nếu đối với Kinh này, sinh tâm khinh mạn, chẳng chịu thọ trì đọc tụng, chẳng vì người diễn nói lưu truyền, tất cả chúng sinh ở trong đất nước , chẳng ai được nghe… thì người ấy vướng lỗi lầm như tội năm Nghịch. Chính vì thế cho nên , Bật Sô đối với Thánh Tối Thắng Đà La Ni này cần phải tin kính không để cho quên mất.

Ta tự điều phục nhóm chư Thiên với A Tu La, Càn Thát Bà trụ ở một mặt của núi Tu Di ấy (Tu Di Sơn Vương) khiến cho chúng sinh của cõi Diêm Phù Đề được an vui lớn.

Thời Văn Thù Sư Lợi nói Pháp đó xong,đột nhiện chẳng hiện. Bật sô Phộc Dã Khư Nẵng nghe điều đã nói ấy thì tâm rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Tàng Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Vô Lượng Công Đức - Kinh Tạng
  • Đà La Ni Phật Đỉnh Tôn Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Lạc Xoa - Kinh Tạng
  • Chơn Ngôn Đà La Ni Phật Đỉnh Tôn Thắng - Kinh Tạng
  • Pháp Hộ Ma Bắc Đẩu Thất Tinh - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Đại Tì Lô Xá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh Liên Hoa Thai Tạng Bi Sanh Mạn Đồ La Quảng Đại Thành Tựu - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Yếu Đế Thích Bát Nhã - Kinh Tạng
  • Nghi Tắc Thí Bát Phương Thiên - Kinh Tạng
  • Pháp Yếu Niệm Tụng Đà La Ni Bạch Tản Cái Đại Phật Đỉnh Vương Tối Thắng Vô Tì Đại Oai Đức Kim Cang Vô Ngại Đại Đạo Tràng - Kinh Tạng
  • Nhơn Vương Bát Nhã Đà La Ni Thích - Kinh Tạng
  • Kinh Thần Chú Đà La Ni Bồ Tát Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Tất Cả Danh Hiệu Như Lai - Kinh Tạng
  • Đại Tì Lô Già Na Lược Yếu Tốc Tật Môn Ngũ Chi Niệm Tụng Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Lạo Đà La Ni Thân - Kinh Tạng
  • Kinh Tiêu Trừ Nhất Thiết Tai Chướng Bảo Kế Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Tâm Kinh Thần Chú Thập Nhứt Diện - Kinh Tạng
  • Pháp Nghi Quỹ Dược Sư Như Lai Quán Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Kim Cang Đỉnh Du Già Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Tu Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Ma Lợi Chi Thiên - Kinh Tạng