58. PHÁP HỘI BỬU TRÀNG THỨ NĂM MƯƠI TÁM
(Hán bộ từ quyển 146 đến quyển 149)
PHẨM ĐIỀU PHỤC MA THỨ NHẤT
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn ở tại Đại Bửu Phường Đình giữa Dục giới và Sắc giới cùng đại chúng quyến thuộc câu hội thuyết pháp.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng rằng: “Thuở trước, lúc ta mới được Vô thượng Bồ đề, ta ở vườn Trúc Lâm của Ca Lan Đà Trường giả tại thành Vương Xá. Bấy giờ trong thành có hai trí giả là ông Ư Ba Đề Xá và ông Câu Luật Đà đầy đủ thành tựu mười tám nghệ thuật, năm trăm đệ tử thường theo. Hai trí giả ấy bảo nhau rằng nếu ai trước được pháp vị cam lộ thì sẽ lại ban bố cho nhau.
Có một Tỳ Kheo tên là Mã Tinh sáng sớm từ thiền định dậy vào thành Vương Xá thứ đệ khất thực.
Ông Ưu Ba Đề Xá giữa đường xa thấy Tỳ Kheo Mã Tinh liền tự nghĩ rằng ta từ trước ờ thành Vương Xá nầy chưa từng thấy có một Sa Môn hay một Bà La Môn nào mà oai nghi tường tự như vị nầy, ta nên đến hỏi ổng thờ ai làm thấy, theo ai để học pháp.
Ưu Ba Đề Xá đến trước Mã Tinh Tỳ Kheo hỏi rằng: “Thưa Tỳ Kheo! Thầy Ngài là ai? Ngài theo ai học pháp?”.
Mã Tinh đáp rằng: “Nầy thiện nam tử! Có Thích Ca Mâu Ni Như Lai Đại Sư bực tôn Vô thượng hơn các bực xuất gia đã qua khỏi sanh tử được giải thoát có thể độ vô lượng chúng sanh gọi đó là Phật, có thể giác ngộ chúng sanh khéo làm các hạnh lành, có thể làm khô biển khổ, đả đầy đủ thành tựu những pháp như vậy là thầy của tôi, tôi học pháp theo Phật Thế Tôn ấy”.
Ưu Ba Đề Xá hỏi: “Thưa Tỳ Kheo! Thầy của Ngài thường dạy pháp gì?”.
Mã Tinh nói: “Nầy thiện nam tử! Nay người lắng nghe, tôi sẽ vì người mà phân biệt giải nói.
Pháp theo duyên mà sanh, thông đạt là nhơn, vì nhơn duyên diệt tức là tịch tĩnh. Thế gian là khổ, khổ nhơn gọi là tập, nếu tu bát chánh đạo thì thế gian tập dứt diệt, nếu không có khổ và tập thì gọi là Niết bàn.
Nầy thiện nam tử! Thấy của tôi nói các pháp như vậy”.
Ưu Ba Đề Xá nghe lời ấy rồi liền được pháp nhãn tịnh gọi là Tu Đà Hoàn, bèn nói kệ rằng:
Tôi nghe Tỳ Kheo nói tứ đế
Liền qua khỏi được ba ác đạo
Xưa chỗ chưa nghe nay được nghe
Xưa chỗ chưa được nay đã được
Tôi nay đã khỏi ba ác đạo
Chơn thiệt biết rõ đạo phi đạo
Tôi nay thành tâm quy y Phật
Vì Phật hay nói pháp ấy vậy.
Nói kệ xong, lại hỏi Tỳ Kheo Thế Tôn như vậy hiện nay ở tại đâu?
Mã Tinh nói: “Đức Thế Tôn nay ở tại thành Vương Xá vườn Trúc Lâm của Ca Lan Đà Trưởng giả cùng các Ngài Ca Diếp một ngàn Tỳ Kheo câu hội và mười ngàn Bồ Tát, ông nên đến đó”.
Ưu Ba Đề Xá nói: “Thưa Tỳ Kheo! Nay tôi trở về hỏi bạn đồng học và đồ chúng của tôi”.
Ưu Ba Đề Xá kính lễ Mã Tinh Tỳ Kheo hữu nhiễu ba vòng trở về trụ xứ.
Câu Luật Đà từ xa thấy Ưu Ba Đề Xá liền hỏi vói rằng: “Nầy bạn Ưu Ba Đề Xá! Nay tôi nhìn bạn các căn tịch tĩnh thanh tịnh nhan sắc vui tươi, phải chẳng bạn đã được pháp vị cam lộ rồi chẳng?”.
Ưu Ba Đề Xá nói: “Nầy bạn Câu Luật Đà! Tôi đã được. Lắng nghe lắng nghe, tôi sẽ vì bạn mà nói.
Pháp theo duyên sanh, thông đạt là nhơn, vì nhơn duyên diệt tức là tịch tĩnh. Thế gian là khổ, khổ nhơn gọi là tập, nếu tu bát chánh thế gian tập diệt dứt, nếu không khổ tập gọi là Niết bàn”.
Câu Luật Đà nói: “Nầy Ưu Ba Đề Xá! Lời nói ấy có thể hết các khổ tức là phạm hạnh, có thể dứt tà kiến tất cả nhơn duyên, cũng nói tất cả hữu vi vì đều rỗng không. Mong được bạn nói lại”.
Ưu Ba Đề Xá liền nói lập lại những lời trên.
Nghe xong, Câu Luật Đà liền được pháp nhãn tịnh thành Tu Đà Hoàn bèn nói rằng: “Lời pháp ngữ như vậy có thể qua khỏi tứ lưu, ra khỏi sanh tử, thông đạt ngũ ấm, dứt hẳn phiền não. Pháp vị cam lộ nay tôi đã được chẳng nên còn ở đây nữa.
Nầy bạn Ưu Ba Đề Xá! Bực Thầy như vậy nay ở tại đâu?”.
Ưu Ba Đề Xá nói: “Tôi nghe bực Thầy ấy hiện nay ở thành Vương Xá vườn Trúc Lâm của Trưởng giả Ca Lan Đà”.
Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà bảo các đệ tử rằng: “Nầy trong xứ nầy có Thích Ca Như Lai, chúng ta đã học được pháp của Ngài nói. Các người hôm nay muốn về nơi đâu?”.
Bấy giờ trên Thiên cung Ma vương bảo hàng chư Thiên rằng: “Nước Ma Kiệt Đà có hai đại nhơn Trí huệ tối thắng là ông Ưu Ba Đề Xá và ông Câu Luật Đà nay muốn làm đệ tử Sa Môn Cù Đàm. Nếu hai đại nhơn ấy theo thọ pháp Sa Môn Cù Đàm thì cảnh ta ắt trống rỗng, nay ta muốn đến đó xoay chuyển tâm xuất gia của hai đại nhơn ấy”.
Ma vương liền biến hóa thân mình làm tượng Mã Tinh Tỳ Kheo đến chỗ Ưu Ba Đề Xá va Câu Luật Đà mà bảo rằng: “Nầy các phạm chí! Trước đây ta nói như vậy là để thử trí của người thôi. Thiệt ra Thích Ca Như Lai chẳng nói như vậy. Như Lai thường nói không có nghiệp và quả thiện, không có nghiệp và quả ác, nếu người có thể gần kề vui ngũ dục thì người ấy liền được pháp vi cam lộ. Như Lai lại còn nói không có đời nầy đời sau vì thế nên không có nghiệp. Nếu không có nghiệp thì ai làm ai thọ. Đã không chửng tử làm sao có quả. Thích Ca Như Lai chỉ nói lời ấy thôi”.
Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà bảo nhau rằng: “Lời nói ấy tức là ma thuyết chẳng phải lời Như Lai, cũng chẳng phải là lởi của Mã Tinh Tỳ Kheo”.
Ma vương biết như vậy liền biến mất.
Hai người lại bảo các đệ tử rằng: “Các người thường đế quán sanh lão bịnh tử thế nhơn không ai khỏi. Nay chúng ta đã có thể dứt hẳn khổ, ngày nay các người muốn cầu điều gì?”.
Ma vương lại hiện hình Mã Tinh Tỳ Kheo nói rằng: “Ai có thể phá hoại được sanh lão bịnh tử! Như có người nói tôi có thể phá hoại hư không. Không bao giờ có lẽ ấy. Nếu nói có thể phá hoại sanh lão bịnh tử thì cũng như vậy”.
Câu Luật Đà nói với Ma vương rằng: “Tôi muốn thông đạt pháp thanh tịnh xa lìa các khổ. Tất cả xuất gia đều không có giải thoát được phiền não khổ như vậy. Vì thế nên nay tôi muốn đến chỗ đức Như Lai.
Nầy Ma vương! Như chốn rừng kêu mà nói là sử tử rống, hình sắc tương tợ mà thiệt ra không phải là sư tử. Nay người dầu hiện hình Tỳ Kheo mà lời nói của người chẳng phải là lời của Tỳ Kheo.
Luận về Tỳ Kheo ấy là phá phiền não. Lời nói phá phiền não tức là thanh tịnh. Nói không có thiện ác thì chẳng phải lời của Tỳ Kheo”.
Trong hư không tất cả chư Thiên đều khen rằng: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Tất cả xuất gia thì Phật đạo là tối thắng. Phật đạo ấy tức là Niết bàn. Nay tôi chẳng nhận lời nói của ma. Lành thay lành thay!”.
Ma vương lòng rất khổ não liền ẩn mất.
Các đệ tử bạch hai thầy rằng: “Nay thầy thọ chánh pháp và Vô thượng của Cù Đàm Sa Môn, chúng tôi cũng vậy nên đến chỗ Như Lai để hỏi học”.
Hai đại sư cùng năm trăm đệ tử đồng qua vườn Trúc Lâm Ca Lan Đà Trưởng giả.
Ma vương tại giữa đường ấy hóa làm hố lớn sâu năm thăm do tuần muốn khiến đoàn người ấy chẳng đến được chỗ Phật.
Đức Phật biết như vậy liền dùng thần thông lực làm cho đoàn người ấy thấy đường bằng phẳng không có hầm hố.
Ma vương lại hóa ra tòa núi cao lớn ngàn dặm. Do thần lực của Phật đoàn người ấy không thấy núi.
Ma vương lại sai trăm ngàn sư tử ngăn đường. Các sư tử thấy Ưu Ba Đề Xá và Câu Luật Đà cùng năm trăm đệ tử liền sanh thiện tâm mà nằm mọp yên lặng. Hai người và đệ tử được đến chỗ Phật.
Đến rồi, tất cả đoàn người đầu mặt lạy chưn đức Phật rồi dứng qua một phía mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong dức Như Lai cho tôi xuất gia, tôi muốn tu phạm hạnh thanh tịnh trong Phật pháp”.
Đức Phật nói: “Thiện lai các thiện nam tử. Tùy ý tu tập thanh tịnh phạm hạnh”.
Đức Phật nói xong, đều được đủ giới Tỳ Kheo.
Ma vương thấy hai người ấy được xuất gia rồi liền biến hóa làm tượng Trời Tự Tại Thiên hướng lên đức Phật mà nói kệ rằng:
Thế gian nếu có người trí huệ
Đầy đủ thành tựu thế phương tiện
Đều đến lễ kính cúng dường ta
Ta cũng vì họ nói tịnh đạo
Cù Đàm nếu muốn độ sanh tử
Nay nên thành tâm thấy quy y
Nay lời ta nói đạo thanh tịnh
Như Phật trước nói không có khác
Phật liền nói kệ đáp Ma vương:
Ta chơn thiệt biết bát chánh đạo
Hay vĩnh viễn lìa phá các khổ
Các người chơn thiệt chẳng biết được
Chớ dùng thân chồn sư tử hống
Ma vương ẩn tượng Tự Tại Thiên hiện hình Phạm Thiên nói kệ rằng:
Chơn thiệt xa lìa các phiền não
Hay quà Tam thiên Đại thiên giới
Chớ vì chúng sanh thọ các khổ
Phải nên yên lặng thọ thiền lạc
Thế gian nhẫn đến không một người
Kham được dựng nhận vị cam lộ
Nay ta thương xót nên bảo Ngài
Phải mau nhập vào Niết bàn
Đức Phật lại nói kệ đáp rằng:
Ta thấy thế gian nhiều chúng sanh
Hay độ biển lớn khổ sanh tử
Các loại thượng trung hạ như vậy
Được độ trước rồi Phật mới diệt.
Ma vương lòng rất rầu lo khổ não trở về bổn cung. Hàng quyến thuộc ma thấy vậy đều nói rằng vua ta cớ chi lại sầu khổ quá như vậy. Dầu bảo nhau như vậy mà không ai biết cả.
Lúc ấy các thể nữ ma số số năm trăm người, thân đeo chuỗi ngọc trang sức xinh đẹp ví Ma vương mà trỗi kỹ nhạc ca vũ đùa giỡn để làm vui.
Ma vương đưa tay ngăn lại. Các thể nữ đều yên lặng. Lần thứ hai đến lần thứ bảy cũng bị Ma vương ngăn lại không cho ca múa.
Có một thể nữ tên là Điện Quang thưa rằng: “Tâu Đại Vương có chi sầu não như là mất ngôi trời, hay là hỏa tai khởi lên chẳng? Hay là có kẻ oán thù mà không trừ được chăng?”.
Ma vương đáp rằng: “Ta có kẻ đại oán thù, đó là Thích Chủng Tử. Người đại ác ấy thành tự áo thuật. Nếu không trị được người ấy thì cõi ta ắt sẽ trống rỗng”.
Thể nữ Điện Quang nói: “Thích Chủng Tử ấy lấy gì để trang nghiêm, có đạo lực gì, ai là bạn đảng mà có thể làm trống cõi của Đại Vương?”.
Ma vương đáp: “Người ấy dùng thí giới nhẫn để trang nghiêm, dùng vô thường khổ không làm áo giáp binh khí. Nếu phá hoại các cõi thọ sanh của chúng sanh thì ta chẳng biết họ sẽ ở đâu.
Người ấy đầy đủ vô thượng đại thần thông lực, dùng đại từ đại bi làm bạn đảng có thể độ tất cả chúng sanh trong ba cõi. Vì vậy nên có thể làm cho cõi ta trống rỗng”.
Các Thiên thể nữ ấy nghe công đức của Phật đều mang cầm hoa hương và các kỹ nhạc đồng đến chỗ Phật tận tâm cúng dường. Trong đại chúng chỉ có Phật thấy họ, chúng hội đều không có ai thấy. Đại chúng có lòng nghi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Các hương hoa kỹ nhạc cúng dường như vậy có phải là do thần lực của Ngài Xá Lợi Phất hay Ngài Đại Mục Kiền Liên làm ra chẳng?”.
Đức Phật nói: “Chẳng phải. Đây là những món cúng dường của năm trăm thể nữ của Ma vương. Chẳng bao lâu Ma vương sẽ đến đây”.
Các Thiên thể nữ nghe lời Phật nói lòng rất vui mừng liền được chẳng mất tâm Bồ đề.
Các Thiên thể nữ qùy dài chắp tay nói kệ rằng:
Như Lai dứt hẳn các phiền não
Hay thí chúng sanh tịnh pháp nhãn
Khiến chúng sanh độ biển sanh tử
Nên tôi chí tâm ca ngợi lễ
Tất cả trời người khen cúng dường
Đấng đủ vô lượng vô biên trí
Mong Phật vì tôi khai phương tiện
Khiến tôi thoát được thân nữ nhơn
Thế Tôn tu đại không tam muội
Tỏ rõ thông đạt đệ nhứt đế
Đầy đủ Phật bửu đại Thương Chủ
Mong phá ma lực điều phục tôi.
Các Thiên thể nữ nói kệ ca ngợi đức Phật rồi trở vể ma cung mà nói kệ rằng:
Tự tại của vua chẳng phải thường
Cũng chưa lìa sanh lão bịnh tử
Các khổ phiền não vây thân vua
Thường làm ngu tối ở ác đạo
Nếu muốn qua biển sanh lão tử
Phải có lòng tin đến Như Lai
Nay tôi muốn lại đến chỗ Phật
Hỏi học cam lộ chánh pháp vị.
Ma vương sanh lòng giận ác muốn dùng năm thứ trói buộc để trói các thể nứ ấy. Do Phật thần lực nên chẳng trói được. Các thể nữ ấy liền trở lại chỗ Phật. Ma vương mắt thấy mà chẳng ngăn được. Ma vương lại ở hư không làm gió tỳ lam muốn làm cho thân các thể nữ ấy tan nát chẳng được thấy Phật. Do Phật thần lực nên chẳng làm hại được các thể nữ ấy.
Lúc ấy ma vương khóc khổ dùng âm thanh lớn bảo các vợ con rằng: “Nay ta tan mất sức đại thần thông. Có một đậc thọ mọc ra ở thế gian vì các chúng sanh mà nói dứt diệt thành tựu đại ảo thuật có phương tiện khéo giỏi”.
Nghe lời nói của ma vương các quyến thuộc đều tụ họp đến chỗ Ma vương hỏi rằng: “Đại Vương cớ chi sanh sầu não quá vậy. Đã không có tướng thối vị lai không có hỏa tai, trong Dục giới lại không có kẻ oán địch?”.
Ma vương nói: “Nay các ngươi chẳng thấy thế gian có một người ngồi Bồ đề thọ phá bốn binh chủng, dường như lửa lớn đốt cháy cỏ khô. Tất cả người trí trong đời đều quy thuộc. Người ấy tức là kẻ oán địch của ta. Các ngươi chẳng thấy năm trăm thể nữ bỏ ta mà đi quy y người ấy sao.các ngươi nếu không trị Thích Tử ấy thì cả cõi Đại Thiên như vầy chẳng bao lâu sẽ trống rỗng. Các người đều nên tự nghiêm bị vững mạnh cùng nhau tận lực trừ Thích Tử ấy”.
Các Ma tử nói: “Lành thay! Thưa Đại Vương chúng tôi sẽ trang bị tận thần lực mình, nếu trừ được người ấy thì tốt thay vui thay. Nếu như chẳng được lại sẽ quy y người ấy”.
Ma vương nói: “Ác nhơn! Nay sao ngươi dám thốt lời như vậy?”.
Ma tử thưa: “Tâu Đại Vương! Sa Môn Cù Đàm ngày trước một mình ngồi cây Bồ đề còn khó làm trở ngại được, huống là ngày nay quyến thuộc vô lượng đông nhiều mà lại có thể trừ được”.
Ma vương nói: “Con thân mến! Nếu có thể giết chết Sa Môn Cù Đàm thì rất tốt rất hay. Nếu như không được thì chúng ta sẽ tự thủ cõi của mình”.
Lúc bấy giờ bốn binh chủng ma số đông vô lượng đầy cả Diêm Phù Đề cao tám mươi do tuần, phóng đại ác phong tuôn mưa lớn, tay vỗ núi Tu Di lay động cả tứ thiên hạ, phát âm thanh ác lớn như tiếng đại Long Vương tiếng Dạ Xoa các quỷ, làm rúng động tất cả sông ao khe suối. Tất cả trời rồng người quỷ đều kinh sợ run rẩy.
Ma chúng ở trên núi Tu Di lấy một khối đá lớn muốn đè chụp cả thành Vương Xá vườn Trúc Lâm Ca Lan Đà.
Phật liền nhập phá ma lực thế tam muội, do sức tam muội ấy làm cho tất cả các binh khí, các khối đá lửa độc của ma chúng đều biến làm các thứ hoa, như là hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi rơi xuống thành Vương Xá, lại còn biến ra các thứ hương thơm. Biến các âm thanh ác của ma thành tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiến thần thông, tiếng Ba la mật, tiếng bất thối chuyển, tiếng Bồ Tát, tiếng phá binh ma, tiếng Niết bàn, cũng làm cho ác phong lặng mất. Tất cả cỏ cây đều biến thành thất bửu vi diệu. Thân Phật lúc ấy cao đến Trời Sơ Thiền đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp Đại Thiên thế giới, trong tất cả Trời, Người, Rồng, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lâu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gìa, Nhơn Phi Nhơn nhẫn đến các loài địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ đều thấy thân Phật. Vô lượng chư Thiên thiết lễ cúng dường lớn như là những hoa hương phan lọng kỹ nhạc. Ba ác đạo chúng sanh xưng Nam Mô Phật liền được thoát khỏi tam đồ thọ thân trời người.
Ma chúng thấy Phật hiện thần lực như vậy đều sanh tính tâm nói kệ rằng:
Nay tôi quy y nơi Như Lai
Đấng ba nghiệp tịnh trí vô thượng
Hay hiện ma giới bát chánh đạo
Cho chúng sanh tối ánh sáng lớn
Có đủ thập lực không ai hơn
Bình đẳng tất cả xem như con
Tâm Phật bình đẳng như hư không
Nên tôi kính lạy đại Pháp Vương
Phiền não chẳng nhiễm tu từ bi
Chứng được cát tường dạy nhơn quả
Hay ban chúng sanh chơn giải thoát
Nên nay tôi cúi đầu lễ lạy
Đại từ đại bi trời trông trời
Đấng Thế Tôn tối thắng vô thượng
Nói tất cả pháp như thủy nguyệt
Nay tôi kính lễ đại Đạo Sư
Chúng sanh bị bịnh phiền não nặng
Nên tôi quy y đại Y ương
Ác đạo chúng sanh nghèo thất tài
Nay nên quy y đấng Vô Lậu
Ngưỡng mong xót thương cho sám hối
Nơi chỗ đức Phật sanh ác tâm
Phật là cha mẹ hiền của chúng
Nay tôi xả bỏ các nghiệp ma
Tôi hay triệu thỉnh các chúng sanh
Vì họ phát khởi tâm Bồ đề
Mong vì tôi nói đạo vô thượng
Có những pháp gì được Bồ đề
Nay tôi phụng hiến diệu hương hoa
Ví chúng sanh mà cúng dường Phật
Thân cận hiện hữu thiện tư duy
Chí tâm nghe học như pháp trụ.
Năm trăm thể nữ cùng ma quyến thuộc dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật.
Những món cúng dường ấy khắp đến vô lượng hằng hà sa thế giới chư Phật, đồng thời cúng dường vô lượng chư Phật, tất cả ma chúng thảy đều nhìn thấy sắc thân chư Phật đồng như nhau không có sai khác. Chỉ có tòa sư tử thế giới rừng cây nhà cửa đền điện thì sai khác chẳng đồng.
Thấy rồi ma chúng đều rất vui mừng ngồi bên đức Phật chí tâm nghe pháp. Nghe thọ pháp rồi trở về ma cung tâu với Ma vương rằng: “Chúng tôi đến chỗ Sa Môn Cù Đàm tận thần lực cũng chẳng động được một sợi lông.
Đại Vương nên biết rằng nay chúng tôi đã thuộc về Sa Môn Cù Đàm”.
Ma vương tâm ác sanh sân nghĩ rằng ta sẽ làm sao giết Thích Tử ấy trừ diệt kẻ oán thù ấy.
Ma vương lòng rất lo rầu nhập vào nhà khổ.
Lúc bấy giờ ma chúng trở lại chỗ đức Phật bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn Đại thừa, niệm Đại thừa lại đủ thần thông đại từ đại bi.
Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát có đủ bao nhiêu pháp chẳng gần ác hữu mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề?”.
Đức Phật nói: “Nầy các thiện nam tử! Đại Bồ Tát có đủ bốn pháp chẳng gần ác hữu mau được Vô thượng Bồ đề.
Một là nếu Bồ Tát chẳng tham các pháp chẳng bỏ các pháp, chẳng thọ các pháp, chẳng giác các pháp, cũng không có ý tưởng ngã và ngã sở, làm bố thí chẳng cầu quả báo, chẳng sanh lòng tham trước, chẳng bỏ chẳng lấy, cũng không có hay biết ý tưởng ngã và ngã sở, nhẫn đến Niết bàn cũng như vậy.
Hai là nếu Bồ Tát chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu, cũng chẳng bỏ chúng sanh giới, chẳng tham chẳng lấy, cũng chẳng hay biết ý tưởng ngã và ngã sở.
Ba là nếu Bồ Tát chẳng thấy sắc thanh hương vị xúc pháp, cũng chẳng bỏ săc thanh hương vị xúc pháp chẳng bỏ chẳng lấy, cũng chẳng hay biết ý tưởng ngã và ngã sở.
Bốn là nếu Bồ Tát có thể thâm quán sát các pháp như vậy, nơi Phật chánh trí chẳng sanh giác quán, tại sao, vì dứt tất cả hành dứt tất cả trí gọi là Phật trí, vì không có, không thừa, không thanh, không tưởng, không chữ, không có vô lượng, không sanh, không xuất, không diệt, không tưởng, không ngại, không chướng, không thấy, là tịch tĩnh không ngã, không thọ mạng, không danh, không sáng, không tối, không xứ, không tiết, không biên, không số, không giới, không căn, không cánh, không có tư duy, không thực, không tham, không tịnh, không cấu, không bực, không hành, không ái, không nghiệp, không dựa ở, không nắm lấy, không tạo tác, không hiển thị được, không niệm niệm diệt, đây tức là Phật trí.
Dường như hư không, như hư không không có giác quán chẳng thể tuyên nói không có nhiễm trước không có giác tri.
Đại Bồ Tát có đủ bốn pháp như vậy chẳng gần ác hữu mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề.
Nầy các thiện nam tử! Nếu có người hay cầu trí huệ như vậy thì nên biết người ấy hay quán hai pháp, đó là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc và ý pháp.
Còn có hai pháp đó là sanh từ và Niết bàn
Còn có hai pháp đó là sanh và hữu.
Còn có hai pháp đó là thường và đoạn.
Còn có hai pháp đó là chúng sanh và thọ mạng.
Còn có hai pháp đó là thử và bỉ.
Còn có hai pháp đó là nội và ngoại
Nầy các thiện nam tử! Nếu người muốn cầu Phật trí mà lìa những hai pháp như vậy để quán các pháp khác, nênbiết người ấy chẳng thể được.
Ví như có người cầu lửa mà lại lấy băng, cầu món ăn mà lấy đá, cầu hoa mà lấy sắt, cầu chất hương thơm mà lấy tử thi, cầu y phục mà lấy gỗ, cầu hương hoa mà lấy hư không. Người cầu Phật trí nếu lìa những hai pháp ấy lại quán pháp khác thì cũng như vậy”.
Trong đại hội Bửu Phường Đình có một Bồ Tát tên là Địa Ý nghe lời ấy rồi bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa bất khả thuyết có thể hay biết được chăng? Nếu chẳng hay biết được thì làm sao được gọi là Nhứt thiết trí ư?”.
Đức Phật nói: “Nầy Địa Ý! Trí bất khả thuyết tức là Nhứt thiết trí.
Nầy Địa Ý! Nay Phật hỏi ông tùy ý ông đáp. Ý ông nghĩ thế nào, lúc ta được Như Lai Nhứt thiết trí ấy có sở đắc chăng?”.
Nghe đức Phật hỏi như vậy, Địa Ý Bồ Tát tự suy nghĩ nếu ta nói có tức là thường kiến, nếu ta nói không tức là đoạn kiến, ta nên xa lìa hai bên ấy mà nói trung đạo. Suy nghĩ như vậy rồi liền bạch rằng: ” Bạch đức Thế Tôn! Nghĩa như vậy ấy cũng không. Nếu là bất xuất bất diệt vô số vô lượng phi minh phi ám thì tức là Phật trí”.
Điện Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu là không khứ không lai thì tức là Phật trí’.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu pháp chẳng bị tam thế nhiếp buộc, chẳng sa vào tam giới, chẳng phải là tam kiết tam trí tam thừa ấm giới nhập vân vân không có tăng giãm tức là Phật trí”.
Kim Cương Ý Bồ Tát nói:”Bạch đức Thế Tôn! Nếu chẳng phân biệt pháp phàm phu, pháp thánh nhơn, pháp hữu học, pháp vô học, pháp Thanh Văn pháp Duyên Giác và pháp Phật thì tức là Phật trí”.
Kiên Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu pháp không có chuyển thì tức là Phật trí”.
Bữu Thủ Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu quán tướng sanh tướng hoại của các pháp, quán rồi thông đạt hiểu biết không có đắc thất thì tức là Phật trí”.
Thiện Giác Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh trong tam giới theo ý quán ý cũng chẳng hay biết ý thì tức là Phật trí”.
Phân biệt oán thân Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu người có thể chẳng ưa phiền não chẳng chán phiền não, chẳng ái, chẳng sân, chẳng bỏ, chẳng cầu, chẳng thí, chẳng niệm, thì tức là Phật trí”.
Liên Hoa Tử Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chẳng thích tội phước được thâm pháp nhẫn chẳng hay chẳng biết ngã và ngã sở. Nếu chẳng hay biết ngã và ngã sở thì tức là Phật trí”.
Nguyệt Quang Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thể quán sát thấy tất cả các pháp dường như thủy nguyệt cũng chẳng thấy pháp có tăng có giảm thì tức là Phật trí”.
Vô Biên Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi các pháp chẳng thấy minh ám, nơi tất cả tâm chẳng thấy sanh diệt thì tức là Phật trí”.
Di Lặc Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thể quán sát bốn thứ phạm hạnh và bất thiện hạnh bình đẳng không có hai thì tức là Phật trí”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu quán tam thế lục Ba la mật hai tướng không có sai biệt thì tức là Phật trí”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi các pháp tâm không có tham sân, cũng quán các pháp thậm thâm cảnh giới, cũng chẳng rõ biết chẳng phải chẳng rõ biết, cũng chẳng quán pháp có tăng có giảm, chẳng quán trí huệ và vô minh thì tức là Phật trí”.
Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Lạc Dục hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Đức Như Lai Thế Tôn do nhơn duyên gì mà nói các nghĩa thậm thâm như vậy?”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Vì khiến các chúng sanh xa lìa tà kiến được chánh kiến vậy. Được chánh kiến rồi chẳng sanh nhiễm trước, không có xan lẫn, chẳng gần ác hữu, chánh mạng tự sống, chẳng nhiễm trước tam kiết, thương xót chúng sanh, chẳng trụ trước Tam bữu, chẳng phỉnh dối tất cả, nơi các chúng sanh chẳng trước thủ chẳng xả ly, chẳng tham trước tài vật, chẳng tham trước tam giới, chúng sanh bống thì hay cứu hộ, hay phá ác đạo. Mở bày chánh lộ, chẳng thủ trước nhẫn nhục, lìa tất cả tưởng, diệt tất cả cấu, trừ tất cả ám, chẳng cầu quả báo. Do nhơn duyên ấy cầu Nhứt thiết trí. Đã được trí ấy rồi nơi âm thanh lắng nghe chữ câu chẳng sanh giác quán Phật ngữ tà ngữ, Phật hạnh tà hạnh, Phật pháp pháp khác, ấn giới nhập, công đức trang nghiêm, trí huệ trang nghiêm, mười Ba la mật, ba môn giải thoát, nghiệp và quả, thế trí Phật trí, nơi tất cả pháp như vậy chẳng sanh phân biệt. Vì cớ như vậy mà dức Như Lai nói những nghĩa thậm thâm ấy”.
Lạc Dục Bồ Tát nói: “Lành thay lành thay! Thiệt như lời đại sĩ nói. Nghĩa thậm thâm ấy tức là Phật trí, tại sao, ví không có sở giác trí vậy. Vì không có sở giác nên bất khả thuyết. Bất khả thuyết ấy tức là Phật trí. Nếu có thể biết được bất khả thuyết ấy thì nên biết rằng người ấy tức là Phật trí”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Lạc Dục khéo có thể phân biệt tuyên nói Phật trí. Tại sao, cì chẳng thủ trước các pháp bất sanh bất diệt tức là Phật trí.
Nầy Lạc Dục! Chẳng thủ trước các pháp tức là biên bất xuất, là biên bất phá hoại, là biên vô minh Niết bàn chơn thiệt vô xuất, là biên hư không Niết bàn tất cả các pháp tất cả chúng sanh bất khả thuyết, là biên hư không, là biên vô quái ngại, là biên không có vật, là biên không có ấm, là biên không có rỗng không, là biên pháp ấm nghiệp ấm quà phi quả ấm tụ ấm không có vật, là biên không có vật, là biên hư không, là biên tất cả các pháp bất khả thuyết.
Nếu đại Bồ Tát có thể đầy đủ những biên như vậy tức là được Phật trí”.
Lúc nói Phật trí bất khả thuyết ấy tất cả ma chúng được Vô sanh pháp nhẫn, bỏ thân thô được thân tế thân tùy tâm ý thân pháp hóa.
Còn có hai vạn tám ngàn chúng sanh ở trong các pháp được Vô sanh nhẫn. Có chín vạn hai ngàn Bồ Tát được vô lượng đà la ni.
Tất cả chúng ma đem diệu hương hoa kỹ nhạc cúng dường tán tụng Như Lai và nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bực thiện tri thức tức là căn bổn tại sao thiện pháp. Nay tôi vì gặp Phật thiện tri thức nên được lợi ích lớn”.
Đức Phật nói: “Nầy thiện nam tử! Ông nên chí tâm quán nơi các nghiệp.
Bấy giờ đức Thế Tôn vì chúng hội mà nói về quá khứ nghiệp.
Nầy thiện nam tử! Quá khứ vô lượng a tăng tỳ kiếp, kiếp ấy tên là Điện Trì, chúng sanh thuở ấy thọ mạng đủ sáu vạn tám ngàn tuổi, thế giới tên là Diệu Hương Quang Minh, Phật hiệu Hương Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Trị, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thuở ấy thế gian có đủ ngũ trược. Có Chuyển Luân Vương tên là Hoa Mục thống trị tứ thiên hạ. Vương cùng với Đại Thần nhơn dân quyến thuộc đến chỗ đức Phật Hương Công Đức dưng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường đức Phật và Tỳ Kheo Tăng cung kính lễ lạy hữu nhiễu ba vòng nói kệ khen Phật:
Phật được trời người thường khen ngợi
Xa lìa các ác thích tịch tĩnh
Đủ bảy thánh tài phá bần cùng
Thế nào khiến chúng được thâm tri
Tu tập ba pháp môn giải thoát
Đã được lìa sanh lão bịnh tử
Hay độ chúng sanh ba ác đạo
Thế nào khiến chúng quá ma nghiệp.
Phật Hương Công Đức nói: “Nầy Đại Vương! Có đủ ba pháp thì được thậm thâm trí: một là chí tâm nhớ đến tất cả chúng sanh, hai là tu tập đại bi phá khổ chúng sanh và ba là thấy tất cả pháp không có chúng sanh thọ mạng và sĩ phu chẳng sanh phân biệt.
Còn có ba pháp hay quá ma nghiệp: Đối với chúng sanh chẳng sanh ác tâm, hai là lúc bố thí chẳng quán phước điền và phi phước điền, ba là quán tất cả pháp bình đẳng vô nhị dường như hư không bất sanh bất diệt không hành không vật không có tướng mạo chẳng tuyên nói được.
Bồ Tát có đủ các pháp như vậy thì được thậm thâm trí hay quá ma nghiệp”.
Luân Vương có một phu nhơn tên là Thiện Kiến cùng với tám vạn bốn ngàn thể nữ đồng cúng dường Phật, cúng dường rồi nói kệ rằng:
Đại Thiên thế giới không ai hơn
Thường thích tịch tĩnh tu đại bi
Khéo hành xa lìa không trần cấu
Thế nào khiến tôi lìa thân nữ
Đã được xa lìa tất cả oán
Chơn thiệt thấy sanh lão bịnh tử
Ngưỡng mong vì tôi diễn nói đạo
Khiến tôi có đủ thân nam tử
Lìa các cõi được đạo vô thượng
Hay ban hoan hỉ thêm pháp hành
Đầy đủ thập lục tứ vô úy
Thế nào khiến tôi lìa nữ thân
Xô diệt tứ ma tu tứ phạm
Thiệt ngữ đầy đủ phương tiện khéo
Ba mươi hai tướng tám mươi tốt
Thế nào khiến tôi lìa nữ thân
Phật Hương Công Đức nói:
“Nầy thiện nữ nhơn! Có phương tiện khó được lìa thân nữ hay phá nữ nghiệp nhẫn đến lúc được Vô thượng Bồ đề trọn chẳng thọ thân nữ nhơn, trừ vì thệ nguyện độ chúng sanh.
Phương tiện khéo ấy là Bữu tràng đà la nỉ môn. Nếu có thể tu tập môn đà la ni ấy thì được lía thân nữ tịnh thân khẩu ý được lìa ba chướng.
Nếu người được nghe tên môn Bửu Tràng đà la ni ấy thì lìa nữ thân được thân nam tử, đầy đủ thân vi diệu trí huệ, tịnh thân khẩu ý thích các hạnh lành, đầy đủ đa văn xa lìa ác nghiệp và chẳng thọ khổ báo, có thể diệt tội trọng ngũ nghịch vô gián. Tại sao vậy, vì Bữu Tràng đà la ni như vậy được diễn nói nơi vô lượng chẳng phải quá khứ để phá ác nghiệp và tăng trưởng thiện pháp vậy. Hiện tại mười phương vô lượng chẳng phải cũng đồng nói đó để phá ác nghiệp và tăng trưởng thiện pháp vậy. Đời vị lai thập phương chẳng phải cũng đồng nói đó để phá ác nghiệp khiến thiện pháp tăng trưởng vậy.
Hiện tại nay ta cũng lại tuyên nói môn Bữu Tràng đà la ni như vậy. Mười phương hiện tại chư Phật thảy đều tán thán đà la ni ấy.
Nầy Thiện nữ nhơn! Nếu trong quốc độ được thống lãnh của Quốc Vương có tên đà la ni như vậy mà tán thán thọ trì đọc tụng thơ tả, thì nước ấy được mười phương hiện tại chư Phật bộ niệm ngợi khen, tất cả chư Thiên nhẫn đến Sắc Cứ Cánh Thiên cũng đồng hộ niệm ngợi khen. Nơi mà Quốc Vương ấy đi đứng ngồi nằm cũng có vô lượng Thiên, Long Dạ Xoa đều đồng hộ niệm làm cho quốc độ ấy hoà an vô tranh, không có tật bịnh, binh cách chẳng khởi, không có mưa gío xấu ác, chẳng lạnh chẳng nóng, ngũ cốc được mùa, chư ác quỉ thần và ác cầm thú đều có tâm lành chẳng sanh lòng ác hại. Quốc độ nào có kinh điển nầy thì những ác tính bất tường ác tướng ác bịnh thảy đều trừ diệt. Nếu Quốc Vương khởi binh chinh phạt mà chuyên niệm kinh nầy thì có thể dẹp cường địch khiến mình đắc thắng. Nếu cả hai Vương đều niệm thì hai binh hòa đồng chẳng xâm hại nhau.
Nếu có quốc độ thành ấp thôn xóm mà người ho8ạc xúc vật có bịnh dịch thì nên chép kinh nầy đặt trân đầu tràn phan, thì những tật dịch bất tường ấy thảy đều trừ diệt.
Nếu có pháp sư trì giới tinh tiến, ngày thứ mười lăm trong tháng, tự tắm rửa sạch sẽ dùng diệu hương hoa cúng dường Tam bữu, lên toà sư tử tán thán đà la ni nầy. Pháp sư ấy có thể hộ trì quốc độ mình ở, những hiện tượng xấu ác liền tiêu diệt, cũng có thể điều phục giáo hóa chúng sanh nhẫn đến được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Thiện nữ nhơn! Nếu có người hay đọc tụng kinh nầy nhẫn đến một bài kệ, người như vậy trọn chẳng còn thọ thân nữ nhơn, cũng được chẳng thối thất tâm Bồ đề.
Lúc Phật Hương Công Đức nói đà la ni ấy rồi lấy ngón chơn ấn đất. Liền đó cả đại địa chấn động sáu cách, mười phương đại địa cũng chấn động như vậy. Trong các cõi ấy những hàng Thiên Long Dạ Xoa do công đức lực của Phật Như Lai nên lòng sanh vui mừng cũng đều thấy va nghe diễn nói đà la ni”.
Đức Như Lai nói Bữu Tràng đà la ni rằng:
Nam mô bà gìa bà đế thọ đế tam miệu, gìa đà bà sa thất lợi đầu đa đà gìa đa dã, na ma xá ca mâu na đầu, đa tha gìa đa dã, da đà gìa đa dã, da đà dã, tha ám lạc sí, ám lạc sí mục sí, xà lệ, xà la xà lân nê, xà la bạt lại đế, xà hê lệ ba la, phú lũ sa, tam ma xa, a ma di, trầm ma di, ma ha di, xà ma di, bà la di, bà bà tì, bà bà tì, bà bà tì, bà xà tì, ba la ha, bà lệ tỉ, xà ha di, bà la ha, bà lệ tỉ. A la xà hê, xà đấu mục khê, bà phái la, sa phái la tu đà, bạt lại kỳ. Đàn đế lệ. Đàn đế la, đàn đế lệ, tu lệ tì ha gìa, chiên đà tì ha gìa, chiên đà tì ha gìa. Chiết thu, thọ đề sa tì a gìa, tát bà xoa thương, đế đa phàm tu la tì ha ca da xà la xà la ca xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, xa di lệ a, tỳ bà xa, a yết, ma đậu ninh, đậu ninh, đậu ninh, ôn ma, ốc tỳ bà xa đề, xà na khất lật đa, a nột bà đà lệ, nô ương quật lệ cứu la a, nhơn đà bà lệ, ba ha na tỳ bà xa đà yết bà gía bà kỳ, gía bà kỳ, gía bà kỳ, a mộ a đà xá ni, bà lệ bạt kỳ, bà sư cửu ma yết ma thọ kỳ, yết xa hê, xà hê thọ kỳ, ni ca tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ la sa, tỳ lại xà, tỳ lại xà, kiếp bà ma na kiếp sa, hê lợi hi lệ, hi lệ a na bà kỳ đàm ma đàn na xà na, a bà la di lệ đà, a la quân đà, ba thực tỳ bà kỳ na đế lệ bà phàm, yết ma xoa đế bà la đốt phả bà, phú lâu sa đa phàm, a tam ma, tam ma, tam ma, tỳ kỳ nhã đa đà, a kiệt đà, sá ha.
Đức Thế Tôn vì đại chúng nói đà la ni ấy, năm trăm thể nữ nghe rồi liền được thân nam tử. Còn có vô lượng người nữ và Thiên nữ cũng thọ thân nam tử và được bất thối tâm Bồ đề dứt hẳn tất cả nghiệp quyết định nữ thân.
Lúc phu nhơn Thiện Kiến nghe đà la ni ấy rồi, hàng quyết thuộc theo phu nhơn tám vạn bốn ngàn nữ nhơn cũng chuyển thân nữ được thân nam tử, còn có vô lượng nhơn nữ Thiên nữ cũng chuyển nữ thân được thân nam tử.
Lúc ấy Chuyển Luân Vương đem tứ thiên hạ giao phó Thái Tử rồi cùng vô lượng người xuất gia tu Phật đạo.
Vô lượng chư Thiên nghĩ rằng Chuyển Luân vương do nhơn duyên gì bỏ nước xuất gia. Họ lại bảo nhau rằng cõi nầy có Như Lai diễn nói diệu pháp, do nơi pháp lực nên nữ chuyển thân nam, có bỏ nhà mặc ca sa có thể vì hàng bạch y diễn nói vui nhơn thiên phá khổ tam ác đạo diệt tất cả cõi xô ngã ma nghiệp làm cho ma thọ khổ. Ma đã thọ khổ chẳng thích nghe pháp cho rằng đại ảo thuật sư đó là Hương Công Đức Sa Môn vậy. Còn có kẻ nói nên biết Sa Môn ấy tức là ma vậy, tại sao, vì hay chuyển thân nữ được thân nam tử.
Lúc ấy có một đại thần tên là Thiện Hạnh nói như vầy: Các phụ nữ của ta đều làm nam tử. Vô lượng vợ thiếp con gái các người cũng chuyển bổn hình mà thọ thân nam tử rồi cạo bỏ tác râu mặc ca sa quy hướng thuộc về Sa Môn ấy. Chỉ còn lại mình ta chẳng đi.Chúng ta nên bỏ quốc độ nầy vĩnh viễn chẳng thấy chẳng nghe đại ác nhơn ấy. Mọi người nghe lời nói ấy của đại thần đồng xướng lên rằng: Phải đó, nay ta nếu muốn chẳng thấy chẳng nghe xa lìa ác Sa Môn ấy thì nên vào thâm sơn. Mọi người bỏ nhà vào thâm sơn xuất gia tu pháp Bà La Môn mà nói rằng: Không có giải thoát không có thiện ác quả báo. Trong đời nầy có một Sa Môn xuất hiện tuyên nói đoạn kiến nói ma nghiệp khi dối chúng sanh, với ác Sa Môn đại ảo thuật sư ấy nếu người nào qua thấy nghe lời nói của ổng thân cận lễ bái cúng dường cung kính thì tâm sẽ cuồng loạn không còn hiểu biết nên cạo bỏ tóc râu mặc ca sa bỏ nhà cửa của cải thọ pháp xin ăn ở gò mả, thọ pháp ăn một bữa, ở trong sanh tử ý tưởng nhàm lìa chẳng còn thích ưa vui ngũ dục và các thứ hương hoa chuỗi ngọc trang sức kỹ nhạc, chẳng còn ưa nói đến sự việc thế gian, có đủ những pháp bất thiện như vậy, nói đoạn kiến hành nơi ma nghiệp, là kẻ oán thù lớn của các chúng sanh, giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh khiến họ sanh đoạn kiến. Nếu ai chẳng thấy ác Sa Môn ấy và chẳng nghe lời của ổng thì được lợi ích lớn.
Lúc đó Hoa Mục Tỳ Kheo nghe có vô lượng người sanh đại tà kiến tự nghĩ rằng nếu ta chẳng điều phục chúng sanh tà kiến như vậy thì làm sao được Vô thượng Bồ đề.
Hoa Mục Tỳ Kheo đến thỉnh Phật Hương Công Đức cùng vô lượng Tỳ Kheo Tăng đi khắp cả nước thành ấp tụ lạc các nơi thuyết chánh pháp, đó là xa lìa ác pháp tu hành thiện pháp, hoặc nói pháp Đại thừa, hoặc nói pháp Duyên Gíac thừa, hoặc nói pháp Thanh Văn thừa, hoặc nói Sa Môn quả, hoặc giới Tỳ Kheo, hoặc giới Ưu Bà Tắc, hoặc nói pháp Tam Quy, hoặc lại nói pháp chuyển thân nữ, hoặc nói môn Bửu Tràng đà la ni, hoặc nói pháp thập thiện nghiệp đạo.
Lúc nói các pháp ấy, phá trừ được lưới nghi của vô lượng chúng sanh, khởi tâm lành phát tâm Vô thượng Bồ đề, làm cho vô lượng chúng sanh đến chỗ Phật, chỉ trừ một đại thần Thiện Hạnh hướng về Hoa Mục Tỳ Kheo phát ác thệ nguyện: Nếu đời vị lai người thành Vô thượng đạo thì ta sẽ ở cõi nước người làm ác ma đến Bồ đề thọ làm sự khủng bố lớn. Nếu người thành Phật rồi ta sẽ phá pháp của người. Nếu ta ở nơi người mà sanh tín tâm thì người sẽ thọ ký cho ta”.
Thuật việc quá khứ ấy rồi, đức Thế Tôn bảo chúng ma rằng: “Nầy các thiện nam tử! Thuở quá khứ ấy, Hoa Mục Tỳ Kheo nay là thân ta. Phu nhơn Thiện Kiến ấy nay là Di Lặc Bồ Tát. Đại thần Thiện Hạnh ấy nay là ma vương Ba Tuần vậy.
Nầy Ba Tuần! Thuở quá khứ ấy ngươi phát tuệ nguyện như vậy, nay nếu ở chỗ chúng ta mà ngươi sanh tín tâm ta sẽ thọ ký cho. Vì vậy nay ta xứng bổn nguyện của ngươi mà thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ngươi.
Nầy Ba Tuần! Thuở quá khứ ở chỗ Phật Hương Công Đức ông lễ bái cúng dường, do thiện căn ấy nay ta thọ ký Bồ đề cho ông”.
Lúc nói pháp nầy, có năm trăm thể nữ được thân nam tử, vô lượng chúng sanh do pháp tam thừa mà được điều phục.
Bấy giờ Đại Thiên thế giới có trăm ức ma vương đều tụ họp đến chỗ ma vương Ba Tuần.
Ba Tuần nói với chúng rằng: “Nầy các Ngài! Các Ngài có biết chăng, nơi thế gian có Thích Chủng Tử xuất hiện làm đại ảo thuật sáu năm khổ hạnh, đến ngồi cội Bồ đề. Lúc ấy ta lãnh ba vạn sáu ngàn ức binh chúng đến chỗ ấy dùng hết thần lực mà chẳng làm lay động được tòa kim cương. Cù Đàm nơi cội Bồ đề thành tựu ảo thuật, do sức ảo thuật làm cho toàn cõi Đại Thiên chấn động sáu cách khiến quyến thuộc ta ngã té như cây trốc gốc.
Cù Đàm thành tựu cô tướng ảo thuật khiến mười phương những hàng trí nhơn đều quy thuộc. Ta suy tìm tâm tướng độ chúng sanh của Cù Đàm ở đâu mà chẳng biết được. Nếu có ai chí tâm quy y Cù Đàm, ta tận lực cũng chẳng động được một sợi lông của người ấy, cũng chẳng dối gạt được chẳng làm họ sợ được.
Nay năm trăm thể nữ của ta và các quyến thuộc ta đều quy hướng Cù Đàm mà ta không ngăn cản được.
Các Ngài phước đức rộng lớn có nhiều thần lực, nếu các ngài có lòng giúp ta thì ta ắt có thể phá diệt Thích Tử ấy, cũng có thể dẹp bọn quy y diệt hết các pháp Sa Môn tăng trưởng ma nghiệp, các Ngài và ta sẽ thọ vui vô thượng”.
Trong chúng ấy có ma vương tên Thân Cận nói: “Thích Tử ấy trọn đã thành tựu vô lượng công đức có công đức trang nghiêm trí huệ trang nghiêm, chẳng ở các cõi, hay điều phục tất cả chúng sanh, hay phá mọi thứ khổ phiền não, thân tịnh tâm tịnh. Chúng ta chẳng thể khởi ác làm hại được”.
Ba Tuần nói: “Quyến thuộc của ta bị Thích Tử ấy gạt lầm. Nếu các Ngài chẳng làm phương tiện thì chẳng bao lâu thế giới nầy sẽ trống rỗng”.
Lại có ma vương lên tiếng nói: “Như Lai chẳng ở tất cả các cõi, tâm tịnh thân tịnh, xa lìa tất cả ác phiền não được giải thoát nơi tam giới, tất cả thứ hữu vi chẳng trói buộc được, thế nên gọi là vô thượng tịch tĩnh. Tịch tĩnh như vậy thì có ai hủy hại được”.
Ba Tuần nói: “Nếu các chúng sanh tham trước ngũ dục trong dục giới mà quy về Thích Tử ấy, người ấy có thể phá hoại bốn ma. Các người ác như vậy mà chẳng trị thì các Ngài làm sao thống trị Dục giới”.
Lại có ma vương lên tiếng nói: “Thích Tử ấy như ảo như dương diệm chẳng tuyên nói được, không có xứ sở không có chướng ngại. Người như vậy làm sao hại được”.
Ba Tuần nói: “Thích Tử ấy ở trong dục giới nầy thọ thực thọ cúng dường dối gạt mê lầm chúng sanh, sao chúng sanh lại không trừng trị”.
Lại có ma vương nói: “Nay thần lực của ta có và thần thông lực của quyến thuộc hiệp lại chẳng bằng một phần mười sáu thần thông lực của Thích Tử ấy thì sẽ làm thế nào hại được”.
Ba Tuần nói: “Lúc Cù Đàm ấy vào thành khất thực, ta sẽ dùng phương tiện khiến trọn ngày xin chẳng được một hột cơm, lại sẽ ném đá lớn mắng nhiếc chọc sanh lòng sân hận, một mình ta còn có hi vọng là được ấy huống là các Ngài có đông quyến thuộc”.
Lại có ma vương nói: “Giả sử gây ra các ác sự như vậy để hại Thích Tử ấy mà chẳng làm ổng sanh sân hận sanh hỉ. Nếu ổng chẳng sân chẳng hỉ thì làm sao hại ổng được”.
Ba Tuần nói: “Nếu Thích Tử ấy có đại trí huệ, do trí lực nên ở nơi sân chẳng sanh sân, ở nơi hỉ chẳng nên hỉ, tu tập tâm đại từ đại bi với chúng sanh bình đẳng không có hai, như vậy thì với ta ông cũng chẳng sanh lòng sân hỉ”.
Lại có ma vương nói: “Nếu là kẻ bị hệ phược trong tam giới thì ta có thể hại được”.
Ba Tuần nói: “Nếu các Ngài theo kế của ta thì hại ổng chẳng khó. Các Ngài đều biến làm hình Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cùng đi đến khắp các nước các thành ấp tụ lạc bảo các quốc vương, các đại thần, các Trưởng giả rằng:
Chúng ta đã quy thuộc Sa Môn Cù Đàm nên biết rõ, Sa Môn Cù Đàm thiệt chẳng phải Sa Môn mà dối nói là Sa Môn, chẳng phải là Bà la môn mà hư xưng là Bà la môn, thiệt chẳng trì giới mà hiện tướng trì giới, chơn thiệt phá giới chẳng khác kẻ phàm phu, các người nếu tin lời ta thì tốt lắm. Nếu như chẳng tin thì sau bảy ngày sẽ có mưa đá lớn lửa ngọn đao bén. Khi rao truyền lời ấy rồi chúng ta sẽ làm mưa ấy. Nếu làm cách như vậy thì Cù Đàm quyến thuộc sẽ hoại diệt chẳng còn lâu”.
Các ma vương đồng nói: “Tốt lắm”.
Các ma vương đều riêng tự trang nghoêm xong rồi đồng đến nước Ma Kiệt Đà.
Ba Tuần cùng quyến thuộc đến Tuyết Sơn. Lúc ấy trong Tuyết Sơn có một tiên nhơn tên là Quang Vị quyến thuộc năm trăm tiên nhơn đều có ngũ thần thông. Ba Tuần đến nơi rồi lễ lạy Quang Vị tiên nhơn mà nói rằng: “Sa Môn Cù Đàm phá hoại hết dị kiến ngoại đạo, ở giữa đại chúng tuyên lời rằng: Trong tất cả chúng thiệt không có Sa Môn và Bà la môn. Đại Đức nếu có thể cùng ta đồng đến nước Ma Kiệt Đà, ta có thể phá hoại Sa Môn Cù Đà. Sa Môn Cù Đàm ấy rất chẳng thể cùng Đại Dức luận nghị hay so thử thần thông lực. Nếu xô diệt được Sa môn Cù Đàm thì tất cả chúng sanh đều sẽ cung kính cúng dường Đại Đức”.
Nói với Tiên Nhơn xong, Ba Tuần đến chỗ vô lượng ma vương mà thuật lại việc làm vừa rồi.
Có một ma vương nói: “Lúc Cù Đàm vào thành Vương Xá khất thực, ta sẽ ở giữa đường hóa ra các hình tượng sư tử, cọp sói, la sát, ác qủi làm cho ổng sanh lòng kinh sợ. Đã có lòng kinh sợ thì ổng chẳng thể nghị luận và hiện thần thông lực”.
Lại có ma vương nói: “Ta sẽ từ trên không mưa đá lớn xuống giết Cù Đàm ấy”.
Lại có ma vương: “Ta sẽ biến làm đệ tử Cù Đàm để được đến gần bên giết hại ổng”.
Lại có ma vương nói: “Ta sẽ hiện hình Trưởng gỉa tỉnh Cù Đàm thọ thực. Nếu Cù Đàm thọ thỉnh ta sẽ làm hại ổng”.
Lại có ma vương nói: “Ta sẽ biến hình dâm nữ đến bảo Quốc Vương rằng: Cù Đàm cùng ta giao thông”.
Lại có ma vương nói: “Ta sẽ đến chỗ Cù Đàm tự phá thân mình ra làm bảy phần. Các Ngài sẽ kêu lên rằng Cù Đàm giết chết”.
Lại có ma vương nói: “Ta sẽ ở trên hư không bảo mọi người rằng: Sa Môn Cù Đàm là đại ác nhơn, nếu có thiện nam tín nữ nào cúng dường ổng thì sẽ phải đọa và A tỳ địa ngục”.
Đức Thế Tôn biết rõ tâm niệm của các ma vương ấy liền biến Đại Thiên thế giới nầy đều là kim cương để khỏi bị mưa đá lớn lửa ngọn đao bén làm hư hại, cũng khiến chúng sanh chẳng thấy những ma nghiệp ấy.
Lúc ấy bốn đại đệ tử Phật vào thành Vương Xá thứ đệ khất thực.
Tôn gỉa Xá Lợi Phất từ cửa thành Đông vào, giữa đường gặp năm trăm ma tử tay cầm gậy bảo rằng: “Tỳ Kheo! Nếu ngươi ca múa thì tốt, bằng không chúng ta sẽ giết ngươi”.
Tôn gỉa Xá Lợi Phất nói: “Này các đồng tử! Nay ta sẽ ca còn các ngươi thí múa”.
Chúng ma tử nói: “Tốt lắm, thưa Đại Đức!”.
Tôn gỉa Xá Lợi Phất nói kệ rằng:
Ta nay chẳng cầu ấm nhập giới
Vì trong nhiều đời bị dối lầm
Nếu người cầu các pháp như vậy
Người nầy trọn chẳng được giải thoát.
Nói kệ rồi, Tôn gỉa Xá Lợi Phất lại nói đà la ni cú: “Bà a la, bà a la, bà la bà a la, ma lợi chí bà la ha, tát da bà la ha, a ma bà a la, sá ha”.
Nghe đà la ni ấy rồi, năm trăm ma tử tâm được điều phục, liền lễ bái sám hối nói rằng: “Bạch Đại Đức Xá Lợi Phất! Nay tôi nên phát tâm Vô thượng Bồ đề quy y Tam Bữu, bỏ lìa tất cả ác nghiệp ma”.
Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên từ cửa thành Nam vào, giữa đường gặp năm trăm ma tử tay cầm đao gậy bảo rằng: “Nếu ông ca vũ thì tốt, bằng không ta sẽ giết chết ông”.
Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên nói: “Thiện tai, nầy các đồng tử! Ta sẽ ca, các người sẽ múa”.
Các ma từ nói: “Tốt lắm, thưa Đại Đức!”.
Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên nói kệ rằng:
Nay ta chẳng cầu ấm nhập giới
Vì vô lượng đời bị gạt lầm
Nếu ai cầu các pháp như vậy
Người ấy trọn chẳng được giải thoát
Nói kệ rồi, Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên lại nói đà la ni cú: “A bà ma, a bà ma, ra xà, xa ha xa, ma tha, xa ma tha, gìa già na bà ma, sá ha”.
Nghe đà la ni ấy rồi năm trăm ma tử tâm được điều phục lễ lạy sám hối mà nói rằng: “Bạch Đại Đức! Nay tôi nên phát tâm Bồ đề quy y Tam Bữu, bỏ lìa tất cả sự nghiệp ác ma”.
Tôn gỉa Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử từ cửa thành Tây vào, giữa đường gặp năm trăm ma tử tay cầm đao gậy bảo rằng: “Nếu ông ca vũ thì tốt, bằng không ta sẽ giết chết ông”.
Tôn gỉa Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử nói: “Tốt, nay ta sẽ ca, còn các người thì múa”.
Các ma tử đồng nói: “Tốt lắm, thưa Đại Đức!”.
Tôn gỉa Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử nói kệ rằng:
Nay ta chẳng cầu ấm nhập giới
Vì vô lượng đời bị dối lầm
Nếu ai cầu các pháp như vậy
Người ấy trọn chẳng được giải thoát
Nói kệ ấy rồi, Tôn gỉa Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử lại nói đà la ni: “Khê kiệt bà, khê kiệt bà, khê kiệt bà, mậu gía ninh, mậu gía ninh, a bạt đa ni, tì bạt đa ni, sá ha”.
Nghe đà la ni ấy, năm trăm ma tử tâm được điều phục, liền lễ bái sám hối nói rằng: ‘Bạch Đại Đức! Chúng tôi nên phát tâm Vô thượng Bồ đề quy y Tam Bữu, bỏ lìa tất cả sự nghiệp ác ma”.
Tôn gỉa Tu Bồ đề từ của thành Bắc vào giữa đường gặp năm trăm ma tử tay cầm đao gậy bảo rằng: “Nếu ông ca vũ thì tốt, bằng không chúng ta sẽ giết chết ông”.
Tôn gỉa Tu Bồ đề nói: “Tốt, ta sẽ ca, còn các người thì múa”.
Các ma tử nói: “Tốt lắm, thưa Đại Đức!”.
Tôn gỉa Tu Bồ đề nói kệ rằng:
Nay ta chẳng cầu ấm nhập giới
Vì vô lượng đời bị dối lầm
Nếu ai cầu các pháp như vậy
Người ấy trọn chẳng được giải thoát
Nói kệ xong, Tôn gỉa Tu Bồ đề lại nói đà la ni: “Sa mậu đề, tỳ mậu đề, mậu lợi xà xà hê, tư lệ, tư lệ, bà tư lệ, bà tư lệ, ha bà tư lệ, phục đa câu trí tư lệ, sá ha”.
Nghe đà la ni rồi, năm trăm Ma tử tâm được điều phục lễ bái sám hối mà nói rằng: “Bạch Đại Đức! Nay chúng tôi nên phát tâm Vô thượng Bồ đề quy y Tam Bữu, bỏ lìa tất cả sự nghiệp ác ma”.
Lúc bấy giờ do thần thông lực của Thế Tôn làm cho các chúng sanh trong thành Vương Xá, tất cả đều thấy địa thành trăm do tuần trong bốn cửa thành đều riêng có một đại đệ tử Phật. Trong thành xuất hiện một hoa sen lớn ngang rộng đủ hai mươi lăm trượng. Hoa sen lớn ấy, cọng bằng ngọc lưu ly, cánh bằng hoàng kim, râu bằng kim cương, có đến vô lượng cánh, hoa sen lớm ấy phóng ánh sáng chiếu ra xa. Chúng sanh đều thấy hoa sen ấy cao ba trượng. Các trời Tú Vương Thiên cho đến trời Sắc Cứu Cánh Thiên cũng thấy như vậy.
Trong hoa sen báu lớn ấy phát ra lời nói kệ, các nơi chư Thiên và thế nhơn đều nghe:
Trong thế giới nầy Phật xuất hiện
Có thể xô dẹp hết các ma
Hay chuyển vô thượng diệu pháp luân
Điều phục chúng sanh thế giới nầy
Đấng Lưỡng Túc Tôn hay thành tựu
Ưu Bà Đề Xá, Câu Luật Đà
Hay phá gốc Ba Tuần thứ phiền não
Phật muốn đến đây điều chúng sanh
Thấy rõ tam thế như bàn tay
Đủ tam tự giới lời nói tịnh
Xa lìa Ba Tuần cấu thương tất cả
Phật muốn đến đây điều chúng sanh
Đủ tứ như ý tứ vô úy
Điều phục tứ chúng nói tứ quả
Thường thích thuyết pháp chơn thiệt nghĩa
Đấng Đại Pháp Vương vì chúng đến
Có đủ ngũ lục và ngũ căn
Thành tự công đức vô ngại trí
Vô thượng Thế Tôn vì chúng sanh
Tu bi độ thoát chúng ác đạo
Điều phục sáu căn được thượng tin
Xa lìa lục nhập tu lục niệm
Có đủ lục thông chơn thiệt ngữ
Thế Tôn muốn đến điều chúng sanh
Tất cả chúng sanh phiền não trược
Mê tối chẳng biết đạo giải thoát
Thường hành mê lộ chẳng biết thiệt
Tham trước điên đảo mất trí huệ
Chẳng biết kia đây và sanh tử
Ví tham ngũ dục mà xa thiền
Thế nên chẳng được chơn giải thoát
Chẳng thể tu hành đáp lành trước
Chúng sanh chẳng biết sanh lão tử
Vì vậy chẳng tu tam giải thoát
Xa lìa tất cả thí giới huệ
Nên chẳng ra khỏi ba ác đạo
Chúng sanh nếu lìa ngũ dục lạc
Thân cận Như Lai nghe chánh pháp
Chí tâm thọ trì nghĩa một kệ
Người nầy giải thoát như Phật trước.
Âm thanh nói kệ nầy lại vang đến mười sáu trời Sắc giới. Lời kệ rằng:
Nếu ai tu tập pháp thanh tịnh
Xa lìa tranh tụng tu thiền định
Chí tâm chuyên niệm các giải thoát
Không có tán loạn hoại phiền não
Chứng được mười Ba Tuần pháp nhẫn nhục
Xa lìa ác cúc và loạn tâm
Ta khỏi tất cả sanh lảo tử
Tu tứ vô lượng các thiền định
Đoạn hẳn thường kiến và đoạn kiến
Quá ba ác đạo được chánh định
Quán vô thường vô ngã vô lạc
Được tùy pháp nhẫn như Phật trước
Nếu muốn bỏ lìa như nước mũi
Quán tất cả không hành không khác
Thanh tịnh pháp giới và Bồ đề
Nơi pháp vô ngại như hư không
Hay phá bốn ma diệt phiền não
Tu tập chánh đạo các phương tiện
Chẳng sợ tà kiến như sư tử
Nên gần bên Phật thì được đó
Lúc hư không phát tiếng nói kệ như vậy, có vô lượng chúng sanh đến chỗ đại bửu liên hoa
Ma vương Ba Tuần tai nghe kệ ấy, mắt thấy trong thành Vương Xá có vô lượng chúng sanh đều ngồi dưới hoa sen báu lớn, lần lượt đến cung trời Săc Cứu Cánh cũng như vậy. Ba Tuần rất khổ não nói với các ma vương rằng: “Các Ngài lắng nghe lắng nghe! Nay Sa Môn Cù Đàm hiện ảo thuật lớn, các Ngài chẳng làm ma nghiệp được, chỗ ở các Ngài chẳng mất rồi sẽ mất. Các Ngài nên tuôn mưa đao bén lửa ngọn đá lớn xuống”.
Có một ma vương bảo Ba Tuần rằng: “Sa Môn Cù Đàm đều đã thành tựu vô lượng công đức đủ phước trí hai trang nghiêm và đại thần lực làm cho chúng ta cuồng loạn chẳng thể tạo tác sự nghiệp ma được. Với Sa Môn Cù Đàm nay lòng ta thiệt kinh sợ lắm”.
Lại có một ma vương bảo Ba Tuần rằng: “Nay Ngài ngu si đi nơi tà đạo. Người vô tâm nếu thấy Sa Môn Cù Đàm sẽ sanh lòng kính tin, huống là người có tâm tốt. Nay nếu Ngài muốn được lợi ích lớn thì nên chí tâm quy y tôn kính Sa Môn Cù Đàm”.
Lại có một ma vương bảo Ba Tuần rằng: “Nay Ngài sao lại ưa ác hạnh tạo ác nghiệp. Ngài nên xa lìa nghiệp ác ma. Nay Ngài chẳng thấy Như Lai Thế Tôn đến thành Vương Xá muốn Ba Tuần vị cam lộ cho chúng sanh ư! Ngài đến đó nên đồng nhau quy y Sa Môn Cù Đàm”.
Các ma vương từ hư không xuống đất và thành Vương Xá, hoặc hiện hình Quốc Vương, hoặc hiện hình Chuyển Luân Vương có đủ bảy báu, hoặc hiện hình trời Tự Tại, hoặc hiện hình Sa Môn phạm chí ni kiền tử, hoặc hiện hình Tứ Thiên Vương, hình Nhựt Nguyệt, hình Thiên Đế Thích, hìng Phạm Thiên, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc lễ lạy ca ngợi, hoặc đi vòng khắp thành Vương Xá, hoặc lên trên thành, hoặc thành hình sắc xanh áo trắng anh lạc trắng phan trắng lọng trắng, hoặc thân hình sắc vàng y đỏ anh lạc đỏ phan đỏ lọng đỏ, hoặc thân hình sắc đỏ y xanh anh lạc xanh phan xanh lọng xanh, hoặc thân hình sắc thất bữu y thất bữu anh lạc thất bữu phan thất bữu lọng thất bữu, hoặc thân hình sắc lưu ly, hoặc thân hình sắc pha lê, các thứ sắc y các thứ anh lạc các thứ phan các thứ lọng.
Hoặc có nhữngvị hướng lên Phật rải các thứ hoa đốt các thứ hương cà lễ lạy, hoặc ca tụng tán thán vũ múa.
Ba Tuần thấy vô lượng ma vương làm như vậy bèn cất tiếng kêu khóc nghĩ rằng nay ta mất hết phước báu, tất cả ma chúng thảy đều quy phục Sa Môn Cù Đàm. Ta dầu mất phước không có bạn đảng nhưng ta vẫn có thể phá Sa Môn Cù Đàm. Ta sẽ hiện thế lực tối hậu nhổ bỏ hoa sen ấy.
Ba Tuần liền đến gần hoa sen báu lớn ấy, đều mắt thấy hoa mà nắm chẳng được. Dường như người đời nói ta có thể nắm điện chớp, dầu thấy điện chớp mà nắm chẳng được, Ba Tuần đối với hoa sen báu ấy cũng như vậy, dầu mắt thấy mà tay nắm chẳng được.
Lòng Ba Tuần sấu não nghĩ rằng hoa sen như vậy nắm lấy còn không được huống là có thể nhổ bỏ. Ta nên phát xuất vô lượng ác thanh làm cho đại chúng kinh hãi bỏ Cù Đàm, mà chạy tán loạn.
Dầu Ba Tuần phát tiếng ác lớn, nhưng đại chúng không có ai nghe tiếng ấy cả, chỉ có Ba Tuần tự nghe, càng nghe càng kinh hãi rung rẫy. Ba Tuần hai tay vỗ xuống đất vỗi mãi mà chẳng đụng đất được như là vỗ hư không, muốn lấy binh khí để đánh hàng tứ chúng mà không thấy được, lại càng sợ hãi hơn toàn thân rung chuyển như lá cây bị gío mạnh thổi.
Ba Tuần tự nghĩ rằng nay ta mất hẳn tất cả phước đức tất cả thân lực, chỉ bằng ta mau trở về bổn cung, nếu không mau về chắc chết tại đây.
Nghĩ rồi muốn đi mà chẳng biết đường nào để đi, Ba Tuần lại nghĩ rằng nếu ta ở đây chẳng bao lâu Sa Môn Cù Đàm và quyến thuộc đến sẽ tru lục ta, e rằng chúng sanh cõi nầy sẽ ngó thấy ta nên chui vào đất, dầu muốn chui mà chui chẳng được.
Lúc ấy Ba Tuần trên dưới bốn phương đều chẳng thể chạy trốn được lại tự thấy thân mình tay chưn đầu cổ cả năm chi đều bị trói chặt, càng sầu lo khổ não kêu khóc.
Có một ma vương hiện hình Chuyển Luân Vương tên là Thánh Đạo nói kệ bảo Ba Tuần rằng:
Sao ông cớ chi phát ác thanh
Khóc lóc sầu lo thọ khổ não
Như Lai nay sắp đến liên hoa
Hay trừ chúng sanh các đau khổ
Nay ông nếu muốn thọ an lạc
Chí tâm quy y Vô thượng Tôn
Nếu ông chẳng thích bị trói chặt
Nên theo lời ta quy y Phật
Ba Tuần nghe lời kệ rồi nghĩ rằng ta vì được thoát khỏi nên trá quy y chớ chẳng phải thiệt lòng.
Ba Tuần liền hướng về phía Phật chắp tay nói kệ:
Nay tôi quy y đấng Thế Tôn
Hay phá chúng sanh các khổ não
Lại cũng sám hối tất cả ác
Nơi Phật quyến thuộc chẳng tạo nữa.
Ba Tuần nói kệ xong, liền được khỏi trói. Được khỏi trói rồi liền muốn trốn chạy về bổn xứ lại bị trói chặt như trước, lần thứ hai đến lần thứ bảy cũng như vậy.
Đã chạy trốn chẳng được đành phải ở lại chí tâm nghe pháp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn vẫn ở Trúc Lâm thuyết pháp. Bốn Tôn giả đại đệ tử cùng các ma tử đi trong thành Vương Xá ca vũ tụng kệ, đại địa chấn động sáu cách, vô lượng nhơn thiên cảm thương mừng khóc bảo nhau rằng: Khổ thay lành thay, nay Phật vẫn còn tại thế gian mà các đại đệ tử bị chúng ma đùa cợt.
Họ bèn tụ họp cùng đến chổ Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong Như Lai buông bỏ tâm đại xả, tại sao, vì có các ma muốn phá hoại Phật pháp”.
Đức Phật nói: “Nay ta sẽ vào thành Vương Xá giáo hóa chúng sanh phá ma nghiệp hiện đại thần thông làm Phật sự”.
Lúc đức Phật sắp vào thành Vương Xá lại có chư Thiên buồn kêu bạch Phật rằng: “Nay đức Thế Tôn muốn vào thành thiệt chẳng phải lúc, tại sao, vì hiện giờ trong thành có vô lượng ác qủi đầy khắp hư không, vô lượng ác ma cầm đao lửa đá. Nếu Phật vào thành ắt sẽ bị hại”.
Còn có chư Thiên nói: “Trong thành Vương Xá có năm trăm ma tử tay cầm đao kích muốn hại Phật”.
Còn có chư Thiên nói: “Chẳng bao lâu Thích Chủng sẽ hoại”.
Còn có chư Thiên nói: “Vô thượng pháp thuyền nay sẽ bị diệt tan, chúng sanh trong tam giới ai sẽ độ họ đến bờ giải thoát”.
Còn có chư Thiên nói: “Tất cả chúng sanh thường bị phiền não triền nhiễu, nếu vô thượng Đại Sư bị hại thì ai sẽ làm cho họ được giải thoát”.
Còn có chư Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Phật chẳng thấy trong hư không có vô lượng ma chúng muốn mưa đao lửa đá đó sao. Mong Như Lai vì thương chúng sanh chớ có nhập thành”.
Còn có chư Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Trong thành Vương Xá có hai vạn ma đều riêng hiện hình Bà La Môn, tay cầm đao kiếm muốn hại Như Lai, lại có hai vạn tay cầm sóc chờ Phật, lại có hai vạn ma tay cầm cung tên chờ Phật, lại có hai vạn ma tay cầm đuốc lửa lớn chờ Phật. Mong Như Lai nghe lời chúng tôi chớ vào thành”.
Đức Thế Tôn yên lặng đi vào cửa thành Vương Xá.
Chư Thiên thần thủ thành khóc kêu Phật nói rằng: “Mong Như Lai chớ vào thành, tại sao, vì hiện nay trong thành ác ma đầy khắp nơi, nếu Như Lai bị hại tại đây thì chúng tôi làm sao còn dám nhìn thấy chư Thiên nữa. Nay ma chúng ở hư không muốn mưa đao bén lửa ngọn đá lớn xuống, nếu Như Lai bị hại thí chúng sanh đang đi đêm tối sẽ mất đuốc pháp sáng. Núi pháp lớm sụp đổ thì sanh lão bịnh tử sẽ tự tại hoành hành”.
Dầu nghe chư Thiên nói lời cản ngăn, nhưng Thế Tôn vẫn không hứa khả.
Lại có chư Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu Phật chẳng tiếc thân mạng ắt muốn buông bỏ còn có sáu thành lớn khác hà tất nơi đây. Như Lai nếu bị hại tại thành nầy thì làm sao cho chúng tôi sẽ bị tiếng xấu trong vô lượng đời sau”.
Lại có vô lượng chư Thiên đến bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đã từng thấy vô lượng chư Phật giáo hóa chúng sanh, thiệt chưa từng thấy ma chúng như vậy.
Thế gian chúng sanh thường bị vô lượng ác phiền não vậy bọc, gặp được lương y thông đạt vô lượng phương thuốc thiệt rất khó. Cớ chi đức Như Lai bỏ tâm đại từ đại bi”.
Lại có chư Thiên bạch rằng: “Thuở xưa trong vô lượng kiếp, Như Lai vì chúng sanh nên tu tập khổ hạnh nay lại muốn bỏ chúng sanh mà vất thân mạng. Mong ở lại diễn nói chánh pháp điều phục tất cả chúng sanh mê tối mà ban cho ánh sáng, kẻ lạc đường chỉ cho đường chánh, dứt hẳn tất cả khổ ba ác đạo, mong Như Lai ở lâu thế giới chớ bỏ thân mạng”.
Chư Thiên trời Tịnh Cư bảo hàng chư Thiên ấy rằng: “Thôi chớ kêu khóc sầu não, Như Lai đầy đủ thập lực tứ vô úy, nay Phật muốn xô dẹp tất cả ma chúng. Giả sử có vô lượng vô biên chúng ma cũng chẳng thể động được một sợi lông của đức Phật”.
Phạm Thiên Vương và Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn đến bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tất cả ma chúng định muốn làm hại Như Lai, mong Như Lai chớ đến đó. Đức Như Lai nên diệt vô minh tối cho chúng sanh. Ngày trước đức Thế Tôn vời các chúng sanh hứa ban cam lộ vị cho họ, sự ấy chưa xong sao lại muốn bỏ thân mạng. Chớ có ỷ lúc trước dưới cội Bồ đề hàng phục được một ma vương rồi khinh miệt ma chúng khác, nếu Như Lai vào trong thành Vương Xá thì ắt phải diệt mất không còn nghi vậy”.
Đức Thế Tôn phát âm thanh lớn vang khắp Đại Thiên thế giới mà bảo rằng: “Lắng nghe lắng nghe, giả sử chúng ma đầy khắp mười phương thế giới tận thế lực của họ cũng chẳng làm động được một sợi lông của Phật. Xưa kia Phật vời các chúng sanh hứa cho họ cam lộ vị, nay Phật sẽ diễn nói đệ nhứt nghĩa đế tăng trưởng thiện pháp nói rõ chánh đạo để xứng nguyện của Phật. Thuở xưa trong vô lượng kiếp Phật vì các chúng sanh mà thọ nhiều khổ não, buông bỏ tất cả sở hữu những là kim ngân, thất bửu, của cải, quốc thành, thê tử, y phục, món ăn uống cho đến thân mạng, dâng diệu hương hoa phan lọng đèn sáng cúng dường chư Phật, thọ trì tịnh giới tu hành nhẫn nhục, như vậy có ai làm hại Phật được. Với các chúng sanh Phật thường tu từ bi, ai có thể khiến Phật diệt mất được. Như trước kia Phật đã xô dẹp ma quyến thuộc nên biết nay đây Phật cũng có thể phá hoại tất cả chúng ma, các người chớ có kinh sợ”.
Vô lượng chư Thiên nghe lời ấy thảy đều vui mừng đồng xướng lên rằng: “Nam mô Đại Sĩ Như Lai Thế Tôn phá đại ma chúng phá các phiền não lìa hẳn tập khí, xô ngã núi kiêu mạn, nhổ bỏ cây sanh tử diệt ngày tháng chết, trừ tối vô minh, khuyến hóa tất cả tà kiến chúng sanh, đốt khô bốn dòng, thắp đuốc pháp lớn, chỉ đường Bồ đề, đánh trống pháp lớn, ban cho các chúng sanh vui thiện pháp, lại khiến giác ngộ tướng bốn chơn đế, qua khỏi biển sanh tử vào nơi vô úy”.
Chư Thiên xướng lời ấy rồi dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật, lại đem các thứ hoa đẹp rải khắp thành Vương Xá, những là hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hoa ca ca la, hoa ma ha ca ca la, hoa ba lũ sa, hoa ma ha Ba Tuần lũ sa, hoa chiêm bà la, hoa ma ha chiêm bà la, hoa hoan hỷ, hoa đại hoan hỷ, hoa ái lạc, hoa đại ái lạc, hoa Ba Tuần lợi chất đa, hoa câu tỳ giá la, hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, hoa phân đà lợi, các thứ hoa như vậy che đầy những con đường Phật đi, hai bên đường có hàng cây thất bửu cao bằng một cây đa la, khoảng giữa các cây thất bửu có suối trong bát vị. Trên hư không có đông nhiều chư Thiên tay cầm thượng diệu phan long thất bửu, mưa các thứ hoa thất bửu, các thứ hương quý như ngưu đầu chiên đàn và bạch chiên đàn kiên ngạch trầm thủy, các thứ hoa hương mưa khắp các con đường Phật đi. Còn có các thứ vị diệu kỹ nhạc đồng thời trỗi lên cúng dường ca ngợi Phật.
Tất cả nhơn dân thảy đều trang nghiêm quét dọn chỗ Phật đi ngoài thành Vương Xá. Các quyến thuộc chúng ma thì trang nghiêm trong thành.
Đức Thế Tôn vào thành Vương Xá tâm vào Thủ Lăng Nghiêm định thị hiện tám mươi thứ hình hảo. Nếu ai thờ voi thì thấy hình voi, ai thờ sư tử thì thấy hình sư tử, ai thờ bò thì thấy hình bò, ai thờ chim mạng mạng thì thấy hình chim mạng mạng, ai thờ quỉ thì thấy hình quỉ, ai thờ cá rồng quy rùa thì thấy hình cá rồng quy rùa, ai thờ Phạm Thiên Tự Tại thì thấy hình Phạm Thiên Tự Tại, ai thờ Kiến Đà tám tay thì thấy Kiến Đà tám tay, ai thờ Thiên Đế Thích thì thấy hình Thiên Đế Thích, ai thờ A Tu La, Ca Lâu La, hổ sói heo nai, nhựt, nguyệt, tinh tú, quốc vương, đại thần, nam nữ, lớn nhỏ, Sa Môn, Bà La Môn, Tứ Thiên Vương, Dạ Xoa, Bồ Tát, Như Lai v.v… đều theo chỗ thờ của ai thì kẻ ấy thấy tượng hình mình thờ. Thấy rồi đều xưng: “Nam mô nam mô Vô thượng Thế Tôn! Hiệp chưởng cung kính lễ lạy cúng dường”.
Lúc ấy Tiên nhơn Quang Vị ở Tuyết Sơn cùng các đệ tử xuống cửa thành Tây đứng bên đường chờ Phật.
Tiên nhơn Quang Vị thấy Phật thân là hình tiên nhơn được sự cúng dường của vô lượng chúng bèn nói rằng: Người như vậy chơn thiệt đại tiêu kham thọ thế gian nhơn thiên cúng dường, tại sao, vì là tướng phước đức vậy, ta làm thế nào biết được kia lớn hay ta lớn. Nay ta nên hỏi kinh sách và xuất gia bao lâu”.
Tiên nhơn Quang Vị bảo đệ tử mình rằng: “Nầy các đệ tử! Tiên nhơn kia đức tướng đều thành tựu rõ ràng có thể biết, là bực thông minh sáng suốt hay hiểu thâm nghĩa, các ngươi nên phải chí tâm kính tin. Như ta đã thấy tướng thơ ghi rõ thì người ấy ắt có thể nói đạo vô thượng, có thể làm cho ta ra khỏi sanh tử”.
Năm trăm đệ tử đồng thanh nói: “Lành thay lành thay, như lời thầy nói!”.
Quang Vị cùng năm trăm đệ tử đồng đến chỗ Phật hỏi rằng: “Ngài là ai vậy?”.
Đức Phật nói: “Là Bà La Môn”.
Quang Vị hỏi: “Họ Ngài là gì?’.
Đức Phật nói: “Ta họ Cù Đàm”.
Quang Vị hỏi: “Ngài thọ giới gì?”.
Đức Phật nói: “Ta thọ tam giới”.
Quang Vị hỏi: “Ngài tu tập hạnh gì?”.
Đức Phật nói: “Ta tu hạnh không”.
Quang Vị lại hỏi: “Ngài xuất gia đến nay được bao lâu?”.
Đức Phật nói: “Tu lúc có đủ đại trí”.
Quang Vị hỏi: “Ngài có đọc tụng sách tinh tú chăng?”.
Đức Phật hỏi lại: “Ngài nay đọc tụng sách ấy được lợi ích gì?”.
Quang Vị đáp: “Nay ta tụng sách ấy giáo hóa chúng sanh được cúng dường nhiều”.
Đức Phật hỏi: “Ngài biết sách ấy rồi có thể qua khỏi được sanh lão tử chăng?”.
Quang Vị hỏi: “Thưa Cù Đàm! Sanh lão bịnh tử làm thế nào có thể dứt được?”.
Đức Phật nói: “Nếu ngươi chẳng thể dứt được sanh tử thì cần gì đọc tụng sách tinh tú như vậy”.
Quang Vị lại nói: “Thưa Cù Đàm! Nếu Ngài chẳng biết sách tinh tú trân thân cớ sao có chỗ đi của tinh tú. Như chỗ tôi biết thì Cù Đàm quyết định thông đạt rốt ráo tinh tú như vậy”.
Đức Phật hỏi: “Thế nào gọi là tinh tú đạo”.
Quang vị đáp: “Đó là hai mươi tám vì tinh tú, mặt nhựt mặt nguyệt đi theo, tất cả chúng sanh ngày tháng năm tuổi thảy đều hệ thuộc. Tất cả tinh tú dấu tích có bốn phần.
Phương Đông có bảy vì tinh tú, đó là các vì sao Giác, Can, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Nếu ngày sanh của người thuộc sao Giác thì miệng rộng bốn ngón trán cao cũng vậy, thân phía hữu có nhiều nốt đen trên ấy có lông, nên biết người nầy nhiều của giàu sang, trán rộng như voi thì thông minh nhiều trí quyến thuộc đông mạnh, cổ ngắn hai ngón chưn dài tả hữu như vết dao thì có vợ con đông, tánh tình ác hiểm khinh tháo, thọ tám mươi tuổi, lúc bốn mươi tuổi bị suy khổ, con trai trưởng chẳng thọ, lòng ưa pháp sự, suy hoạn ở nơi lửa. Người thuộc sao Giác thì có những tướng như vậy.
Người ngày sanh thuộc sao Can thì tâm ưa pháp sự bẩm tánh khéo giỏi thông minh phú quí có nhiều lòng tàm quí, kẻ oán thù chẳng hại được, thích muốn xuất gia, bẩm tánh dịu hòa khinh tháo đánh cá hết không cất giấu, thọ sáu mươi tuổi, lúc ba mươi tuổi mang bịnh nặng, quanh cổ bốn ngón sẽ có vết sẹo, chẳng hạp con cái. Ngài thuộc sao Can thì có những tánh như vậy.
Thưa Cù Đàm! Người sanh nhựt thuộc sao Đê thì thân dũng kiện, giàu lớn hào quí, thọ hai mươi lăm tuổi, thân bên tả có một nốt ruồi đen, có ác tâm đối với cha mạ, kính trọng người xuất gia với quyến thuộc mình thì chẳng thể làm lành tốt.
Thưa Cù Đàm! Người sanh ngày thuộc sao Phòng thì bẩm tánh tệ xấu ngu đần vô trí, giàu lớn hào quí, thân bên hữu có nốt ruồi đen, thọ ba mươi lăm tuổi chết vì binh đao hạp với anh em trai.
Thưa Cù Đàm! Người sanh ngày thuộc sao Tâm thì giàu sang nhiều của cải, ngu si bị bịnh phong, thọ bốn mươi lăm tuổi, đầu có vết sẹo, có danh tiếng lớn, các độc chẳng bị trúng, vợ con chẳng thích ưa.
Thưa Cù Đàm! Người sanh ngày thuộc sao Vĩ có đủ tướng tốt hùng mạnh giàu sang được đại tự tại, hai vú tướng vòng xe, có danh tiếng lớn, thân có ánh sáng hơn nhựt nguyệt, thông minh đại trí không ai hơn, ưa thích xuất gia hay điều phiền não, tăng trưởng quyến thuộc, có nhiều tàm quí, thọ trăm tuổi, lúc bốn mươi tuổi có bị khổ, ngực có đức tướng người thích thấy, chẳng hạp cha mẹ.
Thưa Cù Đàm! Người sanh ngày thuộc sao Cơ thì ưa thích tranh tụng phạm nhiều cấm giới,, bẩm tánh xấu ác người chẳng thích thấy, tham dục xí thạnh, thọ sáu mươi tuổi nghèo cùng khốn khổ, thường thích rong đi, răng nhỏ thưa, ngực hông gầy cứng.
Đó là người ngày sanh thuộc các sao phương Đông thí có các tướng như vậy.
Thưa Cù Đàm! Phương Nam có bảy vì tinh tú, đó là các vì sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Thất Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Tinh thí có nhiều của cải được người cung kính, tâm ưa thích pháp, rún có vết sẹo, thọ tám mươi tuổi, có lòng từ hiếu thảo cúng dường cha mẹ Sư trưởng, tâm không xan lẫn, có nhiều tàm qúi, suy họa tại thủy.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Quỉ thí xan lẫn đoản thọ, dưới rún bốn ngón tay sẽ có nốt đen, chẳng hạp cha mẹ, ưa tranh tụng.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Liễu thì giàu sang trì cấm giới ưa pháp sự, thọ bảy mươi lăm tuổi quyến thuộc tăng trưởng, vai có nốt đỏ, kính mến người nói pháp, được người tin phục, sau khi chết sanh cõi trời.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Thất Tinh thì ưa làm nghề trộm cướp, gian dối siểm khúc bạc đức đoản thọ, cử động thô rắn ngu si cuồng ngốc, ắt bị chết về binh đao.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Trương thì thọ tám mươi tuổi, thích âm nhạc, tóc thưa ít, lúc hai mươi bảy tuổi tạm suy đến ba mươi ba tuổi thì giàu sang, dũng kiện, có danh tiếng lớn, thông minh, không xan lẫn, thích pháp, tàm qúi, chẳng hạp cha mẹ và anh em trai, cổ có vết thẹo, quá ba mươi lăm tuổi mới có con cái, âm có nốt đen, vế có nốt vàng.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Dực thì giỏi biết toán số, xan lẫn tánh ác độn căn tà kiến thân bên hữu có nốt đỏ, thọ ba mươi ba tuổi, tuyệt không có con cái.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Chẩn thì giàu lớn hào quí quyến thuộc đông nhiều, thông minh dũng kiện, ưa pháp mến pháp, kính mến người thuyết pháp, thọ trăm tuổi, chết sanh cõi trời.
Người ngày sanh thuộc các sao phương Nam thí có những tướng như vậy.
Thưa Cù Đàm! Phương Tây có bảy vì tinh tú, đó là các vì sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Tuy, Sâm.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Khuê thì hai má sẽ có nốt đen, trì giới ưa pháp kính người thuyết pháp, giàu sang thích bố thí, trên thân có vết phỏng lửa, thọ năm mươi tuổi.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Lâu thì thọ mạng ngắn ngủi bần cùng khốn khổ, ưa thấy phá giới, tâm xan lẫn, gối có vết sẹo, thọ ba mươi tuổi, chẳng hạp với anh.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Vị thì chẳng hạp cha mẹ, mất nhiều của cải ruộng vườn nhà cửa, gối có nốt đen, quá hai mươi hai tuổi được đại phú quí, chẳng xan lẫn ưa bố thí.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Mão thì ưa chánh pháp có khẩu biện tài, thông minh giàu sang, có danh tiếng lớn, hộ trì cấm giới, được người kính tin, gối có nốt xanh, thọ năm mươi tuổi, chết sanh cõi trời.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Tất thì được người tin phục, tánh dữ ưa đấu tranh nơi chị và em gái mình có lòng tham, giàu sang, nhiều oán thù, thường đau nơi ngực, chẳng hạp tiền của, thân bên tả có nốt đen, thọ bảy mươi tuổi.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Tuy thì giàu sang ưa bố thí, tàm quí không tham lam, không có bịnh khổ, người thích thấy, thọ tám mươi tuổi, suy tại lúc bảy mươi tuổi, chết sanh cõi trời.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Sâm thì bẩm tánh tệ ác tạo nhiều nghiệp ác, làm lính giữ ngục, thiên nhiều tham dục, thông minh, nghèo khổ, thân có nhiều nốt đen, thọ sáu mươi lăm tuổi.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc các sao phương Tây thí có các tướng như vậy.
Phương Bắc có bảy vì tinh tú, đó là các vì sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Đẩu thì bẩm tính ngu si tham lam chẳng biết đủ, nghèo cùng tánh ác, thọ mạng ngắn ngủi, da đen gầy ốm, sẽ chết vì ăn uống.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Ngưu thì ngu si nghèo cùng, ưa trộm cắp, tâm nhiều ganh ghét, thọ bảy mươi tuổi, không có vợ con.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Nữ thì trì giới ưa bố thí, lòng bàn chưn có nốt đen, tăng trưởng quyến thuộc, thọ tám mươi tuổi, có danh tiếng lớn, không có bịnh khổ, hạp với cha mẹ và anh em.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Hư thì phước đức giàu sang được thân quyến mến ưa, tánh xan lẫn chẳng bố thí, dưới lòng bàn chưn sẽ có nốt đen, thọ sáu mươi lăm tuổi.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Nguy thì thân không có bịnh khổ, thông minh trì giới, thông đạt thế sự, giàu sang nhiều của, hạp với quyến thuộc, thọ tám mươi tuổi.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Thất thì bẩm tính tệ ác phạm nhiều cấm giới, làm người sang giàu thọ trăm tuổi, chết đoạ ác đạo, chẳng hạp cha mẹ và anh em.
Thưa Cù Đàm! Người ngày sanh thuộc sao Bích thì hùng mãnh có sức lực giàu sang tôn vinh, có danh tiếng lớn, quyến thuộc tăng trưởng, chẳng hạp cha mẹ, thọ trăm tuổi, thích pháp xuất gia, kính người học pháp, thông minh nhiều trí giỏi hiều thế sự.
Người ngày sanh thuộc các vì sao phương Bắc thì có các tướng như vậy.
Nếu ai thông đạt rốt ráo sách tướng như vậy thì có trí huệ lớn”.
Đức Phật nói: “Nầy tiên nhơn Quang Vị! Chúng sanh đi trong tối thủ trước điên đảo bị phiền não hệ phược nên chạy theo sách vở tinh tú như vậy.
Nầy tiên nhơn! Tinh tú dầu tốt, cũng còn sanh vào các loài trâu ngựa heo chó, cũng có đồng thuộc một vì sao mà có giàu nghèo sang hèn sai khác. Vì vậy nên phải biết đó là pháp bất định.
Nầy tiên nhơn! Ngài là người đắc thiền, ta là bực nhứt thiết trí, sao Ngài chẳng hỏi ta nhơn duyên giải thoát, mà lại hỏi ta về sự như vậy”.
Quang Vị nói: “Nay Ngài hiện có thân thể như thế nhơn không khác, mà tìm sự ấy thì cùng tiên nhơn không khác, nay ta thiệt chẳng biết Ngài là thiên, là tiên, là rồng hay là quỉ! Tiếng Ngài nói như âm thanh Phạm Thiên, hình sắc như bực cổ tiên nhơn. Săc tướng ấy và sự nghiệp ấy từ trước đến nay ta chưa được nghe thấy. Vì vậy nên ta hỏi Ngài là ai? Hệ thuộc nơi ai? Họ tên là gì? Tuyên nói sự gì? Mong được Ngài nói rộng ta sẽ lắng nghe thọ lãnh”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Nếu ai học tập sách tướng số
Người ấy chẳng biết được đây kia
Nếu ai bị phiền não hệ phược
Chẳng được giải thoát thường thọ khổ
Nếu ta có đủ lục thần thông
Nên gọi là đại Bà La Môn
Lục Ba la mật là họ ta
Dùng lục hòa kính điều các căn
Ta đã thọ trì ba thứ giới
Tu môn không vô tướng vô nguyện
Lúc xưa mới phát tâm Bồ đề
Ta được gọi là đại xuất gia
Ta đều chẳng thấy một pháp tướng
Nên chẳng nói đến sách tinh tú
Pháp không chúng sanh không tho mạng
Nên ta nói không ngã không tranh
Đã qua bờ ba thọ ba hành
Dứt hết tướng nên không có tướng
Ta đã chơn thiệt biết các pháp
Vì vậy nên được đại tịch tĩnh
Nếu không chướng ngại như hư không
Dầu hành Bồ đề chẳng thấy pháp
Tu tập cấm giới đại nhẫn nhục
Liền được vô tướng đại trí huệ
Nếu chẳng thấy nghiệp cầu quả báo
Như pháp chẳng chuyển được Bồ đề
Tâm chẳng tham trước tất cả ấm
Cũng lại chẳng thấy có đây kia
Lại chẳng thấy biết mé Bồ đề
Đây hay mau được Bồ đề đạo
Không có tướng mạo không tưởng niệm
Nơi tất cả pháp không giác quán
Cũng chẳng tham trước nơi các pháp
Thì hay chứng được Nhứt thiết trí
Nếu ai tu tập tịnh phạm hạnh
Người ấy được gọi là Bà La Môn
Quán sát các pháp như hư không
Người ấy liền được tên Đại Giác.
Nghe đức Thế Tôn nói kệ ấy rồi, Quang Vị tiên nhơn và các tiên nhơn quyến thuộc tất cả đều thấy bổn thân Như Lai. Thấy bổ thân Phật rồi thiện căn trước theo đến chứng được Bự Tràng tam muội. Được tam muội nầy có thể quan sát tất cả tam muội nên gọi là Tràng, nơi các tam muội được tự tại nhập vào tất cả cảnh giới của tất cả tam muội nên gọi là Bữu Tràng tam muội.
Quang Vị chấp tay cung kính, cầm hoa vi diệu đầy một bụm nói kệ tán thán đức Phật:
Như Lai thành tựu vô lượng đức
Dường như đại hải nước tràn đầy
Công đức quang minh rất vi diệu
Đều chiếu khắp Đại Thiên thế giới
Dũng mãnh tinh tiến đại trí huệ
Cao hơn tất cả các chúng sanh
Có đủ tâm đại từ đại bi
Vì vậy tôi lạy Vô Thượng Tôn
Như Lai dứt hẳn các phiền não
Nên tôi cúi lạy Đại Tiên Sư
Thanh tịnh kim sắc hoặc quang minh
Nay tôi lễ kính mặt nhựt Phật
Hay khô chúng sanh các phiền não
Hay nói chơn thiệt Bồ đề hạnh
Hay hoại tất cả núi phiền não
Chuyển chánh pháp luân tối vô thượng
Nay tôi tu tập hạnh Bồ đề
Để được vô thượng đại trí huệ
Như Lai đầy đủ tất cả hướng
Nguyện ký lúc tôi được Bồ đề
Tôi sẽ dứt phiền não thế nào
Độ các chúng sanh khổ thế nào
Diễn nói chánh chơn đạo thế nào
Bình đẳng dường như mưới phương Phật
Chúng sanh tam thế tạo nghiệp ác
Tôi sẽ làm sao khiến họ dứt
Thân khẩu ý tôi có nghiệp lành
Nguyện nhơn duyên nầy dứt kiết họ
Dứt hẳn tất cả bịnh phiền não
Thân thọ diệu lạc như Phật trước
Khiến thân diệu sắc các căn đủ
Xa lìa các ác tu pháp lành
Dứt trừ chúng sanh các tà kiến
Tu tập đầy đủ chánh tri kiến
Được biết túc mạng thích nghiệp lành
Vượt biển sanh tử đến bờ kia
Sáu Ba la mật được đầy đủ
Biết Phật thâm pháp thường tại thế
Thích tuôn mưa pháp lớn vô thượng
Khiến các chúng sanh lìa nghèo đói
Thân khẩu ý tôi nếu có ác
Nay ở trước Phật đều sám hối
Nay tôi có bao nhiêu phước đức
Ban cho chúng sanh sớm thành Phật
Tôi mời tất cả các chúng sanh
Khuyên họ vun trồng giống Bồ đề
Lúc tôi vì chúng sanh thọ khổ
Nghiệp chẳng sanh hối và thối chuyển
Thanh tịnh thế giới và chúng sanh
Được vô ngại trí tịnh pháp giới
Nếu tôi chơn thiệt được Phật đạo
Nguyện rãi hoa nầy thánh lọng hoa
Quang Vị liền rải hoa, lúc ấy Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, có vô lượng chúng sanh lòng kính vui. Những chúng sanh thờ voi thấy Phật là hình voi ấy nói rằng: Tại sao voi nầy có đại phước đức khiến tiên nhơn ấy kính lễ cúng dường. Các chúng sanh tuỳ theo chỗ thờ mà tự thấy Phật hình ấy đều nói như vậy. Cho đến chúng sanh kính thờ Phật thấy tiên nhơn ấy kính lễ cúng dường Phật, họ thấy như vậy rồi sanh lòng tin lễ lạy cúng dường.
Bấy giờ Thế Tôn xuất Thủ Lăng Nghiêm định. Xuất định rồi, tất cả chúng sanh đều thấy thân Phật, họ đều sanh lòng cung kính vui mừng, mỗi người theo sức mình đều cung kính cúng dường.
Đức Thế Tôn bảo Quang Vị rằng: “Nầy thiện nam tử! Tất cả chư Thiên thấy ông quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề họ đều vui mừng hớn hở nên khiến đại địa chấn động sáu cách.
Nầy thiện nam tử! Ông sẽ thành tựu vô lượng trí huệ rồi sau mới được Phật đạo vô thượng, sẽ ở nơi vô lượng thế giới thắp đèn pháp lớn.
Nầy Quang Vị! Đời vị lai quá Ba Tuần a tăng kỳ kiếp phương Bắc thế giới nầy có thế giới tên là Hương Hoa, cõi nước ấy công đức trang nghiêm như Cực Lạc thế giới của Phật A Di Đà. Ông sẽ ở trong thế giới Hương Hoa ấy thành Phật hiệu Quang Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn thường tuyên nói pháp Đại thừa, trọn chẳng nói pháp Thanh Văn, Duyên Giác.
Đại chúng tai nghe mắt thấy Quang Vị tiên nhơn được Thế Tôn thọ ký thành Phật thảy đều vui mừng cung kính cúng dường. Năm trăm tiên nhơn đệ tử và vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ đề kiên cố không thối chuyển.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn biết rõ tâm của chúng ma, Phật liền nhập tam muội, do sức tam muội khiến thành Vương Xá có mười hai thành môn, trong mỗi thành môn có một Như Lai.
Chúng ma thấy mười hai Như Lai, họ tự hiện thân hoặc hình tiên ngũ thông cho đến hoặc tự hiện thân ra hình Phạm Thiên đồng dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật.
Lúc đức Thế Tôn vào thành rồi lấy chưn ấn đất làm cho toàn cõi Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, trong ấy tất cả Nhơn, Thiên, A Tu La, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, tất cả chúng sanh thảy đều được thấy. Chúng sanh thập phương thế giới đều đến tập họp tại thành Vương Xá mang theo hương hoa dâng cúng dường Phật. Do Phật thần lực khiến trong khối hương hoa nói kệ rằng:
Ai muốn dứt hẳn ba ác đạo
Phải nên phát khởi tâm Bồ đề
Ở trong sanh tử tự giác ngộ
Thì hay độ thoát các chúng sanh
Ai muốn lìa các việc nhọc ác
Phải nên tu tập nơi chánh định
Nếu ai được gặp chư Như Lai
Người ấy liền được thọ ký đạo
Như Lai Đại Sĩ lợi chúng sanh
Nay đến vào thành Vương Xá nầy
Muốn dẹp tất cả các chúng ma
Muốn chuyển vô thượng chánh pháp luân
Phật vì ngũ trược các chúng sanh
Tuyên nói tam thừa Thủ Lăng Nghiêm
Như Lai nay muốn đại thọ ký
Muốn nghe thiệt nghĩa nên qua đó.
Âm thanh nói kệ ấy được nghe khắp mọi nơi.
Ca Lan Đà Trúc Lâm tinh xá chư Bồ Tát Chư A La Hán đều đến tập họp trong Vương Xá thành, cho đến mười phương vô lượng thế giới hoặc tịnh độ hay uế độ, cõi có Phật hay cõi không có Phật, tất cả chúng sanh đều đến tập họp.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nhập Phật trang nghiêm anh lạc tam muội. Do sức tam muội ấy làm cho toàn cõi Ta Bà thế giới thanh tịnh trang nghiêm dường như quốc độ của đức Như Lai Biến Kiến Phật. Quang minh của Thế Tôn tịnh diệu chúng sanh thích thấy. Tất cả chúng sanh trong vi trần thế giới mười phương cũng đều thích thấy quang minh thanh tịnh vi diệu của Thế Tôn, cũng thích nghe âm thanh của Thế Tôn.
Chư Bồ Tát ở mười phương vô lượng Phật độ cũng đến thành Vương Xá tụ họp. Vô lượng Bồ Tát đều dâng cúng đức Thế Tôn, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hương thơm, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hoa đẹp, hoặc có Bồ Tát mưa chơn châu bữu, hoặc có Bồ Tát mưa diệu anh lạc, hoặc có Bồ Tát mưa kim ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, chơn châu, thất bữu, hoặc có Bồ Tát mưa chiên đàn trầm thủy các thứ hương, hoặc có Bồ Tát mưa ngưu đầu chiên đàn, hoặc có Bồ Tát mưa các thứ hoa như là hoa tu mạn na. hoặc có Bồ Tát dùng chơn bữu pháp tán thán đức Phật. Hoặc có Bồ Tát hiện làm hình Phạm Thiên, Đế Thích, Thiên Vương, hình Ma Vương, hình Tự Tại Thiên, hình Kiền Đà Thiên, hình Bát Tý Thiên, hình Chuyển Luân Vương, hình trân bửu, hình núi, hình rừng cây, hình đại thần, trưởng gỉa, nam nữ, sư tôn, hình các thú vương voi ngựa thủy ngưu v.v… chư Bồ Tát hiện các hình tượng như vậy rồi đồng thẳng đến Vương Xá thành chỗ hoa sen báu lấy tay chạm hoa làm hoa lay động. Liền lúc ấy tất cả chúng ma nam nữ lớn nhỏ và các quyến thuộc ma thảy đều dao động sanh lòng kinh hãi nói rằng cớ chi mà cung điện chúng ta khuynh động thế nầy. Hay là bực tôn quí của chúng ta ắp thối thất mất phước trời chăng? Lúc trước chúng ta thường thấy thế giới nầy có đủ ngũ trược uế hôm nay cớ sao lại trang nghiêm thanh tịnh. Chúng ma thấy mười phương thanh tịnh Bồ Tát tụ hội Vương Xá thành, tự nghĩ rằng đây là do quang minh nghiêm lệ của Phật Thế Tôn mà chúng sanh thích thấy nên có cảnh tượng như vậy. Chúng ma nhẫn đến chẳng thấy quyến thuộc mình còn có một người nào nên lại tự nghĩ tại sao ta không đến chỗ đức Phật để được gần gũi cúng dường.
Ma Vương Ba Tuần đến chỗ đức Phật chắp tay cung kính bói kệ rằng:
Nay tôi quy y đức Như Lai
Đã được hoan hỉ chí tâm ưa
Nguyện được buông thả về nhà mình
Về rồi sẽ nghe diễn chánh pháp.
Đức Phật nói kệ đáp rằng:
Ta chẳng dùng khứ lai khuyên ngươi
Tánh tướng các pháp cũng như vậy
Nay ngươi nếu có đại thần thông
Tùy ý tự tại không ai ngăn.
Ba Tuần lại nói kệ rằng:
Như Phật Thế Tôn chơn thiệt ngữ
Nay thiệt không ai ngăn cản tôi
Lúc tôi vừa muốn trở về nhà
Liền thấy thân mình bị ngũ trược
Đức Phật nói: “Ta đã dứt hẳn tất cả hệ phược muốn cởi hệ phược cho tất cả chúng sanh, ta cũng chẳng nghĩ nhớ các ác của chúng sanh, nên ta được gọi là giải thoát hệ phược”.
Thấy mười phương chúng sanh đều đã tập họp, đức Thế Tôn nói kệ rằng:
Tất cả đại chúng chí tâm nghe
Xa lìa tất cả lưới tâm nghi
Nay lời ta nói bất tư nghị
Nên phải xem kỹ nghiệp nhơn duyên
Vô thượng Thế Tôn đời khó có
Pháp Tăng hai bửu cũng như vậy
Thân người khó được tin cũng khó
Tâm bố thí phước điền đều khó
Khó được xa lìa khỏi bát nạn
Được như pháp nhẫn cũng khó hơn
Tâm ấy khó được mà điều phục
Tu không tam muội lại cũng khó
Tu thiện tư duy như pháp tánh
Hai sự như vậy cũng đều khó
Tất cả phiền não khó xa lìa
Chứng được Bồ đề lại cũng khó
Nay ta nói sự đến Bồ đề
Dường như người đời nói biến hóa
Pháp của ta nói rời lìa ái
Hay phá tối tăm tu pháp lành
Phật dạy vô thượng chánh chơn đạo
Nên phải chí tâm siêng tu tập
Nếu muốn xa lìa ba ác cấu
Và tất cả các ma nghiệp khác
Chẳng bị phiền não nó làm hại
Phải nên theo Phật nghe chánh pháp
Nếu muốn có đủ ba thứ giới
Phải học đủ ba giải thoát môn
Liền hay phá hoại tam giới kiết
Cũng hay qua khỏi ba ác đạo
Nếu chẳng dứt tuyệt tánh Tam bửu
Vì hộ chánh pháp tăng thân mạng
Thì hay có đủ vô lượng thông
Người ấy gọi là như pháp trụ
Ở nơi tam thế không giác quán
Cũng chẳng còn trước tam thế pháp
Người ấy hay qua khỏi tam giới
Cũng còn chứng được như pháp nhẫn
Phàm phu thường bị vô minh che
Luôn bị tứ đảo nó vây bọc
Nơi không có pháp tưởng là pháp
Nơi không có vật tưởng là vật
Vì nhơn duyên ấy gọi điên đảo
Người như vậy đi nơi tà đạo
Nếu ai nói rằng mắt thấy sắc
Cho đến nói ý hay biết pháp
Người như vậy đi nơi điên đảo
Lưu chuyển sanh tử vô lượng kiếp
Nếu ai tu tập được tứ thiền
Thì được gọi là thế gian huệ
Hay độ tất cả các điên đảo
Ở nơi sanh tử cũng giải thoát
Ai hay điều phục các chúng sanh
Cũng hay xa lìa khỏi tứ lưu
Người như thế ấy khô sanh tử
Cũng hay đến được nơi bỉ ngạn
Nếu ai đầy đủ tứ như ý
Thì gọi Bồ Tát vô sở uý
Cũng hay dứt hẳn dòng sanh tử
Khiến các chúng sanh thoát khủng bố
Nếu ai tỏ rõ biết ngũ ấm
Người ấy hay đến bờ vô lậu
Biết rõ bất sanh cũng bất diệt
Hay khiến chúng sanh đến bỉ ngạn
Nếu ai ở trước Phật Thế Tôn
Sám hối phát lộ tất cả tội
Người ấy xa lìa các từ kiến
Hay đến bỉ ngạn khỏi sanh tử
Quán sát sanh tử nhiều thọ khổ
Hạnh nghiệp nhơn duyên đọa ác đạo
Do vì nhơn duyên gần ác hữu
Nên tạo vô lượng các ác nghiệp
Nếu hay xa lìa ác trí thức
Cũng hay xa lìa các tà kiến
Người ấy hay quán lỗi sanh tử
Cũng hay học hỏi đệ nhứt nghĩa
Nếu ai hay quán đệ nhứt không
Người ấy hay uống vị cam lộ
Phật thường tuyên nói đệ nhứt nghĩa
Người chí tâm nghe không có tướng
Phật nói lục nhập chơn thiệt không
Không có tạo tác không kẻ thọ
Chúng sanh điên đảo nói có tướng
Pháp tánh chơn thiệt vô sở hữu
Nếu có chúng sanh lục thọ ái
Thì hay sanh ra nhơn lục xá
Lục xúc như vậy chơn thiệt không
Tất cả các pháp cũng đều không
Như nhứt pháp tánh các pháp vũ
Như tất cả pháp một cũng vậy
Tất cả các pháp không sanh diệt
Cũng không tướng mạo không có vật
Như Lai tuyên nói vô thượng đạo
Tất cả các pháp như một pháp
Nếu thấy các pháp không tánh tướng
Người ấy chứng được chơn pháp nghĩa
Nếu ai tu hành mười ba nhẫn
Thì được giải thoát bờ sanh tử
Thiệt biết pháp tánh chúng sanh tánh
Được đạo vô thượng như Phật trước.
Lúc đức Thế Tôn nói kệ ấy, mười phương hàng hà sa số thế giới ngũ trược, tất cả chúng sanh đều được nghe. Mỗi mỗi thế giới chúng sanh nghe rồi liền được bất thối chuyển Bồ đề tâm, hoặc có chúng sanh chứng được đà lúc ấy ni, hoặc có chúng sanh được tam muội chánh định, hoặc có thành tựu được các nhẫn. Chúng sanh thế giới nầy nghe Phật nói kệ rồi, cũng có vô lượng chúng sanh được chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh ở tam thừa.
Quang vị Bồ Tát ở bên hoa sen tạo nấc thang thất bữu đủ các thứ hoa chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như Lai Phật nhựt đại từ bi quang vô lượng chúng sanh thọ nhiều khổ não, ngửa mong tuôn xối pháp vũ vô thượng diệt trừ chúng sanh phiền não tật bịnh. Có những chúng sanh kham làm pháp khí có thể lãnh thọ vô thượng pháp vị của Như Lai. Nguyện Phật nói bát đạo tịnh nơi pháp nhãn thăng lên hoa sen xô dẹp chúng ma. Mười phương thế giới vô lượng Bồ Tát đều làm chứng nhơn. Tỏ rõ hay thấy các pháp không tịch không có tướng mạo dường như hư không biết pháp vô ngã. Ngửa mong Như Lai nhớ lại thuở xưa lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề lập thệ nguyện. Lúc ấy đức Như Lai nói, nếu ta được đủ thập lực tứ vô sở úy sẽ thí ban chúng sanh cam lộ pháp vị đều khiến được khỏi biển lớn sanh tử. Ngày nay đã được quả toại mong Phật diễn nói pháp thanh tịnh độ các chúng sanh nơi biển sanh tử, hóa vô lượng người nơi đạo Bồ đề”.
Đức Thế Tôn liền lên thang báu vào ngồi trên đài hoa sen quán sát mười phương nói với Ba tuần rằng: “Nầy Ba tuần! Ngươi cùng nên sanh tâm hoan hỉ, tại sao, vì do ngươi làm nhơn duyên mà có hội đại tập nầy, cũng nhơn nơi người làm cho Phật thuyết pháp. Nhơn duyên thuyết pháp dứt các sanh tử qua khỏi tứ lưu khiến các chúng sanh đều được chánh pháp được tướng hư không. Các sự việc như vậy đều nhơn nơi người. Vậy ngươi nên thỉnh Phật, Phật sẽ thuyết pháp”.
Ba tuần nói: “Cù Đàm nếu không có sân tâm kiêu mạn tật đố sao lại làm não tôi mà tuyên nói pháp. Nếu sân hận kiêu mạn tật đố sao lại nói rằng ta được giải thoát”.
Đức Phật nói: “Nầy Ba tuần! Lúc ta ở thai mẹ trải qua mười tháng. Ngươi muốn đến hại ta, lòng ta lúc ấy đối với ngươi cũng không có sân hận. Lúc ta sơ sanh đại địa chấn động sáu cách, ngươi lại tuôn mưa đá khối, lúc ta uống sữa ngươi đem thuốc độc để vào sữa, lúc ta cỡi hương tượng ngươi ngươi làm đất rúng động muốn cho ta té, lúc ta ở trong rừng tu thiền định thế gian, ngươi dắt thể nữ đến toan làm loạn tâm ta, lúc ta khất thực ngươi mangđậu thúi bố thí ta, ta dầu thọ mà trọn không ăn đó. Lúc ta xuất thành ngươi tự biến thân làm rắn độc và ác tặc vây bốn phía thành. Ta đi trên hư không, ngươi lại phóng gío mưa. Lúc ta xuống ngựa ngươi tuôn lửa mạnh lớn. Lúc ta đi ngươi làm âm thanh ác dữ, cố ý lm cho năm người đi theo ta kinh sợ mà bỏ ta. Thân ta gầy ốm ngươi làm gío lạnh. Lúc ta tắm gội ngươi tuôn luồng nước chảy mạnh. Lúc ta ra khỏi sông rồi, ngươi muon hại ta nên hóa làm vô lượng sư tử ác thú. Lúc ta thọ cháo sữa của mục nữ dâng ngươi lại bỏ thuốc độc vào cháo rồi đi. Lúc ta đi đến cây Bồ đề, ở giữa đường ngươi làm mưa kim cương. Lúc ta ngồi toà kim cương gốc cây Bồ đề, ngươi sai bốn thể nữ đến muốn làm loạn rối ta.
Ba tuần! Dầu ngươi muốn làm hại ta như vậy, mà với ngươi ta không hề có lòng sân hận. Các sự việc của ngươi làm như vậy mà trọn chẳng loạn động được tâm ta. Ngươi lại xuất lãnh vô lượng trăm ngàn muôn bốn binh chủng hiện ra vô lượng ác sư muốn ta chẳng được Bồ đề. Lúc ta thành Vô thượng Bồ đề rồi, ngươi lại đến thỉnh ta xả thọ mạng. Cũng do nơi ngươi làm cho ta ở Sa Lúc ấy đại thông kia khất thực chẳng được. Lại cũng do ngươi mà vua A Xà Thế phóng voi say muốn hại ta. Cũng do ngươi mà Đề Bà Đạt Đa xô khối đá lớn lăn xuống muốn hại ta. Cũng do ngươi mà ta thọ Bà La Môn kia thỉnh ba tháng an cư ăn toàn lúa nuôi ngựa. Cũng do ngươi mà ta bị nàng Tôn Đà Lợi kia vu báng. Cũng do ngươi mà Thi Lợi Cúc Đa dùng hầm lửa thuốc độc phỉnh ta.
Ngày trước ngươi làm vô lượng ác sự như vậy chẳng hại được ta. Nay ngươi lại tụ họp chúng ma như vậy muốn đến hại ta, nhưng với ngươi ta không có tâm sân hận. Nay ta sẽ độ vô lượng ức ma, ta vì chúng sanh nên siêng tu tập từ bi hỉ xả.
Nếu ngươi chẳng tin lời ta, mười phương chư Phật chư đại Bồ Tát có thể chứng minh. Chỉ vì người mà ta ở trong ác thế nầy làm Phật sự. Dầu với ta ngươi làm vô lượng ác sự, mà ta vẫn cố theo dõi ngươi. Nay ta thiệt không có sân hận tật đố kiêu mạn, nơi ngươi ta tu tập từ tâm mà ngươi ở nơi ta sanh đại ác tâm.
Lành thay, nầy Ba tuần! Ngươi nên lìa ác tâm thưa thỉnh Phật nói pháp vô thượng. Ta muốn thọ ký Bồ đề cho ngươi. Đã thọ ký rồi, ta sẽ vì ngươi nói rộng pháp yếu. Ngươi được nghe pháp rồi sẽ được xa lìa tất cả ác nghiệp. Ta thường nghĩ nhớ các thứ phương tiện khiến ngươi giải thoát mà ngươi nơi ta thường sanh ác tâm. Ta thường ở nơi ngươi sanh lòng từ mẫn. Nay ngươi nên bỏ ác kiến ác ý, ta sẽ thọ ký Vô thượng Bồ đề cho ngươi”.
Ba tuần nghe lời ấy sanh lòng sân ác muốn về nhà lại liền thấy thân mình bị ngũ hệ phược, muốn phát tiếng lớn cũng chẳng phát được liền phun hơi độc muốn hại Phật.
Đức Phật biến hơi độc ấy thành hoa tu mạn, do thần lực Phật làm cho hoa ấy khắp đến mười phương chỗ hàng hà sa chư Phật để cúng dường, trên mỗi đức Phật hóa làm lọng hoa tu mạn.
Vô lượng Bồ Tát ở các thế giới ấy tự hỏi thần lực của ai biến hóa lọng ấy.
Vô lượng chư Phật bảo chúng Bồ Tát mình rằng: “Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai muốn vì ngũ trược chúng sanh mà diễn nói pháp yếu, nơi các pháp ấn cú môn nhập đà la ni hay phá tất cả ma cảnh giới lực, khai hiển tất cả Phật công đức lực, dụng tràng đại pháp chẳng dứt giống Phật, hay khiến tất cả thiện pháp tăng trưởng, hay hoại tất cả tà kiến chúng sanh, hay phá tất cả ác mộng bất tường, hay dứt tật bịnh binh đao cơ cẩn đấu tụng các sự bạo ác, lại hai điều phục tất cả Thiên Long Bát Bộ, hay thắp đuốc huệ chỉ dẫu tất cả đường sá bằng phẳng, hay khiến tất cả viễn ly ác kiến, hay dứt tất cả các ác chủng tánh, hay khiến tất cả đồng nhứt tánh, hay thủ hộ tất cả thành ấp tụ lạc Sa Môn Bà La Môn, hay biết tất cả tinh tú vận độ, hay học tất cả thế giới các sự, hay khiến tất cả xa lìa ác khẩu được vô ngại biên, quán tất cả pháp thông đạt pháp tánh như pháp mà trụ, hay nói pháp Đại thừa an ui Bồ Tát làm cho đều được tâm bất thối, hay ban bố pháp vị cam lộ vô thượng, hay làm cho chứng được vô sanh pháp nhẫn chuyển chánh pháp luân lợi ích điều phục vô lượng chúng trụ sáu pháp Ba la mật, hay khiến chúng sanh thấy đạo vô thượng, hay giáng pháp vũ hiển thị Phật sự quá tứ ma giới nhập đại Niết bàn kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Sắp muốn diễn nói các pháp như vậy. Như quá khứ chư Phật và vị lai chư Phật diên nói pháp, hiện tại thập phương chư Phật Thế Tôn trụ thế thuyết pháp giáo hóa chúng sanh đều là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni vậy. Quá khứ vị lai chư Phật Thế Tôn đều cũng như vậy”.
Các phương vô lượng Bồ Tát đều riêng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi từ trước chưa từng nghe kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni. Thế nào gọi là kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni? Mong đức Thế Tôn phân biệt giải nói, nhẫn đến khiến nhập đại Niết bàn, lợi ích vô lượng nhôn thiên tạp loại”.
Các phương chư Phật Thế Tôn đều riêng nói với chúng Bồ Tát rằng: “Nầy các thiện nam tử! Ta cũng muốn thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nghe thọ pháp ấy, vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh, vì phá hoại tất cả chúng sanh ác nghiệp, cho đến vì muốn nhập vào đại Niết bàn.
Nầy các thiện nam tử! nếu muốn cúng dường vô lượng chư Phật nơi một Phật thế giới, nếu muốn nghe học chánh pháp vô thượng pháp chưa từng nghe, nếu muốn thấy pháp hội Đại Tập, thì nên đến Ta Bà thế giới trụ sứ của Phật Thích Ca Mâu Ni”.
Vô lượng chúng Bồ Tát nhận lãnh giáo sắc nơi Phật, đều nói rằng: “Chúng tôi muốn ở nơi mt Phật thế giới mà được kính lễ cúng dường vô lượng chư Phật. Chúng tôi cũng muốn ở chỗ vô lượng chư Phật nghe học vô lượng pháp nghĩa, cũng muốn được nhìn thấy vô lượng thần thông và các sự bất tư nghị. Chẳng rõ cõi Ta Bà ấy có đảu chỗ ngồi chăng? Nếu có đủ chỗ ngồi thì được cúng dường lễ lạy và nghe học vô lượng chánh pháp”.
Các phương chư Phật đều bảo chúng Bồ Tát rằng: “nầy các thiện nam tử! Các ông chớ nên đối với Phật Như Lai sanh lòng nghi lự. Tại sao, vì cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, trí huệ phương tiện của Phật bất kh tư nghị, vì muốn điều phục tất cả chúng sanh.
Nầy các thiện nam tử! Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Như Lai trí huệ phương tiện chẳng hạn lượng được.
Giả sử tất cả thân ngũ ấm của tất cả chúng sanh đều cao lớn bằng núi Tu Di, nếu muốn Phật Thích Ca Mâu Ni có thể cho họ đều đủ chỗ ngồi trong một hột đình lịch, tất cả chúng sanh ấy thấy hột đình lịch chẳng rộng thêm mà chỗ ngồi của họ cũng chẳng hẹp, bổn chất của hột ấy nhu cũ chẳng tăng chẳng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Đại địa trong tất cả thế giới mười phương đem cho vào trong một vi trần, mà vi trần ấy không có tướng tăng giảm, đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Tất cả nước sông biển của tất cả thế giới mười phương cho vào một hột bụi nhỏ, mà hột bụi ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu gió còn tất cả thế giới mười phương có thể cho vào trong một lỗ chưn lông, mà lổ lông ấy không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu lửa của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào cả trong một lỗ chưn lông, mà lỗ lông ấy không có tăng giãm cũng không tổn hại. Đây gọi là Như Lai trí huệ Phương tiện.
Còn nữa, nầy các thiện nam tử! Bao nhiêu chúng sanh của tất cả thế giới mười phương có thể cho vào một vi trần, mà vi trần ấy vẫn như cũ không có tướng tăng giảm. Đây gọi là Như Lai trí huệ phương tiện.
Lại nầy các thiện nam tử! Tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới mười phương, tam thế có bao nhiêu nghiệp thân khẩu ý, tam thế thọ bao nhiêu khổ lạc không khổ không lạc, tam thế thọ quả báo, tam thế có bao nhiêu địa thủy hỏa phong cho đến tất cả pháp giới, Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong một niệm tỏ rõ thông đạt chẳng cần suy nghĩ, cũng chẳng xưng rằng ta biết ta rõ.
Nầy các thiện nam tử! Phật Thích Ca Mâu Ni có đủ trí huệ phương tiện như vậy trụ nơi Ta Bà thế giới”.
Lúc nghe pháp ấy, trong mười phương vô lượng Phật độ, vô lượng Bồ Tát được nghe vô lượng công đức của Phật, mỗi mỗi Bồ Tát liền được vô lượng thần thông
Bấy giờ phương Đông Diệu Lạc thế giới Phật A Súc Bệ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát, từ thế giới ấy trong một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi Phật A Súc Bệ ngồi trên hoá liên hoa, vô lượng Bồ Tát cũng đều ngồi trên hóa liên hoa.
Đông phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên hoa.
Như phương Đông, phương Nam, phương Bắc cũng như vậy.
Bấy giờ Tây phương An Lạc thế giới Phật Vô Lượng Thọ Như Lai cùng vô lượng thần thông Bồ Tát từ thế giới An Lạc trong khoảng một niệm đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi trên hóa liên hoa.
Tây phương vô lượng thế giới vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát đều đến đều đến Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi ngồi Phật và Bồ Tát trên hóa liên hoa.
Như Tây Phương, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng phương và Hạ phương cũng như vậy. Vô lượng chư Phật vô lượng thần thông Bồ Tát trong khoảng một niệm đều đến Thích Ca Mâu Ni Phật Ta Bà thế giới chỗ pháp hội Đại Tập. Đến rồi đều ngồi trên hóa liên hoa.
Vô lượng thần thông Bồ Tát từ mười phương đến đều dùng phước lực thần thông của mình làm ra phẩm vật cúng dường. Hoặc kim sa hòa hương thơm rải lên trên đức Phật. Hoặc các thứ hương hoa đẹp rải lên trên đức Phật. Hoặc đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng. Hoặc quỳ dài nói ệ tán thán. Hoặc nhiếp tâm chánh niệm tư duy. Hoặc mua kim hoa nhẫn đến mưa Ưu bát la hoa. Hoặc dùng diệu nhãn ngắm nhìn thân Phật.
Bấy giờ có đồng tử tên là Tu Bồ đề dùng thần lực của mình và thần lực Phật phát âm thanh lớn nói kệ rằng:
Chư Phật vô lượng đại bửu tràng
Hay phá tất cả tâm nghi hoặc
Từ trước chưa từng được thấy nghe
Đại hội vô lượng chúng như vậy
Đầy thế giới nầy vô lượng Phật
Chư Bồ Tát đầy đủ phước đức
Chỗ này tức là đại bửu tháp
Đều được cúng dường mười phương Phật
Vô lượng chư Phật nhơn duyên gì
Đều đến họp thế giới ác này
Nay quốc độ nầy ác chúng sanh
Cũng còn chẳng tin được Phật sự
Vì phá tất cả đại ma nghiệp
Vì muốn đầy đủ đại công đức
Vì muốn thị hiện đại thần thông
Vì vậy chư Phật họp tại đây
Hội nầy nếu có các chúng sanh
Chí tâm sanh lòng tin vui mừng
Nếu đem tâm tin nghe học pháp
Người nầy thì hay phá ma nghiệp
Nếu muốn thông đạt vô thượng thừa
Và muốn tu hành bát chánh đạo
Nếu muốn dứt hẳn các phiền não
Phải nên chí tâm nghe chánh pháp
Thỉnh mười phương Phật và Bồ Tát
Đều đến Đại Tập ngồi liên hoa
Thích ca Như Lai muốn nói pháp
Vì hộ chánh pháp trụ vô lượng
Âm thanh như vậy đầy khắp đại hội, có vô lượng Bồ Tát được vô lượng nhẫn, khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi đã ngồi xong rồi, ngưỡng mong tuyên nói chánh pháp nhiếp tất cả pháp vô úy vi diệu hay phá ma nghiệp qua khỏi ma đạo, xô ngã ma tràng kiến lập thắng tràng, phá các phiền não điều phục oán địch, xé các lưới nghi nhập vào môn Nhứt thiết chủng trí, qua khỏi các bố úy thủ hộ Bồ Tát, cũng làm cho chư Bồ Tát tất cả đều thọ lạc, được môn huệ phương tiện Bồ Tát, để tất cả chúng được an lạc được tất cả tam muội nhẫn nhục quang minh, được môn huệ phương tiện, được ba mươi bảy phẩm trợc đạo tâm đà la ni.
Ngưỡng mong Như Lai rộng phân biệt diễn nói chúng sanh được an lạc được thượng sắc, thượng lục, thượng xúc, thượng biện, thượng niệm, thượng ý, để khi nghe pháp rồi chẳng quên mất, để trừ điểm xấu ác trong quốc độ, để thọ trì cấm giới tu tập chánh đạo chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề vậy.
Ngưỡng mong Như Lai vì các sự việc như vậy mà ban tuyên rộng nói đà la ni ấy, vì để hộ pháp để chẳng dứt giống Tam bửu, để chỉ dường Bồ đề cho tất cả, để chẳng phân biệt hư không với pháp tánh, cì tướng không rỗng bình đẳng vậy, hiển thị các tướng sáng tối có không kia đây đều bình đẳng, để chẳng phân biệt tất cả các pháp chúng sanh thọ mạng sĩ phu, bất sanh bất diệt dứt tất cả tướng tất cả biến dịch, không có vật như hư không là thiệt tánh.
Ngưỡng mong Thích Ca Mâu Ni Như Lai và chư Phật rộng tuyên phân biệt đà la ni lớn, để cho vô lượng vô biên chúng sanh chơn thiệt thấy Tam bửu, để cho vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Tất cả vô lượng chư Phật yên lặng hứa khả.
Hứa khả rồi, chư Phật liền nhập tam muội chẳng phải thượng diệu cảnh giới thệ nguyện công đức.
Trong Ta Bà thế giới nầy có bao nhiêu địa ngục, ngạ qủi, súc sanh cá sự khổ liền dứt được thấy chư Phật. Có những chúng sanh nghi hoặc không tin thì được tịnh tín. Tất cả chúng sanh thảy đều không có những bịnh tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, nghi ngờ, ác kiến, cuồng lọan, thâm tâm tịch tĩnh, mỗi mỗi đều tự nghĩ rằng: Riêng ta một mình ngồi trước đức Phật nghe học chánh pháp. Dức Như Lai Thế Tôn chỉ vì ta mà thuyết pháp, riêng điều phục ta dứt các phiền não, như chỗ ta thỉnh mà thuyết pháp cho ta.
Tất cả chúng sanh trong thế giới khác miệng đồng lời nói rằng: “Nguyện đức Phật Như Lai thuyết pháp, tôi sẽ đảnh đới thọ trì”.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên tất cả chúng sanh thế giới nầy cúng dường chư Phật.
Chúng sanh ở thế giới nầy nghe lời khuyên bảo của Phật rồi liền cúng dường tất cả chư Phật những là hương hoa phan lọng kỹ nhạc tán thán.
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn liền nói rằng: “Thập phương chư Phật! Lắng nghe lắng nghe, ta vì bổn nguyện lực thuở trước nên ở tại Ta Bà thế giới trong hàng chúng sanh có đủ ngũ trược ác mà thành Vô thượng Bồ đề. Các chúng sanh nầy mê chánh đẹo, bị vô minh che đậy nên mất chánh niệm tăng trưởng phiền não, an ở ba ác đạo thích làm mười nghiệp ác, xa lìa thiện căn bỏ nghiệp công đức, ưa tạo ngũ nghịch ham mê phi pháp, phỉ báng chánh điển, chê bai Thánh nơn, sân hận quá nặng chẳng thích tu tâm từ, vật của Phật của Tăng tùy ý lấy dùng, nơi nghiệp nhơn quả báo không có thân tín, chẳng thích cúng dường Sư trưởng Hoà thượng những bực có đức. Vì những kẻ tệ ác như vậy mà ta tu tâm đại từ bi. Do nhơn duyên ấy mà ta thành Phật đạo tại Ta Bà thế giới nầy. Đã thành đạo rồi ta thường thích tu tập pháp cần tinh tiến, nhẫn chịu các sự khổ đói khát lạnh nóng đi khắp nước thành ấp tụ lạc vì các chúng sanh mà diễn nói chánh pháp.
Hoặc có chúng sanh nghèo cùng bịnh khổ thân thể xấu hèn, vì thương xót họ mà ta thọ nhận họ cùng thí vật thực thúi dơ, vì muốn cho thí chủ tăng trưởng phước đức nên ta đều ăn đó. Ta cũng nhận những y phục to rít hôi do rách rưới của họ dâng cúng. Những chỗ ở trong núi bên khe sông trong đồng hoang vắng trong rừng rậm mà họ dâng cúng ta đều nhận. Hoặc là cỏ, là lá, là đá, là gạch, vì thương chúng sanh nên họ thí cho món gì ta đều nhận lấy để ngồi nằm. Ta do cần tinh tiến mà tu thiện xảo phương tiện. Vì hàng Sát Đế Lợi nói việc nhà vua. Vì hàng Bà La Môn nói bốn phệ đà tinh tú tế tự. Ví các đại thần nói những sự trị hóa. Vì các y sư nói những bịnh do tứ đại tăng giảm. Vì các nông dân thương nghiệp mà nói về sự thủ hộ ngũ cốc tài sản. Vì hàng nữ nhơn mà nói thủ hộ anh lạc siêng làm điều lành được chồng bất cộng. Vì hàng xuất gia má nói nhẫn nhục. Ta vì điều phục họ mà nói những pháp như vậy. Người chưa được lợi ích lành tốt thì khuyên họ khiến họ được. Người chưa được chứng thì khuyên họ cho họ được chứng. Người chưa giải thoát thì khuyên họ cho họ được giải thoát. Vì điều phục chúng sanh mà ta chịu khổ não. Ta vì chúng sanh mà tu tập đại từ bi nhưng các chúng sanh còn có kẻ sanh lòng ác độc ối với ta: hoặc đánh hoặc mắng hoặc ganh tỵ. Có kẻ nói Sa Môn Cù Đàm là nhà ảo thuật dâu nói trì giới mà ổng chứa vợ con, dầu tán thán từ tâm mà ổng hại chúng sanh, dầu tán thán việc bỏ giàu sang mà ổng ở cung vua. Sa Môn Cù Đàm giỏi biết phương thuật nên dầu gần vợ mà chẳng sanh con cái. Sa Môn Cù Đàm hay khéo trị nữ thân nên khiến bà Mạt Lợi sanh lòng mến trọng ông Tu Đạt sanh ý tưởng tông kính. Sa Môn Cù Đàm giỏi biết được pháp nên khiến thân mình thường có quang minh. Ta bị vô lượng tiếng xấu như vậy.
Hoặc có kẻ lấy đá đất gỗ đao độc dược đánh ném muốn giết hại ta. Vì muốn giết ta nên có kẻ thả ác sư tử ác tượng độc xà. Nơi ta ở họ phóng lửa đốt ném phẩn dơ bất tịnh. Họ làm các thứ ác phương tiện để phá hoại pháp ta, để diệt pháp ta, để xô tràng pháp, để phá thuyền pháp, để dứt dứt pháp tánh, để phá pháp tạng.
Duy nguyện thập phương chư Phật quan sát quá khứ chư Phật, có đức Phật nào thành đạo trong thế giới ngũ trược mà chẳng nói Đại Tập kim cương phát tâm nhơn duyên tu tại đà la ni như vậy, để phá hoại tất cả các ma lực, để giống Tam bảo chẳng đoạn tuyệt để các chúng sanh tăng trưởng thiện pháp, để phá hoại tất cả oán địch của Phật pháp, để khiến chúng sanh xa lìa khổ, để diệt ác nghiệp nơi thân khẩu ý, để khiến nhơn thiên tâm tánh điều nhu, để các quốc độ thọ hưởng an lạc, để phá thế gian các ác tướng, để khiến chúng sanh đều được lục Ba la mật, vì khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì dạy thiện xảo phương tiện cho chư Bồ Tát, vì làm cho chư Bồ Tát thứ đệ an trụ vậy.
Do những nhơn duyên như vậy nên quá khứ chẳng phải vì các ngũ trược ác thế chúng sanh diễn nói Đại Tập kim cương pháp tâm nhơn duyên tự tại đà la ni nầy.
Nay tại Ta Bà thế giới nầy thập phương chư Phật đều đến tập họp, duy nguyện chẳng phải đều riêng nói chú đà la ni ấy, vì thương xót chúng sanh vậy, vì sẽ lưu bố kinh Đại Tập vậy. Vì cho chánh pháp được còn lâu nơi thế giới nầy vậy, vì khiến các ác ma chẳng được tiện lợi vậy”.
Lúc ấy chư Phật liền đồng thanh nói đà la ni cú:
“An gìa lã, an gìa lã, bán gìa lã, bà bà gìa lã, bà lã bà gìa lã, bà xà tỉ ha, mạn ra bà tỳ, a rí, a khê bà lãnh, đề mế, độ mộ vẫn, kiều bà tri, kiều do ly, ma bà a ni, tam ma đa bà đề lãnh, a di a di, đà ma kiều xà, di ra nâu phá lê, phá la ba dẫn, gìa ninh, gìa gia bà lã dẫn, hi lợi, hi đề, hi la, kiêu hi la, chiêm bà đề, bà ca tu, tra ca dẫn, tra ca bà la dản, gìa na ba ha dẫn, hi lợi dẫn, thi lợi dẫn, tần địa lợi bà dẫn, cụ bà hi, thù lãnh, di ra thù lãnh, thù tỉ, a kỳ ly, a bà di, bà lợi dã, đa đá tha, phú lưu, hi lợi, chiến địa ly, ma đà di, đà di cứu chân lưu, mâu châu lưu, a gía tra, chí lợi. Chí di lợi, giá bà ha, châu bà, châu lũ, mê ra bà ha, cứu lũ, bà la cứu động, cứu động, ma ha bà lã sa, đoạn động, đoạn động, ma ha tát ra hi lực đà xà, phú bãi, tu phú bãi, độ ma ba lợi ha lợi, a bà di, lưu chi ninh, ca lã xoa, a đà ma đâu, tỉ bà ha, đề đề lợi, ma ma lợi, ba xá khê, hoặc hoặc lã, lộ ca tỉ na xà ca, bà thì lợi, bà thì la đà ngâm, bà thì ly đà đề, chước ca la bà thì ly, gia cư ly, giá ca la bà đề, đà ngâm, đà ngâm, bà lãnh, mâu ly tra ngâm, hưu hưu ngâm, đa gìa tần bà ngâm, xá lợi xa, lưu lưu châu, chí lợi châu lợi, mâu ngâm mộ đà ngâm, mộ đồ ninh, mộ đồ ninh, già già la ni, mâu đồ ninh, tán bà lã mâu đồ ninh, đề đề la xà ni, ma hê thủ la lã xà ni, luật sư bà ni, đà lã bà chí, chiến đồ lã tố mế, tát bà tát tả a đề sất đa, xa đà đâu bà a na, ma di ni, bà lã lã đề, ô xà kỳ ly, tỉ tỉ na, bà na ha lã, phục Phật ngâm, cừu lưu, mâu lưu, mâu lưu, hi hi, hi hi, a lã, a lã, ca ca đồ bà ha, hi hi đa, a do na, kiền đồ chiêm bà tư, kiệt đà ni, a ba a ha ninh, mạt lực gìa tỉ lưu, phá la tát đá, a lộ sa bà đề, hi lợi hi lợi, dạ đá bà xà xà, tá kỳ la, dạ đá ba lan gía, hi lực đà bà ha, tát đa ba lợi bà bà, mạt lực gìa tỳ lô ha ni, a gía lã Phật đề, đà xà ba la lã giá ba gía xà, tân đồ hi lục đà xà, chiến đà lã bà lã ninh, a gía ngâm thâu đà ninh, bà lã ký lã ma lực gìa, y lã, ba lã ký lã ma lực gìa, y lã, y lợi ngâm, ba cát tì, bà la bà lã dẫn, tát bà lã đa đá, tát đa nâu kiệt tì, a na bà lã na phục luật dẫn, a la đồ, an gìa ngâm, xá di ni, tỉ bà la bà du hi, a hi đa, a bà hi, ni lã bà xà bà, a chi la mạt lực gìa, lã bà na, la cừu bà ngâm, lê lặc na bằng xá, đà ma gìa xà, xà la chiến đà, mâu đà la bà đề, ma ha phục đa tì tỉ bà tam mâu đà, đà la ni mâu đà ly na, ma khê mâu đà lã, sa lã bà đề, tư tỉ đà mâu đà, a bà đa ni, bà bà đa ni, mộ ca lã, tỉ đậu đa lã tư na, xí đề mâu địa ly đô tư, di ca chi, tỉ lợi si tỉ ca xà, bà ha bà ha ký đồ, ca bà tra, ni la ba la đề đa hi lực đà đà xà, mâu đà đa đà la ni, đà la, đà la, đà la, đàn đề la, đàn đề la hưu ni la tát bà hi lực đà xà vật là ly đô tư xà tra, xà bà tra, xà khê bà tra, tu ma đề, ma đề, ma ha phục đa vật đà la đa, dị kiều chi tán ca la, bà đồ xà đa na ni, thủ lực đa phục đa, y di ni di ni, bà gía ni, thâu sa tát gía ni, mâu địa ly đa gía lợi dã hà đề mế na, bà tỉ đá, a na nhã đá, ma ha phú nhã tam mâu gía xà đa la ma ha già lưu ni ca mâu địa ly đa, tát bà tam miệu ba la đề ban, chí lã xà la đâu, tát bà ni lê, tát bà mâu ni bà la sa sa ma ha ca lưu na tam ma đề nhã na nhã nabà ly nan, ma ra đa kiệt tỳ, tỉ lợi dã tỉ lợi dã, bà lê na đề sất đa, tát bà phục đô ba xà, sa ha”.
Lúc ấy Ta Bà thế giới chúng sanh nghe đà la ni chú ấy rồi, đều xưng rằng: “Nam mô Nhứt thiết thập phương chư Phật. Lần thứ hai lần thứ ba cũng xưng như vậy. Thậm kỳ thậm đặc chư Phật đại hội bất khả tư nghị, sư việc của chư Phật Bồ Tát cũng bất khả tư nghị. Từ xưa chúng tôi chưa từng được nghe tên đà la ni như vậy mà nay được nghe, có thể phá hoại tất cả ma cảnh giới, nối thạnh tánh Tam bửu, dứt lưới nghi ma, được các pháp lành đầy đủ Phật sự, vì các sự như vậy mà nói đại tổng trì ấy, vì các chúng sanh thủ trước nơi tâm mà làm ấn niêm, niêm phong pháp ấm nhập giới của các chúng sanh nhẫn đến chúng được Đại bát Niết bàn”.
Trong đại hội có một đồng tử Bồ Tát tên là Nguyệt Quang, từ liên hoa dậy nhứt tâm hiệp chưởng quán sát mười phương, do Phật thần lực phát âm thanh lớn nghe khắp Ta Bà thế giới mà nói kệ rằng:
Hội Đại Tập nầy rất khó được
Đầy đủ trí huệ cũng lại khó
Khó được gần kề thiện trí thức
Pháp ấn như vậy khó được nghe
Như Lai thương xót các chúng sanh
Vì chúng sanh nên hộ chánh pháp
Nói đà la ni vô thượng ấy
Để phá hoại hết các ma lực
Mười phương chư Phật nói chú ấy
Để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu
Hay trừ tất cả sự giận tranh
Cũng hay tăng trưởng vô thượng nhẫn
Tăng ích chúng sanh các thiện căn
Tiêu diệt quốc độ các ác tướng
Hay phá chúng sanh ba nghiệp ác
Cũng khiến xa lìa các ác kiến
Phật nói tổng trì vô thượng ấy
Vì muốn biển thị đao vô thượng
Cũng để đủ sáu Ba la mật
Chơn thiệt tu tập đạo Bồ đề
Chú ấy tức là thiện phương tiện
Cũng hay tăng trưởng vô ngại trí
Nhiếp lấy tất cả các thiện pháp
Thế nên gọi là chú vô thượng
Tu đủ ba mươi bảy đạo phẩm
Gọi là vô cấu Bồ đề đạo
Hay dứt tất cả tâm nghi hoặc
Và dứt chúng sanh các phiền não
Chú nầy tức là chơn thiệt ngữ
Tỏ rõ nhìn thấy đạo Bồ đề
Nay tôi muốn nói đà la ni
Đây thì gọi là vô thượng thắng
Vì muốn ủng hộ các Pháp sư
Và hộ người nghe học chú nầy
Ai muốn nghe muốn học chú nầy
Tôi nay nói chú chớ sanh nghi
Vô thượng vô thắng đà la ni
Tức là trí huệ tối vô thượng.
Lúc ấy có vô thượng hằng hà sa đồng tử Bồ Tát khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi cũng muốn nói đà la ni, nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc. Ưu Bà Di trước nên tắm gọi thân tâm sạch sẽ, mặc y phục mới, dáng điệu hương hoa cúng dường Tam bửu rồi lên pháp tòa nói đà la ni. Tứ chúng như vậy không có chúng sanh nào có thể khởi ác sự làm hại được. Người ấy thân tâm chẳng ô trược tứ đại thanh tịnh, các bịnh khổ nơi thân thảy đều xa lìa. Pháp sư ấy nếu có quá khứ nghiệp nhơn duyên bịnh thảy đều tiêu diệt. Người nghe pháp ấy cũng diệt trừ quá khứ nghiệp nhơn duyên bịnh”.
Lúc ấy Nguyệt Quang đồng tử Bồ Tát hướng lên thập phương chư Phật tại hội Đại Tập, qùy dài chấp tay mà nói chú rằng:
“Ma đề a tam ma lộ ti, mế la tố ma bà dẫn,y hi na gía ni, na bà cửa gía ni, na gía ni, mâu la thâu đà ni, bà đồ khê, bà đồ khê, tu la la ni, na bà tu la la ni, phục đa câu tri, ba lợi xa đà, xà la khê, xà la khê bà di, xà la khê na, ma xoa khê, ca ca khê, ba ha, ha ha, hưu hưu hưu, bát thi tỳ đà na lợi xa đà, a ma ma, khê ma, mâu đà la, a đà la khê bà, tán ca la ni, ba lợi xa đà bồ đề sa xí đề tỉ ma, tỉ tỉ ma, ma ha tỉ tỉ ma, phục đa câu tri, a ca xa giới bà bà ba lợi xa đà, sá ha”.
Nguyệt Quang Bồ Tát nói chú rồi, Ta Bà thế giới thập mươi chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thanh Văn, Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Thiên Long Bát Bộ đồng thanh xướng rằng: “Lành thay lành thay! Bồ Tát đồng tử khéo có thể nói đại đà la ni ấy đề phá ma nghiệp và ác tri thức cùng các bịnh nơi thân tâm, đây là thượng huệ ấn”.
Trong đại hội có một Phạm Vương tên là Bồ đề Tự Tại biến thân mình làm hình nữ nhơn đoan nghiêm xinh đẹp hơn hàng nhơn thiên, dùng diệu anh lạc để tự trang nghiêm, ở trước Tây phương Phật A Di Đà Như Lai chắp tay bạch rằng: “Duy nguyện đức Như Lai gia thần lực cho tôi làm cho tôi một âm thanh vang khắp Ta Bà thế giới nầy. Nay tôi muốn nói đà la ni chú để hộ trợ người thuyết pháp và người nghe pháp. Cũng làm cho sau lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ không ai có thể ỡ nơi người nói pháp nầy mà khởi ác sự gây hại được, hoặc là ma vương, hoặc là ma vương cha mẹ con cái quyến thuộc, hoặc là Thiên, Long, A Tu La, Dạ Xoa, Ca Lâu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gìa, Nhơn và Phi nhơn, hoặc Cưu Bà Trà, hoặc Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Lệ Lê Đa, Tì Xá Xà, Dạ Xoa, La Sát, cùng cha mẹ con cái quyến thuộc, tất cả ác qủy thần chẳng có thể ở nơi Pháp sư ấy gây hại được nhẫn đến chẳng thể động được một sợi lông của Pháp sư ấy.
Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho tôi, khiến âm thanh nói chú của tôi vang khắp thế giới nầy”.
Có một Thiên Đế Thích tên là Cao Trì lên tiếng bảo Bồ Đề Tự Tại rằng: “Nầy đại tỷ! Chớ nên ở chỗ đức Như Lai mà sanh tâm đùa giỡn, tại sao, vì đùa giỡn là pháp phàm phu, Như Lai đã dứt sự nghiệp phàm phu, tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, Như Lai chẳng tăng pháp hữu vi mà chỉ tăng pháp không, dứt các âm thanh tự cú. Như Lai ở nơi đại tỷ chẳng sanh tranh tụng, chỉ thấy bình đẳng nhứt tướng vô tướng dường như hư không. Luận về hư không thì không có ba hữu vi không có giác quán chẳng rời hữu vi không có chướng ngại. Như Lai Thế Tôn cũng như vậy nơi tất cả pháp không có chướng ngại, nơi dục nơi giác quán thọ mạng sĩ phu ấm giới nhập âm thanh tự cú thảy đều vô ngại. Nầy đại tỷ! Nay sao lại ở nơi đức Như Lai mà sanh tâm đùa giỡn?”.
Vô Lượng Thọ Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: “Nầy Thiên Đế! Nên tư duy trước rồi sau sẽ phát ngôn chớ được lúc sau sanh lòng hối hận. Tại sao vậy? Nữ nhơn nầy là đại trượng phu đã ở chỗ vô lượng chư Phật tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm đại chúng nầy mà hiện thân nữ thiệt chẳng phải là nữ vậy, đây tức là thân đại Bồ Tát. Sao Thiên Đế lại gọi là đại tỷ?”.
Nghe Phật nói, Đế Thích đến trước Bồ Đề Tự Tại sám hối.
Bồ Đề Tự Tại Phạm Vương nói: “Ta thọ ngươi sám hối để ngươi khỏi bị quả ác khẩu”.
Phạm Vương bạch Phật Vô Lượng Thọ rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu Thiên Đế Thích Cao Trì ấy mà không sám hối thì sẽ bị quả báo ác khẩu thế nào?”.
VôLượng Thọ Phật nói: “Nầy Phạm Vương! Nếu Thiên Đế ấy mà chẳng sám hối thì sẽ thường thọ thân nữ nhơn trong tám vạn bốn ngàn đời thân thể xấu xí hôi dơ bất tịnh. Vì vậy nên chúng sanh phải giữ gìn nơi miệng”.
Vô Lượng Thọ Phật bảo Phạm Vương Bồ Đề Tự Tại rằng: “Nay Phật ban cho ông oai thần đạo lực bèn được nói đà la ni chú”.
Phạm Vương cung kính bạch Phật thập phương chư Phật, chư Bồ Tát và tất cả nhơn thiên: “Duy nguyện lắng nghe. Nếu ai muốn khiến chánh pháp Như Lai còn lâu tại thế giới, ai muốn ủng hộ người thuyết pháp và người nghe pháp. Duy nguyện chư Phật ban cho tôi thỏa mãn chí nguyện”.
Nói lời ấy rồi, âm thanh của Phạm Vương liền vang khắp Ta Bà thế giới. Tất cả Phạm Vương Thiên tất cả Đế Thích đều nói rằng: “Ta cho ông toại nguyện và cũng muốn thọ trì”.
Bồ Đề Tự Tại Phạm Vương nói chú rằng: “A ma lê, tỉ ma lê, gìa na sa tri, ba lê chiến tri, ma ha chiến tri, gía di, ma ha gía di, tố mế, đa di, a bà ha, tỉ bà ha, tu gìa xà ni ra khê bà, mâu la ba lợi xa đà. DạXoa chiến tri, tỉ xá gía chiến đồ, a bà a đa ni, tam bà la đá ni, sa gìa la ni, chiêm bà ni, mộ ha ni, úc ma gía tra ni, ha ha ma ma ha ha, a đa gía ni, khê gìa xá bà, a ma la, a mâu la, mâu la ba lợi bạt dẫn, a sá la khê bà, sá ha”.
Nghe chú xong, tất cả nhơn thiên đều tán thán rằng: “Lành thay lành thay, đà la ni nầy bất khả tư nghị không có gì hơn được”.
Phạm Vương lại nói rằng: “Nếu ai chẳng điều phục được ác quỉ nghe tổng trì nầy rồi thì có thể điều. Nếu ai thọ trì thần chú nầy mà ở quốc độ nào có tín tâm quốc vương, thì tất cả nam nữ hoặc lớn hay nhỏ hoặc chư Thiên hay thế nhơn đối với quốc vươngấy chẳng thể khởi sự ác làm hại được. Nếu ai khởi ác tâm gây ác sự thì đầu kẻ ấy sẽ bể làm bảy phần, tâm họ khô cháy, thận bị bịnh lại, kẻ có thần thông thì bị thối thất, gió dữ thổi thân họ sa vào địa ngục. Tùy xứ nào có thần chú nầy lưu bố thí tôi cũng tự sẽ thủ hộ khiến được xa lìa tất cả các ác sự, người thọ trì người nghe chú chẳng thiếu y phục, ngọa cụ, y dược, các vật cần dùng”.
Lúc ấy trong đại hội có một Phạm Thiên tên là Chánh Ngữ cũng hiện thân mình làm hình nữ nhơn thề rằng: “Nay tôi ở Ta Bà thế giới trước chư Phật đây chí tâm hộ pháp cho đến sau lúc Thích Ca Như Lai diệt độ cũng sẽ hộ trì chánh pháp, tùy thần chú nầy được lưu bố ở xứ nào tôi sẽ hộ quốc độ ấy, người thuyết người nghe đều làm cho xa lìa ma nghiệp và tất cả sự ác. Nếu có Pháp sư muốn thuyết pháp để điều chúng sanh thì trước nên đọc tụng đà la ni nầy”.
Liền nói chú rằng: “A bà mế, tỉ ma mế, am bà la, am bà ngâm, ba lợi đồ, phú sa ba la bà ha, xà lưu ca, ma khê la xà, y lợi di lợi, ký lợi di lợi, kỳ đề gía la mâu xà ly, mâu đà la mục xí, sá ha”.
Nếu có Pháp sư trước khi thuyết pháp mà đọc tụng tổng trì ấy, tôi do thiên nhĩ sẽ đến nghe pháp. Nghe rồi tôi đến tại pháp hội ấy làm cho người dự hội xa lìa các ác sự chì tâm thính thọ. Trì chú như vậy nếu tôi nghe rồi mà chẳng tự đến đó, thì là khi dối quá khứ vị lai hiện tại thấp phương vô lượng chư Phật Thế Tôn, cũng sẽ ở vị lai tôi chẳng được thành Vô thượng Bồ đề. Nếu lúc tôi đến đó thì làm cho Pháp sư được vô ngại biện được vô sở úy, người nghe pháp thì xa lìa bịnh khổ và lòng nghi hoặc, cũng xa lìa đói khát lạnh nóng binh đao oán thù hổ sói độc trùng tất cả các sự ác.
Duy nguyện thập phương tất cả chư Phật gia thần lực cho tôi”.
Thích Ca Mâu Ni Như Lai bạch chư Phật rằng: “Nay ta sẽ ban thần chú cho Phạm Thiên nầy để hộ chánh pháp”.
Liền nói chú rằng: “Giá mộ tri, mộ đồ ba lợi xa đà, a mâu ma, a mâu ma, a mâu ma, sa la xoa, sa la cứu tư, di khê ba lợi bà ha, gía la ma, xà đá bà, tu tỉ khê, a mâu la ba lợi xa đề, tát bà Phật đà a đề sất dẫn, sá ha”.
Nói thần chú ấy rồi, Thế Tôn bảo Phạm Thiên rằng: “Nầy Phạm Thiên! Sức trì thần chú ấy có thể điều phục tất cả chúng sanh”.
Phạm Thiên bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi sở dĩ hiện thân nữ nầy để điều phục tất cả nữ nhơn. Nếu có nữ nhơn muốn sanh nam tử thì nên đọc tổng trì nầy. Đọc rồi liền được sanh nam tử. Nếu nhàm con cái liền chẳng còn sanh sản nữa. Nếu có người thọ trì đọc tụng chú nầy thì tôi sẽ chí tâm vệ hộ người ấy”.
Bấy giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên là Thiện Hệ Ý đứng trước Phật Bửu Quang Công Đức hiện thân như Phạm Thiên, hoặc như Thiên Đế Thích, hoặc như Tự Tại Thiên, hoặc hiện hình Tha Hóa Tự Tại Thiên, hoặc Đâu Suất Thiên, hoặc Dạ Ma Thiên, hoặc hiện hình Đề Đầu Lại Tra, hoặc Tỳ Lâu Lặc Xoa, hoặc Tỳ Lâu Bắc Xoa, hoặc Tỳ Sa Môn Thiên Vương, hoặc hiện hình vua Rồng, hình vua A Tu La, hình vua Khẩn Na La, hình vua Ca Lâu La, hình vua Dạ Xoa, hình vua La Sát, hình vua Tất Lực Ca, hình vua Tỳ Xá Xà, hình vua Cưu Bàn Trà, hình Sát Đế Lợi, hình Bà La Môn, hình Thủ Đà, hình Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hình Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc hiện hình sư tử, hổ, sói, độc xà, bò, ngựa, voi, hoặc hình các loài chim, trong một thời gian có thể thị hiện tám vạn bốn ngàn thân hình các loài.
Tôn giả Phú Lâu Na Di Đà La Ni Tử bạch Phật Thích Ca Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà Bồ Tát ấy thị hiện tám vạn bốn ngàn các thân hình như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Phú Lâu Na! Thiện Hệ Ý Bồ Tát ấy nhập tam muội bất khả tư nghị chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn Duyên Giác. Bồ Tát ấy dùng các thiện phương tiện như vậy để điều phục chúng sanh. Tùy theo thân hình của chúng sanh, ý sắc tam muội đều có thể hiện làm như vậy.
Nếu có chúng sanh tôn thờ Phạm Thiên kính niệm Phạm Thiên liền hiện hình Phạm Thiên vì họ nói pháp tam thừa, cho đến kính thờ Phật liền hiện thân Phật mà vì họ nói tam thừa pháp.
Nếu có chúng sanh tôn thờ súc loại chim loại liền hiện thân súc thân chim ấy mà vì họ thuyết pháp.
Nếu có chúng sanh tôn thờ thân sơn cốc sông khe cây rừng trăm giống thảo mộc liền hiện thân như vậy để thuyết pháp điều phục.
Nếu có chúng sanh tham tài lợi thì trước dùng của cải ban thí rồi sau nói pháp tam thừa để phá lòng tham.
Nếu người có bịnh thì ban cho y dược, hoặc cho lúc thức, hoặc cho lúc chiêm bao, làm cho người bịnh được lành mạnh rồi vì họ thuyết pháp để điều phục họ.
Nầy Phú Lâu Na! Bồ Tát Thiện Hệ Ý ấy có thể trong thời gian một ngày đêm, đem pháp tam thừa điều phục hằng hà sa số các chúng sanh”.
Tôn giả Phú Lâu Na hỏi: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát Thiên Hệ Ý từ lúc phát tâm Vô thượng Bồ đề đến nay được bao lâu?”.
Đức Phật nói: “Nầy Phú Lâu Na! Bồ Tát ấy đã phát tâm trong vô lượng hàng hà sa số kiếp. Từ khi Bồ Tát ấy được tam muội điều phục chúng sanh đến nay đã trải qua sáu vạn bốn ngàn ức a tăng kỳ kiếp”.
Tôn giả Phú Lâu Na hỏi: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát Thiện Hệ Ý bao lâu sẽ được vô thượng đạo, lúc thành Phật ở tại quốc độ nào?”.
Đức Phật nói: ‘Nầy Phú Lâu Na! Trong thế giới nầy quá sáu đại kiếp, kiếp ấy tên là Tinh Tú kiếp. Trong kiếp ấy sẽ thành Chánh Giác hiệu Bửu Man Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, lúc ấy chúng sanh thọ bốn vạn tuổi, đa số ác nghiệp có đủ ngũ trược. Phật ấy thành đạo rồi trong bốn mươi năm tuyên nói ba thừa bèn nhập Niết bàn”.
Tôn giả Phú Lâu Na hỏi: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc ấy các chúng sanh chưa được điều phục thì sẽ thế nào?”.
Đức Phật nói: “Nầy Phú Lâu Na! Chúng sanh lúc ấy không có một người nào là chưa được điều phục.
Nầy Phú Lâu Na! Bồ Tát Thiện Hệ Ý thường lập thệ rằng: mười phương đều riêng ngàn Phật thế giới có bao nhiêu chúng sanh, nếu còn một người chẳng điều phục, tôi trọn chẳng thành Vô thượng Bồ đề. Nếu tôi chẳng có thể tỏ rõ thấy biết chư Phật nơi các thế giới như vậy thì tôi sẽ chẳng thành Vô thượng Bồ đề. Mười phương ngàn thế giới các chúng sanh nếu có một người chẳng phải là tôi điều phục thì tôi cũng chẳng thành Vô thượng Bồ đề. Nếu thế giới khác có kẻ ác muốn sanh vào nước tôi, lúc sanh rồi tôi sẽ dùng pháp tam thừa điều phục họ.
Nầy Phú Lâu Na! Bồ Tát Thiện Hệ Ý có đủ những sự bất tư nghị như vậy”.
Tôn giả Phú Lâu Na nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi được lợi ích rất lớn, nhẫn đến thấy nghe đại Bồ Tát như vậy. Nếu có ai hay chí tâm thính thọ kinh Đại Tập thì cũng được lợi ích như vậy”.
Lúc bấy giờ đức Phật A Súc Bệ Như Lai bảo đại chúng rằng: “Nay trong đại chúng nầy, hàng Phạm, Thích,Tứ Vương, A Tu La Vương. Nhơn Vương, Phi Nhơn Vương, các chúng như vậy tập hội rất là khó. Hôm nay mọi người mà được gặp gở nên phải chí tâm ở trước chư Phật tùy ý thích mà phát nguyện thâm trọng”.
Có Ma vương tên là Trang Nghiêm Hoa hiện đầu thất bữu mà làm thân hình nữ nhơn đeo các thứ vi diệu anh lạc lên tiếng thệ rằng: “Nay tôi chí tâm ở trước chư Phật lập đại thệ nguyện: tôi nguyện ở Hiền kiếp Ta Bà thế giới đem thân nữ nhơn nầy thường ban thí chúng sanh các thứ hương hoa quả ngọt mà điều phục họ, do nhơn duyên ấy khiến họ thành tựu Vô thượng Bồ đề”.
Chư Phật đồng khen rằng: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Người có lòng vui tin mà ngày nay làm Phật sự lớn. Sẽ tuỳ theo lời nguyện của người đều được thành tựu”.
Ma vương lại nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tùy ờ quốc độ nào, chỗ có người thọ trì đọc tụng thơ tả tư duy phân biệt đà la ni ấy, tôi thường ở trong xứ ấy làm các thứ hoa quả rừng cây suối nguồn ao tắm ngũ cốc, khiến họ chẳng thiếu món cần dùng. Nếu có ai ở nơi kinh nầy mà diễn nói sai: nghĩa nói phi nghĩa cò phi nghĩa thì nói nghĩa, tôi sẽ trừng trị người đó, hoặc làm cho họ bị bịnh khổ cuồng loạn lầm lộn bị quốc chủ đuổi sân hại.
Lời thệ nầy nếu hư thì là khi dối đại chúng mười phương, cũng chớ khiến tôi ở đời vị lai thành Vô thượng Bồ đề.
Nếu đệ tử chư Phật thế giới nầy và thế giới khác mà chẳng được cúng dường lợi ích an lạc thì không có lẽ ấy. Trừ người có nghiệp qúa khứ quyết định phải thọ khổ.
Như chỗ tôi bố thí những hoa quả ao tắm suối nguồn ngũ cốc tức là Đàn Ba la mật của tôi. Thọ tôi bố thí rồi chứng được tâm từ thiện vô thượng tức là Thi la Ba la mật của tôi. Thọ tôi bố thí rồi có thể nhẫn tất cả thân khẩu ý ác tức là nhẫn nhục Ba la mật của tôi. Thọ tôi bố thí rồi siêng tu tinh tiến tập họp các thiện pháp tức là Tinh tiến Ba la mật của tôi. Thọ tôi bố thí rồi thâm quán các pháp tướng vô thường tức là Thiên Ba la mật của tôi. Thọ tôi bố thí rồi quán các pháp không vô tướng vô nguyện tức là Bát Nhã Ba la mật của tôi.
Như vậy tôi thành tựu đầy đủ sáu Ba la mật.
Duy nguyện vô lượng chư Phật mười phương khiến tôi được đó”.
Thập phương vô lượng chư Phật yên lặng hứa khả.
Huệ Tràng Như Lai khen Trang Nghiêm Hoa: “Lành thay lành thay! Nầy thiện nam tử! Như chỗ thệ nguyện của ngươi sẽ khiến ngươi toại nguyện. Ngươi đã toại nguyện rồi sẽ được lợi ích cho vô lượng chúng sanh”.
Ma vương Trang Nghiêm Hoa với thân hình nữ nhơn nói chú rằng: “Giá di khê, gía mế khê, gía mế khê, niết phục đa a đề, bà ha, bà ha, bà ha mạt la, mạt ca, bà la tri, tỉ bà tỉ bà,sa la bà la sa lợi địa ly, sa la ma hi địa ly, sa la sa thì ly, địa ly đa ba xà mạt ca, hưu hưu hưu, a sa gìa xà tỳ, đa khê, đa khê, đa khê, bà du bà hê, ô ba na xà, tát đa ba xà, tần xà phá la, phú bồ sa đà, đà na đà ninh na, gía cự ly xí di, xà la bà ha ni, mạt la mạt ca, tam miệu ba la đề ba na bà diêm, tát đa ba đà, tần xà phá la, phú bồ sa đà, đà na đà ninh na gía cư ly xí di, xà la bà ha ni, mạt la mạt ca. tam miệu ba la đề ba na bà diên, tát đa ca lợi xà ma mế ma mế ma mế xà bà la, sá ha.
Bạch đức Thế Tôn! Đà la ni nầy lưu bố xứ nào, hoặc quốc độ đô ấp tụ lạc thôn xóm, tôi sẽ ở trong đó điều phục chúng sanh đều làm cho họ có đủ Phật đạo vô thượng”.
Bấy giờ thập phương chư Phật, vô lượng Bồ Tát, Phạm Thích, Tứ Vương, A Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La, Già, Nhơn và Phi Nhơn đồng thanh khen rằng: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Ông có thể dùng thân nữ nhơn ấy mà hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai, điều phục chúng sanh tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, diễn nói vô lượng công đức của chư Phật”.
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo các đại chúng rằng: “Nầy các đại chúng! Ai có thể cùng đây đồng tâm hộ pháp?”.
Trong đại hội có vô lượng chúng sanh đều nói rằng: “Chúng tôi có thể cùng thiện nam tử nầy đồng cùng nhau hộ pháp chẳng bỏ rời nhau như bóng theo hình. Nguyện Bồ Tát nầy thành đạo vô thượng rồi sẽ lại thọ ký Phật đạo cho tôi”.
Trang Nghiêm Hoa bạch đức Thích Ca Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Thế Tôn nhập diệt, tôi sẽ ở đây hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai và người thọ pháp. Duy nguyện Như Lai vì thương xót tôi mà thọ ký vô thượng Bồ đề cho tôi”.
Đức Phật nói: “Nầy Trang Nghiêm Hoa! Lúc ngươi được Vô thượng Bồ đề, thế giới tên Pháp Hạnh, Phật hiệu Công Đức Ý”.
Nghe Phật thọ ký rồi, Trang Nghiêm Hoa dâng hương hoa cúng dường Phật.
Trong đại hội có một Bồ Tát tên là Cát Ý bạch Ta Bà thế giới thập phương chư Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người nầy đã ở thuở đầu Hiền kiếp chỗ Phật Ca La Cưu Tôn Đà phát đại nguyện dùng thân nữ nhơn giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh, cũng vì khiến họ xa lìa bốn trăm lẻ bốn bịnh khổ mà nói bốn trăm lẻ bốn thiện phương tiện những là rễ thuốc, trái thuốc, thuốc tán, thuốc hoàn, thuốc xổ, thuốc ói, thuốc a gìa đà, thuốc dầu, thuốc tô, thuốc nước, đều riêng có bốn trăm lẻ bốn thứ. Dùng thiện phương tiện như vậy điều phục chúng sanh. Ông ấy lại còn trong thời gian bốn vạn bốn ngàn năm cúng dường cung kính Phật Ca La Cưu Tôn Đà Như Lai và chúng Tăng. Cúng dường xong liền được thọ ký. Đức Phật ấy bảo rằng: Nầy thiện nam tử! Đời vị lai lúc chúng sanh thọ trăm tuổim sẽ có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni do đại nguyện lực Ta Bà thế giới nầy sẽ có mười phương vô lượng chư Phật chư Bồ Tát tập hội, lúc đại hội Đại Tập ấy, ông sẽ ở trong đó sẽ được thọ ký Vô thượng Bồ đề, các đức Như Lai Ca Na Ca Mâu Ni và Ca Diếp Phật cũng như vậy. Thuở đó người ấy bạch Phật Ca La Cưu Tôn Đà rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tôi vì bổn nguyện lực nên thường dùng thân nữ nhơn mang các thứ thuốc cấp thí cho chúng sanh bịnh khổ, do bổn nguyện ấy của tôi và phước đức lực làm cho tất cả cây cỏ hoa quả đều sản xuất vị cam lộ, nếu có ai ăn thứ ấy tức là nhơn Đàn Ba la mật của tôi, nếu có ai ăn các thứ hoa quả vị cam lộ ấy liền bỏ trừ phá giới mà thọ trì tịnh giới tức là nhơn Thi la Ba la mật của tôi, có ai ăn các thứ ấy liền siêng năng tinh tiến tu tập thiện pháp tức là nhơn Tinh tiến Ba la mật của tôi, ai ăn các thứ ấy liền kham nhẫn khổ nhục trì giới tu thiện tức là nhơn Sằn đề Ba la mật của tôi, có ai ăn các thứ ấy rồi mà thâm quán tướng vô thường của các pháp tức là nhơn Thiền Ba la mật của tôi, có ai ăn các thứ ấy mà quán sát pháp khổ không vô thường vô ngã tức là nhơn Bát Nhã Ba la mật của tôi. Như ở thế giới nầy dùng thân nữ nhơn giáo hóa điều phục chúng sanh, thập phương thế giới cũng như vậy”.
Cát Ý Bồ Tát lại bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thuật việc quá khứ ấy để cho Trang Nghiêm Hoa tăng trưởng thành tự thế lực tinh tiến. Sau khi Thế Tôn diệt độ, tôi sẽ cùng ông ấy đồng hộ chánh pháp. Duy nguyện đức Thế Tôn ở trong đại chúng nầy thọ ký cho tôi”.
Thập phương vô lượng chư Phật đồng khen rằng: “Lành thay lành thay! Nầy Cát Ý! Thích Ca Mâu Ni Như Lai sẽ thọ ký cho ông”.
Đức Thế Tôn nói: “Nầy Cát Ý! Đời sau ở Liên Hoa thế giới ông sẽ thành Phật hiệu là Thiện Kiến”.
Đức Thế Tôn lại nói với đại chúng: “Nầy đại chúng! Như Cát Ý nữ, tất cả thân nữ những là địc thiên, thủy thiên, hỏa thiên, phong thiên, hư không thiên, chủng tử thiên, hoa thiên, quả thiên, sơn thiên, thọ thiên, thảo thiên, đề thiên, giản thiên, bửu thiên, tứ thiên hạ thiên, nhẫn đến sáu vạn bảy ngàn thần thiên cũng như vậy, đều là Bồ Tát hiện thọ hình nữ để điều phục chúng sanh. Các nữ thiên ấy đều được thọ ký sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Sở dĩ hiện hình nữ để giáo hóa điều phục chúng sanh ấy, là vì khiến chúng sanh chuyển đổi thân nữ vậy. Nếu chuyển đổi thân nam làm thân nữ thì dễ, còn chuyển đổi thân nữ làm thân nam thì khó, do đó nên dùng thân nữ giáo hóa chúng sanh”.
Sáu vạn bảy ngàn nữ thiên ấy được thọ ký rồi, có trăm ức Long Vương, trăm ngàn ức Dạ Xoa, trăm vạn ức A Tu La, bảy vạn ức chư Thiên chín ngàn vạn ức Ma Vương, hàng hà sa số thế nhơn như là Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, vô số Cưu Bàn Trà đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, vô số chúng sanh được chẳng thối chuyển tâm Bồ đề, vô số chúng sanh được Bồ đề tam muội, vô số chúng sanh được Vô sanh nhẫn, vô số chúng sanh được Đà la ni, vô số chúng sanh được Bồ Tát địa, vô số chúng sanh được thành tựu nhẫn nhục, vô số chúng sanh được Sa Môn quả, vô số chúng sanh được tận lậu, vô số chúng sanh được chẳng thối tâm Thanh Văn, vô số chúng sanh được chẳng thối tâm Duyên Giác, vô số chúng sanh được chẳng thối tâm Bồ đề Vô thượng.
Lúc bấy giờ đức Thích Ca Như Lai bạch chư Phật rằng: “Chư Phật Thế Tôn vì thương xót tôi mà tập họp tại Ta Bà thế giới nầy. Trang Nghiêm Hoa và Cát Ý Bồ Tát vì hộ pháp mà phát nguyện thâm trọng như nguyện liền được”.
Lúc ấy thập phương chư Phật vì hai Chánh Sĩ ấy phát đại thệ nguyện nên liền đồng nói chú rằng: “Thọ đề bà bà, trì luật đề bà bà, mâu ni bà bà, tát đa bà bà, phú nhã lăng gìa bà bà, trương na bà bà, ma ha ca lưu na bà bà, ma ha phục luật đa bà bà, a mộ ha bà bà, lưu đề bà bà, xí đề bà bà, sa lợi la bà bà, khước gìa bà bà, ba do bà bà, bạt đa bà bà, a đề trác na bà bà, a ma bà bà, a phả na bà bà, đa tha đa bà bà, phục đa câu trí bà bà, ni đề đề bà bà, lê cứu xá la bà bà, lê dưỡng na bà bà, lê đà đâu bà bà, lê tỉ mục xoa bà bà, lê thủ cư la bà bà, lại tra đề na bà bà, bà bà, bà bà, bà bà ma đa, a na nhã tam ma đa, tra tra tra tra tra tra tra tra tra, sa tra tư đề, tát bà Phật đà uyển xá la mâu la a đề trác na, sá ha”.
Nói chú ấy rồi, thập phương chư Phật còn bảo hai Chánh Sĩ rằng: “Các thiện nam tử! Nếu các ông muốn giáo hóa chúng sanh thì phải nên thọ trì thần chú ấy”.
Trang Nghiêm Hoa cùng chư Bồ Tát số đến mười vạn đồng nói rằng: “Thập Phật chư Phật Như Lai vì chúng sanh mà nói thần chú ấy, chúng tôi sẽ phải chí tâm thọ trì. Nếu tôi hiện nay ở trước thập phương chư Phật lập thệ nguyện rồi nghe thần chú ấy mà chẳng thể thọ trì được thì là khi dối chư Phật Như Lai, cũng đừng khiến tôi được Vô thượng Bồ đề. Nếu có trời hay người trì chú ấy, gỉa sử có ai đối với họ mà khởi ác tâm mà tôi chẳng thủ hộ họ cũng khiến tôi chẳng thành đạo Vô thượng. Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, thọ trì chú ấy cũng không có ai đối với hàng tứ chúng ấy khởi ác tâm được”.
Thập phương chư Phật đồng thanh khen rằng: “Lành thay lành thay, các thiện nam tử có thể thọ trì pháp vũ Vô thượng như vậy!”.
Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn bảo Ba Tuần: “Ngươi nên sanh tín tâm ở nơi Phật pháp. Do nhơn duyên ngươi sẽ làm cho vô lượng vô số chúng sanh được quả giải thoát. Nay ngươi đã mất lìa tất cả bè bạn, còn có ai sẽ cùng ngươi làm sự ác nữa. Phật vì thương xót nên ân cần khuyên bảo ngươi. Vậy ngươi phải mau phát tâm Vô thượng Bồ đề’.
Ba Tuần nói: “Bạch Thế Tôn! Nay tôi nhẫn đến không có một niệm tâm phát Vô thượng Bồ đề.
Nầy Cù Đàm! Nay chưa dứt hẳn Dục giới chúng sanh thì làm sao khiến ta mất lìa hết bạn bè. Ta trọn chẳng có thể quy y Tam bửu được”.
Lúc ấy trong đại hội có Phật hiệu là Mạn Đà La Hoa Vi Diệu nói với Thích Ca Mâu Ni Phật rằng: “Quá khứ thế, thập phương chư Phật vì thương xót nên đều tập hội thế giới ngũ trược để hộ chánh pháp để phá ma oán, vì thương mến chúng sanh, để ban bố đuốc đại trí, để nói chánh đạo. Nay hiện tại thập phương vô lượng chư Phật cũng như vậy, đều đến tập hội Ta Bà thế giới ngũ trược nầy. Vậy ai là người có thể giao phó pháp của Thích Ca Như Lai?”.
Thích Ca Như Lai nói: “Chánh pháp của ta có thể giao phó cho Tần Bà Sa La các vị Quốc Vương, Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương v.v… Các đại chúng như vậy có thể hộ trì chánh pháp của ta. Nếu có ai phát tâm Bồ đề thì nên biết là người có thể hộ trì chánh pháp”.
Bấy giờ trong đại hội tất cả hàng Thiên Vương, Phạm Vương, Long Vương khác miệng đồng thời nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cần phải chí tâm hộ trì chánh pháp. Tại sao, vì chánh pháp Như Lai khó được, khó gặp. Trong một Phật thế giới có thập phương vô lượng chư Phật đến tập hội cũng là khó gặp. Tập phương chư Phật còn vì chúng sanh ngũ trược mà đến tập hội, chúng tôi tại sao lại chẳng hộ trí chánh pháp!”.
Thập phương chư Phật Phật đồng khen rằng: “Lành thay lành thay! Nầy cá thiện nam tử! Nếu có Quốc Vương hay hộ trì chánh pháp thì toàn cả nước ấy các sự suy ác và các bịnh tật đều làm chi tiêu diệt. Cả nước ấy có những cây cối hoa quả lúa gạo đều sum suê được mùa, cả nước ấy nhơn nhân dân thân thích quyến thuộc khiến lìa xa các sự ác, nếu trong nước ấy có hàng tứ chúng cũng sẽ được hộ trì. Tại sao, vì quá khứ chư Bồ Tát được thành Vô thượng Chánh giác đều do nhơn duyên ủng hộ chánh pháp. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.
Nếu có thể thủ hộ người học người nghe chánh pháp thì nên biết là chánh pháp còn lâu tại thế gian. Vì vậy nên Ta Bà thế giới chư Thiên Vương Nhơn Vương nên thủ hộ chánh pháp để còn tại thế giới lâu chẳng đoạn tuyệt vậy.
Nầy các thiện nam tử! Nếu có thiện nam thiện nữ muốn cho Phật pháp còn lâu tại thế gian mà chẳng diệt tận thì phải nên cúng dường kinh Đại Tập và người học người giảng thuyết kinh nầy. Tại sao, vì kinh Đại Tập nầy là ấn phong của thập phương chư Phật. Nếu có thể cúng dường Đại Tập như vậy tức là cúng dường thập phương chư Phật.
Sau khi Thích Ca Như Lai diệt độ, chỗ nào có kinh nầy lưu bố, nếu có ai nghe thọ trì đọc tụng giải thuyết thơ tả nhẫn đến một bài kệ một câu một chữ, cõi nước ấy tất cả ác sự đều tiêu diệt. Các loại cây hoa quả cây cỏ thuốc các loại ngũ cốc nhờ Tứ Đại Thiên Vương mưa tốt nên đều được tươi tốt. Phép nước của quốc độ ấy được tăng trưởng. Các quốc vương lân bang đều cầu hòa đồng đều có tâm hỉ tâm từ, tất cả chư Thiên và Phật đệ tử đều đến ủng hộ quốc độ như vậy, các vương tử, phu nhơn, các đại thần đều có lòng từ mẫn trung thực, lúa gạo dư nhiều, nhơn dân no ấm ít bịnh khổ, cũng không có tranh tụng binh cách nổi dậy, không có ác thú độc trùng gió mưa xấu, mọi người được xa lìa ác nghiệp quá khứ. Nếu các chúng sanh mà có nữ nghiệp thì các hiện thọ hoặc sanh thọ hay hậu thọ có thể làm cho dứt, trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng kinh Đại thừa và Thánh nhơn, người phạm tử trọng cấm, hạng nhứt xiển đề, còn các ác nghiệp khác dầu lớn như núi Tu Di đều có thể xa lìa tất cả, có thể tăng trưởng thiện pháp đầy đủ các căn, thân khẩu ý đều thiện, xa lìa ác kiến phá hoại phiền não tu tập chánh đạo, cúng dường chư Phật đầy đủ thiện pháp và nội ngoại sự, có thể làm cho chúng sanh thọ mạng tăng trưởng, thành tựu niệm huệ”.
Lúc bấy giờ, Di Lặc Bồ Tát v.v… chín vạn bảy ngàn ức Bồ Tát đã được Vô sanh pháp nhẫn đồng nói rằng: “Sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cũng có thể hộ trì chánh pháp, vì thương mến chúng sanh vậy. Chúng tôi sẽ ở nơi quốc ấp tụ lạc rộng kinh điển nầy”.
Ta Bà thế giới vô lượng chư Phật đồng thanh khen rằng: “Lành thay lành thay! Các thiện nam tử có thể phát thệ nguyện hộ pháp như vậy”.
Ta Bà thế giới tất cả Nhơn Thiên tại đại hội cũng đồng thanh nói rằng: “Chúng tôi cũng có thể sau khi Phật diệt độ hộ trì chánh pháp và hộ trì những người thọ trì kinh điển nầy”.
Thập phương vô lượng chư Phật khen rằng: “Lành thay lành thay! Các thiện nam tử có thể chơn thiệt hộ trì chánh pháp. Nếu muốn hộ trì chánh pháp, hàng Nhơn Thiên phải nên cúng dường vô lượng chư Phật đây”.
Chúng Nhơn Thiên lại bạch rằng: “Bạch chư Thế Tôn! Chúng tôi cần phải ủng hộ chỗ kinh nầy lưu bố, hoặc là tụ lạc đô ấp thôn xón những nhơn dân quyến thuộc và người thọ trì kinh điển nầy, cũng làm cho các xứ ấy lúa gạo dư nhiều cây cỏ thuốc tươi tất. Tại sao, vì xứ nào được kinh điển nầy lưu bố thì chúng tôi ở đó có thế lực lớn, do có thế lực nên chúng tôi mới có thể ủng hộ khiến lìa tất cả sự suy họa, cũng làm cho chúng sanh ở xứ ấy xa lìa ác sự sanh lòng tàm quí lành tốt”.
Thập phương chư Phật đồng thanh khen rằng: “Lành thay lành thay! Nay các thiện nam tử chơn thiệt có thể hộ trì chánh pháp và người thọ trì người nghe học, cũng có thể cúng dường thập phương chư Phật”.
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo chư Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên Vương rằng: “Nầy các thiện nam tử! Phật vì các ác chúng sanh như vậy, vì bổn nguyện lực, vì rất thương mến mà ở xứ ác nầy thành Vô thượng Bồ đề để lợi ích cho những chúng sanh vô minh tối tâm khát ngưỡng chánh pháp, vì các chúng sanh thường thích tăng trưởng phiền não mà phá ma nghiệp kiến lập pháp tràng ban bố pháp vũ khiến các chúng sanh lìa phiền não khổ, làm cho vô lượng vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy các thiện nam tử! Vô lượng chư Phật và chư Bồ Tát đều đến đây tập hội để phá vô lượng ác nghiệp cho chúng sanh, để nối giống Tam bửu. Sau khi Phật nhập Niết bàn chánh pháp nầy giao phó cho các ông. Các ông nên thâm tâm ủng hộ. Nếu có Bồ Tát thành tựu phước đức cũng có thể ủng hộ chánh pháp của Phật. Nếu có chúng sanh ở chổ chư Phật gieo trồng thiện căn, lúc pháp sắp diệt còn lại năm mươi năm, các người nầy thủ hộ chánh pháp tín kinh thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết nghĩa thú. Các Pháp sư như vậy, ở nơi đô ấp tụ lạc thôn xóm, nếu muốn lợi ích nhiều vô lượng chúng sanh, nên tắn gội sạch sẽ mặc y phục mới tốt trang nghiêm hương hoa ở trên một bàn đặt các thứ nước mùi thơm ngọt để trước tòa cao. Lúc ấy nếu các ông chẳng đến đó tập họp để thủ hộ Pháp sư ngăn các sự ác và nghe học chánh pháp để tự lợi lợi tha thì là các ông khi dối thập phương chư Phật”.
Chư Phạm Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Xứ nào kinh điển nầy được lưu bố, hoặc là đô ấp thành thôn tụ lạc, chúng tôi sẽ chí tâm ủng hộ. Hoặc trong hàng tứ chúng mà có người muốn giảng thuyết kinh điển nầy, thì nên tắm gội sạch sẽ mặc y phục mới tốt, sắp đặt các hương hoa thơm ngọt để trước tòa cao, tôi cùng quyến thuộc quyết định đến họp tại chỗ ấy, nếu chúng tôi không đến thì là khi dối thập phương chư Phật.
Bạch đức Thế Tôn! Trong thế giới nầy, tùy xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, chúng tôi sẽ làm cho xứ ấy không có binh cách và các sự ác.
Nay tôi ở trước chư Phật chí thành lập thệ thâm trọng”.
Liền nói chú rằng:
An cừu ha, đăng gìa, phú la na ha, xà mế, khê khê khê, bà khê, bà khê bà, cư ly na khê bà, sá ha.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn nói chú rằng:
Khê bà mật xa, ma xa mật xa, na la khê, a mâu nhã, a mâu bà ha, a khê tra, a khê, a gìa khê thì phục luật xí, sá ha.
Đông phương Thiên Vương Đề Đầu Lại Tra nói chú rằng:
Tần đầu xà na, khê bà xà na, la mâu khê, xoa sa la, phú na bà ha, a mạc gìa bà tra, sá ha.
Nam phương Thiên Vương Tỳ Lâu Lặc Xoa nói chú rằng:
Úc khê na bà xà đồ, tam mâu đà tư nhã, đa đa châu đa, bà lã na bà, bà lã xà, sá ha.
Tây phương Thiên Vương Tỳ Lưu Bác Xoa nói chú rằng:
Xà lộ gìa, a úc gìa, a ma mộ gìa, a ma bà lã xà, bà tỳ dã mau xà, sá ha.
Bắc Phật Thiên Vương Tỳ Sa Môn nói chú rằng:
Thu địa ly, thu thu thu địa ly, khê thu địa ly, a ni thu địa ly, hi lực đa thu địa ly, sa kiệt lã hi lực đa thu địa ly, tán cứu sa thu địa ly, đà ma xoa địa ly, sá ha.
Thập phương vô lượng chư Phật khen Phạm Thiên, Đế Thích và Tứ Thiên Vương rằng: “Lành thay lành thay! Nay các ông chơn thiệt có thể hộ trì Phật pháp”.
Ta Bà thế giới có một vạn hai ngàn Đại Quỉ Tướng Quân thủ hộ thế giới nầy, còn có bốn vạn bốn ngàn Tiểu Tướng Quân thành tựu đại lực và đại công đức, đồng thanh nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng sẽ ở đời vị lai ủng hộ xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, lúc thuyết pháp chúng tôi cũng thường đến, có người nghe pháp, chúng tôi sẽ vì họ mà phá hoại các ma nghiệp, thủ hộ người thuyết pháp làm cho được tăng trưởng tất cả thiện pháp, chúng tôi sẽ khuyến hóa các quốc vương đại thần, trưởng gỉa cúng thí y thực và các món vật cần dùng, chúng tôi cũng làm cho quốc độ ấy không có binh cách những sự giặc cướp tai nạn và ác phong vũ. Nếu không như vậy thì là chúng tôi khi dối thập phương chư Phật”.
Lúc ấy Ta Bà thế giới nầy có một Bồ đề tên là Nghi Tâm bạch Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Trong Ta Bà thế giới nầy có trăm ức ma vương, chẳng biết họ có đền tập họp tất cả chẳng?”.
Đức Phật nói: “Họ đã đến tập hội tất cả”.
Nghi Tâm Bồ Tát hỏi: “Bạch đức Thế Tôn! Tất cả có tín tâm chẳng?”.
Đức Phật nói: Đều có tín tâm tất cả. Chỉ trừ Ba Tuần và một ngàn quyến thuộc sẽ ở đời vị lai phá hoại Phật pháp ta, họ thường tìm tội lỗi. Ma vương Ba Tuần và quyến thuộc một ngàn ấy phá hoại Tam bửu. Tại sao, vì đều là quá khứ ác nhơn duyên, quá khứ họ chẳng gieo trồng thiện căn nhơn duyên.
Nầy Nghi Tâm! Lúc chánh pháp ta diệt, sau đó ma vương Ba Tuần ấy và ngàn quyến thuộc ở nơi chánh pháp mới sanh tín tâm gieo giống Bồ đề tu Bồ Tát đạo nhẫn đến thành Vô thượng Bồ đề”.
Lúc ấy trong đại hội có một Ma Thiên tên là Thái Bạch đã ở chỗ vô lượng chư Phật thành tựu công đức, được tín căn không gì lay động được, phụng trì Tam bửu. Đã ở chỗ chư Phật được thọ ký Vô thượng Bồ đề. Ma Thiên Thái Bạch tự hiện thân mình thành hình nhơn từ chỗ ngồi dậy quỳ ài chắp tay dùng âm thanh lớn vang đến các Phật quốc độ mà bạch Phật rằng: “Bạch chư Thế Tôn! Thích Ca Như Lai vì bổn nguyện nhơn duyên sanh lòng thương xót nên ở thế giới đủ ngũ trược nầy trong những chúng sanh hủy báng chánh pháp mà thành Vô thượng Bồ đề, do đại từ bi nói pháp tam thừa giải thoát ba ác đạo. Phật lại vì vô lượng vô biên Bồ Tát nói vô sanh pháp nhẫn chẳng dứt chủng tánh thập phương chư Phật. Vì vậy nên ở đời vị lai tôi sẽ chí tâm ủng hộ cho chánh pháp của Thích Ca Như Lai còn lâu tại thế gian, khiến các ma chúng chẳng được tiện lợi trọn chẳng thể gây ma nghiệp.
Chánh pháp Như Lai nếu không có người thọ trì thì Phật pháp diệt mất. Nếu trong hàng tứ chúng không có người thuyết không có người nghe thì chánh pháp suy diệt. Đời vị lai nếu có thiện nam thiện nữ tu lập tam nghiệp nối tánh Tam bửu, vì phá hoại các ác phiền não tam giới mà tu hành chánh đạo thì có thể phá hoại chúng sanh ba ác đạo khổ, tất cả chúng ma không làm gì được.
Duy nguyện thập phương chư Phật ban bố cho tôi công đức và trí huệ hai lực thế. Tôi muốn tụng chú để phá tất cả ác ma quyến thuộc”.
Thập phương chư Phật đồng thanh khen rằng: “Lành thay! lành thay!”.
Ma Thiên Thái Bạch liền nói chú rằng: A ma lê, a bán khê mế, a xà bà bà, a xà bà bà, a xà bà bà, mâu la bà lê, tỳ đã khê sa xí, xà ma sa lê, ha ha, ha ha, ha ha, gìa la sa tra, xà nan khước gìa, nhã xà khước gìa, tỉ nhã xà sa khê gìa, a mâu xoa lã, xoa xoa, xoa xoa, xoa xoa, mâu la bà ha khê ca, sa khê nhã, sa ba lợi bà đa, mâu la, nhã nhã, chiến đà tu lợi xà nhã nhã, sa đề nhã nhã, na bà ha nhã nhã, khê lã xoa nhã nhã, na ba la nhã nhã, phục đa câu tri nhã nhã, đá đá đá nhã nhã, tát bồ bà tỉ nhã nhã, lã đề tất đa nhã nhã, gía cư lã ma tần bà đa xoa bà, xoa ma ma, xoa ba nhã, nhã tỉ đa, ma la tỉ sa xà, sá ha.
Lúc nói chú nầy đại địa chấn động sáu cách, tất cả chúng ma lòng sanh bố úy, tất cả Nhơn Thiên nhẫn đến Phú Đơn Na đều lìa rời khủng bố được bất thối chuyển tâm Bồ đề.
Lúc ấy ma vương Ba Tuần hỏi Kiên Ý Bồ Tát rằng: “Thưa Đại sĩ! Thái Bạch Ma Thiên ấy từ xứ nào đến đây vậy. Có thể lực gì mà hay phá hoại tất cả ma chúng và các ác nghiệp, làm tăng trưởng pháp đoạn diệt của Cù Đàm. Nay ta nhìn thấy pháp ấy mà trong lòng ta muốn nôn ói bốn phía đều tối tăm thân tâm ta đều đau đớn, nhưng Ma Thiên ấy thấy pháp của Cù Đàm lại vui thích ưa muốn. Mong Đại sĩ vì thương xót ta mà nói cho ta được biết”.
Kiên Ý Bồ Tát nói: ‘Nầy Ba Tuần! Đều là sức oai thần của chư Phật khiến Ma Thiên Thái Bạch ấy có thế lực như vậy. Do thế lực ấy nên có thể phá hoại các ma chúng làm tăng trưởng chánh pháp vô thượng của Như Lai.
Phước lực của Thái Bạch Bồ Tát, tất cả Nhơn Thiên không ai phá hoại được.
Nầy Ba Tuần! Nơi Tam bửu ông phải nên sanh lòng tin phát Bồ đề tâm xa lìa tất cả thân khẩu ý ác”.
Ba Tuần nói: “Thưa Đại Sĩ! Nay ta đang muốn tạo thành các thứ thân khẩu ý ác thiệt chẳng thể phát tâm Bồ đề vậy”.
Lúc bấy giờ Khoáng Dã Bồ Tát liền hiện thân quỉ, Tán Chỉ Bồ Tát liền hiện thân nai, Huệ Cự Bồ Tát liền hiện thân khỉ, Ly Ai Bồ Tát liền hiện thân dê, Tận Lậu Bồ Tát liền hiện thân người ấy vương, năm trăm Bồ Tát đều riêng hiện các loại thân hình. Các thân ấy đều phát ra đại hương quang minh. Mỗi mỗi Bồ Tát đều tay cầm đèn sáng muốn để cúng dường thập phương vô lượng chư Phật.
Nghi Tâm Bồ Tát chí tâm quán sát năm trăm hình loại ấy liền biết tất cả đều là Bồ Tát Đại Sĩ, mới hỏi Khoáng Dã quỉ rằng: “Cớ chi các Ngài hiện thân hình như vậy để cúng dường chư Phật?”.
Khoáng Dã quỉ nói: “Thưa Đại Sĩ! Về quá khứ thuở xa xưa chín mươi mốt kiếp có Phật Thế Tôn hiệu là Tì Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Trị, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thuở ấy ta cùng các Đại sĩ nầy làm anh em đồng một cha một mạ thọ trì ngũ giới siêng tu tinh tiến thông minh trí huệ lòng ưa pháp lành mang các thứ vật cúng dâng lên cúng dường Phật. Cúng dường xong chúng ta đề phát tâm Vô thượng Bồ đề, vì muốn điều phục tất cả chúng sanh. Đến thời kỳ các đức Phật Thi Khí Như Lai, Tỳ Xá Phù Như Lai, Cưu Lâu Tôn Đà Như Lai cũng như vậy đều dâng phẩm vật cúng dường.
Tán Chỉ Bồ Tát ở trước Phật ấy lập đại thệ nguyện rằng: đời vị lai tôi dùng thân quỉ thần giáo hóa chúng sanh, nếu có chúng sanh ác quỉ tệ ác tôi sẽ nói pháp tam thừa để giáo hóa họ cho họ được điều phục. Nhẫn đến vô lượng hàng hà sa số ác quỉ ác thú tôi làm cho họ được điều phục rồi sau tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Cũng có một vạn hai ngàn đại quỉ ở thế giới. Ta Bà nầy phát đại thệ nguyện điều phục chúng sanh.
Còn tôi lúc ấy phát đại thệ nguyện rằng: Nếu có ác quỉ muốn phá hoại chánh pháp vô thượng của Như Lai tôi sẽ trừng trị nó. Vì thế nên tôi thọ thân quỉ nầy.
Nếu có ác quỉ có thể giết hại chúng sanh làm họ loạn tâm. Ac quỉ ấy ác tâm muốn sát hại sân chấp tà kiến làm cho hàng Sát Lợi, Bà La Môn, Tì Xá, Thủ Đà loạn tâm làm sự ác. Ac quỉ ấy ở trong quốc độ di chuyển nhựt nguyệt, đổi lộn năm tháng, làm cho cõi nước hoang loạn, hàn thử không chừng, biến đổi thời tiết, làm mưa gió xấu, lúa gạo thất mùa và phá hư những cây cối bông trái. Tôi nguyện sẽ điều phục giáo hóa khiến họ an trụ trong tam thừa. Với các hạng ác quỉ ấy, tôi chẳng giết hại họ mà đồng thọ thân hình như họ, dùng lời dịu dàng nói luận cười đùa với họ rồi dùng pháp Tam thừa giáo hóa họ làm cho họ lìa ác đạo.
Nếu có chúng sanh xa lìa pháp lành mà thân khẩu ý làm ác nghiệp, bỏ thân hiện tại rồi sẽ sanh vào ác đạo. Hoặc người tạp làm các nghiệp thiện nghiệp ác, người nầy xã mạng sẽ thọ thân quỉ. Vì thế nên lúc ấy ác quỉ đông nhiều mà thiên quỉ kém ít, do đó mà tôi muốn điều phục các ác quỉ nên hiện thọ thân quỉ nầy, cũng làm cho mọi người xa lìa ác tâm tăng trưởng nghiệp lành.
Thưa Đại Sĩ! có thần chú Kim Cương Chùy, do sức chú nầy tất cả ác quỉ không thể làm sự ác hại nhơn dân được. Nếu những đô thành thôn ấp tụ lạc nơi nào có thần chú nầy thì tất cả ác quỉ không làm gì được. Chúng sanh trong xứ ấy đều tu tâm từ xa lìa tất cả những sự bất thiện, không có những bịnh dữ mưa xấu khô hạn đấu tranh, cho đến các loài thú chim đều sanh lòng lành xa lìa tất cả ác bố úy.
Nay tôi ở trước thập phương chư Phật phát đại thệ nguyện muốn nói thần chú ấy”.
Thích Ca Mâu Ni Như Lai bảo Khoáng Dã quỉ rằng: “Nầy Khoáng Dã! Nay thập phương chư Phật đồng ban cho ông sức thần thông, ông được nói chú ấy”.
Khoáng Dã quỉ đứng chấp tay nói chú Kim Cương Chùy:
Đậu ma, đậu ma, đà ma, đà ma, đậu ma, đậu ma, na na la, ni la, ni la, cứu tra ni, ma ha cứu tra ni, tra tra tra mạt, ma ha tra tra tra, a sa bà, a tỉ, lợi ni, lợi ni, ma ha lợi ni lợi ni, lợi di, lợi di, lợi di, đà lợi tỉ, ma ha lợi tỉ, thủ lưu thủ lưu, ma ha thủ lưu thủ lưu, thủ lưu đa, ma ha thủ lưu thủ lưu, úc cứu ma, cừu ma, cừu ma, cừu ma na, lợi di lợi di, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, ni di ni di, hi ni, hi ni, mâu ni, mâu ni, mâu đề ni, bà lã bà lã bà lã tra, bạt ca na lợi dã, kỳ nĩnh, thì nĩnh lực sa bà, thời na, thời na, thời na lã sa bà, sá ha.
Bạch đức Thế Tôn! Tùy ở quốc độ xứ nào tụng chú Kim Cương Chùy nầy, các ác quỉ ở xứ ấy dầu nghe chú nầy mà đối với chúng sanh còn có ác tâm hung bạo khó điều phục chẳng thọ pháp giáo chẳng sanh lòng từ, tôi vì các ác quỉ ấy lại nói thần chú sau đây để điều phục họ. Liền nói chú rằng:
A xa, a xa, mâu ni, mâu ni, ni hưu hưu, mâu ni, mâu ni, ma na la sa bà, hưu hưu, a ni la na đồ, a đa đản đồ, a đa a đề, lưu tra, hi ni, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, hi lợi, úc cừu ma, cừu ma, cừu ma, hi lợi, hi lợi, hi lợi, ni lợi, ni lợi, ma ha ni lợi, mâu đà mế khê, a tra, a tra, a tra, đà la mế khê, xoa bà khê, xoa bà khê, ti lợi si tỉ, a ba dẫn xà, bà do, a ca xa, trác trác trác, cứu tì, bà cùng tì, a xoa cùng tì, thị hoa cùng tì, tát đa gìa cùng tì, lã xà cùng tì, tát đa đâu cùng tì, sá ha.
Lúc bấy giờ thập phương vô lượng chư Phật đều muốn trở về bổn độ, đại địa liền chấn động sáu cách, hư không mưa các thứ hương hoa, kỹ nhạc vi diệu chẳng trỗi tự kêu để cúng dường. Tất cả đại chúng đều chấp tay lễ kính chư Phật.
Lúc ấy Phạm Thiên bạch Phật Nguyệt Hương rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ai có thần lực gieo trồng thành tựu bao nhiêu phước đức ở đời vị lai có thể tin thọ trì đọc tụng thơ tả kinh điển như vậy?”.
Đức Nguyệt Hương Phật nói: “Nầy Phạm Thiên! Đều do thập phương chư Phật bổn nguyện lực phá hoại ma chúng trừ những ác tướng gió dũ mưa xấu hộ trì chánh pháp để điều phục chúng ma tuyên dạy chánh đạo. Cũng do chư Phật bổn nguyện lực mà vị lai chúng sanh nào thành tựu mươi pháp lành thì có thể ở đời vị lai hộ trì chánh pháp, chúng sanh ấy cũng được chư Thiên thủ hộ.
Nầy Phạm Thiên! Nếu có ai đầy đủ được niệm tâm thiện ý phương tiện, người nầy có thể ủng hộ chánh pháp, chẳng tham ngũ dục, thường tu không nhẫn, được thâm pháp nhẫn dùng pháp tứ nhiếp nhiếp thủ chúng sanh mình người vô ngại, tu hành thanh tịnh Bồ đề đạo hạnh bửu tràng tam muội. Người như vậy ở đời vị lai có thể ủng hộ chánh pháp thơ tả thọ trì đọc tụng giải thuyết. Người ấy xả thân được thấy hiện tại thập phương chư Phật và chư Bồ Tát cùng Tỳ Kheo Tăng. Cũng được nghe chư Phật nói diệu pháp, nghe rồi liền được hỉ lạc bực Thánh nhơn, diệt trừ tất cả pháp bất thiện được sanh quốc độ thanh tịnh của chư Phật, thường nghe diễn nói kinh điển Đại thừa, trọn chẳng còn sanh nơi quốc độ ngũ trược, thường được thân cận vô lượng chư Phật nơi Ta Bà thế giới như đây. Người ấy ở năm mươi năm tối hậu do Phật thần lực có thể hộ trì chánh pháp Như Lai”.
Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Phạm Thiên rằng: “Nầy Phạm Thiên! Tùy sứ nào có kinh điển nầy lưu bố, xứ ấy không có tất cả sự ác mưa xấu bịnh ác. Người nói người nghe kinh điển nầy thân không bịnh khổ y thực không thiếu”.
Hoa tràng Như Lai bảo đại chúng rằng: “Nếu có người đem thất bửu đầy cả Đại Thiên thế giới nầy cúng dường chư Phật mười phương, chẳng bằng có người sai khi Phật diệt độ năm mươi năm rốt sau thọ trì đọc tụng thơ tả kinh điển nầy, người trì kinh được phước đức nhiều hơn người cúng dường chư Phật”.
Phật Hoa Tràng lại bảo đại chúng rằng: “Giả sử có người đem thượng diệu thất bửu đầy hàng hà sa thế giới cúng dường tất cả chư Phật mười phương được phước đức vẫn chẳng bằng người thọ trì đọc tụng thơ ca kinh điển nầy lúc sau khi Phật diệt độ còn dư năm mươi năm sau rốt. Người nầy được phước đức rất nhiều”.
Phật nói kinh nầy rồi, chư Thiên thế nhơn tất cả chúng hội nghe rồi đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.