1
2
3
4
5

61. PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT THỨ SÁU MƯƠI MỐT

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật du Vương Xá thành chỗ đi của Như Lai, ở tại nhà Bửu Trang Nghiêm Đường được tạo nên bởi đại công đức, là quả báo bổn hành tất cả pháp của Phật, hay dung chứa vô lượng chúng Bồ Tát, pháp được Phật giảng tuyên đều là vô lượng nghĩa thậm thâm, đều được Như Lai thần lực hộ trì, nhập vô ngại hành vi diệu pháp môn, tâm Phật hoan hỉ được niệm tiến ý, phân biệt trí huệ không có ai khinh huỷ, nếu có người muốn tán thán công đức của Phật thì tận vị lai thế chẳng cùng tận được. Như Lai chánh giác pháp bình đẳng, khéo chuyển pháp luân độ vô lượng chúng, được tự tại nơi tất cả pháp, biết tận nguồn gốc tâm ý của chúng sanh, khéo dứt các tập khí cho chúng sanh, dầu thường làm phật sự mà tâm không có sở tác, cùng đại Tỳ Kheo sáu trăm vạn người câu hội, đều là Như Lai Pháp Vương Tử, khéo được giải thoát dứt phiền não tập, hiểu rõ thậm thâm Vô sanh pháp nhẫn, thành tựu oai nghi đi đứng đoan nghiêm, kham thọ cúng dường làm phước điền cho đại chúng, khéo trì giáo giới của chư Phật dạy. Còn có đại Bồ Tát chúng số đông vô lượng chẳng xưng kể được, chẳng tư nghị được, chẳng tuyên nói được. Trong khoảng một niệm, chư Bồ Tát ấy có thể đi qua vô lượng vô biên Phật độ, đã từng cúng dường quá khứ chư Phật thưa học diệu pháp không có nhàm đủ, thương xuyên giáo hoá vô lượng chúng sanh, khéo hiểu phương tiện đầy đủ trí huệ, tâm các Ngài an trụ vô ngại giải thoát, khéo trừ ức tưởng thủ tướng hí luận, gần nhứt thiết trí đều là bực Bổ xứ. Tên các Ngài là: Điện Thiên Bồ Tát, Thắng Tranh Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Dũng Kiện Bồ Tát, Ly Ác Bồ Tát, Du Hành Bồ Tát, Quán Nhãn Bồ Tát, Ly Ám Bồ Tát, vô lượng Bồ Tát Đại Sĩ đầy đủ công đức như vậy câu hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn nhập chư Bồ Tát sở hành vô ngại chư pháp môn kinh. Đó là trang nghiêm chư Bồ Tát đạo Phật pháp thậm thâm, thập lực vô uý trí huệ thành tựu, chứng được ấn môn tự tại tổng trì, môn phân biệt biện tài đại thần thông, chuyển pháp môn vô sanh bất thối chuyển, thông đạt các pháp đồng nhứt tướng, nơi pháp nhứt tướng chẳng sanh phân biệt, biết rõ chúng sanh căn tánh vô ngại, khéo hay quán sát thiệt tướng của các pháp, phá hoại tất cả cảnh giới các ma, nhập môn thông đạt thiện tư duy, hay trừ tất cả phiền não các kiến chấp, vô ngại trí huệ thiện quyền phương tiện, tất cả Phật pháp bình đẳng vô nhị, thọ trì môn trí huệ của chư Phật, diễn thuyết các pháp như chơn thiệt tướng, ức tưởng thủ tướng nhập bình đẳng môn, thành tựu công đức nhập thâm nhơn duyên, trang nghiêm thân Phật thân khẩu ý nghiệp, niệm ý tiến trì hiển thị tứ đế, phân biệt diệu huệ vì giáo hoá hàng Thanh Văn, thân tâm tịch tĩnh vì giáo hoá Duyên Giác, được Nhứt thiết trí vì giáo hoá Đại thừa, nhập nhứt thiết pháp được tự tại trí vì tán thán các công đức Như Lai. Các môn như vậy đều được Thế Tôn tuyên nói khai thị dạy bảo chỉ dẫn phân biệt.

Lúc đức phật nói kinh Đại Tập nầy, phương Đông tự nhiên xuất hiện quang minh lớn màu chơn kim chiều khắp cả Đại Thiên thế giới nầy. Trừ Phật quang minh, tất cả quang minh của Phạm, Thích, Tứ Vương, Thiên, Long, Bát Bộ, nhựt, nguyệt đều chẳng còn hiện, các tường vách cây cối lùm rừng tất cả sông núi quốc độ đều được quang minh kim sắc ấy chiếu suốt cả. Bao nhiêu địa ngục ở cõi nầy đều được quang minh ấy chiếu đến, chúng sanh trong đó lúc quang minh chạm đến thân liền trừ tất cả khổ thọ lạc vi diệu.

Trước mặt Phật, dưới đất tự nhiên mọc lên sáu mươi ức tịnh diệu liên hoa hương thơm lan khắp các thứ trang nghiêm nhiều màu làm vui đẹp lòng đại chúng. Hoa sen ấy có ức trăm ngàn cánh có lưới the báu giăng phía trên, chất hoa mềm dịu như thiên y, ai chạm đến đều thọ khoái lạc vi diệu. Các hơi hương của hoa sen ấy lan khắp Ta Bà thế giới làm luốt mất tất cả hơi hương của Nhơn Thiên trong thế giới nầy. Hàng Thiên, Long, Bát Bộ, Quỷ Thần nghe hơi hương ấy đều được vui vi diệu lần lần lìa phiền não.

Tôn giả A Nan thấy quang minh kim sắc và các liên hoa ấy bèn bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ai làm thoại ứng ấy, có quang minh kim sắc và các tịnh diệu liên hoa?”.

Đức phật nói: “Nầy A Nan! Có đại Bồ Tát tên là Vô Tận ý ở phương Đông cùng sáu mười ức chư Bồ Tát quyến thuộc muốn đến đây nên trước hiện thoại tướng ấy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát dùng thần lực cảm động cõi nầy làm cả đại địa chấn động lớn, phóng vô lượng quang mưa các thứ hoa, vô lượng chư Thiên Nhơn trỗi thiên kỹ nhạc, cùng sáu mươi ức chúng Bồ Tát vây quanh đồng đến chỗ Phật. Đến rồi ở trước Phật dừng trên hư không cao bảy cây đa la chắp tay hướng về Phật phát âm thanh vi diệu khăp nghe cả Đại Thiên thế giới, nói kệ tụng tán thán Đức phật:

Thanh tịnh lìa hẳn các cấu nhiễm

Dũng kiện trừ diệt những tham dục

Có thể dứt hết các trần lao

Mà được thanh tịnh vi diệu nhãn

Ba cấu hoang vu uế trược thảy

Khéo hay đoạn dứt rửa sạch hết

Tất cả diệt hẳn không còn thừa

Nay tôi cúi lạy Đại Từ Giác

Trừ bỏ tất cả các bố uý

Khéo hay diệt dứt lưới vô minh

Thập lực Thánh chúa Đại Pháp Vương

Tất cả tà luận chẳng phục được

Các hàng ngoại đạo người dị kiến

Thảy đều có lòng rất kinh sợ

Như Lại dường như sư tử chúa

Riêng mình bước đi không có sợ

Như Lai chánh giác đại quang minh

Thanh tịnh vô cấu chói sáng khắp

Trong tất cả Nhơn Thiên thế gian

Có thể xa lìa tất cả tối

Trừ hết tất cả các tối tăm

Sáng suốt không còn lưới vô minh

Phật quang chiếu khắp thường minh tịnh

Dường như mặt nhựt ra khỏi mây

Chúng sanh già bịnh chết rất khổ

Không có được người cứu hộ họ

Như Lai xót thương vì độ họ

Mà vô lượng đời thọ khổ nhiều

Có thể sanh lòng từ bi vững

Chỉ có Như Lai Đẳng chánh giác

Như Lai cũng như đại Y Vương

Có thể chữa lành tất cả bịnh

Tất cả các pháp từ bổn lai

Tánh tất cả pháp không có ngã

Dường như tiếng vang trong hang núi

Đều từ các duyên hoà hiệp sanh

Tất cả chúng sanh bổn vô tánh

Không có tác giả không thọ giả

Như Lai có thể vì chúng ấy

Mà sanh khởi lòng đại từ bi

Các cõi dường như vực biển lớn

Vô minh tối tăm rất rộng sâu

Trong ấy có nhiều giác quán xấu

Cuồn cuộn sôi tràn những sóng mòi

Như Lai chẳng từ người nghe pháp

Tự nhiên giác ngộ đến bỉ ngạn

Dường như hoa sen mọc trong nước

Đi khắp thế gian chẳng nhiễm ô

Mùa thu cây cỏ đều héo úa

Hạn nóng suối sông đều khô cạn

Tỷ trí phân biệt biết thế pháp

Đổi dời chuyển động chẳng thường trụ

Chỗ thân cận của những người ngu

Là chỗ Thánh trí luôn quở bỏ

Biết rõ các pháp chẳng vững chắc

Riêng mình qua khỏi các hữu lưu

Như Lai mặt mắt rất rộng sáng

Ví như hoa quý Ưu đàm bát

Sáng rỡ vi diệu rất thanh tịnh

Hơn cả trăm ngàn mặt nhựt nguyệt

Tất cả bao nhiêu đời quá khứ

Cùng đời hiện tại các chúng sanh

Tất cả tán thán công đức lớn

Như Lai đều hay thọ được cả

Vì điều người chưa được điều phục

Trừ hết nhiệt não được thanh lương

Vì thế hôm nay tôi cung kính

Đầu mặt cúi lạy đấng Vô Thượng

Cứu độ thế gian phước tăng thượng

Như Lai công đức vô biên lượng

Tất cả các pháp đại Pháp Vương

Nay tôi đảnh lễ Phật phước điền.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ tán thán Phật rồi từ hư không xuống đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng, cùng chư Bồ Tát sáu mười ức đến ngồi kiết già trên đài liên hoa.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô Tận Ý đại Bồ Tát từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên gì, cách đây bao xa?”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông nên hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát, sẽ được giải đáp”.

Tôn giả kính thuận Phật giáo hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát: “Bạch Đại Sĩ! Ngài từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Có tưởng đến ư?”.

Tôn giả nói: “Thưa Đại Sĩ! Tôi biết tưởng rồi”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Nếu biết tưởng thì lẽ ra không có hai tướng, có gì lại hỏi từ xứ nào đến.

Thưa Tôn giả! Có lai khứ ấy là nghĩa hoà hiệp, như hoà hiệp tưởng là không hiệp không chẳng hiệp, không hiệp không chẳng hiệp tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.

Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là nghiệp tướng. Như nghiệp tướng ấy không có tác không chẳng tác. Không có tác không chẳng tác ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.

Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là tướng quốc độ. Như tướng quốc độ ấy không có quốc độ không chẳng quốc độ tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.

Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là duyên tưởng. Như duyên tưởng ấy không duyên không chẳng duyên, không duyên không chẳng duyên ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.

Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy là nhơn v.v…sanh tướng. Như nhơn tướng ấy không có nhơn không chẳng nhơn, không nhơn không chẳng nhơn tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.

Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là văn tự ngữ ngôn, như văn tự tướng ấy không có văn tự không chẳng văn tự. Không văn tự không chẳng văn tự ấy tức là chẳng khứ chẳng lai. Chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Bạch Đại Sĩ! Nay Ngài nói sự tướng vi diệu, từ trước tôi chưa từng nghe. Vừa rồi tôi có chỗ hỏi, bây giờ tôi lại xin hỏi nữa.

Như người chủ ải, nếu thấy người đi không, hoặc thấy người mang gánh thì phải gạn hỏi: Ông mang gánh đó là những vật gì? Nếu biết là hột lúa giống thì phải thâu thuế.

Bạch Đại Sĩ! Chúng tôi cũng vậy, từ người khác nghe pháp theo âm thanh nhận hiểu để tự chiếu tâm, vì vậy nên nay tôi phải thưa hỏi.

Hàng Đại Sĩ các Ngài vì hộ Đại thừa xuất sanh vô lượng Thanh Văn, Duyên Giác.

Bạch Đại Sĩ! Xin Ngài phân biệt nói từ xứ nào đến”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nay Ngài tự hỏi đức Như Lai, Phật sẽ nói cho Ngài hết nghi”.

Tôn giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện nói Bồ Tát ấy từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa? Nếu được nghe tên hiệu Phật và thế giới ấy, thì làm cho vô lượng vô biên Bồ Tát trang nghiêm Bồ đề”.

Đức Phật nói: “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, nay ta sẽ nói công đức cõi ấy và danh hiệu Phật. Lúc ông nghe chớ có nghi sợ phải nên nhứt tâm tín thọ phụng trì”.

Tôn giả nói: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Nguyện phải thời tuyên nói, tôi sẽ nhứt tâm đảnh đới thọ trì”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Phương Đông cách đây chừng mười hằng hà sa quốc độ vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bất Thuấn, Phật hiệu là Phổ Hiền Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn nay hiện tại thế.

Nầy Xá Lợi Phất! Cõi ấy không có Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến không nghe tên Nhị thừa. Tất cả Thánh chúng thuần là Bồ Tát đã lâu từ quá khứ tu đức bổn, thiện nghiệp thành xong đầy đủ bố thí, điều phục, tự thủ, phòng hộ, thí giới, đa văn, tâm không phóng dật an trụ công đức, oai nghi thành tựu nhẫn lực vô ngại, nơi vô thượng đạo kiên cố tinh tiến, các thiện căn được tu tất cả đều thành tựu chư thiền giải thoát tam muội, du hí thần thông trí huệ lớn chiếu sáng, khéo phân biệt biết rõ tất cả các pháp, lòng từ các Ngài bình đẳng như hư không, đại bi kiên cố cứu tế chúng sanh, thường hành hỉ tâm khiến người khác đồng vui, xả tâm các Ngài khéo dứt tắng ái, lưới ma tranh tụng dứt hết không thừa, khéo hiểu chúng sanh các căn lợi độn theo căn họ mà ban cho pháp tài. Tâm các Ngài bình đẳng như địa, thuỷ, hoả, phong, hay phá tất cả ngoại đạo dị luận, xô dẹp địch trận kiến lập thắng phan, nhập thâm Phật pháp Thập lực, Tứ vô sở uý, nơi các đại chúng tâm không có sợ, các Ngài thường quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên, lìa hữu kiến, vô kiến thường hành trung đạo, không có các tướng ngã, ngã sở, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, đoạn, thường, hữu, vô, tất cả các kiến chấp kiết phược nhơn duyên đều dứt chẳng còn khởi. Dùng tổng trì vương ấn để ấn đó. Từ biện phân biệt diễn giải của các Ngài na do tha kiếp nói chẳng hết được, có đại thần lực cảm động vô lượng vô biên Phật độ, khéo qua lại các Phật độ dứt trừ sân hận, bố uý, kiêu mạn, phóng dật. Các Ngài diễn thuyết như sư tử hống, với tất cả chúng sanh kẻ oán người thân thảy đều đặt để cứu cánh Niết bàn, mây pháp phủ trùm để nổi sấm chớp, tam minh giải thoát dùng làm chớp sáng, mưa pháp vô thượng dùng làm cam lộ, hay ban bố pháp tài để Tam bửu chẳng đoạn tuyệt, nội ngoại thanh tịnh dường như bửu châu, tướng hảo thù thắng tối thượng vô tỉ, dùng các thiện căn trang nghiêm thân mình, Phật pháp quán đảnh được vị bổ xứ, khéo có thể phân biệt các chúng sanh hành tuỳ thuận đều phục cho được giải thoát, hay tịnh đạo tràng ngồi toà sư tử, ở trong tất cả pháp được vô sở uý, hay tự biến hình như thân Phật, đều có thể thị hiện tất cả Phật sự, tâm được tự tại chuyển chánh pháp luân.

Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn ấy thuần có chư đại Bồ Tát như vậy làm quyến thuộc”.

Đại chúng nghe đức Phật ca ngợi chư đại Bồ Tát ấy đầy đủ công đức trí huệ như vậy, đều hớn hở vui mừng đem các thứ hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la rải cúng dường Vô Tận Ý Bồ Tát và sáu mười ức Bồ Tát rồi khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi hôm nay vui mừng được lợi lành mà thấy các Chánh Sĩ như vậy để lễ bái cúng dường cung kính vây quanh. Nếu có chúng sanh nghe tên các Ngài cũng được vô lượng lợi lành như vậy, nếu nghe tán thán xưng dương công đức ấy đều phát tâm Vô thượng Bồ đề”.

Lúc nói lời ấy, trong đại chúng có ba trăm sáu mươi vạn chúng sanh phát Vô thượng Bồ đề tâm.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai không có ba ác đạo và tên gọi, cũng không có tên tà hành việt giới, cũng không có danh từ nữ nhơn, xan tham, tật đố, phá giới, sân hận, giải đãi, loạn tâm, ngu si, chướng ngại ấm cái. Các chúng sanh cõi ấy căn tánh đồng nhau không có thượng trung hạ thuần là nhứt thừa không có tên đại tiểu, Phật độ cũng không có tên tịnh hay uế, cũng không có danh xưng Tam bửu sai biệt, chẳng nghe tiếng đói khác ăn uống, chẳng có danh từ ngã, ngã sở, giá, hộ, ma võng, vọng kiến.

Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai ấy bằng phẳng rộng lớn, một nhựt nguyệt chiếu giáp khắp sáu mươi ức trăm ngàn na do tha do tuần. Các sự hi hữu ấy đều do Bồ Tát cõi ấy bổn nguyện làm nên, lưu ly và các báu xen lẫn làm thành, đất mịn mềm như thiên y, người chạm đến thọ lạc vi diệu, cây báu trang nghiêm hàng ngũ tương đương, dây báu giăng nối để làm ranh tám ngả đường, tất cả các hoa đều tự nở, không có đá cát gai chông dơ dáy, tất cả đồi núi đều là các thứ báu trang sức, người và trời không có sai biệt, pháp hỉ thiền duyệt làm món ăn uống. Cõi Bất Thuấn ấy không có danh từ vua chúa, chỉ có Phổ Hiền Như Lai làm Đại Pháp Vương. Phổ Hiền Như Lai và chư Bồ Tát chẳng dùng văn tự để có nói. Chư Bồ Tát ấy chỉ tu quán Phật nhìn kỹ không nhàm mắt không hề nháy bèn có thể được niệm Phật tam muội ngộ Vô sanh nhẫn. Vì vậy cõi ấy có tên là Bất Thuấn thế giới. Chư Bồ Tát ấy niệm Phật thế nào?

Đó là chẳng quán sắc tướng xuất sanh chủng tánh quá khứ tịnh nghiệp, lúc ấy trong tâm không có tự cao. Chẳng quán hiện tại ấm giới các nhập kiến văn giác tri tâm ý thức v.v…, không có tướng sanh trụ diệt hí luận, chẳng thủ chẳng xả chẳng niệm chẳng tư, chẳng quán tư tưởng và chẳng tư tưởng, chẳng phân biệt tưởng pháp tưởng kỷ tưởng, không có nhứt dị tưởng, cảnh giới công đức nội ngoại trung gian chẳng khởi niệm giác quán thỉ chung, chẳng quán hình mạo oai nghi pháp thức, chẳng quán giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp. Chánh niệm Phật ấy chẳng thể tư nghị. Chẳng tạo hành chẳng tác tưởng, vô đẳng đẳng lìa tư duy, vô sở niệm vô tư xứ, không có tưởng ấm giới nhập sanh trụ diệt, không có xứ sở chẳng phải không xứ sở, chẳng động chẳng trụ, chẳng sắc, chẳng thức, chẳng tưởng, chẳng thọ, chẳng hành. Nơi thức chẳng sanh thức tri, nơi địa thuỷ hoả phong chẳng sanh thức tri, nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp cũng chẳng sanh thức tri.

Chăng duyên tất cả cảnh giới như vậy, chẳng sanh các tướng ngã và ngã sở, chẳng khởi tưởng kiến văn giác tri, cứu cánh có thể đến tất cả giải thoát, tâm và tâm số pháp diệt dứt chẳng tương tục, tịnh các ức tưởng chẳng ức tưởng, khéo trừ tham ái, sân khuể, ngu si nhơn duyên tướng, thử bỉ và trung gian đều dứt không thừa. Pháp ấy thanh tịnh vì không có văn tự vậy. Pháp ấy không có hoan hỉ vì không có động chuyển vậy. Pháp ấy không có khổ vì không có tham trước vậy. Pháp ấy không nhiệt não vì bổn tịch diệt vậy. Pháp ấy không giải thoát vì bổn xả ly vậy. Pháp ấy không có thân vì lìa sắc tướng vậy. Pháp ấy không có tướng thọ vì không có ngã vậy. Pháp ấy không có kiết phược vì tịch diệt vô tướng vậy. Pháp ấy vô vi vì không có sở tác vậy. Pháp ấy không có ngôn giáo vì không có thức tri vậy. Pháp ấy không có thỉ chung vì không có thủ xả vậy. Pháp ấy không dừng ở vì không có xứ sở vậy. Pháp ấy không có tác vì lìa thọ giả vậy. Pháp ấy không có diệt vì bổn vô sanh vậy.

Với tâm số tư duy sở duyên trụ pháp, chẳng lấy tướng nó chẳng sanh phân biệt, chẳng thọ chẳng trước chẳng nhiên chẳng diệt chẳng sanh chẳng xuất, pháp tánh bình đẳng như hư không, quá nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp. Đây gọi là Bồ Tát niệm Phật tam muội.

Bồ Tát được niệm Phật tam muội ấy, ở trong tất cả pháp được môn tự tại trí đà la ni, nghe Phật nói pháp đều có thể thọ trì hết chẳng quên mất, cũng được hiểu rõ tất cả chúng sanh ngôn tử âm thanh, được vô ngại biện tài.

Nầy Xá Lợi Phất! Phổ Hiền Như Lai kia chẳng như cõi nầy dùng hai nhơn duyên để diễn nói chánh kiến, đó là theo người khác nghe âm thanh và nội tâm chánh ức niệm.

Chư Bồ Tát kia lúc thấy Phật liền có thể phân biệt các nghĩa thâm diệu, đầy đủ thành tựu sáu Ba la mật. Tại sao vậy? Vì nếu chẳng lấy sắc tướng tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Nếu trừ sắc tướng tức là đầy đủ Thi Ba la mật. Nếu quán sắc tận tức là đầy đủ Nhẫn Ba la mật. Nếu thấy sắc tịch diệt tức là đầy đủ Tiến Ba la mật. Nếu chẳng duyên sắc tướng tức là đầy đủ Thiền Ba la mật. Nếu chẳng hí luận sắc tướng tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật. Chư Bồ Tát ấy lúc quán Phật liền đầy đủ sáu Ba la mật như vậy được Vô sanh nhẫn.

Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật thế giới nghiêm tịnh vi diệu ít có như Phổ Hiền Như Lai thế giới Bất Thuấn ấy”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Mừng thay các Ngài ở thế giới kia được thấy Phổ Hiền Như Lai được vô lượng lợi lành”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Phải chăng các Ngài muốn được thấy thế giới Bất Thuấn Phổ Hiền Thế Tôn và đại chúng Bồ Tát chăng?”.

Tôn giả nói: “Vâng, chúng tôi muốn được thấy, để cho đại chúng đây tăng trưởng thiện căn”.

Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát thị hiện nhứt thiết Phật độ tam muội. Nhập tam muội rồi làm cho đại chúng đây và Xá Lợi Phất đều thấy cõi kia Phổ Hiền Như Lai và đại chúng. Thấy rồi tất cả đại chúng đây đồng đứng dậy chắp tay vói kính lễ Phật Phổ Hiền và chúng Bồ Tát. Đại chúng đây nhờ thần lực Phật và Vô Tận Ý Bồ Tát nên đều được vi diệu hoa đời thật ít có. Hoa ấy màu sắc và hương vị chưa từng được thấy nghe, tự nhiên đầy nắm tay mỗi người, đồng vói rải qua phương Đông dùng cúng dường Phổ Hiền Như Lai. Hoa ấy liền khắp đến Phổ Hiền Như Lai và đại chúng.

Chư Bồ Tát kia thấy hoa ấy liền bạch Phổ Hiền Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoa nầy thơm đẹp đời rất ít có. Đây là từ xứ nào hoa đến đây?”.

Phổ Hiền Như Lai nói: “Đây là Vô Tận Ý ở tại Ta Bà thế giới, nơi đó cũng còn có mười phương chư Bồ Tát đến tụ tập chỗ Phật Thích Ca để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán nghe Phật Thế Tôn nói kinh Đại Tập. Hoa nầy là của đại chúng ấy rải đến”.

Chư Bồ Tát kia lại bạch Phật Phổ Hiền rằng: “Ta Bà thế giới ở phương nào cách đây bao xa?”.

Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Tây cách đây mười hằng hà sa số thế giới vi trần số quốc độ chư Phật, có thế giới tên là Ta Bà”.

Chư Bồ Tát kia lại nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi rất muốn được thấy Thích Ca Như Lai và đại chúng”.

Phổ Hiền Như Lai liền phóng đại quang minh chiếu khắp thế giới nầy. Nhơn Phật quang chư Bồ Tát kia đều được vói thấy Ta Bà thế giới Thích Ca Như Lai và đại chúng.

Thấy rồi đồng chắp tay cung kính nói rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Cõi ấy Bồ Tát tất cả đại chúng từ chỗ nào đến tập hội đầy khắp mọi nơi không còn chỗ trống”.

Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Đại chúng kia từ mười phương vô lượng thế giới đến đó tập hội để thưa hỏi nghe học pháp thậm thâm vi diệu”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Ai đặt tên cho Ngài là Vô Tận Ý vậy?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Tất cả pháp nhơn duyên quả báo tên là Vô Tận Ý, tại sao, vì tất cả pháp chẳng thể tận được vậy”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Mong Ngài diễn nói vô tận pháp môn”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Lúc sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề đã chẳng thể tận được. Tại sao, phát Bồ đề tâm vì chẳng lìa phiền não vậy, phát tâm tương tục vì chẳng mong thừa khác vậy, phát tâm kiên cố vì chẳng xen ngoại luận vậy, phát tâm chẳng hư hoại vì ma chẳng trở ngại vậy, phát tâm hằng thuận vì thiện căn tăng trưởng vậy, phát tâm đến thường trú vì pháp hữu vi vô thường vậy, phát tâm chẳng động chuyển vì chư Phật an ủi hộ trợ vậy, phát tâm thắng diệu vì lìa suy tổn vậy, phát tâm ở yên vì chẳng hí luận vậy, phát tâm không ví dụ vì không có tương tự vậy, phát tâm kim cương vì phá các pháp vậy, phát tâm vô tận vì vô lượng công đức đều thành tựu vậy, phát tâm bình đẳng vì lợi ích chúng sanh vậy, phát tâm khắp che vì không có biệt dị vậy, phát tâm tươi sáng vì tánh thường thanh tịnh vậy, phát tâm vô cấu vì trí huệ sáng tỏ vậy, phát tâm thiện giải vì chẳng lìa cứu cánh vậy, phát tâm rộng sướng vì từ tâm như hư không vậy, phát tâm lớn trống vì dung thọ tất cả chúng sanh vậy, phát tâm vô ngại vì trí huệ thông đạt vậy, phát tâm đến khắp nơi vì đại bi chẳng dứt vậy, phát tâm chẳng đoạn dứt vì khéo hiểu lập nguyện vậy, phát tâm làm chỗ về vì được chư Phật khen vậy, phát tâm thù thắng vì nhị thừa tôn ngưỡng vậy, phát tâm thâm viễn vì tất cả chúng sanh chẳng biết được vậy, phát tâm chẳng bại vì chẳng phá Phật pháp vậy, phát tâm an ổn vì khéo cho chúng sanh những khoái lạc vậy, phát tâm trang nghiêm vì tất cả công đức đều thành tựu vậy, phát tâm khéo quán sát vì trí huệ thành tựu vậy, phát tâm tăng trưởng vì tuỳ ý ban cho vậy, phát tâm như nguyện vì giới thanh tịnh vậy, phát tâm Bồ đề đến khắp mọi loài vì với kẻ oán người thân có đủ nhẫn nhục vậy, phát tâm khó hư hoại vì có đủ tinh tiến vậy, phát tâm tịch diệt vì đủ thiền định vậy, phát tâm không bị huỷ báng vì đủ trí huệ vậy, phát tâm vô nguyện vì tăng trưởng đại từ vậy, phát tâm Bồ đề an trụ thiện căn vững chắc vì tăng trưởng đại bi vậy, phát tâm hoà duyệt vì tăng trưởng đại hỉ vậy, phát tâm bất động vì tăng trưởng đại xả vậy, phát tâm kham nhiệm gánh nặng vì được chư Phật dạy trao vậy, phát tâm chẳng tuyệt vì Tam bửu chẳng dứt đoạn vậy.

Thưa Tôn giả! Bồ Tát vì Nhứt thiết trí phát tâm Bồ đề như vậy há có thể cùng tận được ư!”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Như hư không chẳng thể cùng tận, vì Nhứt thiết trí mà phát tâm Bồ đề cũng chẳng cùng tận”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Phật cấm giới vô tận, nhơn cấm giới phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật chánh định vô tận, nhơn chánh định phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật trí huệ vô tận, nhơn trí huệ phát tâm Bồ đề cũng vô tận. Phật giải thoát vô tận, nhơn giải thoát phát tâm cũng vô tận. Phật giải thoát tri kiến cũng vô tận, nhơn giải thoát tri kiến phát tâm cũng vô tận.

Thưa Tôn giả! Phật giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tánh nó vô tận, nhơn năm tụ ấy mà phát Bồ đề tâm há lại có thể tận được ư!

Như Lai thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp vô tận, nhơn đó mà phát tâm Bồ đề cũng vô tận.

Tóm lại mà nói, Như Lai tất cả pháp thảy đều vô tận, nhơn đó để phát Bồ đề tâm cũng vô tận.

Tam bửu vì chẳng dứt nên vô tận. Vì chúng sanh tánh vô tận nên vô tận. Vì như thiệt trí vô tận nên vô tận. Vì tuỳ theo các chúng sanh vô lượng tâm hành trí vô tận nên vô tận. Vì hồi hướng vô thượng vô tận nên vô tận. Vì giáo hoá chúng sanh vô tận nên vô tận. Vì vô tận trí vô sanh nên vô tận. Vì lý tánh vô sanh nên vô tận. Vì biết tất cả pháp bổn tánh vô tận nên vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát phát Bồ đề tâm chẳng thể tận được vậy.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm thanh tịnh vô tận, tâm thanh tịnh ấy là chẳng làm siểm khúc vậy. Chẳng làm siểm khúc ấy là không có gian trá vậy. Không có gian trá ấy là khéo phân biệt vậy. Khéo phân biệt ấy là không có tà mạng vậy. Không tà mạng ấy là tâm trong trắng vậy. Tâm trong trắng ấy là thường chánh nhứt vậy. Thường chánh nhứt ấy là tánh thù thắng vậy. Tánh thù thắng ấy là không có khinh huỷ vậy. Không có khinh huỷ ấy là diệt các cong vạy vậy. Diệt các cong vạy ấy là tâm chất trực vậy. Tâm chánh trực ấy là nhập bình chánh vậy. Nhập bình chánh ấy là tâm kiên thiệt vậy. Tâm kiên thiệt ấy là chẳng hư hoại được vậy. Chẳng hư hoại được ấy là tánh kiên cố vậy. Tánh kiên cố ấy là chẳng động được vậy. Chẳng động được ấy là không có sở y vậy. Không có sở y ấy là trừ ngã tâm vậy. Trừ ngã tâm ấy là không có đồng bạn vậy. Không có đồng bạn ấy là dứt chê khi vậy. Dứt chê khi ấy là làm thiện nghiệp vậy. Làm thiện nghiệp ấy là không có quở trách vậy. Không quở trách ấy là tiêu tội lỗi vậy. Tiêu tội lỗi ấy là chẳng nhiệt não vậy. Chẳng nhiệt não ấy là tánh chơn thiệt vậy. Tánh chơn thiệt ấy là không hư cuống vậy. Không hư cuống ấy là như thuyết hành. Như thuyết hành ấy là có thể khéo làm vậy. Hay khéo làm ấy là không có tỳ vết vậy. Không tỳ vết ấy là không có lộn lầm vậy. Không có lộn lầm ấy là không bị trệ ngại vậy. Không bị trệ ngại ấy là không thối chuyển vậy. Không thối chuyển ấy là quán chúng sanh vậy. Quán chúng sanh ấy là đại bi căn sâu vậy. Đại bi căn sâu ấy là khéo giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhọc vậy. Khéo hoá độ chúng sanh không mỏi nhọc ấy là chẳng cầu lợi cho mình vậy. Chẳng cầu lợi lạc cho mình ấy là chẳng tham lợi dưỡng vậy. Chẳng tham lợi dưỡng ấy là chẳng ái nhiễm vậy. Chẳng nhiễm ái ấy là duyên các pháp vậy. Duyên các pháp ấy là quán kém yếu vậy. Quán kém yếu ấy là thấy chúng sanh vậy. Thấy chúng sanh ấy là thường ủng hộ vậy. Thường ủng hộ ấy là làm chỗ quy y vậy. Làm chỗ quy y ấy là không có cấu uế hệ luỵ vậy. Không có cấu luỵ ấy là khéo quán sát vậy. Khéo quán sát ấy là không có luận chê vậy. Không có luận chê ấy là tâm thuần thiện vậy. Tâm thuần thiện ấy là chẳng động dao vậy. Chẳng động dao ấy là thiện thanh tịnh vậy. Thiện thanh tịnh ấy là thường tinh tiến vậy. Thường tinh tiến ấy là nội thanh tịnh vậy. Nội thanh tịnh ấy là thường tươi sáng vậy. Thường tươi sáng ấy là không có cấu nhiễm vậy.

Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh ấy hay đoạn dứt xan lẫn cũng giáo hoá người khiến họ dứt xan lẫn.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt phá giới cũng giáo hoá người khiến họ dứt phá giới.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt sân hận cũng giáo hoá người khiến họ dứt sân hận.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt giải đãi cũng giáo hoá người khiến họ dứt giải đãi.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt loạn tâm cũng giáo hoá người khiến họ dứt loạn tâm.

Tâm thanh tịnh ấy hay dứt ngu si cũng giáo hoá người khiến họ dứt ngu si.

Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh có khả năng dứt tất cả pháp bất thiện như vậy, đặt chúng sanh ở trong thiện pháp. Vì vậy nên gọi là Bồ Tát tâm thanh tịnh chẳng thể cùng tận được.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tâm hành thanh tịnh cũng chẳng cùng tận được. Tại sao vậy?

Lúc Bồ Tát bố thí, tất cả đều thấy xả bỏ các sở hữu.

Bồ Tát lúc hành giới chẳng thể tận được, tất cả đều thấy trì các cấm giới đầu đà chánh hạnh oai nghi không có phạm.

Bồ Tát lúc hành nhẫn chẳng thể tận được, tất cả đều thấy với các chúng sanh tâm không sân hận trở ngại.

Bồ Tát lúc hành tinh tiến chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy nơi các thiện pháp đều tinh cần tu tập.

Bồ Tát lúc hành thiền chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy các thiền định không có lầm loạn.

Bồ Tát lúc hành huệ cũng chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy tu tập đa văn.

Đây gọi là Bồ Tát hành thí, hành giới, hành nhẫn, hành tiến, hành định, hành huệ vậy.

Bồ Tát tu hành từ, bi, hỉ, xả cũng chẳng cùng tận được. Tất cả đều thấy cứu hết khổ hoan lạc dũng dước khéo dứt tham ái sân khuể vậy.

Đây gọi là Bồ Tát hành từ, bi, hỉ, xả.

Bồ Tát sở hành ba nghiệp thanh tịnh, lìa thân ba ác, lìa khẩu bốn ác, lìa ý ba ác là tham dục, sân khuể và tà kiến.

Bồ Tát tu học đa văn vô tận vì chẳng lẫn tiếc vậy. Vì Bồ Tát tu hành không lẫn tiếc nên tập họp Nhứt thiết trí vậy. Bồ Tát tu tập Nhứt thiết trí vì khuyên chư Bồ Tát khác phát đạo tâm vậy. Khuyên các Bồ Tát khác phát đạo tâm vì tu hành đặt ở thiện căn vậy. Tu hành đặt ở thiện căn vì hướng Vô thượng Bồ đề đạo vậy. Nguyện hướng Vô thượng Bồ đề đạo ấy là vì nhiếp lấy tất cả các Phật pháp vậy. Nhiếp lấy tất cả Phật pháp ấy là vì bốn sự nhiếp thủ vậy.

Bồ Tát tu hành bốn sự nhiếp thủ ấy là vì sám hối các tội vậy. Bồ Tát tu hành pháp sám hối ấy là vì phát lồ các sự ác vậy. Bồ Tát tu hành phát lồ sự ác là vì hồi hướng tất cả các công đức vậy. Bồ Tát hồi hướng các công đức ấy là vì tích tụ vô lượng trân bửu vậy. Bồ Tát tích tụ vô lượng trân bửu ấy là vì khuyến thỉnh chư Phật vậy. Bồ Tát khuyến thỉnh chư Phật ấy là vì nhiếp các pháp vậy. Bồ Tát nhiếp thủ các pháp ấy là vì hành Đại Sĩ pháp vậy. Bồ Tát hành Đại Sĩ pháp ấy là vì có thể vì chúng sanh mà làm trọng nhiệm vậy. Bồ Tát vì chúng sanh làm trọng nhiệm ấy là vì chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm vậy. Bồ Tát chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm ấy là vì thành tựu chúng sanh các thiện sự vậy!

Còn nữa thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn hành vô tận, đó là tâm hành vô tận, pháp thí vô tận, giáo hoá vô tận và thiện căn vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thích ở rảnh rang nhiếp trì oai nghi không có nhàm đủ, thường thích tụ tập vô lượng công đức mà không nhàm đủ, cầu nhiều học vấn rộng biết các nghĩa mà không nhàm đủ và thường nguyện Vô thượng Bồ đề trí huệ mà không nhàm đủ.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ so tính vô tận, rõ cân lường vô tận, rõ tư duy vô tận và rõ quán pháp vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ cấu nhơn vô tận, rõ bạch pháp vô tận, quở các phiền não vô tận và tán thán bạch pháp vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là quán các ấm tận vô tận, quán các giới tận vô tận, quán các nhập tận vô tận và quán nhơn duyên tận vô tận.

Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thuyết vô thường hành vô tận, thuyết khổ hành vô tận, thuyết vô ngã hành vô tận và thuyết tịch diệt Niết bàn vô tận.

Tóm lại để nói, Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận: hướng Nhứt thiết trí, tôn Nhứt thiết trí, ngưỡng Nhứt thiết trí. Vì Nhứt thiết trí vô tận nên Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát tâm hành vô tận vậy.

Còn nữa thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm cứu cánh vô tận, tại sao, vì chỗ tư duy nhẫn đến nhứt niệm của Bồ Tát thường duyên Bồ đề lòng chẳng nhàm mỏi, chuyên đến các địa vì qua khỏi sanh tử vậy, cứu cánh tăng trưởng vì đến bỉ ngạn vậy, cứu cánh bổn hành vì càng tăng thượng hơn vậy, cứu cánh lìa mang nặng vì nhiếp thắng pháp vậy, cứu cánh không ngang bằng vì đầy đủ tất cả Phật pháp vậy, cứu cánh sở duyên vì tăng trưởng thiện pháp vậy, cứu cánh có thể đến vì vượt quá tâm hành xứ vậy, cứu cánh trang nghiêm vì không mỏi nhàm vậy, cứu cánh tu hành cát tường Bồ đề vì các thứ khổ hạnh đều thành tựu vậy, cứu cánh chẳng trông mong vì chẳng cầu vui cho mình vậy, cứu cánh tuỳ thuận vì không có các ác vậy, cứu cánh điều phục vì an trụ thánh pháp vậy, cứu cánh chẳng xen tạp vì lìa phiền não vậy, cứu cánh bố thí khó vì chẳng tiếc đầu mắt vậy, cứu cánh giới cấm khó vì ủng hộ phạm cấm vậy, cứu cánh nhẫn nhục khó vì nhẫn các quá ác không có thế lực vậy, cứu cánh tinh tiến khó vì chuyên tu khổ hạnh bỏ nhị thừa vậy, cứu cánh thiền định khó vì chẳng tham trước các thiền định vậy, cứu cánh huệ khó vì chẳng tham trước tất cả thiện căn vậy, phát hành liền có thể đến vì tất cả thiện sự đều thành tựu vậy, cứu cánh xa lìa vì khéo phân biệt những mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn vậy, cứu cánh có thể xả thí vì ban cho chúng sanh chẳng cầu quả báo vậy, cứu cánh chẳng kinh sợ vì sâu quán Phật pháp thậm thâm vậy, cứu cánh tăng tiến vì chẳng đình trệ vậy, cứu cánh vô tận vì thường tinh tiến vậy, cứu cánh chẳng hư cuống vì quyết chắc vì chúng sanh mà làm kẻ gánh nặng vậy.

Lại nữa, cứu cánh ấy là điều nhu chúng sanh, là thương che lợi ích người hiền thiện, là thương cứu kẻ làm ác, là tôn kính bậc tôn trưởng, là thủ hộ kẻ không được hộ, là chỗ về cho kẻ không chỗ về, là đuốc soi cho kẻ không ánh sáng, là chỗ nương cho kẻ không nơi nương, là bạn cho kẻ không có bạn, là thẳng cho kẻ cong, là lành cho kẻ chăng lành, là không gian cho kẻ gian, thanh tịnh kẻ tà mạng, làm ơn cho người ơn và kẻ không ơn cùng kẻ chẳng biết ơn, làm lợi cho kẻ chẳng được lợi, chơn thiệt cho kẻ dối khi, chẳng kiêu với kẻ kiêu, chẳng phá hư tác giả, lời dịu dàng dạy răn các kẻ làm ác, hộ kẻ tà hành, thấy hành phương tiện chẳng cho là lỗi, với người thọ lãnh tâm bình đẳng cung kính, với Bồ Tát khác thường khuyên dắt, dùng lời dịu dàng để giảng dạy, thích ở chỗ vắng tu hành thiện pháp, lìa các lợi dưỡng chẳng tiếc thân mạng, không có tà niệm vì tâm tịch diệt vậy, không có tà siểm vì nhiếp lỗi nơi miệng vậy, chẳng dùng tà nghiệp để cầu lợi ích, tâm thường thiểu dục vì tri túc vậy, tâm điều nhu hoà vì không cấu uế vậy, trở lại ở sanh tử vì đủ thiện căn vậy, hay nhẫn các sự khổ vì chúng sanh vậy.

Đây là Đại Sĩ sở hành tất cả đều cứu cánh mà chẳng tận được vậy.

Tâm Bồ Tát ấy, sanh từ phiền não vĩnh viễn không phá hoại được, tại sao, vì tâm ấy tăng trưởng các công đức vậy, vì chứa nhận tất cả chúng sanh vậy, vì thành tựu vô tận diệu trí huệ vậy.

Đây gọi là đại Bồ Tát cứu cánh vô tận”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng còn có pháp vô tận nữa chăng?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Có. Bồ Tát tu hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận. Tại sao, vì đại Bồ Tát hành bố thí vô lượng, với kẻ cần ăn thì cho ăn vì đầy đủ mạng biện sắc lực lạc, kẻ cần uống cho uống vì trừ khát ái vậy, kẻ cần mặc cho y phục vì thanh tịnh sắc ấm không có hổ thẹn vậy, kẻ cần xe cho xe vì được tất cả món vật vui thích thần thông vậy, kẻ cần đèn cho đèn vì đủ Phật nhãn thanh tịnh vậy, kẻ cần âm nhạc cho âm nhạc vì đầy đủ thiên nhĩ thanh tịnh vậy, kẻ cần hương cho hương thơm vì thân phát xuất đủ hơi hương vi diệu vậy, kẻ cần tràng hoa cho tràng hoa vì đầy đủ đà la ni thất giác hoa vậy, kẻ cần hương xoa hương bột đều cho đủ đó vì có đủ giới định huệ ướp thân vậy, kẻ cần các thứ mùi vị đều theo ý muốn mà cho đó vì tướng vị cam lộ thành tựu vậy, kẻ cần y chỉ thì cho y chỉ vì có thể vì chúng sanh đầy đủ cứu hộ làm nơi quy y vậy, kẻ cần nệm trải lót đều cho đủ đó vì đầy đủ cứu cánh dứt trừ ấm cái thành tựu Phạm Thiên, Hiền Thánh chư Phật những giường ghế vi diệu vậy, kẻ cần toà ngồi cho toà ngồi vì đầy đủ tam thiên Đại Thiên thế giới dùng làm đạo tràng chỗ kim cương toà đều thành tựu vậy, kẻ cần những món cần dùng đều cho đủ cả vì thành tựu những thứ cần cho Bồ đề vậy, theo bịnh cho thuốc được không già chết vì cam lộ pháp dược đều thành tựu vậy, kẻ cần bốc sứ đều cấp cho vì tự tại trí huệ được đầy đủ vậy, nếu dùng kim ngân thất bửu thí cho vì đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn vậy, hay đem các thứ anh lạc thí cho vì đầy đủ tám mươi tuỳ hình hảo vậy, hay đem các thứ xe cộ voi ngựa thí cho vì đầy đủ Đại thừa vậy, nếu đem vườn rừng bố thí là vì đầy đủ các thiền chi vậy, nếu đem vợ con bố thí là vì đầy đủ pháp ái vô thượng đạo vậy, nếu đem kho tàng thóc gạo của cải bố thí là vì đầy đủ các kho báu thiện pháp vậy, nếu đem Diêm Phù Đề hoặc cả tứ thiên hạ bố thí là vì đầy đủ Pháp Vương được tự tại vậy, nếu đem các vật thích dùng để bố thí là vì đầy đủ vô lượng pháp lạc vui thích vậy, nếu đem chưn cẳng bố thí là vì đầy đủ thành tựu chưn pháp tiến đến đạo tràng vậy, nếu bố thí cánh tay là vì đầy đủ tay pháp vỗ về chúng sanh khiến được an vui vậy, nếu đem tai mũi bố thí là vì đầy đủ các căn thông lợi vậy, nếu bố thí tròng mắt là vì muốn đầy đủ pháp nhãn vô ngại vậy, nếu bố thí đầu là vì ở trong tam giới đầy đủ tất cả trí huệ thù thắng vậy. Nếu đem máu thịt bố thí là đem vật chẳng bền chắc đổi vật bền chắc vậy, nếu đem tuỷ não bố thí là vì được thân kim cương bất hoại vậy.

Bồ Tát chẳng hành tà mạng cầu có tài vật rồi đem bố thí, chẳng bức ép chúng sanh cưỡng cầu tài vật để bố thí cho kẻ khác, không khủng bố thí cho, không tủi hổ bố thí cho, không lẫn tiếc thí cho, đúng như chỗ đã hứa lúc cho không bớt giảm, không có chẳng thương mà thí cho, cứu cánh thường thí cho, không có chẳng cứu cánh thí cho, không có dua gièm bố thí, không có gian trá bố thí, chẳng nghi nghiệp báo bố thí, không có tà mạng bố thí, không có ngu si bố thí, không có chẳng tin bố thí, không có chẳng hiểu bố thí, không có mỏi nhàm bố thí khó, không có dựa nương bố thí, không có lựa chọn bố thí, không có hiện dị tướng bố thí, chẳng câu người thọ nhận bố thí, không có chúng sanh kẻ chẳng kham nhận trì giới phạm giới không có tăng giảm bố thí, nơi người thọ nhận không có mong báo đáp bố thí, chẳng cầu danh bố thí, chẳng chê khen bố thí, không có kiêu mạn chẳng kiêu mạn bố thí, không có nhiệt não bố thí, tâm chẳng hối tiếc bố thí, chẳng tự khen bố thí, không có tạp uế bố thí, chẳng mong nghiệp báo bố thí, không định xứ bố thí, không có giận hờn ái nhiễm bố thí, có kẻ đến xin chẳng não hại bố thí, không khinh khi bố thí, không nhăn mặt bố thí, chẳng ném quăng bố thí, không có chẳng cố ý bố thí, không có tay chẳng trao bố thí, không có chẳng thường bố thí, không có đoạn tuỵêt bố thí, không có ganh ghét kiêu mạn bố thí, không có chừng hạn bố thí, đúng như chỗ đã hứa không có thay đổi bố thí, không có kham nhiệm chẳng kham nhiệm bố thí, không có chẳng phải phước điền bố thí, chẳng khinh ít bố thí, chẳng khen nhiều bố thí, chẳng tiêu hao bố thí, chẳng cầu đời sau bố thí, chẳng cầu quả báo Phạm, Thích, Tứ Vương, Chuyển Luân Vương bố thí, chẳng nguyện Thanh Văn, Duyên Giác thừa bố thí, chẳng cầu Vương tử được tự tại bố thí, chẳng vì một đời bố thí, chẳng nhàm đủ bố thí, không có chẳng hồi hướng Nhứt thiết trí bố thí, không có bất tịnh bố thí, không có đao độc bố thí, không có não hại chúng sanh bố thí.

Bồ Tát hành bố thí chẳng bị người trí khinh cười, tại sao, vì quán không tịch hành bố thí vì vậy nên vô tận, không làm có công ơn bố thí nên vô tận, ra khỏi tướng tam hữu bố thí nên vô tận, chẳng lấy chỗ nơi nên vô tận, vì quả giải thoát là bố thí vô tận, vì phục chúng ma là bố thí vô tận, vì dứt kiết ái là bố thí vô tận, vì tăng thượng bố thí nên vô tận, khéo phân biệt bố thí nên vô tận, trợ Bồ đề bố thí nên vô tận, chánh hồi hướng bố thí nên vô tận, trang nghiêm đạo tràng giải thoát quả bố thí nên vô tận, thí ấy vô biên nên vô tận, thí ấy không hư hoại nên vô tận, thí ấy chẳng đoạn dứt nên vô tận, thí ấy quảng đại nên vô tận, thí ấy vô trụ nên vô tận, thí ấy vô phục nên vô tận, vô đẳng đẳng bố thí nên vô tận, thí ấy tiến đến Nhứt thiết chủng trí nên vô tận.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành bố thí mà chẳng thể cùng tận được”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Lành thay lành thay, bạch Đại Sĩ! Vâng, Ngài nói rất tốt về đại Bồ Tát hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận.

Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Thi Ba la mật như Bồ Tát Thi Ba la mật chẳng thể cùng tận”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát giới tụ sáu mươi bảy sự thanh tịnh tu trị cũng chẳng thể cùng tận.

Những gì là sáu mươi bảy sự?

Với các chúng sanh chẳng khởi não hại. Nơi tài vật của kẻ khác chẳng trộm cắp. Nơi phụ nữ người chẳng sanh lòng tà. Nơi các chúng sanh chẳng khi dối phỉnh gạt. Chẳng hề lưỡng thiệt vì nơi quyến thuộc mình biết an đủ vậy. Không có ác khẩu vì nhịn thô uế vậy. Không có ỷ ngữ vì khéo nói vậy. Nơi sự vui của người chẳng tham ganh vậy. Không hề giận tức vì nhịn lời mắng nhiếc vậy. Chánh kiến chẳng tà vì coi rẻ đạo khác vậy. Thâm tín nơi Phật vì tâm chẳng trược vậy. Thâm tín nơi Pháp vì khéo quán pháp vậy. Kính tín nơi Tăng vì tôn trọng Thánh chúng vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì chí niệm Phật vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tư duy Pháp vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tôn kính Tăng vậy. Kiên trì cấm giới tất cả không phạm vì nhẫn đến điều cấm giới nhỏ cũng không buông bỏ vậy. Thọ trì giới chẳng kém khuyết vì chẳng y theo các thừa khác vậy. Thọ trì giới chẳng xuyên tạc vì lìa sanh xứ ác vậy. Trì giới chẳng hoang vì chẳng tạp các kiết sử vậy. Trì giới chẳng ô nhiễm vì chuyên tăng trưởng bạch pháp vậy. Trì giới thuần thiện vì chánh niệm biết rõ vậy. Trì giới chẳng quở trách vì tất cả giới chẳng tản mất vậy. Trì giới lành chắc vì phòng hộ các căn vậy. Trì giới danh tiếng tốt vì được Phật hộ niệm vậy. Trì giới tri túc vì không có chẳng nhàm chán vậy. Trì giới thiểu dục vì chẳng tham lẫn vậy. Trì giới tánh thanh tịnh vì thân tâm tịch diệt vậy. Trì giới a lan nhã vì lìa ồn náo vậy. Trì thánh chủng giới vì chẳng cầu ý khác vậy. Trì oai nghi giới vì tất cả thiện căn được tự tại vậy. Trì như thuyết giới vì nhơn thiên hoan hỷ vậy. Trì từ tâm giới vì thủ hộ chúng sanh vậy. Trì bi tâm giới vì hay nhẫn các sự khổ vậy. Trì hỷ tâm giới vì tâm chẳng giải đãi vậy. Trì xả tâm giới vì lìa tham ái sân khuể vậy. Trì tự tỉnh giới vì khéo phân biệt vậy. Trì giới chẳng tìm kém dở của người vì thủ hộ tâm người vậy. Trì giới khéo nhiếp thủ vì khéo thủ hộ vậy. Trì giới ban cho vì giáo hoá chúng sanh vậy. Trì nhẫn nhục giới vì tâm không giận ngại vậy. Trì tinh tiến giới vì tâm không thối huờn vậy. Trì thiền định giới vì tăng trưởng thiền chi vậy. Trì trí huệ giới vì đa văn thiện căn chẳng nhàm đủ vậy. Trì đa văn giới vì học rộng vững chắc vậy. Trì giới thân cận thiện tri thức vì trợ thành Bồ đề vậy. Trì xa lìa ác tri thức giới vì xa lìa ác đạo vậy. Trì giới chẳng tiếc thân vì quán tưởng vô thường vậy. Trì giới chẳng tiếc mạng vì siêng hành thiện căn vậy. Trì giới chẳng hối tiếc vì tâm thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng tà mạng vì tâm hành thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng nhiệt não vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng đốt cháy vì tu thiện nghiệp vậy. Trì giới chẳng kiêu mạn vì tâm thấp chẳng kiêu vậy. Trì giới chẳng điệu cử vì xa lìa các dục vậy. Trì giới chẳng tự cao vì tâm bằng thẳng vậy. Trì giới nhu hoà vì tâm không chống đối vậy. Trì giới điều phục vì không não hại vậy. Trì giới tịch diệt vì tâm không cấu uế vậy. Trì giới thuận theo lời vì như thuyết hành vậy. Trì giới giáo hoá chúng sanh vì chẳng rời nhiếp pháp vậy. Trì giới hộ chánh pháp vì chẳng trái như thiệt vậy. Trì như nguyện thành tựu giới vì các chúng sanh tâm bình đẳng vậy. Trì giới thân cận Phật vì nguyện cầu Như Lai vô thượng giới vậy. Trì giới nhập Phật tam muội vì đầy đủ các Phật pháp vậy.

Đây gọi là Bồ Tát sáu mươi bảy sự tịnh giới tụ mà chẳng thể cùng tận được.

Lại nầy Tôn giả! Trong vô tận thanh tịnh giới của Bồ Tát không có dựa dính. Đó là phá tất cả tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, dưỡng dục, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, địa, thuỷ, hoả, phong.

Trong tịnh giới ấy không có tướng nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, cũng không có thân tâm vì định hướng của giới ấy hẳn chẳng cùng chung vậy. Vì phân biệt tướng của giới ấy phương tiện duyên của tất cả các pháp vậy. Vì không tướng của giới ấy được vô tướng tế chẳng xen tạp tam giới vậy. Giới ấy bất tác vì Vô sanh nhẫn vậy. Trong tịnh giới ấy không có đã làm sẽ làm đang làm. Tịnh giới ấy quá khứ chẳng diệt vị lai chẳng đến hiện tại chẳng dừng ở.

Lại nầy Tôn giả! Trong tịnh giới ấy tâm tịnh vô cấu, thức chẳng dừng ở và tư duy chẳng thân cận. Tịnh giới ấy chẳng dựa Dục giới, chẳng gần Sắc giới, chẳng ở Vô Sắc giới. Tịnh giới ấy bỏ lìa dục trần trừ sân ngại diệt vô minh chướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn chẳng thường chẳng nghịch nhơn duyên. Tịnh giới ấy không có ngã tướng bỏ ngã sở tướng chẳng ở thân kiến. Tịnh giới ấy chẳng lấy giả danh chẳng ở sắc tướng chẳng tạp danh sắc. Tịnh giới ấy chẳng hệ thuộc nơi nhơn chẳng khởi kiến chấp chẳng ở nghi hối. Tịnh giới ấy không có tham sân si không tham trước thiện căn. Tịnh giới ấy chẳng não chẳng nhiệt tịch diệt ly tướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn dứt Phật chủng vì cầu chánh pháp vậy, chẳng đoạn dứt pháp chủng vì chẳng phân biệt pháp tánh vậy, chẳng đoạn dứt Tăng chủng vì tu vô vi vậy.

Thưa Tôn giả! Người trì tịnh giới tương tục chẳng đoạn dứt nên vô tận. Tại sao vậy?

Vì phàm phu giới tại thân thọ sanh nên có tận. Trong loài người thập thiện tận nên có tận. Chư Thiên cõi Dục phước báu công đức tận nên có tận. Chư Thiên cõi Sắc các thiền vô lượng tâm tận nên có tận. Chư Thiên cõi Vô Sắc định được nhập tận nên có tận. Ngoại đạo tiên nhơn có những giới cấm thối thất thần thông tận nên có tận. Tất cả Thanh Văn học vô học giới nhập Niết bàn tế tận nên có tận. Bích Chi Phật giới không có tâm đại bi tận nên có tận.

Bồ Tát tịnh giới không có tận. Tại sao? Trong tịnh giới ấy xuất sanh tất cả giới, như giống vô tận nên quả cũng vô tận. Vì Bồ Tát chủng ấy chẳng thể cùng tận nên Như Lai giới cấm cũng chẳng thể cùng tận. Vì vậy nên tịnh giới được chư Đại Sĩ thọ trì đều chẳng thể cùng tận được.

Đây gọi là đại Bồ Tát tu trì tịnh giới mà chẳng cùng tận được”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát: “Lành thay lành thay, Đại Sĩ đã nói tốt về Thi la Ba la mật chẳng thể cùng tận được của đại Bồ Tát. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Sằn đề Ba la mật chẳng thể cùng tận được của chư đại Bồ Tát”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ ba mươi hai sự tu hành nhẫn nhục cũng chẳng thể cùng tận được.

Những gì là ba mươi hai sự?

Vì đoạn dứt các kiết sử nên biết là nhẫn. Vì chẳng sanh hại nên biết là nhẫn. Vì không có triền phược nên biết là nhẫn. Vì không có não nên biết là nhẫn. Vì không có trùm che nên biết là nhẫn. Vì không có sân nên biết là nhẫn. Vì không có tức giận tranh cãi nên biết là nhẫn. Vì không có đấu tụng nên biết là nhẫn. Vì nơi các trần giới tâm không có sai khác nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ mình và người nên biết là nhẫn. Vì thuận tâm Bồ đề nên biết là nhẫn. Vì khéo tư duy nên biết là nhẫn. Vì không có hai tưởng nên biết là nhẫn. Vì biết nghiệp báo nên biết là nhẫn. Vì trang nghiêm thân nên biết là nhẫn. Vì miệng nói lời thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm vững chắc nên biết là nhẫn. Vì ngôn ngữ tự tại nên biết là nhẫn. Vì nhớ biết nên biết là nhẫn. Vì khéo phân biệt tâm nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ tâm người nên biết là nhẫn. Vì tu Phạm Thế hạnh nên biết là nhẫn. Vì thọ báo nhơn thiên nên biết là nhẫn. Vì thân tướng thù thắng nên biết là nhẫn. Vì đủ phạm âm vi diệu nên biết là nhẫn. Vì trừ các lỗi tội nên biết là nhẫn. Vì dứt các cấu uế nên biết là nhẫn. Vì dứt tất cả bất thiện căn nên biết là nhẫn. Vì giết các giặc kiết sử nên biết là nhẫn. Vì nơi sự não hại chúng sanh đều được siêu việt nên biết là nhẫn. Vì đầy đủ tất cả Phật pháp nên biết là nhẫn.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành ba mươi hai sự nhẫn nhục mà chẳng thể cùng tận được.

Thưa Tôn giả! Thế nào là nhẫn? Nếu bị người mắng nín lặng thọ chẳng báo, vì khéo biết âm thanh như tiếng vang vậy. Bị người quở trách nín lặng thọ đó vì khéo biết thân tướng như ảnh tượng vậy. Bị người giận lòng chẳng hờn vì khéo biết tâm tướng như ảo huyễn vậy. Bị giận tức chẳng báo vì tâm không tức vậy. Nghe được xưng danh tâm không ái trước vì chẳng tự cao vậy. Nghe chẳng xưng danh tâm cũng không ngại vì công đức đầy đủ vậy. Nếu gặp vinh lợi tâm chẳng vui mừng vì khéo tự điều phục vậy. Nếu gặp suy hao tâm không quái ngại vì tâm tịch diệt vậy. Được người khen tâm chăng kinh động vì khéo biết phân biệt vậy. Bị người chê tâm không rút mất vì tâm quảng đại vậy. Bị người khi dễ tâm không hạ vì khéo an trụ vậy. Được tôn trọng tâm không cao vì chẳng khuynh động vậy. Gặp sự vui tâm chẳng hoan dật vì biết pháp hữu vi là tướng vô thường vậy. Nếu gặp sự khổ tâm không chán mỏi vì chúng sanh vậy. Thế pháp chẳng nhiễm vì chẳng y chỉ vậy. Nhẫn thọ các khổ thấy kẻ bị nguy bức đem thân thay họ. Nhẫn chịu tay chưn bị chặt gãy vì đầy đủ giác chi vậy. Các khổ hại thân đều có thể nhẫn thọ vì đầy đủ tướng thân Phật vậy. Nhẫn tội lỗi của người vì khéo làm nghiệp lực vậy. Thị hiện đốt nóng tu các khổ hạnh vì hàng phục ngoại đạo vậy. Thị hiện vào ngũ đạo vì vượt quá Thích, Phạm, Tứ Vương và chư Thiên vậy.

Đây gọi là Bồ Tát nhẫn nhục vậy.

Lại cứu cánh nhẫn ấy không có tranh tụng. Tại sao? Nếu thấy người mắng mà ta hay nhẫn, là thấy có hai tướng, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu nói ai mắng ta, nhẫn nhục như vậy là pháp công đức, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Hoặc là mắng nhãn ư, mắng nhĩ ư, mắng tỷ ư, mắng thiệt ư, mắng thân ư, mắng ý ư? Nhẫn như vậy là quán tướng lục nhập chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu không người mắng, nhẫn nhục như vậy là quán vô ngã, chẳng phải cứu cánh.Nếu biết giả danh, nhẫn như vậy là quán tướng mắng chẳng phải cứu cánh nhẫn. Người và ta đều là vô thường, nhẫn như vậy là quán vô thường, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ điên đảo ta chẳng điên đảo, nhẫn như vậy là quán cao hạ, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ chẳng siêng tu ta siêng tu, nhẫn như vậy là quán siêng lười, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ ở ác đạo ta ở thiện đạo, nhẫn như vậy là quán thiện ác, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn vô thường chẳng nhẫn có thường, ta hay nhẫn khổ chẳng thọ các lạc, ta nhẫn vô ngã chẳng nhẫn hữu ngã, ta nhẫn bất tịnh chẳng nhẫn có tịnh, nhẫn như vậy là quán có đối đãi, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn nơi rỗng không chẳng nhẫn các kiến, ta nhẫn vô tướng chẳng nhẫn các giác quán, ta nhẫn vô nguyện chẳng nhẫn nơi nguyện, ta nhẫn vô tác chẳng nhẫn có tác, ta nhẫn kiết sử hết chẳng nhẫn kiết sử còn, ta nhẫn pháp thiện chẳng nhẫn pháp bất thiện, ta nhẫn xuất thế chẳng nhẫn tại thế, ta nhẫn vô tranh chẳng nhẫn có tranh, ta nhẫn vô lậu chẳng nhẫn có lậu, ta nhẫn bạch pháp chẳng nhẫn hắc pháp, ta nhẫn tịch diệt chẳng nhẫn sanh tử, nhẫn như vậy là quán tương đối, chẳng phải cứu cánh nhẫn.

Thế nào gọi là cứu cánh nhẫn?

Nếu nhập không tịch chẳng cùng các kiến chấp hoà hiệp, chẳng dựa lấy không, các kiến ấy cũng là rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tướng chẳng cùng các giác hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô tướng, các giác ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô nguyện, chẳng cùng nguyện hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô nguyện, các nguyện ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tác chẳng cùng các tác hoà hiệp, chẳng dựa nơi vô tác, các tác ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập tận kiết chẳng cùng các kiết hoà hiệp, chẳng dựa nơi tận kiết, các kiết ấy cũng đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập nên thiện chẳng cùng bất thiện hoà hiệp, chẳng dựa nơi thiện, các bất thiện cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập xuất thế chẳng cùng thế hoà hiệp, chẳng dựa xuất thế, các thế ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô tranh chẳng cùng tranh hoà hiệp, chẳng dựa vô tranh các tranh ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập vô lậu chẳng cùng lậu hoà hiệp, chẳng dựa vô lậu các lậu ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập bạch pháp chẳng cùng hắc pháp hoà hiệp, chẳng dựa bạch pháp các hắc pháp đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu nhập tịch diệt chẳng cùng sanh tử hoà hiệp, chẳng dựa tịch diệt sanh tử cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.

Nếu tánh chẳng tự sanh chẳng cùng tha sanh chẳng hoà hiệp sanh, cũng không có xuất, chẳng thể phá hoại, chẳng thể phá hoại ấy là chẳng thể tận, Nhẫn như vậy là cứu cánh nhẫn.

Không có tác không có chẳng tác, không chỗ dựa lấy, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không có tu trị, không có phát tiến, trọn chẳng tạo sanh, nếu vô sanh ấy là chẳng thể tận, nhẫn như vậy là Vô sanh nhẫn, Vô sanh nhẫn ấy là vô xuất nhẫn, vô xuất nhẫn ấy là cứu cánh nhẫn.

Bồ Tát tu hành cứu cánh nhẫn như vậy được thọ ký nhẫn.

Đây gọi là Bồ Tát hành nhẫn vô tận vậy”.

Lúc nói pháp ấy, tất cả đại chúng khen Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Lành thay lành thay! Vô Tận Ý nói các nhẫn rất hay!”.

Đại chúng nói lời khen ngợi xong liền mưa các thứ hoa ít có và hương bột, hương xoa, vô số y phục đẹp, tràng phan, lọng báu để dâng cúng dường Vô Tận Ý đại Bồ Tát.

Trăm ngàn kỹ nhạc ở trên không tự nhiên phát thanh, nói rằng: “Nếu có các chúng sanh muốn được Như Lai thậm thâm nhẫn ấy, nghe lời nói ấy chẳng nên kinh sợ”.

Lúc bấy giờ các hương hoa, tạp y, phan lọng đầy khắp cả tam Thiên Đại Thiên thế giới.

Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Các vật hoa hương ngươi được cúng dường ấy, người tự tìm khí cụ đựng lấy trừ sạch hết đi”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Vâng, bạch đức Thế Tôn! Nay tôi sẽ dùng thần thông chính thân mình làm đồ đựng”.

Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát sắc thân tam muội, nhập tam muội rồi bao nhiêu vật cúng dường đều nhập hết vào trong rún, thân thể như cũ chẳng tăng chẳng giảm.

Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Đại Trang Nghiêm hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội Ngài nhập ấy tên là gì mà Ngài nhập rồi tất cả món vật cúng dường đều nhập vào thân, thân Ngài như cũ không có tăng giảm?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy tên là Nhứt thiết sắc thân tam muội”.

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy chừng còn có thế lực khác chăng?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế lực tam muội ấy có thể làm cho thân thể thọ nhận hết cả tam thiên Đại Thiên thế giới có bao nhiêu những sắc tướng, thân thể như cũ cũng không có tăng giảm”.

Trong đại chúng có hàng nhơn thiên suy nghĩ rằng: Chừng có thể thấy được thế lực của tam muội ấy chăng?

Đức Phật biết tâm niệm của đại chúng bèn bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Ông nên thị hiện thần lực của tam muội ấy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát từ lâu đã thông đạt tam muội ấy, vì vậy nên có thể đem tất cả đại chúng, chư Bồ Tát từ mười phương đến hội cùng Phật và Thánh Tăng đều nạp vào trong thân mình. Thân ấy lúc bấy giờ dường như thế giới Đại Bửu Trang Nghiêm thọ tất cả các sự trang nghiêm của đại Bồ Tát. Đại chúng đều tự thấy thân mình ở trong thân của Vô Tận Ý Bồ Tát.

Vô Tận Ý Bồ Tát thị hiện đại thần thông như vậy rồi đại chúng đều huờn lại như cũ.

Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Từ trước tới nay tôi chưa từng được thấy nghe thần thông biến hoá của tam muội ấy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Giả sử trọn cả tam thiên Đại Thiên thế giới nhập cả vào thân tôi còn không có tăng giảm huống là chỉ có nơi đại hội nầy”.

Lúc nói vô tận nhẫn nhục và thị hiện thần thông biến hoá ấy, có bảy mươi sáu na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói rất tốt về Nhẫn nhục Ba la mật chẳng thể tận rồi, duy nguyện Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật vô tận của Bồ Tát được”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ tám sự hành tinh tiến chẳng thể tận.

Những gì là tám sự?

Phát đại trang nghiêm không có tận. Tích tập dũng tiến không có tận. Tu hành các thiện pháp không có tận. Giáo hoá chúng sanh không có tận. Trợ đạo công đức không có tận. Trợ vô thượng trí không có tận. Trợ vô thượng huệ không có tận. Họp trợ Phật pháp mà chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm vô tận?

Bồ Tát nơi các sanh tử tâm không mỏi mệt, chẳng tính kiếp số sẽ thành Phật đạo, còn bao nhiêu kiếp mà làm trang nghiêm, còn bao nhiêu kiếp chẳng làm trang nghiêm. Bồ Tát trang nghiêm trải qua kiếp số chẳng thể kể tính.

Như từ ngày hôm nay đến sanh tử vốn là một ngày một đêm. Ba mười ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Ở trăm ngàn muôn năm ấy một lần phát đạo tâm, một lần thấy Phật. Phát tâm và thấy Phật như vậy số đến bằng số cát sông Hằng. Ở bên ngần ấy số chư Phật như vậy mới biết được tâm hành của một chúng sanh. Như vậy cho đến biết khắp tâm sở hành của tất cả chúng sanh mà vẫn chẳng thối thất trang nghiêm.

Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.

Trải qua số lần thấy Phật phát tâm như vậy, lúc biết tâm sở hành của chúng sanh kia thường tu đầy đủ Đàn Ba la mật, Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tý lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật, cũng tu đầy đủ pháp trợ Bồ đề, đầy đủ tu tướng hảo Thập lực, Vô uý, pháp Bất cộng, tu đầy đủ tất cả Phật pháp.

Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.

Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, nên biết Bồ Tát ấy tinh tiến chẳng giải đãi.

Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm vô tận.

Thế nào là Bồ Tát dũng tiến vô tận?

Giả sử cả tam thiên Đại Thiên thế giới có lửa mạnh đầy trong ấy, phải đi ngang qua lửa mạnh ấy để thấy Phật, hoặc vì nghe pháp giáo hoá chúng sanh đặt để chúng sanh nơi thiện pháp cũng phải đi ngang qua lửa mạnh ấy, Bồ Tát vẫn làm không thối thất.

Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.

Duyên cớ gì mà gọi là dũng tiến?

Vì thường vì kẻ khác vậy, vì tịnh kẻ khác vậy, vì điều phục kẻ khác vậy, vì diệt tận cho kẻ khác vậy, mà thường chẳng giải đãi chậm trễ vẫn vững chắc chẳng thối thất, tâm luôn ở trong đại bi thường siêng cần tinh tiến mà vì chúng sanh nên gọi là dũng tiến.

Mỗi bước đi Bồ Tát luôn chế ngự tâm mình đều hướng đến Bồ đề, thường quán sát chúng sanh để hoá độ, dầu quán sát như vậy mà chẳng hề khởi phiền não.

Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập vô tận?

Như tất cả thiện tâm đã được phát khởi thường nguyện Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát tu tập vô tận. Tại sao vậy? Vì đem các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề không có cùng tận vậy.

Thưa Tôn giả! Ví như trời mưa một giọt nước rơi vào trong đại hải, giọt nước mưa ấy dầu nhỏ mà trọn không hề diệt tận. Bồ Tát thiện căn nguyện hướng Bồ đề không có diệt tận cũng như vậy.

Tu tập thiện căn ấy, đó là chánh hồi hướng tu tập thiện căn, vì thủ hộ chúng sanh tu tập thiện căn, vì tuỳ theo chỗ cần dùng của chúng sanh mà tu tập thiện căn, vì muốn thành tựu Nhứt thiết trí mà tu tập thiện căn.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành tập họp vô tận vậy.

Thế nào là Bồ Tát giáo hoá vô tận?

Tánh của chúng sanh chẳng thể kể đếm, Bồ Tát ở trong đó chẳng nên kể đếm.

Nếu có Bồ Tát trong một ngày giáo hoá tất cả chúng sanh đầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới, tính số như vậy nhẫn đến vô lượng bất khả tư nghị bất khả xưng số kiếp giáo hoá chúng sanh, dầu có giáo hoá chúng sanh bất khả xưng kế bất khả tư nghị như vậy, mà ở nơi phần chúng sanh còn chưa giáo hoá được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến toán số thí dụ chúng sanh được biết. Tại sao? Vì tánh chúng sanh ấy vô lượng vô biên bất khả xưng kế bất khả tư nghì vậy.

Nếu Bồ Tát nghe lời ấy mà chẳng kinh, chẳng bố, chẳng uý, nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát giáo hoá vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ đạo vô tận?

Bồ Tát tu hành trợ đạo công đức vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Tại sao? Vì tất cả chúng sanh có bao nhiêu công đức hoặc từ quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, cùng tất cả Thanh Văn. Duyên Giác có bao nhiêu công đức, tập họp tất cả công đức phàm thánh ấy lại mới là thành tựu công đức của một lỗ lông nơi thân Phật Thế Tôn. Công đức của mỗi mỗi lỗ lông như vậy nhẫn đến tất cả lỗ lông tập họp lại mới thành công đức của một tuỳ hình hảo của thân Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tuỳ hình hảo như vậy nhẫn đến tất cả tuỳ hình hảo tập họp lại mới thành công đức của một tướng đại nhơn của Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tướng như vậy nhẫn đến ba mươi tướng, tập họp công đức trăm lần ba mươi tướng như vậy mới thành công đức bạch hào giữa chặn hai chưn mày của Như Lai. Tập họp công đức của trăm ngàn bạch hào như vậy mới thành công đức vô kiến đảnh tướng của Như Lai.

Đây gọi là Bồ Tát trợ đạo công đức vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ trí vô tận?

Trợ trí được Bồ Tát tu tập vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn số. Tại sao? Như trí của tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới bằng trí được thành của một vị Tín thành. Trí tín thành như vậy so với trí được thành tựu của một vị Pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được bực Pháp hành, so với trí được thành tựu của một vị Bát nhơn thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều là bực bát nhơn, so với trí được thành tựu của một vì Tu Đà Hoàn, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tu Đà Hoàn, so với trí được thành tựu của một vị Tư Đà Hàm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tư Đà Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A Na Hàm thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A Na Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A La Hán thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A La Hán, so với trí được thành tựu của một vị Duyên Giác thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Duyên Giác, so với trí được thành tựu của một vị Bồ Tát trăm kiếp, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát trăm kiếp, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát đắc nhẫn, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Bồ Tát đắc nhẫn, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bất thối, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát bất thối, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bổ xứ, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của một bổ xứ Bồ Tát, so với trí thị xứ phi xứ của một Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ.

Tóm lại, Như Lai Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp cũng như vậy.

Nếu Bồ Tát được nghe lời ấy mà chẳng kinh chẳng bố, chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận.

Thế nào là Bồ Tát trợ huệ vô tận?

Tất cả chúng sanh có những tâm hành chẳng thể cùng tận, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên đếm tính.

Như quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh có những tâm hành, nếu có một người trong một niệm đủ những tâm hành của tam thế chúng sanh như vậy, mỗi mỗi niệm cũng đều có đủ những tâm hành như vậy. Như một người có đủ tâm hành như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những tham dục sân khuể ngu si và các phiền não, nếu có một người trong một niệm có đủ những phiền não như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ phiền não như vậy. Như một người có đủ phiền não như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những kiết sử, nếu có một người trong một niệm có đủ những kiết sử như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ kiết sử như vậy. Như một người có đủ những kiết sử như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy.

Bồ Tát ở trong ấy sanh huệ quang minh. Một niệm huệ quang không có các trần lao che mờ đều chiếu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh những phiền não cảnh sở duyên của các tâm hành những sanh trụ dị diệt đều không sót thừa. Bồ Tát nầy ở nơi tất cả tam thế chúng sanh phiền não tương ưng không gì chẳng biết rõ hết.

Ví như hư không kia không gì chẳng trùm chứa, cũng vậy, Bồ Tát huệ quang không chỗ nào chẳng chiếu rõ.

Nếu Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.

Đây gọi là Bồ Tát trợ huệ vô tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập trợ Phật pháp vô tận?

Bồ Tát sở hành tu tập trợ Phật pháp vô lượng vô biên, ở trong đó Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Từ lúc sơ phát tâm đến khi ngồi đạo tràng Bồ đề, thời gian chặng giữa tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tu hành đầy đủ các pháp trợ đạo. Tất cả phát tâm tu hành tất cả thiện căn như vậy bất khả xưng kế thảy đều trợ Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát tu hành trợ Phật pháp mà không có tận.

Đây gọi là Bồ Tát tám sự tu hành tinh tiến vô tận vậy.

Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát tinh tiến cũng chẳng thể tận. Hoặc thân thiện nghiệp, hoặc khẩu thiện, nghiệp hoặc ý thiện nghiệp thường siêng chẳng giải đãi. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tu hành tinh tiến thường tương ưng với thân khẩu ý. Dầu thân khẩu tinh tiến mà đều do nơi tâm, tâm là tăng thượng.

Thế nào là Bồ Tát tâm tinh tiến?

Đó là tâm thuỷ và tâm chung.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì là sơ phát tâm vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là Bồ đề tâm tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm thuỷ?

Vì ở nơi chúng sanh khởi đại bi vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là không có ngã nhơn vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì nhiếp chúng sanh vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì chẳng lấy các pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì chẳng nhàm sanh tử vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có tam giới vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì xả thí sở hữu vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có khinh khi vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì thọ trì giới vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì chẳng trì giới vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu hành nhẫn nhục vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì không có giận tranh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành các thiện pháp vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì riêng một chẳng xen tạp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu tập chánh định vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì tâm thanh tịnh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì đa văn không nhàm vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì thiện tư duy vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì tập thưa hỏi thâm nghĩa vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì pháp không có ngôn thuyết vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì cầu trí huệ vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đoạn dứt hí luận vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là tu bốn phạm hạnh vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì xả bỏ chơn trí vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì đủ ngũ thông vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đủ lậu tận vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành niệm xứ vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì niệm không có tư duy vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành chánh cần vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì lìa thiện và bất thiện vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành như ý phần vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì đủ báo đắc vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát phương tiện các căn vậy.

Thế nào là tâm chung? Là quán các căn pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là tập họp các lực vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì trí chẳng hư hoại vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát trợ Bồ đề phần vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết phân biệt phương tiện các giác phần vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu trợ đạo pháp vậy.

Thế nào là tâm chung? Vì là không có tiến thu vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm chung? Là tâm vĩnh viễn tịch diệt vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát khởi huệ vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết pháp vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hiểu biết nhơn vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết nhơn vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là từ người mà nghe vậy.

Thế nào là tâm chung? Là ở trong các pháp không có phóng dật vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là phát nghiêm sức vậy.

Thế nào là tâm chung? Là biết thân tánh vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là trang nghiêm khẩu vậy.

Thế nào là tâm chung? Là thánh nín lặng vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hành ba môn giải thoát vậy.

Thế nào là tâm chung? Là không có sở tác vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là hàng phục tứ ma vậy.

Thế nào là tâm chung? Là xả bỏ kiết tập vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là biết phương tiện vậy.

Thế nào là tâm chung? Là trọn vẹn huệ vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết phát vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết độ vậy.

Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết thế tục vậy.

Thế nào là tâm chung? Là khéo biết chơn đế vậy.

Đây gọi là Bồ Tát tâm tinh tiến vậy. Tâm ấy đầy đủ tinh tiến vô tận nên nói thuỷ chung.

Bồ Tát đầy đủ những tướng tạo tác như vậy, mà tâm chưa từng có trụ trước nơi tác nghiệp. Bồ Tát nầy ở nơi các nghiệp tướng biết mà cố ý làm.

Thế nào là Bồ Tát biết mà cố ý làm?

Vì các thiện căn vậy, vì các chúng sanh tu nơi đại bi nên chẳng lìa bỏ hữu vi vậy, vì chư Phật chơn diệu trí nên chẳng theo sanh tử vậy.

Đây gọi là đại Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật mà chẳng thể tận vậy”.

Lúc nói pháp ấy, có bảy mươi na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật chẳng thể tận rất tốt. Duy nguyện Ngài nói về Thiền Ba la mật mà chẳng thể tận, như chư đại Bồ Tát đã được Thiền Ba la mật vô tận”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nếu chư đại Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Những gì là mười sáu sự?

Bồ Tát tu chánh định không có ngô ngã, vì đầy đủ Như Lai các thiền định vậy.

Bồ Tát tu chánh định chẳng tham chẳng trước, vì chẳng cầu mình vui vậy.

Bồ Tát tu chánh định hành nơi đại bi, vì đoạn dứt phiền não kiết tập cho chúng sanh vậy.

Bồ Tát tu chánh định tăng ích các thiền quán, vì thấy lỗi hoạ của Dục giới vậy.

Bồ Tát tu chánh định đủ các nghiệp dụng thần thông, vì biết tâm hành các chúng sanh vậy.

Bồ Tát tu chánh định tâm thường nhu nhuyến vì được tự tại ở trong chúng sanh vậy.

Bồ Tát tu hành chánh định khéo biết nhập xuất nơi các thiền tam muội vì hơn Sắc giới và Vô Sắc giới vậy.

Bồ Tát tu chánh định tâm thương tịch diệt vì hơn các thiền tam muội của hàng Nhị thừa vậy.

Bồ Tát tu hành chánh định trọn không còn có phát khởi, vì cứu cánh đã làm rồi vậy.

Bồ Tát tu hành chánh định không có suy hao, vì khéo đoạn trừ diệt các tập khí vậy.

Bồ Tát tu hành chánh định thường nhập trí huệ, vì siêu quá thế gian mà đến bỉ ngạn vậy.

Bồ Tát tu chánh định để biết tâm hành chúng sanh, vì độ chúng sanh vậy.

Bồ Tát tu chánh định chẳng đoạn dứt giống Tam bửu, vì được vô tận các thiền định vậy.

Bồ Tát tu chánh định không có thối thất, vì tâm thường định không có các sai lầm vậy.

Bồ Tát tu chánh định mà được tự tại, vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.

Bồ Tát tu chánh định nội thiện tư duy, vì dứt hơi thở vào ra mà được thắng trí vậy.

Đây là Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Thế nào là Bồ Tát tu chánh định?

Vì đủ các thần thông trí huệ vậy.

Thế nào là thông và thế nào là trí?

Nếu thấy các sắc tướng đây gọi là thông. Nếu biết tất cả sắc tận pháp tánh mà chẳng chứng tận đây gọi là trí.

Nếu nghe âm thanh đây gọi là thông. Hiểu rõ tam thế tất cả âm thanh không có tướng ngôn từ đây gọi là trí.

Nếu biết tất cả chúng sanh tâm hành đây gọi là thông. Nếu biết tất cả tâm hành thảy đều diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt đây gọi là trí.

Nếu nhớ quá khứ đây gọi là thông. Nếu biết tam thế không có chướng ngại đây gọi là trí.

Nếu hay đến khắp thế giới chư Phật đây gọi là thông. Nếu biết thế giới chư Phật đồng với tướng hư không đây gọi là trí.

Nếu cầu các pháp không phá hư tướng đây gọi là thông.

Nếu chẳng thấy có pháp đây gọi là trí.

Nếu chẳng hoại thế gian đây gọi là thông. Nếu chẳng tạp hành đây gọi là trí.

Nếu quá Phạm, Thích, Hộ Thế Tứ Vương đây gọi là thông. Quá trí của hàng học và vô học Nhị thừa đây gọi là trí.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định thông trí sai biệt.

Bồ Tát vì biết tất cả chúng sanh phiền não loạn tâm nên tu tập các pháp thiền định trợ thành tâm an trụ.

Thưa Tôn giả! Các chúng sanh phiền não loạn tâm như vậy, ở trong ấy Bồ Tát khéo tu tập trợ thành thiền định là cho thiền định ấy trụ nơi tâm bình đẳng. Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định.

Nếu trụ trong trí chúng sanh bình đẳng, đây gọi là định.

Tâm hành bình đẳng, tánh tướng bình đẳng, tất cánh bình đẳng, tu hành bình đẳng, đây gọi là định.

Trụ nơi thí giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và các pháp v.v…, đây gọi là định.

Như định bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Như chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập vào các bình đẳng như vậy đây gọi là định.

Định bình đẳng như vậy thì bình đẳng với không. Bình đẳng với không thì chúng sanh bình đẳng, chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.

Như không bình đẳng thì vô tướng bình đẳng. Vô tướng bình đẳng thì vô nguyện bình đẳng. Vô nguyện bình đẳng thì vô tác bình đẳng. Vô tác bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.

Vì tự tâm bình đẳng nên tha tâm cũng bình đẳng. Đây gọi là định.

Tất cả bình đẳng ấy, đó là lợi suy địa thuỷ hoả phong. Được tâm bình đẳng ấy thì tâm như hư không không có cao hạ, thường trụ bất động, oai nghi được làm thường định chẳng chuyển. Bổn tánh vốn tự như vậy chẳng cất chẳng cao, tự tại vô uý nín lặng không nói năng, biết nghĩa, biết pháp, biết thời, biết phi thời, tuỳ sở hành thế gian mà chẳng xen tạp thế gian, bỏ tám pháp thế gian diết tất cả kiết sử, xa lìa ồn náo thích ở một mình. Bồ Tát tu hành các pháp như vậy, nơi các thiền định tâm an trụ lìa rời sở tác thế gian. Bồ Tát nầy dùng phương tiện huệ nhập Thiền Ba la mật.

Lúc nhập thiền định sanh tâm đại bi vì các chúng sanh, đây gọi là phương tiện. Tâm ấy tịch diệt hẳn đây gọi là huệ.

Lúc nhập niệm Phật đây gọi là phương tiện. Chẳng y chỉ thiền định đây gọi là huệ.

Lúc nhập nhiếp thủ tất cả thiện pháp đây gọi là phương tiện. Chẳng phân biệt pháp tánh đây gọi là huệ.

Lúc nhập xu hướng trang nghiêm thân Phật đây gọi là phương tiện. Nơi Phật pháp thân chẳng sanh phân biệt đây gọi là huệ.

Lúc nhập nhớ âm thanh của Phật như phạm âm đây gọi là phương tiện. Ở trong pháp tánh không có tướng ngôn thuyết đây gọi là huệ.

Lúc nhập thọ trì tâm như kim cương đây gọi là phương tiện. Tư duy các pháp bổn tánh vốn tự chẳng loạn động đây gọi là huệ.

Lúc nhập chẳng xả bỏ bổn sở thệ nguyện độ các chúng sanh đây gọi là phương tiện. Nơi tất cả pháp tư duy vô ngã đây gọi là huệ.

Lúc nhập tư duy tất cả thiện căn đây gọi là phương tiện. Tư duy thiện căn tánh vô sở trụ đây gọi là huệ.

Lúc nhập quán khắp thế giới chư Phật đây gọi là phương tiện. Thấy thế giới chư Phật đồng với hư không đây gọi là huệ.

Lúc nhập trang nghiêm Bồ đề đạo tràng đây gọi là phương tiện. Quán chỗ trang nghiêm đồng với tịch diệt đây gọi là huệ.

Lúc nhập muốn chuyển vô thượng pháp luân đây gọi là phương tiện. Tư duy pháp luân không có chuyển không có chẳng chuyển đây gọi là huệ.

Lúc nhập một bề tu trợ giác phần đây gọi là phương tiện. Vì biết các tâm nhiệt não của chúng sanh, nên tu tập Như Lai thiền định, biết tất cả pháp tương ưng chẳng tương ưng, có tướng không tướng tất cả tương tục, tuỳ thuận Bồ Tát quyết định tư duy, đây gọi là huệ.

Đây gọi là Bồ Tát nhập thiền định phương tiện huệ vậy.

Bồ Tát Thiền định Ba la mật phương tiện và trí huệ hai sự chung hành được Phật pháp khí, tất cả các ma chẳng phá hoại được”.

Lúc nói pháp ấy, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Nhựt đăng tam muội.

Duyên cớ gì mà gọi là Nhựt đăng tam muội?

Ví như mặt nhựt mọc các ánh sáng của đèn lửa, mặt nguyệt, tinh tú đều không còn hiện.

Bồ Tát Đại Sĩ được định nầy rồi, thì trước kia tất cả những trí hữu học vô học Nhị thừa và các chúng sanh khác có bao nhiêu trí đều chẳng còn hiện, đây gọi là Nhựt đăng tam muội.

Bồ Tát an trụ nơi Thiền Ba la mật thì ở nơi vô lượng các thiền tam muội mà được tự tại. Nay ở trong đây nên một phần ít trong số vô lượng tam muội ấy. Những là Điện đăng tam muội, Tịnh tam muội, Nguỵêt quang tam muội, Tịnh trang nghiêm tam muội, Nhựt quang tam muội, Bất khả tư nghị tam muội, Dũng xuất tam muội, Chiếu minh tam muội, Vố cấu quang minh tam muội, Công đức quang minh tam muội, Nhứt thiết pháp trung đắc tự tại tam muội, Các đạo tam muội, Vô ưu tam muội, Kiên xưng tam muội, Dũng xuất như tu di sơn đẳng tam muội, Pháp chiếu tam muội, Pháp kiện tam muội, Pháp tôn tam muội, Tự tại tri nhứt thiết pháp tam muội, Trụ pháp tụ tam muội, Tổng trì pháp tịnh tam muội, Tuỳ tri tha tâm hành tam muội, Pháp trang anh lạc tam muội, Thiêu nhứt thiết phiền não tam muội, Phá tứ ma lực tam muội, Thập lực thanh dũng kiện tam muội, Vô ngại đoạn ngại tam muội, Thủ đăng tam muội, Thí đắc danh văn tam muội, Trì địa tam muội, Trụ vô ngã như tu di sơn tam muội, Trí diệm tam muội, Sanh huệ tam muội, Tu thiền tam muội, Vô lượng tự tại tam muội, Tâm điều phục vô ngã vô ngã sở thành tựu tam muội, Thuỷ nguyệt tam muội, Nhựt thanh tam muội, Vô hữu cao hạ như Phật tam muội, Ly tướng tam muội, Như thiện điều tượng sư tử du hý tam muội, Niệm Phật tam muội, Niệm pháp đắc trí vô ngại tự tại tam muội, Vô thối bất thối tam muội, Bất thuấn tam muội, Thắng tịnh quang vô ngã tam muội, Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô nguyện tam muội, Trụ tâm bình đẳng tam muội, Kim cương tam muội, Tăng thượng tam muội, Vô năng thắng tam muội, Triền tam muội, Tịnh thanh tam muội, Thiện phân biệt tam muội, Ly phiền não tam muội, Quảng đại như hư không tam muội, Nhập chư công đức tam muội, Niệm ý tiến giác tam muội, Dũng huệ tam muội, Biện vô tận tam muội, Ngữ vô tận tam muội, Tổng trì tam muội, Bất vong tam muội, Thiện tác tam muội, Quán nhứt thiết thế tam muội, Thiện tri sở lạc tam muội, Sanh dũng dước tam muội, Dũng từ tâm tịnh tam muội, Đại bi căn bổn tam muội, Nhập hỷ tam muội, Xả ly tam triền tam muội, Trí cự tam muội, Trí hải tam muội, Bất ba đảng tam muội, Nhứt thiết tâm hỉ tam muội, Điều phục tam muội, Giải thoát trí tam muội, Dĩ tự tại tam muội, Pháp tràng kim cương tràng tam muội, Liên hoa tam muội, Liên hoa tăng thượng tam muội, Ly thế pháp tam muội, Bất động tam muội, Huệ tăng thượng tam muội, Chư Phật sở niệm thủ lăng nghiêm tam muội, Vô tranh tam muội, Hoả tam muội, Hoả minh tam muội, Giải thoát thắng trí tam muội, Trang nghiêm Phật thân tam muội, Biến chiếu tam muội, Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hoan hỷ tam muội, Thuận trợ đạo tam muội, Trang nghiêm chư Ba la mật tam muội, Bửu man tam muội, Giữ chư giác hoa tam muội, Giữ giải thoát quả tam muội, Cam lộ tam muội, Tốc tật như phong tam muội, Bửu tế tam muội, Giá hải đào tam muội, Sơn tướng bác tam muội, Quảng đại thần túc tam muội, Kiến vô lượng chư Phật tam muội, Văn trì tam muội, Bất loạn tam muội, Nhứt niệm tri vô lượng công đức hải tịnh tam muội. Bất khả kế na do tha tam muội như vậy lúc nhập Thiền Ba la mật đều được thanh tịnh.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định mà chẳng thể tận”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bồ Tát Vô Tận Ý rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói về Bồ Tát Thiền Ba la mật. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật, như chư Bồ Tát đã được Bát Nhã Ba la mật vô tận.

Bạch Đại Sĩ! Bát Nhã Ba la mật, hành thế nào và nhập thế nào?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bát Nhã Ba la mật như nghe rồi tu hành khéo nhập tư duy”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế nào là như nghe tu hành?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nghe ấy đủ tám mươi hành.

Những gì là tám mươi hành?

Muốn tu hành, thuận tâm hành, cứu cánh tâm hành, thường phát khởi hành, thân cận thiện hữu hành, không có kiêu mạn hành, chẳng phóng dật hành, cung kính hành, tuỳ thuận giáo hành, theo thiện ngữ hành, hằng đến chỗ pháp sư hành, chí tâm nghe pháp hành, thiện tư duy hành, chẳng loạn tâm hành, tinh tiến tâm hành, sanh bửu tưởng hành, khởi được tưởng hành, trừ các bịnh hành, niệm khí hành, tiến giác hành, ý hỷ hành, nhập giác hành, nghe không nhàm hành, tăng trưởng xả hành, điều trí hành, thân cận đa văn hành, phát hoan hỷ hành, thân nhẹ vui hành, tâm nhu hoà hành, nghe không mỏi mệt hành, nghe nghĩa hành, nghe pháp hành, nghe oai nghi hành, nghe người nói hành, nghe chỗ chưa nghe hành, nghe các thần thông hành, chẳng cầu các thừa khác hành, nghe các Ba la mật hành, nghe Bồ Tát tạng hành, nghe các nhiếp pháp hành, nghe phương tiện hành, nghe bốn phạm hành, nghe niệm chánh trí hành, nghe sanh phương tiện hành, nghe vô sanh phương tiện hành, nghe bất tịnh hành, tư duy từ hành, quán nhơn duyên hành, quán vô thường hành, quán khổ hành, quán vô ngã hành, quán tịch diệt hành, quán không hành, quán vô tướng hành, quán vô nguyện hành, quán vô tác hành, tác thiện hành, trì chơn thiệt hành, chẳng mất hành, chỗ ở tốt xấu phòng hộ tâm hành, siêng tinh tiến không giải đãi hành, thiện phân biệt các pháp hành, biết các phiền não chẳng phải bạn bè hành, thủ hộ các thiện pháp bạn bè mình hành, hàng phục phiền não chẳng phải bạn bè hành, thân cận chánh pháp tài hành, dứt các nghèo cùng hành, được người trí khen hành, mừng vui lợi căn hành, được các thánh vui hành, khiến kẻ chẳng phải thánh sanh hoan hỷ hành, quán các chơn đế hành, quán các ấm lỗi hoạ hành, tư lương hữu vi nhiều lỗi hoạ hành, tư duy nghĩa hành, chẳng làm tất cả ác hành, tự lợi lợi tha hành, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp hành, tiến tăng thượng hành, được tất cả Phật pháp hành.

Đây gọi là Bồ Tát như chỗ được nghe đủ tám mươi hành.

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đủ ba mươi hai sự khéo thiện nhập tư duy.

Những gì là ba mươi hai sự?

Thiện nhập thọ trì định, thiện nhập phân biệt huệ, thiện nhập tâm nhu hoà, thiện nhập thân độc hành, thiện nhập mười hai duyên, thiện nhập chẳng đoạn dứt, thiện nhập bất thường, thiện nhập nhơn duyên sanh pháp, thiện nhập không chúng sanh không thọ mạng không nhơn, thiện nhập không có chỗ lai khứ an trụ, thiện nhập không có tác mà chẳng dứt nhơn quả, thiện nhập rỗng không mà chẳng giải đãi, thiện nhập vô tướng mà chẳng phế, thiện nhập vô nguyện mà chẳng xả, thiện nhập chẳng chứng không vô tướng vô nguyện, thiện nhập sanh các thiền định tam muội, thiện nhập chẳng theo thiền định thọ sanh, thiện nhập sanh các thông trí, thiện nhập chẳng chứng vô lậu pháp, thiện nhập nội quán pháp, thiện nhập chứng quyết định, thiện nhập tư lương hữu vi pháp lỗi hoạ, thiện nhập chẳng thảm trước hữu vi pháp, thiện nhập quán tất cả chúng sanh vô ngã mà chẳng xả bỏ đại bi, thiện nhập tất cả thú những nơi bố uý, thiện nhập đầu thọ sanh các thú chẳng phải do nghiệp mà cố ý thọ sanh, thiện nhập ly dục, thiện nhập chẳng chứng pháp ly dục, thiện nhập xả bỏ lạc dục đã được, thiện nhập chẳng xả bỏ pháp lạc, thiện nhập xả bỏ tất cả hí luận giác quán, thiện nhập chẳng xả bỏ các giác quán phương tiện.

Đây gọi là đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đủ ba mươi hai sự thiện nhập tư duy.

Lại thiện tư duy ấy là thiện thuận cú.

Thiện thuận cú ấy là bất thủy cú, là bất chung cú, là bất trụ cú, là bất y chỉ cú, là bất động cú, là bất ỷ cú, là bình đẳng cú, là phi đẳng cú, là chơn thiệt cú, là chánh chơn cú, là bất biến cú, là thanh tịnh cú, là vĩnh tịch cú, là bất nhiên cú, là bất cử cú, là bất hạ cú, là bất giảm cú, là bất tăng cú, là bất cộng cú, là bất hí luận cú, là như cú, là bất như cú, là như phi cú, là phi như phi bất như cú, là như thiệt cú, là tam thế bình đẳng cú, là tam tế cú, là bất trụ sắc cú, là bất trụ thọ tưởng hành thức cú, là bất trụ địa đại cú, là bất trụ thuỷ hoả phong cú, là chẳng trụ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cú, là bất trụ nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cú, là bất trụ tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới cú, là bất trụ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cú, là bất trụ thân giới, xúc giới, thân thức giới cú, là bất trụ ý giới, pháp giới, ý thức giới cú, là niệm nghĩa cú, là niệm trì cú, là liễu nghĩa kinh cú, là niệm pháp cú.

Đây gọi là đại Bồ Tát thiện nhập tư duy.

Lại nữa, thiện tư duy là tất cả pháp hoặc ngã hay vô ngã, các pháp như vậy tuỳ thuận quán sát. Nếu biết chúng sanh không có ngã tức là tuỳ thuận quán sát các pháp. Quán sát như vậy tức là thiện nhập tư duy. Như thiện tư duy tức là tư duy sanh tử và Niết bàn đồng nhứt pháp giới, quán hai cú ấy không có sai biệt. Thấy như vậy thì gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán hắc pháp và bạch pháp hai tánh bình đẳng không có sai biệt, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán các ách khổ cùng không có ách khổ chẳng động chẳng ỷ thị, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy.

Nếu các Bồ Tát khởi thiện tư duy với các chúng sanh mà chẳng bỏ lìa, nơi các pháp tướng mà chẳng phân biệt, đây gọi là Bồ Tát phát thiện tư duy.

Người như văn hành được nhập báo thiện tư duy như vậy, đây gọi là huệ.

Thưa Tôn giả! Bồ Tát huệ ấy, có mười sáu pháp chẳng trụ trong đó.

Những gì là mười sáu pháp?

Chẳng trụ vô minh, hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nhẫn đến chẳng trụ vô minh diệt, hành diệt, thức diệt, danh sắc diệt, lục nhập diệt, xúc diệt, thọ diệt, ái diệt, thủ diệt, hữu diệt, sanh diệt, lão tử diệt.

Chẳng trụ căn bổn thân kiến nhẫn đến chẳng trụ sáu mươi hai kiến.

Chẳng trụ cao hạ nhẫn đến chẳng trụ các thế gian pháp lợi, suy, huỷ, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Chẳng trụ mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn, nhẫn đến chẳng trụ hai mươi phiền não.

Chẳng trụ nhơn tham khởi lên các kiết sử, hoặc thô hoặc tế hoặc thượng trung hạ, nhẫn đến chẳng trụ các kiết do tham dục khởi lên.

Chẳng trụ si tối phú cái các si, nhẫn đến chẳng trụ các kiết nhơn si khởi lên.

Chẳng trụ dâm dục ái trược.

Chẳng trụ ngũ, ấm, tử, phiền não, thiên ma, nhẫn đến chẳng trụ các ma sự nhơn ma khởi lên.

Chẳng trụ ngã, nhơn chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, nhẫn đến chẳng trụ lấy tướng chúng sanh.

Chẳng trụ nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, pháp chướng các kiến chướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả tập khí.

Chẳng trụ tư tưởng, ức tưởng, phân biệt tưởng, duyên tưởng, cảnh giới kiến văn giác tri, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các kiết.

Chẳng trụ tuỳ chúng sanh tâm hành trí nhẫn đến chẳng trụ bát vạn tứ thiên pháp tụ.

Chẳng trụ xan tham, bố thí, trì giới, phá giới, sân khuể, nhẫn nhục, giải đãi, tinh tiến, loạn ý, thiền định, ngu si, trí huệ, nhẫn đến chẳng trụ các Ba la mật bạn phi bạn v.v…

Chẳng trụ định loạn, tà kiến, thiện bất thiện, thế gian xuất thế gian, khả tác bất khả tác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, hắc pháp bạch pháp, sanh tử Niết bàn, nhẫn đến chẳng trụ tất cả pháp bạn chẳng phải bạn v.v…

Chẳng trụ chúng sanh dị tướng, các thừa dị tướng, Phật giới dị tướng, chư Phật dị tướng, chư Pháp dị tướng, chúng Thánh dị tướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả dị tướng.

Chẳng trụ tri bất tri, thức bất thức, thế đế chơn đế, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các tướng.

Nghĩa là Bồ Tát tư duy huệ ấy, không nghe, không làm, không thân, không tướng, không hình vô vi. Chơn huệ như vậy chẳng trụ tất cả ức tưởng tư duy tâm tác chỉ trụ danh tự dị tướng.

Đây gọi là Bồ Tát chơn trí huệ chẳng trụ trong mười sáu pháp như vậy.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát huệ?

Xứ sở có tám phương tiện:

Các ấm phương tiện, các giới phương tiện, các nhập phương tiện, các đế phương tiện, các duyên phương tiện, tam thế phương tiện, các thừa phương tiện, các pháp phương tiện.

Thế nào là các ấm phương tiện?

Nếu nói về các ấm thì như bọt nước, như bóng nước, như dương diệm, như thân cây chuối, như ảo, như mộng, như vang ứng tiếng, như tượng trong gương, như bóng, như hoá.

Sắc ấm, như bọt nước, như tánh bọt nước, chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Sắc cũng như vậy, có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán sắc phương tiện.

Thọ ấm như bóng nước, tưởng ấm như dương diệm, cây chuối, ảo huyễn ảo huyễn tánh chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán thọ, tưởng, hành, thức phương tiện.

Các ấm như mộng, như vang, như tượng, như ảnh, như hoá, như hoá tánh, không ngã, không chúng sanh, không thọ mạng, không nhơn, các ấm ấy đều cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán các ấm phương tiện.

Gọi là ấm ấy tức là tướng thế gian, tướng thế gian tức là tướng có thể hư hoại. Như tướng có thể hư hoại tức là tánh vô thường, tánh khổ, tánh vô ngã, tánh tịch diệt. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán ấm phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát biết giới phương tiện?

Pháp giới, địa giới, thuỷ, hoả, phong giới, trong pháp giới ấy không có tướng cứng, tướng ướt, tướng nóng, tướng động.

Pháp giới, nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý giới, trong pháp giới ấy không có tướng thấy, tướng nghe, tướng ngửi, tướng nếm, tướng cảm giác, tướng rõ biết.

Pháp giới, Sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, trong pháp giới ấy không có tướng được thấy, tướng được nghe, tướng được ngửi, tướng được nếm, tướng được cảm giác, tướng được biết.

Pháp giới, nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, trong pháp giới ấy không có nhãn thức biết sắc, nhẫn đến không có ý thức biết pháp.

Pháp giới sắc giới, pháp giới chẳng phải tướng sắc làm ra, nhẫn đến pháp giới pháp giới, pháp giới chẳng phải tướng pháp làm ra.

Pháp giới và ngã giới không hai không khác.

Pháp giới, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, ngã giới, sanh tử giới, Niết bàn giới không hai không khác.

Pháp giới hư không giới, tất cả pháp giới, ngã giới hư không giới, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô tác, vô xuất, vô sở hữu đồng như Niết bàn.

Hư không và Niết bàn cùng tất cả các pháp không hai không khác.

Vô lượng hữu vi pháp giới như vậy nhập vào vô vi giới.

Có thể biết như vậy nói như vậy thì gọi là Bồ Tát biết giới phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán nhập phương tiện?

Như lời Phật nói nhãn không, ngã không, ngã sở không. Tại sao, vì trong nhãn tánh ấy không có ngã không có ngã sở. Như nhãn không, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý không cũng như vậy.

Người quán nhập ấy thấy tất cả pháp, hoặc thiện bất thiện không có hai tướng.

Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.

Nếu nhãn nhập sắc nhập, nếu thấy nhãn sắc ly dục, chẳng chứng ly dục pháp. Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.

Nhĩ nhập thanh nhập, tỷ nhập hương nhập, thiệt nhập vị nhập, thân nhập xúc nhập, ý nhập pháp nhập, nếu thấy ly dục chẳng chứng ly dục pháp, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.

Gọi là nhập ấy, hoặc thánh nhập hoặc phi thánh nhập.

Thế nào là thánh nhập? Là tu tập đạo.

Thế nào là phi thánh nhập? Là chẳng tu tập đạo.

Nếu Bồ Tát an trụ nơi đạo với kẻ chẳng tu tập đạo sanh lòng đại bi chẳng bỏ nhập đạo, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán đế phương tiện?

Đế ấy thậm thâm khó vào.

Thế nào là khó vào?

Như là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.

Khổ trí ấy, quán các ấm vô sanh. Tập trí ấy, quán đoạn dứt tham ái nhơn. Diệt trí ấy, quán vô minh v.v…các phiền não không có hoà hiệp. Đạo trí ấy, được bình đẳng quán nơi tất cả pháp không chỗ dựa lấy.

Bồ Tát nếu ở trong bốn Thánh đế quán như vậy mà chẳng thủ chứng vì giáo hoá chúng sanh, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.

Còn có ba đế là tục đế, đệ nhứt nghĩa đế và tướng đế.

Thế nào là tục đế? Như là ngữ ngôn văn tự các pháp giả danh được thế gian sử dụng.

Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế? Đó là nhẫn đến không có tâm hành, huống là lại có ngôn ngữ văn tự.

Thế nào là tướng đế?

Quán tất cả tướng đồng với nhứt tướng. Nhứt tướng ấy tức là vô tướng.

Bồ Tát tuỳ thuận tục đế mà chẳng nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng, quán tướng đế nhứt tướng vô tướng. Đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.

Còn có hai đế là tục đế và đệ nhứt nghĩa đế.

Thế nào là tục đế?

Như nói khổ tập đạo đế, như thế gian ngữ ngôn văn tự pháp giả danh v.v…

Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế?

Như ở nơi pháp Niết bàn trọn chẳng quên mất.

Tại sao vậy?

Như tánh pháp giới thường trụ. Bồ Tát tuỳ tục chẳng sanh nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng.

Còn có một đế, đó là nơi tất cả pháp không có dựa lấy, mà vì hoá độ chúng sanh nên hiện có dựa lấy.

Đây gọi là Bồ Tát quán đê phương tiện.

Còn nữa, ngũ ấm khổ, nếu thấy tướng khổ của ngũ ấm, đây gọi là quán khổ.

Khổ tức không, đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.

Nếu quán ngũ ấm các phiền não nghiệp nhơn kiến nhơn đây gọi là tập.

Nếu quán ái nhơn kiến nhơn chẳng thủ chẳng trước chẳng mong chẳng cầu, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.

Ngũ ấm cứu cánh tận tướng, quá khứ đã dứt, vị lai chưa sanh, hiện tại chẳng trụ, đây gọi là diệt. Có thể biết như vậy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.

Nếu người đắc đạo chứng tập trí diệt trí, tỷ trí biết rồi, đây gọi là đạo.

Nếu ở trong ấy đều thấy tánh không, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.

Nếu Bồ Tát có thể quán tứ Thánh đế như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.

Nếu tất cả thọ gọi là khổ, ở nơi các thọ tư duy phân biệt, đây gọi là khổ trí quán khổ Thánh đế.

Thọ nhơn hoà hiệp, đây gọi là tập. Nếu ở nơi thọ nhơn biết đúng chơn thiệt, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.

Nếu trừ các thọ không có kẻ thọ nhận thọ, quán thọ diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.

Nếu có sở thọ, đây gọi là đạo, dầu cố hoà hiệp mà dụ như chiếc bè, chẳng vì sở thọ chẳng cầu nơi đạo, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.

Biết như vậy thấy bốn thánh đế thanh tịnh bình đẳng, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.

Lại tóm lược để nói.

Sanh khổ đây gọi là khổ. Nếu quán nơi sanh đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.

Sanh từ nơi nhơn duyên, đây gọi là tập. Nếu quán có chẳng phải có, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.

Tất cả sanh chẳng phải sanh tức là chẳng phải diệt. Nếu pháp chẳng sanh thì không có diệt, đây gọi là diệt.

Nếu quán diệt ấy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.

Nếu ở những như vậy mà suy cầu xứng lượng tư duy phân biệt, đây gọi là đạo.

Nếu dứt diệt suy cầu phân biệt ấy mà nhập pháp môn, đây gọi là trí quán Đạo Thánh đế.

Nếu trụ nơi trí chẳng chứng Thánh đế, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán duyên phương tiện?

Vì tụ tập bất thiện tư duy nên vô minh tập. Vì vô minh tập nên hành tập. Vì hành tập nên thức tập. Vì thức tập nên danh sắc tập. Vì danh sắc tập nên lục nhập tập. Vì lục nhập tập nên xúc tập. Vì xúc tập nên thọ tập. Vì thọ tập nên ái tập. Vì ái tập nên thủ tập. Vì thủ tập nên hữu tập. Vì hữu tập nên sanh tập. Vì sanh tập nên lão tử tập. Vì lão tử tập nên ưu bi khổ não tập.

Nếu biết các khổ tụ tập như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.

Nếu trụ các pháp tụ tập như vậy thì chẳng trưởng dưỡng, không sở tác, không tranh tụng, không có chủ, không sở thuộc, không hệ phược. Nghĩa là nếu nhơn thiện pháp, nếu nhơn bất thiện pháp, nếu nhơn bất động pháp, nếu nhơn hướng Niết bàn pháp. Các pháp như vậy phân biệt đúng thiệt.

Nếu các chúng sanh căn lượng chừng hạn, nhơn các căn ấy gây tạo các nghiệp, hoặc có thọ báo hoặc chẳng thọ báo, đều khéo biết nguyên nhơn tụ tập phương tiện. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.

Nếu bất thiện tư duy diệt thì vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên hành diệt. Vì hành diệt nên thức diệt. Vì thức diệt nên danh sắc diệt. Vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt. Vì lục nhập diệt nên xúc diệt. Vì xúc diệt nên thọ diệt. Vì thọ diệt nên ái diệt. Vì ái diệt nên thủ diệt. Vì thủ diệt nên hữu diệt. Vì hữu diệt nên sanh diệt. Vì sanh diệt nên lão tử diệt. Vì lão tử diệt nên ưu bi khổ não diệt.

Nếu biết các khổ tụ diệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.

Tất cả các pháp thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hoà hiệp. Nếu pháp thuộc nhơn duyên hoà hiệp, thì pháp ấy chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Nếu pháp chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì chẳng nhập vào pháp số. Có thể biết như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.

Nếu Bồ Tát tu tập các pháp vì trợ Bồ đề an ở Bồ đề. Các duyên như vậy đều thấy diệt tận mà chẳng thủ chứng vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.

Thế nào là quán tam thế phương tiện?

Nếu Bồ Tát nhớ quá khứ thế thân mình thân người, tâm tâm số pháp thiện và bất thiện. Tâm bất thiện thì quở trách chê mắng, tâm thiện thì hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán quá khứ phương tiện.

Vị lai thế tâm và tâm sô pháp một bề chuyên niệm đạo Bồ đề. Nếu khởi thiện tâm đều nguyện hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bao nhiêu tâm tâm số pháp bất thiện chẳng cho vào tâm. Phát nguyện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán vị lai phương tiện.

Hiện tại tâm và tâm số pháp thiện tư duy làm bao nhiêu nghiệp đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán hiện tại phương tiện.

Quán phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát khéo hiểu tam thế không không có sở hữu. Nếu quán như vậy, do sức trí huệ quán tam thế rỗng không, nơi tam thế chư Phật vun trồng vô lượng công đức đêu đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì sức phương tiện vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát dầu thấy quá khứ tận pháp chẳng đến vị lai mà thường tu thiện pháp siêng tinh tiến chẳng giải đãi. Bồ Tát quán vị lai pháp dầu không có sanh xuất mà chẳng bỏ tinh tiến nguyện hướng Bồ đề. Bồ Tát quán hiện tại pháp dầu niệm niệm diệt mà tâm mình chẳng quên phát xu Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ, dầu quán tâm tâm số pháp sanh diệt tán hoại như vậy, mà thường chẳng bỏ tu tập các thiện căn trợ Bồ đề pháp. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát nếu các thần thông nhớ quá khứ thế những thiện căn đã được làm, nhớ rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Niệm vị lai thế thiện căn chưa sanh nguyện tâm dự tính làm đều thành tựu như ý. Niệm hiện tại thế thường sanh thiện căn chuyên niệm chẳng giải đãi hồi hướng đạo Vô thượng Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát nếu hoá độ chúng sanh, niệm quá khứ thế đã làm thiện căn trợ đạo công đức, những là tuỳ chúng sanh tâm đáng được hoá độ ấy thì đúng như sở thích của họ đều đã hoá độ xong. Nếu các chúng sanh vị lai thế, hoặc họ cần thấy Phật thấy Thánh nhơn mà được độ ấy thì tuỳ hình thích đáng đều làm cho họ được độ. Nếu các chúng sanh hiện tại thế nên nghe pháp hay là nên thấy thần lực thì cũng tuỳ chỗ thích đáng mà đều hiện hóa đó.

Tuỳ chỗ giáo hoá các chúng sanh rồi liền ở nơi tam thế thành tựu tự lợi lợi tha. Tất cả sự lợi ấy đều vì Bồ đề đủ vô ngại trí.

Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Thế nào là Bồ Tát quán các thừa phương tiện?

Xuất thế có ba thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Đại thừa.

Thế có hai thừa là Thiên thừa và Nhơn thừa.

Thế nào là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa?

Phật chưa xuất thế thì không có Thanh Văn thừa. Tại sao vậy? Vì từ người khác nghe pháp sanh chánh kiến. Đó là nghe pháp rồi trì giới oai nghi, oai nghi đủ rồi giới tụ thành tựu. Giới tụ đầy đủ rồi định tụ đầy đủ. Định tụ đầy đủ rồi huệ tụ đầy đủ. Huệ tụ đầy đủ rồi giải thoát tụ đầy đủ. Giải thoát tụ đầy đủ rồi giải thoát tri kiến tụ đầy đủ.

Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát quán Thanh Văn thừa, hoặc thiện bất thiện và bất động hành, tâm thường chê trách nhàm lìa thế giới, quán tất cả hành vô thường khổ vô ngã tịch diệt Niết bàn, nhẫn đến chẳng có một niệm hy vọng thọ sanh, thường có lòng sợ sệt chẳng ưa thích, quán ấm như oán thù, giới như rắn độc, nhập như xóm vắng trống, nơi tất cả thú chẳng nguyện thọ sanh. Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán Duyên Giác thừa phương tiện?

Nếu Duyên Giác xuất thế, Bồ Tát quán sở hành của họ như thiệt biết đó.

Sở hành của Duyên Giác vượt hơn công đức của Thanh Văn, dục tinh tiến bất phóng dật trì giới, ít nghe học, chẳng nhiều cúng dường chư Phật Thế Tôn cung cấp hầu hạ phục dịch, do trung căn nên thường sanh tâm nhàm, các việc được làm thảy đều kém ít, nhàm sợ ồn náo thường thích xa lìa, một mình ở nơi vắng vẻ rảnh rang, oai nghi tường tự, ra vào ngưng trọng, an tâm yên lặng bớt việc người, có thể vì chúng sanh mà hiện phước điền thế gian, tâm họ nghiền ngẫm quán mười hai nhơn duyên, thương niệm một pháp xuất thế Niết bàn. Luôn đi trong thiền định, chẳng từ người nghe mà tự nhiên giác ngộ ít phần cảnh giới. Vì nhơn duyên ngộ đạo nên gọi là Duyên Giác.

Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Duyên Giác thừa phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện?

Thừa ấy vô lượng. Nay ở trong ấy sẽ nói phần ít.

Thừa ấy vô lượng hay dung thọ tất cả chúng sanh vì không có quái ngại vậy. Thừa ấy tăng trưởng tất cả thiện căn vì khiến vô lượng chúng sanh được thọ dụng vậy. Thừa ấy đầy đủ các Ba la mật vì hay tuỳ chúng sanh tâm hành mà hoá độ vậy. Thừa ấy có thể quá các pháp trợ đạo vì tiến đến vô ngại tới đạo tràng vậy.Thừa ấy bình đẳng vì vô ngại quang minh chiếu vô lượng tất cả chúng sanh đều kham thọ vậy. Thừa ấy vô uý vượt quá khiếp nhược đạo vì đều có thể thị hiện các Phật pháp vậy. Thừa ấy có thể phá hoại tất cả các ma ngoại đạo tà chúng vì đã xong mười hai duyên kiến lập tá trợ tràng Bồ đề vậy. Thừa ấy có thể trừ tất cả các biên kiến hữu vô đoạn thường nhơn duyên khởi lên phiền não chướng ngại che trùm nghi ngờ đùa cợt vì được Phật vô ngại chơn trí huệ vậy. Thừa ấy giàu đủ các trân bửu chơn thiệt chẳng hư hay lợi ích chúng sanh vì đại bi dũng mãnh bổn nguyện thành tựu vậy. Thừa ấy đầy đủ thập lực, vô uý pháp, bất cộng, tướng hảo trang nghiêm thân khẩu ý vậy.

Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán nhứt thiết pháp phương tiện?

Đó là hoặc hữu vi hoặc vô vi, Bồ Tát ở trong các pháp ấy khéo biết phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát quán hữu vi phương tiện?

Những thân thiện nghiệp, những khẩu thiện nghiệp, những ý thiện nghiệp nguyện đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đây gọi là hữu vi phương tiện.

Nếu quán các thiện nghiệp thân khẩu ý đồng tướng Bồ đề mà hồi hướng Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát quán vô vi phương tiện.

Còn nữa, nếu có thể tụ tập ngũ Ba la mật, đây gọi là hữu vi phương tiện.

Dầu biết Bát Nhã Ba la mật tánh nó vô vi mà chỗ được tụ tập trọn không hề nhàm chê, cần phải đầy đủ các Ba la mật, hiểu sâu thiện căn đồng vô lậu Bồ đề mà còn nguyện thành Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là Bồ Tát vô vi phương tiện.

Còn nữa, Bồ Tát trụ trong tâm vô ngại bình đẳng dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sanh, đây gọi là hữu vi phương tiện.

Nếu khéo hiểu chúng sanh vô ngã vô nhơn không chỗ mong cầu biết Tứ nhiếp pháp đồng vô vi giải thoát mà có thể hồi hướng Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là vô vi phương tiện.

Còn nữa, nếu các phiền não sanh tử tương tục dứt đoạn khiến nó chẳng khởi chỗ có thiện căn trợ Bồ đề ấy khiến chẳng đoạn tuyệt nhẫn đến chẳng hành chút phần phiền não, đây gọi là hữu vi phương tiện.

Dầu quán không vô tướng vô nguyện biết ba môn không ấy tức là trợ đạo phương tiện nên có thể chẳng chứng, đây gọi là vô vi phương tiện.

Còn nữa, dầu ở tam giới mà chẳng bị tam giới phiền não ô nhiễm, đây gọi là hữu vi phương tiện.

Dầu xuất tam giới mà chẳng chứng xuất, đây gọi là vô vi phương tiện.

Như lời Phật nói biết các pháp phương tiện thì có thể đầy đủ Nhứt thiết chủng trí, tại sao, vì Nhứt thiết chủng trí vô lượng vô biên đầy đủ chánh niệm huệ phương tiện, vì vậy nên gọi là nhứt thiết pháp phương tiện.

Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát trí huệ duyên tám phương tiện vậy.

Thưa Tôn giả! Tám phương tiện ấy nhiếp vô tận trí huệ của Bồ Tát.

Huệ ấy có thể hiểu, vì quán rõ thiện pháp bất thiện pháp vậy.

Huệ ấy như mũi tên, vì hay bắn đúng pháp vậy.

Huệ ấy hay làm vì chánh pháp hiện tại vậy.

Huệ ấy chơn giải vì dứt trừ các kiến phiền não chướng ngại các phú cái vậy.

Huệ ấy định nguyện vì đều có thể đầy đủ bổn sở cầu vậy.

Huệ ấy tiêu dung vì có thể trừ phiền não các cháy nóng vậy.

Huệ ấy diệt dự vì chẳng dứt pháp lạc vậy.

Huệ ấy chánh niệm vì rõ nghĩa sở duyên vậy.

Huệ ấy an trụ vì đủ ba mươi bảy pháp trợ đạo vậy.

Huệ ấy đắc tướng vì như thừa được hành đạo vậy.

Huệ ấy giải tướng vì tánh trí chiếu vậy.

Huệ ấy hay độ vì quá các lưu vậy.

Huệ ấy hay tiến vì thành chánh định quyết định vậy.

Huệ ấy chánh kiến vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.

Huệ ấy hoan hỷ vì có thể cứu vớt kẻ sa vào phiền não vậy.

Huệ ấy thù thắng vì được đảnh pháp vậy.

Huệ ấy vi diệu vì tự nhiên giác vậy.

Huệ ấy chẳng hành vì chẳng gần tam thế vậy.

Huệ ấy nhiếp thủ vì đủ tất cả phương tiện vậy.

Huệ ấy hay đoạn dứt vì quá các tư tưởng vậy.

Huệ ấy chẳng phóng dật vì bỏ lìa tối mờ vậy.

Huệ ấy sơ thỉ vì phát hành tất cả thiện pháp vậy.

Huệ ấy hay phát vì đủ các thừa vậy.

Huệ ấy chiếu minh vì trừ lưới vô minh vậy.

Huệ ấy cho con mắt vì tất cả chúng sanh như chỗ hiểu của họ đều được tỏ rõ vậy.

Huệ ấy không y chỉ vì quá nhãn sắc vậy.

Huệ ấy đệ nhứt nghĩa vì xuất chơn thiệt vậy.

Huệ ấy không tranh vì khéo phân biệt vậy.

Huệ ấy tỏ rõ vì hướng về trí môn vậy.

Huệ ấy vô tận vì hay đi khắp vậy.

Huệ ấy chẳng nghịch vì thấy mười hai duyên vậy.

Huệ ấy giải thoát vì các triền hệ phược đều đã khéo dứt vậy.

Huệ ấy chẳng tạp vì lìa tất cả pháp chướng ngại vậy.

Thưa Tôn giả! Tất cả chúng sanh có bao nhiêu tâm hành, trí huệ như vậy đều có thể chiếu suốt cả. Như chúng sanh bao nhiêu tâm hành huệ tư trí các phiền não môn, trí huệ như vậy thảy đều thấy rõ.

Nếu Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai có bao nhiêu trí huệ; Bồ Tát nầy đều có thể học khắp cả.

Đây gọi là Bồ Tát vô tận huệ. Do vô tận huệ ấy nên đủ vô tận trí”.

Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn Bồ Tát thiện căn thành thục được Vô sanh pháp nhẫn.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể tận. Tại sao vậy?

Tâm từ của Bồ Tát vô lượng vô biên. Bồ Tát tu tâm từ không có hạn lượng, đồng với chúng sanh giới.

Bồ Tát tu tâm từ phát tâm che chở khắp tất cả chúng sanh.

Ví như hư không không đâu là chẳng khắp trùm che, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, tất cả chúng sanh không ai là chẳng được trùm che.

Như chúng sanh giới vô lượng vô biên chẳng thể cùng tận, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, vô lượng vô biên không có cùng tận.

Vì hư không vô tận nên chúng sanh vô tận. Vì chúng sanh vô tận nên Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể cùng tận.

Đây gọi là tâm từ được tu của Đại Sĩ chẳng thể cùng tận”.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Ngang chừng nào gọi là chúng sanh giới”?.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bao nhiêu địa giới, thuỷ giới, hoả giới và phong giới, lượng ấy vô biên mà còn chẳng nhiều hơn chúng sanh giới”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng có thể nói ví dụ so sánh được chăng?”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nói được, chỉ chẳng được dùng việc nhỏ để ví dụ.

Phương Đông cách đây trọn một hằng hà sa số thế giới chư Phật, Nam, Tây, Bắc, cùng bốn hướng và thượng hạ phương tất cả đều một hằng hà sa số thế giới chư Phật. Mười phương thế giới ấy chung làm thành một biển lớn đầy nước. Khiến một hằng hà sa số chúng sanh đồng tụ họp cầm một phần trăm của một sợi lông chẻ ra đồng chấm lấy giọt nước biển ấy. Một lần chấm nước biển ấy là một hằng hà sa số giọt, nhẫn đến chấm lấy hết nước biển lớn ấy. Như vậy vẫn còn chưa hết số chúng sanh giới.

Từ tâm của Bồ Tát đều có thể che trùm hết chúng sanh như vậy.

Thưa Tôn giả! Ý Ngài nghĩ sao, Bồ Tát tu từ thiện căn có thể tận được chăng?”.

Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thiệt chẳng thể tận. Hư không tánh còn có thể tận, từ tâm của Bồ Tát chẳng thể tận được. Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh sợ, thì nên biết Bồ Tát ấy được từ tâm vô tận vậy”.

Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Từ ấy có thể ủng hộ tự thân, mà cũng hay lợi ích người khác. Từ ấy không có tranh. Từ ấy hay đoạn dứt tất cả sân hận giận thù hệ phược. Từ ấy hay lìa các kiết sử. Từ ấy hoan hỷ. Từ ấy chẳng thấy lỗi tất cả chúng sanh phá giới. Từ ấy không có nóng thân tâm thọ lạc. Từ ấy xa lìa tất cả não hại. Từ ấy hay lìa tất cả bố uý. Từ ấy hay thuận đạo chư Thánh. Từ ấy hay làm cho kẻ giận hoan hỷ. Từ ấy hay thắng tất cả đấu tranh. Từ ấy hay xuất sanh lợi dưỡng và khen ngợi. Từ ấy trang nghiêm oai đức Đế Thích Phạm Vương. Từ ấy thường được người trí khen. Từ ấy thường thủ hộ phàm phu ngu muội. Từ ấy thường tuỳ thuận đạo thanh tịnh. Từ ấy chẳng tạp uế hay xa lìa Dục giới. Từ ấy hay hướng đến pháp môn giải thoát. Từ ấy hay nhiếp tất cả thừa. Từ ấy hay nhiếp công đức pháp tài. Từ ấy trưởng dưỡng tất cả công đức. Từ ấy hơn các công đức vô tác. Từ ấy hay trang nghiêm tướng hảo. Từ ấy hay lìa căn độn hạ liệt. Từ ấy hay mở chánh đạo lành nhơn thiên Niết bàn. Từ ấy hay lìa tam ác bát nạn. Từ ấy mến thích các thiện pháp. Từ ấy như nguyện tất cả chỗ mong muốn đều thành tựu tự tại. Từ ấy bình đẳng với các chúng sanh. Từ ấy phát hành lìa những dị tướng. Từ ấy hướng ngay môn trì giới. Từ ấy hay thủ hộ kẻ phạm giới. Từ ấy hay thành nhẫn lực vô thượng. Từ ấy hay lìa các mạn và phóng dật. Từ ấy phát khởi tinh tiến vô tranh nhập vào chánh đạo. Từ ấy căn bổn nhập vào thánh thiền định. Từ ấy hay khéo phân biệt tâm hành lìa các phiền não. Từ ấy nhơn huệ mà sanh tổng trì ngữ ngôn văn tự. Từ ấy làm bạn với chánh định mà lìa bạn ma kiết sử. Từ ấy thường ở chung với hoan hỷ. Từ ấy khéo làm sứ cho tâm. Từ ấy giữ chặt oai nghi giới cấm. Từ ấy hay lìa các điệu cử tháo động. Từ ấy hay diệt các thứ tướng. Từ ấy là hương lành tàm quý xoa thân. Từ ấy hay trừ hơi hôi thúi phiền não.

Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ thì hay ủng hộ tất cả chúng sanh. Hay xả sự vui của mình mà ban cho chúng sanh. Hàng Thanh Văn tu tâm từ ngang với thân mình. Bồ Tát tu tâm từ trọn vì vô lượng chúng sanh.

Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ hay qua khỏi các dòng.

Chỗ được đến của tâm từ là duyên chúng sanh, duyên pháp và không có duyên.

Duyên chúng sanh là sơ phát tâm từ. Duyên pháp duyên từ là đã tập làm. Duyên vô duyên là được thâm pháp nhẫn vậy.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại từ mà chẳng thể tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành đại bi cũng chẳng thể tận. Tại sao? Như mạng căn của người thì lấy hơi thở vào ra làm gốc. Bồ Tát tu học Đại thừa như vậy lấy đại bi làm gốc.

Như vua Chuyển Luân Vương lấy luân bửu làm gốc. Bồ Tát tu Nhứt thiết trí lấy đại bi làm gốc.

Như trưởng giả chỉ có một con trai thì tình thương yêu rất nặng. Bồ Tát đại bi với tất cả chúng sanh thương yêu như con trai một.

Đại bi như vậy ta đã làm rồi.

Đại bi như vậy làm rồi lợi mình.

Đại bi như vậy chẳng nhờ sự việc khác.

Đại bi như vậy tâm mình ra làm chẳng siểm khúc.

Đại bi như vậy việc ra làm phát xuất từ chánh quyết định.

Đại bi như vậy chủng tánh ra làm phát xuất từ trực đạo.

Đại bi như vậy tâm không tà vạy sanh chánh trực.

Đại bi như vậy không có kiêu mạn phát xuất cảnh giới chúng sanh.

Đại bi như vậy quên bỏ thân mình xuất sanh thân Như Lai.

Đại bi như vậy chẳng tham thọ mạng phát xuất chẳng làm điều ác.

Đại bi như vậy ủng hộ chúng sanh xuất sanh Bồ đề.

Đại bi như vậy hộ pháp chơn thiệt phát xuất tâm thanh tịnh.

Đại bi như vậy thấy kẻ nghèo cùng hoạn nạn phát xuất sự giúp cứu.

Đại bi như vậy bổn thệ kiên cố phát xuất tâm bất động.

Đại bi như vậy chẳng khi mình nhơn thiên Hiền Thánh phát xuất chẳng hư dối.

Đại bi như vậy đồng hành thanh tịnh phát xuất thiện nghiệp.

Đại bi như vậy tự bỏ vui mình phát xuất ban vui cho người.

Đại bi như vậy chẳng làm khổ kẻ khác phát xuất chẳng cháy nóng.

Đại bi như vậy hay khiến chúng sanh bỏ gánh nặng phát xuất tinh tiến vững bền.

Đại bi như vậy có thế lực nhẫn phát xuất thủ hộ kẻ vô lực.

Đại bi như vậy chẳng nhàm sự đáng gớm phát xuất hay trông mong kẻ bịnh tật.

Đại bi như vậy được pháp tự tại phát xuất giáo hoá chúng sanh căn độn.

Đại bi như vậy che đậy công đức mình phát xuất hiển bày công đức người.

Đại bi như vậy phát xuất lìa các khổ.

Đại bi như vậy phát xuất cầu vô lậu lạc.

Đại bi như vậy phát xuất xả vật mình ưa thích.

Đại bi như vậy phát xuất làm những thiện nghiệp không hề nhiễu não.

Đại bi như vậy phát xuất khéo trì cấm giới chẳng bỏ kẻ phá giới cấm.

Đại bi như vậy phát xuất giáo hoá chúng sanh.

Đại bi như vậy phát xuất chẳng tiếc thân mạng.

Đại bi như vậy phát xuất xả bỏ tay chưn mình.

Đại bi như vậy phát xuất sanh thiện căn cho người.

Đại bi như vậy phát xuất thiện căn lợi ích mình.

Đại bi như vậy phát xuất chẳng tham trước các thiền.

Đại bi như vậy phát xuất chẳng nhàm Dục giới.

Đại bi như vậy xuất sanh quán huệ.

Đại bi như vậy phát xuất thiện căn chẳng ô nhiễm.

Đại bi như vậy phát xuất các chúng sanh thành tựu như sở nguyện.

Đại bi như vậy phát xuất hữu vi vô vi.

Đại bi như vậy phát xuất chẳng chứng vô vi.

Đại bi như vậy phát xuất biết chúng sanh tánh đồng vô vi mà hay giáo hoá.

Đại bi như vậy phát xuất thủ hộ kẻ phạm giới cấm.

Đại bi như vậy phát xuất tán thán Phật cấm giới.

Các bi Đại thừa như vậy phát xuất đại bi.

Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.

Gọi rằng đại bi ấy, là quyết định khéo thật hành bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ và các trợ đạo pháp, để được trí huệ tự nhiên vô sư, kinh doanh sự nghiệp được làm của các chúng sanh khác, chuyên tinh cần mẫn như lo công việc của mình. Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại bi mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tu hành tâm hỷ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là hỷ?

Thường niệm chánh pháp hoan hỷ dũng dước, chẳng sanh giải đãi không có những nhiệt não. Lìa vui ngũ dục an trụ nơi pháp lạc. Tâm hoà duyệt dự, thân nhẹ nhàng dịu dàng, ý siêng nhắc nhở dốc lòng thường sanh tâm bi. Thích cầu Như Lai vô thượng pháp thân, thích tu tướng hảo để tự trang nghiêm. Nghe pháp không nhàm nhớ làm chánh pháp, làm chánh pháp rồi sanh tâm hoan hỷ, sanh hoan hỷ rồi đủ được pháp bi. Thường với chúng sanh chẳng sanh tâm trở ngại, dùng tăng thượng dục siêng cầu chánh pháp. Siêng cầu pháp rồi thâm tâm được hiểu Phật pháp thậm thâm. Xa lìa nhị thừa phát tâm vô thượng. Trừ những lẫn tiếc phát tâm xả, thấy người đến xin sanh lòng hoan hỷ. Lúc thí hoan hỷ thí rồi không tiếc, bố thí như vậy ba thời gian đều thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi tâm được duyệt dự. Nơi người trì giới thường hành bố thí, nơi kẻ phá giới lòng vui nhiếp thủ, tự trì cấm giới tâm thường thanh tịnh. Có thể làm cho các chúng sanh ác đạo kinh sợ được không sợ hãi xa lìa ác đạo. Tất cả hồi hướng Như Lai cấm giới, kiên trì vững chắc chẳng thể kém hư. Bị người mắng nhiếc đánh đập kham nhẫn chẳng báo trả. Nơi các chúng sanh tâm không kiêu mạn, nơi các Tôn trưởng thì tâm khiêm hạ cung kính, nói năng hoà vui lìa sự sụt sùi, trước dùng lời yêu thương trọn không dua vạy, chẳng có tà tâm dụ dỗ gạt phỉnh người, tâm mình thanh tịnh không có lỗi thô, nơi kẻ chẳng được chẳng thấy lỗi họ, chẳng tìm chỗ dở của người chẳng cử tội người, chuyên tâm chánh niệm các pháp hoà kính. Nơi chư Bồ Tát tưởng là Như Lai. Thương mến người thuyết pháp coi trọng hơn thân mình. Mến trọng Như Lai như tiếc mạng mình. Nơi chư Sư trưởng tưởng như cha mẹ. Nơi các chúng sanh tưởng như con cái. Nơi các oai nghi như bảo hộ đầu mặt. Nơi các Ba la mật như thương tay chưn mình. Nơi các thiện pháp coi như trân bửu. Nơi người dạy bảo coi như ngũ dục. Nơi hạnh tri túc coi như không có bịnh. Ưa thích cầu pháp coi như diệu dược. Nơi người cử tội mình coi như lương y. Nhiếp ngự các căn không có giải đãi. Đây gọi là hỷ.

Hỷ ấy tịch tĩnh vì giác tri vi diệu vậy.

Hỷ ấy tịch diệt vì không có điệu hí vậy.

Hỷ ấy là chỗ dựa các hành vì không có hí luận vậy.

Hỷ ấy là căn bổn vì tâm chẳng loạn vậy.

Hỷ ấy là đa văn vì nắm lấy thiện ngữ vậy.

Hỷ ấy là bình đẳng vì tâm nhu nhuyến vậy.

Hỷ ấy dũng mãnh vì giỏi làm sự nghiệp vậy.

Hỷ ấy chẳng hối vì chuyên làm điều thiện vậy.

Hỷ ấy chánh trụ vì chẳng giải đãi vậy.

Hỷ ấy bất động vì không có sở y vậy.

Hỷ ấy bất cộng vì khó xô dẹp vậy.

Hỷ ấy thiệt nghĩa vì chẳng quên mất vậy.

Hỷ ấy chơn thiệt vì không có biến đổi khác vậy.

Hỷ ấy thành thiệt vì đúng như chỗ làm vậy.

Hỷ ấy hay xả vì thế lực kiên lao vậy.

Hỷ ấy đại lực vì không gì thắng hơn được vậy.

Hỷ ấy hay làm thần lực chư Phật vì cầu pháp chư Phật vậy.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành tâm hỷ mà chẳng thể tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành tâm xả cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát tu xả vô tận?

Bồ Tát tu xả là xả ba thứ, đó là xả các phiền não, xả hộ mình người và xả thời phi thời.

Thế nào là xả các phiền não?

Được cung kính cúng dường tâm chẳng cao, bị khinh chê trách mắng tâm cũng chẳng hạ. Nếu được lợi dưỡng tâm chẳng tham cậy, bị suy não tâm cũng chẳng sầu. Nếu được thưởng khen trước mặt tâm không mừng rỡ, bị chê trước mặt tâm cũng không lui sụt. Nếu được khen sau lưng tâm khéo an trụ pháp giới, bị chê sau lưng tâm không kém sút. Nếu gặp sự khổ tâm gắng nhẫn thọ, gặp sự vui tâm thấy vô thường. Hay buông bỏ sở ái, hay đoạn dứt giận hờn. Nơi người thân người chẳng thân tâm luôn bình đẳng. Nơi người trì giới hay kẻ phá giới ý không tăng giảm. Nơi làm thiện làm ác tâm không có hai tướng. Nơi ái chẳng ái tâm không tham chấp. Nghe thiện bất thiện tâm hay kham nhẫn. Nơi lời thiện ác tâm không dính buộc. Nơi tội lỗi họa tâm lượng không có hai. Nơi các chúng sanh được tâm bình đẳng. Nơi thượng trung hạ được quang minh đồng nhứt. Chẳng tiếc thân mạng, với tốt xấu danh tiếng đồng như pháp giới. Nơi pháp thiệt chẳng thiệt tâm được thanh tịnh. Nơi những thế pháp được Bồ Tát xả. Đây gọi là Bồ Tát xả các phiền não.

Thế nào là Bồ Tát xả hộ mình người?

Nếu bị chặt đứt thân thể tay chưn tâm không sân hận chẳng cầu thù báo.

Vì được tâm xả nên có thể xả hai thứ nội ngoại thân khẩu. Ở trong hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng. Nơi nhãn cùng sắc không có dục nhơ, nơi nhĩ cùng thanh, tỷ cùng hương, thiệt cùng vị, thân cùng xúc và ý cùng pháp cũng đều không có dục nhơ. Ở trong những hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng nên gọi là xả. Chẳng tổn thương chẳng gây hại nên gọi là xả. Xả hộ mình và người nên gọi là xả. Nơi lợi chẳng lợi tâm hành bình đẳng nên gọi là xả. Nơi đệ nhứt nghĩa chẳng sanh tranh luận nên gọi là xả. Nơi tâm mình khéo hay phân biệt nên gọi là xả. Quán xả bỏ thân mình nên gọi là xả. Chẳng hại thân người nên gọi là xả.

Bồ Tát tu xả, nơi các thiền định thường hành xả tâm. Chư Phật Thế Tôn chẳng cho Bồ Tát ở nơi các chúng sanh mà hành xả tâm. Tại sao? Vì Bồ Tát thường tu tinh tiến vì lợi tự tha ma siên cầu thiện căn vậy. Đây gọi là Bồ Tát xả hộ mình và người vậy.

Thế nào là Bồ Tát xả thời phi thời?

Phi khí chúng sanh xả mà chẳng dẫn tiếp. Suy huỷ cơ khổ xả mà chẳng thọ. Xả người cầu Thanh Văn thành quyết định. Lúc hành bố thí xả tu trì giới. Lúc tu trì giới xả bố thí. Lúc tu nhẫn nhục xả thí giới tiến. Lúc tu tinh tiến xả thí giới nhẫn. Lúc hành thiền định xả bố thí. Lúc tu trí huệ xả năm Ba la mật. Việc chẳng nên làm trọn chẳng còn làm. Các pháp như vậy an trụ giới hạnh, tinh cần dũng mãnh đầy đủ tu hành. Đây gọi là Bồ Tát tu vô tận xả vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát các thông cũng chẳng thể tận.

Những gì là các thông?

Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, và như ý thông, đây gọi là Bồ Tát các thông.

Thế nào là Bồ Tát thiên nhãn thông?

Bồ Tát thiên nhãn là đệ nhứt trên tất cả những thiên nhãn của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần và của hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên Giác.

Bồ Tát thiên nhãn vi diệu thù thắng mở suốt tỏ rõ, do công đức hướng về Nhứt thiết trí cảm thành, chẳng đồng với Thiên Long và Nhị thừa.

Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, trong ấy có bao nhiêu hình mạo sắc tượng quang minh hoặc thô hoặc tế hoặc gần hoặc xa, Bồ Tát thiên nhãn đều thấy tất cả soi rõ rành rẽ khéo hiểu khéo thấy, cũng thấy trong ấy bao nhiêu những chúng sanh thọ sanh các thú. Trừ Vô Sắc thiên, còn bao nhiêu những nghiệp hành sanh tử tương tục, hoặc nghiệp hoặc quả các căn sai khác đều thấy biết không sót.

Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật trang nghiêm thanh tịnh vi diệu đều thấy rõ cả không thừa.

Thấy rõ như vậy rồi, Bồ Tát thanh tịnh trì giới nguyện hồi hướng trang nghiêm quốc độ mình. An trụ trì giới ấy đúng như sở nguyện đều được thành tựu vô lượng lợi ích lớn.

Trong những thế giới mười phương ấy, Bồ Tát thiên nhãn cũng thấy đại chúng Bồ Tát tu hành đạo Bồ đề, bốn oai nghi nơi thân và chánh ức niệm, được pháp môn giải thoát an trụ tổng trì, biện tài phương tiện nhập vào huệ phương tiện. Thấy rồi, Bồ Tát tự tu đầy đủ những công hạnh ấy.

Bồ Tát thiên nhãn thanh tịnh vì thấy được sắc không có trở ngại vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng ô nhiễm vì chẳng tham trước nơi các sắc vậy.

Bồ Tát thiên nhãn giải thoát vì xa lìa các kiến phiền não vậy.

Bồ Tát thiên nhãn sáng sạch vì tánh minh liễu vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng y chỉ vì lìa cảnh sở duyên vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng phát xuất vì đoạn dứt phiền não vậy.

Bồ Tát thiên nhãn không mờ vì đoạn dứt lưới nghi vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng khởi vì đoạn dứt chướng ngại vậy.

Bồ Tát thiên nhãn được sáng vì soi rõ các pháp vậy.

Bồ Tát thiên nhãn niệm biết vì chẳng hành thức vậy.

Bồ Tát thiên nhãn không tham ái, sân khuể, ngu si vì hay dứt trừ các kiết sử vậy.

Bồ Tát thiên nhãn vô thượng vì thẳng đến thánh bổn vậy.

Bồ Tát thiên nhãn vô ngại vì quang minh bình đẳng chiếu chúng sanh vậy.

Bồ Tát thiên nhãn vô cấu vì dứt các ác pháp vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng nhiễm vì tánh thanh tịnh vậy.

Bồ Tát thiên nhãn nhập Phật nhãn vì cứu cánh chẳng bỏ vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chẳng hệ phược vì dứt tham sân vậy.

Bồ Tát thiên nhãn chiếu nghĩa xuất sanh chơn thiệt tu hành vì nhớ biết đạo pháp thanh tịnh vậy. Tại sao? Vì Đại Sĩ ấy an trụ đại bi thâm giải pháp tướng, khéo phân biệt nghĩa không có tranh tụng, tùy thấy nghe nói pháp trái pháp bất thiện, xu hướng đạo tràng tâm không có chướng ngại, thấy người xan lẫn thì hay xả bỏ của cải bố thí, thấy kẻ phạm giới thì hay thanh tịnh trì giới, thấy người giận thù hay nhẫn chẳng tranh, thấy người giải đãi thì hay nhiếp thủ khuyên gắng, thấy người tán tâm thì chỉ dạy thiền chi, thấy người không có trí huệ thì hay ban cho huệ nhãn, thấy người hành tà đạo thì dạy họ thánh đạo, thấy người tu hạ hành thì vì họ nói Phật pháp thậm thâm vi diệu khiến nhập Nhứt thiết trí, chẳng thối thất các thần thông đầy đủ đạo Bồ đề.

Đây gọi là Bồ Tát thiên nhãn thần thông mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thiên nhĩ thần thông cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông?

Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật có bao nhiêu âm thanh, những là âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, của Phi Nhơn và loài người, các âm thanh của Thánh Nhơn những là âm thanh của các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, chư Bồ Tát của bực Chánh Biến Tri, tất cả âm thanh ấy Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe rõ cả, nhẫn đến các chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ruồi, kiến, muỗi, mòng có bao nhiêu âm thanh đều nghe rõ cả.

Hoặc các chúng sanh tâm duyên chỗ nào là thiện hay bất thiện vô ký làm các sự nghiệp phát xuất âm thanh, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết tất cả.

Hoặc khẩu nghiệp thiện, khẩu nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp vô ký, Bồ Tát thiên nhĩ đều biết hết đúng thiệt.

Hoặc khẩu nghiệp nhơn ái dục mà nói sân nói si, hoặc khẩu nghiệp nhơn sân hận mà nói dục ái nói ngu si, hoặc khẩu nghiệp nhơn ngu si mà nói ái dục nói sân hận.

Hoặc khẩu nghiệp nhơn dục ái nói dục ái, nhơn sân hận nói sân hận, nhơn ngu si nói ngu si. Tất cả các tiếng nói như vậy, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.

Hoặc có khẩu nghiệp tâm tịnh mà khẩu thô, hoặc tâm thô mà khẩu tịnh, hoặc tâm tịnh khẩu tịnh, hoặc tâm thô khẩu thô, Bồ Tát vô ngại thiên nhĩ đều nghe biết đúng thiệt.

Bồ Tát thiên nhĩ cũng nghe biết thánh thanh và phi thánh thanh.

Nếu nghe biết thánh thanh tâm chẳng ái trước, nếu nghe biết phi thánh thanh tâm cũng không trở ngại. Nơi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại từ, nơi phi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại bi.

Bồ Tát ấy nếu nghe âm thanh quá khứ hay vị lai thì được tận bổn tế như thiệt chánh trí.

Bồ Tát thiên nhĩ được nghe diệu pháp của tất cả chư Phật Thế Tôn nói. Nghe rồi ghi nhớ chánh trí tổng trì chẳng quên chẳng mất, tuỳ căn khí chúng sanh mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát khéo biết các pháp tướng bền vững chẳng bền vững.

Bồ Tát thiên nhĩ nếu nghe một Phật nói pháp mà chẳng nghe chư Phật khác nói pháp thì không có lẽ ấy.

Tất cả chư Phật diễn nói pháp, Bồ Tát ấy đều có thể nghe học cả.

Bồ Tát ấy nếu nghe tiếng thiện bất thiện vô ký đều khéo biết thời phi thời.

Đó là, hoặc chúng phải lúc mà chẳng phải lúc nói pháp thì nín lặng mà không nói.

Hoặc phải lúc nói pháp mà chẳng phải lúc có chúng, nghĩa là chánh vì một người hay lãnh thọ pháp nên nói pháp, mà chẳng vì tất cả chúng.

Hoặc sự chơn thiệt mà e rằng có hại cho người nên chẳng vì họ nói. Hoặc sự chẳng thiệt mà vì lợi ích cho người nên dùng tâm thanh tịnh phương tiện được nói.

Hoặc âm thanh thích thì có thể được nghe, nếu âm thanh không thích thì chẳng còn nghe.

Nếu nơi đại chúng lúc vì các chúng sanh diễn nói pháp tuỳ nhĩ thức của họ nghe được hiểu được, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.

Bồ Tát lúc ấy nói pháp, hoặc có các chúng sanh đáng được hiểu tỏ ấy liền được nghe pháp, nếu là kẻ không hiểu tỏ thì chẳng nghe nói pháp.

Bồ Tát thiên nhĩ pháp giới tánh thanh tịnh, vì tri kiến ngã, nhơn, chúng sanh đều thanh tịnh vậy.

Bồ Tát ấy chánh phân biệt nhĩ giới như tướng ngôn ngữ văn tự được nói.

Nếu có ngũ thú tạp loại chúng sanh, tuỳ chỗ nhận hiểu ngôn ngữ âm thanh của họ mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát đem thiên nhĩ ấy hồi hướng nhĩ giới của Như Lai được, vì chẳng cầu các thừa khác vậy.

Đây là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tri tha tâm thông cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát tri tha tâm thông?

Tâm thượng trung hạ của các chúng sanh Bồ Tát đều biết.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn bố thí căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trì giới căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn nhẫn nhục căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn tinh tiến căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn thiền định căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trí huệ căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn từ bi hỷ xả căn.

Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn Thanh Văn, Duyên Giác Đại thừa căn.

Biết chúng sanh ấy nhơn lực tăng thượng thiện căn nên được thọ sanh nơi đây.

Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm chẳng thanh tịnh.

Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm bất tịnh.

Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều thanh tịnh.

Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều bất tịnh.

Biết chúng sanh ấy đời quá khứ tâm các căn hành nhơn.

Biết chúng sanh ấy tuỳ duyên ngộ pháp.

Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí.

Bồ Tát lại biết tâm đời vị lai của kẻ khác.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trì giới, trong đời hiện tại có nhơn bố thí.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn nhẫn nhục, trong đời hiện tại có nhơn trì giới.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn tinh tiến, trong đời hiện tại có nhơn nhẫn nhục.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn thiền định, trong đời hiện tại có nhơn tinh tiến.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trí huệ, trong đời hiện tại có nhơn thiền định.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn xuất thế, trong đời hiện tại có nhơn thế tục.

Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai phát nhơn Đại thừa, trong đời hiện tại có nhơn hạ căn.

Chúng sanh vị lai có những nhơn duyên như vậy, Bồ Tát có thể như thiệt biết các nhơn duyên ấy.

Bồ Tát với các chúng sanh chưa chấp nhận giáo hoá trọn không mỏi nhàm, đúng như tâm căn của họ đều biết đúng như thiệt, tuỷ khí lượng họ mà thuyết pháp cho họ.

Nếu người thích nghe ít thì trọn chẳng nói nhiều, nói pháp ắt có lợi ích chẳng uổng công.

Đây gọi là Bồ Tát tri tha tâm trí.

Đời hiện tại chúng sanh sở hành tâm và tâm số pháp đều biết đúng thiệt.

Những là, dục tâm biết đúng thiệt. Dục tâm ly dục tâm biết đúng thiệt.

Ly dục tâm sân khuể biết đúng thiệt. Sân tâm ly sân tâm biết đúng thiệt.

Ly sân tâm si tâm biết đúng thiệt. Si tâm ly si tâm biết đúng thiệt.

Ly si tâm tán tâm biết đúng thiệt. Tán tâm nhiếp tâm biết đúng thiệt.

Nhiếp tâm giải đãi tâm biết đúng thiệt. Giải đãi tâm tinh tiến biết đúng thiệt.

Tinh tiến tâm hạ tâm biết đúng thiệt. Hạ tâm thượng tâm biết đúng thiệt.

Thượng tâm loạn tâm biết đúng thiệt. Loạn tâm định tâm biết đúng thiệt.

Định tâm không giải thoát tâm biết đúng thiệt. Không giải thoát tâm có giải thoát tâm biết đúng thiệt.

Có giải thoát tâm không tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt, không tịch tĩnh tâm có tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt.

Có tịch tĩnh tâm hữu lượng tâm biết đúng thiệt, hữu lượng tâm vô lượng tâm biết đúng thiệt.

Vô lượng tâm mỗi mỗi chúng sanh mỗi mỗi phiền não triền phược che đậy tâm ấy, tất cả đều biết. Biết như vậy rồi, đúng đạo xuất ly ấy mà vì họ thuyết pháp.

Lại chỗ ở của Bồ Tát ấy, trước quán sát chúng sanh biết căn lượng của họ, tuỳ theo đó mà vì họ nói pháp xuất yếu. Các chúng sanh ấy căn thượng trung hạ đều biết đúng thiệt.

Tâm Bồ Tát ấy lúc biết tâm người khác không có chướng ngại. Tại sao? Vì tâm biết của Bồ Tát ấy mãnh lợi khéo phân biệt vậy. Là chỗ biết của niệm ý tiến huệ vậy. Khéo hay hiểu rõ tướng Bồ đề vậy. Vì dứt các tập khí vậy. Vì thanh tịnh vô cấu vậy. Vì tỏ rõ không có tranh vậy. Vì không có các phiền não vậy. Vì không có các dòng chảy vậy. Vì chiếu tất cả pháp vậy. Vì khéo nhập tất cả chúng sanh tâm vậy.

Có thể hiểu biết như vậy,vì tâm trí Bồ Tát ấy mãnh lợi, nơi các pháp như vậy chánh nhập biết đúng thiệt.

Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí thông mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát túc mạng trí thông cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát túc mạng trí thông?

Bồ Tát ấy nhớ sự việc đời trước hoặc của mình hoặc của người khác đều khéo nhận nhớ lấy, an trụ pháp giới không có khuynh động. Không khuynh động thì có thể khéo hiểu rõ khéo tác nghiệp vậy.

Niệm nhớ ấy không có nhiễu não vì an trụ thiền định vậy.

Niệm nhớ ấy vô uý vì nhiếp trí huệ vậy.

Niệm nhớ ấy chẳng từ người khác cầu vì hiện được khéo biết rõ vậy.

Niệm nhớ ấy nhớ đúng vì cứu cánh chẳng mất vậy.

Niệm nhớ ấy trợ công đức vì khéo hiểu Đại thừa vậy.

Niệm nhớ ấy trợ trí vì chẳng từ người khác mà đầy đủ vậy.

Niệm nhớ ấy thiện căn các Ba la mật đầy đủ vì có thể đến tất cả Phật pháp vậy.

Túc mạng trí ấy nếu niệm nhớ một đời, hai đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn đời, và trời đất thành hoại, vô lượng đời thành, vô lượng đời hoại, vô lượng đời thành hoại, vô lượng kiếp thành hoại, biết chúng sanh trong ấy, chủng tánh như vậy, danh tự như vậy, sắc tượng như vậy, ẩm thực như vậy, thọ mạng như vậy, thọ khổ lạc v.v…, ở trong ấy chết sanh lại trong ấy, ở trong kia chết trở lại sanh trong kia. Bồ Tát ấy niệm nhớ vô lượng sanh tử như vậy. Niệm nhớ đời quá khứ của mình và của các chúng sanh cùng tận quá khứ tế.

Bồ Tát ấy tự nhớ thiện căn của mình hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nhớ thiện căn người nguyện phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát ấy dùng tâm chánh niệm nơi sanh tử hành khổ đời trước khéo quán vô thường, khổ, vô ngã. Hoặc quán vô thường, khổ, vô ngã rồi các sắc dục phong ấp, bổng lộc, thọ mạng, quyến thuộc, thế lực đều không tham trước. Cũng lại chẳng tham Thích, Phạm, Hộ Thế Chuyển Luân Thánh Vương, và chỗ thọ sanh ngũ dục hoan lạc. Vì giáo hoá chúng sanh mà hiện thọ sanh.

Bồ Tát ấy niệm vô thường, khổ, vô ngã rồi, những lỗi lầm quá khứ đều phát lộ sám hối. Hiện đời các ác trọn chẳng làm dầu phải mất thân mạng. Thiện căn quá khứ muốn tăng trưởng rộng lớn hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Hiện tại thiện căn cùng chúng sanh chung hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát ấy lìa các ác pháp vì nguyện chẳng dứt giống Tam bửu vậy. Có bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.

Đây gọi là Bồ Tát niệm túc mạng trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát như ý thần thông cũng chẳng thể tận.

Thế nào là như ý thần thông?

Nếu các pháp được nhiếp của dục tiến tâm và huệ điều phục nhu hoà tâm được tự tại, vì khéo tu tập nên hiện tại có thể được như ý thần thông như vậy.

Bồ Tát ấy làm các thứ thần thông biến hoá, dùng thần thông ấy để giáo hoá chúng sanh.

Bồ Tát ấy mỗi mỗi thị hiện các thứ thần thông giáo hoá chúng sanh, những là hoặc sắc tướng hoặc lực thế, hoặc biến hoá.

Bồ Tát ấy thị hiện sắc tướng cho chúng sanh thấy, thấy rồi tâm phục. Đó là hoặc sắc tượng Phật, sắc tượng Duyên Giác, sắc tượng Thanh Văn, sắc tượng Thích, Phạm, Hộ Thế các Thánh Vương, và các thứ vô lượng sắc tượng khác, nhẫn đến thị hiện sắc tượng súc sanh. Vì giáo hoá chúng sanh mà thị hiện những sắc tượng như vậy. Thị hiện như vậy rồi tuỳ sở ưng mà thuyết pháp.

Nếu có chúng sanh tự cho thân mình có đại lực mà khởi kiêu mạn, giận dữ, cống cao, vì muốn điều phục hạng chúng sanh ấy nên Bồ Tát thị hiện đại lực. Hoặc hiện sức lực một phần tư sức lực na la diên, hoặc hai phần tư, hoặc ba phần tư, hoặc thị hiện toàn thế lực na la diên.

Núi Tu Di cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, dùng ba ngón tay cầm lên ném xa ngoài vô lượng thế giới phương khác, như là ném một quả a ma lặc. Nơi sức lực Bồ Tát không có tổn giảm. Hoặc bứt lấy Đại Thiên thế giới đến dưới thuỷ tế, dùng tay đưa lên cao đến Trời Hữu Đảnh đứng vậy trải qua một kiếp. Lúc Bồ Tát thành tựu thị hiện đại thế lực như vậy, có thể làm cho hàng chúng sanh giận dữ cống cao, kiêu mạn kia nội tâm họ khéo điều phục.

Biết họ điều phục rồi, Bồ Tát ấy tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát ấy tu như ý thần thông có thể được thế lực trí huệ biến hoá.

Do sức biến hoá ấy nên chỗ muốn làm đều được thành tựu.

Bồ Tát ấy có thể biến đại hải làm dấu chưn trâu mà đại hải không nhỏ, hay biến dấu chưn trâu làm đại hải mà dấu chưn trâu chẳng lớn.

Hoặc kiếp sắp tận lúc hoả tai khởi lên, muốn biến làm nước thì có thể biến như ý muốn, lúc thuỷ tai khởi hay biến làm lửa, lúc phong tai khởi hay biến làm lửa, lúc hỏa tai khởi hay biến làm phong, các sự biến hoá ấy đều thành tựu được như ý muốn.

Hoặc pháp thượng trung hạ tuỳ ý biến hoá, chỉ trừ chư Phật, không còn ai có thể di động trở ngại phá hoại được như ý thần thông của Bồ Tát, như là Thích, Phạm, Hộ Thế, ma vương và quyến thuộc.

Bồ Tát ấy thị hiện các thứ biến hoá cho chúng sanh được hoan hỷ rồi tuỳ ý mà vì họ thuyết pháp.

Thần thông của Bồ Tát ấy dũng kiện tự tại hay siêu quá cảnh giới các ma phiền não nhập vào Phật giới chẳng nhiễu não chúng sanh, bao nhiêu thiện căn đều được thành tựu. Tất cả ma chúng không có thể đoạn dứt được.

Đây gọi là Bồ Tát như ý thần thông mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát bốn nhiếp pháp cũng chẳng thể tận.

Những gì là bốn? Đó là: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng lợi.

Thế nào là Bố thí nhiếp?

Bố thí có hai thứ là Tài thí và Pháp thí.

Thế nào là Ái ngữ nhiếp?

Với người cầu xin của cải và người nghe pháp thì nhu hoà nói năng với họ.

Thế nào là Lợi hành nhiếp?

Nơi người cầu xin tài vật và người nghe pháp, tuỳ sở cầu của họ đều làm thoả mãn đầy đủ.

Thế nào là Đồng lợi nhiếp?

Nơi người cầu tài cầu pháp, đem lợi Đại thừa của mình mà khiến họ an ở nơi ấy.

Lại Bố thí ấy, thấy người cầu xin sanh lòng thanh tịnh.

Ái ngữ ấy, nơi các người xin sanh lòng hoan hỷ.

Lợi hành ấy, nơi các người xin tuỳ chỗ được lợi đều khiến họ đầy đủ.

Đồng lợi ấy, thường đem Đại thừa dạy chúng sanh.

Lại nữa, Bố thí ấy đó là tâm xả thí.

Ái ngữ, đó là làm không có chừng hạn.

Lợi hành ấy, đó là cứu cánh chẳng hối.

Đồng lợi ấy, đó là hồi hướng Đại thừa.

Lại nữa, Bố thí ấy đó là khởi tâm từ hành xả thí.

Ái ngữ ấy, đó là chẳng bỏ tâm hỷ.

Lợi hành ấy, đó là đại bi trang nghiêm lợi ích chúng sanh.

Đồng lợi ấy, đó là bỏ tâm cao hạ mà phát tâm hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.

Lại nữa, Bố thí ấy đó là cầu tài đúng pháp thanh tịnh bố thí.

Ái ngữ ấy, đó là dìu dắt kẻ thương mến đặt ở thiên pháp.

Lợi hành ấy, đó là nói lợi của mình để người được lợi ích.

Đồng lợi ấy, đó là khiến các chúng sanh phát tâm Nhứt thiết trí.

Lại nữa, Bố thí ấy đó là xả bỏ nội tài, ngoại tài.

Ái ngữ ấy, đó là công đức trí huệ tâm không lẫn tiếc.

Lợi hành ấy đó là xả tự lợi hành mà hành lợi tha.

Đồng lợi ấy đó là lìa bỏ ngôi vị quan trọng lòng chẳng hề hối tiếc.

Lại nữa, Pháp thí ấy đó là như pháp được nghe đều có thể diễn nói.

Ái ngữ ấy đó là chẳng vì lợi dưỡng mà thuyết pháp.

Lợi hành ấy đó là dạy người phúng tụng tâm không có mỏi nhàm.

Đồng lợi ấy đó là Nhứt thiết trí tâm chỗ được diệu pháp, liền đem pháp ấy khuyên gắng chúng sanh.

Còn nữa, Pháp thí ấy đó là nếu có các chúng sanh mỗi người mỗi người nghe pháp, theo thứ đệ mà nói pháp không có lầm lộn.

Ái ngữ ấy đó là vì người thuyết pháp chẳng từ xa gần.

Lợi hành ấy đó là có người cầu pháp thì cung cấp cho họ những uống ăn, y phục, giường nệm, thuốc men không để họ thiếu thốn rồi sau đó tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.

Đồng lợi ấy đó là phàm nói pháp thường khuyên chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề.

Còn nữa, Pháp thí ấy đó là biết trong các bố thí, đây là tối thắng, đem thăng pháp nầy vì người mà diễn nói.

Ái ngữ ấy đó là thường vì lợi ích chúng sanh mà thuyết pháp.

Lợi hành ấy đó là tuỳ nghĩa mà nói chớ chẳng tuỳ văn tự.

Đồng lợi ấy đó là thường vì đầy đủ Phật pháp mà nói pháp.

Còn nữa, Bố thí ấy đó là đầy đủ Đàn Ba la mật.

Ái ngữ ấy, đó là đầy đủ Thi la và Sằn đề Ba la mật.

Lợi hành ấy, đó là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.

Đồng lợi ấy, đó là đầy đủ Thiền na và Bát Nhã Ba la mật.

Còn nữa, Bố thí ấy đó là sơ phát tâm Bồ đề.

Ái ngữ ấy, đó là tu hành Bồ đề.

Lợi hành ấy, đó là chẳng thối Bồ đề.

Đồng lợi ấy, đó là bực Nhứt sanh bổ xứ.

Còn nữa, Bố thí ấy đó là an trụ Bồ đề chủng tử căn bổn.

Ái ngữ ấy đó là tư trưởng Bồ đề mầm cây nhánh lá.

Lợi hành ấy đó là lần lần đơm nở hoa Bồ đề.

Đồng lợi ấy đó là đã có thể thành tựu trái hột Bồ đề.

Đây gọi là Bồ Tát Tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ vô ngại trí cũng chẳng thể tận.

Thế nào là bốn?

Một là nghĩa vô ngại. Hai là Pháp vô ngại. Ba là Từ vô ngại. Bốn là Lạc thuyết vô ngại.

Thế nào là nghĩa vô ngại trí?

Ở trong các pháp biết đệ nhứt nghĩa đế, là tỉ trí, là nhơn trí, là duyên trí, là hoà hiệp trí, là ly biến trí, là chẳng trụ chung trí, là thập nhị duyên trí, là chẳng khác pháp tánh trí, là như thiệt trí, là chơn tế trí, là giác không không trí, là vô tướng tướng trí, là vô nguyện nguyện trí, là vô vi vi trí, là quán nhứt tướng trí, là quán vô ngã trí, là quán vô chúng sanh trí, là quán vô thọ mạng trí, là quán đệ nhứt nghĩa trí, là quán quá khứ vô ngại trí, là quán vị lai vô biên trí, là quán hiện tại Nhứt thiết chủng trí, là quán các ấm như oán tặc trí, là quán các giới như độc xà trí, là các nhập như xóm vắng trống trí, là quán nội pháp vĩnh tịch diệt trí, là quán ngoại pháp vô hành xứ trí, là quán sở duyên như ảo hoá trí, là quán niệm chánh trụ trí, là quán nhẫn chánh pháp trí, là quán tự thân trí, là quán chơn đế trí, là khổ chẳng hoà hiệp trí, là tập chẳng tạo tác trí, là diệt tự tánh trí, là đạo hay đến trí, là phân biệt các pháp trí, là quán chúng sanh các căn tâm hành tuỳ sở nhập trí, là các lực không gì phục được trí, là các giác như thiệt hiểu trí, là thiền định thọ trì trí, là huệ quang minh trí, là ảo hoá trang nghiêm trí, là sự muốn trông mộng trí, là tiếng vang cảnh sở duyên trí, là như tượng trong gương không có khứ lai trí, là các thứ tướng không có tướng trí, là ách ly ách trí, là thủ sanh ly sanh trí, là Thanh Văn thừa theo người nghe trí, là Duyên Giác thừa quán mười hai duyên trí, là Đại thừa đầy đủ các thiện căn trí. Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại trí.

Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:

Tư duy nghĩa tất cả pháp. Tại sao?

Tất cả pháp ấy không có ngã, nhơn, thọ mạng, chúng sanh. Như không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì gọi là nghĩa.

Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:

Là vô trụ thuyết. Là vô tận thuyết. Là đắc nhứt thiết pháp thuyết.

Nghĩa vô ngại như vậy được chư Phật hứa khả, là chơn thiệt nghĩa vô biệt vô dị, trí huệ phân biệt không có chướng ngại.

Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát pháp vô ngại trí?

Bồ Tát quán các pháp, những là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hắc, pháp bạch, pháp sanh tử, pháp Niết bàn. Trí ấy pháp tánh bình đẳng, trí ấy Bồ đề bình đẳng, trí ấy tánh bình đẳng, đây gọi là Pháp vô ngại trí.

Còn nữa, Pháp vô ngại trí ấy:

Quán các chúng sanh tâm hành đa dục, tâm hành thiểu dục, tâm hành sơ phát dục, tâm hành dục tướng, tâm hành hiện tại dục được duyên, tâm hành hiện tại dục nhơn duyên, có các chúng sanh nội có dục hành mà ngoại không có dục hành, hoặc ngoại có dục hành mà nội không có dục hành, hoặc nội ngoại đều có dục hành, hoặc nội ngoại đều không dục hành, hoặc sắc dục hành mà chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, hoặc thanh dục hành mà chẳng phải sắc, hương, vị, xúc, hoặc hương dục hành mà chẳng phải sắc thanh vị xúc, hoặc vị dục hành mà chẳng phải sắc, thanh, hương, xúc, hoặc có xúc dục hành mà chẳng phải sanh thanh, hương, vị. Nhập môn hành quán chúng sanh các dục hành như vậy. Dục hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Sân hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Si hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Đẳng phần hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Bồ Tát quán chúng sanh có tám vạn bốn ngàn hành như vậy, đều như thiệt biết rõ cả, biết rồi tuỳ sở ưng mà vì họ thuyết pháp.

Đây gọi là Bồ Tát Pháp vô ngại trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Từ vô ngại trí?

Nơi các âm thanh đều quán biết rõ:

Những là ngữ ngôn văn tự âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, Nhơn và Phi Nhơn thảy đều có thể biết cả. Ngũ đạo tạp loại chúng sanh như vậy, tuỳ theo chủng loại ấy mỗi mỗi ngữ ngôn văn tự âm thanh mà vì họ thuyết pháp. Đây gọi là Từ vô ngại trí.

Ngữ pháp văn tự như vậy, Bồ Tát tư duy hiểu rõ vô ngại.

Bồ Tát biết một ngôn ngữ, hai, ba ngôn ngữ nhẫn đến nhiều ngôn ngữ, ngôn ngữ của nam, của nữ, của phi nam nữ, ngôn ngữ quá khứ, vị lai, hiện tại đều biết rõ cả. Biết ngôn ngữ chứa một chữ đến nhiều chữ. Đây gọi là Từ vô ngại trí.

Từ vô ngại trí ấy, lúc nói không có sai lầm không có trệ ngại, lời nói vi diệu thông sướng chắc thiệt chánh trực không có thô, bao nhiêu văn từ đầy đủ trang nghiêm, thính chúng được nghe không ai là chẳng hoan hỷ. Các thứ âm thanh vi diệu như vậy, sâu xa rộng khắp trang nghiêm tục đế và đệ nhứt nghĩa đế. Dùng tên trí huệ khéo bắn tà kiến. Từ vô ngại ấy được chư Phật hứa khả, có thể làm cho chúng sanh đêu hoan hỷ.

Đây gọi là Bồ Tát Từ vô ngại trí mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là đại Bồ Tát Lạc thuyết vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận?

Diễn nói vô ngại, diễn nói chẳng trụ, diễn nói nhanh lẹ, diễn nói nhạy bén, như chỗ hỏi đáp, trả lời không có chướng ngại, trả lời không có chống trái, là trả lời tương ưng, trả lời trụ sức, nhẫn nhịn, trả lời y nơi hai đế, trả lời y nơi thí, giới, nhẫn, tiến, định, huệ, trả lời y nơi tất cả pháp chương cú, trả lời y nơi nghĩa thậm thâm của niệm, xứ, chánh cần, như ý, căn, lực, giác đạo, trả lời y nơi tịch diệt tư duy, đây là Lạc thuyết vô ngại trí.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy, nếu tất cả ngôn ngữ văn tự phân biệt chánh trực mà đáp. Đó là tất cả thiền định tam ma bạt đề chơn đế trí mà đáp, biện luận thông sướng ba thừa tuỳ tâm hành tất cả chúng sanh như chỗ sở ưng mà đáp, lời nói xảo diệu, chẳng phải như dê câm thô bạo điệu hí, không hề có những lời lẽ xấu dở như vậy. Lời nói ra tịch diệt được người thọ dụng. Lời nói oai đức không có triền phược, lời nói tương ưng không trái vi diệu nhu hoà. Lời nói không bị chê trách được thánh nhơn khen. Như lời dạy bảo của Phật Thế Tôn phạm âm trong suốt tất cả đều nghe.

Lạc thuyết vô ngại trí ấy được Phật hứa khả vì chúng sanh khác mà nói pháp vi diệu, nghe pháp ấy được vui xuất thế dứt hết các khổ. Đây gọi là Lạc thuyết vô ngại trí vậy.

Thưa Tôn giả! Đây gọi là đại Bồ Tát tứ vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có bốn y pháp chẳng cùng tận.

Những gì là Bốn y?

Y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa và y pháp chẳng y nhơn.

Thế nào là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ?

Ngữ ấy, là nếu nhập vào trong thế pháp thì có chỗ nói. Nghĩa ấy là hiểu pháp xuất thế không có tướng văn tự.

Ngữ ấy, là nói bố thí điều phục ủng hộ. Nghĩa ấy, là biết thí, giới, nhẫn vào tánh bình đẳng.

Ngữ ấy, là xưng nói sanh tử. Nghĩa ấy, là biết sanh tử không có tánh.

Ngữ ấy, là nói Niết bàn vị. Nghĩa ấy, là biết Niết bàn không có tánh.

Ngữ ấy, là nói các thừa tuỳ chỗ an ở. Nghĩa ấy, là khéo biết các thừa nhập vào môn trí nhứt tướng.

Ngữ ấy, hoặc nói các xả thí. Nghĩa ấy, ba thứ thanh tịnh.

Ngữ ấy, là nói thân khẩu ý thọ trì tinh giới công đức oai nghi. Nghĩa ấy là tỏ thân khẩu ý đều không có sở tác mà có thể hộ trì tất cả tinh giới.

Ngữ ấy, nếu nói nhẫn nhục dứt trừ sân khuể, cống cao, kiêu mạn. Nghĩa ấy, tỏ thấu các pháp được Vô sanh nhẫn.

Ngữ ấy, nếu nói siêng tu tất cả thiện căn. Nghĩa ấy, an trụ tinh tiến không có chung thuỷ.

Ngữ ấy, nếu nói các thiền giải thoát tam muội. Nghĩa ấy, biết diệt tận định.

Ngữ ấy, đều có thể khai thị tất cả văn tự trí huệ thiện căn. Nghĩa ấy, biết nghĩa huệ ấy chẳng thể tuyên nói.

Ngữ ấy, nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nghĩa ấy, chánh biết tu hành các trợ đạo pháp hay chứng được quả.

Ngữ ấy, nói khổ tập đạo đế. Nghĩa ấy, chứng được diệt đế.

Ngữ ấy, nói vô minh căn bổn nhẫn đến sanh duyên lão tử. Nghĩa ấy, biết vô minh diệt nhẫn đến sanh lão tử diệt.

Ngữ ấy, nói pháp trợ định huệ. Nghĩa ấy, sáng trí giải thoát.

Ngữ ấy, nói tham khuể si. Nghĩa ấy, hiểu ba bất thiện căn tức là giải thoát.

Ngữ ấy, thoát pháp chướng ngại. Nghĩa ấy, được vô ngại giải thoát.

Ngữ ấy, xưng nói Tam bửu vô lượng công đức. Nghĩa ấy, Tam bửu công đức ly dục pháp tánh đồng tướng vô vi.

Ngữ ấy, nói từ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tu tập trang nghiêm Bồ đề công đức. Nghĩa ấy, dung một niệm huệ giác liễu tất cả pháp.

Tóm lại, có thể nói tám vạn bốn ngàn pháp trụ, đây gọi là ngữ. Biết các văn tự chẳng thể tuyên nói, đây gọi là nghĩa.

Đây gọi là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ.

Thế nào là Bồ Tát Y trí chẳng y thức?

Thức ấy có bốn xứ thức ở:

Thức ở nơi sắc, thức ở nơi thọ, thức ở nơi tưởng và thức ở nơi hành.

Người trí biết rõ tánh bốn thức không có chỗ ở.

Người thức, hoặc biết địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại. Người trí biết ở tứ đại pháp tánh không có khác.

Người thức, nhãn thức trụ nơi sắc, nhĩ thức trụ nơi thanh, tỷ thức trụ nơi hương, thiệt thức trụ nơi vị, thân thức trụ nơi xúc và ý thức trụ nơi pháp.

Người trí, nội tánh tịch diệt còn ngoại tánh thì vô sở hành, biết rõ các pháp không có ức tưởng.

Người thức, duyên lấy cảnh sở duyên để tư duy phân biệt.

Người trí, tâm không có cảnh sở duyên chẳng lấy tướng mạo, ở trong các pháp không có mong cầu.

Người thức, hành pháp hữu vi.

Người trí, biết pháp vô vi thức không có sở hành, vô vi pháp tánh không có thức tri.

Thức ấy, tướng sanh trụ diệt.

Trí ấy, không có tướng sanh trụ diệt.

Đây gọi là Bồ Tát Y trí chẳng y thức.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát y kinh liễu nghĩa mà chẳng Y kinh chẳng liễu nghĩa?

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, phân biệt tu tập đạo.

Kinh liễu nghĩa ấy, chẳng phân biệt quả.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, chỗ làm hành nghiệp tin có quả báo.

Kinh liễu nghĩa ấy, hết các phiền não.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, quở các phiền não.

Kinh liễu nghĩa ấy, tán thán pháp bạch tịnh.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, nói sanh tử khổ não.

Kinh liễu nghĩa ấy, sanh tử và Niết bàn một tướng không có hai.

Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, khen nói các thứ trang nghiêm văn tự.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói kinh thậm thâm khó thọ trì khó hiểu tỏ.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, phần nhiều vì chúng sanh nói tướng tội tướng phước, khiến người nghe pháp sanh lòng lo sợ hay ưa thích.

Kinh liễu nghĩa ấy, phàm pháp được nói làm cho người nghe tâm họ được điều phục.

Kinh bất liễu nghĩa ấy, hoặc diễn nói ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, các thứ văn từ, các pháp không có thí giả, thọ giả mà vì chúng sanh nói có thí có thọ.

Kinh liễu nghĩa ấy, nói không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, không có tác giả, thọ giả, thường nói vô lượng môn giải thoát.

Đây gọi là Bồ Tát Y kinh liễu nghĩa mà chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Y pháp mà chẳng y nơi người?

Người ấy, nhiếp lấy nhơn, kiến, tác giả, thọ giả.

Pháp ấy, hiểu không có nhơn, kiến, thọ giả, tác giả.

Người ấy, phàm phu, người lành, tín hành nhơn, pháp hành nhơn, bát nhơn, người Tu Đà Hoàn, người Tư Đà Hàm, người A Na Hàm, bực A La Hán, bực Bích Chi Phật, bực Bồ Tát. Một người xuất thế thì làm cho nhiều người lợi ích nhiều người thọ lạc, thương xót chúng sanh phát lòng đại bi, ở trong nhơn thiên có nhiều tư nhuận, đó là đức Phật Thế Tôn. Các điều như vậy gọi là đức Phật y theo thế tục đế vì giáo hoá chúng sanh nên diễn nói pháp như vậy.

Nếu có người nhiếp lấy sự thấy biết như vậy thì gọi là y nhơn.

Đức Như Lai vì giáo hoá người nhiếp nhơn kiến ấy nên nói phải y nơi pháp mà chẳng y nơi nhơn.

Pháp tánh ấy, chẳng biến chẳng đổi, không tác không chẳng tác, không trụ không chẳng trụ, tất cả bình đẳng. Bình đẳng cũng bình đẳng, mà bất bình đẳng ấy cũng bình đẳng. Không có nhơn không có duyên được chánh quyết định, nơi tất cả pháp không có diệt không có dị, tánh tướng vô ngại dường như hư không, đây gọi là pháp tánh.

Nếu người y chỉ pháp tánh ấy thì trọn không hề rơi lìa pháp nhứt tướng. Người nhập môn ấy thấy tất cả pháp đồng nhứt pháp tánh. Vì vậy nên nói Bồ Tát y nơi tất cả pháp mà chẳng y nơi nhơn.

Đây gọi là Bồ Tát Tứ y vô tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập trợ đạo công đức trí huệ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát tu tập công đức vô tận?

Bồ Tát nếu bố thí trì giới tâm chỗ tu tập phát hành từ bi, tự có phạm tội thì phát lộ sám hối cũng thay thế chúng sanh mà phát lộ sám hối, đã làm sám hối rồi kế nên tuỳ hỉ.

Bồ Tát hạnh tuỳ hỉ thế nào?

Tất cả chúng sanh, bực hữu học vô học, bực Bích Chi Phật, Bồ Tát phát tâm người đã tu tập, bực kiên trụ bất thối, bực nhứt sanh bổ xứ, các người như vậy trong tam thế tích tập công đức, nên dùng nhứt tâm tuỳ họ hoan hỷ.

Lại ở nơi tam thế chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu thiện căn đều nhứt tâm tuỳ hỉ.

Bồ Tát tuỳ hỉ nầy cũng sẽ thành tựu tất cả công đức như vậy.

Tuỳ hỉ công đức xong rồi, kế nên khuyến thỉnh mười phương thế giới tất cả chư Phật mới thành đạo Vô thượng Bồ đề ấy chuyển pháp luân. Chư Phật Thế Tôn muốn nhập Niết bàn thì thỉnh ở lâu trong đời.

Lại cũng thỉnh tất cả Bồ Tát thánh nhơn thường vì chúng sanh mà trụ thế thuyết pháp.

Những thiện căn như vậy cùng tưởng như thiện căn, tất cả đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát ấy, nói với người chưa phát tâm thì khuyên họ phát tâm. Với người đã phát tâm thì vì họ mà nói các Ba la mật. Với kẻ bần cùng thì dùng tài vật cứu nhiếp họ. Với kẻ bịnh tật thì cho thuốc và tuỳ thời nghi chăm sóc. Với kẻ không thế lực thì khuyên họ nhẫn nhục. Với kẻ phạm cấm giới thì khuyên họ chớ giấu che. Với kẻ đã che giấu tội thì khuyên họ phát lộ. Nơi chư Phật hiện tại và đã Niết bàn đều cung kính cúng dường. Kính trọng bực Sư trưởng coi như Phật Thế Tôn. Lúc có cầu chánh pháp thì dầu mất mạng cũng chẳng biếng nhác. Nơi pháp bửu ấy tưởng như báu vô giá. Nơi người thuyết pháp tưởng như Phật.Vì nghe pháp dầu xa quá trăm do tuần mà tâm lực mạnh mẽ không có ý tưởng mệt nhọc. Khi diễn giảng chánh pháp không vì lợi dưỡng. Với cha mẹ thì biết ơn báo ơn, cúng dường hầu hạ không hề nhàm hối. Các công đức được làm không hề nhàm đủ. Giữ gìn thân khẩu ý không để có siểm khúc. Công đức xây dựng Phật pháp bằng với phước của Phạm Thiên khuyến thỉnh Phật. Tại sao? Vì đầy đủ các thứ tướng tốt mở cửa đại thí vậy, vì được tuỳ hình hảo tu các thiện căn vậy, vì trang nghiêm thân không có kiêu mạn vậy, vì trang nghiêm khẩu không có lỗi nơi miệng vậy, vì trang nghiêm ý không có trụ nơi pháp vậy, vì trang nghiêm Phật độ thần thông giáo hoá vậy, vì trang nghiêm pháp rời lìa các dục vậy, vì trang nghiêm Tăng vì không có lưỡng thiệt ác khẩu phá hoại người vậy, vì thuyết pháp hoan hỷ xưng tán thiện pháp vậy, vì công nghiệp được làm chẳng luống uổng vậy, vì lìa phú cái nên đến nghe pháp vậy, vì trang nghiêm cội Bồ đề nên đem vườn rừng cúng dâng cho Phật vậy, vì trang nghiêm đạo tràng mà thành tựu tất cả thiện căn vậy. Vì xuất sanh thanh tịnh chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô vậy. Được bửu thủ vì có thể xả bỏ tất cả vật được coi trọng vậy. Được vô tận vì đem vô lượng bửu tàng mà bố thí vậy. Người thấy vui mừng vì thường hoà vui vậy. Thể được pháp tánh vì tâm huệ quang minh chiếu khắp chúng sanh vậy. Trang nghiêm quang minh vì chẳng khinh kẻ chưa học mà khéo dìu dắt họ vậy. Đời đời thường thanh tịnh vì trì giới công đức đều thành tựu vậy. Ở trong thai thanh tịnh vì chẳng thấy tội người vậy. Sanh nhơn thiên vì thanh tịnh hành thập thiện vậy. Huệ sáng độc bộ vì người được giáo hoá chẳng sanh phân biệt vậy. Nơi pháp được tự tại vì pháp được mến trọng không lẫn tiếc vậy. Trong thế gian riêng mình thù thắng vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vi diệu giải thoát vì chẳng cầu ít phần pháp hành vậy. Hành tất cả công đức vì chẳng bỏ Nhứt thiết trí tâm vậy. Thất tài đầy đủ vì lấy tính làm căn bổn vậy. Nhiếp thủ chánh pháp vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Chẳng dối phỉnh thế gian vì đủ bổn nguyện vậy. Đầy đủ tất cả Phật pháp vì các thiện căn mỗi mỗi môn đều đã hành cả vậy.

Đây là lược nói Bồ Tát công đức. Nếu nói rộng ra thì dầu trải qua một kiếp hay hơn một kiếp nói cũng chẳng hết được.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát trí huệ vô tận?

Hoặc mỗi mỗi nhơn nghe trí huệ, hoặc mỗi mỗi duyên được trí huệ.

Thế nào là nhơn? Nội tăng thượng dục.

Thế nào là duyên? Ngoại cần cầu pháp.

Nhơn và duyên như vậy y nơi Phật trí huệ, chẳng phải y nơi trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác.

Bồ Tát ấy thân cận trí giả tâm không có kiêu mạn. Ở nơi người lòng tưởng như Phật. Các trí giả ấy biết người học pháp tâm đã hoà nhu nên vì họ nói trí huệ dạy họ y chỉ, tuỳ theo căn chánh khí mà nói pháp vô nhiễm. Người nghe pháp ở trong ấy siêng tu hành tụ tập trợ pháp tinh tiến, đây là trí huệ.

Thế nào là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến?

Bồ Tát không có mong cầu bỏ tuyệt sự vụ bớt ít nói chuyện. Nơi các thứ sở dục tâm thường biết đủ. Đầu hôm cuối đêm bớt ngủ nghỉ. Những pháp nghĩa được nghe hay khéo tư duy suy lường phân biệt, luôn cầu thiện pháp tâm không ái trược, trừ các ấm cái không bị chướng che, những lỗi lầm đã phạm liền hay trừ diệt, chánh hạnh kiên cố xu hướng ngưỡng mộ, tôn kính pháp hành đủ tinh tiến hành, cầu pháp chẳng trể như cứu đầu cháy, hành vô ngã hành chẳng trì hoãn, chẳng bỏ bổn hành, tâm tăng thượng hành, quở chúng ồn náo, thường thích riêng mình hướng a lan nhã để tư duy hành, thánh chủng tri túc hành, bất động đầu đà hành, ưa thích pháp hành, chẳng tư duy thế gian ngôn ngữ hành, cầu xuất thế gian pháp hành, chẳng mất chánh niệm hành, phát xuất các pháp nghĩa hành, chơn chánh đạo hành, biết duyên tổng trì hành, tàm quí trang nghiêm hành, trí huệ vững chắc hành, trừ lưới vô minh kiết trói buộc mắt huệ thanh tịnh hành, khéo giác liễu hành, rộng giác liễu hành, chẳng giảm diệt giác liễu hành, phân tích giác hành, biết hiện tại hành, chẳng theo công đức người khác hành, chẳng tự thị công đức hành, tán thán các công đức người khác hành, khéo tu các nghiệp hành, nhơn quả bất động hạnh biết thanh tịnh nghiệp hành. Đây gọi là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến.

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn thứ thí đầy đủ trí huệ:

Một là đem giấy viết mực cho Pháp sư để biên chép kinh.

Hai là các thứ trang sức trang nghiêm toà ngồi đẹp dâng cho Pháp sư.

Ba là đem các thứ cần dùng cúng dường dâng cho Pháp sư.

Bốn là tâm không có siểm khúc thường tán thán Pháp sư.

Bồ Tát còn có bốn thứ trì cấm giới đầy đủ trí huệ:

Một là trì giới thường diễn thuyết pháp.

Hai là trì giới thường siêng cầu pháp.

Ba là trì giới chánh phân biệt pháp.

Bốn là trì giới hồi hướng Bồ đề.

Bồ Tát còn có bốn thứ nhẫn nhục đầy đủ trí huệ:

Một là lúc cầu pháp nhẫn kia mắng nhiếc.

Hai là lúc cầu pháp chẳng tránh đói khát lạnh nóng gió mưa.

Ba là lúc cầu pháp tuỳ thuận Hoà thượng A xà lê hành.

Bốn là lúc cầu pháp hay nhẫn không, vô tướng và vô nguyện.

Bồ Tát còn có bốn thứ tinh tiến đầy đủ trí huệ:

Một là siêng năng đa văn.

Hai là siêng năng tổng trì.

Ba là siêng năng lạc thuyết.

Bốn là siêng năng chánh hành.

Bồ Tát còn có bốn thứ thiền định đầy đủ trí huệ:

Một là thường thích ở một mình.

Hai là thường thích nhứt tâm.

Ba là cầu thiền và thông.

Bón là cầu trí vô ngại giải.

Bồ Tát còn có bốn thứ trí huệ đầy đủ trí huệ:

Một là chẳng trụ đoạn kiến.

Hai là chẳng trụ thường kiến.

Ba là tỏ mười hai duyên.

Bốn là nhẫn vô ngã hành.

Bồ Tát còn có bốn pháp ủng hộ đầy đủ trí huệ:

Một là ủng hộ Pháp sư như vua chúa mình.

Hai là ủng hộ các thiện căn.

Ba là giúp hộ thế gian.

Bốn là ủng hộ lợi ích người khác.

Bồ Tát còn có bốn pháp mãn túc đầy đủ trí huệ:

Một là thuyết pháp mãn túc.

Hai là trí huệ mãn túc.

Ba là lợi ích mãn túc.

Bốn là các pháp mãn túc.

Bồ Tát còn có bốn lực đầy đủ trí huệ:

Một là tinh tiến lực vì cầu đa văn được giải thoát vậy.

Hai là niệm lực vì tâm Bồ đề chẳng quên mất vậy.

Ba là định lực vì bình đẳng vô sai biệt vậy.

Bốn là huệ lực vì tu đa văn vậy.

Bồ Tát còn có bốn phương tiện đầy đủ trí huệ:

Một là tuỳ thế gian hành.

Hai là tuỳ chúng sanh hành.

Ba là tuỳ chư pháp hành.

Bốn là tuỳ trí huệ hành.

Bồ Tát còn có bốn đạo đầy đủ trí huệ:

Một là các Ba la mật đạo.

Hai là trợ Bồ đề đạo.

Ba là hành bát thánh đạo.

Bốn là cầu Nhứt thiết trí huệ đạo.

Bồ Tát còn có bốn hành không nhàm đầy đủ trí huệ:

Một là thích đa văn không nhàm đủ.

Hai là thích thuyết pháp không có nhàm đủ.

Ba là hành huệ không nhàm.

Bốn là hành trí không nhàm.

Lại trợ trí huệ ấy, là tuỳ tất cả chúng sanh tâm hành, là tuỳ tất cả pháp hành, là tuỳ bố thí hành, là tuỳ trì giới hành, là tuỳ nhẫn nhục hành, là tuỳ tinh tiến hành, là tuỳ thiền định hành, là tuỳ trí huệ hành, là tuỳ từ bi hỉ xả hành được đầy đủ trí huệ. Tại sao vậy? Như chư Bồ Tát chỗ phát khởi hành đều lấy trí huệ làm căn bổn vậy. Trí huệ hành rồi trở lại y chỉ trí. Bồ Tát ấy an trụ nơi trí y chỉ nơi Nhứt thiết trí nên chúng ma và quyến thuộc ma không thể làm hại được, vì vậy mà có thể được Nhứt thiết trí.

Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ niệm xứ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Bồ Tát Tứ niệm xứ vô tận?

Bồ Tát ấy quán thân tu thân hành, thấy các thân quá khứ, vị lai, hiện tại điên đảo hoà hiệp. Như các vật ngoài những tường vách, ngói đá, cỏ cây theo nhơn duyên mà có chẳng thể trưởng dưỡng không có chỗ hệ thuộc.

Thân nầy theo nhơn duyên sanh chẳng thể trưởng dưỡng không có hệ phược cũng như vậy.

Trong ấm giới nhập ấy, ngã và ngã sở rỗng không, thường và vô thường rỗng không.

Thân ấy không có ngã và ngã sở.

Thân ấy chẳng vững bến chẳng thể dựa nhờ.

Nên cầu thân Bồ đề Chánh giác.

Thế nào là thân Bồ đề Chánh giác?

Đó là pháp thân, là thân kim cương, thân chẳng thể hư hoại, là thân vững chắc, là thân ra khỏi tam giới.

Thân nầy của ta dầu có vô lượng tội lỗi nhưng ta nguyện sẽ trừ diệt thành thân Như Lai.

Bồ Tát ấy sở dĩ kiên nhẫn ở lâu nơi thân tứ đại các kiết khổ hoạn là vì lợi ích chúng sanh vậy.

Như sự vật ngoài, những thứ tứ đại địa thuỷ hoả phong các thứ pháp môn, các thứ sở tác, các thứ hình mạo, các thứ khí vật, các thứ sở dụng đều vì lợi ích tất cả chúng sanh.

Nay thân ta vì lợi ích chúng sanh cũng như vậy.

Đại Bồ Tát thấy sự lợi ích lớn như vậy rồi, quán thân các sự khổ não mà chẳng sanh nhàm lìa, quán thân vô thường mà chẳng nhàm sanh tử, quán thân vô ngã mà chẳng bỏ giáo hoá, quán thân tịch diệt mà chẳng theo nơi xả.

Bồ Tát ấy lúc quán nội thân chẳng sanh phiền não, lúc quán ngoài thân cũng chẳng sanh phiền não.

Bồ Tát ấy rời lìa thân nghiệp đen nhơ mà thành thân nghiệp trắng sạch, có đủ diệu tướng để tự trang nghiêm, ở trong nhơn thiên có nhiều lợi ích.

Đây gọi là Bồ Tát quán thân mà tu thân hành.

Thế nào là Bồ Tát quán thọ tu thọ hành?

Bồ Tát tư duy như vầy:

Các thọ tất cả đều khổ, Bồ Tát khéo phân biệt thọ trí huệ suy lường biết thọ tịch diệt.

Lúc thọ lạc chẳng tham sở dục, lúc thọ khổ quán ba ác đạo khởi lòng đại bi chẳng sanh giận hờn, lúc thọ bất khổ bất lạc chẳng khởi ngu si.

Bồ Tát chánh niệm thọ xứ, như chỗ được thọ hoặc vui hoặc khổ hay chẳng vui chẳng khổ, nơi các thọ như vậy biết xuất phát biết tu tập.

Bồ Tát quán chúng sanh thọ tịch diệt trang nghiêm, các chúng sanh ấy ở trong các thọ chẳng biết xuất tu, nên lúc họ thọ lạc sanh lòng tham trước, lúc thọ khổ sanh lòng giận hờn, lúc thọ chẳng vui chẳng khổ sanh lòng ngu si. Nay ta cần phải tiến tu trí huệ trừ tất cả thọ phát các thiện căn, khởi tâm đại bi nhiếp lấy trí huệ, cũng vì chúng sanh trừ dứt các thọ mà vì họ thuyết pháp. Kẻ chưa biết thọ thì thọ khổ, người hiểu được thọ thì thọ vui.

Thế nào là hiểu thọ?

Đó là không có thọ giả, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu.

Diệt trừ kẻ nhiếp thủ thọ, kẻ nhiếp, kẻ thọ lấy, kẻ thọ thọ, kẻ thọ có, kẻ thọ điên đảo, kẻ thọ phân biệt, kẻ thọ các kiến chấp, kẻ thọ tướng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, kẻ thọ tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thọ nhãn duyên sắc sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ nhĩ duyên thanh sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ tỷ duyên hương sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thiệt duyên vị sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thân duyên xúc sanh giác xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ ý duyên pháp sanh xúc thọ khổ thọ lạc bất khổ bất lạc. Đây gọi là thọ.

Còn có một thọ, đó là giác liễu tứ đại.

Còn có hai thọ, đó là nội thọ, ngoại thọ.

Còn có ba thọ, đó là quá khứ, vị lai và hiện tại thọ.

Còn có bốn thọ, đó là giác liễu tứ đại.

Còn có năm thọ, đó là tư duy ngũ ấm.

Còn có sáu thọ, đó là phân biệt lục nhập.

Còn có bảy thọ, đó là thất thức trụ xứ.

Còn có tám thọ, đó là tám tà pháp vậy.

Còn có chín thọ, đó là chín xứ địa của chúng sanh.

Còn có mười thọ, đó là mười bất thiện pháp.

Tóm lại nói thì vô lượng chúng sanh có những tư duy thọ cảnh giới sở duyên tất cả đều gọi là thọ.

Ở trong đó, Bồ Tát tu thọ quán hạnh khởi đại trí huệ, biết các chúng sanh thiện hay bất thiện tướng sanh trụ diệt của họ. Đây gọi là Bồ Tát chánh thọ niệm xứ mà chẳng thể cùng tận.

Thế nào là Bồ Tát quán tâm niệm xứ?

Tâm Bồ đề chẳng quên chẳng mất, chánh niệm chẳng loạn quán tâm như vậy. Tâm sanh rồi diệt không có tướng trụ. Tâm ấy chẳng trụ ở trong cũng chẳng từ ngoài đến.

Lúc ta ban sơ phát tâm Bồ đề ấy, tâm ấy đã tận quá khứ biến khác, nó chẳng đến chỗ nào, không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói. Nếu tâm có tập họp các thiện căn, nó cũng là quá khứ tận diệt biến khác, nó chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Nếu tâm thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng là pháp diệt tận biến khác chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng sanh tâm, ta dùng tâm nào thành Vô thượng Bồ đề. Tâm Bồ đề ấy chẳng cùng tâm thiện căn hiệp. Tâm thiện căn ấy chẳng cùng tâm hồi hướng hiệp. Tâm hồi hướng chẳng cùng tâm Bồ đề hiệp.

Nếu lúc quán tâm như vậy mà Bồ Tát chẳng kinh chẳng bố, đây gọi là Bồ Tát cần tinh tiến vậy.

Bồ Tát lại tư duy quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên chẳng mất nhơn quả. Biết tâm tánh ây thuộc các nhơn duyên, chẳng thể trưởng dưỡng không có tác không hệ thuộc, như tâm tất cả các pháp cũng như vậy, như pháp tu hành như chỗ được trang nghiêm. Nay ta phải chuyên cần tu tập trang nghiêm chẳng lià tâm tánh.

Thế nào là tâm tánh và thế nào là trang nghiêm?

Tâm tánh ấy dường như ảo hoá không có chủ không có tác, không có thi thiết. Trang nghiêm ấy, chỗ làm bố thí đều đem hồi hướng trang nghiêm thanh tịnh Phật độ.

Tâm tánh ấy dường như cảnh được thấy trong mộng, tâm tướng tịch diệt. Trang nghiêm ấy, thanh tịnh trì giới tu tập các thần thông.

Tâm tánh ấy như tượng trong gương, tướng nó thanh tịnh. Trang nghiêm ấy, nhẫn nhục được tu đều hồi hướng Vô sanh pháp nhẫn.

Tâm tánh ấy như dương diệm cứu cánh tịch diệt. Trang nghiêm ấy nơi các thiện pháp thâm phát tinh tiến hồi hướng đầy đủ vô thượng Phật pháp.

Tâm tánh ấy không có sắc, không có đối, không có chỗ tạo tác. Trang nghiêm ấy tất cả chỗ tu thiền định giải thoát tam muội hồi hướng đầy đủ Phật thiền định.

Tâm tánh ấy chẳng thể thấy được cũng chẳng thể lấy được. Trang nghiêm ấy nơi tất cả chỗ gạn hỏi đều khéo phân biệt hồi hướng đầy đủ Phật trí huệ.

Tâm tánh ấy không có duyên thì chẳng sanh. Trang nghiêm ây thường quán thiện căn.

Tâm tánh ấy không có nhơn thì chẳng sanh. Trang nghiêm ấy nhơn trợ Bồ đề mà phát khởi tâm.

Tâm tánh ấy bỏ lìa lục trần thì không chỗ khởi. Trang nghiêm ấy nhập Phật cảnh giới.

Bồ Tát quán tâm hành ây như vậy nhiếp niệm thần thông. Được thần thông rồi có thể biết tất cả chúng sanh các tâm. Đã biết tâm họ rồi tuỳ theo tâm lượng ấy mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát lại quán tâm hành nhiếp niệm đại bi giáo hoá chúng sanh không có nhàm mỏi.

Bồ Tát lại quán tâm hành chẳng khởi tướng tận diệt biến khác, chẳng bỏ sanh tử tương tục phiền não. Chánh niệm tâm ấy biết không có sanh khởi thành chánh quyết định.

Hành giả như vậy chẳng sa vào Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa, tột thế lực tâm ấy dùng nhứt niệm trí thành Vô thượng Bồ đề.

Đây gọi là Bồ Tát chánh tâm niệm xứ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát quán pháp niệm xứ?

Bồ Tát thường dùng huệ nhãn thấy tất cả pháp đến lúc ngồi đạo tràng không có giữa chừng mất.

Đương lúc quán pháp như vậy, Bồ Tát ấy chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế lìa không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô vật, cũng chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế chẳng nhập vào thập nhị duyên.

Bồ Tát quán pháp thấy các phi pháp không gì chẳng phải là pháp.

Thế nào là pháp? Đó là nghĩa vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ mạng, đây gọi là pháp.

Thế nào là phi pháp? Đó là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, đây gọi là phi pháp.

Còn nữa, tất cả là pháp, tất cả là phi pháp. Tại sao vậy?

Quán không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là tất cả pháp là pháp.

Ngã mạn, kiêu mạn ngã và ngã sở nhiếp lấy các kiến, đây gọi là tất cả pháp là phi pháp.

Lúc quán pháp, Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp chẳng phải là nhơn Bồ đề nhơn xuất thế đạo. Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều là xuất thế được vô ngại đại bi.

Bồ Tát ấy quán tất cả pháp phiền não kiết phược như tướng ảo hoá. Biết các pháp ấy chẳng phải có phiền não chẳng phải không phiền não. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát ấy tỏ biết các pháp nghĩa không có hai tánh, các phiền não ấy không có chỗ ẩn tàng không có tụ tập. Nếu hiểu phiền não thì hiểu Bồ đề. Như phiền não tánh tức Bồ đề tánh. Bồ Tát ấy an trụ chánh niệm không có một pháp có thể đem phân biệt được, không có các chướng ngại khéo hay hiểu rõ chánh trụ pháp tánh. Như trụ pháp tánh tức trụ chúng sanh tánh. Như trụ chúng sanh tánh tức trụ hư không tánh. Như trụ hư không tánh tức trụ Nhứt thiết pháp tánh.

Lúc quán pháp, Bồ Tát y cứ Phật pháp hiểu tất cả pháp tức là Phật pháp, tâm Bồ Tát lúc ấy chẳng sanh tận trí vô vi. Dầu tận mà cũng chẳng tận, nhập vào vô sanh trí, cũng quán chúng sanh chẳng bỏ giả danh.

Pháp niệm xứ ấy, an trụ chánh niệm tất cả các pháp, đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chánh giác chỗ biết tất cả giả danh các pháp tận vị lai tế trọn không quên mất.

Pháp niệm xứ ấy, nói vô lượng hành thân cận Phật pháp hoại các ma chúng được tự nhiên trí.

Đây gọi là Bồ Tát chánh pháp niệm xứ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ chánh cần cũng chẳng thể tận. Những gì là bốn?

Nếu là pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn trừ nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp thiện đã sanh vì an trụ tu tập để tăng thêm rộng lớn chẳng mất nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Pháp ác bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến.

Nói dục ấy, là thiện tư duy vậy.

Nói siêng tinh tiến ấy, là chẳng bỏ thiện tư duy vậy.

Nói nhiếp tâm chánh trừ ấy, là quán thiện tư duy vậy.

Tại sao vậy?

Vì lúc thiện tư duy chẳng cho pháp ác bất thiện nhập vào tâm.

Thế nào là pháp ác bất thiện?

Pháp ác bất thiện chẳng phải bè bạn của giới tụ, chẳng phải bè bạn của thiền định, chẳng phải bè bạn của trí huệ.

Thế nào là chẳng phải bạn của giới tụ?

Hoặc phá trọng giới và các giới khác. Đây gọi là chẳng phải bạn của giới tụ.

Thế nào là chẳng phải bạn của thiền định?

Hoặc phá oai nghi và các pháp loạn tâm. Đây là chẳng phải bạn của định tụ.

Thế nào là chẳng phải bạn của huệ tụ?

Hoặc nhiếp lấy các kiến và các kiến chướng ngại khác. Đây là chẳng phải bạn của huệ tụ.

Đây gọi là những pháp ác bất thiện.

Lúc thiện tư duy, các pháp ác bất thiện ấy chẳng cho nhập vào tâm. Đây gọi là Chánh cần thứ nhứt.

Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn dứt nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Như trên đã nói, pháp ác bất thiện tâm chẳng tụ họp không có nơi chỗ không có trụ xứ, pháp ác bất thiện ấy vì tâm hành đoạn dứt vậy, vì tịnh mà sanh dục, vì ngại chướng mà sanh sân, vì vô minh duyên mà sanh ngu si. Thiện tư duy ấy lúc quán bất tịnh diệt tham dục, lúc tu tập từ tâm diệt sân hận, quán thập nhị duyên diệt ngu si. Các phiền não như vậy tịch diệt tức là đoạn trừ tất cả giả danh, lại cũng chẳng thấy có gì để đoạn. Đây gọi là đệ nhị Chánh cần.

Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.

Các thiện pháp ấy có đến vô lượng. Tại sao?

Vô lượng thiện pháp được Bồ Tát tu tập, trong các thiện pháp ấy thì dục là căn bổn.

Siêng tinh tiến tu tập nhiếp tâm ấy là vượt quá thiện pháp.

Chánh trừ ấy là tại tại xứ xứ thường ở tại thiện pháp. Đây gọi là đệ tam Chánh cần.

Pháp thiện đã sanh an trụ tu tập để tăng quảng chẳng mất nên nhiếp tâm chánh trừ.

Các thiện căn ấy đều đã hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì chẳng thể cùng tận. Tại sao? Vì các thiện căn như vậy chẳng y chỉ tam giới. Nếu y chỉ tam giới thì có tổn hao. Vì thế nên nói hồi hướng Nhứt thiết chủng trí thì các thiện căn như vậy chẳng thể tận. Đây gọi là đệ tứ Chánh cần.

Đây gọi là Bồ Tát tu Tứ chánh cần mà chẳng thể tận vậy.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ như ý phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là bốn? Đó là dục, tiến, tâm và tư duy.

Bốn pháp như vậy lấy từ bi hỉ xả làm căn bổn.

Bốn tâm vô lượng ấy thường thân cận. Vì thường thân cận nên tâm điều nhu. Vì tâm điều nhu nên được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.

Vì nhập các thiền ấy nên thân được nhẹ nhàng. Thành tựu thân nhẹ tâm nhu như vậy nên nhập như ý phần. Khéo nhập như ý phần rồi liền sanh thần thông.

Hoặc dục, hoặc tiến, hoặc tâm, hoặc tư duy.

Dục ấy là chuyên hướng pháp kia, tiến ấy là thành tựu pháp kia, tâm ấy là quán sát pháp kia, tư duy ấy là phương tiện của pháp kia.

Như ý phần ấy đã được đầy đủ rồi thì có thể được thần thông. Dục ấy là trang nghiêm, tiến ấy là thành tựu, tâm ấy là chánh trụ, tư duy ấy là hay khéo phân biệt.

Bồ Tát ấy được như ý phần theo chỗ hiểu, như chỗ làm, tâm được tự tại, tuỳ ý qua xứ nào khéo làm sự việc rốt ráo thành tựu tất cả bổn hành, như gió thổi hư không chẳng có chướng ngại.

Đây gọi là Bồ Tát Tứ như ý phần chẳng thể cùng tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ căn cũng chẳng thể tận. Những gì là năm?

Tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và huệ căn.

Thế nào là Tín căn?

Tin nơi bốn pháp:

Một là ở trong sanh tử hành thế tục chánh kiến tin nơi nghiệp báo, nhẫn đến mất mạng trọn chẳng làm điều ác.

Hai là tin Bồ Tát hành chẳng theo các kiến, chuyên cầu Vô thượng Bồ đề chẳng cầu thừa khác.

Ba là tin hiểu các pháp đồng với pháp không, vô tướng, vô nguyện, đồng đệ nhứt nghĩa đế, đồng với liễu nghĩa thậm thâm nhơn duyên không có ngã, không có chúng sanh không có phân biệt.

Bốn là tin tất cả chư Phật, Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, tin như vậy rồi tiêu trừ lưới nghi tu tập Phật pháp.

Đây gọi là Bồ Tát Tín căn.

Thế nào là Tiến căn?

Nếu pháp đã nhiếp về tín căn thì pháp ấy được tu của tiến căn. Đây gọi là Bồ Tát Tiến căn.

Thế nào là Niệm căn?

Nếu pháp được tu của tiến căn thì pháp ấy trọn chẳng quên mất. Đây gọi là Bồ Tát Niệm căn.

Thế nào là Định căn?

Nếu pháp đã nhiếp về niệm căn, pháp ấy chẳng quên chẳng mất nhứt tâm bất loạn. Đây gọi là Bồ Tát Định căn.

Thế nào là Huệ căn?

Nếu pháp được nhiếp về định căn, pháp ấy là sở quán của huệ, là thể tánh của huệ, nội tự chiếu tỏ chẳng từ người mà biết, tự trụ chánh hạnh. Đây gọi là Bồ Tát Huệ căn.

Năm căn ấy đồng nối nhau sanh đủ tất cả pháp được thọ ký biệt.

Ví như ngoại đạo ngũ thông thần tiên chẳng thể quyết định biết tướng sai biệt trong bào thai. Khi tướng nam nữ hiển hiện rồi họ mới biết được.

Có nhiều Bồ Tát không có các căn tín tiến v.v…chư Phật Thế Tôn chẳng thọ ký cho họ.

Nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ ngũ căn Phật mới thọ ký.

Đây gọi là Bồ Tát Ngũ căn vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ lực cũng chẳng thể tận.

Những gì là năm?

Tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực và huệ lực.

Thế nào là Tín lực?

Tín ấy trọn không hề bị trở hoại, nhẫn đến thiên ma biến làm thân Phật thị hiện xuất nhập thiền định giải thoát chẳng thể khuynh động được tín lực của Bồ Tát. Đây gọi là Bồ Tát Tín lực.

Thế nào là Tiến lực?

Bồ Tát tinh tiến ở nơi các thiện pháp được sức kiên cố, như lực đã được tu các thiền định, tất cả chư Thiên thế nhơn chẳng trở hoại được, như bổn sở nguyện đều được thành tựu. Đây gọi là Bồ Tát Tiến lực.

Thế nào là Niệm lực?

Bồ Tát an trụ các thiện pháp chẳng bị phiền não phá hoại. Tại sao? Vì sức chánh niệm của Bồ Tát hay xô dẹp phiền não. Niệm lực như vậy không gì phá hoại được. Đây gọi là Bồ Tát Niệm lực.

Thế nào là Định lực?

Bồ Tát xa lìa ồn náo thường thích độc hành. Bồ Tát ấy dầu có chỗ nói mà ngôn ngữ âm thanh chẳng ngại Sơ thiền, khéo trụ giác quán chẳng ngại Nhị thiền, lòng sanh hoan hỷ chẳng ngại Tam thiền. Bồ Tát ấy dầu thích giáo hoá chúng sanh, chẳng bỏ Phật pháp mà cũng chẳng ngại đệ Tứ thiền. Lúc Bồ Tát ấy hành Tứ thiền, các pháp ngại chướng định không làm gì được. Lúc ấy Bồ Tát chẳng xả định cũng chẳng theo định, mà có thể tự tại thọ sanh các nơi. Đây gọi là Bồ Tát Định lực.

Thế nào là Huệ lực?

Bồ Tát ấy biết pháp thế gian biết pháp xuất thế gian không có một pháp nào có thể phá hoại được trí ấy. Bồ Tát thọ sanh xứ nào, tất cả kỹ nghệ không theo thầy học mà đều tự nhiên biết. Thế gian ngoại đạo các khổ hạnh khó làm, vì giáo hoá họ, Bồ Tát ấy cũng thị hiện đồng hành với họ. Pháp xuất thế ấy hay vượt quá pháp thế gian do vì huệ lực thành tựu vậy, hàng chư Thiên và thế nhơn chẳng bằng được. Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực.

Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Thất giác phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là bảy?

Niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tiến giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xả giác phần.

Thế nào là Niệm giác phần?

Nếu niệm giác phần có thể quán nơi pháp có thể phân biệt pháp soạn họp tư duy trí huệ, cũng hay quán sát tự tướng các pháp.

Những gì là tự tướng?

Quán tất cả pháp tự tánh đều không, niệm như vậy khiến đều hiểu tỏ. Đây gọi là Bồ Tát Niệm giác phần.

Thế nào là trạch pháp giác phần?

Nếu có thể phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ, như các pháp được hiểu rõ, liễu nghĩa là liễu nghĩa, bất liễu nghĩa là bất liễu nghĩa, thế đế là thế đế, đệ nhứt nghĩa đế là đệ nhứt nghĩa đế, giả danh là giả danh, rõ đúng không nghi là rõ đúng không nghi. Các pháp như vậy phân biệt tuyển trạch. Đây gọi là Bồ Tát Trạch pháp giác phần.

Thế nào là Tiến giác phần?

Như niệm pháp, trạch pháp, hỉ pháp, trừ pháp, định pháp, xả pháp, dùng trí nhiếp lấy tinh tiến dũng mãnh dục chẳng thối chuyển siêng tu gắng sức chẳng bỏ bổn ý hành chánh đạo. Đâygọi là Bồ Tát Tiến giác phần.

Thế nào la Hỉ giác phần?

Pháp hỉ được tu, Bồ Tát ở nơi vô lượng pháp lòng sanh hỉ duyệt không có giải đãi thanh tịnh thích pháp, hỉ dũng dước ấy có thể trừ thân tâm bỏ các phiền não. Đây là Bồ Tát Hỉ giác phần.

Thế nào là Trừ giác phần?

Nếu trừ thân tâm và các phiền não, lìa các phú cái nhập vào cảnh giới định khiến tâm chánh trụ. Đây gọi là Bồ Tát Trừ giác phần.

Thế nào là Định giác phần?

Như định được nhập đều có thể biết rõ, chẳng phải chẳng nhập định là biết rõ pháp, lại rõ các kiến phiền não kiết phược vô thuỷ vô chung tâm thường bình đẳng tất cả các pháp không có tướng biệt dị, có thể biết các pháp bình đẳng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Định giác phần.

Thế nào là Xả giác phần?

Nếu pháp ưu hay hỉ, Bồ Tát tâm chẳng chìm, cũng chẳng bị pháp thế gian kéo níu, không có cao không có hạ chánh trụ bất động, không có các lậu không mừng không tham trước, không có các chướng ngại chánh trực tuỳ thuận chơn đế chánh đạo. Đây là Bồ Tát Xả giác phần.

Đây gọi là Bồ Tát Thất giác phần mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Bát thánh đạo phần cũng chẳng thể tận.

Những gì là tám?

Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.

Thế nào là chánh kiến?

Nếu thấy xuất thế chẳng khởi ngã kiến, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cũng lại chẳng khởi thiện cùng bất thiện vô ký các kiến chấp, nhẫn đến chẳng khởi sanh tử Niết bàn hai tướng kiến ấy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh kiến.

Thế nào là Chánh tư duy?

Nếu tư duy mà hay phát khởi tham dục, sân hận, ngu si các phiền não thì chẳng gọi là chánh. Chánh tư duy ấy chẳng tư chẳng khởi các sự như vậy, chỉ tư giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chánh tư duy ấy có thể suy nghĩ an trụ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy. Tư duy như vậy gọi là Chánh tư duy.

Thế nào là Chánh ngữ?

Phàm có diễn nói chẳng làm cho mình có khổ não, cũng chẳng tổn người, thành tựu lời nói tốt lành vi diệu như vậy thẳng đến chánh đạo. Đây gọi là Chánh ngữ.

Thế nào là Chánh nghiệp?

Nếu là hắc nghiệp thì có hắc báo, là bạch nghiệp thì có bạch báo, là hắc bạch nghiệp thì có hắc bạch báo, là phi hắc bạch nghiệp thì có phi hắc bachj báo, Bồ Tát trọn chẳng dám làm.

Nếu là nghiệp có thể tận nghiệp thì Bồ Tát ắt làm.

Nghiệp được Bồ Tát ấy y chỉ, siêng tu các chánh nghiệp như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh nghiệp.

Thế nào là Chánh mạng?

Nếu chẳng bỏ Thánh chủng đầu đà oai nghi, chẳng động chẳng chuyển không có các gian siểm, chẳng bị lợi dưỡng thế gian kéo dắt, dễ nuôi dễ đủ thường tự kiên trì oai nghi lễ tiết. Thấy người được lợi tâm chẳng sanh não. Nơi lợi dưỡng của mình thường biết thôi đủ. Chánh hạnh như vậy được Thánh nhơn khen. Đây gọi là Bồ Tát Chánh mạng.

Thế nào là Chánh tiến?

Nếu tiến đến tà thì chẳng phải chỗ được Thánh khen, đó là tham dâm sân hận ngu si các phiền não. Chẳng chánh tinh tiến ấy Bồ Tát trọn chẳng làm.

Nếu là pháp có thể nhập vào chánh đế thánh đạo tịch diệt Niết bàn phan duyên chánh lộ. Chánh tinh tiến ấy Bồ Tát tu tập siêng làm. Đây gọi là Bồ Tát Chánh tinh tiến.

Thế nào là Chánh niệm?

Nếu là niệm chẳng mất chẳng động nơi pháp, chánh trực chẳng cong vạy, thấy lỗi sanh tử tiến tới Niết bàn, cột tâm chẳng quên chẳng mất chánh đạo. Đây gọi là Bồ Tát Chánh niệm.

Thế nào là Chánh định?

Nếu là định chẳng loạn nơi tất cả pháp, lúc Bồ Tát ấy trụ như vậy thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.

Bồ Tát trụ tam muội ấy vì tất cả chúng sanh mà được giải thoát thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.

Bát Thánh đạo nầy đều là đạo của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ Tát ấy hiểu rõ rồi diễn nói khai thị phân biệt hiển hiện thành tựu Phật đạo.

Đây gọi là Bồ Tát Thánh đạo phần chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành định huệ cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Định?

Nếu tâm tịch tĩnh chánh tịch tĩnh tịch diệt chẳng não, tâm thường chẳng loạn thủ hộ các căn, chẳng động chẳng chuyển không có sốt bạo an tường tịch mặc kiên trì chẳng mất, khéo điều nhu nhuyến ở riêng nhàn tĩnh, thân thì xa lìa, tâm chẳng hồi chuyển. Suy nghĩ ưa thích chỗ a lan nhã vắng vẻ, không có ác cầu, cũng không có chỗ mong cầu, chẳng có cầu nhiều, chánh hạnh chánh mạng oai nghi kiên cố, biết phải lúc, tuỳ theo phải lúc, thường biết thôi đủ. Dễ nuôi dễ đủ vì có sức kham nhẫn vậy. Tâm không có cao không có hạ có thể nhẫn được lời mắng nhiếc. Phát tâm chuyên hướng thiện pháp tư duy, thích tư duy niệm xứ và các thiền chi, phát khởi từ tâm nhập vào bi tâm, an trụ hỉ tâm khéo tu xả tâm, chánh nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thìên, không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, khéo có thể tư duy cửu thứ đệ định. Đây gọi là Định. Tóm lại, Bồ Tát trợ định vô lượng vô biên siêng năng tu tập. Đây gọi là Bồ Tát định chẳng thể tận.

Thế nào là Huệ?

Huệ ấy tu tập trợ đạo nhập vào các pháp vô ngã, vô nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Huệ như vậy phân biệt các ấm hư ảo như hoá, phân biệt các giới bình đẳng và các nhập hư không tụ, phân biệt các đế thảy đều sáng tỏ, tuỳ thuận quán biết mười hai nhơn duyên, phân biệt các kiến nhơn quả quả chứng.

Nói là phân biệt ấy, nơi tất cả pháp có thể được chánh kiến. Như thiệt mà thấy chơn kiến, không kiến, vô tướng kiến, vô nguyện kiến. Lại phân biệt ấy là vì vô phân biệt nên phân biệt.

Nói là kiến ấy cũng không chỗ thấy không chỗ biết khác. Kiến như vậy là chơn thiệt kiến. Thấy chơn thiệt ấy tức được phương tiện.

Bồ Tát ấy huệ như vậy thấy chẳng theo vô vi, tu hành các thiện pháp tâm không chỗ trụ trước, đây gọi là huệ.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành định huệ mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Tổng trì?

Những thiện căn được tu tập, Bồ Tát chánh niệm tích tập. Bao nhiêu tám vạn bốn ngàn pháp tụ đã có Bồ Tát có thể chánh thọ trì chẳng quên chẳng mất. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Lại Bồ Tát tổng trì ấy, hoặc là tất cả chư Phật chỗ nói diệu pháp, hoặc là tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, chư Thiên, thế nhơn, chúng sanh phàm phu có bao nhiêu âm thanh lời lành, đều có thể thọ trì cả. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Dầu lúc kiếp tai khởi phải bỏ mạng thọ sanh xứ khác, Bồ Tát ấy vẫn chánh niệm tổng trì chẳng quên chẳng mất. Như nhìn thấy quả a ma lặc trong lòng bàn tay, Bồ Tát ấy xem thấy tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.

Thế nào là Biện tài?

Bồ Tát nói pháp không có trệ ngại, nói pháp vô trụ, nói pháp không dứt, nói pháp thông lẹ, nói pháp vui hoà, nói pháp nhanh chóng. Bồ Tát nói pháp như vậy là quả báo thanh tịnh do nghiệp lành đời trước, được chư Phật hộ niệm, chư Thiên nhiếp thọ, nói pháp không sai lầm, chẳng luống công, tiến đến Niết bàn.

Bồ Tát thành tựu biện tài như vậy, có bao nhiêu sắc tượng và các loài chúng sanh, Bồ Tát biện tài ứng cơ chẳng dự tư duy chẳng dự phân biệt trước, Bồ Tát giỏi có thể nói tán kệ tụng trong khế kinh.

Bồ Tát nếu đến trong đại chúng Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, đại chúng Sa Môn, đại chúng Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên, ma chúng, nơi nơi chỗ chỗ tự nhiên có thể biết rõ tất cả chúng sanh căn lượng, Bồ Tát dùng vô ngại biện mà vì họ thuyết pháp.

Bồ Tát ấy như bổn hỷ lạc giảng tuyên pháp yếu trọn đời chẳng dứt. Đây gọi là Bồ Tát biện tài.

Đây gọi là Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát soạn tập bốn pháp cũng chẳng thể tận.

Những gì là bốn?

Một là Bồ Tát ấy biết tất cả hành vô thường. Hai là biết tất cả hành khổ. Ba là biết tất cả pháp vô ngã và bốn là biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn.

Thế nào là Vô thường nghĩa?

Vô sở hữu là vô thường nghĩa. Vô sở phá hoại là vô thường nghĩa. Nghĩa vô thường ấy tức là nghĩa vô ngã, nếu pháp vô ngã thì không gì phá hoại được vì là tịch diệt vậy. Đây gọi là vô thường nghĩa.

Thế nào là Khổ nghĩa?

Vì vô sở cầu nên là khổ nghĩa. Vì ái nhiễm hết nên là khổ nghĩa. Vì vô sở nguyện nên là khổ nghĩa. Vì không rỗng không có sở hữu nên là khổ nghĩa. Đây gọi là khổ nghĩa.

Thế nào là Vô ngã nghĩa?

Cứu cánh vô ngã là vô ngã nghĩa. Như vô ngã nghĩa tức là không rỗng nghĩa, là vô sở hữu nghĩa, là hư cuống chẳng thiệt nghĩa. Đây gọi là vô ngã nghĩa.

Thế nào là Tịch diệt Niết bàn nghĩa?

Tịch diệt nghĩa ấy chẳng phải là niệm niệm diệt. Như chẳng phải niệm niệm diệt tức là tịch diệt. Bồ Tát được trí huệ vô tận ấy biết tất cả pháp tướng đồng với tịch diệt. Tịch diệt ấy tức là Niết bàn nghĩa.

Đây gọi là Bồ Tát soạn tập bốn pháp mà chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nhứt đạo cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Nhứt đạo?

Bồ Tát chỗ được chơn thiệt trí huệ chẳng từ người khác nghe.

Lại nhứt đạo ấy, Bồ Tát độc nhứt không có bạn lữ, đã ở nơi Vô thượng Bồ đề có thể đại trang nghiêm dùng thế lực tinh tiến của mình nhiếp lấy, cứu cánh tự tu tập chẳng nhờ người làm. Bồ Tát tự dùng sức nhơn duyên dũng mãnh kiến lập trang nghiêm kiên cố như vậy. Như các chúng sanh tạo tác bao nhiêu thiện nghiệp, ta cũng sẽ có thể làm nên tất cả như vậy. Và các Thánh Nhơn từ lúc sơ phát tâm đến sau làm bao nhiêu công hạnh ta cũng sẽ làm.

Bố thí chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của bố thí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí huệ chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của chúng.

Các Ba la mật chẳng thể sai sử ta mà ta có thể sai sử chúng, nhẫn đến các thiện căn cũng đều như vậy. Các pháp như vậy dầu chẳng phải bạn của ta mà ta cần phải làm. Chẳng cậy dựa nơi kia, Bồ Tát tự lực dũng mãnh riêng làm không có bạn, ngồi toà kim cương nơi đạo tràng phá các ma chúng, dùng một niệm huệ thành Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát phải tỏ rõ phân biệt như vậy.

Đây gọi là Bồ Tát Nhứt đạo vô tận.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát sở tu phương tiện cũng chẳng thể tận.

Thế nào là Phương tiện?

Thấy tất cả pháp là phương tiện. Phát khởi các pháp là phương tiện. Làm Bồ Tát sứ là phương tiện. Cứu cánh phân biệt là phương tiện. Không có hạn lượng là phương tiện. Chí ý thường cầu pháp xuất thế là phương tiện. Lúc bố thí liền có đầy đủ các Ba la mật là phương tiện. Lúc trì giới nơi nơi xứ xứ tự tại vãng sanh là phương tiện. Lúc nhẫn nhục trang nghiêm tự thân và Bồ đề đạo là phương tiện. Lúc hai tinh tiến tâm không có sở trụ là phương tiện. Lúc tu thiền định không có thối thất là phương tiện. Lúc tu trí huệ chẳng chứng vô vi là phương tiện. Lúc tu tâm từ thương kẻ không có thế lực là phương tiện. Lúc tu tâm bi chẳng nhàm sanh tử là phương tiện. Lúc tu tâm hỉ chẳng thích ở chỗ vui là phương tiện. Lúc tu tâm xả phát tâm tu tập tất cả thiện căn là phương tiện. Lúc tu thiên nhãn là muốn thành tựu chư Phật nhãn là phương tiện. Lúc tu thiên nhĩ là vì muốn thành tựu chư Phật nhĩ là phương tiện. Lúc tu tha tâm trí là vì muốn được chư Phật trí biết tất cả chúng sanh căn lượng cạn sâu là phương tiện. Lúc tu túc mạng trí là vì được Phật trí biết tam thế vô ngại là phương tiện. Lúc tu tập thần thông là vì muốn được chư Phật thần thông lực là phương tiện. Tuỳ chúng sanh tâm là phương tiện. Đã tự hiểu rõ lại hiểu rõ chúng sanh là phương tiện. Đã tự độ rồi thị hiện chưa độ mà gắng sức siêng tu cầu được độ thế là phương tiện. Đã lìa phiền não mà thị hiện phiền não là phương tiện. Đã xả bỏ gánh nặng mà thị hiện có gánh nặng là phương tiện. Hay biết căn lượng chúng sanh tuỳ căn lượng thuyết pháp là phương tiện. Khéo có thể dạy bảo tiến tu hàng độn căn chúng sanh là phương tiện. Biết thời biết phi thời là phương tiện. Biết chúng sanh có thể hành đạo mà sa vào tà kiến có thể đặt ở chánh đạo là phương tiện. Có thể khiến lượng làm vô lượng khiến vô lượng làm lượng là phương tiện. Khiến tổn hoại hoàn phục như cũ là phương tiện. Thị hiện thắng kẻ kia là phương tiện. Thị hiện nói Niết bàn có ngũ dục lạc là phương tiện. Đã được giải thoát thị hiện có hệ phược là phương tiện. Ở nơi sanh tử mà chẳng đoạ sanh tử là phương tiện. Nơi các oai nghi không chỗ chuyên đúng cũng chẳng thối thất là phương tiện. Chỉ quán chúng sanh chẳng thấy trì giới hay phá giới là phương tiện. Nhiếp các kiến duyên chẳng sanh tranh cạnh là phương tiện. Rõ âm thanh ấy giả danh không thiệt là phương tiện. Thường đi trong tam giới là phương tiện. Được giải thoát tướng hành là phương tiện. Thân cận phàm phu như thân cận Thánh nhơn là phương tiện. Chẳng chứng Niết bàn thường ở sanh tử là phương tiện. Nơi mà hành xứ hiển hiện đại quang minh không có phiền não là phương tiện. Tất cả thị tất cả phi là phương tiện.

Đây gọi là Bồ Tát tu hành phương tiện cũng chẳng thể tận.

Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát tám mươi vô tận. Tám mươi vô tận ấy đều có thể chứa đựng tất cả Phật pháp”.

Lúc Vô Tận Ý đại Bồ Tát nói pháp môn phẩm ấy, có sáu mươi bảy trăm ngàn chúng sanh, người chưa phát tâm, đều liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Năm trăm hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.

Bấy giờ đại chúng dâng các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ lọng hoa cúng dường Như Lai và Vô Tận Ý đại Bồ Tát cùng kinh điển ấy.

Trên hư không có vô lượng thiên nhạc tự nhiên phát thanh nói rằng: “Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp tập họp Vô thượng Bồ đề, nay trong hội Đại Tập nầy Vô Tận Ý Bồ Tát đã nói nghĩa ấy. Nếu có ai nghe pháp môn vô tận ấy mà tin hiểu thọ trì đọc tụng giải thuyết, nên biết người ấy là đầy đủ pháp vô tận ấy vậy”.

Đức Thế Tôn lấy y trùm vai ban cho Vô Tận Ý Bồ Tát mà nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại Sĩ nói nghĩa ấy rất hay, chẳng phải chỉ có ta hứa khả, thập phương chư Phật cũng như vậy”.

Vô Tận Ý đại Bồ Tát hai tay bưng y để trên đỉnh đầu mình mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Thiên và thế nhơn sẽ coi y nầy hơn cái tháp, vì là vật được Như Lai dùng”.

Lúc bấy giờ có nhiều các thứ y báu, các thứ lọng báu, các thứ phan báu, các thứ cây báu, các thứ tràng hoa báu tự nhiên từ thập phương thế giới bay đến che Vô Tận Ý đại Bồ Tát để cúng dường.

Các thứ y, lọng, phan, thọ, tràng hoa báu ấy tự nhiên diễn nói lời rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể khéo nói pháp môn vô tận ấy. Như lời ông đã nói, được chúng ta hứa khả”.

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Những y báu cúng dường như vậy từ xứ nào đến phát ra tiếng nói như vậy?”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Vô Tận Ý Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề giáo hoá các chúng sanh ây, nay họ đã thành Vô thượng Bồ đề ở thế giới mười phương. Đây là chư Phật Chánh Biến Tri kia vì biết ơn báo ơn nên sai các thứ báu ấy đến khen ngợi công đức chơn thiệt của Vô Tận Ý Bồ Tát và cũng cúng dường kinh điển được tuyên nói”.

Lúc nầy đại chúng đối với Vô Tận Ý Bồ Tát càng thêm cung kính tôn trọng tán thán đồng nói rằng: “Hôm nay chúng tôi mừng được đại lợi ích, được thấy Vô Tận Ý Bồ Tát cung kính cúng dường tôn trọng tán thán và được nghe pháp môn vô tận. Nếu có ai tai được nghe danh tự Vô Tận Ý Bồ Tát cũng được lợi ích lành hà huống mắt thấy gồm được nghe kinh nầy”.

Đức Thế Tôn ở trong đại chúng nghe lời ấy liền bảo Xá Lợi Phất Tôn giả rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn học Bồ Tát đạo trong một kiếp cúng dường chư Phật học giới oai nghi do sức kham nhẫn tận sanh tử khổ tế của các chúng sanh, siêng năng tinh tiến tu tập như cứu đầu cháy, nơi các thiền định nhứt tâm thành tựu trí huệ phương tiện, nếu rời lìa kinh điển nầy, ta nói người ấy chưa có thể đầy đủ sáu Ba la mật”.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh điển nầy tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nghĩa như thuyết tu hành, ta nói người ấy đã là đầy đủ sáu Ba la mật được thành tựu Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy?

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát thọ trì kinh nầy vì người diễn nói tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Tại sao? Vì trong các sự bố thí thì pháp thí là hơn cả, chẳng hề quên mất tâm Bồ Tát.

Nếu trì kinh nầy tức là trì giới, nên có thể đầy đủ Thi Ba la mật. Tại sao? Vì cấm giới của tất cả Bồ Tát học được nhiếp nơi kinh nầy.

Nếu ở kinh nầy có thể kham nhẫn thích ưa, tất cả chúng sanh chẳng trở hoại được, có thể ở nơi đây tiến tu nhẫn nhục, tức là đầy đủ Sằn Đề Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy siêng làm chuyển nói, thân khẩu ý ba nghiệp tinh tiến tu tập, tức là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy tâm được tịch diệt không có tán loạn, nhứt tâm định ý phân biệt các tướng, tức là đầy đủ Thiền na Ba la mật.

Nếu ở kinh nầy tự được hiện trí, chẳng từ người nghe được chánh hành trí, tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát siêng học kinh nầy nếu muốn đầy đủ các Ba la mật thì không khó.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát học tập kinh nầy thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành biên chép kinh quyển, nên biết người ấy tất cả Phật pháp đã ở trong tay.

Tánh tứ đại có thể biến đôỉ khác, tâm Bồ Tát ấy ở nơi Vô thượng Bồ đề chẳng thể còn chuyển đổi.

Nầy Xá Lợi Phất! Kinh điển nầy là ấn bất thối chuyển của Bồ Tát, vì vậy nên Bồ Tát phải cầu ấn ấy.

Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thân cận ấn ấy thì tức là thân cận tất cả Phật pháp”.

Lúc bấy giờ Tứ Thiên Vương cùng các quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng tôi là đệ tử Phật đã được dấu đạo. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy, chúng tôi kham nhiệm vì họ mà làm kẻ hộ vệ cung cấp hầu hạ, sẽ coi người ấy như đức Như Lai. Tại sao? Vì trong kinh điển nầy xuất sanh các thừa vậy”.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường theo Phật nghe vô lượng vô biên kinh điển, chưa từng được nghe kinh điển phân biệt nghĩa thậm thâm như vậy.

Bạch đức Thế Tôn! Nơi xứ xứ, chỗ nào có diễn nói kinh nầy, đích thân tôi và chư Thiên Đao Lợi sẽ đến đó nghe học, thủ hộ Pháp sư tăng thêm khí lực mạnh mẽ tinh tiến chánh niệm biện tài, khiến Pháp sư ấy ở trong đại chúng được vô sơ uý rộng có thể tuyên nói kinh điển như vậy”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ông có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy khiến được dũng mãnh tinh tiến chánh niệm biện tài.

Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy tức là ủng hộ chư Phật chánh pháp. Người ủng hộ chánh pháp tức là người ủng hộ tất cả chúng sanh”.

Phạm Tự Tại Thiên Vương quỳ dài chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, đích thân tôi cùng chư Phạm Thiên và quyến thuộc sẽ bỏ thiền hỉ lạc để đến đó nghe học thưa hỏi thỉnh cầu.

Lúc tôi đến đó sẽ hiện bốn điềm tướng khiến được hay biết:

Một là làm cho thấy quang minh vi diệu.

Hai là được nghe mùi hương thơm lạ.

Ba là khiến người thuyết pháp được vô ngại biện và chánh ức niệm, pháp được nói lành tốt chẳng mất chương cú.

Bốn là khiến đại chúng ấy phát tâm lành muốn vui mừng nghe pháp không có nhàm đủ.

Có bốn điềm tốt ấy, nên biết đó là Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đích thân đến nghe pháp”.

Đệ Lục Dục Thiên Ma Ba Tuần chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh điển như vậy khiến thế lực tôi yếu kém. Tại sao? Vì nếu có Bồ Tát nghe kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà rộng nói, phải biết người ấy tức là được thọ ký.

Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát như vậy đến xứ nào, đến thế giới chư Phật, nên biết như là đức Phật Thế Tôn.

Nay tôi có những tâm kiêu mạn tật đố cống cao, do sức oai đức của Vô Tận Ý mà đều bị xô dẹp hết cả.

Nay tôi sẽ thủ hộ kinh điển nầy và người thuyết pháp. Nơi nào có lưu bố kinh nầy, tôi chẳng khởi một niệm tâm trở ngại, huống là tự mình đến đó làm hại”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Từ ngày hôm nay ông nên vì chánh pháp ở lâu thế gian mà thọ trì kinh điển nầy đọc tụng giải thuyết”.

Tôn giả A Nan liền đứng dậy chỉnh y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi kính vâng lời Phật thọ trì kinh ấy, chỉ tự hận chẳng có thể rộng tuyên nói lưu bố như chư Bồ Tát”.

Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Ông nên an lòng. Nay ở trong pháp hội nầy có chư đại Bồ Tát có thể hộ trì khiến kinh điển nầy rộng tuyên lưu bố”.

Liền đó trong đại hội có sáu mươi ức chư đại Bồ Tát, những người đáng phải hộ pháp, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cần phải tuyên truyền kinh nầy đến khắp mười phương.

Tại Ta Bà thế giới nầy có Di Lặc Đại Sĩ, Ngài ở đây tự sẽ hộ trì kinh nầy và người thuyết pháp.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu lúc Phật diệt độ rồi, năm trăm năm sau, nếu có Bồ Tát nghe kinh điển nầy thọ trì đọc tụng, nên biết đều là sức oai thần của Di Lặc Bồ Tát kiến lập”.

Đức Phật khen chúng đại Bồ Tát hộ pháp rằng: “Lành thay lành thay! Chư Thiện nam tử! Các ông chẳng những ngày nay ở trước ta hộ trì chánh pháp, mà các ông cũng đã từng hộ trì chánh pháp của hằng hà sa số chư Phật quá khứ”.

Vô Tận Ý đại Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi tự dùng phần ít trí huệ nói kinh điển nầy, văn tự cú nghĩa ắt chẳng đầy đủ. Nay tôi ở trước chư phật và chư đại Bồ Tát đã thành tựu vô tận pháp mà sám hối tội lỗi”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Tận Ý! Nếu Bồ Tát có đủ bốn vô ngại trí thì chỗ giảng thuyết không có sai lầm. Bồ Tát như vậy được chơn không nghĩa phân biệt pháp môn mới có thể tuyên nói kinh điển như vậy.

Nầy Vô Tận Ý! Nay ông đã đến chỗ đệ nhứt thành tựu tứ biện tự tại vô ngại. Kinh Đại thừa nầy chẳng từ người nghe mà có thể phân biệt.

Nầy Vô Tận Ý! Nay ông thành tựu bực trụ như vậy thân khẩu ý nghiệp không có sai lầm. Tai sao? Vì Bồ Tát tu tập ba nghiệp thành tựu thường dùng trí huệ làm căn bổn vậy.

Nầy Vô Tận Ý! Đã có vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn đều đồng khen ngợi nghe ông thuyết pháp.

Nầy Vô Tận Ý! Ông trước đã ở chỗ ta và chư Phật cứu cánh sám hối không có sót mất”.

Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.

Đức Phật nói: “Kinh nầy tên là Vô Tận Ý sở thuyết bất khả tận nghĩa chương cú pháp môn. Còn có tên là Đại Tập. Ông nên phụng trì như vậy.

Nầy A Nan! Ông phải tín thọ kinh điển như vậy. Tại sao? Vì ông thọ trì kinh nầy rồi thì những pháp đã được trì niệm sẽ tăng hơn trước cả ngàn lần. Nếu vì người nói thì là kiến lập Phật sự vậy”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Ý đại Bồ Tát, các Tôn giả Xá Lợi Phất, A Nan, chư Thiên, Long, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La v.v…, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng làm lễ mà đi.

62. PHÁP HỘI QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT THỨ SÁU MƯƠI HAI

Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi người câu hội

Chúng Bồ Tát có ba vạn hai ngàn, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đại Bồ Tát làm thượng thủ.

Lúc bấy giờ thành Vương Xá có một Thái Tử tên là A Xà Thế thuận theo lời bảo của ác hữu Điều Đạt bắt vua cha Tần Bà Sa La nhốt trong nhà tối bảy từng cửa, cấm các quan không một ai được vào.

Quốc Thái phu nhơn tên là Vi Đề Hi cung kính Đại Vương, tắm gội sạch sẽ, lấy tô và mật nhồi mì sợi rồi trét lên thân, trong hột chuỗi ngọc đeo đựng nước nho, đi vào ngục thăm Đại Vương kín đáo dân lên.

Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì uống nước nho rồi xin nước súc miệng. Súc miệng xong. Đại Vương chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ Xà Quật vói đãnh lễ Thế Tôn mà bạch rằng: “Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của tôi, nguyện hưng từ bi truyền thọ giới Bát Quan Trai cho tôi”.

Liền đó Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên như chim ưng bay mau đến chỗ vua, truyền giới bát Quan Trai cho vua.

Ngày ngày đều như vậy, đến truyền giới cho vua.

Đức Thế Tôn cũng sai Tôn gỉa Phú Lâu Na đến vì vua mà thuyết pháp.

Thời gian như vậy trải qua hai mươi mốt ngày, Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì mật, uống nước nho, lại được thọ giới Bát Quan Trai, được nghe thuyết pháp nên nhan sắc vua hòa vui.

A Xà Thế hỏi người giữ cửa ngục rằng: “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư?”.

Người giữ cửa ngục tâu rằng: “Tâu Đại Vương! Quốc Thái phu nhơn trên thân trét mì mật, trong chuỗi ngọc đựng nước nho đem dâng lên vua. Còn có Sa Môn Đại Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na đi từ trên hư không đến vì vua thuyết pháp chẳng thể cấm cản được”.

A Xà Thế nghe lời ấy giận mẹ mình rằng: “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa Môn ác nhơn huyễn hoặc chú thuật khiến ác vương ấy nhiều ngày mà chẳng chết”.

A Xà Thế liền cầm gươm bén muốn giết mẹ.

Lúc ấy có một đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh nhiều trí cùng với Kỳ Bà đến lễ vua A Xà Thế mà tâu rằng: “Tâu Đại Vương! Chúng thần nghe Tỳ Đà Luận kinh nói từ kiếp sơ đến nay có các ác vương vì tham ngôi vua mà giết hại cha mình đến số một vạn tám ngàn. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ. Nay Đại Vương làm sự sát nghịch nầy ô uế dòng Sát Đế Lợi. Chúng thần chẳng nỡ nghe. Đây là Chiên Đà La. Chúng tôi chẳng nên còn ở lại nơi đây”.

Hai vị đại thần tâu rồi lấy tay vỗ lên gươm đeo lui mà ra.

A Xà Thế kinh sợ hãi hùng bảo Kỳ Bà rằng: “Còn anh cũng chẳng vì ta chăng?”.

Kỳ Bà tâu rằng: “Đại Vương cẩn thận chớ có hại mẹ”.

A Xà Thế nghe lời ấy sám hối cầu cứu liền bỏ gươm thôi không hại mẹ, truyền lịnh cho nội quan nhốt mẹ vào thâm cung chẳng cho ra nữa.

Vi Đề Hi bị giam nhốt rồi sầu lo tiều tụy vói hướng về núi Kỳ Xà Quật lạy Phật mà nói rằng: “Ngày trước đức Như Lai Thế Tôn thường sai Tôn gỉa A Nan đến thăm hỏi tôi. Nay tôi sấu lo, đức Thế Tôn oai trọng không sao được thấy. Duy nguyện đức Thế Tôn sai các Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên và A Nan đến cho tôi được thấy”.

Nói xong, Vi Đề Hi buồn khóc lệ rơi như mưa vói hướng lạy Phật, trong khoảng thời gian chưa cất đầu lên.

Đức Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật biết tâm niệm của Vi Đề Hi liền bảo Đại Mục Kiền Liên và A Nan đi trên hư không. Đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật ẩn mất hiện ra nơi vương cung.

Vi Đề hi lạy rồi ngước đầu lên thấy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật thân màu tử kim ngồi trên hoa sen trăm báu. Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên hầu bên tả, Tôn gỉa A Nan hầu bên hữu. Trong hư không hàng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương mua hoa trời khắp nơi để cúng dường.

Vi Đề Hi thấy Phật Thế Tôn liền tự bứt chuỗi ngọc cả thân mình giao xuống đất kêu khóc hướng Phật mà chạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Xưa tôi tội gì mà sanh đứa ác tử ấy. Đức Thế Tôn lại có nhơn duyên gì mà cùng làm quyến thuộc với Đề Bà Đạt Đa. Duy nguyện đức Thế Tôn vì tôi mà nói rộng những xứ không có lo khổ tôi sẽ vãng sanh, tôi không còn thích cõi Diêm Phù Đề trược ác thế nầy. Xứ trược ác nầy đầy những địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhiều khối bất thiện. Nguyện tôi đời vị lai chẳng nghe danh từ ác, chẳng thấy người ác. Nay tôi hướng về Thế Tôn năm vóc gieo xuống đất cầu thương cho tôi sám hối. Duy nguyện Phật Nhựt dạy tôi quán nơi xứ nghiệp hành thanh tịnh”.

Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới trở về trụ tại đỉnh đầu Phật hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy. Hoặc có quốc độ thất bữu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp khiến Vi Đề Hi được thấy.

Vi Đề Hi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới chỗ của đức Phật A Di Đà.

Duy nguyện dức Thế Tôn dạy tôi tu duy, dạy tôi chánh thọ”.

 Đức Thế Tôn liền mĩm cười có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.

Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi: “Nay Thái phu nhơn có biết chăng?

Phật A Di Đà cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niện quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được thành.

Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sanh Tây phương Cực Lạc quốc độ.

Nầy Vi Đề Hi! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước:

Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.

Hai là thọ trì tam quy y đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.

Ba là phát tâm Bồ đề sâu kín nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.

Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp.

Nầy Vi Đề Hi! Nay bà có biết chăng? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi rằng: “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sanh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh.

Lành thay cho Vi Đề Hi khéo hỏi được việc ấy.

Nầy A Nan! Ông nên thọ trì rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật.

Hôm nay Phật vì Vi Đề Hi và vị lai tất cả chúng sanh quán nơi Tây phương Cực Lạc quốc độ, do nguyện lực Phật nên sẽ được quốc độ thanh tịnh ấy như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy nên tâm vui mừng liền được Vô sanh pháp nhẫn”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi: “Bà là phàm phu tâm tưởng yếu kém chưa được thiên nhãn chẳng thể thấy được xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến bà được thấy”.

Vi Đề Hi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như hôm nay tôi nhờ oai lực của đức Phật Thế Tôn mà được thấy quốc độ Cực Lạc ấy. Nếu sau khi đức Phật Thế Tôn diệt độ, các chúng sanh trược ác bất thiện bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới?”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi: “Bà và chúng sanh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ tưởng nơi phương Tây.

Tưởng niệm thế nào?

Tất cả chúng sanh những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đầu thấy mặt nhựt lặn cả.

Phàm người tu tập quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phía Tây quán kỹ chỗ mặt nhựt sắp lặn khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng đời. Thấy mặt nhựt sắp lặn đang như mặt trống đồng treo. Đã thấy mặt nhựt rồi, nhắm mắt mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Đây là nhựt tưởng, gọi là pháp quán ban đầu.

Kế đó quán tưởng nước. Thấy nước đứng trong, cũng khiến phải sáng tỏ, ý tưởng không phân tán, đã thấy nước rồi nên quán tưởng băng, thấy băng chói suốt tưởng làm lưu ly. Tưởng nầy thành rồi thấy đất lưu ly trong ngoài suốt chói, phía dưới có trăng vàng kim cương thất bữu bưng chống đất lưu ly. Kim tràng ấy tám phương đầy đủ tám cạnh. Mỗi mỗi phương diện do trăm châu báu làm thành. Mỗi mỗi bửu châu có ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu chói đất lưu ly sáng như ức ngàn mặt nhựt chẳng thể thấy đủ hết được.

Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen kết lẫn lộn với thất bữu giăng phân ranh giới chừng ngằn ngang rộng phân minh. Trong mỗi mỗi thất bữu ấy có ánh sáng ngũ sắc. Anh sáng ấy như đoá hoa lại có như sao như trăng lững lờ trên hư không tụ thành đài ánh sáng. Có ngàn vạn lầu các do trăm báu hiệp thành. Hai bên đài đều riêng có trăm ức hoa tràng với vô lượng nhạc khí dùng làm trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng phát ra xao động các nhạc khí ấy vang ra tiếng diễn nói khổ không, vô thường, vô ngã.

Đây là thủy tưởng gọi là pháp quán thứ hai.

Lúc quán tưởng nầy đã thành phải mỗi mỗi sự quán thấy thiệt rất rõ ràng. Lúc nhắm mắt lúc mở mắt chớ để tan mất, chỉ trừ lúc ăn, thường nhớ sự ấy. Như tưởng quán ấy gọi là thô thấy đất Cực Lạc quốc độ. Nếu được tam muội thì thấy đất cõi nước Cực Lạc tỏ rõ phân minh chẳng thể nói đủ hết. Đây là địa tưởng gọi là pháp quán thứ ba.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Nầy A Nan!Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng những người muốn thoát khổ mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.

Quán tưởng đây gọi là chánh quán. Nếu quán tưởng khác thỉ gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi: “Địa quán thành rồi, kế tưởng bửu thọ.

Người quán cây báu phải quán mỗi mỗi cây. Tưởng bảy lớp hàng cây báu. Mỗi cây báu cao tám ngàn do tuần. các cây báu ấu đều đầy đủ bông lá bảy báu. Mỗi mỗi bông lá tưởng màu khác lạ. Trong màu lưu ly phóng ánh sáng màu hoàng kim. Trong màu pha lê phóng ánh sáng màu hồng. Trong màu mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Trong màu xa cừ phóng ánh sáng màu lục chơn châu. San hô hổ phách tất cả các báu dùng làm chói đẹp. Màn lưới diệu chơn châu giăng che trên cây báu. Trên mỗi mỗi cây báu có bảy lớp màn lưới. Khoảng mỗi mỗi lưới có năm trăm ức cung điện xinh đẹp vi diệu như cung Trời Phạm Vương, có các thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức châu ma ni Thích ca tỳ lăng già dùng là chuỗi đeo. Anh sáng mỗi châu ma ni ấy chiếu trăm ức do tuần, dường như hòa hiệp ánh sáng của trăm ức nhựt nguyệt chẳng thể kể hết. Các báu xen lẫn màu sắc sáng đẹp nhứt trong các màu sắc.

Các cây báu ấy hàng hàng ngay nhau, lá lá kế nhau. Giữa khoảng các lá sanh những hoa vi diệu. Trên hoa tự nhiên có quả thất bửu. Mỗi mỗi lá cây ngang rộng đều hai mươi lăm do tuần. Lá ấy có ngàn màu trăm thứ lằn vẽ như chuỗi ngọc Trời. Có những hoa vi diệu màu diêm phù đàn kim như vòng lửa xoay chói sáng uyển chuyển khoảng giữa lá, vọt sanh những quả như bình báu của Thiên Đế Thích, phóng đại quang minh hóa thành tràng phan và vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy chói hiện tất cả Phật sự trong toàn cõi thế giới, thập phương thế giới chư Phật cũng hiện bóng trong lọng báu ấy.

Thấy bửu thọ ấy rồi cũng phải mỗi mỗi quán sát thấy thân cây nhánh lá bông trái đều phải phân minh.

Đây là thọ tưởng gọi là pháp quán thứ tư.

Kế nên tưởng nước.

Người muốn tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước bảy báu làm thành. Báu ấy như nhuyến từ như ý châu vương sanh chia làm mười bốn chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có kim cương nhiều màu làm cát trắng đáy.

Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần. nước ma ni chảy rót trong khoảng lá theo thân cây sen mà lên xuống phát ra âm thanh vi diệu diễn nói khổ, không, vô thượng, vô ngã, các Ba la mật, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật.

Như ý châu vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống chim màu trăm báu hòa hót êm nhã thường tán thán niệm Phật, niệm Phật, niệm Tăng.

Đây là tưởng nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm.

Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong lầu các ấy có vô lượng chư Thiên trỗi thiên kỹ nhạc. Còn có nhạc khí treo ở hư không như bửu tràng cõi Trời chẳng đánh tự kêu. Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật, niệm Phật, niệm Tỳ Kheo Tăng.

Pháp tưởng nầy thành rồi gọi là thô thấy Cực Lạc thế giới bửu thọ, bửu địa và bửu trì đây là tổng quán tưởng gọi là pháp quán thứ sáu.

Nếu thấy như vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung quyết định sanh nước Cực Lạc.

Quán đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A nan và Vi Đề Hi: “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ đó. Ta sẽ vì các người phân biệt giải thuyết pháp trừ khổ não. Các người ghi nhớ thọ trì rộng vì đại chúng phân biệt giải thuyết”.

Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nói lời ấy, Phật Vô Lượng Thọ hiện đứng trên hư không, Quan Thế Âm Bồ Tát đứng hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng hầu bên hữu, ánh sáng chói rực chẳng thể thấy rõ hết, trăm ngàn lần màu vàng diêm phù đàn kim chẳng thể sánh được.

Vi Đề Hi thấy Phật Vô Lượng Thọ rồi tiếp túc lễ lạy.

Lễ lạy xong, Vi Đề Hi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi nhơn oai lực Phật mà được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng hai Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đời vị lai các chúng sanh sẽ phải thế nào quán thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ Tát ấy?”.

Đức Phật bảo Vi Đề Hi: “Người muốn quán Phật Vô Lượng Thọ thì nên hởi tưởng niệm: ở trên mặt đất thất bửu tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bửu có tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi Trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả. Cánh hoa nhỏ nhứt ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, toàn hoa sen ấy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Khoảng mỗi cánh hoa có trăm ức ma ni vương ấy phóng ra ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy như lọng bảy báu hiệp thành che khắp mặt đất. Đài hoa sen ấy bằng báu thích ca tỳ lăng gìa, có tám vạm kim cương chân thúc ca bửu, phạm ma ni bửu và lưới diệu chơn châu dùng để nghiêm sức. Ơ trên đài ấy tự nhiên có bốn trụ bửu tràng, mỗi mỗi bửu tràng cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bửu tràng có màn báu như Dạ Ma Thiên cung còn có năm trăm ức bửu châu vi diệu để làm sáng đẹp. Mỗi mỗi bửu châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng làm tám vạn bốn ngàn kim sắc nhiều loại lạ khác nhau. Mỗi mỗi kim sắc khắp cả cõi nước Cực Lạc nơi nơi biến hóa đều riêng làm những tướng hình khác lạ: hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây nhiều loại hoa, nơi mười phương diện tùy ý biến hiện ra làm Phật sự.

Đây là tưởng toà ngồi hoa sen, gọi là pháp quán thứ bảy.

Nầy A Nan! Hoa sen vi diệu như vậy là do bổn nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ Kheo, tiền thân Phật Vô Lượng Thọ cảm thành. Nếu người muốn niện đức Phật ấy thì phải trước tưởng hoa tòa ấy. Lúc quán tưởng chẳng được tạp quán. Đều phải quán mỗi mỗi chi tiết, mỗi mỗi cánh hoa, mỗi mỗi bửu châu, mỗi mỗi ánh sáng, mỗi mỗi đài, mỗi mỗi tràng đều phải phân minh, như thấy tượng mặt mình hiện trong gương. Pháp tưởng nầy thành diệt trừ trăm muôn ức kiếp tội sanh tử, tất định sẽ sa Cực Lạc thế giới. Quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Thấy hoa tòa rồi kế nên tưởng Phật. Tại sao vậy? Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các người tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tám mươi tùy hình hảo, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải từ tâm tưởng sanh, vì vậy nên nhứt tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật ấy, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Người muốn tưởng đức Phật ấy trước nên tưởng hình tượng. Thấy một bửu tượng màu như vàng diêm phù đàn ngồi trên hoa tòa kia. Thấy tượng Phật ngồi rồi tâm nhãn được khai thông, tỏ rõ phân minh thấy quốc độ Cực Lạc thất bửu trang nghiêm, đất báu, ao báu, cây báu bày hàng. Màn lưới báu cõi Trời giăng che phía trên, các màn lưới báu đầy khắp hư không, thấy sự như vậy khiến rất rõ ràng như thấy trong lòng bàn tay. Thấy sự ấy rồi lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên tả tượng Phật như trước không khác. Rồi lại tưởng một hoa sen lớn như trước ở bên hữu tượng Phật. Rồi tưởng một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên tả cũng kim sắc như trước. Rồi tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên hữu. Lúc pháp tưởng nầy thành rồi tượng Phật và tượng Bồ Tát đều phóng ánh sáng. Anh sáng ấy kim sắc chiếu những bửu thọ. Dưới mỗi mỗi bửu thọ đều có ba tòa hoa sen, tượng Phật và tượng hai Bồ Tát ngồi trên ấy, như vậy khắp cả quốc độ Cực Lạc.

Lúc pháp tưởng nầy đã thành, hành gỉa nên nghe nước chảy, ánh sáng, các bửu thọ, những chim cưu nhạn uyên ương đều diễn nói diệu pháp, lúc xuất định lúc nhập định luôn nghe diệu pháp. Pháp được nghe trong định lúc xuất định nhớ giữ chẳng bỏ phải khế hiệp với lời trong kinh. Nếu chẳng hiệp thì gọi là vọng tưởng. Nếu hiệp thì gọi là thô tưởng thấy Cực Lạc thế giới.

Đây là tượng tưởng gọi là pháp quán thứ tám. Quán pháp nầy trừ được vô lượng ức kiếp tội sanh tử. Nơi thân hiện tại được niệm Phật tam muội”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Kế lại nên quán Phật Vô Lượng Thọ thân tướng quang minh. A Nan phải biết Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc vàng diêm phù đàn Trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi muôm ức na do tha hàng hà sa do tuần, bạch hòa giữa hai mày xoay bên hữu uyển chuyển như năm tòa núi Tu Di, mắt Phật như bốn đại hải xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ lông nơi thân Phật phóng ánh sáng ra như núi Tu Di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức Đại Thiên thế giới. Trong viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hàng hà sa Hóa Phật. Mỗi mỗi Hoá Phật cũng có đông nhiều vô số Hóa Bồ Tát làm thị gỉa. Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Quang minh tướng hảo và Hóa Phật ấy chẳng thể nói đủ hết, chỉ nên nhớ tưởng khiến tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy liền thấy thập phương tất cả chư Phật. Vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội.

Quán tưởng đây gọi là quán thân tất cả Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật. Phật tâm là đại từ bi tâm, dùng từ vô duyên nhiếp thọ các chúng sanh.

Người tu quán nầy, bỏ thân đới khác sanh trước chư Phật được vô sanh nhẫn. Vì vậy nên người trí phải buộc niệm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật. Người quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng hảo mà vào, chỉ quán lông trắng giữa hai mày khiến tất tỏ rõ. Được thấy lông trắng rồi thì tâm vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện. Thấy Phật Vô Lượng Thọ liền thấy vô lượng chư Phật mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.

Đây là khắp quán tưởng tất cả các sắc thân Phật gọi là pháp quán thứ chín. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật tỏ rõ phân minh rồi kế cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát.

Bồ Tát nầy thân cao tám mươi vạn ức na do tha do tuần, thân màu tử kim, đỉnh có nhục kế, cổ có viên quang mỗi phương diện đều trăm ngàn do tuần. trong viên quang có năm trăm Hoá Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi mỗi Hoá Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư Thiên làm thị giả. Trong ánh sáng toàn thân hiện tất cả sắc tướng của chúng sanh trong ngũ đạo. Trên đỉnh có thiên quang bằng tỳ lăng gìa ma ni bửu. Trong thiên quang có một Hóa Phật đứng cao hai mươi lăm do tuần. mặt cúa Quan Thế Âm Bồ Tát như màu vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa hai mày đủ màu thất bửu chiếu ra tám vạn bốn ngàn thứ ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả biến hiện tự tại khắp thập phương thế giới. Cánh tay màu như hoa sen hồng có tám mươi ức ánh sáng vi diệu làm chuỗi đeo. Trong chuỗi đeo ánh sáng ấy khắp hiện tất cả trang nghiêm. Bàn tay màu năm trăm ức hoa sen đẹp. Bàn tay mười đầu ngón mỗi mỗi đầu ngón có tám vạn bốn ngàn lằn dường như ấn văn. Mỗi mỗi lằn có tám vạn bốn ngàn màu, mỗi mỗi màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm dịu chiếu khắp tất cả. Bồ Tát dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh. Lúv Bồ Tát cất chưn lên, dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chưn xuống có hoa kim cương ma ni rải rác tất cả không chỗ nào là chẳng đầy khắp. Các tướng khác nơi thân Bồ Tát đầy đủ những hình hảo như thân Phật không khác, chỉ có nhục kế trên đỉnh và vô kiến đảnh tướng chẳng bằng Thế Tôn. Đây là tướng sắc thân chơn thiệt của Quan Thế Âm Bồ Tát gọi là quán pháp thứ mười. Nếu người muốn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát nên tu quán ấy. Tu quán ấy thì chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội sanh tử trong vô số kiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ. Nếu người muốn quán Quan Thế Âm Bồ Tát thì trước quán nhục kế sau quán thiên quang. Các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán kỹ đều phải tỏ rõ như nhìn trong bàn tay. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.

Kế đó quán Đại Thế Chí Bồ Tát.bt nầy thân tượng lớn nhỏ đều đồng như Quan Thế Âm Bồ Tát. Viên quang mỗi mặt đều một trăm hai mươi lăm do tuần chiếu hai trăm năm mươi do tuần. Ánh sáng toàn thân chiếu thập phương quốc độ màu tử kim. Chúng sanh có duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy ánh sáng một lỗ lông của Bồ Tát nầy liền thấy quang minh tịnh diệu vô lượng chư Phật mười phương, vì vậy nên đặt hiệu Bồ Tát nầy là Vô Biên Quang. Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả khiến lìa tam đồ được vô thượng lực nên Bồ Tát nầy có tên là Đại Thế Chí.

Thiên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm hoa báu, mỗi mỗi hoa báu có năm trăm đài báu, trong mỗi mỗi đài, tướng dài ngắn của quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật mười phương đều hiện rõ. Nhục kế trên đỉnh như hoa bát đấu ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các ánh sáng khắp hiện Phật sự. Các thân tướng khác như Quan Thế Âm không khác.

Lúc Đại Thế Chí Bồ Tát đi, thập phương thế giới tất cả chấn động. Đương lúc đất động có năm trăm ức hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm cao rõ như Cực Lạc thế giới. Lúc Bồ Tát nầy ngồi, quốc độ thất bửu đồng thời dao động. Từ hạ phương Kim Quang Phật thế giới nhẫn đến thượng phương Quang Minh Vương Phật thế giới, trong khoảng giữa ấy vô lượng vô số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quan Thế Âm Bồ Tát, phân thân Đại Thế Chí Bồ Tát thảy đều vân tập Cực Lạc thế giới chật đầy hư không ngồi tòa liên hoa diễn nói diệu pháp độ khổ chúng sanh. Tu pháp quán nầy gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán thấy tướng sắc thân thiệt Đại Thế Chí gọi là pháp quán thứ mười một. Quán Đại Thế Chí Bồ Tát trừ vô số kiếp vô số tội sanh tử. Người tu quán nầy chẳng còn ở bào thai thường du hành quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật.

Pháp quán nầy thành rồi gọi là đầy đủ quán Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.

Lúc thấy sư ấy rồi nên khởi tư tâm sanh nơi Tây phương Cực Lạc thế giới trong hoa sen ngồi kiết già, tưởng hoa sen búp lại, tưởng hoa sen nở ra. Lúc hoa sen nở có ánh sáng năm trăm màu chiếu đến thân. Tưởng mắt mở ra thấy Phật và Bồ Tát đầy cả hư không, nước chim cây rừng cùng chư Phật phát ra âm thanh đều diễn nói diệu pháp hiệp với mười hai bộ kinh. Lúc xuất định nhớ giữ không mất. Thấy sự nầy rồi gọi là thấy Vô Lượng Thọ Phật. Cực Lạc thế giới. Đây là phổ quán tưởng gọi là pháp quán thứ mười hai. Vô Lượng Thọ Phật hoá thân vô số cùng Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát thường đến chỗ hành nhơn ấy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người muốn chí tâm sanh Cực Lạc thế giới trước nên quán tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu xích ở trên mặt nước ao báu.

Như trước đã nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên chẳng phải tâm lực của phàm phu kịp được. Nhưng do nguyện lực đời trước của đức Như Lai ấy nên ai có tâm nhớ tưởng thì ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật được phước vô lượng, huống là quán đủ thân tướng của Phật.

A Di Đà Phật thần thông như ý nơi mười phương quốc độ biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu xích. Thân hình Phật hiện ra đều màu chơn kim, viên quang Hoá Phật và hoa sen báu như đã nói ở trên. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở tất cả xứ thân đồng với chúng sanh. Chỉ quán tướng trên đầu biết là là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai đại Bồ Tát ấy trợ Phật A Di Đà khắp hóa độ tất cả. Đây là tạp tưởng quán gọi là pháp quán thứ mười ba”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.

Những gì là ba tâm?

Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sanh Cực Lạc thế giới.

Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.

Những gì là ba hạng?

Một là từ tâm bất sát đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là tu hành lực niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.

Người đủ các công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.

Lúc sanh về nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư Thiên, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả thấy rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật. Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc thân Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chu Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang minh cây rừng báu diễn nói diệu p. nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời gian giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sanh.

Người thượng phẩm trung sanh ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng: Nầy Pháp tử! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu,. Đài tử kim ấy như hoa sen lớn qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có hoa sen bảy báu.

Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập trước nên khắp nghe ác âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, liền có thể bay đi khắp mười phương kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được Vô sanh nhẫn hiện tiến thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.

Người thượng phẩm hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.

Hành giả ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời trao tay khen rằng: Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng phẩm hạ sanh vậy.

Đây gọi là pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người trung phẩm thượng sanh ấy.

Nếu có chúng sanh thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả lúc lâm chung, A Nan Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm thanh tán thán tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải thoát. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.

Người trung phẩm trung sanh ấy.

Nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công đức nầy hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.

Do giới hương huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe hư không có tiếng khen rằng: Nầy thiện nam tử! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy thuận lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.

Trung phẩm hạ sanh ấy.

Nếu có thiện nam thiện nữ hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A Di Đà cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết. Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.

Đây gọi là pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trù năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng: Nầy thiện nam tử! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mang chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mưo82i tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người hạ phẩm trung sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tâm quý, dùng các ác nghiệp để tụ trang nghiêm. Người tộu như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng mộ niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi: “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.

Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy: Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.

Đây gọi là pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy”.

về mười sáu pháp quán ấy, liền lúc đó thấy tướng rộng lớn Cực Lạc thế giới. Được thấy sắc thân Phật A Di Đà và hai Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, lòng rất hoan hỷ khen chưa từng có. Vi Đề Hi hoát nhiên đại ngộ được Vô sanh nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sanh Cực Lạc thế giới. Đức Thế Tôn thọ ký đều sẽ vãng sanh. Sanh nước Cực Lạc rồi được chư Phật hiện tiền tam muội. Còn có vô lượng chư Thiên phát tâm vô thượng đạo.

Lúc bấy giờ Tôn gỉa A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy sẽ gọi tên là gì? Pháp yếu nầy sẽ thọ trì như thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy A Nan! kinh nầy tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Cũng có tên là Tịnh trừ nghiệp chướng sanh chư Phật tiền.

Ông nên thọ trì như vậy chớ để quên mất.

Người hành tam muội nầy thì thân hiện đời được thấy Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.

Nếu thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nghe danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát thì trừ vô lượng kiếp tội sanh từ, huống là nhớ niệm.

Nếu là người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân đà lợi trong loài người. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là thắng hữu của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng sanh vào nhà chư Phật”.

Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Nầy A Nan! Ngươi phải trì lời nầy cho tốt. Người trì lời nầy tức là trì danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”.

Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi cùng thị nữ quyến thuộc nghe lời đức Phật dạy tất cả đều rồi vui mừng.

Bấy giờ đức Thế Tôn chân đi trên hư không trở về núi Kỳ Xà Quật.

Tôn giả A Nan vì đại chúng nói rộng sự ấy. Vô lượng chư Thiên, Bát Bộ nghe lời Phật nói đều rất vui mừng lạy Phật lui ra.

LỜI GHI NHẬN SAU KINH CỦA NGƯỜI DỊCH

Tôi từ bé đôi mắt đã bịnh yếu lại thêm càng ngày càng cận. Lúc tôi cầm viết ghi mấy dòng nầy là lúc đôi mắt đã bịnh nhiều suốt hơn một năm, kể từ đầu tháng Tám năm ngoái. Năm Mậu Thìn (1988), nay nhìn chữ chỉ thấy lờ mờ.

Hồi nhớ lại từ ngày vào đạo, theo nghĩa thế tục, đến nay đã hơn nữa thế kỷ, luôn luôn thấy việc học kinh, tụng kinh, niệm Phật, dạy kinh, giảng kinh và phiên dịch kinh từ Hán tạng ra Việt văn làm chánh hạnh của đời mình.

Năm 1947, bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh đầu tiên được ấn hành, kế đến là Phổ Hiền Hạnh Nguyện v.v… Đến năm 1953 bộ Đường về Cực Lạc hai tập được ra đời, do bộ này mà hai năm sau, năm 1955, hội Cực Lạc Liên Hữu được thành lập, lấy chùa Vạn Đức ở Thủ Đức làm trung tâm và ngày mùng Sáu tháng Tám, ngày khánh lễ Tổ Huệ Viễn là ngày đại hội thường niên. Nhớ lại biết bao đạo tình đạo nghĩa của bao nhiêu Hoà Thượng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, bao nhiêu Tăng Ni cùng các Đạo hữu cư sĩ từ các tỉnh miền Nam nước Việt, có các vị từ Nam Vang (Cambodge) cũng về dự đại hội, tiếng niệm hồng danh đức Phật, sổ ghi công đức niệm Phật được lan rộng gần xa…

Tôi ghi vài dòng trên đây là có ý ghi lại ảnh hưởng của bộ Đường về Cực Lạc.

Rồi các năm sau, những bộ kinh khác do tôi phiên dịch được tiếp tục ấn hành, như là bộ kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh Đại Bát Niết Bàn, bộ kinh Đại Bát Nhã. Những năm 1970, tôi dịch xong bộ kinh Đại Bửu Tích, và mãi đến năm 1987 mới được bắt đầu ấn hành. Vì những năm trước đó điều kiện ấn hành không được thuận lợi, nên cũng làm uể oải tinh thần dịch kinh, nên tôi không sốt sắng phiên dịch thêm, để thời gian quí báu tuần tự trôi qua trong lúc tuổi già thật là điều đáng tiếc. Nhờ vào sự ấn hành bộ kinh Đại Bửu Tích, thúc đẩy tôi phấn khởi, nên trong ba tháng liền an cư năm 1988, tôi dịch xong bộ kinh Đại Tập, và nó được ấn hành tiếp nối bộ kinh Đại Bửu Tích, Hán tạng bộ Hạ.

Bộ kinh Đại Bửu Tích Hán văn được lưu hành từ xưa nay, vì thể theo ba môn Vô lậu học Giới Định Huệ, nên Ngài Bồ Đề Lưu Chí để pháp hội Tam Tụ Tịnh Giới ở đầu bộ kinh. Bộ Việt văn nầy, tôi thể theo Tam bửu Phật Pháp Tăng nên tôi để pháp hội Vô Lượng Thọ Phật khởi đầu, và cũng có ý muốn cho người đọc lúc mở kinh ra đã kết duyên với đức Phật A Di Đà, đức Phật đã được giới thiệu trong nhiều bộ kinh Đại thừa, và cũng là hồng danh mà phần lớn Phật tử ta luôn trì niệm. Nếu các pháp hữu muốn so với bộ Hán văn, chỉ giản đơn sửa tập I Việt văn thành tập II, và sửa tập Việt văn tập II thành tập I là hai bộ Hán và Việt ăn khớp nhau.

Nội dung bộ Đại Bửu Tích Hán văn đến pháp hội Quảng Bác Tiên Nhơn là hết, nhưng hết với nửa chừng. Trong bộ Việt văn nầy, tôi sưu tầm trong Đại tạng, bổ sung phần cuối trọn vẹn cho pháp hội nầy. Và cũng từ Đại tạng tôi dịch thêm pháp hội Diệu Cát Tường Bồ Tát.

Tíêp theo đó, nếu các pháp hữu thấy pháp hội nào có câu đức Phật ngự tại giữa khoảng cõi Dục và cõi sắc trong Đại Bửu Phường Đình thì đó chính là kinh Đại Tập. Cũng từ trong Đại tạng, tôi phiên dịch thêm pháp hội Vô Tận Ý Bồ Tát nối sau bộ kinh Đại Tập Hán văn đã lưu hành và để kết thúc toàn bộ kinh Đại Bửu Tích Việt văn, tôi đặt pháp hội Quán Vô Lượng Thọ Phật.

Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được dùng từ nầy để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết với tôi đời nầy và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch ngoạc ghi lại vài dòng này, chính tôi, phải chính tôi, không dám ngửng mặt tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối mười phương pháp giới.

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.

Chùa VẠN ĐỨC

Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ

(08 – 10 – 1989)

THÍCH TRÍ TỊNH

Cẩn Chí.

Vi tính: THÍCH ĐỨC TUẤN

(Lâm Đồng, Việt Nam)

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Nữ Long Thí - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Hải Long Vương Dạy Pháp Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 2 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Thần Chú Thường Cù Lợi Độc Nữ Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Tiêu Trừ Hết Thảy Chướng Nạn Thiểm Điện Tùy Cầu Như Ý - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Thích Thiện Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Thích Huyền Tôn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng