1
2
3
4
5

59. PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

(Hán bộ từ quyển 150 đến quyển 154)

Tôi nghe như vầy: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác vẫn ở Đại Bửu Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới, cùng vô lượng Tỳ Kheo Tăng và chư Đại Bồ Tát câu hội thuyết pháp.

Lúc bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên v.v… xuất gia chưa bao lâu. Do nhân duyên các Tôn giả ấy mà đức Phật nói pháp Thanh Văn tạp Tứ chơn đế. Trong đại chúng có các hạng người gốc ngoại đạo căn tánh ám độn tự cho mình có trí huệ nên khởi tâm đại kiêu mạn, thắng mạn, phi pháp mạn, chưa được chứng quả thứ hai thứ ba thứ tư, vì vậy mà đức Thế Tôn nói pháp trung đạo để lìa các ác phiền não như vậy.

Lúc đức Như Lai Thế Tôn nói nghĩa trung đạo ấy, các hạng người như vậy đều luận nói đoạn kiến ngã kiến.

Đức Thế Tôn nghĩ rằng: đáng thương thay cho các người ấy vì họ gốc ngoại đạo nên dầu nhập vào Phật pháp mà sanh đại mạn, trong chỗ chưa được mà tưởng mình đã được, trong chỗ chưa biết mà tưởng mình đã biết, trong như pháp mà chẳng tu hành, dầu thuận Tứ đế mà chẳng có thể được Tứ vô ngại trí nhẫn đến chẳng được chứng đệ Tứ quả.

Đức Thế Tôn hai tay đưa lên nắm tràng hoa chiêm bà phát đại thệ nguyện. Do sức thệ nguyện trong tràng hoa xuất sanh bốn báu: một là Đế Thích bửu, hai là Thiên Quang bửu, ba là Kim Cương Quang bửu và bốn là Thắng Chư Quang bửu. Trong mỗi một báu đều phát ánh sáng lớn chiếu khắp Ta Bà thế giới nầy. Bốn báu phát ánh sáng lớn rồi, đức Thế Tôn ném lên hư không. Trong tràng hoa ấy liền có tiếng nói kệ rằng:

Dầu cạo râu tóc chẳng bỏ kiết

Dầu mặc nhiễm y chẳng lìa nhiễm

Thờ Phật làm thầy chẳng nghe lời

Người như vậy làm nhơ đại chúng

Như Lai lúc tuyên nói chánh pháp

Lại chẳng chí tâm lắng tai nghe

Người ấy chẳng được nghĩa chơn thật

Cũng chẳng lìa được các phiền não

Nếu người thấy được thiệt pháp tánh

Người nầy phá hoại vô minh mạn

Nếu được thân cận thiện tri thức

Người nầy mau được vị cam lộ

Nếu hay quở trách lỗi sanh tử

Người nầy mau được đến bờ kia

Người nầy có đủ giới đa văn

Cũng được đủ thiền định trí huệ

Nếu hay phá được ma phiền não

Xa lìa ấm ma và tử ma

Xô dẹp thiên ma và quyến thuộc

Thường nên gần kề Vô Thượng Tôn.

Trong tràng hoa ở hư không phát tiếng nói kệ ấy rồi, những đệ tử Thanh Văn có lòng kiêu mạn đều tự nghĩ rằng đức Như Lai biết ta có tâm ô nhiễm nên vì ta mà hiện thần lực nói kệ như vậy. Suy nghĩ rồi trong lòng sanh đại tàm quí. Trong tứ thiên hạ các đệ tử Phật cũng sanh lòng đại tàm quí như vậy, tất cả đều đến tập hội bên đức Phật.

Lúc bấy giờ trăm ngàn vạn ức Thanh Văn đại chúng đều đến tụ tập. Đức Phật biết chúng hội đã định liền vì đại chúng mà nói tạp Tứ chơn đế.

Tràng hoa báu ấy đi thẳng qua phương Nam quá chín vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới chư Phật, nơi đó có thế giới tên là Kim Cương Quang Tạng, chúng sanh thế giới ấy có đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn cõi âý hiệu là Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cũng vì tứ chúng đại hội mà tuyên nói tạp Tứ chơn đế pháp. Chư Bồ Tát Thanh Văn tứ chúng trong đại hội ấy thấy tràng hoa báu đại quang minh trụ trên hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu như vậy từ đâu bay đến và ai sai sử nó?”.

Đức Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Bắc cách đây chín vạn hai ngàn hằng hà sa số thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà có Phật Thế Tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn vì đại hội tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như thế giới ta đây không khác.

Các thiện nam tử! Thế giới Ta Bà ấy, chúng sanh có đủ ngũ trược rất là si ám thô lỗ khinh tháo sanh lòng đại kiêu mạn gây nhiều nghiệp ác khó điều khó giải, vì vậy nên Thích Ca Như Lai làm đại tập hội ở trong đại chúng Thanh Văn tập hội ấy mà diễn nói chánh pháp để phá hoại những ác sự lớn như vậy. Chúng sanh ở thế giới ấy nơi chưa được cho mình đã được, nơi chưa chứng tưởng mình đã chứng, nơi chưa tu tập tưởng mình đã tu tập. Vì cớ ấy nên Phật Thích Ca Mâu Ni muốn thuyết pháp rộng lớn như pháp tu hành để phá hoại lòng đại kiêu mạn ấy. Vì muốn đại chúng ấy được tận trí và vô sanh trí nên Phật ấy muốn tuyên nói pháp hành Hư Không Mục, để được các quả Thanh Văn, quả Duyên Giác, quả Phật, muốn khai thị Như Lai vô thượng pháp tạng, nên Phật ấy sai tràng hoa báu nầy đến đây xin dục nơi ta, nay ta giữ dục cho đó và ta muốn đem Pháp Mục đà la ni tặng cho kia để làm tin, có thể làm vô lượng vi diệu quang minh, hay làm khô tất cả phiền não, hay thọ trì tất cả pháp được nghe chẳng quên mất, hay làm sạch tất cả cấu nhơ nơi tâm, hay hộ tất cả thiện cấm giới, hay nhập tất cả đại trí huệ, hay hộ tất cả tam muội vô thượng, hay hộ tâm mình sanh lòng vui cho người thọ trì thánh pháp xa lìa các tật bịnh, cầu thiện pháp gì thì liền được như nguyện, liền được tăng trưởng tất cả đồ cần dùng sanh sống, cũng hay trưởng dưỡng tất cả thiện căn, hay điều phục ác vương và tứ tánh, các ác quỉ thần điểu thú độc trùng, hay hộ trì tất cả cội pháp lành, hay được tất cả pháp Phật nhẫn đến được mười tám pháp bất cộng pháp. Vì vậy nên ta muốn sai Pháp Mục đà la ni như vậy đến thế giới Ta Bà kia tặng Thích Ca Như Lai”.

Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức bảo đồng tử Kim Cương Sơn rằng: “Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên qua thế giới Ta Bà xưng danh tự ta mà thăm hỏi Thích Ca Như Lai mà bạch Phật ấy rằng: Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai dâng môn Pháp Mục đà la ni nầy xa tặng Thế Tôn”.

Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay lành thay, tôi cũng muốn đến kính lễ đức Phật ấy và muốn thưa hỏi pháp chưa từng được nghe là Hư Không Mục pháp môn”.

Còn có sáu vạn ức đại Bồ Tát, tám vạn ức Thanh Văn đồng thanh bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai và muốn học hỏi pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe. Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho chúng tôi được qua đến thế giới ấy”.

Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức nói: “Lành thay lành thay! Các thiện nam tử nên biết là phải lúc. Kim Cương Sơn đồng tử có thể điều phục các người, là thiện tri thức của các người”.

Đức Phật bảo Kim Cương Sơn đồng tử: “Nầy Kim Cương Sơn! Lắng nghe lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói môn Pháp Mục đà la ni.

Liền nói chú rằng:

A bà, a bà a bà, nang na xà sa tra, ma ha ma khê, ma ha tha sa bà sa, thọ dụ đê, a tha, na bà na tha nễ, Phật xà la di, an lũ lại di, xà la ca tha, a na nậu đắc xoa, phạm phục bà, na bà trà bà, lặc xoa lỗ giá na, sa tra khê bà, đà la ni mậu xà, ba la già trác bà, tỳ na xí, bà na tỳ phu, a na ca tha, chiên trà mế tu, bà la khê đa, tu lỗ giá na, lỗ giá na bà, lỗ giá xà nang bà bà tư, sá ha.

Nầy Kim Cương Sơn! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni ấy, đến Ta Bà thế giới thăm hỏi Thích Ca Như Lai, như lời ta mà bạch Phật ấy rằng: Tứ bộ đệ tử có thích thọ pháp chăng? Người tứ tánh có hay cúng dường chăng? Tâm chúng sanh có trược loạn chăng? Họ có thường hay gần kề Như Lai chăng? Họ có hay tôn trọng tán thán Phật chăng? Chánh pháp Phật có được thêm rộng lưu bố chăng? Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai xa tặng Thế Tôn môn Pháp Mục đà la ni nầy hay làm ánh sáng lớn khô cháy tất cả ác phiền não nhẫn đến làm cho chúng sanh được Phật thập bát bất cộng pháp”.

Kim Cương Sơn đồng tử tuân Phật dạy thọ trì đọc tụng thơ tả môn Pháp Mục đà la ni rồi bảo các đại chúng rằng: Nếu muốn đến thế giới Ta Bà kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe ấy thì phải xa lìa tất cả sắc tướng, cũng chớ nhớ tướng phân biệt, mà phải thường tu tập tướng hư không, xa lìa tất cả tướng thủ xả, buông bỏ tất cả tướng trần lao, mở các kiết phược, chuyên niệm hư không”.

Đại chúng đồng thanh nói: “Lành thay, lành thay, thưa đồng tử!”.

Đại chúng liền đến trước Phật đảnh lễ. Lễ Phật rồi nhiếp niệm quán tướng hư không, trong thời gian một niệm đến Ta Bà thế giới chỗ Thích Ca Như Lai. Đến rồi kính lễ Phật cúng dường cung kính tôn trọng tán thán hữu nhiễu ba vòng qua một phía chấp tay mà đứng.

Lúc ấy tràng hoa báu lại đi thẳng qua phương Tây quá tám vạn ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Huệ Ám đủ ngũ trược, có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn cũng vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Chư Bồ Tát, Thanh Văn tứ chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh dừng trên không ngay đỉnh đức Phật liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai sử nó?”.

Đức Phật Trí Tràng Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Đông cách đây tám vạn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên Ta Bà đủ ngũ trược. Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu cũng vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như ta đây không khác, cho đến vì muốn khai thị pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa báu nầy đến xin dục nơi ta, ta cho đó và muốn tặng Phật ấy môn Tịnh Mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy các ác phiền não nhẫn đến có thể được Phật thập bát bất cộng pháp”.

Đức Trí Tràng Như Lai bảo Thắng Tràng đồng tử rằng: “Ông nên đến Ta Bà thế giới xưng danh tự ta mà thăm hỏi đức Phật ấy và đem môn Tịnh Mục đà la ni xa tặng”.

Lúc ấy có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay, lành thay, chúng tôi cũng muốn đến thế giới Ta Bà kính lễ Thích Ca Như Lai cùng muốn hỏi học pháp môn Hư Không Mục chưa từng được nghe”.

Nhẫn đến Phật Trí Tràng liền nói thần chú rằng:

Vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, vật lực ha, a bà vật lực ha, tát tha vật lực ha, tu bà xa vật lực ha, na bà vật lực ha, tu phả bà, a năng già, đê tỉ xoa, xà xà tư la, na bà áo nam, khê già bát la, na la na diêm, túc sa, sí xa tư la, a bà la tư la, ma ha bách kỳ xà na, a na siểm đa la, a bà khê già, na du đa siểm đà la, sa phả la, a nang già già, na la noa, sa giá, thủ lưu đa kiệt bà xí na, sá ha.

Nầy Thắng Tràng! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả đà la ni ấy. Nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.

Lúc ấy tràng hoa báu đại quang minh đi thẳng qua phương Bắc quá chín vạn chín ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Vi Thường đủ ngũ trược, Phật hiệu là Phát Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu cũng vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội chư Bồ Tát, chư Thanh Văn và tứ chúng thấy tràng hoa báu dừng ở hư không ngay đỉnh Phật, liền bạch hỏi rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa báu ấy từ đâu đến và ai sai khiến nó?”.

Đức Phật Phát Quang Minh Công Đức nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Nam cách đây chín vạn chín ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như nơi đây không khác, nhẫn đến vì muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa tứ bửu nầy đến xin dục nơi ta. Nay ta giữ dục cho đó và muốn tặng môn Quang Mục đà la ni có thể làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến hay được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.

Đức Phật bảo Thắng Ý đồng tử rằng: “Nầy Thắng Ý! Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự của ta thăm hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni, đem môn Quang Mục đà la ni đây xa tặng Như Lai ấy”.

Trong đại chúng còn có vô lượng Bồ Tát, Thanh Văn đồng bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện tai, thiện tai, chúng tôi cũng muốn đến đó kính lễ Phật Thích Ca và hỏi học pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa từng được nghe, nhẫn đến Phật Phát Quang Minh Công Đức liền nói chú rằng: “Xà bà ma, xà bà ma, xà bà ma, a câu lô tra, tỉ bà xà bà, ma ha đà ma khê bà, a ra xà, san bồ đà, nang khê bà, a ra xà bà bà, ra xà bà bà, xà kỳ xoa xà bà bà, ma hê xà bà ni bạn đà, tỳ mâu giá bà bà, na ra xà noa bà bà, chước thu bà bà, thâu lô đa bà bà, thâu lô đa bà bà, già hận noa bà bà, thị chúc bà bà, ca xà bà bà, chất đa bà bà, sa mậu đà ra bà bà, cực ra noa bà bà, sất na tu lưu kỳ bà bà, soá ha”.

Nầy Thắng Ý! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả môn Quang mục đà la ni ấy đến Ta Bà thế giới, nhẫn đến qua một phía chắp tay đứng”.

Lúc ấy tràng hoa bốn báu đi thẳng qua phương Đông quá sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật, có thế giới tên là Bửu Đảnh đủ ngũ trược, Phật hiệu là Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu đang vì hàng tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế. Trong pháp hội các Bồ Tát, Thanh Văn tứ chúng thấy tràng hoa báu đại quang minh trụ ở hư không ngay đỉnh đức Phật liền bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tràng hoa tứ bửu ấy từ đâu đến và ai sai khiến nó?”.

Đức Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai nói: “Các thiện nam tử! Phương Tây cách đây sáu vạn ngàn ức thế giới chư Phật có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược, Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế như tại đây không khác, nhẫn đến vì muốn khai pháp tạng Như Lai nên sai tràng hoa tứ bửu ấy đến xin dục nơi ta. Nay ta giữ dục cho đó, và muốn tặng cho đó môn Thánh mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.

Đức Phật liền bảo Hư không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư không Thanh! Ông nên đến thế giới Ta Bà xưng danh tự ta thăm hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và đem dâng môn Thánh mục đà la ni xa tặng”.

Nhẫn đến còn có vô lượng Bồ Tát Thanh Văn đại chúng đồng thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lành thay, lành thay, chúng tôi cũng muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và hỏi học pháp môn Hư Không Mục mà chúng tôi chưa từng được nghe”.

Đức Phật Bửu Cái Quang Minh Công Đức liền nói chú rằng: “A la ma, a la ma, a la ma, xà xà ra xà, tự lê xà ra xà, già xà phu, bà ra xà la, a na giá, a khê sa ra, khê già sa xà na, na ô ha, na ra xà na ô ha, ma hê thấp ba la giá ma, a ma ni ha, ha xà bà lợi la, chước thu giá ma, chước thu sa chước thu na, na bà na bà ma xà, a bà khê bà, xa bà na bà, khê già thiền lũ, sa ra chiên đà ra, ma hê thấp ba la ni la na bà, sa đàn ma xoa xà, sá ha.

Nầy Hư Không Thanh! Ông nên thọ trì đọc tụng thư tả môn Thánh mục đà la ni ấy qua thế giới Ta Bà, nhẫn đến qua một phía đứng chắp tay”.

Bấy giờ bốn đồng tử Bồ Tát biến thế giới nầy bằng phẳng, đầy đủ những hương hoa phan lọng bảy báu cúng dương đức Phật. Tất cả cung chư Thiên, cung A Tu La đều bị chấn động sáu cách. Chư Thiên vui mừng đều thọ hỉ lạc đều đem dâng hương hoa phan lọng bảy báu các thứ kỹ nhạc cúng dường Phật.

Bốn đồng tử cúng dường Phật rồi thăng lên hư không cao bảy cây đa la tay cầm tứ bửu nói kệ tán thán:

Phật là vua sáng lớn thanh tịnh

Vì chúng sanh nói pháp cam lộ

Với chúng sanh lòng Phật như đất

Đại bửu thương chủ thương tất cả

Vì chúng sanh nói pháp thanh tịnh

Khiến lìa các khổ và phiền não

Tâm Phật bình đẳng như hư không

Lời Phật vi diệu biết chơn đạo

Đầy đủ giới cấm và trí huệ

Dứt hẳn phiền não mưa cam lộ

Vì người khát pháp Phật xuất thế

Đuốc huệ sáng lớn phá tối tăm

Dầu kẻ không tu bát thánh đạo

Và người được chứng quả giải thoát

Như Lai bình đẳng thương xót đồng

Ban cho Nhơn Thiên tịnh pháp nhãn

Hay độ chúng sanh khỏi sanh tử

Hay ban vô thượng của bảy báu

Hay khiến chúng sanh nhàm sanh tử

Tu trọn ba mươi bảy đạo phẩm

Pháp đã mất lâu nay Phật dạy

Vì vậy được gọi Vô Thượng Tôn

Chúng sanh bốn phương đã tập hội

Duy nguyện xót thương chuyển pháp luân.

Đại chúng trong pháp hội nầy lòng sanh vui mừng đều nói rằng: “Vô lượng vô biên đại chúng từ đâu đến, tất cả đều oai nghi thanh tịnh đủ vô lượng đức, tàm quí trí huệ đều trọn đủ thành tựu, từ trước chúng ta chưa từng thấy chư Đại Tiên ngũ thông sắc thân vi diệu như vậy”.

Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Bốn phương có vô lượng Bồ Tát đều đến tập hội để được nghe pháp. Nay nên chí tâm thanh tịnh ý niệm”.

Đức Phật dùng âm thanh vi diệu bảo bốn đồng tử rằng: “Các thiện nam tử! Các ông đến đây rất tốt. Các ông từ phương nào đến và đến để làm gì?”.

Bốn đồng tử kính lễ chân Phật đi nhiễu giáp vòng. Kim Cương Sơn đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nam phương cách đây chín vạn hai ngàn hằng hà sa thế giới chư Phật, có thế giới tên là Kim Cương Quang Tạng đủ ngũ trược, Phật Thế Tôn hiệu là Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai đủ mười hiệu đang vì tứ chúng tuyên nói pháp tạp Tứ chơn đế.

Đức Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai sai tôi đến thế giới Ta Bà nầy thăm hỏi đức Thế Tôn và muốn nghe pháp môn Hư Không Mục.

Bạch đức Thế Tôn! Phật Kim Cương Quang Minh Công Đức trí kính ân cần thăm hỏi Thế Tôn và sai dâng tặng môn Pháp mục đà la ni hay làm ánh sáng lớn khô cháy ác phiền não, nhẫn đến được Như Lai thập bát bất cộng pháp”.

Kim Cương Sơn đồng tử liền ở trước Phật nói chú như vậy. Ba đồng tử đồng tử kia cũng bạch thưa và nói chú như vậy.

Bốn đồng tử nói chú rồi, đại địa chấn động sáu cách. Tất cả Long Vương đều nói rằng: “Chúng tôi cũng sẽ đồng đến chỗ Phật”.

Phương Đông có hai Long Vương tên là Ngưu Hộ và Bửu Hộ cùng sáu vạn Long Vương.

Phương Nam có hai Long Vương tên là Vi Nguyệt và Bà Tụ cùng bảy vạn Long Vương.

Phương Tây và phương Bắc mỗi phương cũng có hai Long Vương cùng mười vạn Long Vương.

Bốn phương chư Long Vương đến chỗ Phật kính lễ chưn Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đều có thể thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy. Nếu có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy chúng tôi sẽ thành tâm thủ hộ”.

Nước Quy Tư có một Long Vương tên là Hải Đức em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng chín vạn Long Vương.

Nước Vu Điền có một Long Vương tên là Lạc Tạng Bửu cũng là em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng một vạn tám ngàn Long Vương.

Nước Ba La Việt có một Long Vương tên là Sơn Đức cũng là em trai Long Vương A Na Bà Đạt Đa cùng hai vạn Long Vương.

Nước Sư Tử có một Long Vương tên là Bửu Tạng cùng bốn vạn tám ngàn Long Vương.

Nước Tỳ Đồ có một Long Vương tên là Trường Phát cùng bốn vạn ba ngàn Long Vương.

Núi Niệm Mật Xa có một Long Vương tên là Bà Tu Cát cùng tám ngàn Long Vương.

Nước Ô Trành có một Long Vương tên là A Bát La La cùng hai vạn năm ngàn Long Vương.

Nước Càn Đà La có một Long Vương tên là Y La Bát Đa cùng ba vạn Long Vương.

Nước Chơn Đơn có một Long Vương tên là Tam Giác cùng tám ngàn Long Vương.

Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cùng vô lượng Long Vương.

Các Long Vương như vậy đồng đến chỗ Phật kính lễ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi có thể thọ trì đọc tụng thơ tả các môn đà la ni như vậy chẳng quên chẳng mất một chữ”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Chư Long Vương chơn thiệt hay thủ hộ chánh pháp”.

Đức Phật bảo Thiên Nữ Chánh Ngữ rằng: “Nầy Thiên Nữ! Nhà người có thể thủ hộ chánh pháp Như Lai chăng?”.

Chánh Ngữ Thiên Nữ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Như Lai còn tại thế gian và lúc sau khi Phật diệt độ, xứ nào có các đà la ni như vậy lưu bố tôi sẽ thủ hộ xứ ấy. Người nào thọ trì, tuỳ chỗ cần dùng tôi đều cung cấp đủ. Nếu ai muốn thấy thân tôi, tôi sẽ vì họ mà hiện thân.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu hàng tứ chúng có ai muốn thấy tôi, người ấy nên sạch thân mình trì giới tinh tiến, trong một ngày tắm gội ba lần, đoạn thực ba ngày ở riêng nơi tịch tĩnh, hoặc bên tượng Phật, hoặc trong tháp, hoặc ở tĩnh thất, dùng các hương hoa các phan lọng cùng các thứ nước thơm ngon cúng dường Phật, day mặt về hướng chánh Đông tụng chu như vầy:

Bà tra trí, bà tra trí, hưu lâu, hưu lâu, đồn đậu lâu, đồn đậu lâu, khê tra, khê tra, tỉ sá ha.

Đã tụng chú như vậy rồi, tôi sẽ đến đó tuỳ chỗ nguyện cầu của tứ chúng tôi sẽ làm cho được thành tựu tất cả. Nếu tôi không đến đó, là khi dối thập phương chư Phật, cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.

Đức Phật bảo La Hầu A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương, Tỳ Lâu Giá Na A Tu La Vương rằng: “Nay Phật đem các đà la ni như vậy phó chúc chư A Tu La Vương, tại sao, vì các ông có đại lực thế, có chúng sanh nào chẳng tin thì các ông có thể làm họ tin”.

Chư A Tu La Vương bạch rằng: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi sẽ hộ trì. Lúc Phật tại thế và lúc sau khi Phật diệt độ, nếu có hàng tứ chúng hay thọ trì đọc tụng thơ tả các đà la ni như vậy, chúng tôi có thể sẽ ban cho họ tám sự: một là mạnh mẽ, hai là thích nghe học chánh pháp, ba là tâm không sợ sệt, bốn là thường sáng không tối, năm là thiện nguyên đầy đủ, sáu là giải thoát, bảy là biện tài và tám là thiện pháp tăng trưởng. Nếu có A Tu La nào làm não người ấy chúng tôi liền trừng trị. Nếu ở nơi thế giới nầy mà chẳng thủ hộ Phật pháp thì là khi dối thập phương chư Phật Thế Tôn vậy”.

Đức Phật quan sát tứ chúng rồi, bảo Kiều Trần Như Tỳ Kheo rằng: “Nầy Kiều Trần Như! Tất cả đại chúng rất thích nghe pháp. Vô lượng chúng sanh trong vô lượng thế giới đều vì nghe pháp mà đến đây tập hội, đều muốn biết pháp hành phương tiện thành đại trí huệ, xa lìa tham dục và tất cả phiền não, chơn thiệt biết rõ pháp hành phương tiện”.

Tôn giả Kiều Trần Như bạch rằng: “Lành thay đức Thế Tôn, thiệt đúng như lời Phật dạy. Bốn phương thế giới có vô lượng Bồ Tát đều đem lời giữ dục của chư Phật đến đây và muốn hỏi học pháp hành Hư Không Mục. Nay chánh là phải lúc xin Phật thương xót vì chúng sanh mà tuyên nói đó.

Bạch đức Thế Tôn! Được nói là pháp hành, pháp hành Tỳ Kheo. Thế nào gọi là pháp hành Tỳ Kheo?”.

Đức Phật nói: “Nầy Kiều Trần Như! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ vì ông mà giải nói.

Nếu có Tỳ Kheo đọc tụng mười hai bộ kinh Như Lai, đó là Tu đa la nhẫn đến Ưu bà đề xá, đây gọi là thích đọc chớ chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh thích vì đại chúng tuyên dương rộng nói, đây gọi là thích nói chớ chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh hay rộng giảng nói suy nghĩ ý nghĩa, đây gọi là tư duy mà chẳng gọi là pháp hành. Còn có Tỳ Kheo thọ trì đọc tụng Như Lai mười hai bộ kinh giải thuyết tư duy quán nghĩa lý, đây gọi là thích quán mà chẳng gọi là pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo hay quán thân tâm, lòng chẳng tham trước tất cả tướng ngoài khiêm hư hạ ý chẳng kiêu chẳng mạn, chẳng dùng nước ái tưới rưới ruộng nghiệp, cũng chẳng ở trong đó gieo giống thức, dứt diệt giác quán cảnh giới đều dứt, xa lìa phiền não tâm tịch tĩnh. Tỳ Kheo như vậy, Phật gọi là pháp hành. Tỳ Kheo pháp hành ấy nếu muốn được Thanh Văn Bồ đề hoặc Duyên Giác Bồ đề hoặc Như Lai Bồ đề thì có thể được cả.

Nầy Kiều Trần Như! Như thợ lò gốm nhồi đất sét nhuyễn dẻo rồi để trên vòng quay tuỳ ý thành món dùng. Pháp hành Tỳ Kheo cũng như vậy.

Nếu có Tỳ Kheo tu pháp hành thì nên quán ba sự việc là thân, thọ và tâm. Quán ba sự ấy rồi được hai thứ trí là tận trí và vô sanh trí. Thế nào là tận trí và vô sanh trí?

Nầy Kiều Trần Như! Trí hết phiền não gọi là tận trí, trí hết hữu chi gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, trí không có hành nhơn gọi là tận trí, trí không có hành quả gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, trí hết các kiết sử gọi là tận trí, trí hết phiền não gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, trí hết các hành gọi là tận trí, trí hết tất cả hữu gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, phân biệt hết không có vất gọi là tận trí, biết rõ các hệ phược giải thoát gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, biết hết căn giới gọi là tận trí, biết hết duyên giới gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, chẳng giác quán phiền não, gọi là tận trí, chẳng giác quán quả báo gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, trí hết phiền não đệ tam địa gọi là tận trí, trí hết tất cả phiền não gọi là vô sanh trí.

Còn nữa, sanh của ta đã hết phạm hạnh thanh tịch gọi là tận trí, không còn thừa thân trong ba cõi gọi là vô sanh trí.

Hai trí như vậy gọi là một trí cũng gọi một hạnh biết rõ tam đạo. Nếu có Tỳ Kheo dứt được tam đạo thì gọi là pháp hành.

Có thể quán như vậy là quán tâm và thọ.

Thế nào là Tỳ Kheo hay quán sát thân?

Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở vào ra, đây gọi là quán thân quán thọ quán tâm.

Thế nào là quán hơi thở vào ra?

Hơi thở vào ra gọi là A na ba na. Thở vào là A na, thở ra là Ba na. Quán hơi ra vào như cửa như ngõ. Nếu có Tỳ Kheo quán như vậy đây gọi là pháp hành.

Nếu có Tỳ Kheo có thể học có thể đếm theo hơi thở ra vào lạnh nóng dài vắn. Hoặc khắp đầy thân, hoặc cột tâm nơi đầu mũi, hay thấy mới cũ, phân biệt rõ các tướng, hay quán sanh diệt cầu xa ma tha khéo vào trong định, cũng hay quán sát hơi thở thô tế, nhẫn đến quán ở nội thân, thân tưởng là thân, đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Lúc tu sổ tức được hai sự đó là lìa ác gíac quán và quán tướng mạo của hởi thở. Lúc tu tập tuỳ tức cũng được hai sự, đó là chuyên niệm niệm tâm và lìa thiện giác quán. Quán hơi lạnh nóng cũng được hai sự, đó là phân biệt ra vào và quán tướng tâm số. Lúc quán thân cũng được hai sự, đó là thân khinh và tâm khinh. Chuyển quán sanh diệt cũng được hai sự, đó là biết tất cả pháp là tướng vô thường và biết tất cả pháp là tướng vô lạc.

Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo niệm xuất nhập tức cột tâm một chỗ, có số giảm và số tăng.

Thế nào là số giảm? Đó là hai đếm là một, ba đếm là hai, nhẫn đến mười đếm là chín.

Thế nào là số tăng? Đó là một đếm là hai, nhẫn đến chín đếm là mười.

Cớ sao lại tu sổ tức, vì phá tất cả giác quán vậy. Lúc được sơ thiền quán xuất nhập tức và quán tâm tướng. Sơ thiền có năm chi là giác, quán, hỉ, lạc và định. Lúc đủ năm chi thì lìa tham sân si.

Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ năm chi thiền thì gọi là pháp hành, xa lìa năm sự, thành tựu năm sự, tu tập phạm hạnh thành đại công đức.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể được Nhị thiền thì gọi là pháp hành. Tỳ Kheo nầy quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa giác và quán được đệ Nhị thiền.

Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa hỉ được đệ Tam thiền.

Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất cột tâm một chỗ xa lìa hỉ lạc bất khổ bất lạc được đệ Tứ thiền.

Nếu có Tỳ Kheo quán tức nhập xuất thì quán ngũ ấm, nếu quán ngũ ấm thì gọi là pháp hành.

Nếu Tỳ Kheo thấy tất cả pháp hành sanh diệt nhẫn đến thấy tất cả phiền não sanh diệt, đây gọi là như pháp nhẫn.

Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn rỗng không nhẫn đến thấy ý thức rỗng không, đây gọi là không nhẫn.

Nếu Tỳ Kheo thấy nhãn không có tướng nhẫn đến thấy ý thức không có tướng, đây gọi là vô tướng nhẫn.

Nếu Tỳ Kheo chẳng nguyện cầu nơi nhãn nhẫn đến chẳng nguyện cầu nơi ý thức, đây gọi là vô nguyện nhẫn.

Nếu vì chúng sanh mà đi trong sanh tử, đây gọi là tuỳ thượng chơn đế nhẫn.

Thế nào là tuỳ căn, tuỳ lực, tuỳ giác quán, nhẫn đến tuỳ Niết bàn?

Với các pháp nhãn đến ý thức như vậy mà tâm chẳng thủ trước thì gọi là tín nhẫn, đây là tín chẳng gọi là tín căn. Nếu nhiếp thân tâm chẳng cho tạo ác thì gọi là tinh tiến chẳng gọi là tiến căn. Nếu hay chuyên niệm các pháp như vậy thì gọi là niệm chẳng gọi là niệm căn. Tâm và tâm số pháp có thể cột một cảnh duyên thì gọi là định chẳng gọi là định căn. Nếu có thể chẳng thấy các tướng như vậy thì gọi là huệ chẳng gọi là huệ căn. Nếu quán những vô căn như vậy thì gọi là pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán đảnh pháp, thế đệ nhứt pháp, quán tam giải thoát: không, vô tướng và vô nguyện; vô thường, khổ, không, đây gọi là pháp hành, đây gọi là không tam muội. Không tam muội ấy duyên không có thọ mạng, duyên không có tự tại. Vô tướng tam muội duyên tận duyên hoại duyên diệt duyên yểm ly. Vô nguyện tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Có không tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ. Vô tướng tam muội duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành, có cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo duyên huệ diệt trang nghiêm nhập vô nguyện tam muội, đây gọi là duyên cam lộ chẳng phải cam lộ hành.

Nếu có Tỳ Kheo duyên huệ diệt mà được giải thoát, đây gọi là cam lộ hành chẳng phải duyên cam lộ.

Như vô nguyện, không và vô tướng cũng vậy.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo có thể quán như vậy, đây gọi là pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán thọ quán tâm, đây gọi là pháp hành. Tại sao, vì có thể phá hoại hai mươi ngã kiến vậy.

Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến đều riêng có năm thứ.

Sắc đoạn nhẫn đến thức đoạn đây gọi là đoạn kiến.

Sắc ngã nhẫn đến thức ngã đây gọi là năm ngã kiến.

Năm đoạn kiến phân biệt thì có bốn mươi bốn thứ, đó là mười sáu thứ nói tưởng, tám thứ nói vô tưởng, tám thứ nói phi tưởng phi phi tưởng, sáu thứ nói các loại tưởng và sáu thứ nói đoạn.

Năm ngã kiến phân biệt có mười tám thứ, đó là bốn thứ định nói ngã, bốn thứ nói biên, bốn thứ nói dị sự và sáu thứ nói vô cầu tam muội.

Nầy Kiều Trần Như! Đoạn kiến và ngã kiến phân biệt thành sáu mươi hai kiến.

Hai mươi ngã kiến nhơn duyên có thể sanh bốn trăm lẻ bốn thứ phiền não. Vì rời lìa các phiền não như vậy mà quán thân tâm đây gọi là pháp hành. Tỳ Kheo có thể quán thân tâm như vậy.

Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là bát nhơn, thế nào là quyết định?

Nầy Kiều Trần Như! Người đoạn kiến nói rằng một niệm dứt. Người thường kiến nói rằng bát nhẫn dứt. Hai hạng người ấy đều được quyết định. Về sau rời lìa phiền não cũng đều không có phòng ngại.

Nầy Kiều Trần Như! Người có thể được bát nhẫn thì gọi là bát nhơn. Người được mười sáu tâm đây gọi là quyết định, đây gọi là như pháp.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành tựu pháp quán xuất nhập tức thì được bát nhơn cũng gọi là quyết định.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo thành tựu sổ tức thì được tín căn nhẫn đến huệ căn. Nếu được ngũ căn thì được thế gian đệ nhứt pháp. Tỳ Kheo như vậy có thể phá tất cả tâm nghi, đây gọi là chơn thiệt tu tập thánh hạnh.

Nếu có Tỳ Kheo thành tựu khổ trí thì dứt mười thứ phiền não, đây gọi là tu tập sơ vô lậu tâm quán. Lúc ấy thứ đệ quán vô nguyện tam muội. Lúc quán vô nguyện tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là vô lậu định trí, được khổ pháp nhẫn khổ pháp trí, tập pháp nhẫn tập pháp trí. Bấy giờ quán Sắc giới ngũ ấm, Vô Sắc giới tứ ấm, như Dục giới khổ, Sắc giới và Vô Sắc giới khổ cũng như vậy. Quán như vậy rồi dứt Sắc và Vô Sắc mười tám thứ phiền não. Mười tám thứ đã dứt rồi tư duy như vầy: các khổ ấy từ nơi nào đến và ai tạo ra nó. Tư duy như vậy biết rõ khổ ấy từ ái nhơn duyên, nếu ta không nhổ rễ ái như vậy thì sẽ sanh khổ, vì vậy mà quán tập, quán tập như vậy rồi dứt bảy phiền não. Quán Dục giới tập rồi, quán Sắc giới, Vô Sắc giới tập cũng như vậy. Quán như vậy rồi được tỉ nhẫn tỉ trí.

Lúc quán như vậy dứt mười ba phiền não.

Nầy Kiều Trần Như! Người đủ bát nhẫn thì gọi là bực bát nhơn pháp.

Dứt tập tam giới rồi lại quán như vầy: do nhơn duyên gì mà dứt khổ và tập? Vì an lạc vậy. Đại an lạc tức là diệt đế.

Bấy giờ sơ quán Dục giới diệt đế được diệt pháp nhẫn dứt bảy phiền não, Sắc và Vô Sắc cũng như vậy, quán như vậy được diệt tỉ nhẫn dứt mười hai phiền não.

Lại quán như vầy: do nhơn duyên gì được bảy nhẫn, biết rằng nhơn tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Do sức bát chánh đạo mà biết Dục giới khổ tập và diệt đế, biết Sắc giới và Vô Sắc giới khổ tập diệt đế. Lúc nầy kế sanh đạo pháp nhẫn, được rồi có thể dứt tám thứ phiền não. Lại quán Sắc giới và Vô Sắc giới được đạo tỉ nhẫn dứt mười bốn phiền não.

Do tu tập pháp quán như vậy dứt tám mươi tám thứ phiền não, đây gọi là quyết định. Được quả Tu Đà Hoàn đây gọi là được mười sáu tâm, đây gọi là quyết định được Bồ đề, đây gọi là bảy lần qua lại dứt hết tất cả khổ.

Nầy Kiều Trần Như! Có người từ tín quyết định, có người từ pháp quyết định. Có người một đời được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến được quả A La Hán. Có người nhập tín căn nhẫn đến huệ căn. Có người tu định, có người tu huệ. Có người được Sơ thiền nhẫn đến Tứ thiền được nhập quyết định, quán tất cả hành vô thường, thứ đệ sanh diệt xa lìa tất cả pháp phàm phu. Có người quán tất cả hành vô thường, khổ, không, bất tịnh, chẳng được tự tại, không có tịch tĩnh, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, quán như vậy rồi được tịch tĩnh diệt đế, đây gọi là Tỳ Kheo như pháp mà hành.

Nầy Kiều Trần Như! Như Lai biết rõ tất cả chúng sanh các căn lợi độn, cũng biết tất cả chúng sanh tâm tánh tất cả phiền não tánh, vì vậy Như Lai theo chỗ chúng sanh đáng được mà vì họ thuyết pháp, tuỳ các phiền não tuyên nói đối trị, nên Như Lai được gọi là Nhứt thiết chủng trí.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh thơ tả đọc tụng, điên đảo giải nghĩa, điên đảo tuyên nói. Vì điên đảo giải nói nên che ẩn pháp tạng. Vì che pháp nên gọi là Đàm Ma Cúc Đa.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, mà lại còn đọc tụng thơ tả giải nói ngoại điển, thọ trì tam thế và nội ngoại điển phá hoại ngoại đạo, hay giỏi luận nghĩa, nói rằng tất cả tánh đều được thọ giới, phàm chỗ vấn nạn thường hay đối đáp, vì vậy nên gọi là Tát Bà Nhã Đế Bà.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả nói rằng không có ngã và người thọ, chuyển các phiền não dường như tử thi, vì vậy nên gọi là Ca Diếp Tỳ Bộ.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, chẳng trụ các tướng địa thuỷ hoả phong hư không thức, vì vậy nên gọi là Sa Di Tắc Bộ.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật Niết bàn, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, đều nói rằng có ngã, chẳng nói tướng không, dường như tiểu nhi, vì vậy nên gọi là Bà Ta Phú La.

Nầy Kiều Trần Như! Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật thọ trì Như Lai mười hai bộ kinh đọc tụng thơ tả, rộng rãi xem khắp kinh thơ năm bộ, vì vậy nên gọi là Ma Ha Tăng Kỳ.

Nầy Kiều Trần Như! Năm bộ như vậy dầu đều dị biệt mà đều chẳng phòng ngại chư Phật pháp giới và đại Niết bàn.

Thế nào gọi là tuỳ tín hành?

Nếu tin Tam bửu có đủ tín căn, từ tín nhơn duyên nhập vào quyết định được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán. Từ tín được giải thoát nên gọi là tín giải thoát, cũng gọi là nhứt phần, cũng gọi là thân chứng, cũng gọi là huệ giải thoát. Đây gọi là tuỳ tín hành.

Thế nào gọi là tuỳ pháp hành?

Nếu có người từ nơi pháp nhập quyết định đầy đủ huệ căn được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quá Sắc giới, Vô Sắc giới được quả A La Hán, đây gọi là kiến đáo nhị phần giải thoát, đây gọi là vô học giải thoát, đây gọi là pháp hành, đây gọi là thành tựu thân thân quán nhẫn đến thành tựu pháp pháp quán, đây gọi là thành tựu Tỳ bà xá na và Xa ma tha.

Thế nào là Xa ma tha?

Xa ma tha gọi là diệt. Có thể diệt tâm tham, tâm sân, tâm tán loạn gọi là Xa ma tha.

Thế nào là tướng Xa ma tha?

Hay diệt tướng tham, tướng sân, tướng si, gọi là tướng Xa ma tha.

Nếu có thể tuỳ tu Xa ma tha hạnh tôn trọng tán thán hướng Xa ma tha phương tiện trang nghiêm, đây gọi là Xa ma tha tướng.

Nếu có Tỳ Kheo thâm tự tư duy rằng tham tâm của ta chỉ quán bất tịnh mới phá hoại được. Sân tâm của ta chỉ quán từ mới phá hoại được. Tâm si của ta chỉ quán thập nhị nhơn duyên mới phá hoại được. Đây gọi là Xa ma tha tướng.

Thế nào gọi là Tỳ bà xá na?

Nếu tu thánh huệ hay quán ngũ ấm thứ đệ sanh diệt, đây gọi là Tỳ bà xá na.

Còn nữa, nếu quán các pháp đều như, pháp tánh, thiệt tánh, thiệt tướng, chơn thiệt biết rõ, đây gọi là Tỳ bà xá na.

Thế nào gọi là tướng Tỳ bà xá na?

Nếu có thể thành tựu đầy đủ niệm tâm quán tất cả hành từ duyên mà sanh từ duyên mà diệt, tất cả hành không tự tại, không tác, không thọ, đây gọi là tướng Tỳ bà xá na.

Thế nào gọi là Tỳ bà xá na nhập quyết định?

Nếu chí tâm Tỳ bà xa na cung kính tôn trọng hướng trang nghiêm đạo, đây gọi là từ nơi Tỳ bà xá na nhập vào quyết định.

Thế nào gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo có thể quán tâm xuất nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành xuất nhơn duyên, đây gọi là xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.

Thế nào gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay thâm quán diệt tâm nhơn duyên nhẫn đến tất cả hành diệt nhơn duyên, đây gọi là diệt pháp nhiếp tâm chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm.

Thế nào gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải xuất pháp nhiếp tâm chẳng phải diệt pháp nhiếp tâm.

Thế nào là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán xuất tức mà chẳng quán nhập tức, đây gọi là duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.

Thế nào là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo hay quán nhập tức chẳng quán xuất tức, đây gọi là tư duy nhiếp tâm chẳng phải duyên nhiếp tâm.

Thế nào gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm?

Nếu Tỳ Kheo quán tâm tánh nhãn tánh nhẫn đến ý tánh, đây gọi là chẳng phải duyên nhiếp tâm chẳng phải tư duy nhiếp tâm.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu Tỳ Kheo hay nhiếp tâm thì được tám mươi môn tam muội và tu ba môn giải thoát.

Nếu Tỳ Kheo quán quá khứ thân và tu trang nghiêm, quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô nguyện giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi chỉ thấy tâm mà chẳng thấy thân và tu trang nghiêm quán thân thấy thân, đây gọi là tu vô tướng giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán thân quá khứ rồi, chẳng thấy tác chẳng thấy tác giả. Tác giả không có thân, thân không có tác giả, tu trang nghiêm đạo quán thân thấy thân, đây gọi là không giải thoát môn.

Quán thọ tâm và pháp cũng như vậy.

Còn nữa, nầy Kiều Trần Như! Ba môn giải thoát tu quán trang nghiêm, quán tất cả hành bất xuất bất diệt, xuất rồi thì diệt, diệt không có chỗ đến, chẳng đến chẳng đi chẳng tới, đây gọi là trang nghiêm vô nguyện giải thoát môn.

Còn nữa, vị lai thế các hành chưa xuất, nếu hành chưa xuất thì không có diệt, không có xuất không có diệt, đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.

Còn nữa, quán hành tất cánh tận, tất cánh tận thì không có sanh diệt. Nếu không có sanh diệt thì tất cánh tận. Nếu tất cánh tận thì tức là không nhơn duyên. Nếu quán tất cánh tận như vậy, đây gọi là trang nghiêm không giải thoát môn.

Còn nữa, nếu quán hành tất cánh tận thì không có sanh diệt, nếu không có sanh diệt tức là không có rỗng không. Tại sao, vì trước có sau không có gọi là rỗng không. Nếu là bổn không có thì không có sau không. Nếu không có sau không thì thế nào gọi là rỗng không.

Nếu không có hành tức là vô vi. Tất cánh tận ấy chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi. Rỗng không chẳng phải hành chẳng phải không có hành. Vì vậy nên tất cánh tận ấy chẳng phải nhiếp thuộc hữu vi chẳng phải nhiếp thuộc vô vi. Đây gọi là trang nghiêm vô tướng giải thoát môn.

Còn nữa, nếu các hành tất cánh tận ấy thì tức là Niết bàn, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, vì vậy nên chẳng phải quá khứ hành diệt gọi là Niết bàn, cũng chẳng phải vị lai hiện tại hành diệt gọi là Niết bàn. Người Tu Đà Hoàn thấy Niết bàn ấy nhẫn đến người A La Hán thấy Niết bàn ấy.

Thế nào gọi là khổ đế?

Quán tất cả hành chẳng thấy Đệ nhứt đế. Quán tất cả nhơn chẳng thấy Đệ nhị đế. Quán tất cả diệt chẳng thấy Đệ tam đế. Quán tất cả đạo chẳng thấy Đệ tứ đế.

Thế nào gọi là sanh?

Bổn không có sau mới gọi là sanh.

Thế nào gọi là diệt?

Có rồi hoàn không gọi là diệt.

Không có xuất diệt đây gọi là tận.

Do nhân duyên gì không có xuất diệt gọi đó là đạo?

Đạo có sáu hành đó là tu và chẳng phải tu, hành và chẳng phải hành, tri và chẳng phải tri.

Nếu có Tỳ Kheo hay thấy các pháp sanh diệt như vậy, thì hay nhàm tất cả các hành, hay thấy tướng vô thường của tất cả hành.

Thế nào là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường?

Nếu có tướng tạp với hành sơ vô lậu tướng, nếu có tướng tạp với hành vô nguyện giải thoát môn, nếu có tướng không rỗng, tướng khổ, tướng bất tịnh, tướng vô ngã, đây gọi là tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.

Thế nào là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường?

Đó là tam giới sắc tướng thanh tướng đến pháp tướng, đây gọi là điên đảo tướng, gọi là xả tướng chẳng phải vô thường tướng. Đây gọi là pháp vô thường chẳng phải tướng vô thường.

Thế nào là vô thường tướng cũng vô thường pháp?

Đó là tất cả chúng sanh chưa được quyết định, do thế tục đạo nhập các tam muội tuỳ pháp tướng nhẫn. Đây gọi là tướng vô thường cũng là pháp vô thường.

Thế nào là chẳng phải tướng vô thường và chẳng phải pháp vô thường?

Đó là tướng tịch tĩnh thường và tướng giải thoát tịnh. Đây gọi là chẳng phải tướng vô thường chẳng phải pháp vô thường.

Thế nào gọi là được Đệ nhứt đế?

Đó là quán sáu căn ngũ ấm dường như tượng trong gương, đây gọi là được đế thứ nhứt.

Thế nào là nhứt tâm quán Tứ đế?

Nếu quán các hành đều là nhơn khổ. Vì là nhơn khổ nên thấy được diệt dứt được xa lìa được, như vậy gọi là tâm duyên vô lậu. Vì vậy nên nhất tâm được tứ đế, gọi là tâm vô lậu được giải thoát.

Nếu có Tỳ Kheo quán tâm số, đây gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Quán tâm số rồi quán mười hai sự:

Mười hai sự là: Nghiệp, hành, khổ, không, hoại, chẳng tự tại, quá khứ, hiện tại, vị lai, nhơn duyên, vô tác và thọ.

Đây gọi là thấy tâm tâm số gọi là vô nguyện giải thoát môn.

Nếu có Tỳ Kheo quán sát tâm ấy, không có tâm sanh không có xuất nhập, không có năng viễn ly, đây gọi là thấy tâm tâm số được không giải thoát môn.

Nếu Tỳ Kheo quán không có tâm nhập định mà được xa lìa tất cả phiền não, vì không nhơn duyên nên phiền não chẳng sanh. Đây gọi là viễn ly phiền não mà thấy tâm tâm số được vô tướng giải thoát môn.

Nếu quán như vậy thì được xa lìa tâm hữu lậu mà được vô lậu giải thoát.

Nầy Kiều Trần Như! Tất cả các hành hữu vi đều không có quyết định. Nếu đã bất định thì thế nào được nhập vào định tụ. Nếu nói rằng quán sát tam thế rồi được nhập định tụ, nghĩa ấy không phải. Tại sao, vì quá khứ đã hết, vị lai chưa xuất, hiện tại vô thường, tam thế quán sai khác thì thế nào được nhập định tụ ư! Vì thế nên tất cả dị quán, tánh nó chẳng quyết định.

Như điện đường có bốn bực thang. Nếu nói rằng chẳng do bực thang thứ nhứt mà đến bực thang thứ tư thì chẳng có lẽ ấy.

Lúc lên bực thang thứ nhứt chẳng được gọi là lên bực thứ tư. Đã có bốn bực như vậy thì chẳng gọi là một.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu bốn đế ấy là một đế thì mới có thể nhứt tâm được!

Nầy Kiều Trần Như! Lúc quán khác lúc được cũng khác.

Lúc quán khác đó là nhơn và quả đều hoại hết.

Lúc được khác đó là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.

Nếu có Tỳ Kheo quán các hành là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, là vô trụ, là lậu, là kiết duyên, là tất cả hữu, đây gọi là hệ phược, vì vậy nên chẳng cầu các ấm các hành mà nhàm tất cả hành và thích cầu Niết bàn, chí tâm tư duy công đức Niết bàn, rất thích tịch tĩnh, chẳng tiếc thân mạng, tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là Tỳ Kheo tâm có thể quán sát tâm?

Nếu có Tỳ Kheo có thể quán sát tâm. Tâm vô thường là pháp sanh diệt, đây gọi là Tỳ Kheo tâm hay quán tâm.

Tỳ Kheo như vậy tu không tam muội.

Thế nào gọi là không?

Đó là ngũ ấm không, thập nhị nhập không, thập bát giới không, tứ đế không, thiệt không, thập nhị nhơn duyên không, tánh không.

Thế nào là Ngũ ấm không?

Đó là sắc ấm không, không có ngã ngã sở, đến thức ấm không, không ngã ngã sở. Đây gọi là ngũ ấm không.

Nhập và giới không cũng như vậy.

Thế nào là Tứ đế không?

Đó là khổ đế không có đắc không có xả, đến đạo đế không có đắc không có xả. Đây gọi là Tứ đế không.

Thế nào gọi là thiệt không?

Trong tất cả pháp không có giác quán không có ngã ngã sở. Đây gọi là thiệt không.

Thế nào là Thập nhị nhơn duyên không?

Thập nhị nhơn duyên tứ là thập nhị hữu chi, Quán thập nhị chi không có ngã ngã sở, đây gọi là thập nhị nhơn duyên không.

Thế nào là Tánh không?

Nếu có Tỳ Kheo quán nhãn không, không có ngã ngã sở, đến quán ý không, không có ngã sở. Đây gọi là Tánh không.

Đây gọi là pháp hành có thể quán tâm tâm số.

Tỳ Kheo như vậy chẳng thấy chúng sanh thọ mạng sĩ phu. Tỳ Kheo ấy biết tất cả pháp tánh chơn thiệt hiểu biết thế đế vì là lưu bố vậy. Nói ấm nhập giới, biết tất cả pháp tánh không có xuất diệt.

Tỳ Kheo như vậy có thể qua khỏi sanh tử, có thể biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo, có thể dứt phiền não.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập pháp hành biết tất cả pháp từ nhơn duyên sanh từ nhơn duyên diệt. Tỳ Kheo như vậy được ba giải thoát, biết sắc chơn tướng. Sắc chơn tướng ấy tức là ngại tướng, thọ thọ tướng, tưởng giác tướng, hành hành tướng, thức tri tướng. Đây gọi là chơn thiệt biết tất cả pháp tướng, quán như vậy rồi được Không giải thoát môn.

Thấy tất cả pháp không có tác giả thọ giả, không có thọ mạng tự tại, chỉ thấy vô thường khổ vô ngã bất tịnh, đây gọi là được Vô nguyện giải thoát môn.

Quán tất cả pháp không có sanh không có diệt, đây gọi là được Vô tướng giải thoát môn.

Nầy Kiều Trần Như! Pháp hành Tỳ Kheo có thể được thần thông không có ác giác quán, miệng trọn chẳng nói bốn thứ ác, không có đấu tranh, không nghe lời ác, lúc bấy giờ xa lìa ngũ cái tăng trưởng năm thiện căn được Sơ thiền.

Nhập sơ thiền rồi muốn được thần thông, cột tâm đầu mũi quán hơi thở ra vào sâu thấy chín vàn ngàn lỗ lông, hơi thở ra vào thấy thân đều rỗng không, đến tứ đại cũng như vậy.

Quán như vậy rồi xa lìa sắc tướng được thần thông, đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhãn thông?

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào chơn thiệt thấy sắc. Đã thấy sắc rồi tư duy như vầy: như ta được thấy tam thế các sắc, ý nếu muốn thấy tuỳ ý liền thấy. Đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Nhĩ thông?

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào. Quán hơi thở ra vào rồi thứ đệ quán âm thanh, đến Tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Tha tâm trí?

Nếu có Tỳ Kheo lúc được Sơ thiền quán hơi thở ra vào tu Xa ma tha và Tỳ bà xá na, đây gọi là Tha tâm trí, đến tứ thiền cũng như vậy.

Thế nào là pháp hành Tỳ Kheo được Túc mạng trí?

Nếu có Tỳ Kheo quán hơi thở ra vào lúc được Sơ thiền được nhãn thông. Được nhãn thông rồi quán thân ban sơ lúc ca la la nhẫn đến ngũ ấm sanh diệt, trong vô lượng kiếp ngũ ấm sanh diệt. Đến Tứ thiền cũng như vậy.

Nói là thiền ấy, cớ sao gọi là Thiền?

Vì mau chóng gọi là Thiền. Mau rất mau, trụ đại trụ, tĩnh tịch tĩnh, quán diệt viễn ly, đây gọi là Thiền.

Sơ thiền ấy cũng gọi là cụ túc, cũng gọi là viễn ly.

Thế nào là cụ túc? Thế nào là viễn ly?

Nói viễn ly là xa lìa ngũ cái.

Nói cụ túc là có đủ năm chi, đó là giác, quán, hỉ, an và định.

Thế nào là giác?

Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy quán nơi tâm tánh. Đây gọi là giác.

Thế nào là quán?

Nếu quán tâm hành, đại hành, biến hành, đều tuỳ ý. Đây gọi là quán.

Thế nào là hỉ?

Như chơn thiệt biết, biết rất rõ, tâm động chí tâm. Đây gọi là hỉ.

Thế nào là an?

Đó là thân an, tâm an, thọ an, thọ nơi lạc xúc. Đây gọi là an.

Thế nào là định?

Nếu tâm trụ đại trụ, chẳng loạn nơi cảnh duyên, chẳng sai lầm, không có điên đảo. Đây gọi là định.

Nhị thiền ấy, đồng xa lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là hỉ, an, nội tịnh và định.

Nhập Tam thiền cũng xa lìa ngũ cái, có đủ năm chi là niệm, xả, huệ, an và định.

Nhập Tứ thiền cũng lìa ngũ cái, có đủ bốn chi là niệm, xả, bất khổ bất lạc và định.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo đầy đủ Tứ thiền, đây gọi là pháp hành.

Nếu có Tỳ Kheo quán thân nhàm sợ, xa lìa thân tướng, tất cả thân xúc, hỉ xúc, lạc xúc, phân biệt sắc ấm, xa lìa sắc ấm, quán vô lượng không xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo tu tập pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thức xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo tu Xa ma tha, Tỳ bà xá na quán tâm ý thức, tự biết thân nầy chẳng thọ ba thứ thọ, đã được xa lìa ba thứ thọ ấy, vì vậy nên gọi là được thức xứ định. Đây gọi là pháp hành.

Thế nào là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định?

Nếu có Tỳ Kheo quán tam thế không, biết tất cả hành cũng sanh cũng diệt, không xứ và thức xứ cũng sanh cũng diệt. Quán như vậy rồi thứ đệ quán thức: nay ta quán thức cũng chẳng phải thức, chẳng phải chẳng thức. Nếu chẳng phải thức ấy đây gọi là tịch tĩnh. Nay ta thế nào dứt hẳn thức ấy. Quán như vậy rồi được ít thức xứ. Đây gọi là Tỳ Kheo được Thiểu xứ định.

Thế nào là Tỳ Kheo được Phi tưởng phi phi tưởng xứ định?

Nếu Tỳ Kheo có chẳng phải tâm tưởng, suy nghĩ như vầy: nay tưởng ấy của ta là khổ là thống là nhọt, là ung, là chẳng tịch tĩnh, nếu ta có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là tịch tĩnh.

Nếu Tỳ Kheo có thể dứt được chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng tưởng ấy, đây gọi là được vô tướng giải thoát môn. Tại sao, pháp hành Tỳ Kheo suy nghĩ rằng:

Nếu có thọ tưởng, nếu có thức tưởng, nếu có xúc tưởng, nếu có không, nếu có thức, nếu có phi tưởng phi phi tưởng. Các thứ tưởng ấy gọi là thô tưởng. Nay nêu ta tu vô tướng tam muội thì có thể dứt được các tưởng như vậy, vì thế nên thấy phi tưởng phi phi tưởng là tịch tĩnh xứ. Thấy như vậy rồi nhập phi tưởng phi phi tưởng định.

Nếu được Phi tưởng phi phi tưởng định rồi mà không ái không ái không tham thì có thể phá vô minh, phá vô minh rồi thì gọi là được quả A La Hán.

Ba định trước không thức và thiểu xứ hai đạo sở đoạn. Định thứ tư sau đây trọn chẳng thể dùng thế tục đạo đoạn được. Phàm phu dù ở nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ không có thô phiền não cũng còn có mười pháp. Đó là thọ, tưởng, hành, xúc, tư, dục, giải, niệm, định và huệ.

Thọ là thức thọ, tưởng là thức tưởng, hành là pháp hành, xúc là ý xúc, tư là pháp tư, dục là muốn nhập định muốn xuất định, giải là pháp giải, niệm là niệm tam muội, định là tâm như pháp trụ, huệ là hụê căn và huệ lực.

Quán hướng tứ quả hành đến được A La Hán quả, quán sanh diệt và không tam muội. Quán tứ đại như bốn rắn độc. Mười pháp như vậy, không xứ thứ tư có đủ cả. Do vì không có thô phiền não nên phàm phu gọi đó là Niết bàn.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu có Tỳ Kheo tu tập thánh đạo nhàm lìa tứ thiền và tứ không xứ, quán nơi diệt định đạo trang nghiêm tư duy như vầy: Các hơi thở ra vào đều là vô thường, nếu ta dứt được xuất nhập tức thì là an lạc. Do đây nên tất cả các hành nhơn duyên đều diệt, thọ diệt, tưởng diệt, nhẫn đến huệ diệt. Vì giác quán diệt nên ấm nhập giới đều diệt, tham sân si diệt, tất cả tâm số pháp diệt, tất cả phi tấm số pháp cũng diệt. Đây gọi là pháp bất cộng với phàm phu, chẳng phải pháp thế gian, là pháp vô học.

Nầy Kiều Trần Như! Bực Tu Đà Hoàn, bực Tư Đà Hàm trọn chẳng thể được diệt định ấy. Thứ đệ được quả A Na Hàm cũng chẳng thể được. Nếu người A Na Hàm xả thân nầy rồi được quả A La Hán cũng không thể được diệt định ấy.

Nếu người được bát giải thoát đầy đủ, người nầy mới được diệt định ấy.

Nầy Kiều Trần Như! Nếu giả sử Như Lai cùng kiếp tận kiếp nói môn Pháp Mục đà la ni ấy mới cùng tận được. Đây gọi là pháp vô ngại trí.

Nầy Kiều Trần Như! Pháp mục đà la ni như vậy chẳng thể nghĩ bàn.

Giả sử có người dùng quỷ mao đếm được số giọt nước biển, nhưng chẳng đếm biết được công đức của Pháp Mục đà la ni. Nếu trừ Như Lai, có ai nói hết được thì không có lẽ ấy. Nhẫn đến tất cả vi trần trong Ta Bà thế giới cũng như vậy.

Đức Phật bảo Kim Cương Sơn Đồng tử rằng: “Nầy Kim Cương Sơn! Pháp Mục đà la ni của ông mang đến đây cùng với chỗ được nói hôm nay có khác không?”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Không có khác vậy”.

Đức Phật hỏi: “Nầy Kim Cương Sơn! Nói như vậy chăng?”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thiệt nói như vậy”.

Đức Phật nói: “Với pháp nầy, nếu có người thọ trì đọc tụng thơ tả rộng vì người giảng nói. Nên biết rằng người ấy thường được Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả Bát Bộ Thiên Thần thủ hộ. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, qua sông phiền não nhập vào Bát chánh đạo”.

Kim Cương Sơn Đồng tử nói: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn! Thiệt đúng như lời đức Phật dạy”.

Đức Phật bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Nếu có người trong hàng tứ chúng mà tu pháp ấy thì không gì phá hoại được. Đây gọi là thí quang, hay thanh tịnh tịch tĩnh, không có hành xứ, không trược, không động, không có sở y, không ít, không nhiều, gọi là chí xứ hành, là tế hành, là kiên hành, hay phá bốn ma và tứ ma chúng, cùng tất cả tà kiến, qua sông sanh tử vào biển trí huệ, thường được chư Thánh tán thán, được gần chỗ ngồi của Như Lai, dầu chưa dứt hết tất cả phiền não, cũng được thượng thân thượng sắc thượng lực thượng biện thượng niệm thượng huệ thượng xứ. Hoặc được làm Chuyển Luân Vương thống lãnh bốn ba hai một thiên hạ. Hoặc làm Thiên Đế Thích đến Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương. Hoặc làm Phạm Thiên Vương. Hoặc được toà kim cương dưới cội Bồ đề, phạm âm thâm viễn, tâm thường bình đẳng, được tâm đại bi, được Xa ma tha phá các phiền não gọi là Vô Thượng Tôn”.

Lúc Phật nói pháp ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên v.v… từ chỗ ngồi được quả A La Hán.

Tất cả chư Thiên và thế nhơn tán thán rằng: “Như Lai công đức bất khả tư nghị”.

Vô Lượng chúng sanh được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Tứ Thiên Vương và Công Đức Thiên bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào lưu bố kinh điển nầy, tôi sẽ ủng hộ tứ bộ đệ tử tại xứ ấy, cũng ủng hộ quốc độ ấy những thành ấp thôn xóm tụ lạc quốc vương và nhơn dân”.

Lúc bấy giờ Thế Tôn phóng my gian bạch hào tướng quang chiếu suốt thế giới chư Phật mười phương làm mờ cả những nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc. Những nơi được ánh sáng bạch hào ấy chiếu đến thì tất cả gai gốc độc không còn hiện. Chúng sanh trong vô lượng hằng hà sa số thế giới mười phương thấy ánh sáng ấy, họ đều nhiếp niệm tư duy pháp lành.

Chư Phật mười phương thấy ánh sáng ấy đều bảo đại chúng mình rằng: “Nầy các thiện nam tử! Cách đây vô lượng hằng hà sa số thế giới có thế giới tên là Ta Bà đủ ngũ trược. Nơi đó hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai đủ mười hiệu. Mười phương có vô lượng Bồ Tát, vô lượng Thanh Văn đều đến đó tập hội. Phật ấy vì đại chúng tuyên nói pháp hành môn Pháp Mục đà la ni. Phật ấy vì hàng Thanh Văn nói pháp hành xong phóng đại quang minh, sắp sửa tuyên nói môn Tịnh Mục đà la ni, để người trung thừa được quả Duyên Giác, để chư Bồ Tát trang nghiêm thành tựu Vô thượng Bồ đề đầy đủ thập địa mười tám pháp bất cộng chuyển pháp luân bất thối, phá ba ác thú, khiến tu Bát thánh đạo được quả Vô thượng”.

Vô lượng đại chúng chư Bồ Tát nghe đức Phật mình tuyên lời ấy, tất cả đều bạch Phật mình rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng tôi đều muốn đến Ta Bà thế giới kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai và cũng để nghe học môn Tịnh Mục đà la ni”.

Bấy giờ mười phương vô lượng đại chúng Bồ Tát đến Ta Bà thế giới chỗ đức Thế Tôn đầu mặt lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Thế giới nầy, vô lượng Phạm Thiên đồng đến chỗ Phật cúng dường kính lễ rồi ngồi qua một phía.

Trăm ức Ma Thiên, trăm ức Tha Hoá Tự Tại Thiên, trăm ức Hoá Lạc Thiên, trăm ức Đâu Suất Đà Thiên, trăm ức Dạ Ma Thiên, trăm ức Đao Lợi Đế Thích Thiên, trăm ức Tứ Thiên Vương Thiên, trăm ức Nhựt Nguyệt Thiên, trăm ức Diêm La Vương, trăm ức Địa Hành Quỉ, bốn trăm ức A Tu La, bốn trăm ức Long Vương. Đại chúng như vậy đều đến cúng dường kính lễ Phật rồi ngồi qua một phía.

Vô lượng Sa Môn, Bà La Môn, những người có thần thông cũng đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi qua một phía.

Trong thế giới có các ngoại đạo tướng sư thấy quang minh ấy đều suy nghĩ rằng:

Ánh sáng ấy chẳng phải ánh sáng nhựt nguyệt tinh tú châu lửa đèn đuốc, ắt là ánh sáng lạ, có thể chẳng bao lâu có bảy mặt nhựt mọc sẽ đốt cháy hết đại hải, sông núi, cây cỏ, sau đó Dục giới sẽ có thuỷ tai.

Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa độc giết hại tất cả.

Còn có người nói, sau đây chẳng lâu sẽ có mưa đao kiếm giết hại người vật. Thời kỳ ác hại sắp đến rồi, ai có thể cứu được.

Có người nói: chỉ có Cù Đàm Sa Môn thương xót tất cả có lẽ ông ấy sẽ cứu được khỏi chết.

Bấy giờ mọi người chí tâm niệm Phật. Niệm rồi liền thấy Đại Bửu Phường Đình, do Phật thần lực, họ đến trong phường đình.

Vua Ba Tư Nặc, do Phật thần lực cũng thấy bửu phường và cũng được đến đó.

Vua Ưu Điền Đà Na, vua Ác Tánh, vua Luân Đầu Đàn, vua Ma Hê Đà, vua Đầu Đà Xa Na, vua Tần Bà Sa La. Các vua ấy cũng do Phật thần lực thấy bửu phường đều được đến đó. Các vua đến nơi rồi cúng dường kính lễ phật rồi ngồi qua một phía.

Các vua ngồi rồi bảo nhau rằng: “Trong đây có đại tiên nhơn, có Phật Thế Tôn. Vậy nhơn duyên của ánh sáng ấy nên đem hỏi ai?”.

Vua Đầu Đà Xa Na nói: “Tôi có một đại Bà La Môn sư tên Điện Man, giỏi biết tướng pháp, hay giải hay nói, là người đáng nên hỏi”.

Tướng sư Điện Man nghe rồi liền nói: “Tôi xem rộng hết tất cả tướng thơ đều không có ghi sự nầy. Thiệt tôi chẳng thể hiểu được điềm ánh sáng ấy. Chẳng riêng gì tôi, mà cả năm trăm tướng sư trong Diêm Phù Đề nầy cũng đều chẳng hiểu được”.

Vua Tần Bà Sa La nói: “Nầy các vua! Sao các vua lại rối vậy. Trong đại chúng nơi bửu phường nầy có Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đủ Nhứt thiết trí, giỏi biết tất cả tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ sách tướng lành mười hai tháng, có lòng đại từ bi thương mến tất cả chúng sanh, thiệt ngữ chánh ngữ. Chỉ có Phật Thế Tôn đây có thể giải nói điềm ánh sáng ấy. Chúng ta nên hỏi Phật”.

Các vua và đại chúng đều tôn ngưỡng đồng bạch rằng: “Ngữa mong Như Lai vì chúng tôi mà nói sách tướng mười hai tháng”.

Đức Phật nói: “Nầy các vua! Nay đại hội nầy chẳng nên nói sách tướng thế gian”.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Nay trong đại chúng nầy có những người chẳng tin công đức Như Lai. Họ lại chẳng tin Thế Tôn là bực Nhứt thiết trí. Nguyện Phật vì phá hoại lòng nghi như vậy mà vì chúng tôi tuyên nói sách ấy. Những người như vậy được nghe rồi ắt vui mừng sanh lòng tin. Họ sanh lòng tin rồi mới có thể vì họ nói đạo xuất thế. Những người nầy cũng thường thích học hỏi để điều phục”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Chí tâm lắng nghe, Phật sẽ nói đó.

Nầy Đại Vương! Thưở xưa tại Tuyết Sơn có một tiên nhơn tên Bạt Già Bà. Tiên ấy ăn rau quả rễ củ, tu tập từ tâm, chưa dứt được phiền não kiết sử, chẳng điều phục được lòng tham dục.

Chỗ tiên nhơn ấy có một cọp cái bèn cùng hành dục. Cọp cái có thai đủ ngày tháng đến chỗ tiên nhơn đẻ mười hai người con trai. Vì lòng thương, tiên nhơn tắm rửa các trẻ và mớm nuôi chúng. Cọp mẹ cũng mến yêu luôn cho chúng bú.

Tiên nhơn đặt tên cho chúng: Thứ nhứt tên Đoan Già, thứ hai tên Bạt Già Bà, thứ ba tên Hổ, thứ tư tên Sư Tử, thứ năm tên Đảm Trọng, thứ sáu tên Bà La Đoạ Xà, thứ bảy tên Bộ Hành, thứ tám tên Bà La Nô, thứ chín tên Kiện Thực, thứ mười tên Ác Tánh, thứ mười một tên Sư Tử Thiềm, thứ mười hai tên Kiện Hành.

Mười hai đồng tử ấy đều ăn rau quả rễ củ, lúc lên bảy tuổi thì cả cha và mẹ đều chết. Các trẻ ấy sầu não lo lắng kêu khóc, ngước mặt lên trời mà nói rằng: Tại sao một lúc không có nơi nương dựa thế nầy.

Có thọ thần nghe lời kêu khóc ấy bảo rằng: Nầy các đồng tử chớ kêu khóc. Có chỗ dựa nương đó là Phạm Thiên thường thương mên chúng sanh.

Các ngươi ngày đêm sáu thời nên tự tắm gội, hướng lên hư không chí tâm lễ lạy cầu khẩn Phạm Thiên.

Phạm Thiên sẽ dùng vô ngại thiên nhĩ nghe tiếng của các ngươi. Nghe rồi Phạm Thiên sẽ đến chỗ chúng ngươi ở. Đến rồi vì thương xót Phạm Thiên sẽ phá trừ si ám cho các ngươi mà ban cho ánh sáng trí huệ. Được trí huệ rồi thì tất cả chư Thiên sẽ cúng dường các ngươi huống là thế nhơn.

Các đồng tử y theo lời thọ thần mà thi hành suốt mười hai năm Phạm Thiên mới nghe tiếng kêu cầu của họ mà xuống cung Trời Đao Lợi.

Thiên Đế Thích thấy Phạm Thiên đến liền cung kính cúng dường rồi hỏi rằng: Đại Sĩ muốn việc gì?

Phạm Thiên nói: Nầy Kiều Thi Ca! Ông chẳng thấy mười hai tiên nhơn trong Tuyết Sơn kia sao? Nên cùng qua đó.

Thích Đề Hoàn Nhơn cùng vô lượng chư Thiên theo Phạm Thiên xuống Tuyết Sơn.

Thấy Phạm Thiên đến, mười hai tiên nhơn vui mừng hớn hở lễ bái cúng dường.

Phạm Thiên Vương hỏi:

Các người cớ chi trong mười hai năm tinh cần khổ hạnh cúng dường ta muốn cầu sự gì? Vì cầu danh tiếng sắc lực của cải, hay cầu thánh đạo trí huệ, hay cầu được thân chư Thiên?

Kiệt Già Tiên bạch Phạm Thiên: Thưa Đại Sĩ! Nay tôi chẳng cầu những sự ấy. Tôi muốn cầu trí huệ để vì chúng sanh. Chúng tôi côi cút trẻ nít sớm mất cha mẹ tự theo ý mình không có ai dạy bảo.

Duy nguyện Đại Sĩ ban cho chúng tôi trí huệ, cho chúng tôi biết các nghiệp thiện ác, cũng rõ chúng sanh những nghiệp thiện ác, cũng biết chúng sanh quốc độ thành ấp Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, nam nữ đại tiểu các tướng thiện ác các sự khổ vui, các vua tham nước chẳng biết chán đủ hưng binh đánh nhau các tướng thạnh suy. Nếu tôi được biết rồi sẽ dùng phương tiện dạy họ dứt diệt tướng xấu ác cho họ được an lạc.

Nầy Đại Vương! Đây là nhơn duyên có sách tướng lành mười hai tháng, là nhơn sanh diệt thế gian chẳng phải pháp nhơn duyên vượt qua tam giới lục đạo cũng chẳng phải pháp dứt diệt ba ác đạo khổ”.

Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát ở trước Phật tâm niệm nói kệ hỏi nơi đức Phật Thế Tôn:

Chẳng phải có đướng sá

Mà cũng có luân chuyển

Như Lai cũng chẳng trụ

Tất cả đạo phi đạo

Phi đạo thấy là đạo

Đạo thấy là phi đạo.

Đức Phật nói: “Nầy Di Lặc! Phi đạo là chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ, chẳng phải trí chẳng phải cảnh giới của trí, chẳng phải minh ám, chẳng phải thường đoạn, chẳng phải thiện ác, chẳng phải sắc ấm đến thức ấm. Đây gọi là thiệt tánh, là pháp tánh, là nhứt thiết hành, là chơn thiệt tiết. Đây gọi là phi đạo.

Trong đạo ấy, chư Phật Như Lai chuyển chánh pháp luân mà chẳng thủ trước.

Các đạo như vậy, nếu có chúng sanh đạo thấy là phi đạo, phi đạo thấy là đạo thì chẳng đạt được đạo và phi đạo. Mới biết rằng ba đạo Như Lai đều hay phân biệt giải nói nhẫn đến chẳng dứt nơi đạo.

Nầy Di Lặc! Như Lai Thế Tôn ở trong không có đạo mà chuyển pháp luân để phá hoại chúng sanh ba thứ đạo vậy. Những gì là ba thứ đạo? Đó là phiền não đạo, khổ đạo và nghiệp đạo.

Nghiệp đạo là hành và hữu. Phiền não đạo là vô minh, ái và thủ. Khổ đạo là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh và lão tử.

Ba đạo như vậy do nhơn duyên gì mà có. Đó là do xúc làm duyên mà có.

Nầy Di Lặc! Nhơn nhãn thấy sắc mà sanh ái tâm, ái tâm ấy là vô minh. Do ái tâm gây tạo nghiệp gọi là hành, chí tâm chuyên niệm gọi là thức, thức cùng đi chung với sắc gọi là danh sắc, sáu căn sanh tham gọi là lục nhập, nhơn nhập cầu thọ gọi là xúc, tâm tham trước gọi là ái, cầu lấy các pháp ấy gọi là thủ, pháp như vậy sanh gọi là hữu, thứ đệ chẳng dứt gọi là sanh, thứ đệ dứt gọi là tử, sanh tử nhơn duyên các khổ bức bách gọi là não, nhẫn đến thức nhơn duyên sanh tham cũng như vậy.

Mười hai nhơn duyên ấy, nơi một người trong một niệm đều có đủ cả.

Xuất có ba thứ, đó là nhơn xuất, vật xuất và đạo xuất.

Nếu có Tỳ Kheo tu hành pháp hạnh quán sát tướng mạo ái tâm mà mình có. Tỳ Kheo nên quán sát nếu có ái tâm tức là vô minh.Thể tánh của vô minh hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra hành và thức. Thức cũng hay xuất ra hai lỗi đó là xuất ra danh và sắc. Danh sắc xuất ra hai là vô trụ và làm lục nhập. Lục nhập xuất ra hai là chẳng nhàm dục và xúc. Xúc cũng xuất ra hai là sanh tâm thọ và cầu thọ. Thọ xuất ra hai là thọ khổ lạc và tâm tham ái. Ái xuất ra hai là hệ phược bền chắc và cầu lấy tức là thủ. Thủ xuất ra hai là tâm thâm và cầu có tức hữu. Hữu xuất ra hai là thích ở và nhơn duyên. Duyên xuất ra hai là sanh già và khổ duyên. Già xuất ra hai là hư hoại sắc trẻ và làm nhơn cho tử. Tử cũng xuất ra hai là hư hoại thọ mạng và ái biệt ly. Đây gọi là xuất nhơn.

Nếu Tỳ Kheo tu tập pháp hành quán các pháp như vậy cũng là xuất cũng là diệt thì gọi là vật xuất”.

Đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả Kiều Trần Như: “Nầy Kiều Trần Như! Thế nào là đạo xuất?

Nếu Tỳ Kheo kiến đạo thì có hai hạng là hành hành và huệ hành. Chừng ông có biết hành hành và huệ hành ấy chăng?”.

Tôn giả Kiều Trần Như nói: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi chưa biết. Duy nguyện Như Lai vì Tỳ Kheo quán mười hai nhơn duyên được đại trí huệ phá phiền não kiết sử mà phân biệt giải nói. Tỳ Kheo nghe rồi sẽ thọ trì đầy đủ”.

Đức Thế Tôn hỏi Bửu Tràng đồng tử rằng: “Nầy Bửu Tràng! Chừng ông có biết hơi thở ra vào chăng?”.

Bửu Tràng đồng tử bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi chẳng biết”.

Đức Phật nói: “Nầy thiện nam tử! Pháp hành Tỳ Kheo trước tiên quán vô minh đến lão tử.

Thế nào gọi là trước quán vô minh?

Trước tiên quán trung ấm nơi cha mẹ sanh tâm tham ái. Do ái nhơn duyên nên tứ đại hoà hiệp hai giọt tinh huyết hiệp thành một giọt bằng hột đậu gọi là ca la la. Ca la la ấy có ba sự là mạng căn, thức và hơi nóng. Nghiệp duyên quả báo trong đời quá khứ không có tác giả và thọ giả. Sơ tức xuất nhập gọi là vô minh ca la la. Lúc ấy hơi thở ra vào có hai đường đó là theo hơi thở lên xuống của bà mẹ cứ bảy ngày thì một lần biến đổi. Hơi thở ra vào gọi là thọ mạng đây gọi là phong đạo. Chẳng thúi chẳng rã đây gọi là noãn nóng. Tâm ý trong ấy gọi là thức.

Nếu người muốn được quả Bích Chi Phật thì nên quán mười hai nhơn duyên như vậy.

Lại quán ba thứ thọ, nhơn duyên ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới. Quán thế nào?

Theo nơi niệm tâm quán hơi thở ra vào, quán sát nội thân da thứa thịt gân xương tuỷ như mây trên không. Gió động trong thân cũng như vậy. Có gió hay lên, có gió hay xuống, có gió hay đầy, có gió hay cháy, có gió hay tăng trưởng. Vì vậy nên hơi thở ra vào gọi là thân hành. Vì hơi thở ra vào theo giác quán mà sanh nên gọi là ý hành. Hoà hiệp phát ra âm thanh nên gọi là khẩu hành. Do nhơn duyên ba hành ấy nên có thức sanh. Do nhơn duyên thức nên có bốn ấm và sắc ấm nên gọi là danh sắc. Nhơn duyên ngũ ấm mà thức hiện hành sáu chỗ gọi là lục nhập. Nhãn và sắc đối nhau đến ý và pháp đối nhau gọi đó là xúc. Nhơn duyên xúc nên nhớ ghi sắc ấy đến pháp ấy gọi là thọ. Tham trước nơi sắc đến pháp thì gọi đó là ái. Nhơn duyên ái nên tìm cầu bốn phương đây gọi là thủ. Do nhơn duyên thủ nên có thân sau đây gọi là hữu. Do nhơn duyên hữu nên có sanh và lão tử các thứ khổ.

Đây gọi là cội cây lớn mười hai nhơn duyên, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới vậy.

Vì thế nên duyên nơi xuất nhập tức hay sanh ra tất cả các khổ phiền não. Phàm phu lúc sanh là phiền não hệ phược, lúc tử cũng phiền não hệ phược, trọn chẳng được thân tâm tự tại, chẳng được tam muội, chẳng hết các lậu.

Nếu có Tỳ Kheo quán xuất nhập tức như gió trong hư không, không có ngã ngã sở, không có tác giả không có thọ giả, nó theo duyên mà sanh cũng từ nơi duyên mà diệt, không có tướng không có vật không có giác quán.

Gió của chúng sanh cũng như vậy, cùng chung tứ đại mà hiện hành.

Lúc sanh Ca la la chín lỗ đến chín vạn chín ngàn lỗ. Các lỗ ra vào không có tác giả không có thọ giả, chỉ là gió ra vào khối thịt như vậy.

Do nhơn duyên ấy mà có vô minh đến lão tử các khổ tụ họp.

Nầy thiên nam tử! Ví như hư không không có vật không có ngã. Cũng vậy, các hơi thở ra vào địa thuỷ hỏa phong thọ mạng noãn ấm thức tâm vô minh đến sanh lão bịnh tử cũng không có ngã không có vật.

Chúng sanh mê lầm điên đảo ở trong chẳng phải ngã mà lầm thấy ngã, trong chẳng phải vật mà lầm thấy vật. Nơi những thứ đồng hư không mà tưởng ấm nhập giới. Do điên đảo mê lầm như vậy mà phàm phu luân chuyển sanh tử không có cùng tận.

Nếu Tỳ Kheo quán hơi thở ấy lạnh thì cả thân lạnh, nếu quán hơi thở ấy ấm nóng thì cả thân ấm nóng. Thân thể lúc ấy theo ý theo hơi gió.

Nếu lúc quán lạnh mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào lãnh địa ngục.

Nếu lúc quán nóng mà chẳng được thiền định chẳng vào định tụ, thì người quán ấy đoạ vào nhiệt địa ngục.

Nếu đệ tử Phật tu tập pháp hành lúc quán hơi thở ra vào lạnh hay nóng thì được chánh đạo.

Pháp hành Tỳ Kheo như thiệt quán sát vô minh đến sanh lão bịnh tử, tâm chẳng điên đảo thì gọi là Tịnh Mục đà la ni vậy.

Nầy thiện nam tử! Nếu ông có thể học đà la ni ấy, tức là chơn thiệt quán xuất nhập tức”.

Bửu Tràng Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác đến được”.

Tứ Đại Thiên Vương bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tuỳ xứ nào có lưu bố kinh điển nầy, chúng tôi cần phải theo hầu thủ hộ, bao nhiêu ác sự đều làm cho tiêu diệt”.

Vua Tần Bà Sa La bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn nơi các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật tu hành pháp hạnh nên khiến Diêm Phù Đề không có tật dịch đói kém và các ác sự.

Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, nếu có tứ tánh chúng sanh cung kính cúng dường thì được bao nhiêu phước đức?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm, tuỳ xứ nào có Bồ Tát ấy ở thì xứ ấy có đủ tám sự lành cao thượng.

Một là nhơn dân xứ ấy cúng dường cha mẹ, tăng trưởng tàm quí, cung kính Sa Môn các Bà La Môn, bực kỳ cựu có đức thọ trì cấm giới.

Nầy Đại Vương! Xứ nào có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng thì nhơn dân xứ ấy thành tựu sự lành tốt ban đầu như vậy.

Hai là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tu tập từ tâm xa lìa sát hại, lòng họ điều nhu không có tham dục sân hận mà thường bình đẳng không hai.

Ba là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không tham gian, ưa thích bố thí, quở trách trộm cắp.

Bốn là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy vợ chồng trinh chánh, quở trách gian dâm phi pháp.

Năm là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chơn ngữ, thiệt ngữ, hoà hiệp ngữ, nhu hoà ngữ, quở trách vọng ngôn, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ.

Sáu là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy không có lòng ganh tỵ ghét ghen ác độc.

Bảy là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy chánh kiến chẳng mê lầm, không có tà kiến.

Tám là Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy tất cả cung kính cúng dường Tam bửu xa lìa ác kiến.

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy không có tám sự bố uý.

Một là không có sự bố uý về binh cách trong nước và ngoài nước.

Hai là không có bố uý về ác quỉ.

Ba là không có bố uý về ác tinh tú.

Bốn là không có bố uý về ác bịnh.

Năm là không có bố uý về ác thú.

Sáu là không có bố uý về ác tặc.

Bảy là không có bố uý về hạn khô và lụt lũ.

Tám là không có bố uý về thiếu lương thực.

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì xứ ấy có tám hạng đại trượng phu:

Một là có các chúng sanh từ quá khứ ở chỗ vô lượng Phật vun trồng thiện căn thích sanh vào xứ ấy.

Hai là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu trì tịnh giới và đa văn thích sanh vào xứ ấy.

Ba là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ hiếu kính cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng kỳ cựu bực có đức thích sanh vào xứ ấy.

Bốn là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu tập nghiệp trời sẽ thọ thân trời mà cố ý chuyển báo trời thích sanh vào xứ ấy.

Năm là có các chúng sanh hay phá trừ ác nghiệp ba ác thú thích sanh vào xứ ấy.

Sáu là có các chúng sanh đủ pháp Thanh Văn thừa thích sanh vào xứ ấy.

Bảy là có các chúng sanh đủ pháp Duyên Giác thừa thích sanh vào xứ ấy.

Tám là có các chúng sanh từ vô lượng đời quá khứ tu sáu Ba la mật thích sanh vào xứ ấy.

Còn nữa, nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng ở xứ nào thì xứ ấy đất đai mầu mỡ, nước dùng lành tốt, có pháp vị vô thượng, tất cả nhơn dân cùng mọi loài có lòng thân yêu nhau, xả thân hiện tại đều được sanh cõi trời được Thiên thân.

Nầy Đại Vương! Như một cái hộp đựng bốn thứ hương thơm là trầm thuỷ hương, đa già la hương, ngưu đầu chiên đàn hương và đa ma la diệp hương. Bốn thứ hương ấy hiệp có bốn lượng. Có người trong tứ tánh đem bốn thứ y phục để vào hộp hương ấy được vài ngày rồi mỗi người mỗi tánh tự cầm y phục của mình mà đi.

Bốn thứ hương ấy vẫn còn đủ phân lượng, không có hao tổn, mà trong các y phục ấy đều có mùi thơm của hương.

Nầy Đại Vương! Nếu có Bồ Tát tu Tứ vô lượng tâm ở xứ nào thì nhơn dân xứ ấy thành tựu các thứ công đức, mà Bồ Tát ấy không có tổn giảm”.

Vua Tần Bà Sa La bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tứ vô lượng tâm bất khả tư nghị. Tại sao, vì đại Bồ Tát tu bốn tâm vô lượng mà có thể làm cho vô lượng vô biên chúng sanh được lợi ích lớn”.

Bây giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Quang nói với Vô Thắng Bồ Tát rằng: “Thưa Đại Sĩ! Nay Ngài đã được lợi ích vô thượng. Tại sao, vì Ngài thường tu tập tứ vô lượng tâm vậy.

Vô Thắng Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Nay tôi thế nào được đại lợi ích! Vì trong pháp như vậy không có tác không có thọ, không có giác không có tri không có kiến, không có thử không có bỉ.

Như có người nói tôi có thể đem anh lạc trang nghiêm khắp hư không. Dầu nói như vậy mà chơn thiệt chẳng thể trang nghiêm hư không được.

Tất cả các pháp cũng như hư không, không có xuất không có hoại, không sanh không diệt, không nơi chỗ, không có giác quán, là tịnh tam muội giải thoát không có tướng không có tác không có nguyện. Pháp giới như vậy không có chuyển đổi, không có tan rã, không có hiệp tụ, không có chướng ngại, không có trược, không có biên dường như hư không, không có hòa hiệp, không có mong muốn, không có tánh, không thấy không nói, pháp tánh không số không ít không nhiều, không có cảnh giới, không có hai, không thủ trước, không lượng, không sắc không thanh tịch tĩnh, không biến đổi không biên lượng, dường như hư không, không sánh, không hơn, không thường không đoạn, khó thấy khó biết, khó tư duy được, kiên cố không có hành, không có sân hận, nhiếp chư Phật giới, đây gọi là phạm hạnh, gọi là Tứ vô lượng, Như Lai tu tập tâm không có nhàm đủ siêng tu tinh tiến, đây gọi là Phật pháp, là đại tín, đại niệm, đại bất phóng dật, chí tâm chẳng quên.

Nếu đại Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức là đại Bồ Tát tu hành thậm thâm pháp giới. Bồ Tát như vậy gần nhập vô sanh pháp nhẫn hành sáu Ba la mật hộ trì chư Phật pháp. Bôt Tát như vậy đã gần đệ tam như pháp pháp nhẫn chơn thiệt thấy thân Phật, hay phá ma chúng trừ tà đạo qua sông sanh tử vào biển đại trí, thông đạt tất cả cảnh giới chư Phật, trang nghiêm tất cả công đức chư Phật. Bồ Tát như vậy có sắc thân chủng tánh tài vật đều hơn các chúng sanh. Thứ đệ sẽ ngồi pháp toạ Như Lai, đầy đủ tất cả tam muội tổng trì, chẳng bị tất cả Thánh nhơn khinh, được hàng Duyên Giác tán thán, thường được chư Phật hộ niệm, hay hiểu ngữ ngôn của các loài chúng sanh trong tất cả quốc độ, trong tất cả pháp chẳng thấy người thọ người thí, cũng không thấy có người nói người nghe pháp, không có tác giả không có thọ giả, dường như hư không”.

Tịnh Quang Bồ Tát nói: “Thưa Đại Sĩ! Vì lẽ như vậy nên tôi nói Ngài thành tựu vô lượng công đức. Tại sao, vì đã trong vô lượng vô biên đời siêng tu tinh tiến vậy.

Thưa Đại Sĩ! Nếu đức Phật có được Thập lực, Tứ vô sở uý, Thập bát bất cộng pháp, xuất gia khổ hạnh ngồi cội Bồ đề thành Chánh giác chuyển diệu Pháp luân hiện đại thần thông nhập đại Niết bàn, tất cả đều do tu Tứ vô lượng tâm, như vậy tức là Tứ vô lượng quả.

Vì nghĩa như trên nên các thiện nam tử các thiện nữ nhơn phải nên tu tập Tứ vô lượng tâm”.

Lúc nói pháp ấy, có hai vạn chúng sanh được tuỳ từ nhẫn, vô lượng chúng sanh đủ tứ vô lượng tâm, tất cả đại chúng hoan hỷ đồng cúng dường Phật.

Lúc bấy giờ có một đồng tử Bồ Tát tên Vô Thắng Ý quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ vô lượng tâm có những tướng gì? Có những thể gì? Những nhơn duyên gì? Những quả báo gì? Thế nào là đầy đủ?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Vô Thắng Ý có thể hỏi nghĩa thậm thâm như vậy”.

Như Lai liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Điều phục chúng sanh vô sở uý cụ.

Nhập tam muội rồi từ nhục kế Phật phóng đại quang minh. Ánh sáng ấy rất mạnh có các màu sắc chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới, phát ra diệu âm thanh nói kệ rằng:

Trong sình lầy mọc hoa sen đẹp

Cũng còn mọc lên các thứ hoa

Chúng sanh mang lấy cúng dường Phật

Và cùng tất cả chư thiên thần

Tất cả ác quốc cũng như vậy

Sanh các thánh nhơn đại Bồ Tát

Hay điều chúng sanh rất khó điều

Dường như chúng sanh cúng dường hoa

Ta Bà thế giới ngũ trược ác

Trong ấy Thích Ca tuyên nói pháp

Nếu muốn có được vô lượng lợi

Phải nên đến cõi Ta Bà kia.

Các chúng sanh trong vô lượng thế giới nghe tiếng nói kệ ấy đều cúng dường Phật Thế Tôn ở cõi mình. Cúng dường rồi thừa thần lực Phật đều đến tập hội tại Ta Bà thế giới, đến chỗ Phật kính lễ rồi ngồi một phía. Bấy giờ trong Đại Bửu Phường Đình khắp đầy vô lượng chúng sanh.

Các chúng sanh ấy đều riêng tự nghĩ rằng: riêng mình ta đến đây cúng dường Như Lai, riêng mình ta ở trước Phật thưa hỏi chánh pháp, đức Như Lai chỉ riêng mình ta mà thuyết pháp.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy thiện nam tử! Từ có ba thứ. Đó là chúng sanh duyên từ, pháp duyên từ và vô duyên từ.

Chúng sanh duyên là duyên nơi ngũ hữu.

Nếu pháp hành Bồ Tát muốn được đầy đủ sáu Ba la mật, đại từ đại bi, Bồ Tát thập địa mau được thành tựu Vô thượng Bồ đề chuyển chánh pháp luân, điều phục vô lượng vô biên chúng sanh qua khỏi sông lớn sanh tử không bờ, muốn phá ác ma bạn đảng, nhập đại Niết bàn, thì nên tu tập Tứ vô lượng tâm.

Phải tu tập thế nào?

Nếu đại Bồ Tát vì hạ phương chúng sanh đến thượng phương chúng sanh mà tu tập tâm từ nầy, xem chúng sanh như cha, như mẹ, như Sư trưởng, như Hoà thượng, như Phật Thế Tôn, như Thanh Văn Duyên Giác.

Lúc tu như vậy nên tư duy như vầy: Nếu có chúng sanh vô cớ với tôi mà khởi sự ác hại, nếu tôi có lòng giận hờn chúng sanh ấy thì sẽ bị thập phương chư Phật thấy biết sẽ bị quở trách rất đáng hổ thẹn. Chư Phật sẽ quở tôi rằng: Sao người ấy vì Vô thượng Bồ đề mà chẳng tự điều phục được tâm mình. Người ấy khác gì người không có chưn cẳng mà muốn đến Bắc Uất Đơn Việt, như người mù muốn đọc sách, như người không có tay mà muốn cầm nắm, xa lìa từ tâm mà muốn được Vô thượng Bồ đề cũng như vậy. Nếu chẳng dứt được lòng sân hận còn chẳng thể được Thanh Văn Bồ đề, huống là Vô thượng Bồ đề. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ bị chư Phật, chư Thanh Văn, Duyên Giác, Thiên Long, Bát Bộ quở trách. Nếu ta chẳng điều phục được tự tâm sẽ mắc đại tội thọ khổ địa ngục, chẳng được lợi ích hiện tại và vị lai, vì vậy nên phải tu tập từ tâm.

Pháp hành Bồ Tát ấy lại nghĩ rằng: nếu có ai đối với ta đã làm các sự ác, hoặc đương làm hay muốn làm, hoặc đem sự ác gia nơi người thân của ta, cũng phải tư duy như trước.

Quán như vậy rồi, Bồ Tát trước tiên đối với chúng sanh một phương mà tu từ tâm, lần lần đến cả mười phương.

Đây gọi là Bồ Tát tâm từ duyên nơi chúng sanh.

Trong đại hội có một Thiên tử tên là Minh Tinh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát sơ tu từ tâm. Tâm từ ấy có những quả gì? Hiện tại và vị lai thành tựu bao nhiêu phước đức?

Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát tu tập từ tâm như vậy còn phải đoạ ba ác đạo nữa chăng?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Thưở xưa ông đã cung kính cúng dường vô lượng chư Phật nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy. Ông đã vun trồng thiện căn kiên cố, trong vô lượng đời tu tập tâm từ, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên nay ông có thể hỏi Phật như vậy.

Nầy thiện nam tử! Lắng nghe lắng nghe, nay Phật sẽ vì ông phân biệt giải nói.

Nếu có Bồ Tát tu tâm từ như trước đây ta đã nói, người nầy thì được thức ngủ an lành chẳng thấy ác mộng, những vật cần dùng không thiếu, chư Thiên thủ hộ, Nhơn Thiên đều thích thấy. Người nầy chẳng nghe tiếng ác, thân chẳng có ác bịnh, thường thích tịch tĩnh siêng tu tinh tiến, thích học chánh pháp thấy biết vô ngã, thường được Quốc chủ Sa Môn phạm chí nam nữ lớn nhỏ nhẩn đến điểu thú cúng dường. Người nầy thường thân cận bạn lành đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai. Người nầy thích ban cho, hay độ chúng sanh, những thiện tâm được có không bị tam độc phá hoại. Danh tiếng tốt của người nầy lưu bố bốn phương, hay trị lành ác bịnh của chúng sanh, hay khiến chúng sanh xa lìa các sự khổ, hay giải hệ phược cho chúng sanh, hay điều phục phiền não cho chúng sanh, hay phá tất cả ác kiến dị kiến, hay ban cho chúng sanh tín tâm niệm tâm, đại trí huệ tâm, trụ vững Đại thừa không gì lay động được, chẳng theo lời người, hay trừ thân khẩu ý ác của chúng sanh, hay dứt chúng sanh ba thứ nghiệp chướng chỉ trừ tội ngũ nghịch, tội phỉ báng chánh pháp Đại thừa, phỉ báng bực Hiền Thánh, tội trộm cướp tài vật tứ phương Tăng.

Nầy thiện nam tử! Bồ Tát nếu có thể tu tâm từ như vậy, lúc lâm chung diện kiến thập phương chư Phật Thế Tôn tay xoa đầu, vì tay Phật chạm nên lòng người nầy vui mừng, vì lòng vui mừng nên được vãng sanh quốc độ của Phật ấy, cũng nghe những lời thiện diệu như vầy: Chớ có sợ chớ có sợ! Ngươi là người thuần thiện tu tâm từ quyết định sanh vào Phật độ thanh tịnh, thấy vô lượng chư Phật Thế Tôn, lìa xa ba ác đạo, cứu cánh nhập Niết bàn. Người nầy cũng nghe lời thiện diệu nói pháp duyên từ và vô duyên từ, cũng được đầy đủ tứ vô lượng tâm đến được Vô thượng Bồ đề”.

Thiên Tử Minh Tinh nghe pháp ấy liền được xuất nhập tự tại các thiền định.

Vô Thắng Ý Bồ Tát hỏi Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Thiên Tử ấy do sức gì mà ở nơi các thiền định nhập mau xuất mau như vậy?”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Minh Tinh Thiên Tử đã ở chỗ vô lượng chư Phật Như Lai trồng các căn lành, đã ở trong vô lượng đời tu từ tâm pháp duyên. Do bổn nguyện nên sanh cõi Trời Tứ Vương Thiên, cách phía trước Trời Nhựt Thiên mười ngàn do tuần. Cung điện của trời ấy ngang rộng ba vạn hai ngàn do tuần, lưu ly làm nền, trước sau tả hữu đầy mười do tuần, có chư Thiên nam nữ cùng vây quanh. Minh Tinh Thiên Tử ở trong cung ấy xa cách quyến thuộc ba do tuần, một mình ngồi giường báu xuất nhập thiền định một ngày một đêm.

Tứ thiên hạ đây có tám mươi xứ trời, sáu mười xứ rồng, bốn xứ A Tu La, bốn xứ Ca Lâu La, năm mươi hai xứ Khẩn Na La, bốn mươi sáu xứ Ma Hầu La Già, tám xứ Cưu Bàn Trà, ba mươi xứ Phú Đơn Na, ba mươi xứ Tỳ Xá Xà. Tất cả xứ ấy, Minh Tinh Thiên Tử đều có thể điều phục cả.

Chúng sanh như vậy do bổn nguyện lực từ xưa đã phát thệ, Diêm Phù Đề nầy qua canh năm, còn dư một phần đêm, sẽ ở trước mặt nhựt mười ngàn do tuần, làm tướng sáng phá tối Diêm Phù Đề. Nếu các thiện chúng sanh ở Diêm Phù Đề muốn khỏi sanh tử mà tu thiền định, thì Thiên Tử Minh Tinh sẽ vì người ấy mà trừ bỏ ngủ nghỉ ban cho niệm tâm. Nếu muốn thấy thì Thiên Tử ấy sẽ hiện hình Hoà thượng, Sư trưởng, cha mẹ. Nếu có phàm phu tu tập pháp ngoại tà, Thiên Tử ấy sẽ phá hoại tà tâm mà chỉ dẫn chánh đạo, nếu có chúng sanh ở nơi việc thế gian việc xuất thế gian mà giải đãi, Thiên Tử ấy sẽ cho thấy, thấy rồi từ bỏ giải đãi siêng tu sự nghiệp. Nếu có chúng sanh mê mất chánh lộ lúc được thấy Thiên Tử ấy thì thấy chánh đạo trở lại. Nếu có chúng sanh thân mắc bịnh nặng, được thấy Thiên Tử ấy thì bớt hết đau khổ ngủ yên vui vẻ. Nếu có người già nhiều bịnh hay quên mà được thấy Thiên Tử ấy thì lại được niệm tâm. Lúc Thiên Tử ấy xuất hiện có thể làm cho chúng sanh nhiếp tâm niệm pháp lành. Nếu có chúng sanh lúc lâm chung, một niệm sau cùng, Thiên Tử vì người ấy nói kinh Đại thừa, nghe rồi thấy tượng Phật liền được vãng sanh quốc độ thanh tịnh. Nếu có người hoặc cầu Thanh Văn hoặc cầu Duyên Giác, Thiên Tử ấy sẽ vì họ mà nói pháp Thanh Văn hoặc pháp Duyên Giác. Nếu có chúng sanh có ba ác nghiệp nghe Thiên Tử ấy thuyết pháp thì ác nghiệp liền tiêu. Thiên Tử ấy do bổn nguyện lực thường tu hành sáu Ba la mật đến thành Vô thượng Bồ đề”.

Minh Tinh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà nói đà la ni”.

Liền nói chú rằng:

Lô giá na, lô giá na, lô giá na, ba la xoa rũ, sa la xoa rũ, sa la xoa sá, a bà ha ha, a bà trì trà, a bà xà bà, a bà xoa na, a xoa xoa xoa xoa, phú la bà lã, a bà xoa xoa, a bà xà bà, ma ha ca ba, a bà a bà ma ha sa ma, tần đậu, sa xà yết ba, a hoa, a hoa, ha ha ni ma, mạt lã sa luật xà, ca lưu na xà la, sá ha.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hoặc nam hoặc nữ hoặc lớn hoặc nhỏ, nếu ai chí tâm niệm sự của tôi, người ấy thì được thanh tịnh các nghiệp, thần thông, thí, giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và giải thoát cùng Phật độ tứ vô ngại trí. Những người ấy nếu chẳng thành tựu các sự như vậy, thì là tôi khi dối thập phương chư Phật, đời vị lai cũng chớ khiến tôi thành Vô thượng Bồ đề”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn dân các Phật thế giới phương khác thường nói rằng Ta Bà thế giới tạp uế bất tịnh. Nhưng nay tôi thường thấy thanh tịnh”.

Đức Phật nói: “Đúng như vậy, đúng như vậy. Nầy thiện nam tử! Đúng như lời ông nói.

Trong thế giới nầy có chư Bồ Tát hoặc làm thân Trời điều phục chúng sanh, hoặc làm thân Rồng, thân Quỉ, hoặc làm thân A Tu La, thân Ca Lâu La, thân Khẩn Na La, thân Càn Thát Bà, thân Ma Hầu La Già điều phục chúng sanh. Có Bồ Tát làm thân Dạ Xoa, thân Cưu Bàn Trà, thân Tỳ Xá Xà, thân Lệ Tiết Đà, thân thú, thân chim đi trong Diêm Phù Đề để giáo hoá các chủng loại chúng sanh như vậy.

Nầy Vô Thắng Ý! Nếu làm nhơn thiên điều phục chúng sanh không lấy gì làm khó. Nếu làm súc sanh để điều phục chúng sanh thì rất khó.

Nầy Vô Thắng Ý! Ngoài Diêm Phù Đề trong biển phía Đông có núi lưu ly tên là Triều Sơn cao hai mươi do tuần đủ các thứ bửu, núi ấy có hang tên là Chủng Chủng Sắc, nơi ấy là chỗ ở xưa của Bồ Tát. Hang ấy rộng một do tuần cao sáu do tuần có một độc xà ở trong ấy tu tâm từ Thanh Văn. Núi ấy còn có một hang tên là Vô Tử cao rộng cũng như hang trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, nơi đây có một con ngựa tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Thiện Trụ Xứ, cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con dê tu tâm từ Thanh Văn.

Thọ thần nữ của núi ấy tên là Vô Thắng, có La Sát nữ tên là Thiện Hành, đều có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn cùng đồng thường cúng dường ba thứ ấy.

Ngoài Diêm Phù Đề phương Nam trong biển có núi pha lê cao hai mươi do tuần, có hang tên là Thượng Sắc cao rộng cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một di hầu tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên Thệ Nguyện cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con gà tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Pháp Sàng cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con chó tu tâm từ Thanh Văn.

Núi ấy có Hoả Thần nữ và La Sát nữ tên là Nhãn Kiến đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường hai thú một chim ấy.

Phương Tây ngoài Diêm Phù Đề, trong biển có núi bạch ngân tên là Bồ Đề Nguyệt cao hai mươi do tuần. Trong ấy có hang tên là Kim Cương, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con heo tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hương Công Đức, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một con chuột tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Cao Công Đức, cao rộng như trước, cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con bò tu tâm từ Thanh Văn.

Núi ấy có Phong Thần nữ tên là Động Phong và La Sát nữ tên là Vô Hộ, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn thường cùng đồng cúng dường ba thú ấy.

Diêm Phù Đề ngoài biển phương Bắc có núi hoàng kim tên là Công Đức Tướng cao hai mười do tuần. Trong núi có một hang tên là Minh Tinh, cao rộng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang ấy có một sư tử tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Tịnh Đạo ngang rộng cao thấp cũng như trước, là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong ấy có một con thỏ tu tâm từ Thanh Văn. Còn có một hang tên là Hỉ Lạc ngang rộng cao thấp như trước cũng là chỗ ở xưa của Bồ Tát, trong hang nầy có một rồng tu tâm từ Thanh Văn. Núi Công Đức Tướng ấy có một Thuỷ Thần nữ tên là Thuỷ Thiên và có La Sát nữ tên là Tu Tàm Quí, đều riêng có năm trăm quyến thuộc. Hai nữ nhơn ấy thường cùng đồng cúng dường ba thú đó. Mười hai thú và chim như vậy ngày đêm thường đi trong Diêm Phù Đề được nhơn thiên cung kính công đức thành tựu. Các chim thú ấy đã ở chỗ chư Phật phát thâm trọng nguyện: một ngày một đêm thường khiến một thú du hành giáo hoá, mười một thú còn lại an trụ tu tâm từ, luân lưu nhau chung nhi phục thỉ.

Tháng bảy ngày một, chuột du hành đem pháp Thanh Văn thừa giáo hoá tất cả chúng sanh thân chuột khiến lìa ác nghiệp siêng tu thiện sự. Như vậy đến ngày mười ba đến ngày mười ba thì chuột lại tuần hành: luân lưu đến hết tháng mười hai, đến mười hai năm cũng như vậy thường để điều phục các chúng sanh.

Nầy Vô Thắng Ý! Do cớ ấy nên cõi nầy có nhiều công đức, nhẫn đến các loài thú chim cũng hay diễn nói giáo hoá đạo Vô thượng Bồ đề, nên chư Bồ Tát phương khác đều nên cung kính thế giới nầy”.

Trong đại hội có một Bồ Tát tên là Tịnh Đức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể thấy được mười hai thú ấy chăng?”.

Đức Phật nói: “Nầy Tịnh Đức! Nếu có ai trong hàng tứ chúng muốn được thấy mười hai thú ấy, muốn được đại trí đại niệm đại thần thông lực, muốn học tất cả sách vở nói về tứ vô lượng tâm, muốn hành chánh đạo được Xa ma tha, muốn được tịch tĩnh, muốn tăng trưởng pháp lành, người nầy nên lấy đất trắng đắp thành núi ngang rộng bảy xích, cao mười hai xích, dùng các thứ hương làm bùn trét, vàng mỏng thếp bốn phía, giáp vòng hai mười xích rải hoa chiêm bặc. Dùng đồ đựng bằng đồng đựng các thứ nước uống phi thời để bốn mặt núi ấy. Người nầy trì giới thanh tịnh, mỗi ngày ba lần tắm gội, kính tin lễ lạy Tam bửu rồi đứng cách núi ấy ba trượng về phía Đông mà tụng chú nầy:

Chiến a la ha, tu lợi xà tỉ ma, kỳ la phiếm, Phật dĩ mâu lã, nhã xà mâu lã, ha ha hi, ba ha ra hi, nhã xà ha hi, tát bà phục đa ha hi, lê tha bà ha hưu, ma sa xa bà mâu lê, ca bà phù, lã xa phù, tu lã xà mâu, khê ca na, ma hi xoa bà, ca sa ma ha, a xoa tỉ bà lã, đa ba tỉ bà, sa trì nhơn trì lợi xà tỳ bà, a xà mâu thâu bà, bà lô bà xoa, bàn đà đá, giá la xoa bà hi, ha ca tỉ mâu, đá tỉ lặc sưu, tán giá lặc sưu, bà bà phù, bà la bà xoa sưu, Phật dĩ giá, đá sá lại sa, dà xoa lã sa, ba lợi ba giá, tu lã tu, sưu bà sa di, hi lã, bà la mâu sa la sa, mâu sa lã tư, lã bà lã bà, tần bà tư lã sa, bà lã sa, đà ma lô giá na lã sa, phú nan toả lan ha la bà, thủ đà lô giá na lã sa, bà ma ma lã sa, tỉ ma lô giá na khê già, tát điên ma lã sa, a lợi na giá na nhục nhục, tỉ ma mâu, bà lã ha man bà ha lã tư miễn miễn, a do tỉ mục hê, mâu ni lã đề trí sa, sá ha.

Đứng ở đó tụng chú mười lăm ngày, thường thấy trên núi có hình tượng mặt nguyệt lưỡi liềm, lúc ấy biết rằng thấy mười hai thú. Thấy rồi sở nguyện tuỳ ý liền được.

Nầy Tịnh Đức! Nếu người có thể khổ hạnh tu hành như vậy thì được mắt thấy mười hai thú ấy”.

Tịnh Đức Ưu Bà Tắc nói với Minh Tinh Thiên Tử rằng: “Thưa Đại Sĩ! Ngài hay giáo hoá điều phục chúng sanh, điều phục thế nào? Là dùng thân hay dùng khẩu dùng ý?”.

Thiên Tử đáp: “Ta không dùng thân khẩu mà chỉ dùng tâm nghiệp”.

Tịnh Đức hỏi: “Nếu Ngài dùng tâm nghiệp, vậy tâm ấy thuộc quá khứ hay vị lai hay hiện tại?”.

Thiên Tử đáp: “Chẳng phải quá khứ vị lai, chỉ là hiện tại. Ta chế phục tâm hiện tại chẳng cho làm ác”.

Tịnh Đức nói: “Ngài còn chẳng khiến được tâm hiện tại được giải thoát thì làm sao điều phục chúng sanh?”.

Minh Tinh Thiên Tử đáp: “Nay ta thọ trì tứ vô ngại trí, do thế lực của Tịnh Mục đà la ni nên có thể điều phục tất cả chúng sanh”.

Tịnh Đức nói: “Tứ vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni ấy cũng còn chẳng thể điều phục chúng sanh được, tại sao, vì không có giác quán vậy. Sao lại nói có thể điều phục chúng sanh?”.

Thiên Tử nói: “Nay ta hỏi Ngài, tuỳ ý Ngài đáp cho.

Nhiếp nhập hệ phược, giải thoát, thanh tịnh đạo và tịch tĩnh, dầu là bình đẳng mà cũng là bất bình đẳng. Bình đẳng và bất bình đẳng như vậy, do nhơn duyên gì sanh, do nhơn duyên gì xuất, nhơn duyên gì tăng trưởng. Chẳng biết Ngài có rõ chăng?”.

Tịnh Đức nói: “Các sự như vậy do nơi ngã và ngã sở mà có sanh xuất và có tăng trưởng”.

Thiên Tử hỏi: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên gì sanh?”.

Tịnh Đức nói: “Ngã ngã sở ấy do nhơn duyên phong sanh”.

Thiên Tử hỏi: “Phong trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Phong trụ ở hư không”.

Thiên Tử hỏi: “Hư không trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Hư không trụ ở chí xứ”.

Thiên Tử hỏi: “Chí xứ lại trụ ở chỗ nào?”.

Tịnh Đức đáp: “Chí xứ trụ ở chỗ nào không thể tuyên nói được. Tại sao? Vì xa lìa tất cả xứ sở vậy, vì tất cả nơi chỗ chẳng nhiếp thuộc vậy, vì chẳng phải đếm chẳng phải cân chẳng phải lường vậy, vì chẳng phải giác quán chẳng phải hữu vô, chẳng phải hành chẳng phải sanh xuất, chẳng phải diệt, chẳng phải có tăng trưởng, chẳng phải chữ, chẳng phải niệm, chẳng phải tác, chẳng phải thọ, chẳng phải minh ám, chẳng phải tăng giảm, chẳng phải trẻ già, tánh chơn thiệt, là môn tất cả pháp vô quái ngại. Vì vậy nên chí xứ không có chỗ ở”.

Minh Tịnh Thiên Tử nói: “Như vậy tức là vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.

Nếu có Bồ Tát tu tập Tịnh Mục đà la ni ấy thì tất cả phiền não bị hư rã mà nhập vào pháp duyên từ, ở trong tất cả pháp không có lòng nghi”.

Lúc nói pháp ấy, thập phương thế giới có vô lượng chúng sanh được pháp duyên từ, vô lượng chúng sanh được gần vô ngại trí Tịnh Mục đà la ni.

Đức Thế Tôn khen hai người rằng: “Nầy các thiện nam tử! Các ông có thể như pháp hỏi, có thể như pháp đáp. Do thế lực nhơn duyên Tịnh Mục đà la ni ấy, nên sau khi Phật diệt độ, Tứ Thiên Vương có thể thủ hộ chánh pháp”.

Minh Tịnh Thiên Tử bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người Thanh Văn hành pháp Thanh Văn thừa, người Bích Chi Phật hành pháp Bích Chi Phật thừa, hai hạng người ấy tu tâm bi thế nào, tư duy pháp nào, lìa phiền não nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam hay thiện nữ hành Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa chẳng quán những tướng vui của chúng sanh, chẳng quán các tướng oán thân cha mẹ, thương xót chúng sanh tu tập tâm bi, nhẫn đến thập phương chúng sanh cũng như vậy. Họ tư duy thê nầy: Nếu ta chẳng thể ở nơi ác chúng sanh mà tu tập tâm bi, thì nên quán tám tướng khổ của chúng sanh ấy, đó là sanh khổ, lão khổ, tử khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tẳng hội ngộ khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Tại sao ta ở nơi kẻ khổ não như vậy mà chẳng sanh tâm bi! Họ lại tư duy rằng: chúng sanh ấy còn có ba thứ đại khổ cũng còn chưa được giải thoát khổ ba ác đạo, tại sao ta lại chẳng thương xót!

Thế nào gọi là quán sanh khổ?

Từ nghiệp nhơn duyên cha mẹ hoà hiệp thời kỳ ca la la ban sơ thọ ý thức, thân ấy như hột đình lịch, chưa có hơi thở vào ra, chưa hay biết khổ và vui chẳng khổ chẳng vui, đã lìa sắc tướng trước mà chưa đủ các tướng sắc sau, không có sức lực, không có mong muốn, không có tinh tiến, cũng không có kiêu mạn là thượng sắc thượng tánh thượng tự tại, không có tướng ngũ dục, các căn chẳng đủ, chúng sanh như vậy tại sao ta lại chẳng thương xót! Chúng sanh như vậy, quá khứ ái và thủ gọi là vô minh, quá khứ nghiệp hữu gọi là hành, tâm sơ nhập thai gọi là thức, trong ca la la sắc và bốn ấm ban sơ gọi là danh sắc, lúc nầy chưa đủ mười hai hữu chi, do vì nhơn duyên sanh nên có thể nói là có mười hai chi nhơn duyên, chúng sanh như vậy có người trí nào mà chẳng xót thương!

Ca la la trụ sáu lần bảy ngày thì chuyển thành án phù đà hình sắc như trái táo nhỏ.

Án phù đà trụ bảy ngày chuyển thành già na hình sắc như hột hồ đào.

Già na trụ bảy ngày chuyển thành bế thi hình sắc như trái tần bà la. Lúc nầy trên thân có năm u bóng nổi lên, đó là tượng đầu hai tay và hai chưn.

Đến mười ba lần bảy ngày mới có tướng bộ tiêu hoá.

Hai mươi lần bảy ngày thì nam căn và nữ căn sai biệt.

Từ hai mươi mốt lần bảy ngày mới bắt đầu sanh xương lóng.

Trong ba sáu lần bảy ngày thì thân thể đầy đủ thịt máu lông và các căn.

Ba mươi tám lần bảy ngày thì tất cả chi phần thân thể thành tựu trọn vẹn, bốn ngày bốn đêm ở chỗ hôi dơ trong bụng bà mẹ.

Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng xót thương!

Bấy giờ hành giả lại tư duy nhớ lại sự thọ sanh của mình ngày trước, rất buồn rầu lo sợ mà tự suy nghĩ rằng ta phải tu pháp lành nguyện sau nầy chớ còn thọ sanh vào chỗ như vậy nữa, ta phải tinh tiến tu tập bất phóng dật xa lìa hẳn thọ sanh.

Kế đến tư duy lúc mới xuất thai cả thân chịu khổ bức bách gió suông và thân cũng rất khổ vừa rơi xuống đất nước rửa chà lau lại càng khổ hơn, khác gì sự khổ ở địa ngục, lúc nầy lại quên hết sự việc đời trước. Sanh xong lại còn có các sự khổ lớn những là già bịnh chết cứ theo mãi chẳng buông bỏ. Còn có phong bịnh, các bịnh bạch thuỷ hoàng thuỷ hoà hiệp. Tứ đại gây bịnh đều riêng có một trăm lẻ một bịnh cộng thành bốn trăm lẻ bốn bịnh cội gốc biết bao sự đau đớn khổ sở, nên gọi sanh là đại khổ vậy.

Đã chịu sanh khổ rồi, già nua theo dõi tiếp theo làm khổ, những là tóc bạc mặt nhăn, mất trí hổ thẹn, lông tóc thưa thớt, vì các hành đã lâu cũ nên các căn suy yếu dễ hư dễ hoại rã mục mỏng manh, chỉ còn tham hai vị là mặn và chua. Già nua hay làm hư thân căn mất sự an vui thêm nhiều khổ não, đây là sông đại khổ, nó hay phá sắc trẻ trung mạnh khoẻ ba đời của chúng sanh, nó hay quên như trẻ nít, cuồng loạn như bị quỉ nhập. Chúng sanh có đủ sự xấu khổ như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Kế lại bị tử vong nó xâm bức, mất trí huệ thọ mạng. Những sở hữu phải lìa bỏ, thân hoại mạng hoại, tứ đại lìa tan. Sự tử vong là oán thù của tam thế thọ mạng của chúng sanh, tất cả chúng sanh không ai thoát khỏi. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Kế tư duy, các chúng sanh ấy lại còn phải những người những vật không ưa thích cứ đến gần kề, đó là lạnh, nóng, đói, khát, ác nhơn, ác thú v.v… Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Còn có những người và vật yêu thích lại phải xa lìa, đó là trẻ mạnh, của cải, kho tàng, thọ mạng, cha mẹ vợ con thân thích quyến thuộc, sáu trần đẹp vui. Sự biệt ly ấy cũng rất buồn khổ. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!

Hoặc có chúng sanh trong ba đời cầu sáu trần phẩm thượng mà chẳng được, nên phải chịu các sự khổ não. Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng thương xót! Nếu ta lại ở nơi các loại chúng sanh ấy mà chẳng thương thì ta sẽ thế nào được Vô thượng Bồ đề.

Các chúng sanh chịu gánh nặng ngũ ấm, ta cũng vậy, nếu ta không tu tâm đại bi thì làm sao bỏ được gánh nặng ấy. Tất cả Thánh nhơn đa xa lìa được gánh nặng ngũ ấm. Nếu chẳng tu hành ba thứ tịnh giới, chẳng tư duy lành tốt, tâm thường phóng dật chẳng hành chánh đạo chẳng được giải thoát, người như đây phải chịu cả trăm thứ khổ. Chúng sanh đã chịu cả trăm thứ khổ như vậy, tại sao ta không tu tâm đại bi!

Nầy Thiên Tử! Nếu có chúng sanh trong một ngày đêm có thể quán như vậy, người nầy được tâm dường như hư không. Người nầy ở nơi tất cả chúng sanh có thể tu tập đại bi. Người nầy có thể được thân tâm tịch tĩnh. Người nầy chẳng xa lìa chánh chơn pháp giới và chơn pháp tánh. Tu tập như vậy có thể được chúng sanh duyên bi của thừa Thanh Văn và Duyên Giác.

Nếu có Bồ Tát lúc ban sơ tu tập đạo phẩm, tư duy như vầy: giả sử khiến ta có hằng hà sa số thân lớn như núi Tu Di, sẽ đem những thân ấy vì một người mà phải chịu khổ nhiều trong vô lượng đời để cho người ấy được an lạc, ta trọn chẳng hối tiếc cũng chẳng thối thất tâm Bồ đề.

Bồ Tát nầy lại tư duy, giả sử tất cả chúng sanh đều cầm chuỳ sắt lớn như núi Tu Di đến đập thân thể ta trong vô lượng năm, ta sẽ nhịn chịu chẳng sanh ác tâm đối với họ dầu chỉ là một niệm.

Bồ Tát nầy lại tư duy, người ấy đã chịu phải trăm thứ khổ não, tất cả chúng sanh cũng phải khổ như vậy mà họ chẳng biết niệm Vô thượng Bồ đề, nay ta học tập Vô thượng Bồ đề sao ta chẳng chịu được những đao kiếm lửa đá làm hại như vậy! Nếu ta ở nơi tất cả chúng sanh mà sanh ác tâm, chắc sẽ bị sự quở trách của chư Phật, chư Hiền Thánh. Các Ngài sẽ quở ta rằng người muốn được Vô thượng Bồ đề sao với những sự như vậy mà chẳng nhẫn nhục.

Đại Bồ Tát tu tịnh ý liền được nhẫn nhục. Nhẫn nhục là anh lạc trang nghiêm, là tinh tiến đạo tánh, là pháp khí, là của báu. Bồ Tát tu nhẫn như vậy thì có thể thanh tịnh thân tâm, hay tịnh trang nghiêm, hay kiên cố trang nghiêm, được đại trí huệ chẳng đồng chung với hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật. Là thù thắng nhứt trong tất cả chúng sanh. Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, tà ngoại chẳng lay động được, hay phá giảm phiền não, tất cả oán thù chẳng hại được, ngôn từ nói năng chẳng cùng tận, trí rất sâu rất rộng dường như đại hải, tinh tiến bền vững như núi Tu Di, bình đẳng với chúng sanh như nước biển nhứt vị, hay làm lợi ích lớn dường như đại địa, rửa sạch những dơ bẩn dường như nước trong, hay làm ánh sáng dường như mặt nhựt, ở giữa chúng vô ngại như gió mạnh, thế pháp không ô nhiễm như hoa sen, nhìn xuống chúng sanh như kim sí điểu, chúng sanh thích thấy như mây ngày mùa hạ, chúng sanh vui nhận như mưa mùa hạ, thấy mừng không mong gì khác như gặp lương y, phá hết nghèo cùng như châu như ý, ban cho chúng sanh thiền định như Phạm Thiên, sanh tử vô ngại như hư không, hiển thị bình bất bình như đèn sáng, nhơn thiên cung kính như Đế Thích.

Nếu có Bồ Tát khởi lòng sân hận thì tất cả oán tặc đều được tiện lợi, hư mất tất cả thiện căn của báu, tất cả ma chúng nắm được tội lỗi, bị các phiền não ô nhiễm, vào chỗ rất tối tăm, mất tất cả thiện căn, bị tất cả Thánh nhơn quở trách.

Nếu có Bồ Tát khởi tâm sân hận đến chừng một niệm thì là hư mất tất cả pháp lành. Phải tư duy như vầy: giả sử ta đều chịu tất cả vô lượng ức số chúng sanh đánh mắng huỷ nhục ta chẳng nên khởi tâm sân hận dù chỉ một niệm, tại sao, vì các chúng sanh như vậy chẳng học từ bi, nếu không có các chúng sanh ấy giận đánh thì ta làm sao tu tập tâm từ bi, vì lẽ như vậy nên lúc chúng sanh giận đánh ta nên vui mừng, tại sao, vì chính đó là nhơn duyên bi của ta vậy.

Nếu có thiện nam thiện nữ có thể quán như vậy liền được chúng sanh duyên bi chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, hàng Duyên Giác, cũng có thể mau được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Thiên Tử! Còn có người quán chúng sanh ba ác đạo khổ rồi tu tập tâm bi. Còn có người quán sát các chúng sanh bị khổ trong tam giới mà tu tập tâm bi. Còn có người quán sát ngũ ấm chúng sanh mà tu tập tâm bi, quán sát các nhập các giới cũng như vậy.

Do các nghĩa ấy nên đại Bồ Tát muốn được Vô thượng Bồ đề phải tu tập từ bi. Tại sao, vì tâm từ bi là chủng tử của tất cả thiện pháp.

Nếu có chúng sanh được thân trời Sắc giới cũng là do nhơn duyên từ bi”.

Lúc nói pháp ấy Minh Tinh ThiênTử được vô sanh nhẫn, nhẫn nầy chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh được như pháp nhẫn. Năm vạn năm ngàn na do tha chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Mười vạn tám ngàn chúng sanh được tâm bất thối. Hai vạn chúng sanh thành tựu từ bi. Năm ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Năm trăm Tỳ Kheo Ni được vô lậu. Mười vạn ức chúng sanh phá đại tà kiến được tâm chánh kiến.

Đức Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Thắng Ý! Thưở quá khứ có Phật hiệu Phát Công Đức Ý Như Lai cũng nói đại từ đại bi như vậy”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng như ấy, thế nào gọi là như?”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Xa lìa thân tướng gọi đó là như”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nói rằng thân ấy, tức là thiệt tánh, tức là tịch tĩnh, tức là pháp giới, tức là vô lậu, tức là vô tận”.

Đức Phật nói: “Nầy Vô Thắng Ý! Như thân ấy, tức là thân tất cả chúng sanh. Như tức là biên tế của quá khứ của vị lai, tức là tịch tĩnh”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả chư Phật, như tức là thân”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Vô Thắng Ý! Pháp giới như vậy không có tăng giảm, tam thế bình đẳng, chẳng sanh chẳng xuất chẳng diệt dường như hư không. Như thân cũng như vậy”.

Lúc nói pháp ấy, ba vạn chúng sanh được như pháp nhẫn.

Đức Thế Tôn bảo Minh Tinh Bồ Tát rằng: “Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu tập tâm hỉ như thế nào?

Nầy Minh Tinh! Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ bi chẳng nhớ đến chúng sanh có những tướng vui, nhẫn đến chẳng quán sát tam thú tam giới có những sự khổ mà cũng quán sát ngũ ấm xuất diệt, quán như vậy rồi sanh tâm hỉ, chỉ thích quán pháp, quán rồi sanh tâm hỉ. Tâm hỉ như vậy nguyện đến cùng chúng sanh, đây gọi là hỉ.

Nầy Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu xã thế nào?

Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ tâm nhẫn đến hỉ tâm mà tu xả niệm xả cha mẹ nhẫn đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Lúc tu xả ấy xa lìa tất cả tâm ái tâm sân. Người nầy tu tập không vô tướng vô nguyện. Đã tu tập rồi chẳng lâu quyết định sẽ được nhập Niết Bàn.

Nếu người tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, người ấy được thập phương chư Phật Bồ Tát tán thán, tất cả Trời, Rồng, Dạ xoa, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cúng dường.

Quốc độ nào có hàng tứ chúng tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, cõi nước ấy đã được xa lìa tất cả ác tướng suy hoạ. Chúng sanh xứ ấy xa lìa ác pháp thích tu thiện pháp.

Nầy Minh Tinh! Tứ vô lượng tâm có đủ vô lượng phước đức như vậy”.

Vô Thắng Ý Bồ Tát lại bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hàng tứ chúng Duyên Giác thừa tu tập từ bi hỉ xả như thế nào?”.

Đức Phật nói nầy Vô Thắng Ý! Trong hàng tứ chúng Duyên Giác thừa có người tu tập từ bi hỉ xả. Người nầy quán sát chúng sanh an vui, hiểu chúng sanh an vui mà niệm pháp duyên từ trọn chẳng ức niệm chúng sanh duyên từ. Như trong tâm mình có sự thích ưa cũng nguyện chúng sanh đồng chung được đó. Người nầy quán pháp bình đẳng, quán tâm bình đẳng, quán như bình đẳng. Quán như vậy rồi, người nầy trọn chẳng sanh tâm ác dầu chỉ nơi một chúng sanh. Giả sử có nhơn duyên sanh tâm ác, thì phải suy nghĩ như vầy: Nay nếu ta nơi kẻ ấy mà sanh ác tâm thì thế nào sẽ được Vô thượng Bồ đề, đại Bồ Tát thành tựu vô lượng thuần thiện công đức, nếu ở nơi một người sanh tâm sân ác còn chẳng được Vô thượng Bồ đề, huống là ta chưa thành các thiện công đức, do cớ ấy nên tu chúng sanh duyên từ và pháp duyên từ, bi hỉ xả cũng như vậy.

Nầy Vô Thắng Ý! Nếu có người muốn được Duyên Giác thừa phải tu tập từ bi hỉ xả như vậy”.

Lúc nói pháp ấy, trong đại hội có sáu vạn ức chúng sanh trụ bực Sơ địa, hoặc Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa, hoặc có chúng sanh được Vô sanh nhẫn, hoặc có chúng sanh được Bích Chi Phật đạo, được Thanh Văn đạo. Có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ trong đại chúng có một đồng tử tên là Hư Không Thanh bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo Vô thượng Bồ đề, tu tất cả trí mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả pháp mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả ấm nhập giới phương tiện, giải thoát phương tiện, tam muội phương tiện, đà la ni phương tiện, đắc nhẫn phương tiện, chư địa phương tiện?

Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát tu tất cả trí mục môn, đồng hư không huệ qua đến bờ kia, vô duyên phạm hạnh vượt qua bốn dòng dứt bốn ma hệ phược?”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Hư Không Thanh! Nay ông có thể vào biển tứ vô lượng, muốn độ chúng sanh qua sông sanh tử, nên ông phát ra lời hỏi như vậy. Ông lại còn muốn chẳng dứt biển Phật đại trí.

Nầy Hư Không Thanh! Thập phương quốc độ nếu có Bồ Tát cùng ông hành tam muội trí huệ, lúc Phật thuyết pháp, các hạng ấy đều làm minh chứng. Nếu không có hạng Bồ Tát như vậy làm minh chứng thì ta chẳng tuyên nói vô duyên pháp hạnh. Tại sao, vì nếu ta tuyên nói pháp ấy, trong đây có nhiều người sanh lòng nghi. Nếu có người chưa được vô duyên phạm hạnh cũng sanh lòng nghi. Vì lẽ như vậy nên chẳng nên tuyên nói”.

Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. Tam muội ấy tên là Hư không tràng. Nhập rồi diện môn của Phật phóng quang minh lớn đủ các màu sắc chiếu khắp đến thập phương thế giới chư Phật làm mờ tất cả ánh sáng nhựt nguyệt. Trong quang minh ấy phát ra tiếng nói rằng: Thế giới Ta Bà hiện có Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sanh mà tuyên nói phạm hạnh phá các phiền não, tuyên nói Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa vô duyên phạm hạnh, có vô lượng chúng sanh vô lượng Bồ Tát thứ đệ ngồi nghe học chánh pháp. Cũng tuyên nói hạnh thanh tịnh Bồ đề. Vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên làm hội đại tập nói các thứ hạnh. Có vô lượng chúng sanh được Nhứt sanh bổ xứ, hoặc Hậu sanh bổ xứ.

Thập phương chúng sanh nghe lời nói trong quang minh phát ra như vậy, tất cả đều tập hội Ta Bà thế giới. Hoặc có Bồ Tát hiện thân chơn kim mưa cát chơn kim, hoặc có Bồ Tát hiện thân bạch ngân mưa cát bạch ngân, hoặc có Bồ Tát hiện thân lưu ly mưa cát lưu ly, hoặc có Bồ Tát hiện thân pha lê bửu mưa cát pha lê, hoặc có Bồ Tát hiện thân trầm thuỷ mưa cát trầm thuỷ, hoặc có Bồ Tát hiện thân chiên đàn mưa cát chiên đàn, hoặc có Bồ Tát hiện thân đa ma la bạt mưa cát đa ma la bạt để cúng dường đức Phật. Cúng dường xong đều đầu mặt lễ kính rồi ngồi một phía.

Đức Phật bảo Hư Không Thanh đồng tử rằng: “Nầy Hư Không Thanh! Ngày nay mười phương chư đại Bồ Tát, trong ấy hoặc có vị được pháp nhẫn, có vị được vô sanh nhẫn, có vị được nhứt sanh, có vị được hậu sanh đều vì ta mà chứng minh.

Chư Bồ Tát ấy tu tập tâm từ bi hỉ xả tỏ rõ thông đạt tánh các pháp, cũng hay xa lìa thân tướng nghiệp tướng. Tâm chư Bồ Tát ấy chẳng tham trước hữu vi vô vi, cũng chẳng tham trước nhãn nhĩ đến ý, chẳng tham trước sắc thanh đến pháp. Đều chí tâm tu tập vô duyên phạm hạnh, không có giác quán, chẳng sanh kiêu mạn, không có chỗ tham trước, biết chơn thiệt tánh, quán tất cả pháp đều bình đẳng đó là tam thế, tam giới, tam tịnh giới, cũng được tăng trưởng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả. Tất cả đều xa lìa ấm giới nhập, xa lìa tất cả tự tụ danh tụ cú tụ các pháp hữu vi.

Bồ Tát ấy lúc quán như vậy liền được đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, tu tập đồng hư không tam muội phạm hạnh sáu ba la mật, được chư Phật hộ niệm, có thiện phương tiện trụ đệ tam nhẫn quá đạo Thanh Văn, đạo Bích Chi Phật, xa lìa tất cả nhãn sắc nhơn duyên, nhĩ thanh nhơn duyên đến ý pháp nhơn duyên, quán pháp giới như tuỳ thuận chẳng điên đảo, được năng lực đại từ đại bi đại hỉ đại xả, trong tất cả pháp được đại tự tại, mà ở nơi sanh tử chẳng sanh tâm nhàm hối, có đại lực thế điều phục chúng sanh, ở trong tam thừa được trí phương tiện, hay mưa pháp vũ, được vô ngại trí, hiểu biết tất cả ngữ ngôn của các chúng sanh.

Đây gọi là Thánh Mục đà la ni đủ vô ngại trí tu tập phạm hạnh.

Nầy Hư Không Thanh! Nếu có Bồ Tát tu phạm hạnh nầy, thì Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, hay đủ Phật pháp thanh tịnh Phật độ, Bồ Tát tánh tịnh, chúng tịnh, hành tịnh, trí tịnh, ý tịnh, cúng dường cũng thanh tịnh, hay đủ thập địa thứ đệ sẽ ngồi pháp toà Như Lai. Như vậy gọi là thanh tịnh pháp hành, đây gọi là Như Lai, là Thế Tôn, là quá bốn dòng, là Bồ đề đạo. Hay được Vô thượng Bồ đề chuyển đại pháp luân.

Thế nào gọi là Nhứt thiết trí?

Nếu trí có thể thấy tất cả pháp bình đẳng, chúng sanh bình đẳng, tam thế bình đẳng, chẳng điên đảo bình đẳng. Bình đẳng tất cả pháp như vậy thấy Hư Không mục thấy pháp, Hư Không mục thấy vô hành, Hư Không mục thấy tánh, Hư Không mục thấy như không, Hư Không mục thấy như nội không, Hư Không mục thấy như ngoại không, Hư Không mục thấy như nội ngoại không, Hư Không mục thấy như đại không, Hư Không mục thấy như đệ nhứt nghĩa không, Hư Không mục thấy như hữu vi không, Hư Không mục thấy như vô vi không, Hư Không mục thấy như tất cánh không, Hư Không mục thấy như vô thỉ không, Hư Không mục thấy như tánh không, Hư Không mục thấy như tán không, Hư Không mục thấy như tự tánh không, Hư Không mục thấy như nhứt thiết pháp không, Hư Không mục thấy như vô sở giác không, Hư Không mục thấy như vô pháp không, Hư Không mục thấy như hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô pháp hữu pháp không, Hư Không mục thấy như vô tánh không, Hư Không mục thấy như thiệt tánh không, Hư Không mục thấy như vô tướng vô nguyện, Hư Không mục thấy như Nhứt thiết pháp vô biên vô xứ, Hư Không mục thấy như đại từ đại bi, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí thấy không, Hư Không mục thấy Nhứt thiết trí. Thấy như vậy rồi chuyển chánh pháp luân. Đây gọi là bất cộng chúng sanh pháp giới, đây gọi là Nhứt thiết trí, là Phật cảnh giới”.

Lúc nói vô duyên phạm hạnh ấy, có chín vạn hai ngàn chúng sanh thành tựu pháp ấy. Có hằng hà sa số chúng sanh được như pháp nhẫn, hằng hà sa số chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có một ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Vô lượng Nhơn Thiên phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ, chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc đều dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật. Đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc trược Như Lai ở Diêm Phù Đề chuyển chánh pháp luân, hôm nay ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy Như Lai lại chuyển đại pháp luân, đó là vì Bồ đề hành vậy.

Tất cả đại chúng lại nói như vầy: “Cảnh giới Như Lai bất khả tư nghị. Tại sao, vì đức Như Lai ở trong Đại Bửu Phường Đình nầy lúc chuyển pháp luân, trong vô lượng các thế giới mười phương có bao nhiêu Bô Tát đều tập hội nơi đây để nghe pháp hành Hư Không mục như vậy”.

Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi đồng tử, Kim Cương đồng tử, Kim Cương Sơn đồng tử, Vô Thắng Tràng đồng tử, Vô Thắng Ý đồng tử, Hư Không Thanh đồng tử, chúng đồng tử như vậy số đến chín vạn hai ngàn ức bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì nguyện lực làm cho pháp hành Hư Không mục ấy được còn lâu ở Ta Bà thế giới nầy và ở mười phương quốc độ không diệt mất. Tại sao, vì trong pháp ấy nói ba phạm hạnh, nếu Bồ Tát tu ba phạm hạnh ấy thì được Vô thượng Bồ đề”.

Đức Phật nói: “Nầy các thiện nam tử! Nam phương thế giới có Phật hiệu Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Tây phương thế giới có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Bắc phương thế giới có Phật hiệu Phát Quang Công Đức Như Lai, Đông phương thế giới có Phật hiệu Bửu Cái Quang Minh Công Đức Như Lai, bốn Phật Như Lai ấy trước đã có phát nguyện. Do nguyện lực ấy, kinh nầy về sau sẽ lưu bố mười phương khiến các Bồ Tát đều được tu hành ba phạm hạnh như vậy.

Nay ta đem chánh pháp nầy phó chúc cho Tứ Đại Thiên Vương, Công Đức Thiên Nữ, Tứ Đại Long Vương, Thành Thiệt Ngữ Thiên, Tứ A Tu La Vương, Kiến Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, Địa Thần Nữ v.v…

Tại sao, hoặc có chúng sanh tánh nó tệ ác có đại thế lực, tạo nhiều nghiệp trọng tội chẳng học kinh nầy, người ấy chết rồi thọ thân đại ác quỷ, thân ác long, các ác quỷ, ác long ấy muốn phá hoại Phật pháp nên tuôn mưa ác gió ác bụi mù để ở nơi các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp gây bịnh nặng, lấy tay mò bụng lấy tim gan thổi khí độc vào trong món ăn uống, khiến người ăn vào mắc phải bịnh nặng, thầy thuốc bó tay chẳng trị lành được. Các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp như vậy do đó đều chết cả, đây gọi là pháp diệt. Các ác quỷ ấy còn làm cho hàng đệ tử Phật những Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, những đại thần trưởng giả đều sanh ác tâm, đã sanh ác tâm rồi họ tàn hại nhau. Lúc bấy giờ, trong Diêm Phù Đề quốc độ thành thị thôn ấy đều hoang trống không người. Nhơn dân đã không thì còn ai lưu bố kinh điển như vầy. Vì cớ ấy nên nay ta không đêm kinh nầy phó chúc chư Bồ Tát và hàng tứ chúng, mà đem giao phó cho các Thiên Vương các Long Thần, Địa Thần. Chư Thiên, chư Thần như vậy chí tâm hộ trì chánh pháp.

Nếu có hàng vua quan tứ tánh tứ chúng thọ trì đọc tụng kinh điển như vậy, chư Thiên, chư Thần ấy sẽ chí tâm thủ hộ, khuyến hóa các đàn việt khiến dâng cúng các món vật dùng như món uống ăn, y phục, thuốc men, giường nệm, nhà cửa, đèn đuốc. Các đàn việt ấy nếu có ác tướng ác bịnh, do oai lực chư Thiên, chư Thần đều khiến tiêu trừ cả. Vì vậy mà chánh pháp được tăng trưởng không diệt mất”.

Chư Thiên, chư Thần tất cả đồng bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoặc hiện tại nay, hoặc sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cần phải bỏ lìa công việc mình mà thủ hộ chánh pháp Như Lai. Nếu hàng tứ chúng đệ tử Phật có người hay thọ trì những kinh điển như vậy siêng tu tinh tiến, mặc dầu họ còn thọ chứa tám vật bất tịnh, chứa nuôi vợ con vàng bạc ruộng vườn nhà cửa người ở làm công, chúng tôi vì chánh pháp nên cũng sẽ thủ hộ họ, ngăn các ác quỷ chẳng cho đến gần nhiễu hại. Xứ nào có kinh điển nầy, chúng tôi làm cho đất đai mầu mỡ, nhựt nguyệt tinh tú chẳng trái vượt thường độ, oán thù binh cách đều tiêu phục. Nhơn dân nam nữ lớn nhỏ đều ưa thích thọ trì đọc tụng các kinh điển nầy, họ trì giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến.

Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy nên tất cả chư Thiên thích ở nhơn gian. Người trì kinh ấy chết liền được sanh cõi Trời, làm cho chư Thiên tăng trưởng sắc, lực và thọ mạng, những ác tướng diệt hêt không còn thừa sót. Người không tin tôi có thể khiến họ tin.

Nếu hàng tứ chúng đệ tử phật, với kinh điển như vậy chẳng thể thọ trì đọc tụng thơ tả, chẳng ưa tịch tĩnh, chẳng thiện tư duy, thích cầu cúng dường, chẳng trì tịnh giới, lười biếng kiêu mạn, tâm không tàm quí gần kề hàng bạch y. Tỳ Kheo như vậy dùng sức lực của cải thế tục huỷ báng đệ tử Phật hoặc đánh hoặc giết, hoặc trói hoặc mắng, đến vua đến quan nói lỗi xấu. Hàng đệ tử phật nghe sự ấy rồi sanh tâm đại ác. Sanh ác tâm rồi, các thiện quỉ thần bỏ xứ ấy qua xứ khác, do đây ác quỷ được tiện lợi. Ác quỷ được tiện lợi rồi, các nước hưng binh đánh lẫn nhau, mưa gió xấu ác làm cho xứ ấy mất mùa nhơn dân đói kém, cướp giết lẫn nhau”.

Bấy giờ chư Bồ Tát thập phương thế giới bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật Như Lai vì các chúng sanh ở thế giới ngũ trược như vậy mà chế cấm giới. Duy nguyện Như Lai vì chánh pháp còn lâu mà chế cấm giới, đó là thân giới, khẩu giới, ý giới, chẳng được thọ chứa vật bất tịnh, chẳng được ác tâm đâú tranh, chẳng được gần kề vua quan trưởng giả thọ chứa tất cả vật của người tục, như các Phật độ khác đã chế cấm giới”.

Đức Phật nói: “Thôi thôi, Phật tự biết thời. Nầy các thiện nam tử! Nhơn duyên chưa phát xuất, thì Như Lai chẳng dự chế cấm giới”.

Đức Phật bảo vua Tần Bà Sa La rằng: “Nầy Đại Vương! Quốc pháp của nước vua, thế nào gọi là đại tội, sao gọi là tiểu tội?”.

Vua Tần Bà Sa La nói: “Bạch đức Thế Tôn! Quốc pháp nước tôi có bốn trọng tội:

Một là giết chết người. Hai là trộm đến năm tiền. Ba là dâm phụ nữ khác và bốn là vì năm tiền mà ở bên vua bên đại chúng cố ý nói dối.

Bốn tội như vậy, người phạm bị tử hình”.

Đức Phật nói: “Nay Phật cũng vì đệ tử vị lai mà chế bốn trọng ấy.

Lại nầy Đại Vương! Vương Tử bao nhiêu tuổi thì chẳng cho vào nội cung?”.

Vua nói: “Bạch Thế Tôn! Quá hai mười tuổi thì chẳng cho vào nội cung”.

Đức Phật nói: ” Ta cũng vậy! Sa Di hai mươi tuổi nhẫn đến đắc đạo chẳng cho nhập chúng”.

Vua nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như quốc pháp của tôi có người phạm trọng tội thì quyết định phải chết, hoặc phải tội đánh, hoặc mắng, hoặc nhốt, hoặc trói, hoặc thâu tài vật, hoặc đuổi ra khỏi nước.

Trong pháp Phật thì thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Đai Vương! Trong pháp Phật của ta cũng như vậy. Nếu có người sai phạm thì hoặc bắt phải làm việc nhọc một tháng hai tháng, hoặc chẳng cùng nói chuyện, chẳng cùng ngồi chung ăn chung, hoặc chẳng ở chung, hoặc đuổi đi, hoặc ra một nước, hoặc ra bốn nước. Xứ có Phật pháp xử trị các ác Tỳ Kheo như vậy rồi, các thiện Tỳ Kheo an lạc học chánh phá nên làm cho Phật pháp còn lâu chẳng dứt diệt.

Nầy Đại Vương! Đời vị lai nếu có đệ tử Phật giàu sang nhiều của nhiều thế lực được vua quan thân ái, tất cả đại chúng chẳng đuổi trị được thì các vua chúa sẽ trị phạt. Nếu Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà chẳng thể trị được thì hàng tứ tánh như vậy làm dứt chủng tánh Tam bửu của Phật, hay làm tắt đuốc pháp, làm chìm thuyền pháp, cháy cạn pháp vị, cướp mắt chúng sanh. Lúc chánh pháp Phật diệt hoại thì tâm buông bỏ.

Nầy Đại Vương! Ví như một người đoạt tất cả con mắt của mọi người thì tội ấy có nhiều chăng?”.

Vua nói: “Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn! Chẳng thể cân lường được, chẳng thể tính đếm được”.

Đức Phật nói: “Nầy Đại Vương! Nếu có hàng tứ tánh có thế lực lớn thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, người nầy mắc tội cũng như vậy.

Nầy Đại Vương! Nếu có quốc chủ trong vô lượng đời tu thí giới huệ thấy Phật pháp diệt bỏ mà chẳng thủ hộ, thì vô lượng thiện căn đã vun trồng thảy đều diệt mất. Xứ ấy sẽ có ba sự bất tường: một là gạo quí, hai là binh cách và ba là tật dịch. Tất cả thiện thần đều bỏ đi qua xứ khác, giáo lịnh nước ấy nhơn dân chẳng theo, thường bị lân quốc xâm lăng nhiễu loạn, lửa dữ ngang nổi dậy, mưa gió xấu ác, lụt lũ tăng trưởng cuốn trội nhơn dân, người thân tín trong ngoài cùng nhau mưu phản. Vua xứ ấy chẳng lâu sẽ mắc trọng bịnh, chết sanh vào địa ngục. Nếu phước lành đời trước theo đến được lại sanh trong loài người, thì nhiều đời thường đui mù, nghèo cùng linh đinh xin ăn để sống thường sanh ác tâm, do ác tâm ấy nen lại đoạ trong địa ngục. Như vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, chủ thành, chủ thôn, tướng soái, quận thú, tể quan cũng như vậy”.

Vua Tần Bà Sa La tai nghe lời ấy buồn khóc nghẹn ngào lau lệ bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi được gặp Như Lai mà vẫn còn chưa trị nước đúng chánh pháp, huống là đời vị lai các vua chúa phóng dật chẳng thể trì giới tu hành tinh tiến, chẳng trị được ác Tỳ Kheo để hộ trì Phật pháp, chẳng thể nối thạnh chủng tánh Tam bửu. Các vua chúa như vậy mãi mãi thường đi trong ba ác đạo”.

Lúc ấy các vua, phu nhơn, thái tử, đại thần, thành chủ, thôn chủ, tướng soái, quận thú, tể quan đều bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay trong đời hiện tại, chúng tôi cần phải siêng tâm thủ hộ Phật Pháp, cũng nên cúng dường người thọ trì chánh pháp những món vật cần dùng như y phục, món ăn uống, giường nệm, thuốc men, chúng tôi phải trị ác Tỳ Kheo, nối thạnh Tam bửu”.

Đức Phật nói: “Nầy đại chúng! Nếu các người có thể kiến lập sự việc ấy, đó là cúng dường tam thế chư Phật, cũng được vô lượng bất khả tư nghị các thiện công đức”.

Đức Phật lại bảo chư Thiên rằng: “Nầy chư Thiên Tử! Hôm nay các Ngài chớ có lòng lo lắng. Nay ta vì các chánh pháp nên sẽ lập nghiêm cấm chế cho hàng đệ tử Phật ở vị lai, vì để chẳng đoạn tuyệt tánh Tam bửu, vì muốn tăng trưởng các thiện pháp, vì tăng trưởng đa văn đầy kho pháp bửu, vì lìa tất cả khổ phiền não, vì thành đạo Vô thượng Bồ đề.

Nầy chư Thiên Tử! Nay chỗ Phật nói tất cả Thanh Văn đầy đủ thành tựu được Thanh Văn thừa, tất cả Duyên Giác đầy đủ thành tựu được Duyên Giác thừa, tất cả Bồ Tát thành tựu đầy đủ ba thứ phạm hạnh được trí vô thượng.

Nầy chư Thiên Tử! Kinh nầy có thể lìa các ác chúng sanh, hay phá hoại các pháp ác bất thiện của các chúng sanh, hay diệt thân khẩu ý ba nghiệp bất thiện, hay phá trừ tất cả các quả báo ác.

Nếu có thiện nam thiện nữ cúng dường kinh nầy thì là cúng dường thập phương chư Phật”.

Lúc bấy giờ Ta Bà thế giới tất cả chúng sanh khác miệng đồng lời nói rằng: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Tôi trước chưa nghe pháp tụ lớn nầy nay được nghe đó. Tôi có thể thọ trì thủ hộ pháp ấy, vì cớ hộ pháp tôi chẳng tiếc thân mạng. Nếu có hàng tứ chúng đệ tử Phật thọ trì pháp ấy, tôi sẽ cúng dường tuỳ chỗ cần dùng đều cung cấp cho họ. Nếu còn có người hay cúng dường những người thọ trì kinh nầy, chúng tôi cũng sẽ siêng thủ hộ người ấy, khiến nội ngoại của cải vàng ngọc chẳng bị tổn hao. Xứ nào có kinh nầy lưu bố, tôi cũng thủ hộ xứ ấy khiến không có các sự ác”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy thiện nam tử! Người có thể thủ hộ chánh pháp như vậy đó là cúng dường tam thế chư Phật.

Nầy thiện nam tử! Nếu các chúng sanh có tâm hộ pháp hoặc sanh nhơn thiên được đại tự tại, nhẫn đến sanh trong loài chim thú cũng có đại lực, người nể trọng chẳng bị các sự khốn khổ.

Nầy thiện nam tử! Người hộ pháp ấy, ác chẳng hại được, lòng không sợ sệt, không ai phá hoại được, các ma phiền não chẳng được tiện lợi, quyến thuộc đông nhiều, trí huệ đầy đủ. Phàm có nói ra không bị chướng ngại, thích làm thập thiện tu tập chánh định. Cha mẹ các vua quan thấy thì cung kính, hay thăng pháp toà chuyển chánh pháp luân, pháp đã được nghe trọn chẳng quên mất”.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngồi trên toà sư tử phóng đại quang minh dường như nhựt nguyệt, được đại tự tại như Phạm Vương, Đế Thích, công đức cao hiển như núi Tu Di, pháp giới thậm thâm dường như đại hải. Đức Thế Tôn ở trong đại chúng diễn nói chánh pháp sơ trung hậu thiện, tự nghĩa chơn chánh, đầy đủ thanh tịnh ban tuyên phạm hạnh, vì chư Bồ Tát mà thanh tịnh pháp ấn, khiến chư Bồ Tát nghe rồi tinh cần tu tập.

Đông phương quá chín vạn hai ngàn thế giới chư Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu Tịnh Trụ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn tuyên nói chánh pháp để giáo hoá chúng sanh. Có một Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát rời thế giới ấy muốn đến cõi nầy mang theo lọng báu vi diệu muốn dâng lên Phật. Lọng báu ấy che khắp nhứt thiên Tiểu Thiên thế giới. Cũng còn mang theo hương hoa muốn cúng dường Phật. Dùng âm thanh vi diệu nói kệ tán thán Như Lai:

Nếu hàng nhơn thiên được thấy Phật

Thì tức là được lợi ích lớn

Như Lai trước thọ khổ vô lượng

Vì siêng tinh tiến được Bồ đề

Thưở trước tinh tiến được Bồ đề

Vượt hơn tất cả chư Bồ Tát

Vì khiến chúng sanh được lợi ích

Nên chuyển vô thượng chánh pháp luân

Như Lai như vậy khó được thấy

Chánh pháp Phật nói khó được nghe

Được thân loài người cũng là khó

Các căn đầy đủ cũng như vậy

Nếu các chúng sanh làm nghiệp ác

Cũng chẳng làm được ba nghiệp thiện

Nếu người muốn được đại lợi ích

Phải nên gặp thấy Thích Thế Tôn

Nếu muốn nghe học pháp vô thượng

Cùng thấy mười phương chư Bồ Tát

Đầy đủ ba mươi hai diệu tướng

Phải nên mau đến Đại Bửu Phường

Nay nếu chẳng trồng các thiện căn

Sau ắt chẳng được đại Niết bàn

Nếu muốn đầy đủ được thân người

Phải nên mau đến cõi Ta Bà

Nếu muốn phá hoại ba ác đạo

Muốn thọ nhơn thiên vi diệu lạc

Muốn được vô thượng vô tỉ lạc

Phải nên mau đến cõi Ta Bà

Y Vương nay ban vị cam lộ

Trừ diệt chúng sanh các phiền não

Như Lai Đạo Sư Đại Pháp Vương

Ngày nay nói pháp giới vô thượng.

Lúc Bửu Kế Bồ Tát nói kệ tán thán Phật, âm thanh ấy vang khắp Đại Thiên thế giới.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghe tiếng kệ ấy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tiếng nói kệ ấy diễn tại xứ nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Đông phương quá chín vạn hai ngàn thế giới chư Phật, có thế giới tên là Thiện Hoa, có Phật hiệu là Tịnh Trụ Như Lai, có Bồ Tát tên là Bửu Kế cùng tám ngàn Bồ Tát đều muốn đến đây. Tiếng nói kệ ấy là của Bửu Kế Bồ Tát ấy nói vang khắp Đại Thiên thế giới đồng được nghe để khuyên các chúng sanh tu tập thiện pháp”.

Bửu Kế Bồ Tát và tám ngàn Bồ Tát cùng vô lượng nhơn thiên đến chỗ Phật đầu mặt lễ lạy bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thiện Hoa thế giới Tịnh Trụ Như Lai kính lời thăm hỏi Thế Tôn đi đứng nhẹ nhanh khí lực an lành chăng, đại chúng có thích học chánh pháp chăng?

Bạch đức Thế Tôn! Tôi từ thế giới kia đến đây để nghe Bồ Tát tịnh hạnh pháp ấn. Duy nguyên Như Lai đại từ thương xót vì tất cả đại chúng mà phân biệt giải nói. Khiên chư Bồ Tát nghe rồi tu tập, phá hoại tất cả phiền não tập khí, tu Bồ Tát hạnh biết rõ tất cả tâm chúng sanh, có thể tu tất cả hành tướng của Bồ Tát, hay hiểu rõ được trí huệ hành, hay biết tất cả phiền não hành, hay tu pháp hành của Bồ Tát tu, hay quán sát sâu tất cả tội lỗi, thân được vô ngại, được thấy tất cả Phật”.

Đức Phật nói: “Lành thay lành thay, nầy Bửu Kế! Lắng nghe lắng nghe, nay phật sẽ nói một phần mười tịnh hạnh như vậy.

Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát có bốn hạnh, đó là Ba la mật hạnh, trợ Bồ đề hạnh, thần thông hạnh và điều phục chúng sanh hạnh.

Ba la mật hạnh là nguyện phương tiện. Trợ Bồ đề hạnh là tu tập đạo phương tiện. Thần thông hạnh là điều tâm phương tiện. Điều phục chúng sanh hạnh là Bồ đề tâm kiên cố phương tiện.

Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Đàn Ba la mật? Đàn Ba la mật tức là tịnh hạnh, hay phá hoại si tâm, hay tu xả tâm, tu xả tâm rồi hay bố thí tất cả. Nếu Bồ Tát hay bố thí tất cả thì được bốn thứ vô phân biệt tâm, đó là chẳng phân biệt chúng sanh, chẳng phân biệt pháp, chẳng phân biệt tâm và chẳng phân biệt nguyện cầu.

Chẳng phân biệt chúng sanh là chẳng phân biệt kẻ đáng cho kẻ chẳng đáng cho, kẻ nầy cho nhiều kẻ kia cho ít, đây cho phần thượng đây cho phần hạ, đây kính cho kia khinh cho, đây cho trọn kia cho một phần, đây trì giới kia phá giới, đây phước điền kia chẳng phước điền, đây được báo lớn kia chẳng báo lớn, đây chánh kiến kia tà kiến, đây hành chánh tụ kia hành tà tụ v.v…

Lúc bố thí không tâm kiêu mạn, không có tâm thượng hạ, không có tâm chướng ngại, là tâm bình đẳng, là tâm chơn chánh, bình đẳng thí giới, bình đẳng từ bi, tâm không có phân biệt dường như hư không. Đây gọi là chẳng phân biệt chúng sanh.

Chẳng phân biệt pháp là chẳng phân biệt người học thì dạy người chẳng học thì chẳng dạy, với người học pháp thì cho vật cần dùng, trọn chẳng quán sát với kẻ phàm phu thì chẳng nên ban cho với bực Hiền Thánh thì nên ban cho. Đây gọi là chẳng phân biệt pháp.

Chẳng phân biệt tâm là quán sát các chúng sanh tâm Bồ Tát đều bình đẳng, chẳng vì báo đáp mà bố thí, chẳng tham nội ngoại vật mà bố thí, chẳng phải vì danh mà bố thí, chẳng cầu quả báo mà bố thí, vật được mến thích đem bố thí rồi thì chẳng hối tiếc, vì nhiếp chúng sanh nên làm việc bố thí. Đây gọi là chẳng phân biệt tâm.

Chẳng phân biệt nguyện cầu là lúc bố thí chẳng vì cầu được thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Ma Vương, thân Chuyển Luân Vương, thân Trưởng Giả, thân Đại Thần, lại cũng chẳng vì cầu được đại tự tại, được đại quyến thuộc, được cõi trên, cũng chẳng vì cầu Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa nhẫn đến chẳng vì cầu Vô thượng Bồ đề mà bố thí. Đây gọi là bất phân biệt nguyện vậy.

Nầy Bửu Kế! Lúc Bồ Tát tu bố thí đầy đủ thành tựu bốn sự như vậy thì được xa lìa tám bất chánh kiến, đó là ngã kiến, thường kiến, đoạn kiến, thọ mạng kiến, sĩ phu kiến, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến. Lại còn xa lìa bốn thứ công đức hạ liệt, đó là phàm phu công đức, Thanh Văn công đức, Duyên Giác công đức và những công đức tu tập khác. Lại còn chẳng quán sát bốn tướng, đó là tướng thường, tướng lạc, tướng ngã và tướng tịnh. Lại còn hay tịnh bốn pháp, đó là tịnh thân, tịnh khẩu, tịnh tâm và tịnh nguyện. Lại còn xa lìa ba chướng ngại, đó là quả báo ngại, Thanh Văn ngại và hối tâm ngại. Lại còn được xa lìa ba sự bố uý, đó là kiêu mạn uý, thượng mạn uý và ma nghiệp uý. Lại còn có đủ bốn thứ pháp ấn, chúng sanh ấn và Bồ đề không ấn. Lại còn đủ bốn thứ tinh tiến, đó là vì đầy đủ cho chúng sanh nên tinh tiến, vì thủ hộ Phật pháp nên tinh tiến và vì tịnh Phật độ nên tinh tiến. Lại còn được đủ bốn niệm, đó là niệm Bồ đề tâm, niệm muốn thấy Phật, tâm thường niệm từ và niệm rời lìa phiền não. Còn được tịnh ba sự, đó là tịnh tự thân, tịnh tha thân và tịnh Bồ đề. Còn tịnh bốn trí, đó là tịnh giới trí, tịnh chúng sanh mãn túc trí, tịnh nguyện trí và tịnh trợ Bồ đề trí.

Bồ Tát nếu có thể hành các pháp như vậy thì có thể tịnh được Đàn Ba la mật.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thi Ba la mật?”.

Có một thứ tịnh, đó là Bồ Tát thương xót tất cả thế gian chúng sanh hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, lòng từ có thể phá hoại ma nghiệp điều phục các chúng sanh đầy đủ vô lượng công đức bửu tụ không có phóng dật.

Còn có hai thứ, đó là nơi các chúng sanh chẳng có ác tâm và điều phục chúng sanh khiến họ hướng đến Bồ đề.

Còn có ba thứ, đó là tịnh thân vì xa lìa tất cả ác nghiệp nơi thân vậy. Tịnh khẩu vì xa lìa tất cả ác nghiệp nơi khẩu vậy. Tịnh ý vì xa lìa tất cả tham sân và tà kiến vậy.

Còn có bốn thứ, đó là khuyên các chúng sanh khiến họ thọ trì giới cấm. Khuyên các chúng sanh khiến họ trì tịnh giới. Có thể điều các người phá giới. Thấy người trì giới thì cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.

Còn có năm thứ, đó là trì giới rồi chẳng sanh kiêu mạn. Thấy người phạm giới chẳng sanh khinh mạn. Thấy người trì giới tâm không ganh ghét. Trọn chẳng cầu Thanh Văn thưa. Chẳng niệm Bích Chi Phật thừa.

Còn có sáu thứ, đó là niệm Phật vì siêu quá giới vậy. Niệm Pháp vì siêu quá giới rồi tâm không hối. Niệm Tăng vì đầy đủ Như Lai giới vậy. Niệm giới vì chẳng cầu các quả báo trong tam giới. Niệm thí vì có thể tất cả đều thí cho. Niệm thiên vì muốn đầy đủ tất cả thiện pháp.

Còn có bảy thứ, đó là thâm tín tất cả Phật pháp. Siêng tu tinh tiến để được Phật pháp. Đủ trí để biết tất cả Phật pháp. Nghe rồi có thể nói tất cả Phật pháp. Hay cúng dường cha mẹ, Sư trưởng, Hoà thượng. Sợ các ác nghiệp hiện tại và vị lai. Có tâm tàm quí.

Còn có tám thứ, đó là chẳng vì lợi dưỡng mà hiển dị hoặc chúng. Chẳng nói sự của mình vì rời lìa tất cả vậy. Chẳng tán thán cúng dường vì tâm tri túc vậy. Tu thánh chủng tánh vì thích thiện pháp vậy. Tu pháp đầu đà vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Thích tịch tĩnh vì lìa nói thế sự vậy. Thâm tâm thích chánh pháp vì nhàm tam giới vậy. Chí tâm hộ pháp chẳng tiếc thân mạng.

Còn có chín thứ, đó là lìa chín ác tâm vì vượt quá chỗ ở của chín chúng sanh vậy. Niệm tịnh. Niệm tu. Tăng trưởng thiện pháp. Tâm thích tịch tĩnh. Lìa phiền não nhiệt. Trang nghiêm Xa ma tha. Siêng tu tinh tiến. Chẳng khi chúng sanh.

Còn có mười thứ, đó là tịnh thân ba nghiệp. Tịnh khẩu bốn nghiệp. Tịnh ý ba nghiệp. Xa lìa tật đố. Lìa tâm siểm khúc. Chí tâm niệm giới. Vì trì giới nên siêng tu tinh tiến. Lời dịu dàng để điều chúng sanh. Thọ thân để chịu sự sai sử của chúng sanh. Nơi các phước điền chẳng khinh mạn.

Nầy Bửu Kế! Bồ Tát tu Thi la Ba la mật có hai thứ tịnh hạnh: Một là có tâm có tướng và trang nghiêm, thà bỏ thân mạng trọn chẳng phá giới. Hai là vô tâm vô tướng và không có trang nghiêm, nơi tất cả pháp tâm không chỗ thủ trước.

Còn có hai thứ: Một là thường nguyện tâm Bồ đề. Hai là chẳng quán bổn hướng Bồ đề giới tướng.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là đại Bồ Tát tịnh Sằn đề Ba la mật hạnh? Đại Bồ Tát bị mắng chẳng báo vì khẩu nghiệp tịnh vậy. Bị đánh chẳng báo vì thân nghiệp tịnh vậy. Bị sân chẳng báo vì ý nghiệp tịnh vậy.

Đại Bồ Tát dầu bị mạ nhục mà chẳng báo vì thủ hộ chúng sanh vậy. Bị các đau khổ mà chẳng báo vì thủ hộ đời sau vậy. Bị chặt tay chưn mà từ tâm chẳng sân vì thủ hộ Bồ đề vậy. Thấy có người cầu xin lòng chẳng sân hận vì tứ nhiếp pháp vậy, vì sanh tâm từ vậy, vì tăng Bồ đề đạo vậy, vì phá xan tham vậy, vì phá ma nghiệp vậy.

Đại Bồ Tát niệm Phật rồi tu nhẫn nhục thọ tất cả sự khổ để được thân Phật.

Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn được đầy đủ mười lực vậy.

Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì muốn thành đại sư tử hống vậy.

Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục vì để biết tam thế không chướng ngại vậy.

Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được sức đại từ đại bi vậy.

Còn có Bồ Tát tu nhẫn nhục để được đầy đủ Nhứt thiết trí vậy.

Đại Bồ Tát thành tựu hai lực thì được thành tựu hai nhẫn. Đó là trí lực và tu lực. Do trí lực quán sát thân tâm nên thành tựu nhẫn. Do tu lực nên chẳng thủ trước các pháp mà thành nhẫn.

Còn nữa, nầy Bửu Kế! Tịnh nhẫn Bồ Tát có thể quán sát trong tất cả pháp không có chúng sanh nên tu nhẫn nhục. Vì tất cả pháp tánh nó giải thoát nên Bồ Tát quán tất cả pháp không nhẫn không sân, nơi tất cả pháp tâm không có chỗ thủ trước đây gọi là nhẫn.

Bồ Tát có hai nhẫn, đó là quán như pháp thân và quán như pháp giới. Đại Bồ Tát nếu có thể quán hai pháp như vậy thì gọi là Bồ Tát tịnh Sằn đề Ba la mật hạnh.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tỳ lê gia Ba la mật? Nếu đại Bồ Tát nơi các hạnh tu tập chẳng nghỉ dứt chẳng hối, nơi các thiện pháp tâm không nhàm đủ, cũng thích tu hành năm Ba la mật thường cầu trang nghiêm tất cả thiện pháp, ủng hộ chánh pháp thích tuyên nói chánh pháp, điều phục chúng sanh lòng không thôi nghỉ, quá Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, ủng hộ tất cả chư Phật chánh pháp, tu các khổ hạnh lòng không hối, trọn chẳng hư mất căn lành xưa trước, rộng tu đa văn lòng không nhàm mỏi, vì chúng mà chạy lo công việc lòng chẳng buồn hối, đây gọi là tinh tiến.

Tinh tiến như vậy thế nào gọi là tịnh?

Nếu Bồ Tát có thể quán thân như tượng như bóng, quán khẩu không ngôn thuyết, quán tâm rốt ráo thanh tịnh. Dùng tận trí quán các pháp. Dùng vô sanh trí biết các hữu đều tận. Lúc quán như vậy thì có thể trang nghiêm ba thứ tinh tiến: một là thể trang nghiêm, hai là giác trang nghiêm và ba là phân biệt trang nghiêm.

Còn có ba thứ bất trước tinh tiến: một là chẳng trước nhãn, hai là chẳng trước sắc và ba là chẳng trước nhãn thức. Nhẫn đến chẳng trước ý pháp và ý thức cũng như vậy.

Đây gọi là chẳng thủ chẳng xả tinh tiến đầy đủ.

Siêng tinh tiến như vậy rồi, chẳng thủ bố thí chẳng xả xan tham, chẳng thủ trì giới chẳng xả huỷ giới, chẳng thủ nhẫn nhục chẳng xả sân hận, chẳng thủ tinh tiến chẳng xả giải đãi, chẳng thủ thiền định chẳng xả loạn tâm, chẳng thủ trí huệ chẳng xả ngu si, chẳng thủ thiện pháp chẳng xả ác pháp, chẳng thủ Phật đạo chẳng xả Nhị thừa. Đây gọi là hai thứ cần tinh tiến vậy. Hai tinh tiến ấy có thể thành tựu đủ Phật pháp.

Còn có hai thứ tinh tiến, đó là nội tinh tiến và ngoại tinh tiến vậy.

Đây gọi là tịnh Tỳ lê gia Ba la mật hạnh.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Thiền Ba la mật hạnh?

Nếu có đại Bồ Tát thủ các thiền chi, quán các thiền chi. Quán rồi nhập định. Đã nhập định rồi chẳng tham trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước nhãn thiền nhẫn đến ý thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước sắc thiền nhẫn đến pháp thiền. Đây gọi là thiền chẳng phải trước địa, thuỷ, hỏa, phong, không thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước nhựt, nguyệt, Thích, Phạm, Tự Tại Thiên Thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thử bỉ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải quán thân tâm thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thượng hạ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước tứ thủ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tướng thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải trước thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải cứu cánh lậu tận thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải nhập định tụ thiền. Đây gọi là thiền là chẳng phải được Sa Môn quả thiền.

Thiền như vậy đó chẳng phải cứu cánh hành thiền. Gọi là không điều phục thiền chẳng phải chơn không thiền. Gọi là vô tướng điều phục thiền chẳng phải chơn vô tướng thiền. Gọi là vô nguyện điều phục thiền chẳng phải chơn vô nguyện thiền. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ thành tựu đại từ đại bi nhứt thiết không hành thiền.

Thế nào gọi là đủ nhứt thiết không?

Nếu Bồ Tát có thể chẳng quán bồ thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề, trí huệ, phương tiện, từ bi, hỉ xả, tứ đế, Bồ đề, trí huệ, thệ nguyện, trang nghiêm, xa ma tha, tỳ bà xá na, giải thoát, tàm quý, đây gọi là chư Phật phương tiện tam muội thần thông vô ngại trí, nhiếp thủ thập lực, tứ vô sở uý và thập bát bất cộng pháp, chẳng bị nhị thừa nhiễm ô, đoạn các tập khí, đầy đủ vô lượng đại thần thông trí, được các chúng sanh quy y, trang nghiêm thế pháp và xuất thế pháp, hay khéo điều phục tất cả chúng sanh qua khỏi bốn dòng và biển lớn sanh tử, hay dứt tất cả hệ phược, tịnh các pháp tánh, đây gọi là tánh tịch tĩnh chẳng phải là hướng pháp tịch tĩnh, cũng lấy hướng pháp xả tánh, thấy rõ hướng pháp manh tánh, nghe rõ hướng pháp lung tánh, siêng điều phục hướng pháp đình trụ, tiêu diệt tịch tĩnh, điều phục xí nhiên. Đây gọi là Nhứt thiết hành không.

Nầy Bửu Kế! Ví như tam thiên Đại thiên thế giới tất cả chúng sanh đều giỏi biết hoạ. Trong ấy hoặc có kẻ giỏi đắp tô, hoặc giỏi mài cho màu, hoặc biết hoạ thân chẳng hiểu hoạ tay chưn, hoặc hiểu hoạ tay chưn mà chẳng hiểu hoạ mắt.

Có quốc vương trao chúng ấy một trương lụa mà bảo rằng: Người nào có khả năng hoạ thì đến tụ họp tại đây hoạ hình thân ta trên trương lụa nầy. Chúng ấy đều đến tụ họp tuỳ khả năng mình mà cùng chung làm. Có một hoạ sư vì duyên sự riêng nên không đến họp được, Chúng ấy họa xong đồng đem bức hoạ dâng cho quốc vương.

Nầy Bửu Kế! Như vậy có thể gọi là mọi người đều tụ họp tất cả chăng?”.

Bửu Kế Bồ Tát nói: “Không, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Ta nói ví dụ ấy nghĩa của nó chưa tỏ. Vì còn một người chưa đến nên chẳng được gọi là tất cả đều họp lại làm, cũng chẳng được nói hình tượng thành tựu.

Phật pháp hành cũng như vậy. Nếu còn có một hành chẳng thành tựu thì chẳng gọi là đầy đủ Như Lai chánh pháp. Vì vậy cần phải đầy đủ các hành mới gọi là thành tựu Vô thượng Bồ đề”.

Lúc nói pháp ấy, có sáu vạn Bồ Tát nơi tất cả hành được đầy đủ không.

“Nầy Bửu Kế! Thế nào gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã Ba la mật hạnh?

Đại Bồ Tát đủ mười hai huệ:

Một là biết quá khứ vô ngại, hai là biết vị lai vô ngại, ba là biết hiện tại vô ngại, bốn là biết hữu vi vô ngại, năm là biết vô vi vô ngại, sáu là biết tất cả thế tác vô ngại, bảy là biết xuất thế tác vô ngại, tám là biện tài vô ngại, chín là biết thiệt vô ngại, mười là biết thế đế vô ngại, mười một là biết đệ nhứt nghĩa vô ngại, mười hai là biết các chúng sanh lợi độn vô ngại. Đây gọi là huệ.

Huệ nầy, với khó phá thì hay phá được, với khó thấy thì hay thấy được, với khó hiểu thì hay hiểu được. Ví như kim cương không gì trở hoại được. Đây gọi là huệ xuất thế, là cứu cánh huệ, là Nhứt thiết chúng sanh chơn giải tâm huệ, khó hành khó vào, thậm thâm khó thấy, khó tập học được, là chánh kiến chánh tụ xa lìa các kiến và tập khí, tự biết tỏ rõ, thấy biết tâm tất cả chúng sanh, là pháp trí nghĩa trí không có tham trước, là quang minh rộng lớn không tranh không gần, khéo biết thời tiết vượt quá thời tiết, là chánh tụ thủ hộ chánh tụ, là cứu cánh giác chánh giác thiệt giác, xa lìa cấu uế, chẳng bị tất cả Thánh nhơn quở trách, là nhứt hành vô hành, là tất cả chúng sanh hành, là hành không có dấu chưn, dầu rời lìa tất cả thế gian hành mà cũng chẳng xa lìa tất cả thế gian hành, dầu lìa thế giới mà chẳng rời Phật độ, dầu lìa tất cả các hành trang nghiêm mà chẳng rời xa điều phục chúng sanh, dầu rời các hành mà chẳng lìa thiện hành, dầu rời chúng sanh tâm hành nhơn duyên mà chẳng rời thấy biết tâm hành tất cả chúng sanh, dầu rời thế hành mà chẳng lìa thế pháp, dầu lìa các thân chúng sanh mà cũng nhập vào tâm chúng sanh. Đây gọi là huệ.

Trí huệ như vậy rất là khó được.

Nếu chẳng phải thiện căn thuần thục thì trọn chẳng thể được. Người chẳng thường tu hành thiện pháp luôn thì cũng chẳng thể được trí huệ như vậy. Người ngồi toà kim cương dưới Bồ đề thọ mới được đó. Là chơn như pháp tánh được chư Phật hộ niệm, đã qua đến bờ kia, biết tất cả pháp ban bố vị cam lộ, vì vậy nên gọi là Bát Nhã Ba la mật.

Nầy Bửu Kế! Trí huệ như vậy cứu cánh biết rõ tất cả duyên, tất cả tướng, tất cả tâm hành của tất cả chúng sanh, vì vậy nên gọi là trí huệ.

Trí huệ như vậy có hai tịch tĩnh: một là biết tướng ngại tịch tĩnh và hai là biết tướng vô ngại tịch tĩnh.

Còn có hai thứ: một là vô giác tịnh và hai là lìa các kiến tịnh.

Trí huệ như vậy, Bồ Tát thường dạo đi trong căn lợi độn của chúng sanh, trong tâm chúng sanh, trong tất cả pháp, quán các phiền não tức là trí huệ. Bồ Tát dầu trụ các cõi mà phần nhiều trụ cõi Phật. Hay khéo xem thấy thập phương thế giới, lìa tất cả cái chướng, đều là tất cả Phật pháp căn bổn, đầy đủ tất cả vô thượng Phật pháp, chẳng học các pháp chẳng rời các pháp, chẳng hoại một pháp chẳng thành một pháp.

Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy có thể làm công đức, hay đọc tụng hay tuyên thuyết tất cả Phật pháp, tất cả phước đức đều có thể được, đều có thể tu thành tất cả thiện pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh Bát Nhã Ba la mật hạnh”.

Lúc nói pháp ấy, có hai vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, năm trăm Tỳ Kheo lậu tận ý giải, mười ngàn Thiên Nhơn được quả Tu Đà Hoàn.

Tất cả hàng Nhơn Thiên đồng nói rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu người có thể tin pháp nầy thì nên biết người ấy được chư Phật hộ niệm, huống là người có thể thọ trì đọc tụng thơ tả cúng dường!”.

Đức Phật lại bảo Bửu Kế Bồ Tát: “Nầy Bửu Kế! Thế nào là đại Bồ Tát tịnh trợ Bồ đề hạnh?

Đại Bồ Tát thân niệm xứ có hai thứ hạnh: Một là bất tịnh hạnh, hai là tịnh hạnh.

Thân bất tịnh hạnh là quán thân bất tịnh hôi dơ đầy dẫy, vô thường vô trụ nó dội phỉnh phàm phu.

Thân tịnh hạnh là tư duy như vầy: Nay ta nhơn nơi thân bất tịnh nầy mà được tịnh Phật thân, được tịnh pháp thân, được tịnh công đức thân, được thân mà tất cả chúng sanh thích thấy.

Còn nữa, nầy Bửu Kế! Bồ Tát quán thân rồi có thể tịnh hai hạnh: Một là vô thường, hai là thường.

Bồ Tát quán thân vô thường tất định sẽ chết. Quán như vậy rồi chẳng vì thân mà gây kiết sử tạo ác nghiệp, chẳng tà mạng tự sống, tu ba kiên pháp: Đó là thân kiên, mạng kiên và tài kiên. Quán như vậy rồi, Bồ Tát có thể vì chúng sanh mà làm cấp sử liền được xa lìa thân khẩu ý siểm khúc. Bồ Tát quán thân vô thường được vô lượng công đức như vậy.

Thế nào là thường?

Bồ Tát quán thân vô thường rồi thì được thường thân, nhơn quán vô thường mà được công đức thân, nhơn nơi vô thường mà chẳng dứt Phật chủng, Pháp chủng và Tăng chủng.

Lại nầy Bửu Kế! Thường ấy tức là vô tận, vô tận ấy tức là vô vi, vô vi ấy là chỗ sở hành của Nhứt thiết trí, sở hành của Nhứt thiết trí ấy tức là không, vô tướng vô nguyện.

Lại thường ấy tức là hư không. Đại Bồ Tát quán tất cả pháp dường như hư không. Đây gọi là đại Bồ Tát thường hạnh.

Nầy Bửu Kế! Còn có Bồ Tát tu thân niệm xứ, quán sát thân tất cả chúng sanh rốt ráo sẽ là thân Phật Như Lai. Như Phật thân, pháp thân cũng vậy. Hai thân như vậy thân ta cũng vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán vô lậu thân. Bấy giờ những thiện pháp mà Bồ Tát đã được hoặc nhiều hay ít tất cả đều vô lậu. Đem pháp như vậy phát nguyện hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Đã được vô lậu thì trọn chẳng còn khởi hữu lậu. Nói là lậu ấy có ba thứ là Dục giới lậu, Sắc, Vô Sắc giới lậu cũng gọi là hữu lậu và vô minh lậu.

Bồ Tát biết rõ ba lậu rồi, vì chúng sanh mà thọ sanh Dục giới cũng chẳng bị dục lậu làm ô nhiễm, thọ sanh Sắc giới và Vô Sắc giới cũng vậy.

Vô minh lậu ấy đã nhỗ gốc rễ nó. Tại sao, vì nhổ vô minh thì không có kiến lậu.

Bồ Tát tu thân niệm xứ rồi, ở trong thân chẳng thấy có ngã ngã sở, chẳng sanh kiêu mạn, vì đã lìa ngã ngã sở nên chẳng cầu chẳng lấy tất cả tài vật. Vì chẳng cầu lấy nên ở nơi tài vật không tranh. Vì không tranh nên là tịch tĩnh. Luận về tịch tĩnh ấy tức là nhẫn nhục. Trụ nơi nhẫn nhục chẳng thượng chẳng hạ tức là như pháp trụ. Như pháp trụ thì chẳng hành thiện pháp chẳng hành ác pháp.

Chẳng thượng chẳng hạ rồi thì được thiện hữu. Được thiện hữu rồi thì được gặp thiện tri thức. Vì được gặp thiện tri thức nên được nghe chánh pháp. Vì nghe chánh pháp nên chẳng dùng tâm hữu lậu hướng pháp hữu lậu. Đây gọi là vượt quá cảnh giới các lậu. Quá cảnh giới các lậu rồi sẽ nhập thiền định. Đã nhập định rồi nhẫn đến nơi một pháp cũng chẳng sanh giác quán. Vì không có giác quán nên chẳng làm một pháp chẳng biến một pháp. Đây gọi là như pháp. Đây gọi là tất cả pháp bình đẳng. Nếu được tất cả pháp bình đẳng như vậy thì gọi là Nhứt thiết trí.

Đại Bồ Tát nếu có thể quán thân niệm xứ như vậy đây gọi là quán thân niệm.

Nầy Bửu Kế! Bồ Tát ấy kế đến quán thọ niệm xứ. Đối với kẻ có thọ Bồ Tát sanh tâm từ bi hướng đến các chúng sanh mà bảo rằng: cứu cánh lạc ấy dứt tất cả thọ. Nếu người có thể dứt tất cả thọ tức là thường lạc. Lúc bấy giờ Bồ Tát tuỳ sở thọ sanh tâm từ bi hoặc tự hoặc tha lúc thọ lạc thọ xa lìa tâm ái trước mà sanh tâm từ, lúc thọ khổ thọ xa lìa tâm sân mà sanh tâm bi, lúc thọ khổ bất lạc thọ thì xa lìa tâm vô minh mà sanh xả tâm.

Vì vậy nên Bồ Tát lúc thọ lạc chẳng sanh tham trước, lúc thọ khổ chẳng sanh sân hận, lúc thọ chẳng khổ chẳng lạc chẳng sanh vô minh. Bồ Tát lúc nầy quán tất cả thọ là vô thường khổ không vô ngã. Thấy người thọ lạc liền biết là khổ, thấy người thọ khổ như nhọt như ghẻ, thấy thọ chẳng khổ chẳng lạc là tịch tĩnh. Quán lạc thọ là vô thường, quán khổ thọ là rỗng không, bất khổ bất lạc thọ là vô ngã. Lúc quán như vậy rồi, Bồ Tát thấy các thọ tức là không có thọ, thấy tất cả thọ là hữu vi. Nếu là hữu vi tức là sanh diệt tán lậu vô trụ. Quán như vậy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy người thọ, đây gọi là Bồ Tat đại trí phương tiện.

Nhơn phương tiện ấy, Bồ Tát thấy tất cả thọ vô thường sanh diệt, quán tất cả pháp thảy đều không vô, không có thọ không có thọ giả, không có tác không có tác giả, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, không có thuộc không nhiếp thủ, nơi các nhơn duyên chẳng sanh giác quán. Nhơn vì không có giác quán nên nói như vầy: Các pháp nhơn duyên thảy đều là rỗng không.

Lúc quán như vậy, đại Bồ Tát thành tựu thọ niệm xứ có thể làm cho thân tâm thảy đều tịch tĩnh biết tất cả hành, đây gọi là nhứt thiết trí. Đây gọi là tu thọ thọ niệm xứ.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu tâm niệm xứ?

Đại Bồ Tát trụ tâm Bồ đề, quán sát tâm tánh ấy, chẳng thấy nội nhập tâm, chẳng thấy ngoại nhập tâm, chẳng thấy nội ngoại nhập tâm, chẳng thấy tâm ở trong ngũ ấm, chẳng thấy tâm ở trong thập bát giới. Đã chẳng thấy tâm rồi, Bồ Tát suy nghĩ rằng: Tâm duyên như vậy là dị biệt hay chẳng dị biệt. Nếu tâm khác với duyên thì lẽ ra trong nhứt thời có hai tâm, nếu tâm là duyên thì chẳng nên tâm lại hay quán tự tâm, như đầu ngón tay chẳng nên có tự chạm lấy nó. Quán vậy rồi, Bồ Tát thấy tâm vô trụ vô thường biến dị, chỗ sở duyên diệt thì biết là tâm, chẳng phải tâm duyên sanh, chẳng phải chẳng duyên sanh, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nội, chẳng phải ngoại, chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Bồ Tát quán tâm như vậy chẳng ngại pháp như, biết tâm tịch tĩnh. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.

Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán tâm chẳng phải sắc chẳng thể nhìn thấy được, chẳng phải giác quán. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.

Như tâm, các tâm số cũng vậy. Như tâm số, các tâm hành cũng vậy. Như tâm hành, các pháp sở cầu của tâm cũng vậy. Như pháp sở cầu, Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề, tất cả thiện pháp cũng vậy.

Bồ Tát nếu quán tâm như di hầu, vẽ nước, sương mai, ong chúa, ngư mẫu, như sông, như lửa, như tưởng sự xa, như độc hành không thân, thường chuyển không dừng, tham trước các giới, thứ đệ sanh diệt, Bồ Tát có thể tư duy nhiếp vô lượng tâm như vậy, khiến trụ một chỗ chẳng động chẳng chuyển chẳng lậu chẳng lầm chẳng loạn chẳng tan. Đây gọi là Xa ma tha.

Bồ Tát nếu có thể quán như vậy, đây gọi là thành tựu quán tâm tâm niệm xứ. Đây gọi là biết tâm cảnh giới, là biết tâm pháp giới, là biết tâm chơn thiệt tướng, là biết tâm chơn thiệt tánh, tức là quảng tri, tức là tịnh tri, liễu tri, chơn tri, thiệt tri như huyễn ảo, đây gọi là tri pháp, tri tâm tánh, tri tâm tận, gọi là vô thủ tri, vô quái ngại tri.

Đại Bồ Tát quán như vậy rồi, khéo biết tất cả chúng sanh tâm tánh. Biết rồi Bồ Tát như chỗ đáng nên mà vì họ thuyết pháp.

Như biết tâm tánh ấy, biết tất cả chúng sanh tâm tánh cũng như vậy.

Như biết tự tâm tướng, biết tất cả chúng sanh tâm tướng cũng như vậy.

Như biết tự tâm không, biết tất cả chúng sanh tâm không cũng như vậy.

Như quán tự tâm bình đẳng, quán tất cả chúng sanh tâm bình đẳng cũng như vậy.

Quán như vậy rồi, chẳng động pháp giới. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tu pháp niệm xứ?

Đại Bồ Tát quán sát như vầy: pháp xuất pháp diệt không có ngã, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, không sanh, không diệt, không một, không xuất, đây gọi là pháp tánh. Nếu hay cầu pháp đây gọi là xuất pháp, nếu chẳng cầu pháp đây gọi là diệt pháp.

Các pháp hoặc thiện hay bất thiện, pháp xuất theo duyên, pháp diệt theo duyên.

Lúc quán như vậy, Bồ Tát quán nơi ba hành là ác hành, thiện hành và bất động hành.

Trong ba hành ấy, ta nên thường hành cực thiện hành là thập thiện pháp. Thập thiện pháp ấy là tịnh thân nghiệp để cầu Như Lai ba mươi hai tướng tám mưới hình hảo người khác chẳng hại được. Thập thiện pháp ấy là tịnh khẩu nghiệp, phàm có lời nói ra mọi người thích nghe học. Thập thiện pháp ấy là tịnh tâm nghiệp, với các chúng sanh tâm thường bình đẳng, thường nhập thiền định tịnh tứ vô ngại trí. Vì tịnh tâm bi nên trong vô lượng đời vì chúng sanh thọ khổ mà tâm chẳng hối. Tịnh thập lực để biết chúng sanh các căn lợi độn. Tịnh tứ vô uý để biết chúng sanh chướng không chướng. Tịnh thập bát bất cộng pháp để biết tam thế vô ngại. Tịnh tất cả Phật pháp vì tất cả chúng sanh không ai hơn được vậy.

Đại Bồ Tát hay quán như vậy thì ở nơi các thiện pháp và các công đức tâm không nhàm đủ, gần kề thiện hành xa lìa ác hành và phiền não tập khí, chơn thiệt biết rõ bất động hành. Dầu biết chẳng tham mà tâm được tự tại tuỳ nguyện vãng sanh chẳng phải kiết nghiệp sanh, Bồ Tát sanh vào dục giới là vì chúng sanh vậy.

Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát được thiện phương tiện quán pháp niệm xứ tu tập trang nghiêm pháp trợ Bồ đề, xa lìa tất cả cấu chướng Bồ đề. Được công đức ấy, Bồ Tát chẳng trước thường kiến chẳng trước đoạn kiến, lìa hai kiến ấy hành nơi trung đạo.

Luận về trung đạo có hai pháp: Một là niệm bất thiện và hai là vô minh. Trong hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo.

Còn có hai pháp: Một là hành, hai là thức.

Còn có hai pháp: Một là danh sắc, hai là lục nhập.

Còn có hai pháp: Một là xúc, hai là thọ.

Còn có hai pháp: Một là ái, hai là thủ.

Còn có hai pháp: Một là hữu, hai là sanh.

Còn có hai pháp: Một là lão, hai là tử.

Trong những hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo.

Trung đạo như vậy, trí huệ thế gian chẳng thể thấy được, chẳng tuyên nói được, chẳng hiển thị được, không có tướng mạo, không sắc, không xứ, không thủ, không xả, là thanh tịnh là tịch tĩnh.

Nầy Bửu Kế! Về trung đạo ấy, chẳng thể nhãn thấy được nhẫn đến chẳng thể thân xúc được, cũng không chỗ đến, cũng thế cũng xuất thế, chẳng tuyên nói được, chẳng phải nhiều chẳng phải ít, nên gọi là trung đạo.

Nầy Bửu Kế! ngã cùng vô ngã gọi là nhị biên.

Nếu có Bồ Tát nói rằng: Chẳng thường chẳng đoạn, chẳng mạng căn chẳng sĩ phu, chẳng tưởng chẳng chẳng tưởng, chẳng giác chẳng chẳng giác, chẳng thiệt chẳng hư, chẳng thử chẳng bỉ, chẳng hữu chẳng vô, chẳng hữu vi chẳng vô vi, chẳng hành chẳng hành chẳng chẳng hành, chẳng sanh tử chẳng Niết bàn. Đây gọi là trung đạo.

Còn nữa, nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát quán pháp pháp niệm xứ chẳng phân biệt pháp giới. Như pháp giới, chúng sanh giới cũng vậy. Hai giới như vậy gọi là hư không giới. Pháp giới ấy tức là chúng sanh giới. Chúng sanh giới ấy tức là vô phân biệt. Đây gọi là quán sát tất cả pháp bình đẳng, thấy tất cả giới tức là pháp giới. Dầu thấy rành rõ mà tâm chẳng thủ trước, vì không trước thì không phân biệt.

Đại Bồ Tát chẳng dùng nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn quán pháp niệm xứ, tại sao, vì ba nhãn như vậy không có tướng mạo. Vì thế nên quán pháp, Bồ Tát dùng pháp nhãn. Dầu tỏ rõ biết mà Bồ Tát tâm chẳng trước. Dầu chẳng trước mà chẳng mất pháp giới, đây gọi là phật trí. Có thể biết thậm thâm pháp giới như vậy mà chẳng mất nơi Nhứt thiết trí niệm. Đây gọi là Bồ Tát tu pháp pháp niệm xứ.

Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát cớ chi tu tập bốn niệm xứ ấy, vì muốn xa lìa bốn điên đảo vậy. Tu thân niệm xứ để lìa tịnh đảo. Tu thọ niệm xứ để lìa lạc đảo. Tu tâm niệm xứ để lìa thường đảo. Tu pháp niệm xứ để lìa ngã đảo.

Còn lìa bốn thứ thực: tu thân niệm xứ để lìa đoàn thực, tu thọ niệm xứ để lìa xúc thực, tu tâm niệm xứ để lìa thức thực, tu pháp niệm xứ để lìa tư thực.

Còn xa lìa bốn trụ xứ của thức. Tu thân niệm xứ xa lìa trụ sắc xứ. Tu thọ niệm xứ lìa trụ niệm xứ. Tu tâm niệm xứ lìa trụ tưởng xứ. Tu pháp niệm xứ lìa trụ hành xứ.

Vì lìa ngũ ấm mà tu Tứ niệm xứ. Tu thân niệm xứ, để lìa sắc ấm. Tu thọ niệm xứ, để lìa thọ ấm. Tu tâm niệm xứ, để lìa thức ấm. Tu pháp niệm xứ, để lìa tưởng hành ấm.

Đây gọi là Bồ Tát tịnh Tứ niệm xứ hành.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Tứ chánh cần hành?

Đại Bồ Tát thường thích tu tập tất cả thiện pháp.

Ác pháp chưa sanh vì chẳng sanh mà siêng tu tinh tiến. Ác pháp đã sanh vì xa lìa mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp chưa sanh vì sanh mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp đã sanh vì trụ vững chẳng mất mà siêng tu tinh tiến.

Đại Bồ Tát nơi vô lượng đời tu tập thiện hành vì vậy nên tánh thiện chẳng dùng phương tiện khiến ác chẳng sanh. Nếu Bồ Tát tu Tứ chánh cần thì tâm được tự tại.

Chánh cần ấy, Bồ Tát lúc ấy tâm và tâm số cùng đại từ đại bi hoà hiệp cộng hành, đây gọi là chánh cần.

Bồ Tát lúc bấy giờ kế thứ tu Tứ như ý túc là dục, tâm, tiến và huệ.

Chuyên niệm chí tâm niệm nơi Bồ đề đây gọi là dục.

Vì tu đại bi nên giác tâm nhẹ nhàng tiện lợi đây gọi là tâm.

Xa lìa ác pháp đây gọi là tinh tiến.

Vì được phương tiện nên gọi là huệ.

Bồ Tát tu Tứ như ý túc rồi được bốn tự tại. Một là thọ mạng tự tại. Do tự tại nên dầu sanh đoản thọ mà tự được trường thọ để điều phục chúng sanh cùng kẻ trường thọ, nên diễn nói chánh pháp. Ở trong trường thọ có thể hiện đoản thọ. Tuỳ xứ nào Bồ Tát thọ sanh hoặc Trời hoặc loài người, Bồ Tát đều được thọ mạng tự tại.

Hai là thân được tự tại. Do tự tại nên tuỳ tâm mà làm thân, tuỳ tâm mà làm sắc, thị hiện oai nghi vì chúng sanh vậy. Bồ Tát nếu muốn thân mình cùng thân chúng sanh đồng cao lớn nhỏ bé đều có thể tuỳ tâm làm được cả.

Ba là được pháp tự tại. Vì tự tại nên có thể biết tất cả pháp thế gian tất cả pháp xuất thế. Chỉ dạy các chúng sanh tất cả thế sự, nơi xuất thế hành tâm cũng chẳng thối thất, biết rõ thậm thâm thập nhị nhân duyên được vô ngại trí có thể vì chúng sanh nói các pháp. Vô lượng chúng sanh nghe pháp ấy rồi phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bốn là nguyện được tự tại. Do tự tại nên có thể khiến bốn đại hải hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ, không có động chuyển như cũ không khác. Cũng có thể khiến tất cả Tu Di sơn trong tam thiên Đại Thiên thế giới hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ không có động chuyển như cũ không khác, với Tứ Vương Thiên Đao Lợi Thiên không có phòng ngại. Nếu muốn khiến tam thiên Đại Thiên thế giới đều làm kim bửu, thất bửu, chiên đàn, anh lạc, hương hoa, hư không, thuỷ, hỏa đều tuỳ ý thành cả. Đây gọi là Bồ Tát được tứ tự tại.

Nầy Bửu Kế! Bồ Tát được Tứ như ý túc thì được diện kiến thập phương chư Phật cùng nói năng đi đứng một chỗ. Cũng diện kiến tất cả Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng Thiên, Long, Dạ Xoa, Bát Bộ Thần đồng nói năng đi đứng một chỗ.

Thế nào là trang nghiêm Tứ như ý túc?

Nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát có thể cúng dường cha mẹ, Hoà thượng, Sư trưởng kỳ cựu có đức, thấy các chúng sanh tiên ý thăm hỏi, dịu dàng nói năng như lời mà làm, xem các chúng sanh tâm mình bình đẳng, thiện tâm, chánh tâm, cung kính tâm, tàm quí tâm, xa lìa tham dục sân khuể ngu si, không khi, không kiêu, không đố kỵ, không xan tham, kinh doanh sự nghiệp người như làm cho mình, người không có thế lực giúp họ thế lực, đường bùn lầy lấy đất đá lấp, nơi sông rạch bắc cầu làm đò, hoặc dùng thân mang gánh, hoặc cho thuyền chở, thường thí cho chúng sanh vật cần dùng, miệng chẳng nói sự suy não của người, cũng chẳng chê chọc người phạm tội, người có phạm tội hay như pháp trừ, ngăn các phiền não chẳng cho sanh khởi, vật mình trọng thích có thể đem cho, đã cho rồi tâm không hối, vì các chúng sanh mà phát nguyện hồi hướng, tín tâm dùng thiện pháp khuyên các chúng sanh chẳng tiếc thân mạng, thiểu dục tri túc nơi lợi dưỡng của người lòng không hi vọng, thường niệm xuất gia cũng khuyên người, niệm thiện tri thức lòng không xa rời, trong oán thân bình đẳng không hai, đem các thứ xe cho người đi đường, với người ốm thiếu thí cho giường nệm, kẻ bị khủng bố có thể cứu hộ, xem các chúng sanh như cha mẹ, chẳng khi người huỷ giới, đem tài vật cho kẻ nghèo, người bịnh gầy cho thuốc men, thi ơn nơi người chẳng tự kể nhắc, trọn chẳng đoạn tuyệt Tam bửu chủng tánh, thường niệm vô vi xa lìa thế sự tất cả các pháp ác bất thiện, chẳng bị thế pháp nhiễm ô, chẳng mất niệm Bồ đề chí tâm.

Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm tịnh Tứ như ý túc hành.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh Ngũ căn hành?

Bồ Tát tín tâm chẳng thể động chuyển gọi là tín căn. Chẳng do người dạy bảo mà tự hành tinh tiến gọi là tinh tiến căn. Thường niệm Bồ đề không quên gọi là niệm căn. Thường tu đại bi gọi là định căn. Nhiếp thủ thiện pháp gọi là huệ căn.

Còn nữa, tin các Phật pháp không động chuyển gọi là tín căn. Tự cầu các Phật pháp gọi là tinh tiến căn. Thường niệm các Phật pháp gọi là niệm căn. Được phật tam muội gọi là định căn. Dứt các lưới nghi gọi là huệ căn.

Còn nữa, tâm hướng Bồ đề không nghi gọi là tín căn. Tăng trưởng thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Cầu thiện phương tiện gọi là niệm căn. Xem các chúng sanh lòng bình đẳng gọi là định căn. Quán thấy chúng sanh thượng trung hạ căn gọi là huệ căn.

Còn nữa, tâm thanh tịnh không trược cấu gọi là tín căn. Phá các tâm trược cấu gọi là tinh tiến căn. Thường niệm pháp thanh tịnh gọi là niệm căn. Quán tâm tánh thanh tịnh gọi là định căn. Hay khiến chúng sanh trụ pháp thanh tịnh gọi là huệ căn.

Còn nữa, xa lìa tất cả pháp tệ ác gọi là tín căn. Cầu các thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Được thiện pháp rồi chẳng mất gọi là niệm căn. Đã được thiện pháp như thiện pháp mà trụ gọi là định căn. Tư duy các pháp thiện bất thiện và vô ký gọi là huệ căn.

Còn nữa, tín căn là tâm bố thí. Tinh tiến căn tức là ưa thí không thôi nghỉ. Niệm căn là sau khi thí chẳng cầu quả báo. Định căn là bình đẳng thí không có phân biệt. Hụê căn là chẳng quán sát phước điền và chẳng phước điền.

Còn nữa, tín căn là tâm sơ nhập thiện pháp. Tinh tiến căn là hay phá kiêu mạn. Niệm căn là rời ngã ngã sở. Định căn là xa lìa tất cả sáu mươi hai kiến. Huệ căn là xa lìa tất cả ác phiền não.

Đây gọi là Bồ Tát tịnh Ngũ căn hành.

Thế nào là Bồ Tát tịnh Ngũ lực hành?

Nầy Bửu kế! Đại Bồ Tát có đủ Ngũ căn ấy không bị các chúng ma phá hoại thì gọi là Ngũ lực.

Tất cả Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa không bằng được, tất cả chúng sanh chẳng thể khiến thối thất Đại thừa tâm được, tất cả phiền não chẳng thể phá hoại được, hay khiến có tâm thiểu dục tri túc thân được đại lực, khéo che các căn được thân kim cương, đây gọi là lực.

Nầy Bửu Kế! đại Bồ Tát lúc trụ tín lực trọn chẳng tạo tác tất cả các ác. Lúc trụ tinh tiến lực hay tạo tất cả thiện pháp. Lúc trụ niệm lực chẳng mất thiện pháp. Lúc trụ định lực chẳng bị ngũ dục làm hư. Lúc trụ huệ lực xa lìa tất cả kiết phiền não.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực chẳng theo lời người. Lúc trụ tinh tiến lực cầu thiện pháp chẳng dứt. Trụ niệm lực được đà la ni. Trụ định lực thuyết pháp bình đẳng. Lúc trụ huệ lực hay phá tâm nghi tất cả chúng sanh.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực thấy tội lỗi xan tham. Lúc trụ tinh tiến lực xa lìa xan tham. Lúc trụ niệm lực đem thiện pháp đã tu hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tâm bình đẳng. Lúc trụ huệ lực trọn chẳng cầu quả báo do bố thí, trì giới, thiền định.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực hay lìa tất cả trược cấu phá giới. Lúc trụ tinh tiến lực chí tâm đủ tịnh giới. Lúc trụ niệm lực đem trì tịnh giới ấy phát nguyện hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực đủ thanh tịnh địa. Lúc trụ huệ lực xa lìa tác giới.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tâm sân hận. Lúc trụ tinh tiến lực tu tập nhẫn nhục. Lúc trụ niệm lực đem nhẫn nhục đã tu nguyện hồi hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực thủ hộ các chúng sanh. Lúc trụ huệ lực chẳng quán chúng sanh sĩ phu thọ mạng.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa giải đãi. Lúc trụ tinh tiến lực các thiện pháp đã tu đều đến bờ cứu cánh. Lúc trụ niệm lực đem tinh tiến đã tu nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực thân tâm tịch tĩnh. Lúc trụ huệ lực chẳng làm thiện ác.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tất cả sự vội gấp. Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu thiền chi. Lúc trụ niệm lực đem định đã tu nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tâm thường định. Lúc trụ huệ lực chẳng trước các định.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa vô minh. Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu các thiện pháp. Lúc trụ niệm lực đem trí đã tu nguyện hướng Bồ đề. Lúc trụ định lực tu thiện tư duy. Lúc trụ huệ lực như pháp mà trụ.

Còn nữa, đại Bồ Tát lúc trụ tín lực có đủ bảy lực. Lúc trụ tinh tiến lực được trụ thất giác chi. Lúc trụ niệm lực được bát niệm xứ. Lúc trụ định lực được thất thức xứ. Lúc trụ huệ lực lìa bát tà chi.

Còn nữa, đại Bồ Tát tâm ở nơi Bồ đề không có thối chuyển gọi là tín lực tịnh tín lực hành. Chẳng thủ chẳng xả gọi là tinh tiến lực tịnh tinh tiến lực hành. Tu tứ niệm xứ gọi là niệm lực tịnh niệm lực hành. Điều phục tâm gọi là định lực tịnh định lực hành. Xa lìa các kiến biết thiện phương tiện gọi là hụê lực tịnh huệ lực hành.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh thất giác chi hành?

Đại Bồ Tát nếu trọn chẳng mất pháp trợ Bồ đề đây gọi là niệm giác phần. Chẳng thủ chẳng xả Xa ma tha đây gọi là trạch pháp giác phần. Lìa tất cả ác đây gọi là tinh tiến giác phần. Lìa các sầu não đây gọi là hỉ giác phần. Thân tâm tịch tĩnh đây gọi là trừ giác phần. Được vị giải thoát đây gọi là định giác phần. Sở tác đã xong đây gọi là xả giác phần.

Còn nữa, chẳng bỏ Bồ đề tâm đây gọi là niệm giác phần. Chí tâm hộ pháp đây gọi là trạch giác phần. Điều các chúng sanh chẳng thôi nghỉ gọi là tinh tiến giác phần. Đầy đủ thiện pháp gọi là hỉ giác phần. Lìa các phiền não gọi là trừ giác phần. Hay khiến các chúng sanh trụ trong tam muội gọi là định giác phần. Khiến các chúng sanh đều biết pháp tướng gọi là xả giác phần.

Còn nữa, đại Bồ Tát chẳng niệm Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa gọi là niệm giác phần. Phân biệt tất cả pháp tự cú nghĩa gọi là trạch giác phần. Lúc cầu thiện pháp ba nghiệp không thôi nghỉ gọi là tinh tiến giác phần. Lìa tâm oán thân gọi là hỉ giác phần. Như pháp mà trụ gọi là trừ giác phần. Tuỳ các thế gian mà hay điều phục gọi là định giác phần. Chẳng quán hai pháp gọi là xả giác phần.

Nầy Bửu Kế! Trợ Bồ đề ấy giác tất cả pháp, biết tất cả pháp, phân biệt các pháp, tính lường các pháp, biết các chúng sanh tâm tánh tâm hành, đây gọi là Bồ đề phần cũng gọi là thánh hành.

Thánh hành như vậy chẳng phải sở hành của tất cả phàm phu chúng ma tà kiến, chẳng phải sở hành sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng phải tất cả pháp hành tất cả tướng, tất cả thọ, các tâm ý thức kiến văn giác tri, hữu tưởng, vô tưởng, nên gọi là thánh hành.

Thánh hành ấy chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, cũng chẳng phải đại giác, mà có thể đối trị tất cả pháp, nhưng lại chẳng tranh tụng với các pháp, đây gọi là thánh hành. Thánh hành ấy tức là tá trợ Bồ đề.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh bát đạo hành?

Bát đạo là chánh kiến. Thế nào là chánh kiến?

Chánh kiến là thấy tất cả pháp thảy đều bình đẳng. Chánh kiến như vậy chẳng gọi là không kiến, tại sao, vì tự có chánh kiến chẳng phải là không kiến. Hai kiến như vậy cũng gọi là đồng kiến. Còn có ngã kiến, chúng sanh kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Lại có chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Còn có ngã kiến, đoạn kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Còn có hữu kiến, vô kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến.

Còn có bốn kiến: Phật kiến, Pháp kiến, Tăng kiến và không kiến, đây gọi là chánh kiến. Bốn kiến như vậy chẳng gọi là không kiến.

Nầy Bửu Kế! Nếu có người trước các kiến như vậy thì chẳng gọi là chánh kiến. Tại sao vậy?

Luận về chánh kiến ấy là vô phân biệt, là bình đẳng không có hai. Sao gọi là bình đẳng kiến?

Nếu suy nghĩ rằng: Phàm phu pháp là hạ, học pháp là thượng, như vậy gọi là chẳng phải bình đẳng kiến.

Nếu suy nghĩ rằng: Phàm phu pháp là lậu, học pháp là vô lậu; phàm phu pháp có thực, Duyên Giác pháp không thực; phàm phu pháp cấu uế, Bồ Tát pháp thanh tịnh; phàm phu hữu vi, Phật vô vi, các kiến như vậy chẳng phải bình đẳng kiến.

Nếu có thể quán sát phàm phu pháp đến Phật pháp không có sai biệt mới gọi là bình đẳng kiến.

Nếu có thể quán phàm phu pháp không đến Phật pháp không, đây gọi là chánh kiến.

Nếu quán phàm phu pháp từ nhơn duyên sanh, Duyên Giác pháp cũng theo nhơn duyên sanh, đây mới gọi là chánh kiến.

Nếu quán phàm phu pháp tịch tĩnh, Bồ Tát pháp tịch tĩnh, đây gọi là chánh kiến.

Nếu quán phàm phu pháp chẳng cụ túc, nhẫn đến Phật pháp cũng chẳng cụ túc, đây gọi là chánh kiến.

Nếu quán ngã cùng vô ngã không có sai biệt, vô sai biệt kiến mới gọi là chánh kiến.

Nếu là kiến như vậy thì chẳng thấy pháp thượng trung hạ, nơi tất cả pháp cũng không có giác quán, đây gọi là chánh kiến.

Chánh kiến ấy gọi là vô sở kiến. Vô sở kiến ấy tức là chánh kiến.

Nếu là kiến như vậy, người ấy nhẫn đến chẳng thấy một pháp, một pháp tướng mạo, một pháp quang minh.

Nầy Bửu Kế! Kiến như vậy gọi là chánh kiến của Phật pháp vậy”.

Lúc nói pháp ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được quả A La Hán.

Đức Phật phán tiếp: “Nầy Bửu Kế! Thế nào là chánh giác?

Chánh giác ấy lìa tất cả giác. Giác ấy gọi là trí huệ phương tiện quán pháp biết pháp, đây gọi là chánh kiến.

Quán sát các pháp: gì là cấu gì là tịnh, quán như vậy rồi đều chẳng giác tri bình đẳng cùng bất bình đẳng, rời lìa tất cả giác, đây gọi là chánh giác.

Thế nào là chánh ngữ?

Khẩu phát ra lời chẳng tự đốt não cũng chẳng não người, chẳng tự ô nhục cũng chẳng nhục người, chẳng tự sanh mạn chẳng sanh kiêu mạn cho người, chẳng tự dối phỉnh chẳng dối phỉnh người, đây gọi là chánh ngữ.

Còn nữa, chánh ngữ là phàm có nói thì nói tất cả pháp thảy đều bình đẳng, khéo có thể phân biệt tướng hữu vi, đây gọi là chánh ngữ.

Còn nữa, nói tất cả pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô xuất, vô một, đây gọi là chánh ngữ.

Còn nữa, nói hữu vi là khổ vô thường vô ngã, Niết bàn tịch tĩnh, đây gọi là chánh ngữ.

Còn nữa, nếu nói tất cả chúng sanh đều không có thọ mạng sĩ phu, tất cả các pháp theo nhơn duyên sanh theo nhơn duyên diệt, dường như hột trái, đây gọi là chánh ngữ.

Tịnh chánh ngữ ấy tức là Phật ngữ. Đây gọi là tịnh chánh ngữ hành.

Thế nào là chánh nghiệp?

Nếu nghiệp dầu có thể hoại tất cả nghiệp cũng chẳng gọi là chánh nghiệp.

Nếu nghiệp có thể làm nhơn tịch tĩnh bất tăng bất giảm, có thể hoại phiền não chẳng cho tăng trưởng, đây gọi là chánh nghiệp.

Dầu biết nghiệp như vậy mà vẫn làm thiện nghiệp, cũng quán các nghiệp thảy đều không tịch không có chắc thiệt là khổ không lạc, đây gọi là chánh nghiệp.

Thế nào là chánh mạng?

Nếu mạng chẳng phòng ngại tự thân tha thân, chẳng tăng tất cả các ác phiền não, chẳng phải ác nghiệp để sống, đây gọi là chánh mạng.

Đại Bồ Tát nơi các chúng sanh tịnh nơi chánh mạng, đem chánh mạng ấy nguyện hướng Bồ đề, đây gọi là chánh mạng.

Chánh mạng như vậy hay tự lợi lợi tha.

Thế nào là chánh tinh tiến?

Siêng làm phương tiện cầu các thiện pháp, dục tâm chẳng dứt không có nhàm hối, đây gọi là chánh tinh tiến.

Suy cầu tánh bình đẳng của các pháp, cũng chẳng quán các pháp bình đẳng cùng bất bình đẳng, chẳng làm chẳng phải chẳng làm, biết rõ nơi như, pháp tánh và thiệt tánh, đây gọi là chánh tinh tiến.

Tuyên nói các pháp khiến các chúng sanh lìa tà tinh tiến, cũng biết hạnh được tu hành của chúng sanh, đây gọi là chánh tinh tiến.

Thế nào là chánh niệm?

Nếu niệm thí giới nhẫn tinh tiến thiền định trí huệ tứ vô lượng tâm, đây gọi là chánh niệm.

Còn có chánh niệm nhiếp thủ phiền não chẳng cho vọng khởi, chẳng gần tất cả ác ma nghiệp, chẳng đoạ ác đạo chẳng khởi ác tâm, thường tu tất cả pháp chánh thiện, xa lìa tất cả pháp tà ác, đây gọi là chánh niệm.

Bồ Tát trụ trong chánh niệm ấy được chánh tụ Sa Môn chánh quả. Đây gọi là chánh niệm.

Thế nào là chánh định?

Tu hành thánh hạnh, biết khổ lìa tập chứng diệt hành đạo, đây gọi là chánh định.

Còn có chánh định quán tất cả pháp thảy đều bình đẳng, nếu quán ngã tịnh thì tất cả cũng tịnh, nếu quán ngã không thì tất cả cũng không, dầu quán như vậy mà chẳng nhập chánh vị, đây gọi là Bồ Tát chánh định vậy.

Đại Bồ Tát trụ trong định ấy, khoảng một niệm được Nhứt thiết trí, đây gọi là chánh định”.

Lúc nói pháp ấy, có một vạn hai ngàn Thiên và Nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề.

“Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh thần thông hạnh?

Thiên nhãn năm thứ đều hay nhìn thấy thập phương thế giới, thấy thập phương thế giới chư Phật, thấy các chúng sanh xuất sanh thối một, thấy tất cả mười phương không có chướng ngại hơn cả Thanh Văn, Duyên Giác và hàng Thiên Nhơn. Bồ Tát có đủ năm sự như vậy thì có thể tỏ rõ thấy tất cả pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh thiên nhãn hành.

Đại Bồ Tát được thiên nhĩ thông nghe năm thứ tiếng: Tiếng loài người, tiếng hàng phi nhơn, tiếng địa ngục, tiếng thuyết pháp của thập phương chư Phật, tiếng ngữ ngôn của tất cả chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát tịnh thiên nhĩ hành.

Thế nào là Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành?

Tri tha tâm trí cũng có năm thứ: đều biết tất cả tâm của tất cả Nhơn Thiên, biết rõ tâm của tất cả chúng sanh, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, biết tâm quá khứ, biết tâm vị lai, biết tâm hiện tại. Đây gọi là Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành.

Còn có tha tâm trí biết chúng sanh ấy là chánh định tụ, là tà định tụ, là bất định tụ, biết chúng sanh ấy có tham, có sân hay có si, đã biết rõ rồi tuỳ chỗ nên đáng mà thuyết pháp, chúng sanh nghe pháp rồi được hoại phiền não. Đây gọi là Bồ Tát tịnh tha tâm trí hành.

Thế nào là Bồ Tát tịnh túc mạng trí hành?

Bồ Tát biết rõ thân ấy từ tham sân si nhơn duyên mà sanh, biết rõ thân ấy từ thí giới nhẫn tiến định huệ từ bi hỉ xả nhơn duyên mà sanh, biết rõ thân ấy cụ túc chẳng cụ túc, biết rõ thân ấy từ vô minh ái và bốn điên đảo sanh, biết rõ thân ấy do thí nhơn duyên nên có đủ tài vật và các quyến thuộc. Các trí như vậy gọi là Bồ Tát tịnh túc mạng trí hành.

Thế nào là Bồ Tát tịnh thần túc hành?

Thần túc hành ấy cũng có năm thứ:

Một là hiển thị hình sắc. Hai là hiểu các thứ ngôn ngữ của chúng sanh mà vì họ thuyết pháp. Ba là khéo biết rõ tâm ý thức v.v… Bốn là hay biết rõ tất cả pháp. Năm là hay diễn nói tất cả pháp. Đây gọi là Bồ Tát tịnh thần túc hành.

Nầy Bửu Kế! Ngũ thần thông như vậy để vì lậu tận, Bồ Tát tu tập ngũ thông mà chẳng tận lậu vì muốn biết rõ tất cả pháp. Tại sao, vì để điều phục chúng sanh vậy.

Nầy Bửu Kế! Ví như một thành ngang rộng một do tuần có nhiều cửa ngõ đường hiểm trở tối đen nên rất kinh sợ, người nào vào thành được thì hưởng nhiều an lạc. Có một người có một con trai rất quý trọng mến yêu. Người ấy nghe thành kia nhiều an lạc như vậy liên bỏ con trai lại để đi đến thành. Người ấy phương tiện qua được đường hiểm ác đến cửa thành, một chưn vào thành chưa cất chưn kia liền nhớ con trai mình tự nghĩ rằng: Ta chỉ có một đứa con, lúc đến thành sao chẳng cùng chung vào. Ai có thể nuôi giữ nó cho nó khỏi khổ. Nghĩ vậy rồi người ấy bỏ thành trở lại chỗ đứa con để dắt nó đi.

Cũng như vậy, đại Bồ Tát thương xót chúng sanh như con một, tu tập ngũ thần thông. Đã tu tập rồi sắp được tận lậu mà chẳng thủ chứng. Tại sao, vì thương chúng sanh nên bỏ lậu tận thông nhẫn đến đi trong phàm phu địa.

Nầy Bửu Kế! Thành kia là dụ Đại bát Niết bàn. Có nhiều cửa là dụ tám vạn các môn tam muội. Đường hiểm ác là dụ các ma nghiệp. Đến cửa thành là dụ năm thần thông. Một chưn bước vào là dụ trí huệ. Một chưn chưa bước vào là dụ Bồ Tát chưa chứng giải thoát. Nói một con trai là dụ tất cả chúng sanh ngũ đạo. Nhớ lại con trai là dụ tâm đại bi. Trở lại chỗ con trai là du điều chúng sanh. Có thể được giải thoát mà chẳng chứng tức là phương tiện vậy.

Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát đại từ đại bi bất khả tư nghị”.

Bửu Kế Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời Phật nói đại từ đại bi bất khả tư nghị. Như thánh giáo thì chẳng những từ bi bất khả tư nghị, mà phương tiện và lực cũng bất khả tư nghị. Đại Bồ Tát tỏ rõ tự biết sẽ được Vô thượng Bồ đề mà chẳng chứng đó. Vì chúng sanh nên đại Bồ Tát hành nơi sanh tử chẳng bị sanh tử nhiễm ô.

Bạch đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát có đủ pháp gì mà ở trong sanh tử tâm chẳng nhàm hối?”.

Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát có hai mười mốt pháp ở trong sanh tử tâm chẳng hối.

Một là thiện pháp được tu cùng chung với từ hành. Hai là tâm từ được tu cùng chung với đại bi hành. Ba là đại bi được tu cùng chung với điều chúng sanh hành. Bốn là điều phục chúng sanh cùng chung với tinh tiến hành. Năm là tinh tiến được tu cùng chung với thiện tâm chung hành. Sáu là thiện tâm được tu cùng chung với phương tiện chung hành. Bảy là phương tiện được tu cùng với hụê chung hành. Tám là huệ được tu tập cùng với thiền định chung hành. Chín là thiền định được tu tập cùng với thần thông chung hành. Mười là thần thông được tu cùng với trí chung hành. Mười một là trí được tu tập cùng với dục chung hành. Mười hai là dục được tu cùng với niệm chung hành. Mười ba là niệm được tu tập cùng với Bồ đề tâm chung hành. Mười bốn là tâm Bồ đề được tu tập cùng với tứ nhiếp pháp chung hành. Mười lăm là tứ nhiếp được tu tập cùng với cấm giới chung hành. Mười sáu là cấm giới được tu tập cùng với đa văn chung hành. Mười bảy là đa văn được tu tập cùng với như pháp trụ chung hành. Mười tám là như pháp trụ được tu cùng với đà la ni chung hành. Mười chín là đà la ni được tu tập cùng với vô ngại trí chung hành. Hai mươi là vô ngại trí được tu cùng vơi trang nghiêm công đức chung hành. Hai mười mốt là công đức được tu tập cùng với trí huệ trang nghiêm chung hành.

Đây gọi là Bồ Tát hai mười mốt pháp ở tại sanh tử tâm chẳng nhàm hối”.

Bửu Kế Bồ Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tự thân cũng khiến chúng sanh được đại lợi ích?”.

Đức Phật nói: “Nầy Bửu Kế! Đại Bồ Tát nếu có đủ đa văn thì gọi là tự trang nghiêm, vì chúng sanh diễn nói thì gọi là đại lợi ích.

Còn nữa, đại Bồ Tát được đại tổng trì gọi là tự trang nghiêm, vì chúng sanh diễn nói gọi là đại lợi ích.

Còn nữa, đại Bồ Tát không có phóng dật gọi là tự trang nghiêm, điều phục chúng sanh gọi là đại lợi ích.

Còn nữa, đại Bồ Tát có ba mươi hai tướng là tự trang nghiêm, có đại trí huệ gọi là đại lợi ích.

Còn nữa, đại Bồ Tát nhu nhuyến ngữ là tự trang nghiêm, nói rồi như lời nói mà làm gọi là đại lợi ích.

Còn nữa, đại Bồ Tát hay tất cả bố thí là tự trang nghiêm, chẳng cầu quả báo gọi là đại lợi ích.

Đây gọi là đại Bồ Tát trang nghiêm tự thân cũng làm cho chúng sanh được đại lợi ích.

Nầy Bửu Kế! Thưở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, kiếp ấy tên là Lạc Hỷ, trong kiếp ấy có Phật hiệu Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc Niệm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới của Phật Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc Niệm ấy tên là Thiên Quán.

Nầy Bửu Kế! Tại sao kiếp ấy tên là Lạc Hỷ?

Trong đại kiếp ấy có sáu vạn chư Phật xuất thế. Lúc kiếp sơ ấy, Trời Thủ Đà Bà Thiên xướng rằng: Kiếp này sẽ có sáu vạn đức Phật Như Lai xuất thế.

Chúng sanh nghe rồi thảy đều lạc hỷ, nên kiếp ấy có tên là Lạc Hỷ.

Nầy Bửu Kế! Thế giới Thiên Quán ấy trang nghiêm vi diệu không có hạn lượng, khoái lạc diệu hảo như cung trời không khác, vì vậy mà thế giới ấy tên là Thiên Quán.

Cõi ấy tất cả đều là chiên đàn làm đất không có đất cát bụi bặm. Hơi thơm cõi ấy xông khăp vô lượng thế giới chư Phật. Khắp mọi nơi trong cõi ấy sản xuất liên hoa, mỗi hoa có đại quang minh chiếu khắp cõi ấy. Chúng sanh cõi ấy đều có thần thông chưn không đạp đất, không có thai sanh, tất cả đều hoá sanh, không có sanh tử nữ nhơn, cũng không có danh từ ba ác đạo. Tất cả chúng sanh đều dùng thiền hỷ làm thực. Cõi ấy không có danh từ Nhị thừa. Tất cả chúng sanh cõi ấy đều dùng chơn kim anh lạc thiên quan châu báu trang nghiêm thân mình. Dầu không cạo râu tóc mặc y ca sa mà cũng được gọi là người xuất gia. Tại sao, Vì đối với tất cả vật, chúng sanh cõi ấy xả bỏ mà chẳng tham vậy.

Phật Như Lai cõi ấy, hình sắc như Phạm Thiên. Phật ấy hiện thân Phạm Thiên vì chư Bồ Tát nói pháp yếu.

Nếu các thế giới khác chư Bồ Tát thấy Phật ấy rồi liền thọ đại hoan hỷ.

Nầy Bửu Kế! Đức Phật ấy lúc muốn tuyên nói chánh pháp giáo hoá thì thăng đại pháp toà ở phía trên đại chúng cao bằng bảy cây đa la, thường lược thuyết pháp.

Tại sao lược nói? Vì tất cả chúng sanh cõi ấy căn tánh mãnh lợi vậy. Phật ấy nói pháp chỉ một câu mà các chúng sanh hiểu trăm ngàn câu.

Đức Phật ấy thường nói bốn tịnh pháp. Đó là Ba la mật tịnh, trợ Bồ đề tịnh, thần thông tịnh và điều chúng sanh tịnh.

Lúc ấy có Bồ Tát tên là Bửu Tụ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tự thân cũng làm cho chúng sanh được đại lợi ích?”.

Đức Nhứt Thiết Chúng Sanh Lạc Niệm Như Lai ấy dạy rằng: “Nầy Bửu Tụ! Nếu Bồ Tát có đủ vô ngại trí thì gọi là trang nghiêm, hay làm trí minh thì gọi là đại lợi ích.

Lúc Phật ấy nói như vậy rồi có sáu ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn”..

Bửu Tụ Bồ Tát lại bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Bồ đề thọ?”.

Đức Phật ấy nói: “Nầy Bửu Tụ! Nếu Bồ Tát có thể tu bất phóng dật, đây gọi là trang nghiêm Bồ đề thọ.

Bất phóng dật ấy là như pháp trụ. Như pháp trụ là như thuyết mà trụ.

Còn nữa, bất phóng dật ấy gọi là vô lượng trang nghiêm, vô lượng bố thí, vô lượng trì giới, vô lượng nhẫn nhục, vô lượng tinh tiến, vô lượng thiền định, vô lượng trí huệ, vô lượng Phật pháp, vô lượng điều phục, vô lượng công đức trí huệ trang nghiêm, cúng dường vô lượng chư Phật Thế Tôn vì đủ trí huệ vậy, vô lượng đa văn vì tăng trí huệ vậy, vô lượng xa ma tha tỳ bà xá na. Thành tựu các pháp như vậy gọi là trang nghiêm Bồ đề thọ, cũng hay mau được Vô thượng Bồ đề.

Nầy Bửu Tụ! Tất cả pháp tá trợ Bồ đề do bất phóng dật mà làm căn bổn, đủ đại trang nghiêm tất cả trí huệ, chẳng mất tất cả thiện pháp, xa lìa tất cả phiền não, nhiếp thủ tất cả các pháp, nơi tất cả pháp không có chướng ngại, điều phục các căn, thủ hộ các thiện pháp không cho thối thất, biết thời phi thời, đầy đủ thập lực tứ vô uý Phật bất cộng pháp đảnh pháp. Đây gọi là bất phóng dật”.

Lúc Phật ấy nói pháp rồi, có vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn.

Bửu Tụ Bồ Tát thưở xa xưa ấy, nay chính là thân ông, Bồ Tát Bửu Kế vậy.

Nầy Bửu Kế! Nay ông nên biết đủ bất phóng dật đại Bồ Tát liền có thể trang nghiêm Bồ đề thọ.

Nầy Bửu Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh điều phục?

Chúng sanh hành vô lượng vô biên bất khả tư nghị, điều phục cũng vô lượng vô biên bất khả tư nghị, Bồ Tát hành cũng vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Đại Bồ Tát nhứt tâm chí tâm điều phục chúng sanh.

Nầy Bửu Kế! Có các chúng sanh nghe nói huệ thí thì có thể điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói trì giới mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói thí và giới mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh do nhuyến ngữ mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh do sân ngữ mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh đủ hai thứ ngữ mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói thân nghiệp mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói xả thân mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh dùng thắng mà điều phục. Hoặc có chúng sanh dùng cương điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe lời quở trách được điều phục. Hoặc có chúng sanh lúc bố thí điều phục. Hoặc có chúng sanh lúc bị cướp điều phục. Hoặc có chúng sanh thấy diệu sắc được điều phục. Thanh, hương, vị, xúc cũng như vậy. Hoặc có chúng sanh thường gần gũi điều phục. Hoặc có chúng sanh ở xa thì được điều phục. Hoặc có chúng sanh thấy Phật được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe pháp được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe pháp vô thường mà được điều phục. Khổ, không, vô ngã cũng như vậy. Hoặc có chúng sanh nghe tiếng bố thí được điều phục. Tiếng giới, tiếng nhẫn, tiếng cần, tiếng định, tiếng huệ cũng như vậy. Hoặc có chúng sanh nghe nói tất cả hữu vi vô thường mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe tán thán Nhơn Thiên mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Thanh Văn thừa mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Bích Chi Phật thừa mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe Phật thừa mà được điều phục. Hoặc dùng Tứ nhiếp mà được điều phục. Hoặc dùng tam, nhị hoặc dùng một nhiếp mà được điều phục. Hoặc chẳng dùng Tứ nhiếp mà được điều phục. Hoặc do nội thí, hoặc do ngoại thí, hoặc do nội ngoại thí mà được điều phục. Hoặc có chúng sanh nghe nói sự khổ địa ngục, hoặc khổ ngạ quỷ, súc sanh hoặc sự khổ loài người, loài trời mà được điều phục. Hoặc nghe thuần lạc, hoặc nghe thuần khổ mà được điều phục. Hoặc nghe cả khổ lạc mà được điều phục. Hoặc thấy hình tượng Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di hình tượng mà được điều phục. Hoặc do làm các thứ kỹ nhạc mà được điều phục.

Nầy Bửu Kế! Bồ Tát có thể biết những pháp điều phục chúng sanh hành như vậy. Đây gọi là Bồ Tát có thể hành lục Ba la mật, đầy đủ pháp tá trợ Bồ đề, đầy đủ thần thông điều phục chúng sanh.

Nầy Bửu Kế! Nếu Bồ Tát có đủ bốn pháp thì hay điều phục chúng sanh. Đó là tâm chẳng nhàm hối, chẳng tham những sự vui, biết thời phi thời và biết rõ các tâm.

Còn có bốn pháp là chánh ngữ, ái ngữ, tịnh ngữ và như pháp ngữ.

Còn có bốn pháp là với các chúng sanh tâm không chướng ngại, tâm bi, tâm lợi ích và từ điều các căn.

Còn có bốn pháp là thanh tịnh tự tâm, thương mến tâm người, siêng làm tinh tiến và xa lìa thọ lạc.

Vì vậy nên đại Bồ Tát điều phục hành vô lượng vô biên bất khả tư nghị.

Nầy Bửu Kế! Thưở quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, có kiếp tên là Ái, Phật hiệu Quảng Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới Phật ấy tên là Tịch Tĩnh.

Đức Phật ấy có đại chúng Thanh Văn chín vạn sáu ngàn ức người. Tám vạn bốn ngàn chư Bồ Tát đại chúng.

Nhơn dân cõi ấy thọ mười bảy vạn hai ngàn tuổi.

Lúc ấy có một đại Vương Tử tên là Tài Công Đức, dòng Bà La Môn, diện mạo đoan chánh mọi người thích thấy. Năm mười sáu tuổi, Vương Tử ấy tự thị đoan chánh nên sanh kiêu mạn ban sơ chẳng chịu hướng Phật cung kính lễ bái.

Đức Quảng Quang Minh Như Lai nghĩ rằng: Vương Tử ấy nay sắp thối Vô thượng Bồ đề, thiện căn chẳng thành thục. Nếu có được thiện hữu thì Vương Tử ấy đến chỗ Phật nghe pháp thọ trì.

Đức Như Lai ấy liền ở trong đại chúng tám vạn bốn ngàn Bồ Tát hành trù mà bảo rằng:

Trong đại chúng Bồ Tát có ai hay điều phục con trai Bà La Môn ấy, ai có thể trong tám vạn bốn ngàn năm thường qua lài nhà Vương Tử ấy, hoặc bị các sự khổ như mắng đánh mà chẳng hối. Trong số tám vạn bốn ngàn Bồ Tát ấy không có một người nào lấy thẻ. Đức Phật ấy xướng lần thứ hai, xướng lần thứ ba cũng như vậy.

Khi lời Phật xướng gọi lần thứ ba xong, có một Bồ Tát hiệu là Tịnh Tinh Tiến từ chỗ ngồi dậy trịch y vai hữu chấm đất chắp tay bạch rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi có thể đến nhà Vương Tử ấy cam tâm chịu khổ”.

Lúc nói lời ấy, cả tam thiên Đại Thiên thế giới đại chấn động. Tất cả nhơn thiên đồng thanh xướng rằng:

“Lành thay lành thay, thưa Đại Sĩ!”.

Lúc ấy Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến liền qua đứng nơi cổng nhà Vương Tử Tài Công Đức.

Vương Tử thấy, dùng lời ác mắng nhiếc, dùng đất ném lấm mặt, dùng dao gậy ngói đá chém đập thân thể, mà Bồ Tát không giận cũng không bỏ đi tâm chẳng mỏi nhàm. Trải qua một ngàn năm bị khổ như vậy. Quá hai vạn năm mới được đến cổng thứ hai, quá tám vạn bốn ngàn năm còn thiếu bảy ngày mới đến đứng được dưới cổng thứ bảy.

Lúc bấy giờ Vương Tử Tài Công Đức thấy Bồ Tát mới hỏi rằng:

“Nầy Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?”.

Nói xong, Vương Tử đối với Bồ Tát liền sanh tâm bất tư nghị: Tại sao người nầy trải qua bao thời gian chịu nhiều sự khổ mà lòng không mỏi nhàm.

Vương Tử lần thứ hai thứ ba cũng hỏi rằng:

“Nầy Đạo Sĩ! Nay ông đến đây cầu sự gì?”.

Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát biết Vương Tử tâm đã điều phục liền nói kệ rằng:

Tất cả tài vật của thế gian

Vàng bạc lưu ly và pha lê

Và bốn cúng dường ta chẳng cần

Chỉ vì pháp mà ta đến đây

Đời này có Phật Quảng Quang Minh

Vì chúng sanh nói pháp vô thượng

Chúng sanh nghe rồi lìa phiền não

Cũng thọ vô lượng cam lộ vị

Chư Phật xuất hiện nơi thế gian

Còn khó hơn hoa linh thoại kia

Nay thế gian xuất hiện Như Lai

Ngài còn phóng dật chìm biển dục

Các chúng sanh thường đi trong tối

Đấng Vô thượng Giác ban đuốc huệ

Tự thị tài sắc sanh kiêu mạn

Mà chẳng chịu đến chỗ Thế Tôn

Tất cả tài bửu và mạng sống

Phật nói hai thứ đều vô thường

Chúng sanh nếu nghe cam lộ nầy

Chẳng đến chỗ Phật là phóng dật

Thưở xa xưa Ngài hành Bồ đề

Mời chúng sanh hứa ban pháp vị

Nay Ngài còn thuộc các phiền não

Điều phục sao được các phóng dật

Nay ta cầu Ngài đồng đến Phật

Phá hoại kiêu mạn lìa phiền não

Siêng tu tinh tiến xả quốc sự

Khiến Ngài lúc chết lòng chẳng hối.

Vương Tử nghe lời kệ rồi xa lìa lòng kiêu mạn, liền sanh tín tâm tán thán Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát và sám hối sự làm khổ hại cho Bồ Tát từ trước rồi thưa rằng:

“Thưa Đại Sĩ! Nay tôi bỏ lìa quốc sự và ngũ dục lạc thượng diệu, phá hoại kiêu mạn đến chỗ đức Phật để nghe pháp cam lộ điều phục chúng sanh”.

Vương Tử Tài Công Đức cùng tám vạn bốn ngàn quyến thuộc mang hương hoa vi diệu theo Bồ Tát Tịnh Tinh Tiến đến chỗ Phật.

Đến rồi dâng hương hoa cúng dường phá kiêu mạn chí tâm nghe pháp.

Vương Tử lòng hoan hỷ kính lễ chưn phật quỳ dài chắp tay hướng lên Phật bạch rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi quy y Tịnh Tinh Tiến Bồ Tát là người chịu khổ nhục hàng vạn năm lòng chẳng sân hận chẳng nhàm hối để điều phục tôi. Dầu tôi có cúng dường bao nhiêu cũng không báo đáp được ơn nặng ấy. Nay tôi ở trước Phật chí tâm sám hối.

Tôi trước tu hành Bồ đề đạo, dùng tâm từ bi điều phục chúng sanh, tôi chẳng còn sanh lòng phóng dật nữa nhẫn đến được đạo Bồ đề”.

Vương Tử Tài Công Đức liền bỏ vương vị, ở trong Phật pháp xuất gia nghe học chánh pháp như pháp mà trụ được vô sanh nhẫn.

Nầy Bửu Kế! Ông có biết thưở ấy Tịnh Tinh Tiến là ai chăng? Nay chính là thân ta, Thích Ca Mâu Ni Phật. Còn Vương Tử Tài Công Đức ấy, nay là Di Lặc Bồ Tát vậy.

Nầy Bửu Kế! Vì vậy nên đại Bồ Tát điều chúng sanh vô lượng vô biên bất khả tư nghị. Nếu Bồ Tát có thể điều phục chúng sanh, đây chơn thiệt là nghiệp hành được tu của Bồ Tát.

Nầy Bửu Kế! Bồ Tát có bốn thứ nghiệp:

Một là Bồ Tát nghiệp tịnh Phật quốc độ. Hai là Bồ Tát tịnh nghiệp thân. Ba là Bồ Tát nghiệp tịnh khẩu. Bốn là Bồ Tát nghiệp cầu tất cả Phật pháp.

Còn có bốn nghiệp. đó là tri tâm, tri căn, tri bịnh và tri trị”.

Bửu Kế Bồ Tát nghe pháp ấy rồi, liền lấy châu chơn bửu trên búi tóc mình, châu ấy giá trị vô lượng, nó từ vô lượng Bồ Tát nghiệp xuất sanh, dâng lên cúng dường Như Lai và phát thệ nguyện rằng: “Nay tôi đem đảnh châu này cúng Phật, nguyện công đức cúng đảnh châu nầy làm nhơn đầu cho chúng sanh, do nhơn duyên nầy được vô thượng trí”.

Đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra đại quang minh nhiều màu sắc làm luốt mất tất cả ánh sáng khác.

Tật Biện Bồ Tát liền đứng dậy chắp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nhơn duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?”.

Đức Phật nói: “Nầy Tật Biện! Ông có thấy Bửu Kế dâng ta đảnh châu đó chăng?”.

Tật Biện Bồ Tát nói: “Có thấy, bạch đức Thế Tôn!”.

Đức Phật nói: “Nầy Tật Biện! Bửu Kế Bồ Tát đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ đề, trì giới tinh tiến cầu Bồ đề đạo, cúng dường vô lượng hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn, cũng đã điều phục vô lượng hằng hà sa số chúng sanh.

Bửu Kế Bồ Tát ở đời vị lai quá mười a tăng kỳ kiếp sẽ được Vô thượng Bồ đề hiệu là Bửu Xuất Như Lai, thế giới tên là Tịnh Quang, kiếp ấy tên là Vô Cấu. Thế giới của Phật Bửu Xuất ấy thất bửu làm nên, quang minh chiếu khắp mười phương thế giới, tất cả nhơn dân không có đói khát, đều là thanh tịnh Bồ Tát, tai họ không hề nghe danh từ Nhị thừa, thường nghe pháp thuần nhứt Đại thừa, vì vậy mà Phật ấy có hiệu là Bửu Xuất. Tất cả Bồ Tát cõi Tịnh Quang ấy có đủ thần thông. Thế giới ấy không có vua chúa, chỉ có Phật Pháp Vương. Tất cả chúng sanh đều hoá sanh, cũng không có danh từ nam nữ và ba ác đạo. Không có chúng sanh nào mà thân thể chẳng đầy đủ các căn, cũng không có chúng sanh biên địa, thọ mạng của họ là bốn vạn trung kiếp. Đức Phật Bửu Xuất ấy không diễn nói sự gì khác ngoại trừ lục Ba la mật. Chư Bồ Tát cõi Tịnh Quang ấy có đủ từ bi lợi căn trí huệ, nghe Phật nói một câu liền tỏ hiểu ngàn câu.

Đức Phật Bửu Xuất ấy thường vì tất cả Bồ Tát nói đà la ni Kim cương cú. Sao gọi là đà la ni Kim cương cú?

Đà la ni Kim cương cú ấy tức là nhứt cú. Một cú như vậy liền nhiếp hết tất cả pháp cú, vô tận pháp cú. Sao gọi là vô tận pháp cú? Vì tất cả chư Phật đều chẳng thể tận được, nên gọi là vô tận pháp cú.

Hành vô tận pháp cú thì nhiếp tất cả tự. Tất cả tự ấy nhiếp hết tất cả pháp cú. Nhứt thời chẳng được nói nhị tự nhứt tự, cũng lại chẳng hiệp nhị tự, vì vậy nên gọi là nhứt cú, gọi là tác cú, gọi là tự cú. Nếu chẳng phân biệt tự cú pháp cú tác cú thì gọi là đà la ni Kim cương cú.

Nầy Tật Biện! Đà la ni Kim cương cú như vậy, Phật Bửu Xuất ấy thường vì chư Bồ Tát diễn nói.

Nầy Tật Biện! Hoặc một kiếp hoặc giảm một kiếp ta nói công đức của Phật Bửu Xuất ấy cũng chẳng thể hết được”.

Bửu Kế Bồ Tát nghe đức Phật thọ ký cho mình rồi tâm đại hoan hỷ nói kệ tán thán:

Tất cả tri kiến tất cả sự

Được đến bờ kia tất cả pháp

Xa lìa tất cả các phiền não

Vì vậy gọi Phật đấng Vô thượng

Tôi đã cúng dường vô lượng Phật

Như Lai đều biết rõ tất cả

Như Lai chứng được vô thượng trí

Nên biết tam thế không chướng ngại

Như Lai nay thọ ký cho tôi

Khiến tôi xa lìa lòng nghi ngại

Tôi cũng sẽ được chơn thiệt đạo

Như nay Thích Ca Mâu Ni Phật

Tất cả đại địa đều khiến tan

Hư không nhựt nguyệt khiến rớt đất

Lời nói của Phật không có hai

Nên tôi quyết định được Bồ đề

Chánh ngữ thiệt ngữ vi diệu ngữ

Thọ ký tôi Vô thượng Bồ đề

Nếu tôi chơn thiệt được Bồ đề

Sẽ khéo điều phục vô lượng chúng

Cõi nước tịnh diệu tôi sẽ được

Và cùng đại chúng Phật đã ghi

Nay tôi nghe pháp vô thượng nầy

Phá nghi thẳng đến Bồ đề đạo

Nay tôi tinh tiến tu Bồ đề

Điều phục chúng sanh lòng chẳng hối

Nay phật nói tín lực của tôi

Vô thượng trí huệ và Phật lực.

Lúc Phật thọ ký, có vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề đều nói rằng: “Nguyện tôi đều sẽ được sanh thế giới ấy”.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Ông nên thọ trì chánh pháp như vậy, đọc tụng rộng nói để đại lợi ích cho chư Thiên thế nhơn.

Nầy A Nan! Nếu có chúng sanh tín thọ kinh nầy, người ấy quyết định sẽ được ta thọ ký.

Nầy A Nan! Nếu đem thất bửu đầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới cấp thí chúng sanh mãn một ngàn năm chẳng bằng người thọ trì đọc tụng thơ tả kinh điển nầy”.

Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì như thế nào?”.

Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Phương Đẳng Đại Tập Đại Đà La Ni Đại Thiện Hành Bồ Tát Nhập Xứ”.

Nghe Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả A Nan và chư Thiên hàng thế nhơn đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 4 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích (trọn bộ 9 tập) – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 6 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 1 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 7 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 5 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 8 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Nữ Long Thí - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Vì Hải Long Vương Dạy Pháp Ấn - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 2 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Thần Chú Thường Cù Lợi Độc Nữ Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Phẩm Đại Oai Đức Tối Thắng Kim Luân Tam Muội Chú Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Như Lai Phóng Quang Tất Đát Đa Bát Đát La Đại Thần Lực Đô Nhiếp Nhứt Thiết Chú Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Tiêu Trừ Hết Thảy Chướng Nạn Thiểm Điện Tùy Cầu Như Ý - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư – HT Thích Trí Quảng soạn - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Danh – Thích Thiện Chơn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh – Thích Huyền Tôn dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng