1
2
3

QUYỂN 2

V. PHẨM VĂN THÙ SƯ LỢI THĂM BỊNH (1)

Lúc bấy giờ, Phật bảo Văn Thù Sư Lợi:

– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.

Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn? Bực Thượng nhơn kia khó bề đối đáp, vì ông ấy rất thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp mầu, trí tuệ vô ngại, biện tài thông suốt, rõ thấu phương pháp tu trì của tất cả Bồ Tát, thâm nhập kho tạng bí mật của Chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ phương tiện đều đặng rốt ráo. Tuy thế, con xin vưng thánh chỉ của Phật đến thăm bịnh ông.

Lúc ấy, trong Đại chúng các hàng Bồ Tát và hàng Đại đệ tử, Đế Thích, Phạm thiên, Tứ thiên vương đều nghĩ rằng: “Hôm nay hai vị dại sĩ: Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật cùng nhau đàm luận tất nói pháp mầu”. Tức thời, tám nghìn Bồ Tát, năm trăm Thanh Văn và trăm nghìn Thiên nhơn đều muốn đi theo.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi cùng các Bồ Tát, Đại đệ tử và các hàng Thiên nhơn cung kính đoanh vây đi vào đại thành Tỳ Da Ly.

Lúc ấy, Trưởng giả Duy Ma Cật thầm nghĩ: “Nay đây Ngài Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng đồng đến viếng thăm”. Ông liền dùng sức thần thông làm cho trong nhà trống rỗng, không có vật chi và cũng không có người thị giả nào, chỉ để một chiếc giường cho ông nằm bịnh.

Ngài Văn Thù Sư Lợi vào nhà ông Duy Ma Cật rồi, thấy trong nhà trống rỗng không có vật chi, chỉ có một mình ông nằm trên giường mà thôi. Khi ấy ông Duy Ma Cật chào rằng:

– Quí hóa thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:

– Phải đấy, Cư sĩ! Nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi. Vì sao? – Đến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có thấy tức là không thấy. Thôi việc ấy hãy để đó. – Cư sĩ bịnh có chịu nổi được không? Điều trị có bớt không? Bịnh không đến nỗi tăng ư? Thế Tôn ân cần hỏi thăm chi xiết. Bịnh Cư sĩ nhơn đâu mà sanh, sanh đã bao lâu phải thế nào mới mạnh được?…

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Từ nơi si mà có ái, bịnh tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bịnh, nên tôi bịnh. Nếu tất cả chúng sanh không bịnh, thì bịnh tôi lành. Vì sao? – Bồ Tát vì chúng sanh mà vào đường sanh tử, hễ có sanh tử thời có bịnh, nếu chúng sanh khỏi bịnh thì Bồ Tát không có bịnh. Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, hễ người con bịnh, thì cha mẹ cũng bịnh, nếu bịnh của con lành, cha mẹ cũng mạnh. Bồ Tát cũng thế? Đối với tất cả chúng sanh, thương mến như con, nên chúng sanh bịnh, Bồ Tát cũng bịnh, chúng sanh lành, Bồ Tát cũng lành – Ngài lại hỏi bịnh ấy nhơn đâu mà sanh? – Bồ Tát có bịnh là do lòng đại bi.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi:

– Cư sĩ? Nhà này vì sao trống không và không có thị giả?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Cõi nước của chư Phật cũng đều không.

– Lấy gì làm không?

– Lấy không làm không.

– Đã không, cần gì phải không?

– Vì không phân biệt, nên không.

– Không, có thể phân biệt được ư?

– Phân biệt cũng không.

– Không, phải tìm nơi đâu?

– Phải tìm trong sáu mươi hai món kiến chấp (2).

– Sáu mươi hai món kiến chấp phải tìm nơi đâu?

– Phải tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật.

– Pháp giải thoát của chư Phật phải tìm nơi dâu?

– Phải tìm nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh (3).

– Ngài lại hỏi vì sao không thị giả?

– Tất cả chúng ma và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi. Vì sao? Vì các ma ưa sanh tử, mà Bồ Tát ở nơi sanh tử không bỏ. Còn ngoại đạo ưa các kiến chấp, mà Bồ Tát ở nơi các kiến chấp không động.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi:

– Bịnh của Cư sĩ tướng trạng thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Bịnh của tôi không hình, không tướng, không thể thấy được.

– Bịnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?

– Không phải hiệp với thân, vì thân tướng vốn lìa; cũng không phải hiệp với tâm, vì tâm như huyễn.

– Địa đại, thủy đại, phong đại, hỏa đại, trong bốn đại bịnh về đại nào?

– Bịnh ấy không phải địa đại, cũng không lìa địa đại ; thủy, hỏa, phong đại cũng như thế. Nhưng bịnh của chúng sanh là từ nơi tứ đại mà khởi, vì chúng sanh bịnh nên tôi có bịnh.

Khi ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật:

– Phàm Bồ Tát an ủi Bồ Tát có bịnh như thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Nói thân vô thường, không nói nhàm chán thân. Nói thân có khổ, không nói ưa thích Niết bàn. Nói thân vô ngã mà khuyên dạy dắt dìu chúng sanh. Nói thân không tịch, không nói là rốt ráo tịch diệt. Nói ăn năn tội trước, không nói vào nơi quá khứ (4). Lấy bịnh mình mà thương bịnh người. Phải biết cái khổ vô số kiếp trước, phải nghĩ sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, nhớ đến việc làm phước, tưởng đến sự sống trong sạch, chớ nên sanh tâm buồn rầu, phải thường khởi lòng tinh tấn, nguyện sẽ làm vị y vương điều trị tất cả bịnh chúng sanh. Bồ Tát phải an ủi Bồ Tát có bịnh như thế để cho được hoan hỷ.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi:

– Cư sĩ! Bồ Tát có bịnh phải điều phục tâm mình như thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Bồ Tát có bịnh phải nghĩ thế này: ta nay bịnh đây đều từ các món phiền não, điên đảo vọng tưởng đời trước sanh ra, là pháp không thật có, lấy ai chịu bịnh đó. Vì sao? Vì tứ đại hòa hợp giả gọi là thân, mà tứ đại không chủ, thân cũng không ngã. Lại nữa, bịnh này khởi ra đều do chấp ngã (5), vì thế ở nơi ngã không nên sanh lòng chấp đắm. Đã biết gốc bịnh, trừ ngay ngã tưởng (6) và chúng sanh tưởng (7), phải khởi pháp tưởng (8). Nên nghĩ rằng: “Thân này chỉ do các pháp hiệp thành, khởi chỉ là pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt. Lại các pháp ấy đều không biết nhau, khi khởi không nói nó khởi, khi diệt không nói nó diệt.” Bồ Tát có bịnh muốn trừ diệt pháp tưởng phải nghĩ rằng: “Pháp tưởng này cũng là điên đảo, điên đảo tức là bịnh lớn, ta nên xa lìa nó” – Thế nào là xa lìa? Lìa ngã và ngã sở – Thế nào là lìa ngã và ngã sở? Là lìa hai pháp – Thế nào là lìa hai pháp? Là không nghĩ các pháp trong, ngoài (9), mà thật hành theo bình đẳng – Sao gọi bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết bàn bình đẳng. Vì sao? Ngã và Niết bàn hai pháp này đều không – Do đâu mà không? Vì do văn tự nên không. Như thế, hai pháp không có tánh quyết định. Nếu đặng nghĩa bình đẳng đó, thì không có bịnh chi khác, chỉ còn có bịnh Không, mà bịnh Không cũng không nữa. Vị Bồ Tát có bịnh dùng tâm không thọ mà thọ các món thọ, nếu chưa đầy đủ Phật pháp cũng không diệt thọ mà thủ chứng (10), (như Nhị thừa). Dù thân có khổ, nên nghĩ đến chúng sanh trong ác thú mà khởi tâm đại bi. Ta đã điều phục được tâm ta, cũng nên điều phục cho tất cả chúng sanh. Chỉ trừ bịnh (chấp) mà không trừ pháp, dạy cho dứt trừ gốc bịnh – Sao gọi là gốc bịnh? Nghĩa là có phan duyên, do có phan duyên mà thành gốc bịnh. Phan duyên nơi đâu? Ở trong ba cõi – Làm thế nào đoạn phan duyên? Dùng vô sở đắc; nếu vô sở đắc thì không có phan duyên – Sao gọi là vô sở đắc? Nghĩa là ly hai món chấp – Sao gọi là hai món chấp? Nghĩa là chấp trong và chấp ngoài (11); ly cả hai đó là vô sở đắc – Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đó là Bồ Tát có bịnh, điều phục tâm mình để đoạn các khổ: già, bịnh, chết là Bồ Đề của Bồ Tát. Nếu không như thế chỗ tu hành của mình không được trí tuệ thiện lợi. Ví như người chiến thắng kẻ oán tặc mới là dõng, còn vị nào trừ cả già, bịnh, chết như thế mới gọi là Bồ Tát – Bồ Tát có bịnh nên nghĩ thêm thế này: “Như bịnh của ta đây, không phải là thật, không phải có; bịnh của chúng sanh cũng không phải thật, không phải có”. Khi quán sát như thế, đối với chúng sanh nếu có khởi lòng đại bi ái kiến (12) thì phải bỏ ngay. Vì sao? –Bồ Tát phải trừ dứt khách trần phiền não (13) mà khởi đại bi, chớ đại bi ái kiến đối với sanh tử có tâm nhàm chán, nếu lìa được ái kiến thì không có tâm nhàm chán, sanh ra nơi nào không bị ái kiến che đậy, không còn bị sự ràng buộc, lại nói pháp cởi mở sự ràng buộc cho chúng sanh nữa. Như Phật nói: “Nếu mình trói mà mở trói cho người khác, không thể được; nếu mình không bị trói mới mở trói cho người khác được”. Vì thế, Bồ Tát không nên khởi những sự ràng buộc – Sao gọi là ràng buộc? Sao gọi là giải thoát? Tham đắm nơi thiền vị là Bồ Tát bị ràng buộc. Dùng phương tiện thọ sanh là Bồ Tát được giải thoát. Lại không có phương tiện huệ thì buộc, có phương tiện huệ thì giải, không huệ phương tiện thì buộc, có huệ phương tiện thì giải. Sao gọi không có phương tiện thì buộc? Bồ Tát dùng ái kiến trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp “không, vô tướng, vô tác” mà điều phục lấy mình, đó là không có phương tiện huệ thì buộc – Sao gọi có phương tiện huệ thì giải? Bồ Tát không dùng ái kiến trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sanh, ở trong pháp “không, vô tướng, vô tác”, điều phục lấy mình, không nhàm chán mỏi mệt, đó là có phương tiện huệ thì giải – Sao gọi là không có huệ phương tiện thì buộc? Bồ Tát trụ nơi các món phiền não, tham dục, sân hận, tà kiến v.v… mà trồng các cội công đức, đó là không có huệ phương tiện thì buộc – Sao gọi có huệ phương tiện thì giải? Là xa lìa các thứ phiền não, tham dục, sân hận, tà kiến v.v… mà vun trồng các cội công đức, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là có huệ phương tiện thì giải – Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bịnh đấy phải quán sát các pháp như thế (quán phi chơn, phi hữu…). Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã, đó là “huệ”. Dù thân có bịnh vẫn ở trong sanh tử làm lợi ích chúng sanh không nhàm mỏi, đó là “phương tiện”. Lại nữa quán thân: thân không rời bịnh, bịnh chẳng rời thân, bịnh này, thân này, không phải mới, không phải cũ, đó là “huệ”. Dù thân có bịnh mà không nhàm chán trọn diệt độ, đó là “phương tiện”.

– Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bịnh nên điều phục tâm mình như thế, mà không trụ trong đó, cũng không trụ nơi tâm không điều phục. Vì sao? Nếu trụ nơi tâm không điều phục là pháp của phàm phu, nếu trụ nơi tâm điều phục là pháp của Thanh Văn, cho nên Bồ Tát không nên trụ nơi tâm điều phục hay không điều phục, lìa hai pháp ấy là hạnh Bồ Tát. Ở trong sanh tử mà không bị nhiễm ô, ở nơi Niết bàn mà không diệt độ hẳn là hạnh Bồ Tát. Không phải hạnh phàm phu, không phải hạnh Hiền thánh là hạnh Bồ Tát. Không phải hạnh nhơ, không phải hạnh sạch là hạnh Bồ Tát. Tuy vượt khỏi hạnh ma mà hiện các việc hàng phục ma là hạnh Bồ Tát. Cầu nhứt thiết trí, không cầu sái thời (14) là hạnh Bồ Tát. Dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị (chơn như) là hạnh Bồ Tát. Quán mười hai duyên khởi(15) mà vào các tà kiến là hạnh Bồ Tát. Nhiếp độ tất cả chúng sanh mà không mê đắm chấp trước là hạnh Bồ Tát. Ưa xa lìa mà không nương theo sự dứt đoạn thân tâm là hạnh Bồ Tát. Tuy ở trong ba cõi mà không hoại pháp tánh là hạnh Bồ Tát. Tuy quán “không” mà gieo trồng các cội công đức là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô tướng mà cứu độ chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô tác mà quyền hiện thọ thân là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành vô khởi (16) mà khởi tất cả hạnh lành là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành sáu pháp ba la mật (l7) mà biết khắp các tâm, tâm sở của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành sáu pháp thần thông mà không dứt hết lậu hoặc(18) (phiền não) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn tâm vô lượng mà không tham đắm sanh về cõi Phạm Thế (Phạm thiên) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành thiền định, giải thoát, tam muội, mà không theo thiền định thọ sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp niệm xứ mà không hoàn toàn lìa hẳn thân, thọ, tâm, pháp là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp chánh cần mà không rời thân tâm tinh tấn là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bốn pháp như ý túc mà đặng thần thông tự tại là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành năm căn mà phân biệt rành rẽ các căn lợi độn của chúng sanh là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành năm lực mà ưa cầu thập lực của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành bảy pháp giác chi mà phân biệt rõ rệt trí tuệ của Phật là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành tám pháp chánh đạo mà ưa tu vô lượng Phật đạo là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành các pháp chỉ quán trợ đạo mà trọn không thiên hẳn nơi tịch diệt (Niết bàn) là hạnh Bồ Tát. Dù thật hành các pháp bất sanh bất diệt, mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân mình là hạnh Bồ Tát. Dù hiện oai nghi theo Thanh Văn, Duyên Giác mà không rời Phật pháp là hạnh Bồ Tát. Dù tùy theo tướng hoàn toàn thanh tịnh của các pháp mà tùy theo chỗ sở ứng hiện thân là hạnh Bồ Tát. Dù quán sát cõi nước của chư Phật trọn vắng lặng như hư không mà hiện ra rất nhiều cõi Phật thanh tịnh là hạnh Bồ Tát. Dù chứng đặng quả Phật, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn mà không bỏ đạo Bồ Tát là hạnh Bồ Tát vậy.

Khi ông Duy Ma Cật nói những lời ấy rồi, cả đại chúng đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi, trong đó tám nghìn vị Thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

*

Chú thích:

1.- Văn Thù Sư Lợi: (Manjusri) Tàu dịch là Diệu Đức, nghĩa là đầy đủ ba đức lớn; 1)Tín, 2)Hạnh, 3)Trí. Ngài chứng đặng thật trí, liễu ngộ Phật tánh, thông đạt chỗ huyền bí của các pháp, nên đứng đầu trong hàng môn sanh của Phật.

2.- 62 món kiến chấp: Đã giải ở phẩm III số 43.

3.- Tìm nơi tâm hạnh của chúng sanh: Ý nói giải thoát triền phược đồng một chơn tánh, nên không phải ngoài vọng có chơn, ngoài phàm phu triền phược mà có chư Phật giải thoát.

4.- Vào nơi quá khứ: Ý nói an ủi vị Bồ Tát có bịnh ăn năn lỗi trước, nhưng không nói lỗi ấy có thật tánh thường còn đi vào nơi quá khứ, vì muốn phá trừ các tướng chấp thường kia.

5.- Chấp ngã: Quan niệm thân tâm là thật.

6.- Ngã tưởng: Vọng tưởng so đo suy nghĩ cho thân tâm có cái chủ tể thường còn chơn thật.

7.- Chúng sanh tưởng: Vọng tưởng cố chấp cho chúng sanh là thực có.

8.- Pháp tưởng: Tưởng niệm các pháp do nhơn duyên hợp thành, không tự chủ, không thật có.

9.- Pháp trong và ngoài: Là căn, trần, hay tâm, cảnh.

10.- Diệt thọ thủ chứng: Nhập diệt tận định, dứt hết các tâm niệm tư tưởng xúc, thọ để chứng lấy cảnh Niết bàn an vui. Tức lối cầu chứng của hàng Nhị thừa, vì thấy cảnh vật phiền tạp, chúng sanh vô số điên đảo khó bề giáo hóa chuyển đổi được, nên lánh vào cảnh giới an lặng riêng vui.

11.- Chấp trong và chấp ngoài: Trong là vọng tưởng, ngoài là các pháp. Cả hai đều là hư vọng giả dối, nên trọn không chỗ đặng.

12.- Đại bi ái kiến: Là thấy có chúng sanh khổ sanh tâm ái trước, mà khởi lòng đại bi ra sức tế độ. Đó là các hàng Bồ Tát quyền thừa chưa dứt trừ phiền não, còn mê sự mê lý, mà vận lòng từ bi ra cứu độ chúng sanh nên còn chấp tướng người bị độ, mình hay độ, thường sanh ra tư tưởng nhàm chán mỏi mệt.

13.- Khách trần phiền não: Phiền não tánh cách nó không chơn thật thường hằng, khi khởi khi diệt, cũng như người khách thường qua lại đó đây, không phải thường an trú như chủ gia; lại nó như bụi trần thường xao động luôn, không đứng lặng như hư không, gọi là khách trần phiền não.

14.- Không cầu sái thời: Chưa được nhứt thiết trí mà cầu chứng bản thể trung đạo là cầu sái thời, nếu trái lại là không sái thời cầu.

15.- Mười hai duyên khởi: Tức là 12 nhơn duyên phối hợp sanh khởi các pháp: 1) Vô minh: không rõ được bổn tánh, 2) Hành: Hành nghiệp là những nghiệp lực phiền não trong tâm niệm. 3) Thức: chỉ cho A lại da thức. 4) Danh sắc: các cảm giác tư tưởng về phần tâm và các căn về hình sắc. 5) Lục nhập: Sáu căn nhập với sáu trần, 6) Xúc: Sáu căn xúc đối sáu trần. 7) Thọ: Lãnh nạp những cảnh tốt xấu khổ vui; 8) Ái: Tham mến những vật tốt đẹp. 9) Thủ: Đắm trước tham cầu những cảnh ngũ trần: 10) Hữu: vì sự tham cầu nên tạo những nghiệp nhân, thiện, ác, phải chịu quả báo trong ba cõi. 11) Sanh: Do nghiệp nhân thiện, ác, nên phải thọ sanh trong sáu đường. 12) Lão tử: Sau khi thọ sanh, thân ngũ ấm lần lần già chết.

16.- Vô khởi: Cũng gọi là Vô sanh. Quán các pháp như huyễn như hóa, không có cái nhơn sanh khởi.

17.- Sáu pháp Ba la mật: 1) Bố thí, 2) Trì giới, 3)Nhẫn nhục, 4) Tinh tấn, 5) Thiền định, 6) Trí tuệ.

18.- Lậu hoặc: Các phiền não mê lầm làm cho rơi lọt trong 3 cõi.

***

VI. PHẨM BẤT TƯ NGHỊ (1)

Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất thấy trong nhà ông Duy Ma Cật không có giường ngồi (bàn ghế) chi hết, mới nghĩ rằng: các Bồ Tát và hàng Đại đệ tử đây sẽ ngồi nơi đâu?

Trưởng giả Duy Ma Cật biết được ý đó, liền nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng:

– Thế nào, Nhân giả vì pháp mà đến, hay vì giường ngồi mà đến?

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Tôi vì Pháp mà đến, chớ không phải vì giường ngồi.

Ông Duy Ma Cật nói:

– Ngài Xá Lợi Phất! Vả chăng người cầu pháp, thân mạng còn không tham tiếc, huống chi là giường ngồi. Vả người cầu pháp không phải có sắc, thọ, tưởng, hành, thức (năm uẩn) mà cầu; không phải có giới (18 giới), nhập (12 nhập) mà cầu; không phải có dục giới, sắc giới, vô sắc giới (ba cõi) mà cầu. –Ngài Xá Lợi Phất! Vả chăng người cầu pháp không đắm trước nơi Phật mà cầu, không đắm trước nơi Pháp mà cầu, không đắm trước nơi chúng (tăng) mà cầu. Vả người cầu Pháp không thấy khổ mà cầu, không đoạn tập mà cầu, không đến chứng diệt, tu đạo mà cầu. Vì sao? – Vì pháp không hý luận(2). Nếu nói: ta phải thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, đó là hý luận không phải cầu pháp – Ngài Xá Lợi Phất? Pháp là tịch diệt, nếu thật hành pháp sanh diệt là cầu pháp sanh diệt, không phải cầu pháp. Pháp là không nhiễm, nếu nhiễm nơi Pháp cho đến Niết bàn, đó là nhiễm đắm, không phải cầu Pháp. Pháp không chỗ làm, nếu làm nơi pháp, đó là chỗ làm không phải cầu Pháp. Pháp không thủ xả, nếu thủ xả pháp, đó là thủ xả, không phải cầu pháp. Pháp không xứ sở, nếu chấp trước xứ sở, đó là chấp trước nơi xứ sở không phải cầu Pháp. Pháp không có tướng, nếu nhân tướng mà biết, đó là cầu tướng không phải cầu pháp. Pháp không thể trụ, nếu trụ nơi Pháp, đó là trụ nơi pháp không phải cầu Pháp. Pháp không thể thấy, nghe, hay, biết, nếu làm theo thấy, nghe, hay, biết, đó là thấy nghe hay biết không phải cầu pháp. Pháp là vô vi, nếu làm hữu vi là cầu hữu vi không phải cầu pháp. Vì thế, Ngài Xá Lợi Phất, nếu người cầu pháp, đối với tất cả pháp, không có cầu đến.

Khi ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi, năm trăm vị Thiên tử ở trong các pháp được Pháp nhãn thanh tịnh.

Bấy giờ Trưởng giả Duy Ma Cật hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Thưa Ngài, Ngài dạo đi trong vô lượng nghìn muôn ức a tăng kỳ (3) (vô số) quốc độ, thấy cõi Phật nào có những tòa Sư tử tốt đẹp thượng diệu do công đức tạo thành?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:

– Cư sĩ! Về phương đông cách đây khỏi ba mươi sáu số cát sông Hằng(4) cõi Phật, có thế giới tên Tu Di Tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu Di Đăng Vương, hiện vẫn còn. Thân Phật cao tám muôn bốn nghìn do tuần(5), tòa Sư tử cũng cao như thế, trang nghiêm tốt đẹp bực nhứt.

Lúc ấy, Trưởng giả Duy Ma Cật hiện sức thần thông, tức thời đức Phật ở cõi nước kia điều khiển ba vạn hai nghìn tòa Sư tử cao rộng nghiêm sạch đến trong nhà ông Duy Ma Cật. Các Bồ Tát, Đại đệ tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương tất cả đều thấy việc xưa nay chưa từng thấy.

Nhà ông Duy Ma Cật rộng rãi trùm chứa cả ba vạn hai nghìn tòa Sư tử không ngăn ngại, mà ở nơi thành Tỳ Da Ly cho đến bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề cũng không bị ép chật, tất cả đều thấy y nguyên như thế.

Ông Duy Ma Cật mời Ngài Văn Thù Sư Lợi và các Bồ Tát thượng nhơn ngồi nơi tòa Sư tử, song phải hiện thân mình đứng cao bằng tòa kia. Tức thời các Bồ Tát có thần thông liền biến hiện thân hình cao bốn muôn hai nghìn do tuần đến ngồi nơi tòa Sư tử, còn các Bồ Tát mới phát tâm và hàng Đại đệ tử đều không lên được.

Lúc đó, ông Duy Ma Cật mời Ngài Xá Lợi Phất lên tòa Sư tử ngồi.

Ngài Xá Lợi Phất đáp:

– Thưa Cư sĩ! Tòa này cao rộng quá tôi không lên được.

Ông Duy Ma Cật nói:

– Ngài Xá Lợi Phất, phải đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai mới có thể ngồi được.

Khi ấy, các vị Bồ Tát mới phát tâm và hàng Đại đệ tử đều đảnh lễ đức Tu Di Đăng Vương Như Lai, rồi ngồi được ngay nơi tòa Sư tử.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Thưa Cư sĩ! Thật chưa từng có. Như cái nhà nhỏ tí này mà dung được các tòa cao rộng như thế, mà nơi thành Tỳ Da Ly không có ngăn ngại, các tụ lạc, thành ấp, cũng những cung điện chư Thiên, Long Vương, quỉ thần trong bốn thiên hạ ở cõi Diêm Phù Đề cũng không ép chật.

Ông Duy Ma Cật nói:

– Ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật và chư Bồ Tát có Pháp “giải thoát” tên là “bất khả tư nghị”. Nếu Bồ Tát trụ nơi pháp giải thoát đó, lấy núi Tu Di rộng lớn nhét vào trong hột cải vẫn không thêm bớt, hình núi Tu Di vẫn y nguyên, mà trời Tứ Thiên vương và Đạo Lợi thiên vương không hay không biết đã vào đấy, chỉ có những người đáng độ được mới thấy núi Tú Di vào trong hột cải, đó là Pháp môn “bất khả tư nghị giải thoát”. Lại lấy nước bốn biển lớn cho vào trong lỗ chưn lông, không có khuấy động các loài thủy tộc như cá trạnh, ngoan đà(8), mà các biển lớn kia cũng vẫn y nguyên. Các loài rồng, quỉ thần, A Tu La v.v… đều không hay không biết mình đi vào đấy, và các loài ấy cũng không có loạn động.

Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất? Bồ Tát ở nơi Pháp bất khả tư nghị giải thoát, rút lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới nhanh như bàn tròn của thợ gốm, rồi để trong bàn tay hữu quăng ra ngoài khỏi những thế giới như số cát sông Hằng, mà chúng sanh trong đó không hay không biết mình có đi đâu, lại đem trở về chỗ cũ, mà người không biết có qua có lại, và thế giới ấy cũng vẫn y nguyên.

Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất? Hoặc có chúng sanh nào ưa ở lâu trong đời mà có thể độ được. Bồ Tát liền kéo dài bảy ngày ra làm một kiếp (7) để cho chúng sanh kia gọi là một kiếp; hoặc có chúng sanh nào không ưa ở lâu trong đời mà có thể độ được, Bồ Tát liền thâu ngắn một kiếp lại làm bảy ngày, để cho chúng sanh kia gọi là bảy ngày.

Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ nơi pháp bất khả tư nghị giải thoát, đem những việc tốt đẹp của tất cả cõi Phật gom về một nước chỉ bày cho chúng sanh. Lại nữa, Bồ Tát đem tất cả chúng sanh ở tất cả cõi Phật để trên bàn tay hữu của mình rồi bay đến mười phương bày ra cho ai cũng thấy tất cả mà bản xứ không lay động. – Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất! Những đồ cúng dường chư Phật của chúng sanh trong mười phương, Bồ Tát làm cho tất cả đều thấy nơi một lỗ chơn lông. Lại nữa, bao nhiêu nhựt nguyệt, tinh tú trong các cõi nước ở mười phương, Bồ Tát đều làm cho mọi người thấy rõ nơi một lỗ chưn lông.

Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất! Bao nhiêu thứ gió ở các cõi nước trong mười phương, Bồ Tát có thể hút vào trong miệng mà thân không hề tổn hại, những cây cối ở bên ngoài cũng không xiêu, ngã, trốc, gảy. Lại khi kiếp lửa cháy tan cõi nước ở mười phương, Bồ Tát đem tất cả lửa để vào trong bụng, lửa cũng vẫn y nguyên mà không chút gì làm hại. Lại quá số cát sông Hằng thế giới Phật về phương dưới, lấy một cõi Phật đem để cách khỏi số cát sông Hằng thế giới ở phương trên như cầm mũi kim nhọn ghim lấy một lá táo mà không có tổn hại.

Lại nữa, Ngài Xá Lợi Phất! Bồ Tát trụ cảnh “bất khả tư nghị giải thoát” hay dùng thần thông hiện làm thân Phật hoặc hiện thân Bích Chi Phật, thân Thanh Văn, thân Đế Thích, thân Phạm Vương, thân Thế chúa(8), hoặc thân Chuyển luân thánh vương. Các thứ tiếng to, tiếng vừa; tiếng nhỏ ở các cõi nước mười phương đều biến thành tiếng Phật diễn nói pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và những pháp của chư Phật ở mười phương nói ra làm cho khắp tất cả đều được nghe.

Ngài Xá Lợi Phất! Nay tôi chỉ nói qua thần lực giải thoát bất khả tư nghị của Bồ Tát như thế, nếu nói cho đủ đến cùng kiếp cũng không hết được.

Khi đó Ngài Đại Ca Diếp nghe nói pháp môn “Bất khả tư nghị giải thoát” của Bồ Tát, ngợi khen chưa từng có, mới bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Ví như có người ở trước người mù phô bày các thứ hình sắc, người mù kia đâu thể thấy được. Nay tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn “bất khả tư nghị giải thoát” này cũng đâu thể hiểu được. Người trí nghe pháp môn này ai mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tại sao chúng ta mất hẳn giống ấy, đối với Pháp Đại thừa này đã như hột giống thúi? Tất cả hàng Thanh Văn nghe pháp môn “bất khả tư nghị giải thoát” này đều phải than khóc tiếng vang động cõi Tam thiên đại thiên thế giới, còn tất cả Bồ Tát nên hết sức vui mừng mà vưng lãnh pháp ấy. Nếu có Bồ Tát nào tin hiểu pháp môn “bất khả tư nghị giải thoát” này thời tất cả chúng ma không thể làm gì được.

Khi Ngài Đại Ca Diếp nói như thế rồi có ba vạn hai nghìn vị thiên tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật nói với Ngài Đại Ca Diếp rằng:

– Ngài Đại Ca Diếp! Các vị làm ma vương trong vô lượng vô số cõi nước ở mười phương phần nhiều là bực Bồ Tát trụ nơi pháp bất khả tư nghị giải thoát, vì dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sanh nên thị hiện làm ma vương.

Lại nữa, Ngài Ca Diếp! Vô lượng Bồ Tát ở mười phương, hoặc có người đến xin tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy não, huyết, thịt, da xương, xóm làng, thành ấp, vợ con, tôi tớ, voi ngựa, xe cộ, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, đồi mồi, y phục và các món ăn uống, mà người xin đó phần nhiều là bực Bồ Tát trụ pháp bất khả tư nghị giải thoát dùng sức phương tiện đến thử thách để làm cho các Bồ Tát kia thêm kiên cố. Vì sao? Bồ Tát trụ pháp Bất khả tư nghị giải thoát có thần lực oai đức nên mới dám làm việc bức ngặt để chỉ bày cho chúng sanh những việc khó làm như thế. Còn kẻ phàm phu hạ liệt không có thế lực, không thể làm bức ngặt được Bồ Tát, ví như con long tượng dày đạp, không phải sức lừa kham chịu nổi. Đó là môn trí tuệ phương tiện của Bồ Tát ở nơi pháp “bất khả tư nghị giải thoát” vậy.

*

Chú thích:

1.- Bất tư nghị: Coi theo nghĩa số 3 ở phẩm 1.

2.- Hý luận: Những lời biện luận vô nghĩa, không đúng lý như thật. Trong Trung Luận nói: “Hý luận có 2 cách: 1)Ái luận, nghĩa là: Đối với tất cả pháp có tâm chấp đắm. 2)Kiến luận, là đối với tất cả pháp, khởi ra tri kiến cho là quyết định đúng lý. Do ái kiến như thế làm mê mờ tâm tánh, mà sanh ra các thứ ngôn luận bất chánh gọi là hý luận.

3.- A tăng kỳ: (Asamkhya) Tàu dịch là vô số, nghĩa là một số rất nhiều không tính đếm đặng. A tăng kỳ là số đứng đầu trong 10 số lớn: 1) A tăng kỳ, 2) Vô lượng, 3) Vô biên, 4) Vô đẳng, 5) Bất khả sổ, 6) Bất khả xưng, 7) Bất khả tư, 8) Bất khả lượng, 9) Bất khả thuyết, 10) Bất khả thuyết, Bất khả thuyết.

4.- Hằng hà sa: Cát sông Hằng, dụ cho số rất nhiều không thể lường tính đặng. Sông Hằng (Gange) là một con sông rất lớn ở nước Thiên Trúc, phát nguyên từ ao Vô nhiệt não ở Hy mã lạp sơn bên Ấn độ, chảy ra Ấn Độ dương (Océan Indien). Lòng sông và hai bên bờ có cát rất nhiều và mịn. Đương thời đức Phật nói pháp, gặp số gì quá nhiều đều mượn đó mà thí dụ.

5.-Do tuần: Có 3 hạng: 1) 40 dặm tàu, 2) 60 dặm, 3)80 dặm.

6.- Ngoan Đà: Ngoan là con giải, Đà là một loại cá sấu dài hơn hai trượng, bốn chân, da nó dùng để bịt trống.

7.- Một kiếp: Nghĩa là một khoảng thời gian rất lâu dài. Một kiếp lớn có 4 kiếp trung, 1 kiếp trung có 20 kiếp nhỏ. Trong một kiếp nhỏ có 16.800.000 năm; một kiếp trung có 16.800.000×20: 336.000.000 năm. Một kiếp lớn có 336.000.000×4:1.344.000.000 năm.

8.- Thế chúa: Có chỗ chỉ Tứ Thiên Vương, hay là vị Phạm Thiên, hoặc là vị Đại Tự Tại Thiên, tức là vị làm chủ trong cõi thế gian.

***

VII. PHẨM QUÁN CHÚNG SANH

Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Bồ Tát quán sát chúng sanh phải thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Ví như nhà huyễn thuật thấy người huyễn của mình hóa ra, Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như người trí thấy trăng dưới nước, thấy mặt trong gương, như ánh nắng dợn, như vang của tiếng, như mây giữa hư không, như bọt nước, như bóng nổi, như cây chuối bền chắc, như chớp dừng lâu, như đại thứ năm(2), như ấm thứ sáu(3), như tình (căn) thứ bảy(4), như nhập thứ mười ba(5), như giới thứ mười chín(6). Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế. Như sắc chất cõi vô sắc(7), như mộng lúa hư, như thân kiến của Tu đà hoàn(8), như sự nhập thai của A na hàm(9), như tam độc của A la hán (10), như tham giận phá giới của Bồ Tát chứng vô sanh nhãn, như tập khí phiền não của Phật, như người mù thấy sắc tượng, như hơi thở ra vào của người nhập diệt tận định(11), như dấu chim giữa hư không, như con của đàn bà không sanh đẻ (Thạch nữ)(12), như phiền não của người huyễn hóa, như cảnh chiêm bao khi đã thức, như người diệt độ thọ lấy thân, như lửa không khói. Bồ Tát quán sát chúng sanh cũng như thế đó.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi:

– Nếu Bồ Tát quán sát như thế phải thật hành lòng từ thế nào?

Ông Duy Ma Cật đáp rằng:

– Bồ Tát quán sát như thế rồi phải tự nghĩ rằng: “Ta phải vì chúng sanh nói pháp như trên, đó là lòng từ chân thật. Thật hành lòng từ tịch diệt, bởi vì không sanh. Thật hành lòng từ không nóng bức, bởi không có phiền não. Thật hành lòng từ bình đẳng, bởi ba đời như nhau. Thật hành lòng từ không đua tranh, bởi không có khởi. Thật hành lòng từ không hai, bởi trong ngoài (căn trần) không hiệp. Thật hành lòng từ không hoại, bởi hoàn toàn không còn. Thật hành lòng từ kiên cố, bởi lòng không hủy hoại. Thật hành lòng từ thanh tịnh, bởi tánh các pháp trong sạch. Thật hành lòng từ vô biên, vì như hư không. Thật hành lòng từ A la hán, vì phá các giặc kiết sử(13). Thật hành lòng từ Bồ Tát, vì an vui chúng sanh. Thật hành lòng từ Như Lai, vì đặng tướng như như. Thật hành lòng từ của Phật, vì giác ngộ chúng sanh. Thật hành lòng từ tự nhiên, vì không nhơn đâu mà đặng. Thật hành lòng từ Bồ Đề, chỉ có một vị. Thật hành lòng từ vô đẳng (không chi sánh bằng), vì đoạn các ái kiến. Thật hành lòng từ đại bi, dẫn dạy cho pháp Đại thừa. Thật hành lòng từ không nhàm mỏi, quán không, vô ngã. Thật hành lòng từ pháp thí, không có luyến tiếc. Thật hành lòng từ trì giới, để hóa độ người phá giới. Thật hành lòng từ nhẫn nhục, để ủng hộ người và mình. Thật hành lòng từ tinh tấn, để gánh vác chúng sanh. Thật hành lòng từ thiền định, không thọ mùi thiền. Thật hành lòng từ trí tuệ, đều biết đúng nhịp. Thật hành lòng từ phương tiện, thị hiện tất cả. Thật hành lòng từ không ẩn dấu, lòng ngay trong sạch. Thật hành lòng từ thâm tâm, không có hạnh xen tạp. Thật hành lòng từ không phỉnh dối, không có lừa gạt. Thật hành lòng từ an vui, làm cho tất cả được sự an vui của Phật. Lòng từ của Bồ Tát là như thế đó.

Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi:

– Sao gọi là lòng bi?

– Bồ Tát làm công đức gì cốt để cho chúng sanh.

– Sao gọi là lòng hỷ?

– Có lợi ích đều hoan hỷ, không hối hận.

– Sao gọi là lòng xả?

– Những phước báu đã làm, không có lòng hy vọng.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi:

– Sự sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải y nơi đâu?

Ông Duy Ma Cật đáp:

– Bồ Tát ở trong sanh tử đáng sợ đó, phải y nơi sức công đức của Như Lai.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi:

– Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi đâu?

– Bồ Tát muốn y sức công đức của Như Lai, phải trụ nơi chỗ độ thoát tất cả chúng sanh.

Lại hỏi:

– Muốn độ chúng sanh phải trừ những gì?

– Muốn độ chúng sanh phải trừ phiền não.

– Muốn trừ phiền não phải thật hành những gì?

– Phải thật hành chánh niệm.

– Thế nào là thật hành chánh niệm?

– Phải thật hành pháp không sanh không diệt.

– Pháp gì không sanh, pháp gì không diệt?

– Pháp bất thiện không sanh, pháp thiện không diệt.

– Pháp thiện và pháp bất thiện lấy gì làm gốc?

– Thân là gốc.

– Thân lấy gì làm gốc?

– Tham dục là gốc.

– Tham dục lấy gì làm gốc?

– Hư vọng phân biệt là gốc.

– Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

– Tưởng điên đảo là gốc.

– Tưởng điên đảo lấy gì làm gốc?

– Không trụ(14) là gốc.

– Không trụ lấy gì làm gốc?

– Không trụ thì không gốc.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi, ở nơi “gốc không trụ mà lập tất cả pháp”.

Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ Tát và Đại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ Tát đều rơi hết, đến các vị Đại đệ tử đều mắc lại. Các vị Đại đệ tử dùng hết thần lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt.

Lúc ấy, Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất:

– Tự sao mà phủi hoa?

Xá Lợi Phất nói:

– Hoa này không như pháp nên phủi.

– Chớ bảo hoa này là không như pháp. Vì sao? Hoa này nó không có phân biệt, tự Nhân giả phân biệt đó thôi! Nếu người xuất gia ở trong Phật pháp có phân biệt là không như pháp, nếu không phân biệt là như pháp. Đấy, xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu? Vì đã đoạn hết tưởng phân biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại đặng. Như thế, các vị Đại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc thinh, hương, vị, xúc mới thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không làm chi đặng. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân thôi, còn người kiết tập(15) hết rồi, hoa không mắc được.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Thiên nữ ở nhà này đã được bao lâu?

– Tôi ở nhà này như Ngài được giải thoát.

– Ở đây đã lâu ư?

– Ngài giải thoát cũng lâu như thế nào?

Ngài Xá Lợi Phất nín lặng không đáp.

Thiên nữ nói:

– Tại sao bực kỳ cựu(16) đại trí lại nín lặng?

– Giải thoát không có ngôn thuyết, nên ở nơi đó ta không biết nói làm sao!

Thiên nữ nói:

– Ngôn thuyết văn tự đều là tướng giải thoát. Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên, văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Thế nên, Ngài Xá Lợi Phất, chớ rời văn tự mà nói giải thoát. Vì sao? Vì tất cả pháp là tướng giải thoát.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi:

– Không cần ly dâm, nộ, si, được giải thoát ư?

Thiên nữ nói:

– Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói ly dâm, nộ, si là giải thoát thôi, nếu kẻ không tăng thượng mạn thời Phật nói tánh của dâm nộ, si là giải thoát.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Hay thay, hay thay, Thiên nữ! Nàng được cái gì, chứng cái gì mà biện tài như thế?

Thiên nữ nói:

– Tôi không được, không chứng, mới được biện tài như thế. Vì sao? -Nếu có được, có chứng thời ở trong Phật pháp là kẻ tăng thượng mạn(17).

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:

– Ở trong ba thừa(18), ý nàng cầu thừa nào?

Thiên nữ nói:

– Cần pháp Thanh Văn để hóa độ chúng sanh, tôi làm Thanh Văn; cần pháp nhơn duyên để hóa độ chúng sanh, tôi làm Bích Chi Phật, cần pháp đại bi để hóa độ chúng sanh, tôi làm Đại thừa. Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Như người vào rừng chiêm bặc(19), chỉ ngửi có mùi chiêm bặc, chứ không còn mùi hương nào khác. Cũng như người vào nhà này chỉ ngửi mùi hương công đức của Phật chớ không ưa ngửi mùi hương công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật.

Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Có những vị Đế thích Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và chư Thiên, long thần, quỉ cả thảy vào trong nhà này nghe Thượng nhân đây giảng nói chánh pháp, đều ưa mùi hương công đức của Phật phát tâm rồi ra.

Thưa Ngài Xá Lọi Phất, tôi ở nhà này đã mười hai năm chưa từng nghe nói pháp Thanh Văn, Bích chi Phật, Chỉ nghe đại từ đại bi của Bồ Tát và những pháp bất khả tư nghị của chư Phật. Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường hiện ra tám pháp “chưa từng có, khó đặng”. Tám pháp là gì?

Nhà này thường dùng ánh sáng sắc vàng soi chiếu ngày đêm không khác, chẳng cần ánh sáng của nhật nguyệt soi chiếu, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ nhất, – Nhà này hễ ai vào rồi không còn bị các thứ cấu nhiễm làm não loạn, đó là pháp “chưa từng có khó đặng” thứ hai. – Nhà này thường có các vị Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các Bồ Tát ở phương khác nhóm họp không ngớt, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ ba. – Nhà này thường nói sáu pháp Ba la mật và pháp bất thối chuyển, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ tư. Nhà này thường trổi âm nhạc bực nhứt của trời, người, vang ra vô lượng tiếng pháp, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ năm. – Nhà này có bốn kho tàng lớn chứa đầy các món báu, giúp khắp cho kẻ nghèo thiếu, hễ cầu liền được không bao giờ hết, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ sáu. – Nhà này Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc, Phật Bửu Đức, Phật Bửu Diệm, Phật Bửu Nguyệt, Phật Bửu Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhứt Thiết Lợi Thành, vô lượng chư Phật trong 10 phương, khi Thượng Nhân đây niệm đến liền hiện tới rộng nói tạng pháp bí yếu của chư Phật, khi nói xong các Ngài đều trở về, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ bảy. – Nhà này tất cả cung điện tốt đẹp của chư Thiên và các cõi Tịnh độ của chư Phật đều hiện ở trong đây, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ tám.

Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Nhà này thường hiện ra 8 pháp “chưa từng có, khó đặng” như thế, ai thấy được việc không thể nghĩ bàn đó mà lại còn ham ưa pháp Thanh Văn ư?

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Vì sao ngươi không chuyển thân nữ kia đi?

Thiên nữ nói:

– Mười hai năm nay tìm kiếm mãi cái tướng nữ nhơn hẳn không thể đặng, phải chuyển đổi cái gì? Ví như nhà huyễn thuật hóa ra một người nữ huyễn, nếu có người hỏi rằng: Sao không chuyển thân nữ đó đi? Vậy người hỏi đó có đúng chăng?

Ngài Xá Lọi Phất nói:

– Không đúng. Huyễn hóa không có tướng nhứt định còn phải chuyển đổi gì nữa.

Thiên nữ nói:

– Tất cả pháp cũng như thế, không có tướng nhứt định, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ?

Tức thời Thiên nữ dùng sức thần thông biến Ngài Xá Lợi Phất thành ra Thiên nữ, Thiên nữ lại tự hóa mình giống như Ngài Xá Lợi Phất mà hỏi rắng: Tại sao Ngài không chuyển thân nữ đi?

Ngài Xá Lợi Phất mang lấy hình tướng thân nữ mà đáp rằng:

– Ta nay không biết tại sao lại biến thành thân đàn bà này?

Thiên nữ nói:

– Thưa Ngài Xá Lợi Phất? Nếu Ngài chuyển được thân đàn bà đó, thời tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được. Như Ngài Xá Lợi Phất không phải người nữ mà hiện thân nữ, thời tất cả người nữ cũng lại như thế, tuy là hiện thân nữ mà không phải người nữ đâu. Vì thế, Phật nói: tất cả các pháp không phải đàn ông, không phải đàn bà.

Bấy giờ Thiên nữ thu nhiếp thần lực, thân Ngài Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất:

– Tướng đàn bà bây giờ ở đâu?

Ngài Xá Lợi Phất đáp:

– Tướng đàn bà không ở đâu, mà ở tất cả.

Thiên nữ nói:

– Tất cả pháp lại cũng như thế, không ở đâu mà ở tất cả. Vả lại không ở đâu mà ở tất cả là lời Phật nói.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:

– Nàng ở nơi đây chết rồi sẽ sanh nơi đâu?

Thiên nữ đáp:

– Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng hóa sanh thế ấy.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Phật hóa sanh không phải chết rồi mới sanh.

Thiên nữ nói:

– Chúng sanh cũng thế, không phải chết rồi mới sanh.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:

– Ngươi bao lâu sẽ chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?

Thiên nữ đáp:

– Khi nào Ngải Xá Lợi Phất trở lại phàm phu, tôi sẽ được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Có khi nào ta trở lại phàm phu.

Thiên nữ nói:

– Có khi nào tôi lại được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? – Vì Bồ Đề không xứ sở nên không có được.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Hiện nay các Phật chứng Bồ Đế vô thượng (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề), các Phật đã chứng, sẽ chứng nhiều như số cát sông Hằng thời gọi là gì?

Thiên nữ đáp:

– Đấy là theo số mục văn tự ở đời mà nói có 3 đời, chớ không phải nói Bồ Đề có quá khứ, vị lai và hiện tại.

– Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Ngài đặng đạo A la hán ư?

Đáp: Không có đặng mà đặng.

Thiên nữ nói:

Các Phật, Bồ Tát cũng như thế, không đặng mà đặng.

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo ngài Xá Lợi Phất:

– Thiên nữ này đã từng cúng dường 92 ức Đức Phật, đã được thần thông du hý của Bồ Tát, nguyện lực đầy đủ, chứng vô sanh nhẫn không có thối lui, vì theo bổn nguyện nên tùy ý mà hiện ra để giáo hóa chúng sanh.

*

Chú thích:

1.- Chúng sanh: Có ba nghĩa: 1) Tất cả loài có sự sống đều gọi là chúng sanh, như các loài động vật và thực vật, hữu tình và vô tình.

2) Chúng có nghĩa là rất nhiều; Sanh nghĩa là sanh khởi; do năm ấm, các duyên hòa hợp thành những vật có sự sống tương tục, gọi là chúng sanh.

3) Trải qua nhiều phen sống chết luân hồi trong cảnh giới các loài hữu tình.

2.- Đại thứ năm: Là vật không có. Chỉ có 4 đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong.

3.- Ấm thứ sáu: Là vật không có. Chỉ có 5 ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

4.- Tình thứ bảy: Là vật không có, chỉ có sáu căn tình thức cảm giác, là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

5.- Nhập thứ 13: Là vật không có, chỉ có 12 nhập là 6 căn xung nhập 6 trần.

6.- Giới thứ 19: Là vật không có. Chỉ có 18 giới là 6 căn Cội giới, 6 trần ngoại giới và 6 thức trung giới.

7.- Sắc thân cõi Vô Sắc: Là vật không có, Cõi Vô Sắc chỉ có 4 ấm: Thọ, tưởng, hành, thức về tâm pháp hợp thành loài hữu tình nơi đó, không có hình chất như cõi Sắc giới và Dục giới.

8.- Thân kiến của Tu đà hoàn: Là việc không có. Tu đà hoàn là quả thứ nhứt trong 4 quả Thánh của Thanh Văn Tiểu thừa; Tàu dịch là Dự lưu, nghĩa là dự vào giòng Thánh. Bực này đã phá được kiến hoặc (sự thấy biết mê lầm) ở trong 3 cõi, nên không còn quan niệm chấp thân là thật nữa.

9.- Sự nhập thai của A na hàm: Là việc không có. A na hàm là quả thứ ba của Thanh Văn, Tàu dịch là Bất lai, nghĩa là bực này tu hành đã dứt hết chín phẩm tư hoặc (tư tưởng sai lầm) ở Dục giới, nên không còn thọ sanh trở lại cõi Dục nữa.

10.- Tam độc của A la hán: Là việc không có. A la hán là quả thứ tư trong 4 quả Thanh Văn, Tàu dịch là Vô sanh. Bực này đã dứt hết phiền não mê lầm trong 3 cõi, nên không còn 3 thứ độc: Tham, Sân, Si nữa.

11.- Hơi thở ra vào của người nhập Diệt tận định: Là việc không có. Vì người nhập Diệt tận định đã dứt hết hiện hành của 6 thức trước, nên không còn thở nữa.

12.- Thạch nữ: Là người nữ không có sanh con. Nói con của Thạch nữ là thí dụ cho việc không có, cũng như nói lông rùa sừng thỏ.

13.- Kiết sử: Các thứ phiền não ràng buộc thân tâm kết thành quả khổ gọi là kiết; đeo đuổi xui dục chúng sanh không ra khỏi sanh tử gọi là sử.

Kiết có 9 món: 1) Ái kiết: say đắm cảnh ngũ dục không rời, 2) Nhuế kiết; giận dữ bất bình đối với nghịch cảnh, 3) Mạn kiết: kiêu căng ngạo nghễ, 4)Vô minh kiết: ngu si mờ ám đối với lẽ chơn chánh, 5) Kiến kiết: tà kiến không tin nhơn quả. 6) Thủ kiết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh, và giới pháp sai lầm, làm lắm điều ác. 7)Nghi kiết: dụ dự không tin chơn lý, không tu hành theo hạnh chơn lý, làm nhiều điều không chơn chánh; 8) Tật kiết: ghen ghét những bậc hiền đức; 9) Xan kiết: keo sẻn không chịu bố thí, lại làm nhiều điều ác. Chín điều này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh tử, vì nó khiến chúng sanh gây nhiều tội lỗi.

Sử có 10 món, tức là 5 món Độn sử và 5 Lợi sử.

5 món Độn sử: 1) Tham dục sử, 2) Sân nhuế sử, 3) Vô minh sử, 4) Mạn sử, 5) Nghi sử,

5 món Lợi sử: 1) Thân kiến sử, 2) Biên kiến sử, 3)Tà kiến sử, 4) Kiến thủ sử, 5) Giới thủ sử, Độn sử, do sự chấp đắm mà có. Lợi sử do sự nhận thức sai lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não xúi dục chúng sanh tạo nghiệp không ra khỏi ba cõi sanh tử.

14.- Không trụ: Là dịch nghĩa của danh từ: “Vô trụ”. Các pháp toàn không có tự tánh, nên không có chỗ trụ trước, chỉ tùy theo duyên mà sanh khởi, nên gọi là vô trụ. Do vô trụ không có chỗ trụ trước, nên chẳng phải có, chẳng phải không, vì chẳng phải có, không, nên mới làm được cái gốc cho hiện tượng có, không của vạn hữu. Theo ý ngài Duệ Công thì vô trụ tức là thật tướng, thật tướng tức là tánh không, chỉ là khác tên mà thôi.

15.- Kiết tập: Tập khí phiền não kiết sử.

16.- Kỳ cựu: Bực tuổi tác lão thành.

17.- Tăng thượng mạn: Tự mình chứa đặng những pháp tăng thượng của bực thánh, chưa chứng quả thánh mà tự xưng là đã đặng chứng, khởi lòng ngã mạn, nên gọi là tăng thượng mạn.

18.- Ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát.

19.- Chiêm bặc: Tàu dịch là Kim sắc hoa thọ, hay huỳnh hoa thọ: nghĩa là cây hoa sắc vàng, có mùi hương bay rất xa.

***

VIII. PHẨM PHẬT ĐẠO (1)

Bấy giờ Ngài văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật đạo?

– Bồ Tát thật hành phi đạo(2) (trái đạo) là thông đạt Phật đạo.

– Lại hỏi: Thế nào là Bồ Tát thật hành Phi đạo?

– Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián(3) mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỉ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không có ngại gì; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện làm hạnh tham lam bỏn sẻn mà bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt; hiện làm giận dũi mà thường từ bi, nhẫn nhục; hiện làm lười biếng mà siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm ngu si mà thông đạt trí tuệ thế gian và xuất thế gian; hiện làm dua dối mà phương tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh mình cũng như cầu, đò(4); hiện làm tất cả phiền não mà lòng thường thanh tịnh; hiện vào trong chúng ma mà thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo giáo khác; hiện làm hàng Thanh Văn mà nói các pháp chưa từng nghe cho chúng sanh; hiện vào hàng Bích Chi Phật mà thành tựu lòng đại bi, giáo hóa chúng sanh; hiện vào hạng nghèo nàn mà có tay đầy đủ của công đức; hiện vào hạng tàn tật mà đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện vào hạng hèn hạ mà sanh trong giòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện vào hạng người ốm yếu xấu xa mà được thân Na-la-diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều muốn xem; hiện vào hạng già bịnh mà đoạn hẳn gốc bịnh, không còn sợ chết; hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm; hiện có thê thiếp, thế nữ mà tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độn mà thành tựu biện tài, vẫn giữ tổng trì; hiện vào tà tế(5) mà dùng chánh tế độ chúng sanh; hiện vào khắp các đạo, để đoạn dứt nhơn duyên; hiện vào Niết bàn mà không bỏ sanh tử. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi? Nếu Bồ Tát làm được những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật đạo.

Bấy giờ, ông Duy Ma Cật hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Thế nào là hột giống Như Lai?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:

– Có thân là hột giống; vô minh có ái là giống; tham, sân, si là giống; 4 món điên đảo(6) là giống; 5 món che ngăn là giống; 6 nhập là giống ; 7 chỗ thức(7) là giống; 8 pháp tà(8) là giống; 9 món não(9) là giống; 10 điều bất thiện là giống; nói tóm lại 62 món tà kiến và tất cả phiền não đều là giống Phật cả.

Ông Duy Ma Cật hỏi:

– Tại sao thế?

– Nếu người thấy vô vi mà vào chánh vị (Niết bàn) thời không thể còn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ví như chỗ gò cao không thể sinh hoa sen, mà nơi bùn lầy thấp ướt mới có hoa sen. Như thế, người thấy vô vi, vào chánh vị không còn sanh trong Phật pháp được, mà ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh nghĩ đến Phật pháp mà thôi. Lại như gieo hột giống trên hư không thì không sinh được, ở đất phân bùn mới tốt tươi được. Như thế, người đã vào vô vi chánh vị không sanh được trong Phật pháp, kẻ khởi ngã kiến như núi Tu Di còn có Thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác mà sinh trong Phật pháp. Cho nên phải biết tất cả phiền não là giống Như Lai. Ví như không xuống bể cả, không thể đặng bảo châu vô giá, cũng như không vào biển cả phiền não thời làm sao mà có ngọc báu “nhứt thiết trí”.

Lúc bấy giờ Ngài Đại Ca Diếp khen rằng:

– Hay thay! Hay thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi, lời nói thích quá. Thật đúng như lời Ngài nói những bọn trần lao là giống Như Lai. Hôm nay, chúng tôi không còn kham phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến như người đủ 5 tội vô gián còn có thể phát ý mong sanh trong Phật pháp, mà nay chúng tôi hoàn toàn không phát được. Ví như những người 5 căn(10) đã hư, đối với 5 món dục lạc chẳng còn cảm xúc. Cũng như hàng Thanh Văn đã đoạn hết kiết sử, ở trong Phật pháp không còn có lợi ích gì mấy, bởi không còn có chí nguyện.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Vì thế nên phàm phu ở trong Phật pháp còn có ảnh hưởng, mà hàng Thanh Văn thời không. Vì sao? Vì phàm phu nghe Phật nói pháp khởi được đạo tâm vô thượng, chẳng đoạn Tam bảo, còn chính như Thanh Văn trọn đời nghe Phật pháp: 10 lực, 4 món vô úy v.v… mà hoàn toàn cũng không phát được đạo tâm vô thượng.

Trong chúng hội có Bồ Tát tên Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, những người tri thức là ai? Tôi tớ, trai bạn, voi ngựa, xe cộ ở đâu?

Ông Duy Ma Cật dùng bài kệ đáp rằng:

Trí độ(11) mẹ Bồ Tát,

Phương tiện ấy là cha,

Đạo sư tất cả chúng,

Đều do đấy sanh ra.

Pháp hỷ(12) Chính là vợ,

Tâm từ bi là gái,

Tâm thành thực là trai,

Rốt ráo vắng lặng: nhà.

Trần lao(13) là đệ tử,

Tùy ý mà sai sử,

Đạo phẩm (14) vốn bạn lành.

Do đấy thành chánh giác.

Các độ(15) là pháp lữ,

Tứ nhiếp là kỹ nữ.

Ca ngâm tụng lời pháp,

Lấy đó làm âm nhạc,

Vườn tược ấy tổng trì(16),

Cây rừng, pháp vô lậu,

Hoa, giác ý(17) sạch mầu,

Trái, giải thoát trí tuệ.

Bát giải (thoát)(18) là ao tắm,

Nước định lặng trong đầy,

Rải bảy thứ tịnh hoa(19),

Để tắm người không nhơ.

Ngũ thông (20), voi, ngựa chạy,

Đại thừa là xe cộ,

Cầm cương là nhất tâm,

Dạo chơi đường bát chánh(21).

Tướng đủ nghiêm mặt mày,

Các tốt trau hình dáng,

Hổ thẹn làm thượng phục(22),

Thâm tâm làm tràng hoa.

Giàu có bảy của báu(23)

Dạy bảo để thêm lợi,

Như lời nói tu hành,

Hồi hướng làm lợi lớn.

Tứ thiền làm giường ghế,

Từ tịnh mạng sanh ra,

Học rộng thêm trí tuệ,

Đó là tiếng tự giác.

Món ăn: pháp cam lồ,

Nước uống: vị giải thoát,

Tắm rửa sạch tịnh tâm,

Hương thoa là giới phẩm.

Trừ dẹp giặc phiền não,

Mạnh mẽ không ai hơn,

Hàng phục bốn thứ ma(24)

Phướng tốt dựng đạo tràng.

Tuy biết không sanh diệt,

Vì dạy chúng, có sanh,

Khắp hiện vào các cõi,

Như mặt nhựt, đều thấy.

Cúng dường khắp mười phương,

Không lường ức Như Lai,

Chư Phật và thân mình,

Không có tưởng phân biệt.

Dầu biết các cõi Phật,

Với chúng sanh đều không,

Mà thường tu Tịnh độ,

Dạy dỗ cho quần sanh.

Bao nhiêu loài hữu tình,

Oai nghi cùng hình, tiếng,

Bồ Tát lực, vô úy,

Đồng thời đều khắp hiện.

Rõ biết các việc ma,

Mà hiện theo hạnh nó.

Dùng trí phương tiện khéo,

Tùy ý đều hay hiện,

Hoặc hiện già, bịnh, chết,

Thành tựu cho chúng sanh.

Rõ biết như huyễn hóa,

Thông suốt không ngăn ngại.

Hoặc hiện kiếp cháy tan,

Đại địa đều trống rỗng,

Những người có tưởng “thường”,

Soi thấy rõ vô thường.

Vô số ức chúng sanh,

Đều đến thỉnh Bồ Tát,

Đồng thời đến nhà kia,

Dạy cho về Phật đạo.

Kinh sách, cấm, chú thuật.

Các nghề nghiệp khéo léo,

Đều hiện làm việc ấy,

Lợi ích cho quần sanh.

Các đạo pháp thế gian,

Nương đấy mà xuất gia,

Để giải mê cho người,

Mà chẳng đọa tà kiến

Làm Nhựt, Nguyệt thiên tử,

Làm Phạm Vương, chủ, chúa,

Hoặc khi làm đất nước,

Hoặc lại làm gió lửa.

Vào kiếp có tật dịch,

Hiện làm các cây thuốc,

Nếu người nào uống đến,

Các bịnh ác tiêu trừ.

Vào kiếp có đói khát,

Hiện làm đồ uống ăn,

Trước là cứu đói khát,

Sau giảng dạy chính pháp.

Vào kiếp có đao binh,

Duyên khởi lòng từ bi,

Giáo hóa cho chúng sanh,

Tâm đừng còn tranh đấu.

Nếu có chiến trận lớn,

Làm cho sức ngang nhau,

Bồ Tát hiện oai thể,

Hàng phục để yên hòa.

Trong tất cả cõi nước,

Chỗ nào có địa ngục,

Đi ngay đến nơi đấy,

Cứu vớt người khổ não.

Trong tất cả cõi nước,

Súc sanh ăn lẫn nhau,

Đều hiện sanh ra nó,

Làm cho được lợi ích.

Thị hiện trong ngũ dục,

Lại cũng hiện tu thiền,

Để tâm ma rối loạn,

Không thừa dịp hại đặng.

Hoa sen sanh trong lửa,

Thật đáng gọi ít có,

Cõi Dục mà tu thiền,

Ít có cũng như thế.

Hoặc hiện làm dâm nữ,

Dắt dẫn kẻ háo sắc,

Trước lấy dục dụ người,

Sau khiến vào trí Phật.

Hoặc làm chủ trong ấp,

Hoặc làm thầy khách buôn,

Quốc sư và Đại thần,

Để lợi ích chúng sanh.

Các chỗ có kẻ nghèo,

Hiện làm kho vô tận,

Nhân đó khuyến dạy người,

Cho phát tâm vô thượng.

Kẻ kiêu căng ngã mạn,

Hiện làm những lực sĩ,

Tiêu phục lòng cống cao,

Quay về đạo Vô thượng.

Những người hay sợ sệt,

Đến nơi để an ủi,

Trước thí pháp “không sợ”,

Sau dạy phát đạo tâm.

Hoặc hiện lìa dâm dục,

Làm vị tiên ngũ thông,

Chỉ dạy cho chúng sanh,

Để được giới, nhẫn, từ.

Thấy người cần hầu hạ,

Hiện làm kẻ tôi tớ,

Vừa đẹp ý người kia,

Vừa phát được đạo tâm.

Tùy theo việc cần dùng,

Mà vào trong Phật đạo,

Dùng sức phương tiện khéo,

Đều giúp cho đầy đủ.

Đạo pháp nhiều không lường,

Việc làm không bờ mé,

Trí tuệ không hạng lượng,

Độ thoát vô số chúng.

Dầu cho tất cả Phật,

Trong vô số ức kiếp,

Khen ngợi công đức kia,

Cũng không thể hết được.

Ai nghe pháp như thế,

Chẳng phát tâm Bồ Đề,

Trừ những người bất tiếu,

Ngu si không trí tuệ.

*

Chú thích:

1.- Phật đạo: Tiếng Phạn là Phật đà Bồ đề, nghĩa là đạo giác ngộ như thật. Lại chỉ tất cả các điều phước huệ thanh tịnh thuần thiện của Phật đã thành tựu viên mãn, đều gọi là Phật đạo.

2.- Phi đạo: Chẳng phải Phật đạo, nghĩa là những phiền não tạp nhiễm, tập nghiệp của tất cả chúng sanh trong ba cõi, ba đời và đạo pháp của Nhị thừa đều chẳng phải Phật đạo. Nhưng nếu thông đạt Phật đạo thì phi đạo toàn là Phật đạo. Tỷ như thật hành các việc trong đời, mà không sa mắc vào đời, cho đến thật hành hiện nhập Niết Bàn của Nhị thừa, mà chẳng dứt sự sanh tử, độ sanh. Đó là ở nơi phi đạo mà tự tại siêu xuất phi đạo, nên tức nơi phi đạo mà thông đạt Phật đạo.

3.- Năm tội vô gián: 1) Giết cha, 2) Giết mẹ, 3) Giết A La Hán, 4) Phá hòa hiệp của chúng Tăng, 5) Làm cho thân Phật ra máu. Người tạo ra năm tội này, phải đọa vào địa ngục Vô gián (A tỳ), chịu các sự khổ bức, không khi nào hở dứt, nên gọi là Vô gián.

4.- Như cầu đò: Ý nói rất khiêm nhượng hạ mình, nghĩa là dù bị người đời lấn lướt khinh khi, nhưng vẫn nhẫn chịu không khinh mạn lại, cũng như cầu đò cứ chịu họ dày đạp qua lại.

5.- Tà tế, chánh tế: Ngoại đạo gọi là tà tế, ví như chỗ hiểm nạn dối gạt người. Phật đạo gọi là chánh tế, ví như chỗ bến đò có thể đưa người qua được.

6.- Bốn món điên đảo: 1) Sự vật trong thế gian là vô thường mà chấp là thường, 2) Ngũ dục lạc, không phải vui mà chấp là vui, 3) Thân này không phải ta mà chấp là ta, 4) Thân này nhơ nhớp mà chấp là sạch. Đây là 4 món chấp của phàm phu.

7.- Bảy chỗ thức: 1) Sơ thiền, 2) Nhị thiền, 3) Tam thiền, 4) Tứ thiền, 5) Vô biên xứ thiền, 6) Thức biên xứ thiền, 7) Vô sở hữu xứ thiền, là bảy cảnh giới không có thống khổ bức não, thần thức được an trú. Trừ cõi Vô tưởng và cõi Phi phi tưởng không kể, là vì cõi này tâm tưởng quá vi tế, muội lược, tư niệm không rõ ràng.

8.- Tám pháp tà: Đã giải ở phẩm III số 14.

9.- Chín món não: Về quá khứ ai quấy nhiễu mình, quấy nhiễu thân thích mình, thì sanh não, ai khen ngợi kẻ oán của mình, mình cũng sanh não. Quá khứ như thế thì hiện tại và vị lai cũng thế, nên gọi là chín chỗ não.

10.- Năm căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân.

11.- Trí độ: Một độ trong 6 độ, nghĩa là trí tuệ viên mãn hay vượt qua biển sanh tử đến bờ Niết bàn rốt ráo.

12.- Pháp hỷ: Nghe pháp lãnh hội được, sanh lòng vui mừng gọi là pháp hỷ.

13.- Trần lao: Trần là nhiễm ô, nghĩa là các thứ tà kiến phiền não hay làm nhiễm ô chơn tánh. Lao là nhọc nhằn, nghĩa là các tà kiến phiền não làm cho chúng sanh trôi lăn mệt nhọc trong đường sanh tử.

14.- Đạo phẩm: Tức phương pháp giúp người tu hành, thành tựu đạo quả Bồ đề, như 37 phẩm trợ đạo v.v…

15.- Các độ: 6 độ, 10 độ.

16.- Tổng trì: Gồm nhiếp các pháp.

17.- Giác ý: Ý niệm giác sát cho tâm điều hòa thích trung, không cao không thấp, không phóng tán, không hôn trầm.

18.- Bát giải: Tức Bát giải thoát đã giải ở phẩm III số 14.

19.- Bảy thứ tịnh hoa: 1) Giới tịnh: động tác của thân, khẩu ý thanh tịnh; 2) Tâm tịnh: tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước; 3) Kiến tịnh: thấy được chơn tánh các pháp không còn khởi vọng chấp; 4) Độ nghi tịnh: Hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực; 5) Phân biệt đạo tịnh: Phân biệt rõ ràng tà đạo, chánh đạo; 6) Hành đoạn tri kiến tịnh: Tri kiến thật hành thiện pháp, các ác pháp bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng suốt; 7) Niết Bàn tịnh: Chứng được Niết Bàn xa lìa mọi cấu nhiễm.

20.- Ngũ thông: Lục thông trừ Lậu tận thông. Đã giải nơi phẩm II số 24.

21.- Bát chánh: Giải ở phẩm II số 26 trong mục 37 phẩm trợ đạo phần sau.

22.- Thượng phục: Đồ y phục quí đẹp. Đoạn này, ý nói lấy sự hổ thẹn để ngăn ngừa lỗi quấy, cũng như đồ y phục che được gió lạnh vậy.

23.- Bảy của báu: 1)Tín, 2)Giới, 3)Văn, 4)Xả, 5)Tuệ, 6)Tàm, 7)Quý.

Do tin pháp lành nên mới giữ giới. Do giữ giới thì ngăn được các việc ác, việc ác đã dứt, việc lành mới tinh tấn làm thêm. Nhưng tinh tấn làm việc lành cốt do sự học rộng nghe nhiều. Có nghe nhiều đạo pháp, thì tâm niệm mới xả bỏ không còn chấp trước: Do xả bỏ nên trí tuệ phát sanh. Còn tàm và quý cũng như hai người phụ lực để thành tựu 5 pháp trên.

24.- Bốn thứ ma: 1) Phiền não ma: tham, sân, si v.v… hay làm não hại thân tâm. 2) Ấm ma: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, 5 ấm đó thường sanh các thứ khổ não. 3) Tử ma: chết hay đoạn tuyệt mạng căn của người. 4) Thiên ma: Ma Vương ở trên từng trời Tha hóa tự tại thứ 6 của Dục giới, hay làm hại mất việc phúc thiện của người đời.

***

IX. PHẨM VÀO “PHÁP MÔN KHÔNG HAI

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:

– Các Nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào “pháp môn không hai”? Cứ theo chỗ thích của mình mà nói.

Trong Pháp hội có Bồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói:

– Các Nhân giả! “Sanh”, “diệt” là hai. Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó là vào “pháp môn không hai”.

Bồ Tát Đức Thủ nói:

– “Ngã”, “ngã sở” là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thời không có ngã sở đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Bất Thuấn nói:

– “Thọ”, “không thọ”(2) là hai. Nếu các pháp không thọ thời không có “được”, vì không có “được”, nên không thủ xả, không gây không làm đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Đức Đảnh nói:

– “Nhơ”, “sạch” là hai. Thấy được tánh chơn thật của nhơ, thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Thiện Túc nói:

– “Động”, “niệm” là hai. Không động thời không niệm, không niệm thời không phân biệt; thông suốt lý ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Thiện Nhãn nói:

– “Một tướng”, “Không tướng”(3) là hai. Nếu biết một tướng tức là không tướng, cũng không chấp không tướng mà vào bình đẳng, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Diệu Tý nói:

– Tâm Bồ Tát, tâm Thanh Văn là hai. Quán tướng của tâm vốn không, như huyễn như hóa, thời không có tâm Bồ Tát, không có tâm Thanh Văn, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Phất Sa nói:

– “Thiện”, “bất thiện” là hai. Nếu không khởi thiện và bất thiện, vào gốc không tướng mà thông suốt được, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Sư Tử nói:

– “Tội”, “phước” là hai. Nếu thông đạt được tánh của tội, thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Sư Tử Ý nói:

-“Hữu lậu”, “vô lậu” là hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thời không có tướng hữu lậu và vô lậu, không chấp có tướng cũng không chấp vô tướng, đó là vào phảp môn không hai.

Bồ Tát Tịnh Giải nói:

– “Hữu vi”, “vô vi” là hai. Nếu lìa tất cả số thời tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Na La Diên nói:

– “Thế gian”, “xuất thế gian” là hai. Tánh thế gian không tức là xuất thế gian, trong đó không vào không ra, không đầy không vơi, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Thiện ý nói:

– “Sanh tử”, “Niết bàn” là hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thời không có sanh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Hiện Kiến nói:

– “Tận”, “không tận” là hai. Pháp đến chỗ rốt ráo thời tận hoặc không tận đều là tướng “vô tận”. Tướng “vô tận” tức là không, không thời không có tướng tận và không tận, được như thế đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Phổ Thủ nói:

– “Ngã”, “vô ngã” là hai. “Ngã” còn không có, thời “phi ngã” đâu có được. Thấy được thật tánh của ngã không còn có hai tướng, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Điển Thiên nói:

– “Minh”, “vô minh” là hai. Thật tánh vô minh tức là minh, minh cũng không thể nhận lấy, lìa tất cả số, ở đó bình đẳng không hai, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Hỷ Kiến nói:

– “Sắc”, “Không” là hai. Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không, tánh sắc tự không ; thọ, tưởng, hành, thức cũng thế. Thức và không là hai. Thức tức là không, chẳng phải thức diệt rồi mới không, tánh thức tự không. Thông hiểu lý đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Minh Tướng nói:

– “Tứ đại” khác (4) “không đại” khác là hai. Tánh tứ dại tức là tánh không đại, như lớp trước lớp sau không, thời lớp giữa cũng không. Nếu biết được thật tánh các đại thời đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Diệu Ý nói:

– “Con mắt”, “sắc trần” là hai. Nếu biết được tánh của mắt thời đối với sắc không tham, không sân, không si, tức là tịch diệt. Tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, ý với pháp cũng là hai. Nếu biết được tánh của ý thời đối với pháp không tham, không sân, không si tức là tịch diệt. Nhận như thế đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Vô Tận Ý nói:

– “Bố thí”, “hồi hướng nhứt thiết trí” là hai. Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng nhứt thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh, trí tuệ, hồi hướng nhứt thiết trí cũng là hai. Tánh trí tuệ tức là tánh hồi hướng nhứt thiết trí, ở trong đó vào “một tướng” là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Thâm Tuệ nói:

– “Không”, “vô tướng”, “vô tác” là hai. Không tức là vô tướng, vô tướng tức là vô tác. Nếu không vô tướng, vô tác thời không có tâm, ý thức. Một món giải thoát là ba món giải thoát, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Tịch Căn nói:

– “Phật”, “Pháp”, “Chúng” (Tăng) là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Chúng. Ba ngôi báu ấy đều là tướng vô vi, cũng như hư không. Tất cả pháp cũng vậy, theo được hạnh ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Tâm Vô Ngại nói:

– “Thân”. “thân diệt” là hai. Thân tức là thân diệt. Vì sao? Thấy thật tướng của thân thời không thấy thân và thân diệt. Thân và thân diệt không hai, không khác, theo đó chẳng kinh chẳng sợ là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Thượng Thiện nói:

– “Thân thiện”, “khẩu thiện”, “ý thiện” là hai. Ba nghiệp này là tướng “vô tác”. Tướng vô tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu, tướng vô tác của khẩu tức là tướng vô tác của ý. Tướng vô tác của ba nghiệp này tức là tướng vô tác của tất cả pháp. Tùy thuận trí tuệ vô tác như thế là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Phước Điền nói:

– Làm phước (5) làm tội (6), làm bất động là hai. Thật tánh của ba việc làm tức là “không”, “không” thời không làm phước, không làm tội, không làm bất động. Ở ba việc làm này mà không khởi là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Hoa Nghiêm nói:

– Do “ngã” mà khởi ra hai là hai. Thấy được thật tướng của “ngã”, thời không khởi ra hai pháp. Nếu không trụ hai pháp thời không có “thức”. Không có thức là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Đức Tạng nói:

– Có tướng “sở đắc” là hai. Nếu không có sở đắc thời không có lấy bỏ. Không lấy bỏ là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Nguyệt Thượng nói:

– “Tối”, “sáng” là hai. Không tối, không sáng thời không có hai. Vì sao? Như vào định diệt thọ tưởng thời không có tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế ; bình đẳng vào chỗ ấy là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Bảo ấn Thủ nói:

– Ưa Niết bàn, không ưa thế gian là hai. Nếu không ưa Niết bàn, không chán thế gian thời không có hai. Vì sao? Nếu có buộc thời có mở, nếu không buộc thì nào có cầu mở. Không buộc, không mở, thời không ưa, không chán, đó là vào pháp môn không hai.

Bồ Tát Châu Đảnh Vương nói:

– “Chánh đạo”, “tà đạo” là hai, ở chánh đạo thời không phân biệt thế nào là Tà, thế nào là Chánh, lìa hai môn phân biệt đó là vào Pháp môn không hai.

Bồ Tát Nhạo Thật nói:

– “Thực”, “Không thực” là hai. Thực thấy còn không thấy thực, huống là không thực thấy. Vì sao? Không phải mắt thịt mà thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không có thấy mà chỗ nào cũng thấy cả, đó là vào pháp môn không hai.

Các Bồ Tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói:

– Như ý tôi đối với tất cả pháp không nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các vấn đáp, đó là vào pháp môn không hai.

Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng:

– Chúng tôi ai ai cũng nói rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai?

Ông Duy Ma Cật im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai.

Khi nói phẩm vào Pháp Môn Không Hai này, trong chúng có năm nghìn Bồ Tát đều vào pháp môn không hai, chứng Vô sanh Pháp nhẫn.

*

Chú thích:

1.- Pháp môn không hai: “Không hai” là lý thể chơn thật duy nhứt, ly tướng vắng lặng như như bình đẳng, không có kia, đây, sai khác. Pháp môn: là pháp tắc khuôn mẫu của Phật đạo, các bực Hiền thánh đều nương theo đó mà nhập đạo. Bồ tát ngộ vào lý nhứt thật bình đẳng, gọi là vào “pháp môn không hai”.

2.- Thọ, không thọ: Thọ là có xúc đối lãnh thọ chấp tướng thuộc hữu lậu. Không thọ là không lãnh thọ chấp tướng thuộc vô lậu.

3.- Một tướng, không tướng: Một tướng là đối với 2, 3 mà nói. Hai, ba, là những cái sai khác, một là nghĩa không sai khác. Thật tướng của vũ trụ là một chứ không hai; sở dĩ nói “một” cũng chỉ là mượn mà nói, chứ thật “một” ấy cũng là tuyệt đối, là không, nên cũng tức là không tướng. Nhưng nếu nghe nói “một” nói “không” mà không biết là lời nói để phá chấp hai, chấp có, trở lại chấp có một tướng cũng thành ra hai vậy.

4.- Tứ đại khác: Tức là bốn đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong khác với hư không, vì 4 đại có chất ngại, hư không, không chất ngại nên khác nhau.

5.- Làm phước: Làm những công hạnh phước thiện trong cõi dục.

6.- Làm tội: Làm 10 nghiệp chẳng lành. Thân có ba nghiệp chẳng lành: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm; Miệng có 4: Nói dối, nói thêu dệt, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác; Ý có 3: Tham lam bỏn sẻn, hờn giận ganh ghét, si mê tà kiến.

7.- Làm bất động: Tu những hạnh nghiệp thiền định theo cõi trời Sắc và Vô Sắc giới.

***

    Xem thêm:

  • Đà La Ni Bí Mật Phật Đỉnh Tôn Thắng Tâm Phá Địa Ngục Chuyển Nghiệp Chướng Xuất Tam Giới - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 143 – Kinh Giáo Giới Cấp Cô Ðộc (Anàthapindikovàda sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 97 – Kinh Dhànanjàni (Dhànanjàni sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Vô Cấu Xưng - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 1 - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Kim Cang Thọ Mạng - Kinh Tạng
  • Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Nguyên Thuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 15 – Kinh Tư Lượng (Anumàna sutta) - Kinh Tạng
  • Bích Nham Lục Của Thiền Sư Phật Quả Viên Ngộ – Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 3 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 2 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh - Kinh Tạng
  • Kinh Tăng Nhất A-Hàm Tập 1 – HT Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 3 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Hoa Chánh Pháp - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bảo Tích tập 9 – HT Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ - Kinh Tạng
  • Kinh A Di Đà (Văn Vần) - Kinh Tạng