1
2

Kinh Nhân Duyên Của Vua Đảnh Sinh

Việt dịch: Chúc Đức

Một thời, Đức Thế Tôn đang ở Kì Thụ Cấp Cô Độc Viên thuộc nước Xá-vệ, Thắng Quân đại vương, vua nước Kiều-tát-la đến, cung kính lễ dưới chân Ngài, rồi lui ngồi một bên, thưa:

– Ngày xưa khi cầu Vô thượng chính đẳng giác, Thế Tôn đã thực hành bố thí và các phúc hạnh[1] như thế nào?

Phật nói:

– Đại vương! Hãy thôi nghĩ đến những việc trong kiếp quá khứ xa xôi. Ta nhớ trong kiếp Hiền[2] này, khi cầu Vô thượng chính đẳng giác, Ta đã tu tập hạnh bố thí. Ngài nên lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ nói nhân duyên việc ấy.

Đại vương! Vào đầu kiếp này, con người thọ đến vô số tuổi. Bấy giờ, có vị vua tên Bố-sa-đà, trên đầu bỗng nổi một cục thịt giống như cái bọc nước, mềm như bông[3], như nỉ, không đau đớn. Khi đã chín muồi, cục thịt ấy tự nhiên nứt miệng sinh ra một đứa bé tướng mạo cực quí, lại xinh đẹp, đoan chính, rất đáng yêu. Thân nó màu vàng ròng, đầu có xoáy tròn giống như cái lọng đẹp, hai tay dài, trán rộng phẳng, đôi mày dài, mũi cao, dài và thẳng. Các phần thân trên và dưới đều đầy đủ, toàn thân có ba mươi hai tướng đại trượng phu[4]. Vừa sinh ra, đứa bé liền được đưa vào cung. Tất cả sáu mươi nghìn cung nữ quyến thuộc của nhà vua nhìn thấy đứa bé thì ngực tự nhiên căng sữa, ai cũng nói: “Ta nuôi thái tử”. Do đó, đứa bé được đặt tên là Ngã Dưỡng. Cũng có người nói: “Nay thái tử này sinh ra từ đỉnh đầu, nên phải đặt tên là Đỉnh Sinh”. Vì thế, mới có người gọi thái tử là Đỉnh Sinh, có người gọi là Ngã Dưỡng.

Thời kì ấu thơ, thái tử Đỉnh Sinh nô đùa vui vẻ, trải qua hết sáu đời Đế Thích. Thời kì ở ngôi thái tử của Ngài cũng trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau khi thái tử ra khỏi cung điện, lần lượt dạo chơi, quan sát các làng mạc, chợ búa của nhân dân, vua Bố-sa-đà bỗng nhiên ngã bệnh. Các quan hầu cận dùng hoa, quả, rễ, chồi thuốc để trị bệnh cho nhà vua. Tuy mọi người đã dốc sức tận tâm chữa, nhưng bệnh của nhà vua không thuyên giảm. Thấy thế, nhà vua bèn ra lệnh cho các quan:

– Các khanh hãy mau làm lễ Quán đỉnh[5] truyền ngôi vua cho thái tử.

Vâng lệnh, các quan liền sai sứ đến chỗ thái tử báo rằng Đức vua ngã bệnh, chữa mãi không khỏi, nên sai gọi thái tử phải mau trở về cung làm lễ quán đỉnh truyền ngôi. Sứ giả đi mới được nửa đường thì nhà vua qua đời. Quan cận thần lại sai một sứ giả nữa nối gót theo người trước đến báo với thái tử: “Đức vua đã qua đời, thái tử hãy mau vào cung làm lễ quán đỉnh truyền ngôi vua”.

Bấy giờ, thái tử Đỉnh Sinh nghĩ: “Phụ vương đã mất, có chạy đến cũng đâu kịp!”. Trong lúc ấy, các quan bàn với nhau rồi cử một vị quan cận thần đến chỗ thái tử tâu:

– Mong thái tử mau chóng vào cùng để làm lễ quán đỉnh truyền ngôi vua.

Thái tử đáp:

– Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi vua chính pháp vương[6] thì những người kia phải đến đây làm lễ quán đỉnh cho ta.

Quan cận thần nói:

– Lễ quán đỉnh cho thái tử có nhiều nghi thức: phải làm tòa sư tử báu, lọng lụa, mão báu v.v… những thứ cần dùng như thế, ở đây đâu có đủ. Hơn nữa, theo lễ nghi, việc quán đỉnh phải thực hiện ở hoàng cung mới phù hợp. Do đó, thái tử nên vào cung để làm lễ quán đỉnh.

Thái tử bảo:

– Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi chính pháp vương thì tất cả những thứ cần dùng phải tự đến.

Khi ấy, thần dạ-xoa Nễ-vũ-ca phò tá thái tử liền trổ thần lực chuyển tất cả những thứ cần dùng: tòa sư tử, lọng lụa, mão báu v.v…cho đến xóm làng, thành thị đều đặt ở trước thái tử. Tất cả mọi người thấy thế, đều ngạc nhiên trước việc chưa từng có ấy. Sau đó, các quan, nhân dân và đội quân hùng mạnh đem lụa đẹp đến, muốn làm lễ quán đỉnh cho thái tử theo phép tắc, nên tâu:

– Xin thái tử nên làm lễ quán đỉnh.

Thái tử nói:

– Nay ta đâu dùng lụa của người đời để buộc lên đầu theo phép quán đỉnh. Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi chính pháp vương, chắc hẳn phải có lụa của trời để buộc lên đầu.

Thế là, tự nhiên từ trên trời rơi xuống một tấm lụa rất đẹp. Lễ quán đỉnh được tiến hành, thái tử lên ngôi luân vương[7], có bảy thứ báu xuất hiện tùy lúc thích hợp là: xe, voi, ngựa, ngọc ma-ni, ngọc nữ, quan giữ kho tàng, tướng nắm binh quyền. Vị tân vương có đủ bảy thứ báu như thế, đồng thời, có một nghìn người con trai tướng mạo cực quí, mạnh mẽ, can đảm, có thể chế phục quân địch.

Bấy giờ, có một tòa thành tên Quảng Nghiêm được bao quanh bởi rừng cây rậm rạp mà nhiều người ưa thích. Trong rừng ấy có năm trăm vị tiên nhân đang trú ngụ tu tập năm thứ thần thông. Rất nhiều loài chim trong rừng ấy như cò trắng … thường kêu hót ồn ào, cản trở việc tu định của các tiên nhân. Một vị tiên trong số đó tên là Xú Diện đã nổi giận, đọc thần chú khiến đàn cò trắng gãy cánh. Những con cò gãy cánh nhảy trên mặt đất, từ từ đến cửa cung vua Đỉnh Sinh. Lúc ấy, nhà vua vừa bước ra, nhìn thấy đàn cò ở bên trái cửa cung, bèn hỏi quan cận thần:

– Tại sao đàn cò này tụ hợp ở đây?

Quan cận thần đáp:

– Tâu thiên tử, đàn chim này quần tụ trong rừng kêu hót khiến các tiên nhân tu thiền định phải giật mình. Có một vị tiên nhân nổi giận chú nguyện cho chúng gãy cánh. Sau đó, chúng nhảy trên mặt đất đến tụ hợp ở cửa hoàng cung.

Nhà vua nói:

– Tại sao những tiên nhân ấy không có lòng thương xót chúng sinh? Nay phải ban lệnh đuổi họ mau ra khỏi đất nước ta.

Quan cận thần vâng lệnh đến chỗ các tiên nhân tuyên đọc sắc lệnh của nhà vua. Các tiên nhân đều nghĩ: “Vị Đại vương này hiện đang cai trị bốn đại châu[8], thế lực rất lớn. Chúng ta nên đến trú ngụ trong khu rừng cạnh núi Tu-di”.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lần lượt quán xét và lượng định những nghề nghiệp nên làm của dân chúng. Sau đó, nhà vua đi tuần thú. Đầu tiên, nhìn thấy người cày cấy và gieo hạt trên đồng ruộng, nhà vua hỏi quan hầu cận:

– Những người này đang làm gì?

Quan hầu cận tâu:

– Tâu Thiên tử, những người này đang cày bừa và gieo hạt giống. Hạt giống ấy mọc lớn lên thành cây để nuôi sống họ.

Nhà vua nói:

– Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người đời cày cấy, trồng trọt nuôi mình! Tự nhiên sẽ có hạt giống của trời mọc thành cây.

Nhà vua vừa nói xong, bỗng có hai mươi bảy loại hạt giống từ trên trời rơi xuống. Nhà vua liền hỏi mọi người:

– Nhờ phúc của ai mà được như vậy?

Mọi người đáp:

– Đây là nhờ phúc của thiên tử cũng như của chúng tôi.

Nhà vua lại đi tiếp. Nhìn thấy các nông dân gieo hạt giống cây bông vải, nhà vua hỏi quan cận thần:

– Những người này làm gì thế?

Vị quan đáp:

– Tâu hoàng thượng, họ gieo giống cây bông vải. Khi cây kết trái, họ hái về để lấy bông làm thành những chiếc áo.

Nhà vua nói:

– Ta là thánh vương, nên không cần nhờ người đời trồng giống bông ấy để may áo, mà tự nhiên sẽ có hạt giống bông vải rất đẹp của trời.

Nhà vua vừa nói xong, những hạt bông vải rất quí từ trên trời rơi xuống. Nhà vua hỏi mọi người:

– Nhờ phúc của ai mà được như thế?

Mọi người đáp:

– Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi.

Vua Đỉnh Sinh lại tiếp tục đi. Lần này, nhìn thấy nông dân đang xe chỉ, nhà vua liền hỏi quan cận thần:

– Những người này đang làm gì đấy?

Quan cận thần tâu:

– Tâu thiên tử, họ đang xe bông thành sợi để làm thành những tấm bông vải.

Nhà vua nói:

– Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người đời làm như thế! Tự nhiên ta sẽ có áo bông của trời để dùng.

Nhà vua vừa nói xong, từ trên trời rơi xuống những chiếc áo bông. Nhà vua liền hỏi mọi người:

– Nhờ phúc của ai mà được như thế?

Mọi người đáp:

– Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi.

Nhà vua vẫn tiếp tục đi và lần lượt nhìn thấy nông dân lần lượt dệt ra những chiếc áo bông. Nhà vua hỏi quan cận thần:

– Những người này đang làm gì thế?

Quan cận thần đáp:

– Tâu thiên tử, họ đang lắp đặt khung cửi để dệt áo.

Nhà vua nói:

– Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người dời dệt áo để mặc! Tự nhiên ta sẽ có áo đẹp của trời để mặc.

Nhà vua vừa nói xong, những chiếc áo bông đẹp từ trên trời rơi xuống. Nhà vua liền hỏi mọi người:

– Nhờ phúc của ai mà được như thế?

Mọi người đáp:

– Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi.

Sau khi thấy những việc ấy, vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Phúc của ta hiện nay chưa vang khắp trong nước. Ta đã thống trị Thiệm-bộ châu trên vùng biển phía nam núi Tu-di. Cõi này, bên trong rộng lớn, bên ngoài có hình giống như thùng xe, nhân dân giàu có, an ổn, vui vẻ, các thành thị đều uy nghi, tráng lệ, con người xinh đẹp, đáng mến. Ta có đầy đủ bảy thứ báu: xe, voi, ngựa, ngọc ma-ni, ngọc nữ, thần giữ kho tàng, thần nắm binh quyền. Đồng thời, ta có một nghìn con trai tướng mạo rất khôi ngô, mạnh mẽ và can đảm vô cùng, có thể chế phục quân địch. Sung sướng thay người có thế lực như ta! Hôm nay ta cầu trời tuôn mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung của ta, ngay cả một đồng tiền cũng không lọt ra ngoài cung.

Nhà vua vừa nói xong, trời liền mưa đầy tiền vàng xuống cung vua suốt bảy ngày, không có một đồng tiền vàng nào rơi ngoài cung. Do phúc lực căn lành đã tạo trong đời trước, nhà vua được hưởng quả phúc có thần thông và uy đức như thế. Nhà vua hỏi mọi người:

– Nhờ phúc của ai mà được như thế?

Mọi người đáp:

– Đó là nhờ phúc của thiên tử.

Nhà vua nói:

– Nếu các ngươi nói như trước rằng đây cũng là nhờ phúc của các ngươi thì tại sao bây giờ trời không mưa vàng đầy khắp châu Thiệm-bộ để tất cả nhân dân muốn bao nhiêu vàng đều nhận được cả? Do đó, nên biết phúc nhân đời trước của các ngươi thật bé nhỏ.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia dùng chính pháp cai trị thế gian trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca:

– Có đại châu nào khác để ta cai trị không?

Nhĩ-vũ-ca đáp:

– Trong vùng biển rộng lớn phía đông núi Tu-di có đại châu Thắng Thân, bên trong (tây) rộng lớn, bên ngoài (đông) giống hình bán nguyệt. Nhân dân ở đó giàu có, an ổn, hạnh phúc, đất nước, thành thị rất tráng lệ, con người xinh đẹp, dễ mến. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa.

Vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Cai trị châu Thiêm-bộ này, ta đã được bảy thứ báu, được sum vầy với một nghìn con trai trong cung điện. Nay ta lại nghe nói trong vùng biển phía đông núi Tu-di có châu Thắng Thân, vậy ta phải đến đó giáo hóa”. Vừa nghĩ xong, nhà vua bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh, trong sát-na đã đến châu Thắng Thân. Nhà vua cai trị nhân dân châu Thắng Thân hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh. Nhà vua có thần thông, uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca:

– Có còn đại châu nào khác để ta cai trị nữa không?

Nhĩ-vũ-ca đáp:

– Trong vùng biển phía tây núi Tu-di có đại châu Ngưu Hóa, hình thể trong và ngoài đều tròn và đầy đặn, nhân dân giàu có, an ổn, hạnh phúc, đất nước và thành thị thật xinh đẹp, con người mỹ miều, dễ mến. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa.

Vua Đỉnh Sinh liền suy nghĩ: “Cai trị châu Thiệm-bộ, ta đã được bảy thứ báu, một nghìn người con trai và trời mưa tiền vàng. Ta lại đến cai trị Đông Thắng Thân châu này hàng trăm nghìn năm rồi, nay ta nghe nói ở vùng biển phía tây núi Tu-di còn có châu Ngưu Hóa. Vậy ta phải đến đó giáo hóa”.

Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức binh lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh. Chỉ trong sát-na, nhà vua đã đến tây Ngưu Hóa châu, cai trị nhân dân hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh nơi đó. Nhà vua có thần thông và uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Khi ấy, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca:

– Có còn đại châu nào khác để ta cai trị không?

Nhĩ-vũ-ca đáp:

– Tâu thiên tử, trong vùng biển phía bắc núi Tu-di có đại châu Cu-lô, trong và ngoài (đông và tây) đều vuông vức; nhân dân giàu có, an ổn, hạnh phúc; đất nước và thành thị rất xinh đẹp; con người mỹ miều, dễ mến. Nhân dân ở châu này không ràng buộc ai và cũng không lệ thuộc ai. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa.

Vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Thống trị châu Thiệm-bộ, ta đã được bảy thứ báu, một nghìn con trai và trời mưa tiền vàng. Ta lại đến đông Thắng Thân châu và tây Ngưu Hóa châu, lần lượt cai trị mỗi nơi hàng trăm nghìn năm. Nay lại nghe nói ở vùng biển phía bắc núi Tu-di có châu Cu-lô, vậy ta phải đến đó giáo hóa”. Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung , dẫn theo mười ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh đến bắc Cu-lô châu. Chỉ trong sát-na, nhà vua đã đến cạnh núi Tu-di, nhìn thấy màu đất trắng xóa của châu ấy ở đằng xa, bèn hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca:

– Tại sao đất nơi ấy trắng vậy?

Nhĩ-vũ-ca tâu:

– Tâu thiên tử! Đó là lúa thơm mà người bắc Cu-lô châu ăn. Nó có màu trắng, thơm ngon, tự nhiên mọc lên, chứ không phải do cày cấy, gieo trồng. Hạt lúa ấy dài bằng bốn ngón tay, không có ghim thóc, không có hạt lép, sạch sẽ, trắng tinh, chín đúng thời hạn. Nhân dân ở đó không tốn sức cấy trồng, mà chỉ việc lấy lúa về ăn. Nay đại vương đến đấy cũng nên lấy lúa đó để ăn.

Nhà vua bảo các quan:

– Các khanh có thấy đất đó màu trắng không?

Các quan tâu:

– Vâng, thấy ạ.

Nhà vua nói:

– Đó là lúa thơm mà người bắc Cu-lô châu ăn. Lúa đó màu trắng, thơm ngon, tự nhiên mọc lên, không cần cày cấy, gieo trồng. Hạt lúa ấy dài bốn ngón tay, không có ghim thóc, không có hạt lép, sạch sẽ, trắng tinh, luôn chín đúng thời hạn. Nhân dân ở đó không tốn sức cấy trồng mà chỉ việc lấy lúa về ăn. Các khanh đến đấy cũng nên lấy lúa đó ăn.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh từ phía bắc núi Tu-di nhìn thấy nhiều cây rất đẹp, thân tròn không khuyết lõm, ngắm rất thích, liền hỏi Nhĩ-vũ-ca:

– Đấy là những cây gì?

Nhĩ-vũ-ca đáp:

– Tâu thiên tử! Đấy là bốn loại cây y phục kiếp-ba[9]: màu xanh, vàng, đỏ và trắng. Những cây ấy mọc ra y phục bốn màu rất đẹp. Nhân dân châu Cu-lô, dù nam hay nữ, đều dùng y phục ấy. Khi họ vừa nghĩ đến y phục thì những cành cây ấy liền tự nhiên rủ thấp xuống để họ tùy ý lấy mặc. Nay đại vương đến đó thì cũng phải mặc y phục ấy.

Nghe xong, nhà vua bảo các quan:

– Các khanh có thấy những cây đẹp có thân tròn, không khuyết lõm kia chăng?

Các quan đáp:

– Vâng, thấy ạ.

Nhà vua nói:

– Đó là bốn loại cây y phục kiếp-ba xanh, vàng, đỏ và trắng của nhân dân châu Bắc Cu-lô. Những cây ấy mọc ra y phục bốn màu rất đẹp. Nhân dân ở châu đó, dù nam hay nữ, hễ vừa nghĩ đến y phục thì những cành cây ấy tự nhiên rủ thấp xuống để họ tùy ý lấy mặc. Các khanh đến đó rồi, cũng phải mặc y phục ấy.

Vua Đỉnh Sinh cai trị nhân dân Bắc Cu-lô châu đến hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh. Nhà vua có thần thông, uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca:

– Còn có xứ sở nào khác để ta cai trị không?

Nhĩ-vũ-ca đáp:

– Tâu thiên tử! Không còn xứ sở nào khác được ngài cai trị. Nhưng có cõi trời Ba Mươi Ba, chư thiên tại đó sống lâu, dung mạo xinh đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc, sống an ổn lâu dài trong những tòa lầu gác cao rộng. Vui lắm! Thiên tử nên đến đó chiêm ngưỡng.

Vua Đỉnh Sinh liền nghĩ: “Ta đã cai trị châu Thiêm-bộ kia, có được bảy thứ báu, một nghìn người con trai và trời mưa tiền vàng. Sau đó, ta lại đến Đông Thắng Thân châu, Tây Ngưu Hóa châu. Hiện nay ta đang ở Bắc Cu-lô châu, lại nghe nói có cõi trời Ba Mươi Ba, chư thiên tại đó sống lâu, dung mạo xinh đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc, sống an ổn lâu dài trong những tòa lầu gác cao rộng. vậy ta nên đến đó chiêm ngưỡng”.

Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai. Khi đến bảy ngọn núi vàng phía ngoài núi Tu-di, nhà vua thấy trước tiên là núi Nễ-dân-đạt-la[10]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Kế đó, vua Đỉnh Sinh đến núi Vĩ-na-tinh-kế[11]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau đó, nhà vua đến núi Mã Nhĩ[12]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Kế đó, nhà vua lại đến núi Thiện Kiến. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Kế tiếp, nhà vua

đến núi Khư-nễ-la-ca[13]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hoá trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau đó, nhà vua đến núi Trì Trục[14]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Sau khi đến núi Trì Trục, vua Đỉnh Sinh lại đến núi Trì Song[15]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui tới nơi này.

Núi chúa Tu-di cao hơn mọi núi khác. Phía đông núi chúa này có Đại Thiên vương Trì Quốc ở trong tòa thành cũng tên Trì Quốc. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tường thành đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn đoạn tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành rất phẳng, đẹp và sạch sẽ, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ. Mặt đất mềm dịu như bông, như nỉ, bước chân xuống thì nó hơi lún xuống, nhấc chân lên thì nó trở lại như cũ. Khắp mặt đất cũng được rải một lớp hoa mạn-đà-la của trời ngập đến đầu gối.

Khi có ngọn gió thơm thổi qua, hoa héo bị cuốn đi, và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành ấy đều dài hai trăm năm mươi do-tuần, rộng hai mươi lăm do-tuần, được trải đầy vàng cát và được tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng và treo chuông gió cũng bằng vàng để làm lộ giới. Trong thành có nhiều ao, hồ, nước trong và sạch, đáy có rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng các thứ báu, đáy và các nấc thềm cũng bằng bốn thứ báu. Giữa các ao ấy có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường, cột làm bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, thơm, ngon; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca v.v…có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, hồ, phát ra những âm thanh thú vị: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương. Xung quanh ao còn có nhiều hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết lõm. Giống như người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, rừng cây hoa quả ấy cũng như thế. Lại có nhiều loài chim bay đến đậu và đùa giỡn trên những cây ấy, kêu hót nhiều âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương,… Trong cung đó có cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục đẹp có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ kia vừa nghĩ đến thì y phục liền đến tay họ. Trong cung còn có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn không hầu,… Khi các vị trời nam hay nữ kia vừa nghĩ đến thì tiếng nhạc tự nhiên vang lên. Trong cung cũng có nhiều loài cây trang sức đẹp sinh ra những thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và các món đồ trang sức xinh đẹp khác. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các món đồ trang sức liền đến tay họ. Trong cung cũng có món ăn tô-đà[16] có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống.

Thiên vương Trì Quốc và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế.

Phía nam núi Tu-di có đại thiên vương Tăng Trưởng ở tòa thành cũng tên Tăng Trưởng. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao hồ, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng bốn thứ báu, đáy và các tầng bậc cũng bằng bốn thứ báu. Giữa ao có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng, thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những thức ăn ngon tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương bày biện nhiều thức ăn uống.

Thiên vương Tăng Trưởng và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế.

Phía tây núi Tu-di có đại thiên vương Quảng Mục ở tòa thành cũng tên Quảng Mục. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao, hồ trong sạch, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê, đáy và các bậc thềm cũng bằng bốn thứ báu. Giữa ao có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu- đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lỉnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có thứ cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những món ăn tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống.

Thiên vương Tăng Trưởng và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế.

Phía bắc núi Tu-di có Đại thiên vương Đa Văn ở tòa thành tên A-noa-ca-phược-đế. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao, hồ trong sạch, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê, đáy và các tầng bậc cũng bằng bốn thứ báu. Giữa ao có bốn đài được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có loài cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những cây món ăn tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống.

Thiên vương Đa Văn và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế.

Vua Đỉnh Sinh giáo hóa ở núi Trì Song trải qua hết sáu đời Đế Thích.

Sau đó, nhà vua lại đến bên cạnh núi Trì Song, nơi năm trăm vị tiên đang trú ngụ. Thấy vua Đỉnh Sinh từ xa đến, tiên nhân Xú Diện tức giận nói: “Ông vua ưa chiến tranh kia lại đến đây rồi!”. Ông ta chụm hai bàn tay lại tát nước vào đoàn quân tiên phong của nhà vua để ngăn không cho tiến tới. Bấy giờ, vị thần chỉ huy quân đội bảo các vị tiên: “Nếu người tu hạnh thanh tịnh nổi giận thì không thành tựu được việc gì. Nay vua Đỉnh Sinh là vị vua đại nhân từ, không phải là người các ông có thể dùng thần chú để đối phó”.

Dần dần, vua Đỉnh Sinh đến chỗ các vị tiên. Nhà vua hỏi:

– Người nào ngăn cản không cho đoàn quân tiến tới?

Vị thần chỉ huy quân đội đáp:

– Các vị tiên đã ngăn cản.

Nhà vua nói:

– Các vị tiên này thích cái gì nhất?.

Vị thần chỉ huy quân đội đáp:

– Họ thích nhất tóc bện.

Nhà vua bảo:

– Nay cắt tóc của họ và bắt tất cả theo phò tá ta.

Nhà vua vừa dứt lời, tóc của các vị tiên tự nhiên bị cắt đứt hết, mỗi người tự cầm cung tên vâng lệnh vua làm quân tiên phong. Lúc ấy, ngọc nữ của nhà vua tâu:

– Tâu thiên tử! Các vị tiên này là người tu hành. Xin ngài hãy tha cho họ!

Nhà vua nói:

– Ta đồng ý theo lời của khanh.

Sau đó, các vị tiên ấy nhờ tinh tiến tu nên đều chứng được năm thần thông[17].

Vua Đỉnh Sinh cùng đoàn quân hùng mạnh của mình bay lên không trung tiếp tục tiến tới. Phần chìm trong biển và phần nổi trên mặt biển của núi Tu-di đều bằng tám mươi nghìn do-tuần. Bốn mặt núi đều rộng tám mươi nghìn do-tuần, chu vi ba trăm hai mươi nghìn do-tuần. Mặt đất dưới chân núi toàn bằng vàng và bốn thứ báu rất đẹp. Mặt phía đông toàn bằng pha-lê, mặt phía tây bằng bạc trắng, mặt phía nam bằng lưu li, mặt phía bắc bằng vàng ròng. Bốn phương góc đều có núi: ngọn núi ở phương đông nam dài và rộng đều bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng lưu li, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó; ngọn núi ở phương tây nam dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng pha-lê, thần dạ-xoa Kim Cương ngụ trong đó; ngọn núi ở phương tây bắc dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng vàng ròng, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó; ngọn núi ở phương đông bắc dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó.

Núi Tu-di có bốn tầng. Tầng thứ nhất rộng mười sáu nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Kiên Thủ ở đấy. Tầng thứ hai cao hơn tầng thứ nhất mười nghìn do-tuần, phình rộng tám nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Trì Man ở đấy. Cao hơn đó mười nghìn do-tuần là tầng thứ ba phình rộng bốn nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Thường Kiêu ở đấy. Cao hơn mười nghìn do-tuần nữa là tầng thứ tư phình rộng hai nghìn do-tuần, cũng toàn bằng bốn thứ báu, có Tứ Đại thiên vương ở đấy.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Trên cõi này là nơi ở của các trời Ba Mươi Ba. Lớp nước của nơi đó có các long vương trú ngụ như: Nan-đà, Ô-ba-nan-đà, A-thuyết-đa-lí, Mẫu-tức-lân-na Ma-na-tư, Y-la-bát-đát-la, … Các long vương này sống thọ nhiều kiếp, có sức hộ trì thế gian vô địch, cùng các trời Kiên Thủ, Trì Phát, Thường Kiêu và Tứ Đại thiên vương bảo vệ cõi trời Ba Mươi Ba. Khi a-tu-la đến gây chiến, họ vừa báo động vừa chống trả.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh đem quân tiếp tục tiến tới, nhưng bị các long vương ngăn cản. Nhà vua hỏi:

– Tại sao không tiến lên?

Thần chỉ huy đoàn quân đáp:

– Tâu thiên tử! Đó là do các long vương ngăn cản quân ta.

Nhà vua nói:

– Long vương là loài bàng sinh, không phải là địch thủ của ta. Nay ta khiến họ phải dẫn đường cho ta.

Nhà vua vừa dứt lời, các long vương liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ của Kiên Thủ thiên vương. Thiên vương ấy hỏi:

– Tại sao các ông chạy đến đây?

Các long vương đáp:

– Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên chúng tôi đi trước dẫn đường.

Kiên Thủ thiên vương liền ngăn cản, không cho đoàn quân tiến tới. Vua Đỉnh Sinh hỏi:

– Tại sao đoàn quân không tiến lên?

Thần chỉ huy đoàn quân đáp:

– Tâu thiên tử! Đó là do Kiên Thủ thiên vương ngăn cản quân ta.

Nhà vua nói:

– Ta cũng sẽ khiến trời Kiên Thủ dẫn đường cho ta.

Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ Trì Phát thiên vương. Vị Thiên vương ấy hỏi:

– Tại sao ông chạy đến đây?

Kiên Thủ thiên vương đáp:

– Vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường.

Trì Phát thiên vương liền ngăn cản, không cho đoàn quân tiến tới. Vua Đỉnh Sinh hỏi:

– Tại quân ta không tiến lên?

Thần chỉ huy đoàn quân đáp:

– Tâu thiên tử! Nơi đây có Trì Phát thiên vương đang ngăn cản quân ta.

Nhà vua nói:

– Ta cũng sẽ khiến trời Trì Phát dẫn đường cho ta.

Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho ngài đến chỗ Thường Kiêu thiên vương. Vị Thiên vương ấy hỏi:

– Tại sao ông chạy đến đây?

Thiên vương Trì Phát đáp:

– Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường.

Thường Kiêu thiên vương liền ngăn cản không cho đoàn quân tiến. Vua Đỉnh Sinh hỏi:

– Tại sao quân ta không tiến lên?

Thần chỉ huy đoàn quân đáp:

– Tâu Thiên tử! Nơi đây có Thường Kiêu thiên vương ngăn cản quân ta.

Nhà vua nói:

– Ta nay cũng sẽ khiến trời Thường Kiêu dẫn đường cho ta.

Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ của Tứ Đại thiên vương. Các Đại thiên vương hỏi:

– Tại sao ông chạy đến đây?

Thường Kiêu thiên vương đáp:

– Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường.

Lúc ấy, Tứ Đại thiên vương bàn với nhau: “Vị vua cõi người ấy có đủ phúc đức lớn, danh tiếng lẫy lừng. Chúng ta đâu thể chống lại được”. Bàn như thế xong, họ cùng nhau đến chỗ của Đế Thích thiên chủ trình bày rõ sự tình trên. Đế Thích thiên chủ nói:

– Vị vua phúc đức to lớn này có tiếng tăm lẫy lừng, ta cũng không thể chống lại được.

Nói xong, Đế Thích thiên chủ liền ôm bình át-già[18] đến cung kính đón rước vua Đỉnh Sinh.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh nhìn thấy từ xa một khu rừng rậm rạp trên núi Tu-di, cây cối mọc dày đặc một màu xanh đen, vươn thẳng lên như vầng mây lơ lửng trên cao tuyệt đẹp, liền hỏi thần dạ-xoa Nễ-vũ-ca:

– Rừng cây phía trước kia là rừng cây gì?

Nễ-vũ-ca đáp:

– Tâu thiên tử! Đó là những cây ba-lợi-chất-đa và cây câu-tì-đà-la của cõi trời Ba Mươi Ba. Vào tháng tư đầu mùa hạ, thiên chúng của cõi trời đó đến vui đùa, hưởng thú vui ngũ dục thoải mái dưới tán rừng cây ấy. Nay Ngài cũng nên đến đó vui chơi.

Nghe tâu thế, nhà vua bảo các quan:

– Các khanh thấy rừng cây ở phía trước xanh rì như đám mây kia chăng?

Các quan đáp:

– Vâng, thấy ạ.

Nhà vua nói:

– Đó là những cây ba-lợi-chất-đa và cây câu-tì-đà-la ở cõi trời Ba Mươi Ba. Vào tháng tư bắt đầu mùa hạ, thiên chúng cõi đó đến vui đùa, hưởng thú vui ngũ dục thoải mái dưới tán rừng cây ấy. Các khanh đến đó cũng nên vui chơi như thế.

Vua Đỉnh Sinh tiếp tục tiến tới, thấy trên đỉnh núi Tu-di có đám mây trắng tụ cao như ngọn núi, liền hỏi Nễ-vũ-ca:

– Đám mây trắng tụ cao như ngọn núi kia là gì thế?

Nễ-vũ-ca đáp:

– Tâu thiên tử! Đấy là Thiện Pháp đường của cõi trời Ba Mươi Ba. Các thiên tử và Tứ Đại thiên vương thường hội hợp ở đó để suy xét và đánh giá mọi việc của trời và người trong thế gian. Nay thiên tử nên đến đó.

Nhà vua liền bảo các quan:

– Các khanh có thấy đám mây trắng tụ cao như ngọn núi kia chăng?

Các quan đáp:

– Vâng, thấy ạ.

Nhà vua nói:

– Đó là Thiện Pháp đường của cõi trời Ba Mươi Ba. Các thiên tử của cõi trời ấy và Tứ Đại thiên vương thường cùng nhau hội hợp ở đó để suy nghĩ, quan sát và đánh giá mọi việc của trời và người trong thế gian. Nay các khanh nên đến đó.

Thêm nữa, trong cõi trời Ba Mươi Ba trên đỉnh núi Tu-di có tòa thành Thiện Kiến dài và rộng đều bằng hai nghìn năm trăm do-tuần, chu vi mười nghìn do-tuần. Thành ấy có bảy lớp, mỗi lớp đều cao một phẩy năm do-tuần, toàn bằng vàng. Trên mặt mỗi thành đều có bốn bức tường nhỏ thấp bằng vàng, bạc, lưu li và pha-để-ca. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Hoa trời mạn-đà-la rải khắp mặt đất ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn hết hoa héo đi và trời lại mưa hoa mới xuống. Thành Thiện Kiến có một nghìn không trăm lẽ một cửa, mỗi cửa dài hai phẩy năm do-tuần, rộng không phẩy năm do-tuần đều làm bằng gỗ hương ngưu-đầu-chiên-đàn, và đều được trang trí bằng những hình ngôi sao và hình bán nguyệt bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu li, pha-lê xen đổi nhau. Tại mỗi cửa thành đều có năm trăm dạ-xoa mặc áo xanh, mang giáp trụ đứng bảo vệ và giúp các thiên tử cõi trời Ba Mươi Ba làm các việc lợi ích. Các đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng mười hai do-tuần, được trang trí rất đẹp, được trải vàng cát và rưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường phố có giăng dây vàng, treo chuông gió để làm lộ giới. Trong thành còn có nhiều ao nước rất sạch, đáy có rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài bằng các thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen đổi nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài cây hoa và trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng tóc, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Trong thành có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các món trang sức tự nhiên đến tay họ. Lại có những thức ăn có vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế.

Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía đông có khu vườn tên Bảo Xa, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tường bao quanh vườn đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt tường có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Bảo Xa có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng tóc, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp thành có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên cây chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, … Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Bảo Xa? Vì vườn ấy có ao hồ đẹp, nhiều cây cối và hoa trái, có những cây y phục và cây đồ trang sức, các vị trời nữ đều dùng các thứ báu để trang sức, lại có xe báu để các thiên tử cưỡi đi dạo chơi.

Cách vườn Bảo Xa hai mươi do-tuần về phía đông có khu đất Bảo Nghiêm dài và rộng đều hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi đó mềm dịu, sạch sẽ, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và rải đầy hoa trời mạn-đà-la. Có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp; có những con đường dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần rất sạch và đẹp; có đủ loại cây hoa, trái, y phục, đồ trang sức. Cũng có xe báu, hễ các vị trời vừa nghĩ thì nó liền tự nhiên đến để họ đi dạo chơi vui vẻ. Nơi đó có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh.

Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía nam có khu vườn Thô Kiên dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều hoành tráng, lộng lẫy, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Thô Kiên có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, … Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Thô Kiên? Vì tất cả ao nước, cây cối, hoa trái, y phục, đồ trang sức và các trời nữ đều thô và cứng, ngay cả các thiên tử trong vườn ấy cũng có thân và tâm thô tháo, thích đánh nhau.

Cách vườn Thô Kiên hai mươi do-tuần về phía nam có khu đất Thô Kiên, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức. Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh.

Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía tây, có khu vườn Tạp Chủng, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều hoành tráng, xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Tạp Chủng có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió bằng vàng và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức,… Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Hễ các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Tạp Chủng? Vì vườn này có nhiều ao, nhiều loại cây cối, hoa, trái, y phục, đồ trang sức, nhiều thiên nữ, các thiên tử đến vườn này thưởng thức nhiều thú chơi vui vẻ.

Cách vườn Tạp Chủng hai mươi do-tuần về tây, có khu đất Tạp Chủng, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức. Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh.

Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía bắc, có khu vườn Hoan Hỉ, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghiêm, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Hoan Hỉ có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương,… Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu,… Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió bằng vàng và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, … Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Hễ các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Hoan Hỉ? Vì vườn này có ao đẹp, có nhiều loại cây cối, hoa, trái, cây y phục và cây trang sức, … , các vị trời nam và nữ thường tùy ý chơi đùa, tùy theo phúc lực mà tâm được sung sướng, vui vẻ.

Cách vườn Hoan Hỉ hai mươi do-tuần về phía bắc, có khu đất Hoan Hỉ, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức… Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập Phạm hạnh.

Phía đông bắc thành Thiện Kiến có cây ba-lợi-chất-đa-câu-tì-đà-la. Rễ cây ấy khoanh tròn rộng đến năm mươi do-tuần, mỗi cành dài hơn năm mươi do-tuần: cành thứ nhất vươn dài về phía đông hơn năm mươi do-tuần, cành thứ hai vươn về phía nam dài hơn năm mươi do-tuần, cành thứ ba vươn về phía tây dài hơn năm mươi do-tuần, cành thứ tư vươn về phía bắc dài hơn năm mươi do-tuần, cành ở giữa vươn thẳng lên không trung cao hơn năm mươi do-tuần. Cây ấy cao một trăm năm mươi do-tuần, đường kính năm mươi do-tuần, chu vi ba trăm do-tuần. Mùi thơm của nó thuận gió thì lan xa đến mọt trăm do-tuần, nghịch gió thì lan xa được năm mươi do-tuần, ánh sáng toả chiếu xa đến tám mươi do-tuần, cành, lá, hoa, quả trổ và rụng đúng thời điểm. Khi thấy cây ấy trổ bán-noa-bát-la-thâu, tất cả chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba đều vui mừng, rủ nhau đến chơi đùa nơi gốc cây ấy.

Ít lâu sau, lại thấy nó trổ thi-lan-noa-bát-la-thâu, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ nhã-la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ cốt-châm-ma-la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ ca-ca-tả-cát-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy cây ấy nở đầy hoa, hương thơm tỏa khắp nơi, các vị trời ấy rất vui mừng, tụ tập nơi gốc cây, thoải mái thưởng thức các thú vui ngũ dục suốt bốn tháng mùa hạ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Nhờ uy lực phúc đức của cõi trời Ba Mươi Ba, nên cây ba-lợi-chất-đa-la-câu-tì-đà-la có đặc tính lạ và quí như thế. Dưới bóng cây ấy là vùng đất Tạp Sức dài và rộng đều năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, rất đẹp, đáng ngắm nhìn, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, sạch sẽ, mềm mại như bông, như nỉ, hơi lún khi dẫm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên, được rải đầy hoa trời mạn-đà-la. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo, và trời lại mưa hoa mới xuống. Giữa khu đất ấy, có bày một cái ngai bằng vàng ròng rất đẹp. Đế Thích thiên chủ ngồi trên đó, các thiên tử cõi trời Ba Mươi Ba cùng tụ tập đến để tự do hưởng thú vui ngũ dục trong bốn tháng mùa hạ.

Ngoài ra, xung quanh còn có nhiều loài hoa, cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo kết tóc thành vòng, cây cối và hoa trái cũng như thế. Chim chóc thường bay đến tụ tập trên những cây ấy kêu hót những âm thanh rất hay. Còn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Lại có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hợp lại đánh trống, tấu nhạc, ca hát, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc thoải mái vui đùa, thưởng thức các thú vui ngũ dục suốt bốn tháng mùa hạ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế.

Cõi trời Ba Mươi Ba có con voi chúa lớn tên Ái-la-phạ-noa chuyên bảo vệ vườn cây. Nó có thân hình đáng chiêm ngưỡng: toàn một màu trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà[19]; bảy chi chống đất; đầu tuyệt đẹp, trong đỏ ngoài xanh như màu ngọc Đế thanh[20]; có sáu ngà; thân dài hai do-tuần; phần mặt và mông phẳng, rộng một do-tuần, chu vi thân bảy do-tuần, cao một phẩy năm do-tuần. Voi chúa có tám nghìn con voi thân thuộc, mỗi con đều có thân trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất, đầu đẹp và màu xanh như ngọc Đế thanh, có sáu ngà. Hễ khi các vị trời ấy vừa có ư muốn đi thưởng ngoạn các vườn cây, voi chúa Ái-la-phạ-noa liền tự biết, bèn dùng thần lực hiện ra thêm ba mươi hai đầu, mỗi đầu có sáu chiếc ngà; trên mỗi chiếc ngà có bốn mươi chín cái ao, mỗi ao có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi hoa có bốn mươi chín cái đài, trong mỗi đài có bốn mươi chín căn lầu gác, trong mỗi căn lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, mỗi người bảo vệ có bốn mươi chín thiên nữ, mỗi thiên nữ có bốn mươi chín người hầu gái, mỗi người hầu gái đánh bốn mươi chín chiếc trống trời. Đế Thích cưỡi trên cái đầu đẹp nhất của voi chúa, ba mươi hai vị thiên chủ lần lượt ngồi trên ba mươi hai cái đầu mới hiện ra, các vị trời khác ngồi trên phần thân còn lại của voi chúa. Voi chúa đi nhanh như gió thổi, nên các vị trời nam và nữ đều không thể nhìn thấy phía trước và phía sau. Voi chúa Ái-la-phạ-noa chở các vị trời đi khắp cơi trời Ba Mươi Ba, ra khỏi mỗi thành hoặc đến mỗi vườn đều dùng sức thần thông biến hóa khiến thân hình mình thành tướng uy nghi, phúc đức và thần thông như các vị trời nam hay nữ. Nó cùng các vị trời ấy thoải mái chơi đùa, hưởng thú vui ngũ dục, tùy theo phúc lực mà hưởng quả báo tốt đẹp như thế.

Phật bảo:

– Đại vương! Voi Ái-la-phạ-noa bảo vệ các vườn cây trên cơi trời Ba Mươi Ba có uy lực như thế.

Phía tây nam thành Thiện Kiến có Thiện Pháp đường dài ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi chín chục nghìn do-tuần, cao ba trăm năm mươi do-tuần, thật tráng lệ đáng ngắm nhìn, làm bằng pha-lê; lầu gác và bậc thềm cũng bằng pha-lê. Nơi đây có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Những con đường chạy vòng quanh Thiện Pháp đường đều sạch sẽ, khắp trên mặt được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn, giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Hai bên đường có nhiều loài hoa, trái, cây cối mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo kết tóc thành vòng, cây cối và hoa trái ấy cũng như thế. Nhiều loài chim thường bay đến tụ tập trên những cây ấy kêu hót những âm thanh rất hay. Còn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu,… Lại có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng. Cũng có bốn thứ nước uống ngon ngọt là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thứ ấy liền tự nhiên đến tay họ. Nơi đó có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hợp lại đánh trống, tấu nhạc, ca hát, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế.

Bên cạnh Thiên Pháp đường có bảy cái ao, mỗi ao đều sâu và rộng một do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn bậc thềm quanh các ao cũng đều bằng bốn thứ báu, giữa mỗi ao có bốn đài báu làm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt và các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay. Nơi đó có nhiều loài hoa trái, cây cối, có đủ các cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức,… Giữa bảy ao ấy còn có nhà thủy tạ rất xinh đẹp để các vị trời đến chơi đùa vui vẻ.

Cổng của Thiện Pháp đường đẹp và uy nghi, trên đó có căn gác nhiều tầng, bên cạnh là các bậc thềm xinh đẹp, mỗi bậc thềm có mười sáu bậc. Có bảy lớp đường chạy vòng quanh Thiện Pháp đường, tất cả đều sạch sẽ, ven đường có những cây trụ hình bát giác bằng lưu li, trên đó dựng rất nhiều lầu gác xinh đẹp mà không cản trở nhau. Trong Thiện Pháp đường có một cái tòa tuyệt đẹp bằng vàng rất đẹp dành cho Đế Thích thiên chủ ngồi. Các tòa còn lại được sắp theo thứ tự dành cho các vị trời khác, phía sau cùng có đặt một tòa dành cho vua Đỉnh Sinh.

Bấy giờ, Đế Thích và các vị trời bưng bình át-già đi đón vua Đỉnh Sinh. Vua Đỉnh Sinh và các vị có uy đức lớn theo thứ tự bước vào Thiện Pháp đường, đoàn người tùy tùng còn lại đều ở bên ngoài. Nhà vua nghĩ: “Nay ta nên ở nơi đây. Nếu Đế Thích thiên chủ chia nửa tòa cho ta cùng ngồi thì vui biết bao!”.

Đức Phật nói:

– Khi vua vừa Đỉnh Sinh nghĩ như thế, Đế Thích biết ngay, bèn chia nửa tòa và bảo vua Đỉnh Sinh cùng ngồi.

Vua Đỉnh Sinh và Đế Thích thiên chủ cùng ngồi chung tòa, hình tướng, dung mạo, cử chỉ, uy quang, tiếng nói và vật trang sức đều giống nhau, chỉ khác nhau khi chớp mắt.

Đại vương! Vua Đỉnh Sinh ở cõi trời Ba Mươi Ba trải qua hết sáu đời Đế Thích như thế. Về sau, các vị trời ấy đánh nhau với a-tu-la; nếu quân a-tu-la thua chạy thì rút về cung của mình khóa cửa ẩn trốn; nếu các vị trời thua thì cũng tự lui về cung trời khóa cửa ẩn trốn.

Cõi trời Ba Mươi Ba có con voi chúa tên Thiện Trụ. Nó có thân hình rất đáng ngắm nhìn: thuần một màu trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất. Đầu nó, trong đỏ, ngoài xanh như màu của Đế Thanh, có sáu ngà. Thân voi chúa dài hai do-tuần, phần mặt và mông đều phẳng và rộng một do-tuần, chu vi thân bảy do-tuần, cao một phẩy năm do-tuần. Voi chúa có tám nghìn voi thân thuộc, tất cả đều trắng như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất, cũng có đầu xanh như màu Đế Thanh, có sáu ngà. Trong bốn tháng mùa đông voi chúa Thiện Trụ và quyến thuộc trú ngụ bên cạnh chỗ ở của a-tu-la.

Cách núi Hương Túy hai mươi do-tuần về phía bắc, gần chỗ ở của a-tu-la có một cái gò bằng vàng ròng, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, cao ba phẩy năm do-tuần. Khắp mặt đất nơi đó được trải toàn vàng cát và được tưới nước hương chiên-đàn. Nơi đó cũng có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, mặt đất tự nhiên sạch hết gai góc, cát sỏi. Xung quanh cái gò cao ấy có tám nghìn gò nhỏ cũng bằng vàng, cũng trải vàng và tưới nước hương chiên-đàn khắp mặt đất, cũng có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, tự nhiên sạch hết gai góc và cát sỏi. Những con đường nơi đó đều dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần, phẳng, đẹp và sạch sẽ. Khi voi chúa Thiện Trụ trú ngụ ở cái gò cao kia suốt trong bốn tháng mùa hạ, tám nghìn con voi quyến thuộc cũng đến ở xung quanh để ngầm bảo vệ voi chúa.

Cách gò cao ấy hai mươi do-tuần về phía nam có bảy hàng cây chúa sa-la to lớn tên Thiện Trụ. Những cây sa-la khác đều mọc khắp xung quanh nó. Bộ rễ của cây chúa Thiện Trụ có đường kính khoảng mười bốn gang tay, rễ của hàng cây thứ nhất có đường kính mười ba gang tay, rễ của hàng cây thứ hai có đường kính mười hai gang tay, rễ của hàng cây thứ ba có đường kính mười một gang tay, rễ của hàng cây thứ tư có đường kính mười gang tay, rễ của hàng cây thứ năm có đường kính chín gang tay, rễ của hàng cây thứ sáu có đường kính tám gang tay, rễ của hàng cây thứ bảy có đường kính bảy gang tay. Cành lá của cây chúa Thiện Trụ um tùm, rậm rạp phủ lên hàng cây thứ nhất; cành lá của hàng cây thứ nhất lại phủ lên hàng cây thứ hai,… Cứ như thế, hàng cây thứ ba cho đến hàng cây thứ sáu theo thứ tự phủ lên nhau, cành lá của hàng cây thứ bảy rất sum suê, cao vút trên không trung. Mặt đất nơi đó phẳng và đẹp, đáng ngắm nhìn. Các con đường nơi đó dài hai mươi do-tuần, rộng một phẩy do-tuần, cũng đều sạch sẽ.

Khi từ chỗ ở của mình đi đến chỗ cây chúa Thiện Trụ, voi chúa Thiện Trụ hoặc giữ nguyên hình mà đi một cách thoải mái, hoặc dùng sức uy đức thần thông hiện thành thân người hay trời, cưỡi trên đầu hoặc trên vai một con voi. Tự nhiên trên không trung vang lên tiếng trống và tiếng ca hát mỗi khi voi chúa dạo chơi. Khi voi chúa nghỉ ngơi ở chỗ cây chúa kia, tám nghìn con voi quyến thuộc của nó nghỉ ngơi trong bóng của bảy hàng cây sa-la. Chúng ở trong bóng của hàng cây thứ hai, thứ ba, cho đến hàng cây thứ bảy cũng giống như ở hàng cây thứ nhất, tất cả đều ngầm bảo vệ coi chúa.

Cách chỗ cây sa-la chúa Thiện Trụ hai mươi do-tuần về phía đông có một cái ao lớn tên Mãn-đà-kết-nễ dài và rộng đều năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần; lúc nào cũng đầy nước sạch, mát, ngọn, ngọt; các loài hoa ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca phủ khắp mặt nước. Nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương. Hoa sen mọc trong ao đều lớn như bánh xe, cuống hoa lớn như trục xe, lá đẹp và to như cổ của bò chúa, còn củ tròn to như đùi đàn ông và có vị rất ngọt như sữa. Xung quanh ao lớn ấy còn có tám nghìn cái ao nữa, cũng đều đẹp, luôn đầy nước và hoa sen đẹp, thường có các loài thủy cầm bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, cuống hoa, lá và củ rễ đều to lớn. Những con đường quanh đó đều dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần, phẳng, đẹp và sạch sẽ. Khắp mặt đường được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn, hai bên đường có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, tự nhiên luôn luôn sạch gai góc, cát sỏi.

Khi từ chỗ cây chúa sa-la Thiện Trụ đi đến ao Mãn-đà-kết-nhĩ kia, voi chúa Thiện Trụ hoặc giữ nguyên hình của mình mà đi thoải mái, hoặc dùng sức thần thông hiện thành thân người hay trời cưỡi trên đầu hoặc trên vai voi. Tự nhiên trên không trung vang lên tiếng trống và tiếng ca hát mỗi khi voi chúa đi dạo chơi. Khi voi chúa vui đùa trong ao ấy, tám nghìn con voi quyến thuộc cũng vây quanh đó ngầm bảo vệ voi chúa.

Vui đùa thoải mái trong ao ấy xong, voi chúa Thiện Trụ nằm nghỉ bên bờ ao. Bấy giờ, con voi đứng đầu số tám nghìn voi kia mới vào trong ao lấy mầm rễ sen, rửa sạch, rồi dâng đến trước mặt cho voi chúa ăn. Sau khi voi chúa ăn đã no, những con voi thuộc hạ mới theo thứ tự vào trong ao vui đùa thoải mái, rồi cũng lấy những mầm rễ sen, rửa sạch và ăn.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Voi chúa Thiện Trụ ở cõi trời Ba Mươi Ba có uy lực như thế.

Về sau, a-tu-la trang bị chỉnh tề bốn đạo quân: tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh. Quân lính đều mặc bốn thứ giáp trụ cứng chắc bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê rất đẹp, cầm bốn thứ binh khí sắc bén: cung tên, kiếm, thương và đao, ra khỏi cung điện a-tu-la tiến đánh trời Ba Mươi Ba. Lúc ấy, nhìn thấy bốn đạo quân a-tu-la kia mặc giáp trụ, cầm binh khí ra khỏi cung a-tu-la tiến đánh trời Ba Mươi Ba, Thủy Cư long vương cũng huy động bốn đạo quân mặc giáp trụ bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp, cầm binh khí tiến đánh quân a-tu-la. Nếu long vương thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu a-tu-la thắng thì binh lực thứ nhất bảo vệ trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ biển cả tiến đến tầng thứ nhất của núi Tu-di, nơi ở của Kiên Thủ thiên vương. Thế rồi, quân a-tu-la đã thắng …

Bấy giờ, Kiên Thủ thiên vương liền hợp sức với Thủy Cư long vương đánh quân a-tu-la kia. Nếu lực lượng bảo vệ thứ hai thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng thì lực lượng bảo vệ thứ hai của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ nhất của núi Tu-di tiến lên tầng thứ hai, nơi ở của Trì Man thiên vương. Rồi, quân a-tu-la đã thắng .

Khi ấy, Trì Man thiên vương hợp sức với Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long mình. Nếu quân a-tu-la thắng thì lực lượng bảo vệ thứ ba của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ hai của núi Tu-di tiến lên tầng thứ ba, nơi ở của Thường Kiêu thiên vương. Thế rồi, quân a-tu-la đã thắng …

Bấy giờ, Thường Kiêu thiên vương liền hợp sức với Trì Man thiên vương, Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long vương chiến đấu chống quân a-tu-la. Nếu lực lượng bảo vệ thứ tư của trời Ba Mươi Ba thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng, tức binh lực bảo vệ thứ tư của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ ba của núi Tu-di tiến lên tầng thứ tư, nơi ở của Tứ Đại thiên vương. Và rồi, quân a-tu-la đã thắng …

Tứ Đại thiên vương liền hợp sức với Thường Kiêu thiên vương, Trì Man thiên vương, Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long vương chiến đấu chống quân a-tu-la. Nếu lực lượng thứ năm bảo vệ trời Ba Mươi Ba thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng, tức binh lực bảo vệ thứ năm tan rã thì quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ tư của núi Tu-di tiến đến nơi ở của Đế Thích. Cuối cùng, quân a-tu-la đã thắng, lực lượng thứ năm liền chấn chỉnh bốn binh chủng, kéo đến để xin Đế Thích ra quân chiến đấu.

Sau khi đến cung Đế Thích, Tứ Đại thiên vương tâu:

– Thưa Thiên chủ! A-tu-la đã kéo bốn binh chủng đến gây chiến, năm đạo binh bảo vệ của các trời đã bị phá tan, nay chạy đến chỗ Thiên chủ đây. Thế giặc kia rất mạnh mẽ, chúng tôi không thể ngăn nổi. Nay xin Thiên chủ xuất quân đánh.

Nghe xong, Đế Thích thiên chủ bảo các trời Ba Mươi Ba:

– Các nhân giả nên biết, quân a-tu-la rất mạnh và hiếu chiến, năm đạo quân bảo vệ đã tan rã chạy đến đây xin ta đánh a-tu-la. Nay các nhân giả nên dũng cảm!

Đế Thích thiên chủ lại nghĩ: “Bây giờ ta phải cưỡi voi chúa Thiên Trụ”. Đang ẩn mình ở châu Thiêm-bộ, biết được ý nghĩ của Thiên chủ, voi chúa Thiện Trụ chỉ trong khoảnh khắc đã đến cõi trời Ba Mươi Ba. Nó hiện ra thêm ba mươi hai cái đầu, mỗi đầu đều có sáu ngà, trên mỗi ngà có bốn mươi chín cái ao, mỗi cái ao có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi hoa sen có bốn mươi chín cái đài, trong mỗi cái đài có bốn mươi chín căn lầu gác, trong mỗi căn lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, cạnh mỗi người bảo vệ có bốn mươi chín thiên nữ, mỗi thiên nữ có bốn mươi chín thị nữ, mỗi thị nữ đánh bốn mươi chín cái trống. Đế Thích cưỡi trên cái đầu đẹp nhất, ba mươi hai vị thiên vương kia theo thứ tự cưỡi trên ba mươi hai cái đầu mới hiện ra, các vị trời còn lại tùy ý cưỡi trên các phần thân khác của voi chúa. Voi chúa đi nhanh như gió cuốn, các vị trời nam và nữ đều không nhìn thấy được phía trước và phía sau. Thường thường sau khi đến cõi trời Ba Mươi Ba, voi chúa Thiện Trụ ra cửa Nam đến vườn Thô Kiên, dùng thần lực hiện thành thân người hoặc thân trời, cùng chơi đùa vui vẻ với các vị trời. Nhưng lúc này, Đế Thích thiên chủ cưỡi voi chúa, ra lệnh bốn binh chủng sửa soạn chỉnh tề, mặc giáp trụ bằng bốn thứ báu rất đẹp, cầm bốn thứ khí giới bén nhọn để chiến đấu chống quân a-tu-la. Thấy thế, vua Đỉnh Sinh bảo Đế Thích:

– Nay Ngài hãy khoan xuất quân. Tôi muốn đọ sức với quân a-tu-la.

Thiên chủ đáp:

– Vậy nay chính là lúc Ngài có thể làm theo ý muốn.

Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh cùng mười tám ức binh tướng hùng mạnh bay lên không trung, kéo dây cung bật ra tiếng kêu nhanh và mạnh. Nghe thấy tiếng kêu ấy, quân a-tu-la hỏi:

– Đó là tiếng tên bắn của ai?

Có người hiểu biết liền đáp:

– Đó là tiếng tên bắn của vua Đỉnh Sinh.

A-tu-la vương thầm kinh ngạc trước phép bắn tên như thế. Quân a-tu-la đang đánh nhau với các trời, lực lượng hai bên cân bằng, không bên nào thêm bớt gì. Nay vua Đỉnh Sinh vừa xuất binh, thế hùng mạnh hơn quân a-tu-la, đã bay ngay lên không trung, cho nên a-tu-la nghĩ: “Từ lâu ta đã nghe danh vua loài người tên Đỉnh Sinh là vị chính sĩ[21] dũng mãnh, có phúc đức và uy lực lớn, không ai sánh bằng, có thể bay cao trong không trung hơn chúng ta”. Nghĩ thế rồi, quân a-tu-la khiếp sợ, liền rút lui về cung của mình.

Lúc ấy, vua Đỉnh Sinh hỏi các tướng:

– Nay quân nào thắng?

Các tướng đáp:

– Nay đại vương đã thắng.

Nhà vua liền nghĩ: “Ta mạnh hơn cả trời Ba Mươi Ba. Ta đã cai trị các châu Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng Thân, Tây Ngưu Hóa và Bắc Cu-lô, có đủ bảy thứ báu, có một nghìn con trai tướng mạo cực quí, can đảm, mạnh mẽ có thể hàng phục quân địch, đã được trời mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung. Nay ta đến cõi trời Ba Mươi Ba, vào cung Đế Thích, được ngồi nửa tòa của Đế Thích trong Thiện Pháp đường. Nếu Đế Thích thiên chủ qua đời khi đang ở trên tòa này, ta sẽ làm vua cõi trời lẫn cõi người. Trở thành bậc tôn quí trong cõi trời và cõi người sao lại chẳng khoái!”

Vừa dấy lên ý nghĩ như thế, nhà vua liền mất hết thần thông và uy lực, bị rơi trở về cung điện của mình ở châu Thiêm-bộ, lại bị bệnh tật và buồn khổ hành hạ, thân thể gầy yếu sắp chết. Trong số các cận thần lúc ấy có một vị đại quan cao tuổi đến trước mặt nhà vua tâu:

– Tâu thiên tử! Nếu sau này có người hỏi về thời vua Đỉnh Sinh sắp qua đời thì nên đáp thế nào?

Nhà vua nói:

– Sau khi ta qua đời, nếu có người hỏi như thế thì ngươi nên đáp: “Đại vương Đỉnh Sinh là bậc rất tôn quí và uy đức, có đủ bảy báu và đủ bốn thứ thần lực. Bốn thứ thần lực ấy là gì? Đại vương Đỉnh Sinh có tuổi thọ rất cao, sống ở thế gian trải qua hết một trăm mười bốn đời Đế Thích. Đó là thần lực thứ nhất về tuổi thọ. Đại vương Đỉnh Sinh có dung mạo tuấn tú tột bậc, quí hơn tướng mạo của loài người, có đủ tướng mạo của trời, đáng chiêm ngưỡng. Đó là thần lực thứ hai về tướng mạo. Đại vương Đỉnh Sinh còn được hưởng thụ đầy đủ mọi thứ, ít bệnh, ít buồn khổ, thân thể khỏe mạnh, ăn uống tiêu hóa tốt, không lạnh không nóng, thuận theo thời tiết, luôn tự điều chỉnh để được an vui. Đó là thần lực thứ ba về sự không bệnh. Đại vương Đỉnh Sinh lại được tất cả mọi người ưa thích chiêm ngưỡng, không chán như con nhìn cha. Đại vương chăm sóc và vỗ về nhân dân, như cha thương con, khiến họ được vui vẻ. Khi đi ngắm vườn hoa, Đại vương luôn bảo người đánh xe nên cho xe đi từ từ để mọi người được chiêm ngưỡng. Dân chúng còn bảo người đánh xe: “Ngài ơi! Hãy giong xe đi từ từ để chúng tôi đi theo ngắm tướng quí và vẻ đẹp của Đại vương”. Đó là thần lực thứ tư về sự yêu mến. Đại vương Đỉnh Sinh là vị vua tối cao cai trị bốn Đại châu, về sau nhà vua đến cõi trời Ba Mươi Ba, được Đế Thích chia nửa tòa báu. Tuy được đầy đủ những việc như thế, nhưng nhà vua vẫn không chán thú vui ngũ dục. Lúc sắp qua đời, vua Đỉnh Sinh đọc kệ:

Khổ thay cảnh tham dục thế gian!

Vàng bạc tuy nhiều, vẫn không chán,

Nơi đó vui ít, khổ lại nhiều,

Người trí thường nên hiểu biết rõ.

Ngay cả dục lạc trên cõi trời,

Do lòng ham muốn, chẳng giải thoát.

Người nào tát cạn được nguồn ái?

Chỉ Thánh đệ tử của Phật thôi!

Giả sử chứa thật nhiều vàng ròng,

Bằng cả ngọn núi chúa Tu-di,

Cũng chẳng ai thấy đủ trong lòng,

Người trí khéo hiểu được như thế.

Ai biết ham muốn là nhân khổ,

Đối với cảnh dục nào muốn ham,

Tham ái, mối lo của thế gian,

Người trí khéo biết nên chế ngự,

Đức Phật nói:

– Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia vì nhân duyên ấy nên lại nói rằng cho đến lúc chết người đời ít ai có thể hiểu rõ và biết đủ cảnh ngũ dục, cũng rất nhiều người không thể hiểu và không thấy chán cảnh ngũ dục.

Thế rồi, vì muốn người đời sau được nhiều lợi ích, vua Đỉnh Sinh nói kệ:

Lưu chuyển trong sinh tử cùng khổ,

Tuổi thọ, nên biết, cũng giảm đi,

Phải nên chóng tu các thiện phúc,

Chẳng tu phúc sẽ chịu đau khổ,

Nên tu phúc là ham muốn tốt,

Cần phải bố thí đúng pháp nghi,

Đời này và cả những đời sau,

Nhờ tu phúc nên thường được vui.

Bấy giờ, hàng trăm ngàn dân chúng nghe tin nhà vua lâm bệnh, tất cả đều đến thăm hỏi. Vua Đỉnh Sinh liền giảng đầy đủ cách đối trị các chướng duyên như tham dục, … như thế cho dân chúng nghe và bảo họ nên từ bỏ gia đình để học đạo. Lúc ấy, vô số người nghe xong liền xuất gia tu bốn Phạm hạnh[22], cũng vô số người dứt sạch tham dục, sinh vào trời Phạm Thế.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia, từ lúc còn là trẻ con đến lúc làm thái tử, rồi làm Chuyển luân vương cai trị bốn đại châu: Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng Thân, Tây Ngưu Hóa, Bắc Cu-lô, đến ở Thất Kim sơn, rồi lại đến cõi trời Ba Mươi Ba, đã trải qua hết một trăm mười bốn đời Đế Thích. Đại vương nên biết, một trăm năm ở thế gian bằng một ngày một đêm ở cõi trời Ba Mươi Ba. Ở cõi trời này, một tháng cũng có ba mươi ngày đêm, một năm cũng có mười hai tháng, cho nên, trời Đế Thích thọ một nghìn tuổi của trời, tính ra, bằng ba cu-chi sáu trăm vạn tuổi ở thế gian.

Ngoài ra, đại vương, ngày xưa lúc ở cõi trời Ba Mươi Ba, tì-kheo Ca-diếp đang là Đế Thích, vua Đỉnh Sinh khởi ý muốn được Đế Thích thiên chủ chia cho nửa tòa ngồi. Còn khi vua Đỉnh Sinh nghĩ rằng: “Nếu Đế Thích thiên chủ qua đời ở trên tòa để mình làm vua cả cõi người và cõi trời thì sướng biết bao”, là lúc Ca-diếp Như Lai đang làm Đế Thích thiên chủ. Vua Đỉnh Sinh có phúc lớn, tiếng tăm lẫy lừng, nhưng do khởi một niệm tội lỗi, nên bị mất thần lực, thân thể bị bệnh tật và các khổ đau hành hạ mà qua đời.

Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia đâu phải ai xa lạ, nay chính là thân ta. Bấy giờ, ta làm lợi ích rộng lớn giúp chúng sinh an vui và hướng đến Vô thượng trí, nhưng ta gặp nhiều ma chướng cản trở quả Vô thượng Bồ-đề. Do sức nhân duyên nên khiến như thế.

Bấy giờ, vua nước Kiều-tát-la, Thắng Quân đại vương chợt sinh nghi, liền thưa:

– Thưa Thế Tôn! Vua Đỉnh Sinh kia từ xa xưa ở trong nhân vị[23] đã tu tập hạnh nghiệp gì mà cảm được trời tự nhiên mưa tiền vàng trong cung điện suốt bảy ngày như thế?

Đức Phật đáp:

– Đại vương! Trong quá khứ xa xưa có Phật ra đời hiệu Nhất Thiết Tăng Thượng Như lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Lúc ấy, trong nước nọ có người con trai của một ông trưởng giả kết duyên vợ chồng với một thiếu nữ theo đúng nghi lễ thế gian. Một hôm, người vợ ấy vừa đem bông hoa đẹp bằng bốn thứ báu và các thức ăn uống thơm ngon dâng cho chồng. Người chồng nhận lấy, rồi cầm hoa bằng bốn báu, lên xe trở về. Giữa đường, anh ta nhìn thấy Nhất Thiết Tăng Thượng Như lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác đang bước đi thong thả. Thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng quí và trang nghiêm, anh ta sinh lòng tin ưa thanh tịnh, liền xuống xe, cung kính dâng hoa cúng dường Ngài. Nhờ sức uy thần của Đức Phật, bông hoa ấy liền biến thành lớn như bánh xe, xoay tròn trên không trung, lúc chuyển lúc dừng. Bấy giờ, người con ông trưởng giả khởi tâm thanh tịnh, nói kệ:

Nhờ nhân cúng dường to lớn ấy,

Được Phật, thế trí, tự nhiên trí,

Nguyện con sớm thoát biển sinh tử,

Độ hết người Phật xưa chưa độ.

Con dâng Nhất Thiết Tăng Thượng Phật,

Những đóa hoa đẹp và vừa ý,

Nguyện con nhờ nhân rộng lớn này, được tròn vô thượng đạo hằng mong.

Đức Phật nói:

– Đại vương! Nhờ nhân ấy nên vua Đỉnh Sinh được trời mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung.

Đại vương Thắng Quân bạch Phật:

– Thưa Thế Tôn! Vua Đỉnh Sinh kia nhờ duyên gì mà được làm vua bốn Đại châu và đến được cõi trời Ba Mươi Ba?

Đức Phật nói:

– Vào đời quá khứ xa xưa, có Đức Phật ra đời, hiệu Tì-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy đi khắp nơi dùng chính pháp dạy chúng sinh, dần dần Ngài đến thành Mãn-độ-ma-đế. Một hôm, Đức Phật đang đi khất thực trong thành ấy, một thương gia tên Quảng Tác nhìn thấy tướng quí hiếm có của Ngài, liền khởi tâm thanh tịnh đem một ít đậu xanh đặt vào bát để cúng dường Thế Tôn. Lúc ấy, có bốn hạt đậu nằm yên trong bát, nhưng có một hạt đậu chạy quanh trong bát làm phát ra tiếng kêu, rồi rơi xuống đất, những hạt đậu khác cũng rơi vãi hết ra đất. Thấy việc như thế, vị thương chủ khởi tâm thanh tịnh đọc kệ phát nguyện:

Nhờ nhân cúng dường to lớn ấy,

Được Phật, thế trí, tự nhiên trí,

Nguyện con sớm thoát biển sinh tử,

Độ hết người Phật xưa chưa độ.

Đức Phật nói tiếp:

– Đại vương! Vị thương chủ lúc ấy ở chỗ Phật Tì-bà-thi tuy cúng dường chỉ một ít vật cho Thế Tôn, nhưng nhờ tâm thanh tịnh nên bốn hạt đậu nằm lại trong bát của Phật, nên đến đời sau, người ấy cảm được quả báo làm vua bốn Đại châu. Bởi có một hạt đậu chạm vào bát làm phát ra tiếng, rồi rơi ra đất, nên đời sau người ấy cảm được quả báo đến được cõi trời Ba Mươi Ba. Nếu hạt đậu ấy không rơi ra đất, mà nằm được trong bát thì đời sau hẳn sẽ cảm được quả báo làm vua cõi trời. Nhưng bởi hạt đậu ấy rơi ra đất, nên người ấy chỉ cai trị cõi người, không được làm Thiên chủ.

Đại vương! Vị thương chủ ấy chính là vua Đỉnh Sinh. Nhờ gieo căn lành ở chỗ Phật và được Thế Tôn dùng tâm Đại bi nhiếp thọ, nên vị ấy được quả báo lớn có tiếng tăm lẫy lừng và ánh sáng uy nghi rực rỡ. Do đó, người có trí phải nên tùy sức mà tu tập hạnh cúng dường Thế Tôn. Ngài nên tu học những điều ta đã nói.


Chú thích:

[1] Phúc hạnh 福行: một trong ba hạnh. Hạnh môn tu phúc của trời người, do giữ gìn ngũ giới và thập thiện mà cảm được phúc báo.

[2] Kiếp Hiền 賢劫 (S: bhadrakalpa; Cg: kiếp Thiện, kiếp Hiện): kiếp Trụ hiện tại. Trong kiếp này, có một nghìn vị Phật ra đời, nên gọi là kiếp Hiền.

[3] Bông (nguyên văn: đâu-la-miên 兜羅綿; Cg: đổ-la): loài hoa nào chất mềm nhẹ bay bốc ra được đều gọi là bông.

[4] Trượng phu 丈夫 (S: dvātriṃśan mahā-puruṣa-lakṣaṇāni): ba mươi hai tướng quí của Chuyển luân thánh vương và của Đức Phật.

[5] Quán đỉnh 灌頂 (S: abhiṣecana, hoặc abhiṣeka): nghi thức rưới nước lên đỉnh đầu một người để biểu thị người ấy nay được thăng lên địa vị nào đó. Nguyên đây là một nghi thức lên ngôi vua hoặc lập thái tử của Ấn Độ cổ đại, vị quốc sư rưới nước bốn biển lên đầu thái tử để biểu thị sự chúc phúc.

[6] Chính pháp vương 正法王 (Cg: Chuyển luân thánh vương): người ở thế gian tu hạnh nghiệp cõi trời, thưởng phạt rõ ràng. Tất cả pháp của bậc thánh vương đều như vậy, nên gọi chính pháp vương.

[7] Luân vương 輪王 (Cg: Chuyển luân thánh vương).

[8] Bốn đại châu (tứ đại châu 四大洲): theo thế giới quan của người Ấn Độ xưa, có bốn đại châu nằm giữa vùng biển trung gian giữa bảy ngọn núi vàng và núi Đại Thiết Vi ở xung quanh núi Tu-di. Bốn châu gồm có: châu Nam Thiệm-bộ (S: Jambu-dvīpa), châu Đông Thắng Thần (S: Pūrva-videha), châu Tây Ngưu Hoá (S: Apara-godānīya) và châu Bắc Cu-lô (S: Uttara-kuru).

[9] Cây y phục kiếp-ba (nguyên văn: kiếp-ba y thụ 劫波衣樹): cây như ý. Trong Hỉ Lâm Viên của Đế Thích có loài cây kiếp-ba sinh ra các thứ vật cần dùng.

[10] Nễ-dân-đạt-la 儞民達囉 (Cg: Ni-dân-đạt-la): tên một giống cá biển có mõm nhọn. Ngọn núi này có hình giống như con cá ấy, nên được gọi tên như thế.

[11] Vĩ-na-tinh-kế 尾那惺計 (Cg: Tì-na-đát-ca): nghĩa là mũi voi. Ngọn núi này có hình giống mũi voi, nên có tên này.

[12] Mã Nhĩ 馬耳 (Cg: Át-thấp-phược-yết-noa): nghĩa là tai ngựa. Ngọn núi này có hình như tai ngựa.

[13] Khư-nễ-la-ca 佉禰囉迦 (Cg: Kiệt-địa-lạc-ca): tên của một loài cây quí ở Ấn Độ và Nam Trung Quốc. Núi này có hình giống cây ấy nên đặt tên như vậy.

[14] Trì Trục 持軸 (S: Īṣādhara; Hd: Y-sa-đà-la): đỉnh cao chót vót của núi này giống như cái trục xe, nên đặt tên như thế.

[15] Trì Song 持雙 (S: Yugaṃdhara; Hd: Thâu-kiện-đạt-la): trên đỉnh núi này có dấu vết như hai con đường, nên đặt tên như thế.

[16] Tô-đà 蘇陀: thức ăn ngon của cõi trời.

[17] Năm thần thông (nguyên văn: ngũ thần thông 五神通; S: pañcābhijñā): năm thứ năng lực siêu nhiên đạt được nhờ tu tập bốn thiền căn bản, gồm một: thần cảnh trí chứng thông; hai: thiên nhãn trí chứng thông; ba: thiên nhĩ trí chứng thông: bốn: tha tâm trí chứng thông; năm: túc trụ tùy niệm trí chứng thông. Bốn thần thông đầu là pháp hữu lậu thuộc thế trí, chỉ tha tâm thông là pháp vô lậu thuộc năm thứ trí: pháp trí, loại trí, đạo trí, thế tục trí và tha tâm trí.

[19] Câu-mẫu-đà 俱母陀 (S: kumuda): tên loài hoa. Các sách dịch nghĩa khác nhau: hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen đỏ sậm, hoa địa hỉ, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoặc hoa sen chưa nở.

[20] Đế thanh 帝青 (S: indranilamuktā): viên ngọc quí màu xanh chỉ Đế Thích có.

[21] Chính sĩ 正士 (Cg: bồ-tát): bậc đại sĩ cầu chính đạo.

[22] Phạm hạnh 梵行 (S: Brahma-caryā): hành vi thanh tịnh của cả người xuất gia và người tại gia. Vì Phạm thiên dứt bỏ việc dâm dục, nên gọi là Phạm hạnh; ngược lại là phi Phạm hạnh. Người bà-la-môn xem việc giữ gìn giới không dâm dục, học kinh Phệ-đà và các nghi thức cúng tế là Phạm hạnh. Phật giáo xem việc không dâm dục và giữ gìn các giới khác là Phạm hạnh.

[23] Nhân vị: (nguyên văn: nhân 因): địa vị tu hành Phật nhân, tức những địa vị tu hành trước Phật quả.

    Xem thêm:

  • Kinh Luân Vương Thất Bảo - Kinh Tạng
  • Kinh Ðảnh Sanh Vương Cố Sự - Kinh Tạng
  • Kinh Vua Văn Ðà Kiệt - Kinh Tạng
  • Kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Phật nói Luận A Tỳ Đàm về Sự Thế Giới Thành Lập - Kinh Tạng
  • Kinh Tu Hành Bản Khởi - Kinh Tạng
  • Kinh Cửu Sắc Lộc - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 16 – Phóng Sanh - Kinh Tạng
  • Kinh Hạnh Người Cư Sĩ - Kinh Tạng
  • Kinh Từ Thị Bồ Tát Hạ Sanh Thành Phật - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Bản Hạnh Tập Phẩm 31 Đến Phẩm 40 - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Thọ Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Khổ Ấm - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Pháp Thiên Thủ Quán Âm Tạo Thứ Đệ - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Tịnh Lưu Ly Tịnh Độ Tiêu - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Tòng Đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ - Kinh Tạng
  • Kinh Từ Thị Bồ Tát Đại Thành Phật - Kinh Tạng