1
2

QUYỂN 2

Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát nói Chú thời 3.000 Đại Thiên Thế Giới cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên chấn động theo 6 cách. Sách Cứu Cánh Thiên, Ma Hê Thủ La Thiên chẳng an. Nơi ấy đều rất hoảng hốt, tất cả Quỷ ác kêu la lớn tiếng chịu khổ não lớn, bỏ chạy tứ tán chẳng biết lối trốn.

Khi ấy, Hóa Thân (Quán Thế Âm Bồ Tát) nói với các Đại chúng với các hàng Quỷ thần ác rằng: “Nếu chẳng tùy thuận Chú của Ta mà làm điều trái ngược thì đầusẽ bị vỡ nát”.

Chú này có thể phá tan các núi, làm cho biển lớn khô kiệt. Chú này hay nghiền nát quân A Tu La, ủng hộ các quốc thổ. Chú này hay tồi phục: tất cả các Quỷ thần ác, tất cả các tú, tất cả sự độc ác, tất cả các bệnh, tất cả người ác. Chú này hay tồi phá 33 Trời đều khiến giáng phục.

Nếu có kẻ trai lành có khả năng tụng trì chú này thì người ấy có uy lực chẳng thể nói hết. Chú này hay khiến cho người tụng trì được hào phú tự tại, cũng hay khiến cho yêu nhớ cả đời, việc mong cầu xứng ý đều được mãn túc.

Nếu muốn giáng phục lồi Ma ốn nên thiêu đốt phân Cầu La Hương, tụng Thân của của Ta 21 biến.

Nếu muốn khiến cho tất cả mọi người yêu mến mình, chú vào cành Dương liễu 21 biến, ngậm trong miệng liền được yêu kính.

Nếu muốn khiến cho tự thân đựơc biện tài, trí tuệ. Chú vào Xương Bồ 1.008 biến, xoa ở trên trái tim liền được biện tài vô ngại. Tác Mẫu Đà La Ni Tâm Chú Ấn.

Ấn thứ 13: Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Biện Tài Vô Ngại Ấn

Để 2 tay cùng chung lưng rồi chắp lại, duỗi ngón cái hướng về phía trước.

Ấn này hay hộ mình hộ người. Cần phải Kết Giới tùy theo chốn đi đến (du phương) hoặc chú vào nước sạch hoặc chú vào tro sạch, đều chú 7 biến. Ở ngay trú xứ dùng ta bụm lấy tro. Trước tiên rưới vãi ngay thân mình, sau đó hướng về 4 phương 4 góc như Pháp tán rải.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị các chúng Quỷ ác, Võng Mị Tà gây hại hoặc gây rối. Lấy cành Thạch lựu với cành Dương liễu, âm thầm tụng chú này rồi đánh nhẹ vào người bệnh thì không có bệnh nào không khỏi. Chú rằng:

“Nam mô Tát bà bột đà, đạt ma, tăng kỳ tỳ-gia. Nam mô A lợi gia bà lô cát đế nhiếp phạt la tả, bồ đề tát đa bà tả. Nam mô Bạt chiết la bà ni tả, bồ đề tát đá bà tả.

Đát điệt tha: Đồ tỉ, đồ tỉ ca gia – Đồ tỷ sa la xà bà la ni, Cấp bá ha”

NAMO SARVA BUDDHA, DHRAMA, SANÕGHEBHYAHÏ

NAMAHÏ ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA

NAMAHÏ VAJRA PÀNÏÌYA BODHISATVÀYA

TADYATHÀ: DHUPE DHUPE KÀYA – DHUPE PRAJVALANÏI – SVÀHÀ

Chú Ấn này hay giáng phục các Ngoại đạo Tà kiến. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ngày 3 thời: Sáng sớm, giờ Ngọ, sập tối. Mỗi thời tụng 1 biến, liền cùng với mọi thứ cúng dường 10 ức chư Phật không có sai khác, vĩnh viễn chẳng thọ thân nữ, sau khi chết xa lìa hẳn Tam đồ (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh) liền được vãng sinh về cõi Phật A Di Đà. Đức Như Lai trao tay, quán đỉnh “Ngươi đừng có có sợ hãi, đến sinh vào nước của Ta thì thân này chẳng bị chết đột ngột, chẳng bị Quỷ thần đựơc dịp thuận tiện hãm hại”.

Ấn thứ 14: Bồ Tát Phá Đại Thiên Thế Giới Diệt Tội Ấn

Đứng thẳng, hướng tay trái về phía trước giương cánh tay, hướng về phía trước bung mở thẳng 5 ngón. Tiếp theo, tay phải: co ngón cái vào trong lòng bàn tay, nắm 4 ngón còn lại thành quyền để trên lỗ tay trái, nên tụng Thân Chú, đưa ngón trỏ qua lại.

Ấn này kết riêng 3 thời, 1 thời tụng 7 biến, hay diệt 5 tội nghịch, 4 tội nặng. Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm Từ BI liền hay thiêu đốt gốc rễ của tất cả tội, sau khi thân này diệt liền được gặp Phật. Ở cõi Phật ấy làm Chuyển Luân Thành Vương, lại được Đà La Ni tên là “Vô Lượng Vô Tận Tạng”, lại được Tam Muội tên là “Trí Đẳng”, lại được 28 loại tướng tốt của Thân. Thân này chẳng bị bệnh về mắt, lưỡi, tai, mũi … cho đến tất cả bệnh tật trong thân thảy hay diệt trừ. Nếu có tội nghiệp lúc trước cũng được tiêu diệt.

Nếu gặp Trời hạn hán thời lấy Ô Ma Tử hòa với cỏ có hạt nhỏ, hạt mè, mỡ làm thành viên, chú 108 biến ném vào trong nước liền được trời mưa. Nếu mưa quá nhiều, lấy lúa gạo đốt ra tro, lấy hạt Cà Độc Dược (Mạn Tinh Tử), mỡ hòa làm viên, chú 108 biến ném vào trong nước thì mưa liền ngưng.

Ấn thứ 15: Bồ Tát Giáng Phục Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Ma Oán Ấn

Đem 5 ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải nắm chặt thành quyền rồi để dính trên đỉnh đầu. Tụng Thân chú liền được giáng phục.

Nếu tác Pháp này, hướng về trước tháp Xá Lợi 29 ngày đêm lấy Bạch Đàn Hương làm bột xoa tô đất tạo Mạn Trà La. Trong đó rải mọi thứ hoa, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, tay bưng lò hương thiêu đốt Trầm thủy Hương. Ngồi hướng mặt về phía Đông, chú 1.008 biến. Đây là công năng tối sơ.

Lại lấy hạt cải, mè đen trộn lẫn nghiền thành bụi. Dùng 3 ngón tay nhúm lấy chút ít, chú vào 1 biến rồi quang vào trong lửa. Như vậy 7 ngày mỗi ngày 108 biến. Sau đó việc làm thảy đều thành tựu.

Ấn thứ 16: Bồ Tát Quảng Đại Vô Úy Ấn

Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên, đem tay phải nâng đầu cùi trỏ tay trái. Tay trái cũng vậy.

Ở trước tháp Xá Lợi, tụng Thân chú 108 biến liền được Vô Úy Thí nơi chúng sinh.

Lại lấy Hồi hương, hạt cải trắng, Xương Bồ, Xả đa bà lị. Đem nhóm vật này ném vào trong lửa thiêu đốt. Lúc đốt trong lửa nên ở trước tượng Phật hoặc ở nơi thanh tịnh tụng chú 32 biến, dùng hương hoa cúng dường thì Chú Pháp thảy đều thành tựu, bao nhiêu việc đã làm thảy đều được quả.

Nếu chú khác không ứng nghiệm. Dùng Chú này chú vào cũng đều thành tựu.

Nếu muốn cầu mộng, tụng Chú này và tác Ấn rồi ấn lên mắt, liền tùy theo chỗ muốn thấy đều được nhìn thấy trong mộng.

Nếu người không có phước, cầu gì cũng không được. Một ngày tụng 3 biến Chú, mãn 7 ngày thì hết thảy sự mong cầu đề thành tựu tất cả.

Bấy giờ, Bồ Tát ở Sa Kiệt La Long Cung Hải Hội nói Pháp, nhìn thấy các chúng Rồng chịu khổ não lớn. Vì thương các chúng Rồng nên cứu độ chúng sinh bị khổ não đều được xa lìa các khổ, không có ốn hại.

Khi ấy, Long Nữ dâng 1 viên ngọc quý, giá trị bằng thế giới Ta Bà. Vì cầu Pháp nên nói rằng: “Hãy vì con mà rộng nói về cách xa lìa các khổ nạn”.

Lúc đó, Thủy Tinh Bồ Tát vì muốn lợi ích hộ trì Chú này nên nói chú là:

Ấn thứ 17: Thủy Tinh Bồ Tát Hộ trì Thiên Nhãn Ấn Chú

“Tỳ ma lê, ma ha tỳ ma lê, úc ha lê, ma ha úc ha lê, hưu ma lê, ma ha hưu ma lê, tát ha lê chỉ lê đệ, cấp bà ha”

VIMALE MAHÀ VIMALE – UD-ÀRI MAHÀ UD-ÀRI – UD-BALE MAHÀ UD0BALE – SAHARI KIRTTI – SVÀHÀ

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ở tại nơi đi đến (Du phương) thọ trì Thiên nhãn Thiên Tý Bồ Tát Pháp này, ta sẽ thường tùy hộ vệ cho đến các quyến thuộc của Ma cũng không dám gây não loạn.

Nếu có người bị nạn cấp bách, nước khác xâm lấn, trộm cướp, nghịc loạn. Nên dùng chỉ ngũ sắc kết gút, tụng chú 21 biến,1 lần chú 1 lần thắt gút rồi đeo ở cánh tay trái. Lại đem ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ của tay phải nắm quyền, đè quyền trên móng ngón cái, giương ngón út, chỉ về phương có giặc, tụng Chú 7 biến thì giặc đều lui tan chẳng dám làm hại.

Bấy giờ, Bồ Tát ở trong núi Tuyết nói Pháp, quán thấy nhân dân trong nước Dạ Xoa La Sát chỉ ăn máu thịt của chúng sinh, không có Tâm lành. Bồ Tát vì muốn lợi ích nên dùng phương tiện giáo hóa, vận sức thần thông đi đến nước đó, hiện thân Thiên Nhãn Thiên Tý Giáng Phục Ma, bày sự thành tựu, kết Mẫu Đà La Ni Ấn. Lúc đó Vua nước La Sát đi đến cầu xin đảnh lễ Ta, Ta dùng Ấn Thành tựu ấn cho liền được Đạo Vô Thượng.

Ấn thứ 18: Bồ Tát Thành Tựu Ấn

Đứng thẳng, 2 chân song song nhau, chắp tay để ở ngang trái tim, đem ngón út cùng cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, tụng Thân Chú 21 biến thì mọi thứ đều được thành tựu. Nếu cầu cho chúng sinh đang bị khổ não trong 6 nẻo, nên dùng Luân Ấn. Đem 10 ngón tay đều vịn nhau, mở cổ tay, mở bên trong lòng bàn tay. Liền mở 10 ngón tay cách nhau chừng 1 thốn. Tức là Bồ Tát ở trong 6 nẻo Luân hồi, cứu độ các nạn khổ. Dùng Ấn này chuyển hồi thảy đều được lìa khổ.

Ấn thứ 19: Bồ Tát Thành Chính Đẳng Giác Ấn

Ngồi Kiết già. Trước tiên duỗi 5 ngón tay trái ngửa lòng bàn tay đặt trên đầu gối trái. Lại duỗi 5 ngón tay phải, úp bàn tay đè trên đầu gối phải. Ấn này đồng với Pháp Diệt Tận Ấn.Chư Phât Quá khứ, Vị Lai, Hiện tại đều đồng với Ấn này được Phật Bồ Đề Ấn hay trừ tất cả nghiệp chướng. Nếu tọa Thiền mà các Pháp chẳng hiện tiền, nên 7 ngày 7 đêm ở chốn A Luyện Nhã, tụng Đà La Ni này và Ấn Pháp này. Chí tâm niệm Phật, ngày đêm 6 thời sám hối liền được các Pháp hiện tiền và đạt được phước nhiều vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm.

Ấn thứ 20: Bồ Tát Hô Triệu Tam Thập Tam Thiên Ấn

Trước tiên đem 4 ngón của tay trái nắm quyền, lại dùng tay phải nắm ngón cái trái cũng như nắm quyền khiến cho ngón cái trái ở trong hổ khẩu của tay phải và ló đầu ngón. Đưa ngón trỏ phải qua lại. Chú là:

“ÁN – Câu trí, Câu trí, Câu gia lợi, già lợi, già lợi, gì la lệ, Tô-bà ha”

OMÏ – KUTÏÌ KUTÏ KUNÕJALI JRÌ JRÌ JARJAYA – SVÀHÀ’

Đà La Ni Ấn Chú này chẳng thể luận bàn. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện lúc muốn nằm ngủ, tụng chú này 108 biến thì điều ước nguyện trong tâm đều được thấy biết trong giấc mộng.

Nếu có thể ngày ngày tụng Chú này cũng hay diệt tất cả tội, phát tâm bồ Đề. Người đó đêm tối nằm mộng, dần dần tăng rộng đều được tốt lành cho đến mộng thấy Đức Như Lai ở dưới cây Bồ Đề thọ ký cho thành Đạo, cho đến chư Thiên Thích Phạm thường đến thị vệ.

Ấn thứ 21: Bồ Tát Hộ Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Ấn

Đứng thẳng, 2 chân song song nhau. Trước tiên co ngón cái trái vào trong lòng bàn tay, 4 ngón còn lại nắm quyền để dính trên trái tim. Tiếp theo, tay phải cũng vậy, đem tay phải để cạnh lỗ tai phải, đưa ngón trỏ qua lại. Chú là:

“Nam mô Ni càn đà – Nam mô A lợi xà ba đà, Cấp-bà ha – Nam mô A lợi xà la, cấp-bà ha – yên hế di hế, cấp bà ha”

NAMO NIKANÏTÏHA

NAMO ALI JAVÀDI – SVÀHÀ

NAMO ALI JARA SVÀHÀ

EHYEHI SVÀHÀ

Ấn Chú này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì đọc tụng sẽ biết Túc Mệnh 7 đời, rắn độc chẳng thể cắn gây thương, thuốc độc tự nhiên trừ dao gậy chẳng thể hại, Vua cũng chẳng có thể giận, trọn kiếp chẳng thọ khổ Địa ngục.

Nếu tụng Chú này thời 28 Bộ Quỷ Thần đều đến ngồi bên cạnh người Trì chú, nghe tụng Chú.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị dính Quỷ Mị. Dùng chỉ trắng làm sợi dây chú, 1 lần chú 1 lần thắt gút, như vậy 49 gút rồi cột dưới cổ họng người bệnh thì bệnh đó liền trừ.

Nếu trong nước có tai dịch lưu hành, người trong nước chết rất nhiều. Nên lấy hoa sen dưới ao vườn của nhà vua, 108 cây, cứ 1 cây hoa đều chú 1 biến rồi ném vào trong lửa cho đến hoa sen thì tai nạn liền trừ.

Ấn thứ 22: Bồ Tát Giải Thốt Ấn

Ngồi kiết già. Trước tiên, tay trái đem ngón giữa, ngón cái vịn đầu nhau, ngửa chưởng hướng lên trên bung duỗi 3 ngón còn lại rồi đặt trên đầu gối trái. Tiếp dùng tay phải cũng như thế, úp bàn tay trên đầu gối phải. Tụng Thân Chú 21 biến thì điều ước nguyện thảy đều mãn túc, sự khổ não của các Hữu tình thảy đều giải thốt.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện tạo đủ 10 tội ác, 5 tội nghịch nhiều như bụi nhỏ của đất phủ trên cõi Diêm Phù Đề, mỗi một hạt bụi thành 1 kiếp. Người đó gây tội nếu 1.000 tội phải đọa Địa ngục muôn kiếp chịu khổ không có kỳ ra. Kẻ trai lành, người nữ thiện ấy hay ở trước tượng Xá Lợi, ngày 15 của tháng Bạch nguyệt, 1 ngày 1 đêm chẳng ăn, kết Ấn tụng Chú mãn 108 biến thì các tội như trên thảy đều tiêu diệt. Nếu chẳng tiêu diệt thật không hề có chuyện ấy.

Ấn thứ 23: Bồ Tát Tự Tại Thần Túc Ấn

Đứng thẳng. Trước tiên đem tay trái nắm ngón chân cái trái như nắm quyền. Tiếp, tay phải nắm trên lưng cổ tay trái, tụng Thân Chú 7 biến ắt muốn đi xa ngàn dặm chẳng có gì là khó. Tụng Chú đừng để phát ra tiếng.

Ấn thứ 24: Bồ Tát Thần Biến Tự TaÏi Ấn

Trước tiên, tay trái đem ngón cái vịn trên móng ngón út. Tiếp tay phải cũng như thế. 3 ngón còn lại đều bung thẳng, hợp cổ tay dính nhau, đặt ở trên đỉnh đầu, tụng Thân Chú 21 biến đều được du hành tự tại.

Ấn thứ 25: Thỉnh Thiên Tý Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Vương Ấn Chú

Chắp 2 tay lại, giữa trống rỗng. Hợp cổ tay, đưa 2 ngón trỏ qua lại (Ấn này là Đệ Nhất Căn Bản Khải Thỉnh Ấn). Chú là:

“ÁN – A lỗ lực, đế sái, lộ ca, vĩ xả gia – Tát bà thước đổ-lô, bát-la ma đà na, ca la gia – Hàm phán, Sá ha”

OMÏ – AROLIK TRAILOKA VIJAYA SARVA ‘SATRÙ PRAMADANA KARÀYA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát nghe Đức Phật nói xong, vui vẻ tin nhận, tác lễ rồi lui ra.

    Xem thêm:

  • Kinh Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Lạo Đà La Ni Thân - Kinh Tạng
  • Kinh Bồ Tát Quán Tự Tại Tùy Tâm Chú - Kinh Tạng
  • Kinh Ma Lợi Chi Thiên - Kinh Tạng
  • Pháp Yếu Niệm Tụng Đà La Ni Bạch Tản Cái Đại Phật Đỉnh Vương Tối Thắng Vô Tì Đại Oai Đức Kim Cang Vô Ngại Đại Đạo Tràng - Kinh Tạng
  • Kinh Pháp Bí Mật Bồ Tát Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại - Kinh Tạng
  • Đà La Ni Phật Đỉnh Tôn Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Thánh Tối Thắng - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Đại Minh Thành Tựu Trì Minh Tạng Du Già Đại Giáo Tôn Na Bồ Tát - Kinh Tạng
  • Kinh Tiêu Trừ Nhất Thiết Tai Chướng Bảo Kế Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Lạc Xoa - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Yếu Đế Thích Bát Nhã - Kinh Tạng
  • Kinh Quán Tự Tại Thành Tựu Du Già Liên Hoa Bộ Niệm Tụng Pháp Môn - Kinh Tạng
  • Pháp Niệm Tụng Bồ Tát Quán Thế Âm Như Ý Ma Ni Luân Đà La Ni - Kinh Tạng
  • Phật Nói Văn Thù Sư Lợi 108 Danh Phạn Tán - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Khủng Bố Tập Hội Phương Quảng Quỹ Nghi Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Kim Cang Đỉnh Nhứt Thiết Như Lai Chơn Thực Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Nghi Quỹ Kim Cang Đỉnh Du Già Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Tu Hạnh - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Thành Tựu Tụng Niệm Cúng Dường Bồ Tát Cam Lộ Quân Đồ Lợi - Kinh Tạng
  • Bồ Tát Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Luân Du Già - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Cát Tường Đà La Ni - Kinh Tạng