1
2

Kinh Thi Ca La Việt Lễ Sáu Phương

Việt dịch: Huyền Thanh

Đức Phật ở trong núi Kê (Gṛdhrakūṭa: núi Linh Thứu) tại nước Vương Xá (Rājagṛha) thời có người con trai của vị Trưởng Giả, tên là Thi Ca La Việt (Sīṅgālaka: Tác Thiện Sinh, đồng với Sujāta) sáng sớm thức dậy, chỉnh trang đầu tóc, tắm gội, mặc quần áo hoa mỹ, hướng về phương Đông vái bốn lạy, hướng về phương Nam vái bốn lạy, hướng về phương Tây vái bốn lạy, hướng về phương Bắc vái bốn lạy, hướng lên trên Trời vái bốn lạy, hướng xướng đất vái bốn lạy.

Đức Phật vào nước đó đi khất thực (phân vệ: Paiṇḍapātika), từ xa nhìn thấy liền đi đến nhà của người ấy, hỏi rằng: “Vì sao lại vái lạy sáu hướng ? Điều này ứng với Pháp nào ?”

Thi Ca La Việt (Sīṅgālaka) nói: “Khi cha con còn sống thời dạy bảo con vái lại sáu hướng, chẳng biết ứng với điều gì ? Nay cha con đã qua đời, nên về sau con chẳng dám làm trái ngược”

Đức Phật nói: “Cha ngươi dạy bảo ngươi vái lạy sáu hướng, tức chẳng phải dùng thân thể lễ bái”

Thi Ca La Việt liền quỳ thẳng lưng nói: “Nguyện xin Đức Phật vì con giải nói ý vái lạy sáu hướng này”.

Đức Phật nói: “Hãy lắng nghe ! Hãy giữ bên trong Tâm ! Việc ấy có vị Trưởng Giả là người thông tuệ, hay giữ gìn bốn Giới chẳng sai phạm. Đời này được người kính trọng, đời sau sinh lên Trời.

1_ Chẳng giết hại các quần sinh

2_ Chẳng trộm cắp

3_ Chẳng yêu phụ nữ của người khác

4_ Chẳng nói dối, nói hai lưỡi.

Tâm ham muốn tham lam, dâm dật, giận dữ, ngu si thì tự mình kềm chế chẳng nên nghe. Người chẳng thể kềm chế bốn ý này thì ngày càng nghe tên ác, như lúc mặt trăng lặn thời ánh sáng hơi mờ tối. Người hay tự mình kềm chế ý ác thì như mặt trăng mới mọc, ánh sáng ấy hơi sáng cho đến ngày 15 thời đầy tràn vậy”

Đức Phật nói: “Lại có sáu việc làm cho tiền tài ngày càng hao giảm.

1_ Ưa thích uống rượu

2_ Ưa thích bài bạc

3_ Ưa thích ngủ sớm dậy trễ

4_ Ưa thích thỉnh mời khách, cũng muốn khiến cho người thỉnh mời

5_ Ưa thích cùng theo chân Ác Tri Thức (Pāpa-mitra: bạn ác)

6_ Kiêu mạn khinh người

Phạm bốn điều ác bên trên, lại làm sáu việc này, gây trở ngại cho phẩm hạnh tốt đẹp (thiện hạnh) ấy cũng chẳng hề lo lắng sửa trị cuộc sống, tiền tài ngày càng hao giảm thời vái lạy sáu hướng bấy giờ có lợi ích nào chăng !?…”

Đức Phật nói: “Ác Tri Thức (bạn ác) có bốn hạng:

1_ Bên trong có Tâm oán, bên ngoài gượng ép làm bạn bè (Tri Thức)

2_ Ở trước mặt người thì nói lời tốt đẹp, sau lưng thì nói lời xấu ác

3_ Lúc có việc nguy cấp thời ở trước mặt người tỏ ra buồn khổ, sau lưng lại vui vẻ

4_ Bên ngoài như người thân thiết sâu đậm, bên trong toan tính khởi mưu oán

Thiện Tri Thức (Kalyāṇa-mitra: Bạn tốt) cũng có bốn hạng:

1_ Bên ngoài như oan gia, bên trong có ý thân thiết sâu đậm

2_ Ở trước mặt người,can ngay ngay thẳng. Ở bên ngoài nói điều tốt lành của người

3_ Bệnh gầy ốm, bị quan huyện bới lông tìm vết thời lo tìm cách giải giùm.

4_ Nghèo hèn chẳng hề bỏ quên, bấy giờ nghĩ cầu phương tiện muốn cho giàu có.

Ác Tri Thức (Bạn ác) lại có bốn hạng:

1_ Gây khó khăn, can ngăn sự dạy bảo làm điều tốt lành cho nên cùng theo chân điều ác.

2_ Dạy bảo rằng chẳng có ai không cùng với người ưa thích rượu làm bạn cho nên cùng theo chân người nghiện rượu.

3_ Dạy bảo rằng tự mình bảo vệ lợi ích nên thay đổi nhiều việc

4_ Dạy bảo rằng cùng với người khôn ngoan làm bạn thì nên cùng với con bạc

(người thích bài bạc) kết tình sâu nặng.

Thiện Tri Thức (bạn tốt) cũng có bốn hạng:

1_ Thấy người nghèo túng thiếu thốn thời giúp cho sinh sống

2_ Chẳng cùng với người tranh giành tính toán.

3_ Ngày ngày, tiến thoái cùng nhau

4_ Ngồi, đứng luôn nghĩ nhớ đến nhau.

Thiện Tri Thức (bạn tốt) lại có bốn hạng:

1_ Bị Sứ đến bắt thì đem về che dấu không cho ai biết, về sau giúp đỡ giải quyết

2_ Có bệnh gầy ốm thì đem về chăm sóc, nuôi dưỡng

3_ Tri Thức (bạn hữu) bị chết thì mua sắm quan tài, trông coi việc tẩm liệm

4_ Tri Thức (bạn hữu) đã chết thì luôn nhớ nghĩ đến gia đình của người ấy

Thiện Tri Thức (bạn tốt) lại có bốn hạng:

1_ Muốn đấu tranh thì giúp đỡ cho nhau

2_ Muốn tuỳ theo Ác Tri Thức (bạn ác) thì can ngăn dừng lại.

3_ Muốn sửa trị đời sống thì khuyên sửa trị đời sống

4_ Chẳng ưa thích Kinh, Đạo thì dạy bảo khiến cho tin tưởng, ưa thích

Ác Tri Thức (bạn ác) lại có bốn hạng:

1_ Bị lấn lướt chút ít, liền thay đổi, rất giận dữ

2_ Có việc cấp bách nhờ làm giúp thì chẳng chịu làm

3_ Thấy người gặp nguy cấp thời bỏ chạy, tránh xa người

4_ Thấy người bị chết thì vứt bỏ chẳng hề giúp đỡ.

Đức Phật nói: “Hãy chọn lựa điều Thiện rồi thuận theo. Hãy xa lìa điều ác. Ta cùng với Thiện Tri Thức (bạn tốt) theo nhau sẽ tự đến thành Phật”.

_Đức Phật nói: “Vái lạy hướng Đông là con cái phụng sự cha mẹ, nên có năm việc:

1_ Nên nghĩ nhớ sửa trị đời sống

2_ Sáng sớm thức dậy, sai khiến nô tỳ làm việc thời làm cơm với thức ăn

3_ Chẳng lợi ích thì cha mẹ lo lắng

4_ Nên nghĩ nhớ ân của cha mẹ

5_ Cha mẹ bị bệnh tật thì nên sợ hãi, cầu thầy thuốc đến chữa trị.

Cha mẹ đối đãi với con cái cũng có năm việc:

1_ Nên nghĩ nhớ khiến cho bỏ điều ác làm điều lành

2_ Nên dạy bảo tính toán, đọc sách cho thông suốt

3_ Nên dạy bảo trì giữ Kinh, Giới

4_ Nên sớm dựng vợ gả chồng

5_ Hết thảy việc trong nhà nên cung cấp cho.

_ Vái lạy hướng Nam là Đệ Tử phụng sự Thầy, nên có năm việc:

1_ Nên kính trọng, hỏi han

2_ Nên nghĩ nhớ ân của Thầy

3_ Tuỳ theo điều Thầy đã dạy bảo

4_ Nghĩ nhớ chẳng chán

5_ Nên tiếp nối làm rạng danh Thầy.

Thầy dạy Đệ Tử cũng có năm việc:

1_ Nên khiến cho mau biết

2_ Nên khiến cho vượt hơn Đệ Tử của người khác

3_ Muốn khiến cho biết, chẳng hề quên

4_ Đều vì Đệ Tử giải nói các điều nghi ngờ, khó khăn

5_ Muốn khiến cho Đệ Tử có Trí Tuệ vượt hơn Thầy

_Vái lạy hướng Tây là vợ phụng sự chồng, có năm việc:

1_ Chồng từ bên ngoài về thì nên đứng dậy nghinh đón

2_ Chồng đi ra ngoài thì nên thổi nấu, quét dọn, chờ chồng về

3_ Chẳng được có Tâm dâm dục với người đàn ông khác. Bị chồng mắng chửi thì chẳng được làm dáng mắng chửi lại.

4_ Nên dùng sự răn dạy của chồng

5_ Chồng nghỉ ngơi thì lo đắp che xong mới được nằm

Chồng đối đãi với vợ cũng có năm việc:

1_ Ra vào nên kính trọng người vợ

2_ Ăn uống đúng thời tiết và đưa cho quần áo mặc.

3_ Nên cấp cho vợ: vàng, bạc, chuỗi ngọc…

4_ Hết thảy việc nhiều, ít trong nhà đều giao phó cho vợ

5_ Chẳng được ở bên ngoài, thuận theo điều tà bậy mà sai bảo vợ

_ Vái lạy hướng Bắc là con người đối đãi với thân thuộc, bạn bè, nên có năm việc:

1_ Nhìn thấy gây tội ác thì dắt riêng đến chỗ kín đáo, can ngăn, mắng chửi, ngăn cấm

2_ Người hầu có việc nguy cấp thì chạy vội đến cứu giúp.

3_ Có lời nói riêng tư thì chẳng được vì người khác nói

4_ Nên kính trọng lẫn nhau

5_ Hết thảy vật tốt, nên chia cho nhiều, ít

_ Hướng xuống đất vái lạy là Đại Phu đối đãi với tôi tớ nam, khách khứa, tôi tớ gái, người sai khiến… cũng có năm việc:

1_ Nên cho họ ăn uống đúng lúc và ban cho quần áo mặc

2_ Họ bị bệnh gầy ốm thì nên vì họ, kêu thầy thuốc đến chữa trị

3_ Chẳng được đánh đập họ một cách sằng bậy

4_ Họ có tài vật riêng thì chẳng được cướp đoạt

5_ Khi giao chia tài vật cho họ thì nên phân chia bình đẳng

Tôi tớ nam, khách khứa, tôi tớ gái, người sai khiến đối đãi phụng sự Đại Phu cũng có năm việc:

1_ Nên dậy sớm đừng để cho Đại Phu kêu gọi

2_ Việc nên làm thì phải dùng Tâm làm

3_ Nên yêu giữ vật của Đại Phu, chẳng được vứt bỏ, đem cho người hành khất

4_ Đại Phu ra vào thì nên nghinh đón

5_ Nên khen ngợi điều tốt lành của Đại Phu, chẳng được nói điều ác của người ấy.

_Hướng lên Trời vái lạy là con người phụng sự Sa Môn, Đạo Sĩ nên dùng năm việc:

1_ Dùng Tâm tốt lành hướng đến

2_ Chọn lựa lời tốt đẹp cùng nói chuyện

3_ Dùng thân kính trọng

4_ Nên mến mộ

5_ Sự hùng mạnh trong người của Sa Môn, Đạo Sĩ thì nên cung kính, phụng sự, hỏi việc cứu đời

Sa Môn Đạo Sĩ nên dùng sáu Ý đối đãi với dân phàm:

1_ Dạy bảo nên bố thí, chẳng được tự mình tham lam keo kiệt

2_ Dạy bảo giữ gìn Giới, chẳng được tự mình phạm vào Sắc Giới

3_ Dạy bảo nên nhẫn nhục, chẳng được tự mình giận dữ

4_ Dạy bảo nên tinh tiến, chẳng được tự mình lười biếng

5_ Dạy bảo cho người nên Nhất Tâm, chẳng được tự buông thả Ý

6_ Dạy bảo cho người có Tuệ sáng, chẳng được tự mình ngu si.

Sa Môn, Đạo Sĩ dạy cho người bỏ ác làm Thiện, mở bày Chính Đạo, Ân to lớn như cha mẹ.

Hành như vậy thời biết ý nghĩa vái lạy sáu hướng mà cha của ngươi khi còn sống đã dạy bảo. Lo gì chẳng giàu có ư ?”

Thi Ca La Việt liền xin thọ nhận năm Giới, làm lễ rồi lui ra.

Đức Phật nói Kệ chúc tụng (bái kệ):

_Gà gáy nên dậy sớm

Mặc áo bước xuống giường

Xúc miệng khiến Tâm tịnh

Hai tay dâng hoa, hương

Phật Tôn hơn chư Thiên

Quỷ Thần chẳng thể bằng

Cúi đầu nhiễu chùa tháp

Chắp tay lễ mười phương

_ Hiền Giả chẳng tinh tiến

Ví như cây không rễ

Rễ đứt, cành lá rơi

Khi nào sẽ liền lại ?!…

_ Hái hoa, giữ trong ngày

Còn có mấy Thời tươi

Phóng Tâm, tự buông Ý

Mệnh lỗi lại nói gì ?!…

_Người nên lo Phi Thường (?Vô thường)

Xét lại không có kỳ

Phạm lỗi chẳng tự hiểu

Mệnh lỗi vì tự lừa

Nay sẽ vào Nê Lê (Niraya, hay Naraka: Địa Ngục)

Khi nào có dịp ra ?!…

_Hiền Giả nhận Phật Ngữ (lời Phật dạy)

Giữ Giới (Śīla) kỹ đừng nghi

Phật như cây hoa tốt

Không ai chẳng yêu thích

Chốn chốn người dân nghe

Tất cả đều vui vẻ

_ Khiến Ta được Phật thời

Nguyện khiến như Pháp Vương (Dharma-rāja)

Vượt qua các Sinh Tử

Không gì chẳng giải thoát Giới (Śīla),

Đức (Guṇa) đáng nương cậy

Phước Báo thường tuỳ mình

Hiện Pháp vì người, lớn

Rốt xa ba đường ác

_ Giới (Śīla) ngăn trừ sợ hãi

Phước Đức, Tam Giới Tôn (tôn quý trong ba cõi)

Quỷ Thần Tà độc hại

Chẳng phạm người có Giới

_ Vào đời Tục, sống khổ

Mạng mau như ánh điện

Khi già, bệnh, chết đến

Xét lại không cưỡng nổi

Không người thân nương cậy

Không có nơi ẩn dấu

Phước Trời có lúc hết

Mạng người khởi lâu dài

_Cha mẹ, nhà cửa ở

Ví như người khách trọ

Mệnh xưa hết tuổi thọ

Buông bỏ nhận thân mới

Đuổi bắt điều đã làm

Vô tế (không có bờ mé) như bánh xe

Khởi, diệt theo Tội, Phước

Sinh tử, mười hai Nhân

_Hiện Thân vui khỏi loạn

Cứu, nuôi tất cả người

Thương kẻ vướng mọi Tà

Chìm đắm ở vực sâu

Gắng tiến, dùng sáu Độ

Tu hành Trí tự nhiên

Thế nên cúi đầu lễ

Quy mệnh Thiên Trung Thiên

_ Thân người đã khó được

Làm người lại thích Dục

Tham, Dâm nơi Ý Thức

Tưởng nhớ không chán bỏ

Sớm gieo, đời sau trồng

Vui vẻ đến Địa Ngục

Sáu Tình cầu trọn đủ

Tự khốn nhục làm chi ?!…

_Tất cả hay Chính Tâm

Thần ba đời (Tam Thế Thần) cát tường

Chẳng dự cùng tám nạn

Tuỳ hành sinh mười phương

Sinh ra, hướng tinh tiến

Sáu Độ (6 Ba La Mật) làm cầu (cây cầu) tốt

Rộng khuyên Tuệ Vô Cực

Tất cả nương Thần Quang

    Xem thêm:

  • Kinh Thiện Sanh Tử - Kinh Tạng
  • Kinh Hiền Nhân - Kinh Tạng
  • Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 25 – Mười Việc Ác - Kinh Tạng
  • Bích Nham Lục Của Thiền Sư Phật Quả Viên Ngộ – Thích Thanh Từ dịch - Kinh Tạng
  • Thức Xoa Ma Na Ni Giới Bổn - Kinh Tạng
  • Kinh Trung Bộ 104 – Kinh Làng Sama (Sàmagàma sutta) - Kinh Tạng
  • Kinh Phạm Võng – Quyển Thượng - Kinh Tạng
  • Kinh Tô Tất Địa Yết La - Kinh Tạng
  • A Di Đà Thông Tán Sớ - Kinh Tạng
  • Kệ Lễ Tán Sáu Thời - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Minh Định dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Nữ Viên Thắng dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 19 - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trụ - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 18 – Chọn Bạn Kết Giao - Kinh Tạng
  • Tây Phương Yếu Quyết Thích Nghi Thông Quy - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa tập 24 - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Lí Thú Lục Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 23 – Tứ Sinh - Kinh Tạng