KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI
Phật Thuyết Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh
Dao Tần Cưu Ma La Thập dịch
Bản Việt dịch (1) của Huyền Thanh
Bản Việt dịch (2) của Định Huệ
Bản Việt dịch (3) của Tuệ Khai
***
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Việt dịch: Huyền Thanh
***
QUYỂN THƯỢNG
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự trong núi Kỳ Xà Quật tại thành Vương Xá cùng với Đại Tỳ Kheo Tăng gồm ba vạn hai ngàn người đến dự.
Bồ Tát Ma Ha Tát gồm bảy vạn hai ngàn người mà ai cũng đã biết , đều được Đà La Ni, thành tựu biện tài nói năng không tận, an trụ Tam Muội mà chẳng động chuyển, khéo hay biết hết Tuệ không có tận, được Nhẫn của Pháp sâu xa, vào Pháp Môn thâm sâu. Ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp đã tu Pháp lành thảy đều thành tựu. Tồi phục chúng Ma, giáng phục các oán địch, nhiếp lấy cõi Phật tối tôn nghiêm tịnh, có Đại Từ Bi, các tướng nghiêm thân. Nơi Đại Tinh Tiến được đến bờ kia, khéo biết tất cả ngôn từ phương tiện, đầy đủ hạnh uy nghi trong sạch. Xong rồi được trụ vào ba Môn giải thoát, dùng Trí không ngại thông đạt ba đời, phát tâm quyết định chẳng buông bỏ tất cả, nghĩ nhớ nghĩa thú, kham nhẫn Trí Tuệ. Các vị Bồ Tát ấy đều có Đức Độ như vậy
Tên các vị ấy là: Chuyển Bất Thoái Pháp Luân Bồ Tát, Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Vô Ngại Chuyển Pháp Luân Bồ Tát, Ly Cấu Tịnh Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Thị Tịnh Uy Nghi Kiến Giai Ái Hỷ Bồ Tát, Diệu Tướng Nghiêm Tịnh Vương Ý Bồ Tát, Bất Cuống Nhất Thiết Chúng Sinh Bồ Tát, Vô Lượng Công Đức Hải Ý Bồ Tát, Chư Căn Thường Định Bất Loạn Bồ Tát, Thật Âm Thanh Bồ Tát, Nhất Thiết Thiên Tán Bồ Tát, Đà La Ni Tự Tại Vương Bồ Tát, Biện Tài Trang Nghiêm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Tu Di Đỉnh Vương Bồ Tát, Hải Đức Bảo Nghiêm Tịnh Ý Bồ Tát, Đại Nghiêm Tịnh Bồ Tát, Đại Tướng Bồ Tát, Quang Tướng Bồ Tát, Quang Đức Bồ Tát, Tịnh Ý Bồ Tát, Hỷ Vương Bồ Tát, Kiên Thế Bồ Tát, Kiên Ý Bồ Tát
Bồ Tát Ma Ha Tát của nhóm như vậy gồm bảy vạn hai ngàn người với hết thảy Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương và các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân…của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới mà ai cũng đã biết, phần lớn đã gieo trồng căn lành, ưa thích Đại Pháp đều đến tập hội.
Bấy giờ Kiên Ý Bồ Tát (Drïdïha-mati) ở trong Đại Hội, tác lời niệm này:”Nay Ta sẽ hỏi Đức Như Lai. Dùng câu hỏi ấy muốn thủ hộ hạt giống của Phật, hạt giống của Pháp, hạt giống của Tăng khiến cho các cung Ma bị che lấp chẳng thể hiện ra. Tồi phục kẻ Tăng Thượng Mạn tự cao. Vì người gieo trồng căn lành, nay khiến cho gieo trồng. Người đã gieo trồng căn lành, sẽ khiến cho tăng trưởng. Nếu có người chưa phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttara-samyaksamïbuddha: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác), sẽ khiến cho phát Tâm. Người đã phát Tâm, sẽ khiến cho chẳng bị thoái chuyển. Người đã thoái chuyển, sẽ khiến cho mau được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Người tính gộp mọi điều có được… trụ vào các Kiến, thảy đều khiến cho phát Tâm xa lìa. Người ưa thích Pháp nhỏ, khiến cho chẳng nghi ngờ Pháp lớn. Người ưa thích Pháp lớn, khiến cho sinh vui vẻ”
Tác niệm đó xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật rồi bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nay con muốn ở trong Pháp của Như Lai, có chút điều cần hỏi. Nguyện xin nghe hứa cho”
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Tùy theo điều ông hỏi. Ta sẽ giải nói khiến cho ông vui vẻ”
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Phải chăng có Tam Muội hay khiến cho Bồ Tát mau được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thường được chẳng lìa, gặp thấy chư Phật, hay dùng ánh sáng chiếu khắp mười phương, được Tuệ tự tại dùng phá các Ma, được Trí tự tại, được Trí tự nhiên, được Trí Vô Sinh, hay chẳng tùy theo kẻ khác mà được, chẳng bị chặt đứt biện tài, tận bờ mé vị lai được Như Ý Túc thọ nhận mạng vô lượng. Người ưa thích Thanh Văn là Thanh Văn Thừa, người ưa thích Bích Chi Phật là Bích Chi Phật Thừa, người ưa thích Đại Thừa thì gọi là Đại Thừa. Thông đạt Pháp của Thanh Văn mà chẳng vào Thanh Văn Đạo, Thông đạt Pháp của Bích Chi Phật mà chẳng vào Bích Chi Phật Đạo, thông đạt Pháp của Phật mà rốt ráo chẳng diệt tận. Thị hiện hình sắc uy nghi của Thanh Văn mà bên trong chẳng lìa Tâm Bồ Đề của Phật, thị hiện hình sắc uy nghi của Bích Chi Phật mà bên trong chẳng lìa Tâm Đại Bi của Phật. Dùng sức Tam Muội Như Huyễn thị hiện hình sắc uy nghi của Như Lai. Dùng sức của căn lành thị hiện ở ngay trên Trời Đâu Suất, hiện nhận thân sau, nhập vào bào thai, sơ sinh, xuất gia, ngồi ở Đạo Trường của Phật. Dùng sức Tuệ thâm sâu, hiện chuyển bánh xe Pháp. Dùng sức phương tiện, hiện nhập vào Niết Bàn. Dùng sức Tam Muội, hiện phân chia Xá Lợi. Dùng sức của Bản Nguyện, hiện Pháp diệt tận.
Dạ thưa ! Bạch Đức Thế Tôn ! Hành Tam Muội nào, hay khiến cho Bồ Tát thị hiện các việc Công Đức như vậy mà rốt ráo chẳng nhập vào Niết Bàn ?”
Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát rằng:” Lành thay ! Lành Thay Kiên Ý ! Hay hỏi Như Lai về nghĩa như vậy. Nên biết ông hay làm nhiều việc nhiêu ích an vui cho chúng sinh, thương xót Thế Gian, lợi an Trời Người. Bồ Tát của đời này, đời sau được nương nhờ lợi ích. Nên biết ông đã gieo trồng sâu căn lành, cúng dường gần gũi vô lượng trăm ngàn ức Phật đời quá khứ, hành khắp các Đạo,giáng phục Ma Oán, ở trong Phật Pháp được Trí tự tại, giáo hóa thủ hộ các chúng Bồ Tát, đã biết tất cả Pháp Tạng của chư Phật, từng ở hằng hà sa đẳng cõi Phật thành tựu việc hỏi đáp.
Này Kiên Ý ! Như Lai ở trong Chúng Hội này chẳng thấy có Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà với các Thanh Văn, người cầu Bích Chi Phật nào có thể thưa hỏi như vậy. Chỉ có bậc Đại Trang Nghiêm của các ông mới có thể phát ra câu hỏi như vậy. Nay ông hãy lắng nghe ! hãy khéo nghĩ nhớ, Ta sẽ vì ông, các Bồ Tát thành tựu Tam Muội được Công Đức đó lại qua chốn này”
Kiên Ý bạch Phật rằng:”Con vui nguyện muốn nghe”
Đức Phật bảo:”Này Kiên Ý ! Có Tam Muội (Samàdhi) tên là Thủ Lăng Nghiêm (Suramïgama). Nếu có Bồ Tát được Tam Muội đó, như ông đã hỏi, đều hay thị hiện ở Bát Niết Bàn mà chẳng diệt hẳn. Bày các hình sắc mà chẳng hoại sắc tướng. Dạo khắp tất cả quốc độ của chư Phật mà ở quốc độ không có chỗ phân biệt.Thảy hay được gặp tất cả chư Phật mà chẳng phân biệt. Pháp Tính bình đẳng thị hiện hành khắp tất cả các Hạnh mà hay khéo biết các Hạnh trong sạch. Là bậc tối tôn tối thượng nơi các Trời Người mà chẳng tự cao kiêu mạn phóng dật. Hiện hành tất cả sức tự tại của Ma mà chẳng dựa theo việc Ma đã làm. Đi khắp trong tất cả ba cõi mà ở Pháp tướng không có chỗ động chuyển. Thị hiện sinh khắp ở trong các lối nẻo mà chẳng phân biệt tướng có các nẻo. Khéo hay giải nói tất cả Pháp Cú, dùng các ngôn từ mở bày nghĩa ấy mà biết văn tự nhập vào tướng bình đẳng , nơi các ngôn từ không có chỗ phân biệt. Thường ở tại Thiền Định mà hiện giáo hóa chúng sinh. Hành ở Tận Nhẫn, Vô Sinh Pháp Nhẫn mà nói các Pháp có tướng sinh diệt. Bước đi một mình không có sợ hãi giống như sư tử”
Khi ấy trong Hội, các hàng Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương, tất cả Đại Chúng đều tác niệm là:”Chúng ta do chưa từng nghe tên gọi của Tam Muội đó, huống chi được nghe, giải nói nghĩa ấy.Nay đến gặp Phật mong được Thiện Lợi, đều cùng được nghe nói tên gọi của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện cầu Phật Đạo, nghe nghĩa thú của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tin hiểu chẳng nghi, nên biết người ấy đều chẳng bị thoái chuyển nơi Phật Đạo, huống chi tin xong, thọ trì đọc tụng, vì người khác nói, tu hành như nói”
Thời các Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương đều tác niệm là:”Nay chúng ta vì Đức Phật Như Lai bày tòa Sư Tử, tòa Chính Pháp, tòa Đại Thượng Nhân, tòa Đại Trang Nghiêm, tòa Đại Chuyển Pháp Luân… rồi thỉnh Đức Như Lai ngồi trên tòa của ta, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Người người trong đó , mỗi mỗi đều ở vị trí của mình, chỉ có ta vì Đức Phật bày tòa Sư Tử còn người khác thì chẳng thể làm”
Bấy giờ Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương đều vì Đức Như Lai bày tòa sư tử cao lớn đoan nghiêm thanh tịnh trang trọng với bày vô lượng áo báu. Ở trên Tòa ấy thảy đều dương dựng mọi lọng báu màu nhiệm, lại dùng mọi vật báu làm lan can. Ở bên trái Tòa có vô lượng cây báu với cành lá chen nhau, xếp thành hàng tương xứng với nhau. Các cây phướng, phan, trướng , trướng báu lớn rũ xuống. Mọi vật báu xen kẽ nhau, treo các chuông báu. Bên trên tán rải đủ mọi loại hoa màu nhiệm. Chư Thiên đốt mọi thứ hương thơm xông ướp. Vàng, bạc, mọi báu tỏa ánh sáng xen nhau. Mọii loại nghiệm tịnh không có gì không có đủ. Trong khoảng khắc ở trước mặt Đức Như Lai có tám vạn bốn ngàn ức Tòa Sư Sử báu đều ở tại Chúng Hội mà không hề gây chướng ngại cho nhau
Mỗi một vị Thiên Tử chẳng nhìn thấy Tòa khác, mỗi mỗi đều tác niệm là:”Riêng mình ta vì Đức Phật bày tòa Sư Tử. Đức Phật sẽ ở trên tòa của Ta, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Thời các Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương bày Tòa xong rồi, đều bạch Phật rằng:”Nguyện xin Đức Như Lai ngồi trên tòa của con, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Tức thời Đức Thế Tôn hiện đại thần lực, ngồi khắp trên tám vạn bốn ngàn ức Tòa. Chư Thiên mỗi mỗi đều thấy Đức Phật ngồi trên Tòa do mình an bày mà chẳng nhìn thấy Tòa khác.
Có một vị Đế Thích nói với vị Đế Thích khác rằng:”Ông hãy xem, Đức Như Lai ngồi trên tòa của tôi”
Như vậy Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương đều cùng nhau nói là:”Ông nhìn xem, Đức Như Lai ngồi trên Tòa của tôi”
Có một vị Đế Thích nói:”Nay Đức Như Lai chỉ ngồi trên tòa của tôi chứ chẳng ngồi tại tòa của ông”
Bấy giờ Đức Như Lai biết các Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương có duyên đời trước (túc duyên) đáng độ, lại muốn hiện chút ít thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, cũng vì thành tựu Hạnh Đại Thừa cho nên khiến các Chúng Hội đều thấy Đức Như Lai ngồi khắp trên tám vạn bốn ngàn ức na do tha tòa Sư Tử báu.
Tất cả Đại Chúng đều rất vui vẻ được điều chưa từng có, đều từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay lễ Phật, rồi đều nói lời này: “Lành thay ! Đức Thế Tôn có uy thần vô lượng khiến cho các Thiên Tử (Deva-putra) đều mãn ước nguyện. Các Thiên Tử ấy đã vì Đức Như Lai tạo làm Tòa ngồi, nhìn thấy thần lực của Đức Phật đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đều bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Chúng con vì muốn cúng dường Đức Như Lai, diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh, thủ hộ Chính Pháp chẳng cho đứt mất hạt giống Phật. Vì thế cho nên đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nguyện khiến cho chúng con ở đời vị lai thành Phật có sức uy thần như vậy, biến hiện như Đức Như Lai đã làm ở ngày nay”
Khi ấy Đức Phật khen các Thiên Tử rằng:’Lành thay ! Lành thay ! Như ông đã nói, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh nên phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Đấy là sự cúng dường Như Lai lớn nhất”
Thời trong Phạm Chúng có một vị Phám Vương tên là Đẳng Ngạn bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Đức Như Lai của nhóm nào mới là chân thật, là vị ngồi trên tòa của con hay là vị ngồi trên tòa khác ?”
Đức Phật bảo:”Này Đẳng Hạnh ! Tất cả các Pháp đều trống rỗng (‘Sùnya:không) như huyễn, theo sự hòa hợp mà có hay không có. Sự tạo tác đều từ tưởng nhớ phân biệt mà khởi, do không có chủ cho nên tùy ý mà ra. Các Như Lai đó đều là chân thật. Tại sao là thật ? Các Như Lai đó vốn tự chẳng sinh, vì thế là thật. Các Như Lai đó: ngày nay, ngày sau cũng không có, vì thế là thật. Các Như Lai đó chẳng phải vay mượn bốn Đại, vì thế là thật. Các Uẩn, Nhập, Giới đều không có chỗ nhiếp lấy, vì thế là thật. Các Như Lai đó như chẳng đầu, khoảng giữa, chặng cuối không có sai biệt, vì thế là thật.
Này Phạm Vương ! Các nhóm Như Lai đó không có sai biệt. Tại sao thế ? Các Như Lai đó dùng hình chất (Sắc) Như (Tathà) cho nên ngang bằng. Dùng cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), hoạt động tâm ý (hành), nhận thức (thức) Như (Tathà) cho nên ngang bằng. Các Như Lai đó dùng đời quá khứ Như (Tathà) cho nên ngang bằng. Dùng đời vị lai Như (Tathà) cho nên ngang bằng. Dùng đời hiện tại Như (Tathà) cho nên ngang bằng. Dùng Pháp Như Huyễn cho nên ngang bằng. Dùng Pháp như bóng ảnh cho nên ngang bằng. Dùng Pháp không có sở hữu cho nên ngang bằng. Dùng Pháp không có chỗ theo đến cho nên ngang bằng . Chính vì thế cho nên Như Lai có tên là Bình Đẳng
Như tất cả Pháp ngang bằng, các Như Lai đó cũng lại như vậy. Như tất cả chúng sinh ngang bằng, các Như Lai đó cũng lại như vậy. Như chư Phật của tất cả Thế Gian ngang bằng, các Như Lai đó cũng lại như vậy. Như tất cả Thế Gian ngang bằng, các Như Lai đó cũng lại như vậy. Chính vì thế cho nên chư Phật có tên là Bình Đẳng
Này Phạm Vương ! Các Như Lai đó chẳng vượt qua tất cả các Pháp Như cho nên gọi tên là Bình Đẳng
Phạm Vương nên biết. Như Lai thảy đều biết tất cả các Pháp bình đẳng như vậy. Chính vì thế cho nên Như Lai ở tất cả Pháp, có tên là Bình Đẳng”
Đẳng Hạnh Phạm Vương bạch Phật rằng:”Thật chưa từng có ! Bâch Đức Thế Tôn ! Như Lai được các Pháp ngang bằng đó xong , dùng sắc thân màu nhiệm hiện bày (thị hiện) cho chúng sinh”
Đức Phật nói:”Này Phạm Vương ! Đó đều là Sở Trí thuộc thế lực Bản Hạnh của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Do việc đó cho nên Như Lai được các Pháp ngang bằng xong thì dùng sắc thân màu nhiệm hiện bày cho chúng sinh”
Lúc nói Pháp đó thời Đẳng Hạnh Phạm Vương với một vạn Phạm Thiên ờ trong các Pháp được Nhu Thuận Nhẫn
Bấy giờ Đức Như Lai thâu Thần Lực lại thì chư Phật với tòa ngồi đều chẳng hiện ra, tất cả Chúng Hội chỉ thấy có một Đức Phật
Khi ấy Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát:”Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Suramïgama-samàdhi) chẳng phải là chỗ đắc được của bồ tát Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, Lục Địa, Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa.Chỉ có Bồ Tát trụ tại Thập Địa mới có thể đắc được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó.
Nhóm nào là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội ?. Ấy là:
1_ Tu trì Tâm giống như hư không
2_ Quán sát các Tâm của chúng sinh hiện tại
3_ Phân biệt các căn Lợi, Độn của chúng sinh
4_ Quyết định biết hết nhân quả của chúng sinh
5_ Ở trong các Nghiệp, biết không có nghiệp báo
6_ Vào mọi loại Lạc Dục, vào xong chẳng quên
7_ Hiện biết vô lượng mọi loại các Tính
8_ Thường Năng Du Hý Hoa Âm Tam Muội, Năng Thị Chúng Sinh Kim Cương Tâm Tam Muội, tất cả Thiền Định tự tại tùy ý
9_ Quán khắp tất cả nơi đến của các Đạo
10_ Đối với Túc Mệnh Trí, được không có chỗ ngăn ngại
11_ Thiên Nhãn không bị ngăn che
12_ Được Lậu Tận Trí, chẳng phải thời chẳng chứng
13_ Nơi Sắc, Vô Sắc được Trí Đẳng Nhập
14_ Nơi tất cả sắc, thị hiện du hý
15_ Biết các âm thanh giống như tướng của tiếng vang vọng lại
16_ Thuận vào Niệm Tuệ
17_ Hay dùng lời khéo khiến chúng sinh ưa thích
18_ Tùy ứng nói Pháp
19_ Biết đúng thời, chẳng đúng thời
20_ Hay chuyển các căn
21_ Nói Pháp chẳng hư dối
22_ Thuận vào Chân Tế
23_ Khéo hay nhiếp phục các loại chúng sinh
24_ Thảy hay đầy đủ các Ba La Mật
25_ Uy nghi tiến, dừng chưa từng có khác
26_ Phá các nhớ tưởng, hư vọng phân biệt
27_ Chẳng hoại Pháp Tính tận bờ mé ấy
28_ Một lúc hiện thân trụ tất cả chỗ của Phật
29_ Hay giữ gìn tất cả Pháp mà Phật đã nói
30_ Ở khắp trong các Thế Gian, tự tại biến thân giống như ảnh hiện
31_ Khéo nói các Thừa độ thoát chúng sinh, thường hay hộ trì Tam Bảo chẳng dứt
32_ Phát Đại Trang Nghiêm tận bờ mé vị lai mà tâm chưa từng có tưởng mệt mỏi
33_ Ở khắp tất cả các nơi sinh ra thường hay hiện thân tùy thời chẳng dứt
34_ Ở các nơi sinh ra, bày có chỗ tạo làm
35_ Khéo hay thành tựu tất cả chúng sinh
36_ Khéo hay hiểu biết tất cả chúng sinh
37_ Tất cả Nhị Thừa chẳng thể đo lường
38_ Khéo hay biết đủ các phần âm thanh
39_ Hay khiến cho tất cả các Pháp lớn mạnh
40_ Hay khiến cho một kiếp làm A Tăng Kỳ Kiếp
41_ A tăng kỳ kiếp khiến làm một kiếp
42_ Hay khiến cho một đất nước nhập vào a tăng kỳ đất nước
43_ A tăng kỳ đất nước nhập vào một đất nước
44_ Vô lượng cõi Phật nhập vào một lỗ chân lông
45_ Tất cả chúng sinh bày vào một thân
46_ Hiểu các cõi Phật đồng như hư không
47_ Thân hay biến đến cõi Phật không dư sót
48_ Khiến cho tất cả thân nhập vào Pháp Tính đều khiến cho không có thân
49_ Tất cả Pháp Tính thông đạt không có tướng (vô tướng)
50_ Khéo hay biết hết tất cả phương tiện
51_ Một âm đã nói thảy hay thông đạt tất cả Pháp Tính
52_ Diễn nói một câu hay đến vô lượng a tăng kỳ kiếp
53_ Khéo quán tất cả Pháp Môn sai biệt
54_ khéo biết đồng, dị, lược, rộng nói Pháp
55_ Khéo biết vượt qua tất cả Ma Đạo
56_ Phóng ánh sáng Trí Tuệ của phương tiện lớn
57_ Nghiệp thân khẩu ý … dùng Trí Tuệ làm đầu
58_ Không hành Thần Thông thường hiện ngay trước mặt
59_ Dùng bốn Trí Vô Ngại khiến cho tất cả chúng sinh vui vẻ
60_ Hiện sức Thần Thông, thông tất cả Pháp Tính
61_ Hay dùng Nhiếp Pháp , nhiếp khắp chúng sinh
62_ Hiểu các Ngữ Ngôn của chúng sinh trong Thế Gian
63_ Đối với Pháp Như Huyễn, không có sự nghi ngờ
64_ Khắp tất cả nơi sinh ra, đều hay tự tại
65_ Vật cần dùng đều tùy ý, không có thiếu
66_ Tự tại thị hiện tất cả chúng sinh
67_ Đối với việc Thiện, Ác đều đồng ruộng Phước
68_ Được vào Pháp bí mật của tất cả Bồ Tát
69_ Thường phóng ánh sáng chiếu soi Thế Giới không dư sót
70_ Trí ấy sâu xa không thể tính được
71_ Tâm ấy giống như Đất, Nước, Lửa, Gió
72_ Khéo đối với chương cú ngôn từ của các Pháp mà chuyển bánh xe Pháp (Pháp Luân)
73_ Đối với Như Lai Địa (Tathàgata-bhùmi) không có chỗ chướng ngại
74_ Tự nhiên mà được Vô Sinh Pháp Nhẫn
75_ Được Tâm như thật, các phiền não cấu không thể gây ô nhiễm được
76_ Khiến tất cả nước nhập vào một lỗ chân lông mà chẳng quấy rối Tính của nước
77_ Tu tập vô lượng Phước Đức, căn lành
78_ Khéo biết tất cả phương tiện hồi hướng
79_ Khéo hay hành khắp tất cả các Hạnh Bồ Tát
80_ Phật, tất cả Pháp, Tâm… được an ổn
81_ Đã được xa lìa bản thân của Nghiệp đời trước (túc nghiệp)
82_ Hay vào Pháp Tạng bí mật của chư Phật
83_ Thị hiện tự ban cho du hý các Dục
84_ Nghe vô lượng Pháp, hay giữ gìn đầy đủ
85_ Cầu tất cả Pháp, tâm không chán bỏ
86_ Thuận các Pháp ở đời mà chẳng nhiễm ô
87_ Ở vô lượng kiếp vì người nói Pháp đều khiến cho nói là như chỉ qua một bữa ăn.
89_ Thị hiện mọi loại lưng gù, tàn tật, què chân, đi khập khễnh, điếc tai, mù lòa, câm ngọng… để hóa độ chúng sinh
89_ Trăm ngàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ thường theo hộ vệ
90- Tự nhiên hay quán biết các Phật Đạo
91_ Hay ở một niệm, bày nhận tuổi thọ của vô lượng vô số kiếp
92_ Hiện hành tất cả Nghi Pháp của Nhị Thừa mà bên trong chẳng buông bỏ các Hạnh Bồ Tát
93_ Tấm ấy khéo rỗng lặng, không có tướng
94_ Đối với các kỹ nhạc hiện tự vui thích mà bên trong chẳng buông bỏ Niệm Phật Tam Muội
95_ Hoặc thấy hoặc nghe với tiếp chạm cùng trụ đều hay thành tựu vô lượng chúng sinh
96_ Hay đối với niệm niệm , bày thành Phật Đạo , tùy theo Bản Sở Hóa khiến được giải thoát
97_ Thị hiện vào thai, lúc mới sinh ra
98_ Xuất gia, thành tựu Phật Đạo
99_ Chuyển bánh xe Pháp
100_ Nhập vào Đại Diệt Độ mà chẳng diệt hẳn
Này Kiên Ý ! Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, như vậy vô lượng thảy hay bày tất cả Thần Lực của Phật, vô lượng chúng sinh đều được nhiêu ích
Này Kiên Ý ! Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Chẳng thể dùng một việc, một duyên. một nghĩa mà có thể biết . Tất cả Thiền Định, Giải Thoát, Tam Muội, Thần Thông , Như Ý Vô Ngại , Trí Tuệ đều nhiếp ngay trong Thủ Lăng Nghiêm. Ví như hồ, suối, sông nhỏ, sông lớn, các giòng chảy đều nhập vào biển lớn . Như vậy hết thảy Thiền Định của Bồ Tát đều ở tại Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có đại dũng tướng, bốn loại binh thảy đều theo hầu
Này Kiên Ý ! Như vậy hết thảy Tam Muội Môn, Thiền Định Môn, Biện Tại Môn, Giải Thoát Môn, Đà La Ni Môn, Thần Thông Môn, Minh Giải Thoát Môn. Các Pháp Môn đó thảy đều nhiếp tại Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Tùy có Bồ Tát hành Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thì tất cả Tam Muội thảy đều tùy thuận theo.
Này Như Ý ! Ví như lúc Chuyển Luân Thánh Vương đi thời có bảy báu đều theo. Như vậy Kiến Ý ! Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có tất cả Pháp Trợ Bồ Đề thảy đều tùy theo. Chính vì thế cho nên Tam Muội này có tên là Thủ Lăng Nghiêm”.
Đức Phật bảo Kiên Ý :”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, chẳng hành cầu tài mà đem bố thí hết thảy vật báu, thức ăn uống, quần áo, voi, ngựa, xe cộ trong Đại Thiên Thế Giới với các biển lớn, cung Trời,Nhân Gian… Mọi vật của nhóm như vậy đều tự tại đem cho. Đây đều là Sở Trí của Bản Công Đức, huống chi dùng Thần Lực tùy ý tạo làm. Đấy gọi là Bản Sự Quả Báo Đàn Ba La Mật (Dàna-pàramità) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, chẳng thọ Giới lại, đối với Giới chẳng động. Vì muốn giáo hóa các chúng sinh cho nên hiện thọ trì các uy nghi của Giới Hạnh, là có chỗ phạm diệt trừ tội lỗi mà bên trong thanh tịnh, thường không có khuyết mất. Vì muốn giáo hóa các chúng sinh cho nên sinh ở cõi Dục làm Chuyển Luân Vương có các chúng cung nữ cung kính vây quanh, hiện có vợ con, năm Dục, tự phóng túng mà bên trong thường tại Thiền Định Tịnh Giới, khéo hay thấy hết lỗi lầm của ba Hữu.
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Bồ Tát trụ Bản Sự Quả Báo Thi Ba La Mật (‘Sìla-pàramità: Giới Ba La Mật) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tu hành NHẫn Nhục trọn đủ hết, cho nên chúng sinh chẳng sinh mà tu nơi Nhẫn, các Pháp chẳng khởi mà tu nơi Nhẫn, Tâm không có hình sắc mà tu nơi Nhẫn, chẳng được Ta Người mà tu nơi Nhẫn, chẳng niệm sinh tử mà tu nơi Nhẫn, dùng Tính Niết Bàn mà tu nơi Nhẫn, Pháp Tính chẳng hoại mà tu nơi Nhẫn. Bồ Tát tu hành Nhẫn Nhục như vậy mà không có chỗ tu cũng không có gì không tu, vì hóa độ chúng sinh sinh ở cõi Dục (Kàma-dhàtu:Dục Giới) hiện có sân nộ mà bên trong thanh tịnh, hiện hành xa lìa mà không có xa gần, vì chúng sinh hoại uy nghi của đời mà chưa từng hoại Tính của các Pháp, hiễn có chỗ Nhẫn mà không có Pháp, thường định chẳng hoại có thể dùng để Nhẫn.Bồ Tát thành tựu Nhẫn Nhục như vậy vì chặt đứt tâm ác nhiều giận dữ của chúng sinh mà thường khen ngợi Phước của Nhẫn Nhục, cũng lại chẳng được giận dữ nhẫn nhục
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Bồ Tát trụ Bản Sự Quả Báo Sạn Đề Ba La Mật (Ksïànti-pàramità: Nhẫn Nhục Ba La Mật) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, phát đại tinh tiến được các Pháp lành mà chẳng phát động Nghiệp của thân khẩu ý. Vì người lười biếng mà hiện hành tinh tiến, muốn khiến chúng sinh tùy theo bắt chước sự học của Ta mà đối với các Pháp không có phân phát không có thọ nhận. Tại sao thế ? Vì Bồ Tát đều biết tất cả các Pháp thường trụ Pháp Tính chẳng đến chẳng đi. Như vậy xa lìa hành của Thân Khẩu Ý mà hay thị hiện phát hành tinh tiến, cũng chẳng thấy Pháp có người thành tựu. Hiện ở Thế Gian phát hành tinh tiến nhưng ở bên trong bên ngoài không có chỗ tạo làm. Thường hay đi đến vô lượng nước Phật nhưng nơi thân tướng bình đẳng chẳng động Hiện bày phát hành tất cả Pháp lành nhưng đối với các Pháp chẳng được Thiện Ác. Hiện hành cầu Pháp có nơi hỏi nhận nhưng đối với Phật Đạo chẳng tùy theo Giáo khác.Hiện hành gần gũi Hòa Thượng các Thầy nhưng làm tất cả các Tôn của Trời Người (Thiên Nhân Tôn). Hiện cần thỉnh hỏi nhưng bên trong tự được Biện Tài không có chướng ngại. Hiện hành cung kính nhưng làm nơi kính ngưỡng của tất cả Trời Người.Hiện vào bào thai nhưng đối với các Pháp không có chỗ nhiễm ô. Hiện có sinh ra nhưng đối với các Pháp chẳng thấy sinh diệt.Hiện làm trẻ con nhưng các Căn của thân thảy đều đầy đủ. Hiện hành kỹ nghệ, y phương (nghề làm thuốc), văn chương , toán số, công xảo sự năng… nhưng bên trong trước nay thảy đều thông đạt. Hiện có bệnh khổ nhưng đã lìa hẳn các tật bệnh phiền não. Hiện bày suy yếu già nua nhưng ở trước nay các căn chẳng hoại. Hiện bày có chết nhưng chưa từng có sinh diệt lùi mất
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Bồ Tát trụ Bản Sự Quả Báo Tinh Tiến Ba La Mật (Vìrya-pàramità) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tuy biết các Pháp thường là Định Tướng nhưng bày cho chúng sinh các Thiền sai biệt. Hiện thân trụ Thiền cảm hóa kẻ loạn tâm nhưng đối với các Pháp chẳng thấy có loạn. Tất cả các Pháp như tướng Pháp Tính dùng điều phục Tâm nơi Thiền chẳng động. Hiện các uy nghi đi đứng ngồi nằm nhưng nhưng thường lặng lẽ tại nơi Thiền Định. Bày đồng với mọi người có chỗ nói năng nhưng thường chẳng bỏ các tướng Thiền Định. Thương xót chúng sinh vào ở thành ấp, thôn xóm, quận, nước nhưng thường tại Định. Vì muốn nhiêu ích các chúng sinh cho nên hiện có sự ăn uống nhưng thường tại Định. Thân ấy bền chắc giống như Kim Cương, bên trong thật chẳng hư chẳng thể phá hoại.Bên trong ấy không có Sinh Tạng, Thục Tạng, đại tiểu tiện, xú uế chẳng sạch. Hiện có chỗ ăn nhưng không có chỗ vào, chỉ vì thương xót nhiêu ích chúng sinh , ở tất cả nơi chốn không có tai vạ lỗi lầm. Hiện hành tất cả chỗ hành của phàm phu nhưng thật không có hành, đã vượt qua các hành.
Này Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hiện ở tại chốn Không Nhàn, thôn làng không có khác. Hiện ở tại nhà nhưng không khác xuất gia. Hiện làm Bạch Y nhưng chẳng phóng dật. Hiện làm Sa Môn nhưng chẳng tự cao. Ở trong Pháp xuất gia của các Ngoại Đạo, vì cảm hóa chúng sinh mà không có chỗ xuất gia, chẳng bị nhiễm dính tất cả Tà Kiến, cũng chẳng ở trong , nói là được thanh tịnh. Hiện hành tất cả Nghi Pháp của Ngoại Đạo nhưng chẳng tùy thuận đường lối đã hành ấy
Này Kiên Ý ! Ví như Đạo Sư đưa mọi người băng qua lối đi nguy hiểm xong quay trở lại hóa độ người khác.
Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội tùy theo chỗ phát ý Đạo của chúng sinh, hoặc Thanh Văn Đạo, hoặc Bích Chi Phật Đạo, hoặc phát Phật Đạo. Tùy nghi bày đường lối khiến được hóa độ xong, liền lại quay về hóa độ các chúng sinh khác. Chính vì thế cho nên Đại Sĩ có tên gọi là Đạo Sư.
Ví như chiếc thuyền bền chắc từ bờ bên này đưa vô lượng người khiến đến bờ bên kia. Đến bờ bên kia xong thì quay trờ lại đón đưa người khác. Như vậy Kiên Ý! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thấy các chúng sinh rơi xuống nước sinh tử bị bốn giòng chảy cuốn trôi, ví muốn độ thoát khiến được ra khỏi cho nên tùy theo căn lành mà người ấy đã gieo trồng khiến cho thành tựu. Nếu thấy người có thể dùng Duyên Giác hóa độ liền vì họ hiện thân bày đạo NIết Bàn. Nếu thấy người có thể dùng Thanh Văn hóa độ thì vì họ nói Tịch Diệt cùng với việc nhập vào Niết Bàn. Do sức của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cho nên quay trở lại hiện sinh độ thoát người khác. Chính vì thế cho nên Đại Sĩ có tên gọi là Thuyền Sư
Này Kiên Ý ! Ví như Huyễn Sư ở trước nhiều Chúng, tự hiện thân chết trương sình xấu nát, hoặc bị lửa thiêu đốt, hoặc bị chim thú ăn, ở trước mọi người hiện thân như vậy. Khi được tài vật xong liền trở lại như cũ, ấy là do huyễn thuật đã khéo hay học ấy. Bồ Tát như vậy trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội vì cảm hóa chúng sinh mà thị hiện già chết nhưng thật không có sinh già bệnh chết
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Bồ Tát trụ Bản Sự Quả Báo Thiền Ba La Mật (Dhyàna-pàramità) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Đức Phật bảo Kiên Ý :”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tu hành Trí Tuệ, các căn mạnh bén, chưa từng thấy có Tính của chúng sinh, vì muốn cảm hóa cho nên nói chúng sinh. Chẳng thấy người nhận (thọ giả), người có số phận (mệnh giả)…nói có người nhận, người có số phận. Chẳng được Tính của Nghiệp với Tính của Nghiệp Báo nhưng bày cho chúng sinh có Nghiệp, Nghiệp Báo. Chẳng được các Tính phiền não của sinh tử nhưng nói nên thấy biết phiền não của sinh tử. Chẳng thấy Niết Bàn nhưng nói đến Niết Bàn. Chẳng thấy các Pháp có tướng có sai biệt nhưng nói các Pháp có Thiện, Bất Thiện để hay vượt qua đến bờ Vô Ngại Trí. Hiện sinh ở cõi Dục (Dục Giới) nhưng chẳng nhiễm dính cõi Dục. Hiện hành Thiền của cõi Sắc (Sắc Giới) nhưng chẳng nhiễm dính cõi Sắc. Hiện nhập vào Định của Vô Sắc nhưng sinh ở cõi Sắc. Hiện hành Thiền của cõi Sắc nhưng sinh ở cõi Dục. Hiện ở cõi Dục nhưng chẳng hành giới hạnh của Dục. Đều biết các Thiền với biết Thiền Phần, tự tại đều hay nhập Thiền, xuất Thiền. Vì cảm hóa chúng sinh , tùy theo nơi sinh của Ý, tất cả nơi sinh ra đều hay thọ nhận thân, thường hay thành tựu Trí Tuệ thâm diệu, đoạn trừ các Hạnh của tất cả chúng sinh. Vì cảm hóa chúng sinh nên hiện có chỗ hành (Sở Hạnh) nhưng đối với các Pháp , thật không có chỗ hành, đều đã vượt qua tất cả các Hành, từ lâu đã diệt trừ Tâm của Ngã (Ta), Ngã Sở (cái của Ta) nhưng thị hiện thọ nhận các vật cần dùng.
Bồ Tát thành tựu Trí Tuệ như vậy, có chỗ cho, làm (Thí tác) đều tùy theo Trí Tuệ mà chưa từng bị vướng sự ô nhiễm của Nghiệp Quả. Vì cảm hóa chúng sinh, thị hiện câm ngọng nhưng bên trong thật có Phạm Âm vi diệu, thông đạt ngữ ngôn, Kinh Thư, bờ kia…. chẳng cần suy nghĩ trước nên nói Pháp nào, tùy theo Chúng đã đến, mọi điều nói ra đều màu nhiệm, thảy hay khiến tâm vui vẻ được bền chắc. Tùy theo chỗ tương ứng ấy mà nói Pháp mà Trí Tuệ của Bồ Tát đó chẳng giảm bớt.
Này Kiên Ý ! Ví như nam nữ, hoặc lớn hoặc nhỏ, tùy theo vật khí đã cầm đi đến nơi có nước hoặc suối, hoặc ao, kênh ngòi, sông, biển lớn… tùy theo vật khí lớn nhỏ đều chứa đầy rồi quay về mà các nước ấy không có sự giảm bớt
Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội tùy theo Chúng đã đến, hoặc chúng Sát Lợi, Chúng Bà La Môn, hoặc chúng Cư Sĩ, Chúng Đế Thích, Chúng Phạm Thiên…. đến các Chúng đó chẳng gia thêm tâm lực, hay dùng lời khéo đều khiến cho vui thích, tùy nghi chỗ tương ứng để mà diễn Pháp mà Trí Biện ấy không có chỗ giảm bớt.
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Bồ Tát trụ Bản Sự Quả Báo Bát Nhã Ba La Mật (Prajnõa-pàramità) của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Chúng sinh nhìn thấy đều được độ thoát. Có nghe tên gọi, có thấy uy nghi, có nghe nói Pháp, có thấy yên lặng… thì đều được cứu độ.
Này Kiên Ý ! Ví như Đại Dược Thụ Vương tên là Hỷ Kiến có người nhìn thấy đều được khỏi bệnh.Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Chúng sinh nhìn thấy thời bệnh Tham Sân Si đều được trừ khỏi.
Như Đại Dược Vương tên là Diệt Trừ . Nếu lúc chiến đấu, đem xoa bôi cái trống thời các kẻ bị tên bắn, đao, mâu, gây thương tích… được nghe tiếng trống thì trừ được chất độc phát ra từ mũi tên. Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Có người nghe tên thời mũi tên Tham Sân Si tự nhiên được bật ra, các chất độc Tà Kiến thảy đều trừ diệt, tất cả phiền não chẳng thể động phát.
Này Kiên Ý ! Ví như cây thuốc tên là Cụ Túc. Có người dùng rễ thì bệnh được trừ khỏi. Cọng, lóng, lõi, vỏ, cành, lá, hoa, quả đều hay trừ khỏi bệnh. Hoặc tươi, hoặc khô, hoặc chặt đứt từng đoạn thảy hay trừ khỏi các bệnh của chúng sinh.
Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cũng lại như vậy. Đối với các chúng sinh không có lúc nào chẳng có ích, thường hay diệt trừ tất cả mọi tai vạ… ấy là dùng nói Pháp kèm hành bốn Nhiếp, các Ba La Mật khiến được độ thoát. Hoặc người cúng dường, hoặc chẳng cúng dường, có ích, không có ích nhưng Bồ Tát đó đều dùng Pháp lợi khiến được an ổn, cho đến thân bị chết, có loài ăn thịt. Hoặc các súc sinh:hai chân, bốn chân với các loài chim, thú, người và Phi Nhân… các chúng sinh đó đều do sức Giới Nguyện của Bồ Tát cho nên, chết được sinh về cõi Trời, thường không có bệnh đau nhức, suy não, các tai vạ…
Này Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội giống như cây thuốc.
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, đời đời tự biết sáu Ba La Mật chẳng học theo người khác; nhấc bàn chân, hạ bàn chân, hít vào, thở ra… niệm niệm thường có sáu Ba La Mật. Tại sao thế ? Này Kiên Ý ! Bồ Tát như vậy, thân đều là Pháp Hành, đều là Pháp…
Này Kiên Ý ! Ví như có vị vua, hoặc các Đại Thần đem trăm ngàn loại hương giã làm bột . Nếu có người đến, lục tìm một loại trong đó, chẳng muốn hương khác xen lẫn vào
Kiên Ý ! Như vậy, trong bột của trăm ngàn chúng hương có thể tìm được một loại mà chẳng bị tạp khác vướng vào không ?
“Bạch Đức Thế Tôn ! Chẳng thể được”
Này Kiên Ý ! Bồ Tát đó dùng tất cả Ba La Mật xuông ướp thân tâm cho nên ở trong niệm niệm thường sinh sáu Ba La Mật.
Kiên Ý ! Bồ Tát làm thế nào để ở trong niệm niệm sinh sáu Ba La Mật ?
Này Kiên Ý ! Bồ Tát đó, tất cả thảy đều buông bỏ Tâm không có tham dính là Đàn Ba La Mật (Bố Thí Ba La Mật). Tâm khéo tịch diệt, rốt ráo không có ác là Thi Ba La Mật (Trì Giới Ba La Mật). Biết tướng tận cùng của Tâm, ở trong các Trần mà không có chỗ gây hại là Sạn Đề Ba La Mật (Nhẫn Nhục Ba La Mật). Siêng quán chọn Tâm, biết Tâm lìa Tướng là Tỳ Lê Gia Ba La Mật (Tinh Tiến Ba La Mật), Rốt ráo khéo vắng lặng điều phục Tâm ấy là Thiền Ba La Mật (Thiền Định Ba La Mật). Quán Tâm, biết Tâm, thông đạt Tướng của Tâm là Bát Nhã Ba La Mật (Tuệ Ba La Mật)
Này Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Pháp Môn như vậy, niệm niệm đều có sáu Ba La Mật”.
Bấy giờ Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Thật chưa từng có !
Thế Tôn ! Bồ Tát thành tựu Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thời chỗ đã thi hành ấy, thật chẳng thể nghĩ bàn !
Thế Tôn ! Nếu các Bồ Tát muốn hành Hạnh của Phật thì nên học Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó. Tại sao thế ? Vì Bồ Tát đó hiện hành tất cả Hạnh của các Phàm Phu nhưng ở Tâm của vị ấy không có tham sân si”
Lúc đó trong Chúng, có vị Đại Phạm Vương tên là Thành Từ bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát muốn hành tất cả Hạnh của các phàm phu thì nên học Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Tại sao thế ? Vì Bồ Tát đó hiện hành tất cả Hạnh của các Phàm Phu nhưng ở Tâm của vị ấy không có Hạnh của tham sân si”
Đức Phật nói:”Lành thay ! Lành thay Thành Từ ! Như ông đã nói. Nếu Bồ Tát muốn hành tất cả Hạnh của các phàm phu thì nên học Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Chẳng nghĩ nhớ tất cả các điều đã học (Sở học)”
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Bồ Tát muốn học Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thì nên học như thế nào ?”
Đức Phật bảo Kiên Ý ! Ví như học bắn. Trước tiên bắn mục tiêu lớn. Bắn mục tiêu lớn xong, học bắn mục tiêu nhỏ. Bắn mục tiêu nhỏ xong, tiếp học bắn cái đích. Học bắn cái đích xong, tiếp học bắn cây gậy. Học bắn cây gậy xong thì học bắn một trăm sợi lông. Bắn một trăm sợi lông xong, học bắn mười sợi lông. Bắn mười sợi lông xong, học bắn một sợi lông. Bắn một sợi lông xong, học bắn một phần trăm sợi lông. Hay bắn như thế xong thì gọi là Thiện Xạ, tùy ý chẳng không. Người đó nếu muốn ở trong bóng đêm nghe được âm thanh, hoặc Người, Phi Nhân… chẳng dùng tâm lực bắn đều trúng.
Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát muốn học Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Trước tiên nên học tâm yêu thích. Học tâm yêu thích xong, nên học tâm sâu kín. Học tâm sâu kín xong, nên học Đại Từ. Học Đại Từ xong, nên học Đại Bi. Học Đại Bi xong, nên học bốn Phạm Hạnh của Thánh là: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Học bốn Phạm Hạnh của Thánh xong, nên học Báo Đắc Tối Thượng Ngũ Thông thường tự tùy thân. Học Thông đó xong, khi ấy liền hay thành tựu sáu Ba La Mật. Thành tựu sáu Ba La Mật xong, liền hay thông đạt phương tiện. Thông đạt phương tiện xong, được trụ Nhu Thuận Nhẫn thứ ba. Trụ Nhu Thuận Nhẫn thứ ba xong, được Vô Sinh Pháp Nhẫn. Được Vô Sinh Pháp Nhẫn xong thời chư Phật thọ ký. Chư Phật thọ ký xong, hay nhập vào Đệ Bát Bồ Tát Địa. Vào Đệ Bát Bồ Tát Địa xong, được Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội. Được Chư Phật Hiện Tiền Tam Muội xong, thường chẳng lìa sự thấy chư Phật. Thường chẳng lìa sự thấy chư Phật xong, hay đầy đủ tất cả Nhân Duyên của Phật Pháp. Đầy đủ tất cả Nhân Duyên của Phật Phápxong, hay khởi Công Đức trang nghiêm cõi Phật. Hay khởi Công Đức trang nghiêm cõi Phật xong, hay đủ Chủng Tính của nhà sinh ra (Sinh Gia Chủng Tính). Hay đủ Chủng Tính của nhà sinh ra xong thời vào Thai, ra khỏi Thai. Vào Thai, ra khỏi Thai xong, hay đủ mười Địa. Hay đủ mười Địa xong, lúc đó liền được thọ nhận Chức Hiệu của Phật. Thọ Chức Hiệu của Phật xong, liền được tất cả Tam Muội của Bồ Tát. Được tất cả Tam Muội của Bồ Tát xong, sau đó liền được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội xong, hay vì chúng sinh thi hành việc Phật nhưng cũng chẳng buông bỏ Pháp của Bồ Tát Hạnh
Này Kiên Ý ! Nếu Bồ Tát học các Pháp như vậy, tức được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Bồ Tát đã được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tức đối với các Pháp không có chỗ học lại. Tại sao thế ? Vì trước kia đã khéo học tất cả Pháp cho nên ví như học bắn một phận của sợi lông thì chẳng học lại điều khác. Tại sao thế ? Vì trước kia đã học rồi.
Như vậy Kiên Ý ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, đối với tất cả Pháp không có chỗ học lại vì tất cả Tam Muội, tất cả Công Đức đều đã học xong”.
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con muốn nói thí dụ. Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe hứa”
Đức Phật nói:”Ông hãy nói đi”
“Thế Tôn ! Ví như Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Đại Phạm Thiên Vương tự nhiên có thể quán khắp cả ba ngàn Đại Thiên Thế Giới mà chẳng cần gia thêm công sức. Như vậy Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đối với tất cả Pháp tự nhiên có thể quán khắp mà chẳng cần dùng công sức. Lại cũng có thể biết mỗi một chỗ hành của Tâm chúng sinh”
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Như ông đã nói. Nếu Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội ắt biết tất cả Pháp của các Bồ Tát, tất cả Pháp của Phật”
Bấy giờ trong Hội có Thiên Đế Thích tên là Trì Tu Di Đỉnh ở cùng tận mé ngoài của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này, bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Ví như trụ ở đỉnh núi Tu Di ắt hay nhìn thấy tất cả thiên hạ. Bồ Tát như vậy trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đối với các Hạnh của Thanh Văn, Bích Chi Phật với tất cả Hạnh của chúng sinh tự nhiên có thể quán thấy”
Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát hỏi vị Trì Tu Di Đỉnh Thích đó rằng:”Ông từ chỗ nào của bốn Thiên Hạ đi đến ? Trụ tại đỉnh núi Tu Di nào ?”
Trì Tu Di Đỉnh Thích đó bảo rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Nếu có Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thời chẳng nên hỏi nơi trú xứ của vị ấy. Tại sao thế ? Như Bồ Tát này thời tất cả cõi Phật đều là trú xứ mà chẳng dính ở trú xứ, chẳng được trú xứ, chẳng thấy trú xứ”
Kiên Ý hỏi rằng:”Nhân Giả được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó chưa ?”
Trì Tu Di Đỉnh Thích nói:”Trong Tam Muội đó, lại còn có tướng được, chẳng được ư !”
Kiên Ý nói:”Chẳng thể có”
Trì Tu Di Đỉnh Thích nói: ”Này Thiện Nam Tử ! Nên biết Bồ Tát hành Tam Muội đó, đối với các Pháp đều không có chỗ đắc”
Kiên Ý nói:”Như ông đã biện luận, ắt đã được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó”
Trì Tu Di Đỉnh Thích nói:”Này Thiện Nam Tử ! Tôi chẳng thấy Pháp có chỗ trụ. Đối với tất cả Pháp không có chỗ trụ liền được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Này Thiện Nam Tử ! Trụ Tam Muội đó tức đối với các Pháp không có chỗ trụ. Nếu không có chỗ trụ tức không có chỗ nhận lấy. Nếu không có chỗ nhận lấy tức không có chỗ nói”
Bấy giờ Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát:”Ông thấy vị Trì Tu Di Sơn Thích đó chưa ?”
“Bạch Đức Thế Tôn ! Đã thấy”
“Này Kiên Ý ! Vị Trì Tu Di Đỉnh Thích đó tùy theo ý, hay được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Trụ Tam Muội đó ở các cung của Đế Thích trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này đều hay hiện thân”
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhân của cõi này bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nếu vị Trì Tu Di Sơn Thích hay hiện thân ở các cung của Đế Thích. Con ở tất cả nơi chốn của Đế Thích, tại sao chẳng nhìn thấy !?…”
Khi ấy Trì Tu Di Sơn Thích nói với vị Đế Thích này rằng:”Này Kiều Thi Ca ! Nếu nay Tôi dùng Thân thật bày cho ông thấy thời ông ở cung điện chẳng được mừng vui. Tôi thường đến cung điện mà ông đã trụ mà ông chẳng thấy tôi”
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con muốn thấy Thân thành tựu màu nhiệm (Thành Tựu Diệu Thân) của Đại Sĩ này”
Đức Phật nói:”Này Kiều Thi Ca ! Ông muốn thấy ư ?”
“Bạch Đức Thế Tôn ! Con vui nguyện muốn thấy”
Đức Phật bảo Trì Tu Di Sơn Thích rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Ông hãy hiện bày Thân chân thật màu nhiệm này”
Trì Tu Di Sơn Thích ấy liền hiện thân chân thật màu nhiệm
Khi đó trong Hội: các Thích, Vương, Hộ Thế Thiên Vương, Thanh Văn, Bồ Tát chưa được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thời thân đều chẳng hiện, giống như đống mực. Thân của Trì Tu Di Sơn Thích như núi vua Tu Di cao lớn hùng vĩ tỏa ánh sáng chiếu xa. Lúc đó thân của Đức Phật càng hiện sáng thêm gấp bội.
Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật rằng:”Thật chưa từng có ! Bạch Đức Thế Tôn! Nay thân của Đại Sĩ này thanh tịnh thù diệu khó theo kịp ! Các thân của Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương đó đều chẳng hiện giống như đống mực.
Thế Tôn ! Con ở tại cung điện Thiện Diệu trên núi Tu Di, đeo Thích Ca Tỳ Lăng Già, Ma Ni Anh Lạc. Do ánh sáng đó nên tất cả thân của Thiên Chúng đều chẳng thể hiện. Nay thân của con do ánh sáng của của Đại Sĩ này lại chẳng thể hiện… mọi báu, Anh Lạc đã đeo cũng không có màu sắc, ánh sáng”
Đức Phật bảo Thích Đề Hoàn Nhân:”Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này tràn đầy Thích Ca Tỳ Lăng Già, ngọc Ma Ni… Lại có ngọc Ma Ni của chư Thiên chiếu sáng, hay khiến cho viên ngọc này đều chẳng thể hiện.
Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này tràn đầy ngọc Ma Ni của chư Thiên chiếu sáng …Lại có Kim Cương Minh Ma Ni Châu hay khiến cho viên ngọc này đều chẳng thể hiện.
Này Kiều Thi Ca ! Nếu trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này tràn đầy Kim Cương Minh Ma Ni Châu …Lại có Chư Minh Tập Ma Ni Châu hay khiến cho viên ngọc này đều chẳng thể hiện.
Này Kiều Thi Ca ! Ông có thấy Chư Minh Tập Ma Ni Châu mà vị Trì Tu Di Sơn Thích đã đeo không ?
_”Bạch Đức Thế Tôn ! Con đã nhìn thấy. Chỉ vì ánh sáng của viên ngọc này quá sáng chói nên mắt của con chẳng thể chịu nổi”
Đức Phật bảo Kiều Thi Ca:”Nếu có Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hoặc làm Đế Thích đều đeo Anh Lạc Ma Ni như vậy”
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Chư Hữu chẳng phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề chẳng được thân màu nhiệm thanh tịnh như vậy, cũng lại bị mất Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó”
Lúc đó Cồ Vực Thiên Tử nói với Thích Đề Hoàn Nhân rằng:”Các người Thanh Văn đã nhập vàp Pháp Vị cho dù có khen ngợi, yêu thích Phật Đạo nhưng không thể làm, do ở sinh tử tạo sự che lấp ngăn cách. Nếu người đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, nay phát, sẽ phát…thì người đó liền ứng với sự yêu thích Phật Đạo, hay được sắc thân thượng diệu như vậy. Ví như có người sinh ra đã bị mù, cho dù khen ngợi, yêu thích mặt trời mặt trăng nhưng kẻ ấy vẫn chẳng biết gì về ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Như vậy Thanh Văn nhập vào Pháp Vị, cho dù có khen ngợi, yêu thích Phật Pháp nhưng Công Đức của Phật đối với thân vẫn không có ích gì. Chính vì thế cho nên người muốn được thân màu nhiệm, Đại Trí Tuệ này thì nên phát Tâm Vô Thượng Phật Bồ Đề, liền được sắc thân thượng diệu như vậy”
Lúc Cồ Vực Thiên Tử nói lời đó thời một vạn hai ngàn Thiên Tử phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát hỏi Cồ Vực Thiên Tử rằng:”Hành Công Đức nào để chuyển thân người nữ ?”
Đáp rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Người phát Đại Thừa chẳng thấy Nam Nữ có sự khác biệt. Tại sao thế ? Vì Tâm Tát Bà Nhã (Tâm Nhất Thiết Trí) chẳng ở tại ba cõi. Do có phân biệt nam nữ cho nên có nam có nữ.
Nhân Giả đã hỏi:”Hành Công Đức nào để chuyển thân người nữ ?”. Việc xưa kia, Tâm của Bồ Tát không có sự nịnh nọt quanh co
“Làm sao mà phụng sự ?”
Đáp rằng:”Như phụng sự Đức Thế Tôn”
“Làm thế nào mà Tâm ấy chẳng có sự nịnh nọt, quanh co ?”
Đáp rằng:”Nghiệp của thân tùy theo miệng, nghiệp của miệng tùy theo Ý. Đấy gọi là Tâm của người nữ không có sự nịnh nọt, quanh co”
Hỏi rằng:”Làm sao chuyển thân người nữ ?”
Đáp rằng:” Như Thành”
Hỏi rằng:”Làm sao Như Thành?”
Đáp rằng:” Như Chuyển”
Hỏi rằng:”Này Thiên Tử ! Lời nói này có nghĩa gì ?”
Đáp rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Trong tất cả các Pháp chẳng thành chẳng chuyển. Các Pháp có một vị ấy là vị của Pháp Tính.
Thiện Nam Tử ! Ta tùy theo ước nguyện có thân người nữ. Nếu khiến thân của ta được thành nam tử thì đối với tướng của thân nữ vẫn chẳng hoại chẳng buông bỏ
Này Thiện Nam Tử ! Chính vì thế nên biết Nam đó, Nữ đó đều là điên đảo. Tất cả các Pháp cùng với điên đảo thảy đều trọn hết lìa ở hai Tướùng”
Kiên Ý Bồ Tát hỏi Cồ Vực rằng:”Ông đối với Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có biết chút phần nào chăng?”
Đáp rằng:”Thiện Nam Tử ! Tôi biết người khác đã được, còn tự thân thì chưa chứng.
Tôi nhớ lúc trước, khi Đức Thích Ca mâu Ni Phật ở tại nhà của vua Tịnh Phạn làm Bồ Tát, thời ở trong Chúng Thể Nữ bên trong cung điện, nửa đêm thanh tịnh. Khi ấy hằng hà sa đẳng các Phạm Vương từ phương Đông đi đến, có người hỏi về Bồ Tát Thừa, có người hỏi về Thanh Văn Đạo…. Bồ Tát tùy theo chỗ hỏi mà đáp. Ở trong Phạm Chúng có một vị Phạm Vương chẳng hiểu phương tiện mà Bồ Tát đã hành nên nói lời này:”Nhân Giả đã có Trí Tuệ như vậy, khéo đáp việc đã hỏi. Tại sao còn tham ái vương vị, sắc dục ?”
Các vị Phạm Vương khác biết rõ Trí Tuệ Phương Tiện của Bồ Tát nên nói với vị Phạm Vương kia rằng:”Bồ Tát chẳng tham vương vị sắc dục. Sắp tới vì giáo hóa thành tựu chúng sinh nên ở tại nhà hiện làm Bồ Tát rồi ngày nay ở phương khác thành tựu Phật Đạo, chuyển bánh xe Diệu Pháp”
Vị Phạm Vương kia nghe xong, liền nói là:”Được Tam Muội nào mà có thể làm Thần Biến tự tại như vậy ?”
Vị Phạm Vương khác nói rằng:”Đấy là thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Này Thiện Nam Tử ! Vào lúc đó, tôi tác niệm là:”Bồ Tát trụ Tam Muội, Thần Lực cảm ứng thật chưa từng thấy ! Ở tại ái dục, trông coi việc nước mà có thể chẳng lìa Tam Muội như vậy”
Tôi nghe điều này xong thì tăng cung kính bội phần nơi Bồ Tát đã sinh, tưởng Đức Thế Tôn, thâm sâu phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Nguyện ở đời sau cũng sẽ thành tựu Công Đức như vậy
Này Thiện Nam Tử ! Chỗ thấy của tôi chí có chút phần như vậy. Tôi chỉ biết Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội này sẽ có vô lượng thế lực Công Đức chẳng thể nghĩ bàn”
Kiên Ý bạch Phật rằng:”Thật hiếm có ! Bạch Đức Thế Tôn ! Cồ Vực Thiên Tử đó dùng tâm sâu xa nói điều này đều là Đức Như Lai đã làm nơi thường thủ hộ của bậc Thiện Tri Thức
Thế Tôn ! Cồ Vực Thiên Tử chẳng lâu cũng sẽ trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, được thế lực Thần Biến tự tại đó như ngày nay Đức Thế Tôn đã làm, không có khác”
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay trong Hội này còn có người nào được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó không ?”
Bấy giờ trong Hội có vị Thiên Tử tên là Hiện Ý bảo Kiên Ý Bồ Tát rằng:”Ví như khách đi buôn vào trong biển lớn mà nói lời này:”Trong biển lớn này có ngọc Ma Ni, có thể cầm vứt đi không ?”Lời nói của ông tựa như điều đó. Tại sao thế ? Vì ở Đại Trí Hải Hội của Đức Như Lai. Trong đó, Bồ Tát thành tựu Pháp Bảo, phát đại trang nghiêm. Ông ngồi bên trong mà lại hỏi rằng:”Ở trong Hội này còn có Bồ Tát nào được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó không?”
Này Kiên Ý ! Nay trong Hội này có Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội hiện thân Đế Thích, có vị hiện thân Phạm Vương. Có vị hiện thân của các hàng TRời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già. Có vị được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội hiện thân: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Có vị được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội dùng các tướng tốt để tự nghiêm thân. Tự có Bồ Tát vì cảm hóa chúng sinh hiện làm hình sắc tướng mạo của thân nữ . Có vị hiện hình sắc tướng mạo của Thanh Văn. Có vị hiện hình sắc tướng mạo của Bích Chi Phật.
Này Kiên Ý ! Đức Như Lai tùy theo Chúng đã đến, hoặc chúng Sát Lợi, chúng Bà La Môn, hoặc chúng cư sĩ, chúng Đế Thích, chúng Phạm Thiên, các chúng Hộ Thế… tùy theo các chúng đó khắp hay thị hiện hình sắc tướng mạo. Nên biết đều là Bản Sự Quả Báo của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Này Kiên Ý ! Nếu thấy nơi mà Đức Như Lai đã nói Pháp. Nên biết trong chỗ này tức có vô lượng các Đại Bồ Tát có Đại Trí Tự Tại, phát đại trang nghiêm, tự tại hành nơi tất cả Pháp, hay tùy theo Đức Như Lai chuyển bánh xe Pháp”.
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Nay con nói vị Hiện Ý Thiên Tử đó được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội như vị ấy có Trí Tuệ, biện tài không ngại, Thần Thông như vậy “
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Như ông đã nói. Hiện Ý Thiên Tử đó đã trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Thông đạt Tam Muội đó cho nên hay nói lời đó”
Bấy giờ Đức Phật bảo Hiện Ý Thiên Tử:”Ông có thể thị hiện chút phần Bản Sự của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Hiện Ý Thiên Tử nói với Kiên Ý Bồ Tát rằng:”Nhân giả muốn thấy chút thế thực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội không?”
Đáp rằng:”Thiên Tử ! Tôi vui nguyện muốn thấy”
Do Hiện Ý Thiên Tử khéo được sức của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cho nên liền hiện biến khiến chúng hội đều là Chuyển Luân Thánh Vương có 32 tướng tự trang nghiêm với các quyến thuộc, bảy báu theo hầu.
Thiên Tử hỏi rằng:”Ông thấy thế nào?”
Kiên Ý đáp rằng:”Tôi thấy chúng hội đều là sắc tướng của Chuyển Luân Thân Vương có quyến thuộc, bảy báu theo hầu”
Khi ấy Thiên Tự lại hiện chúng hội đều là Thích Đề Hoàn Nhân ở cung Đao Lợi có trăm ngàn Thiên Nữ tấu mọi kỹ nhạc vây quanh vui đùa. Lại dùng Thần Lực khiến khắp chúng hội đều là Phạm Vương với sắc tướng uy nghi ở tại cung Phạm, hành bốn Vô Lượng
Lại hỏi Kiên Ý:”Ông thấy thế nào?”
Đáp rằng:”Thiên Tử ! Tôi thấy chúng hội đều là Phạm Vương”
Lại hiện Thần Lực khiến khắp chúng hội đều là Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp với hình sắc tướng mạo, cầm giữ y bát, nhập vào các Thiền Định, hành tám Giải Thoát không có khác .
Lại hiện Thần Lực khiến khắp chúng hội đều như Đức Thích Ca Mâu Ni Phật với thân tướng tốt uy nghi, đều có quyến thuộc Tỳ Kheo vây quanh.
Lại hỏi Kiên Ý:”Ông thấy thế nào?”
Đáp rằng:”Thiên Tử ! Tôi thấy Đại Chúng đều là Thích Ca Mậu Ni Phật với thân tướng tốt uy nghi, đều có quyến thuộc Tỳ Kheo vây quanh”
Hiện Ý Thiên Tử nói với Kiên Ý rằng:”Đấy là thế lực tự tại như vậy của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Này Kiên Ý ! Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, có thể đem ba ngàn Đại Thiên Thế Giới vào trong một hạt cải, khiến cho các núi, sông, mặt trời, mặt trăng, tinh tú đều hiện như cũ mà chẳng chèn ép để bày chúng sinh đó.
Này Kiên Ý ! Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có thế lực chẳng thể nghĩ bàn như vậy”
Bấy giờ các Đại Đệ Tử với các Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Thích, Phạm, Hộ Thế Thiên Vương đồng thanh bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Nếu người được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thì người ấy có Công Đức chẳng thể nghĩ bàn. Tại sao thế ? Vì người đó tức là Phật Đạo cứu cánh, thành tựu Trí Tuệ, Thần Thông, các Minh. Ngày nay chúng con ở trên một Tòa thấy khắp mỗi loại sắc tướng của chúng Hội, hoặc ngần ấy cái hiện ra. Chúng con chỉ nhớ nếu người chẳng nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội , nên biết đó là Ma được dịp thuận tiện gây hại. Nếu gười được nghye, nên biết người đó được sự hộ giúp của chư Phật. Huống chi là Hành Giả nghe xong, lại tùy nói.
Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát muốn thông đạt Phật Pháp, đến ở bờ bên kia, thì nên một lòng lắng nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, thọ trì đọc tụng, vì người khác nói.
Thế Tôn ! Nếu Bồ Tát muốn khiện khắp tất cả hình sắc uy nghi , muốn đều biết khắp tất cả tâm , chỗ hành của tâm …của chúng sinh. Lại muốn biết khắp tất cả chúng sinh, tùy theo bệnh cho thuốc… thì nên khéo lắng nghe Pháp Bảo của Tam Muội đó rồi thọ trì đọc tụng.
Thế Tôn ! Nếu người được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó. Nên biết người đấy nhập vào Cảnh Giới Trí Tuệ Tự Tại của Phật”
Đức Phật nói:”Như vậy ! Như vậy ! Như các ông nói. Nếu người chẳng được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thì chẳng được gọi là Thâm Hành Bồ Tát. Như Lai chẳng nói người này đầy đủ Bố Thí, Trì Giới, NhẫnNhu5c, Tinh Tiến, Thiền Định, Trí Tuệ. Chính vì thế cho nên các ông nếu muốn hành khắp tất cả Đạo thì nên học được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, chẳng nhớ tất cả các điều đã học”
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát hỏi Hiện Ý Thiên Tử rằng:”Nếu Bồ Tát muốn được Tam Muội đó thì nên tu hành Pháp nào ?”
Thiên Tử đáp rằng:”Nếu Bồ Tát muốn được Tam Muội đó thì nên tu hành Pháp của Phàm Phu. Nếu thấy Pháp của Phàm Phu, Pháp của Phật chẳng hợp chẳng tan thì đấy gọi là tu tập Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Kiên Ý hỏi rằng:”Ở trong Pháp của Phật có hợp tan ư ?”
Thiên Tử đáp rằng:”Trong Pháp của Phàm Phu còn không có hợp tan huống chi là Pháp của Phật. Thế nào gọi là tu hành ? Nếu hay thông đạt các Pháp của Phàm Phu, Pháp của Phật không có hai thì đấy gọi là tu tập nhưng thật ra Pháp này không có hợp, không có tan.
Này Thiện Nam Tử ! Tất cả Pháp Tập (góp lại) không có tướng sinh. Tất cả Pháp Tập không có tướng hoại. Tất cả Pháp Tập như tướng hư không. Tất cả Pháp Tập không có tướng thọ nhận”
Kiên Ý lại hỏi:”Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đi đến chốn nào ?”
Thiên Tử đáp rằng:”Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đi đến tất cả Tâm Hành của chúng sinh nhưng cũng chẳng duyên theo tướng nhận lấy của Tâm Hành. Đi đến tất cả nơi đã sinh nhưng cũng chẳng bị sự ô nhiễm của nơi sinh. Đi đến tất cả Thế Giới, cõi Phật nhưng chẳng phân biệt thân tướng tốt. Đi đến tất cả âm thanh ngữ ngôn nhưng chẳng phân biệc các tướng của văn tự. Khắp hay mở bày tất cả Phật Pháp nhưng chẳng đến chốn rốt ráo cùng tận (tất cánh tận xứ)
Thiện Nam Tử hỏi Tam Muội đó đến chốn nào ? Tùy theo chỗ Đức Phật đã đến thì Tam Muội đó cũng đến như vậy”
Kiên Ý hỏi rằng:”Đức Phật đến chốn nào ?”
Thiên Tử đáp rằng:”Đức Phật Như Như cho nên đến nơi không có chỗ đến”
Lại hỏi:”Đức Phật chẳng đến Niết Bàn ư ?”
Đáp rằng:”Tất cả các Pháp rốt ráo là Niết Bàn. Chính vì thế cho nên Như Lai chẳng đến Niết Bàn. Tại sao thế ? Vì Tính Niết Bàn cho nên chẳng đến Niết Bàn”
Lại hỏi:”Hằng hà sa đẳng chư Phật quá khứ chẳng đến Niết Bàn ư ?”
Đáp rằng:”Hằng sa chư Phật vì điều đó sinh ư?”
Kiên Ý đáp rằng:”Đức Như Lai đã nói:Hằng sa chư Phật đã diệt độ”
Thiên Tử nói:”Này Thiện Nam Tử ! Đức Như Lai há chẳng nói: Một người ra đời đem lại nhiều sự nhiêu ích an vui cho chúng sinh. Ý của ông thế nào ? Đức Như Lai vì định được các chúng sinh có sinh diệt ư ?”
Đáp rằng:”Thiên Tử ! Đức Như Lai đối với Pháp chẳng được sinh diệt”
“Thiện Nam Tử nên biết tuy Đức Như Lai nói chư Phật xuất hiện ở Thế Gian nhưng đối với tướng của Như Lai thì thật không có sinh. Tuy nói chư Phật đến nơi Niết Bàn nhưng đối với tướng của Như Lai thì thật không có diệt”.
Lại hỏi:”Hiện nay vô lượng Như Lai được thành Đạo không?”
Đáp rằng:”Tướng không sinh không diệt của Như Lai, như thế là thành Đạo. Này Thiện Nam Tử ! Hoặc chư Phật hiện ra, hoặc vào Niết Bàn đều khyo6ng có sai biệt. Tại sao thế ? Vì Như Lai thông đạt tất cả các Pháp là tướng Tịch Diệt. Đấy gọi là Phật”
Lại hỏi:”Nếu tất cả Pháp rốt ráo tịch diệt thì tướng của Niết Bàn có thể thông đạt chăng?”
Đáp rằng:”Như tất cả Pháp rốt ráo tịch diệt đồng với tướng của Niết Bàn. Tướng thông đạt cũng lại như vậy.
Này Thiện Nam Tử ! Như Lai chẳng do Sinh Trụ Dị Diệt mà ra. Không có Sinh Trụ Dị Diệt, đấy gọi là Phật xuất hiện”
Kiên Ý hỏi rằng:”Ông trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hay tác nói như vậy sao ?”
Đáp rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Ý của ông thế nào ? Hóa Nhân (người do sự biến hóa) của Như Lai trụ trong Pháp nào để có chỗ nói?”
Kiên Ý đáp rằng:”Nương vào Thần Lực của Đức Phật, hay có chỗ nói”
Lại hỏi:”Đức Phật trụ nơi nào để tác Hóa Nhân?”
Đáp rằng:”Đức Phật trụ vào Thần Thông không hai để tác Hóa Nhân”
Thiên Tử nói:”Như Đức Như Lai trụ vào Pháp chẳng trụ để tác Hóa Nhân. Các Hóa Nhân cũng trụ vào Pháp chẳng trụ mà có chỗ nói”
Kiên Ý nói:”Nếu không có chỗ trụ thì làm sao có nói?”
Thiên Tử nói:”Như không có chỗ trụ nói cũng như vậy”
Lại hỏi:”Bồ Tát làm sao có đầy đủ Nhạo Thuyết Biện Tài ?”
Đáp rằng:”Bồ Tát chẳng dùng tướng của Ta, chẳng dùng tướng của cái kia, chẳng dùng tướng của Pháp nên có chỗ nói. Đấy gọi là đầy đủ Nhạo Thuyết Biện Tài. Tùy theo chỗ nói Pháp mà tướng của văn tử chẳng tận, tướng của Pháp cũng chẳng tận. Như vậy người nói chẳng dùng hai Thuyết. Đấy gọi là đầy đủ Nhạo Thuyết Biện Tài.
Lại nữa, Thiện Nam Tử ! Nếu Bồ Tát chẳng buông bỏ tướng Huyễn của các Pháp, đối với âm thanh chẳng buông bỏ tướng vang dội lại. Đấy gọi là đầy đủ Nhạo Thuyết Biện Tài.
Lại như các văn tự, âm thanh, ngữ ngôn: không có nơi chốn, không có phương hướng, không có bên trong, không có bên ngoài, không có chỗ trụ, theo mọi Duyên có. Tất cả các Pháp cũng lại như vậy: không có nơi chốn, không có phương hướng, không có bên trong, không có bên ngoài cũng không có chỗ trụ. Chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chẳng là nơi biểu thị của văn tự ngôn từ. Bên trong tự thông đạt mà có chỗ nói. Đấy gọi là đầy đủ Nhạo Thuyết Biện Tại.
Ví như tiếng vang dội lại, tất cả âm thanh đều tùy theo tướng vang dội lại mà có chỗ nói”
Kiên Ý hỏi rằng:”Thế nào là Tùy theo nghĩa ?”
“Này Thiện Nam Tử ! Tùy theo hư không là tùy theo nghĩa. Như hư không không có chỗ tùy theo thì tất cả Pháp nói (Thuyết Pháp) cũng không có chỗ tùy theo. Các Pháp không có so sánh, không có ví dụ. Vì điều có được mà nói là có chỗ tùy theo”
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Thiên Tử rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Như ông đã nói. Bồ Tát đối với điều này chẳng nên kinh sợ. Tại sao thế ? Vì nếu có chỗ để tùy theo thì chẳng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Vị Hịện Ý Thiên Tử đó từ cõi Phật nào đi đến chốn này ?”
Thiên Tử nói rằng:”Ông hỏi để làm gì ?”
Kiên Ý đáp:”Nay tôi muốn biết phương ấy là chốn nào để làm lễ trụ xứ du hành của Đại Sĩ đó”
Thiên Tử nói rằng:”Nếu người thủ đắc Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thì tất cả chư Thiên, người dân của Thế Gian đều nên lễ kính”
Bấy giờ Đức Phật bảo Kiên Ý:”Hiện Ý Thiên Tử đó từ Thế Giới Diệu Hỷ của Đức Phật A Súc đi đến nơi này. Người đấy ở đó thường nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Này Kiên Ý ! Tất cả chư Phật, không có vị nào chẳng nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
NàyKiên Ý ! Hiện Ý Thiên Tử đó ở Thế Giới Ta Bà này sẽ được thành Phật. Người đó muốn chặt đứt điều ác năm trược, chọn lấy cõi Phật thanh tịnh để giáo hóa chúng sinh, tu tập tăng trưởng Thủ Lăng Nghiêm cho nên đi đến chốn này”.
Kiên Ý bạch Phật rằng:”Nay Thiên Tử này, khoảng bao lâu sẽ ở Thế Giới này được thành Phật Đạo ? Hiệu ấy thế nào? Thế Giới tên là gì ?”
Đức Phật nói:”Thiên Tử đó trải qua ngàn vị Phật đời Hiền Kiếp diệt độ xong, sáu mươi hai kiếp lại không có Phật, khoảng giữa chỉ có trăm ngàn vạn ức Bích Chi Phật xuất hiện. Trong thời gian ấy, chúng sinh được gieo căn lành. Qua kiếp đó xong, sẽ được thành Phật hiệu là Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai, khi ấy Thế Giới tên là Tịnh Kiến. Thời đó Đức Tịnh Quang Xưng Vương Như Lai hay khiến cho tâm của chúng sinh được thanh tịnh, chúng sinh trong Thế Giới chẳng bị Tham dục, giận dữ, ngu si ngăn che, được Pháp Tịnh Tín đều hành Pháp lành
Này Kiên Ý ! Đức Tịnh Quang Xưng Vương Phật đó thọ mười tiểu kiếp, dùng Pháp của ba Thừa độ thoát chúng sinh. Trong đó, vô lượng vô biên Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, ở trong các Pháp được sức tự tại. Bấy giờ Ma hoặc Ma Dân đều tu Đại Thừa, thương lo cho chúng sinh. Quốc Độ của Đức Phật ấy không có ba nẻo ác với các chốn có nạn, trang nghiêm trong sạch như Uất Đan Việt, không có mọi việc Ma, lìa các Tà Kiến. Sau khi Đức Phật diệt độ, Pháp trụ ngàn vạn ức năm.
Này Kiên Ý ! Thiên Tử đó sẽ ở quốc độ thanh tịnh như vậy mà thành Phật Đạo”
Bấy giờ Kiên Ý Bồ Tát nói với Thiên Tử rằng:”Ông được lợi lớn ! Đức Như Lai trao cho ông A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký”
Thiên Tử đáp rằng:”Này Thiện Nam Tử ! Đối với tất cả Pháp không có chỗ được, đấy gọi là lợi lớn. Đối với Pháp có chỗ được, đấy tức không có lợi. Thiện Nam Tử ! Chính vì thế nên biết nếu chẳng được Pháp, đấy gọi là lợi lớn”
Lúc nói Pháp đó thời hai vạn năm ngàn Thiên Tử từng ở đời trước gieo trồng gốc mọi Đức đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có vạn Bồ Tát được Vô Sinh Nhẫn.
***
QUYỂN HẠ
Bấy giờ Xá Lợi Phất (‘Sàriputra) bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Thật chưa từng có ! Nay nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà Ác Ma đó chẳng đến gây nhiễu loạn”
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:”Ông muốn thấy việc suy não của Ma không ?”
“Dạ thưa ! Con muốn thấy”
Khi ấy Đức Phật phóng ánh sáng của tướng Đại Nhân từ Bạch Hào (sợi lông trắng xoáy vòng theo bên phải) ở tam tinh thời tất cả chúng hội đều thấy Ác Ma bị năm sự cột trói mà chẳng thể tự giải.
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:”Ông có thấy Ác Ma bị năm sự cột trói chăng?”
“Dạ thưa ! Con đã thấy. Ác Ma này bị sự cột trói của ai ?”
Đức Phật nói:”Đó là sức uy thần của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Tại nơi cõi Phật nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, các Ma trong chỗ ấy muốn dùng tâm ác gây sự chướng ngại. Do Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cùng với sức uy thần của chư Phật cho nên các Ác Ma ấy đều tự thấy thân bị năm sự cột trói.
Này Xá Lợi Phất ! Tại nơi chốn đã nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hoặc Ta đang hiện tiền, hoặc sau khi Ta diệt độ. Trong đó hết thảy các Ma, Ma dân với nhóm người khác ôm mang tâm ác…Dùng sức uy thần của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cho nên đều bị năm sự cột trói”
Bấy giờ trong Hội:hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà …bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Chúng con đối với Tam Muội này, tâm không có nghi, chẳng bị chướng ngại. Chúng con chẳng muốn thân này bị năm sự cột trói.
Thế Tôn ! Chúng con cung kính Tam Muội này cho nên đều sẽ đi đến hộ giúp người nói Pháp đó, đối với Tam Muội đó sinh tưởng như Đức Thế Tôn”
Đức Phật bảo các Trời Rồng, Thần:”Ông dùng điều đó cho nên đối với mười hai Kiến Phộc (sự cột buộc của 12 loại Kiến) để được giải thoát.
Nhóm nào là mười hai ?
_ Sự cột buộc của Ngã Kiến
_ Sự cột buộc của Chúng Sinh Kiến
_ Sự cột buộc của Thọ Mệnh Kiến
_ Sự cột buộc của Nhân Kiến
_ Sự cột buộc của Đoạn Kiến
_ Sự cột buộc của Thường Kiến
_ Sự cột buộc của Ngã Tác Kiến
_ Sự cột buộc của Ngã Sở Kiến
_ Sự cột buộc của Hữu Kiến
_ Sự cột buộc của Vô Kiến
_ Sự cột buộc của Thử Bỉ Kiến
_ Sự cột buộc của Chư Pháp Kiến
Đấy là mười hai. Các ông nên biết, nếu có chúng sinh ở trong Phật Pháp khởi tâm sân hận muốn hủy hoại đều do trụ ở mười hai Kiến Phộc (sự cột buộc của 12 loại Kiến) này. Nếu người Tín Giải tùy thuận chẳng nghịch nơi mười hai Kiến Phộc này sẽ được giải thoát.
Lúc đó, Xá Lợi Phất bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Ác Ma ở ngày nay có được nghe nói tên của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội này không?”
Đức Phật nói:”Cũng được nghe. Do bị cột trói cho nên chẳng thể đến được”
Xá Lợi Phất nói:”Vì sao Đức Như Lai chẳng dùng Thần Lực khiến cho Ma chẳng được nghe nói tên gọi của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội ?”
Đức Phật nói:”Ngưng ngay ! Đừng nói lời này ! Giả sử lửa lớn tràn đầy trong hằng hà sa đẳng Thế Giới, vì nghe nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội này, sẽ theo đó vượt qua được. Tại sao thế ? Nếu người chỉ nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội . Ta nói người này được thiện lợi thù thắng lớn, được bốn Thiền, sinh vào bốn cõi Phạm
Này Xá Lợi Phất ! Nếu khiến cho Ác Ma ngày nay được nghe nói tên gọi của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Do nhân duyên này sẽ được ra khỏi tất cả việc Ma. Nếu kẻ do bị cột trói mà được nghe cũng sẽ ở mười hai Kiến Phộc này mà được giải thoát.
Chính vì thế cho nên Xá Lợi Phất ! Người ác tà kiến nhập vào lưới Ma con nên nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội này huống chi là kẻ có tâm trong sạch, vui vẻ muốn nghe”
Bấy giờ trong Hội có một vị Bồ Tát tên là Ma Giới Hành Bất Ô bạch Phật rằng:”Dạ vâng ! Bạch Đức Thế Tôn ! Nay con sẽ hiện ở trong cõi Ma (Ma giới) dùng sức Thần tự tại khiến cho Ma được trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Đức Phật nói:”Tùy theo ý của ông”
Thời Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát liền ở trong Hội, đột nhiên chẳng hiện. Hiện ra ở cung Ma, nói với Ác Ma rằng:”Ngươi còn chưa nghe Đức Phật nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, vô lượng chúng sinh đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề ra khỏi cảnh giới của ngươi, cũng đều sẽ lại độ thoát người khác ra khỏi cảnh giới của ngươi”
Ma liền báo rằng:”Tôi nghe Đức Phật nói tên gọi của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Do bị năm sự cột trói nên chẳng thể đến được. Năm sự cột trói ấy là: bị cột buộc ở hai bàn tay, hai bàn chân với cái đầu”
Lại hỏi Ác Ma :”Ai cột trói ngươi ?”
Ma liền đáp rằng:”Tôi ưa phát tâm muốn đến gây hoại loạn người nghe nhận Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, liền bị năm sự cột trói. Tôi lại nghĩ rằng:”Chư Phật Bồ Tát có uy đức lớn, khó thể gây hoại loạn, nếu Ta đi đến , hoặc sẽ tự hoại chẳng như tự trụ ở cung điện này”. Tác niệm đó xong liền ở năm sự cột trói mà được giải thoát”
Bồ Tát đáp rằng:”Như vậy tất cả phàm phu nhớ tưởng phân biệt, điên đảo nhận lấy tướng vì thế cho nên có sự trói buộc. Động niệm hý luân cho nên có sự trói buộc. Thấy, nghe, hiểu, biết cho nên có sự trói buộc. Trong đây thật không có sự cột buộc, sự cởi bỏ. Tại sao thế ? Vì các Pháp không có cột trói, vốn giải thoát. Các Pháp không có cởi bỏ vốn không có trói buộc .Tướng thường giải thoạt, không có ngu si. Đức Như Lai dùng Pháp Môn này nói Pháp. Nếu có chúng sinh được biết nghĩa này, muốn cầu Giải Thoát thì tâm nên siêng năng tinh tiến, liền ở các sự trói buộc mà được giải thoát”
Thời trong Ma Chúng có bảy trăm Thiên Nữ đem hương hoa, hương bột, hương xoa bôi với Anh Lạc của cõi Trời rải lên Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát rồi nói rằng:”Vào lúc nào thời con ở cõi Ma mà được giải thoát ?”
Bồ Tát bảo rằng:”Các ngươi nếu chẳng hoại sự cột trói của Ma (Ma phộc), tức được giải thoát. Thế nào gọi là sự cột trói của Ma ? Ấy là sáu mươi hai Kiến. Nếu người chẳng hoại các Kiến này, tức ở sự cột trói của Ma mà được giải thoát”
Thiên Nữ lại nói:”Vì sao gọi là chẳng hoại các Kiến mà được giải thoát ?”
Đáp rằng:”Các Kiến vốn không có chỗ theo đến, đi không có chỗ đến. Nếu biết tướng không có đi, đến của các Kiến, tức ở sự cột trói của Ma mà được giải thoát. Các Kiến chẳng phải có, chẳng phải không có. Nếu chẳng phân biệt có, không, tức ở sự cột trói của Ma mà được giải thoát. Nếu không có chỗ thấy, đó là Chính Kiến. Chính Kiến như vậy không có chính, không có Tà. Nếu Pháp không có chính, không có Tà, không có tạo tác, không có thọ nhận, tức ở sự cột trói của Ma mà được giải thoát. Các Kiến đó chẳng phải bên trong, chẳng phải bên ngoài cũng chẳng phải khoảng giữa. Như vậy các Kiến cũng chẳng nhớ niệm, tức ở sự cột trói của Ma mà được giải thoát”.
Bảy trăm Thiên Nữ nghe nói Pháp này liền được Thuận Nhẫn, rồi nói rằng:”Chúng con cũng sẽ ở trong cõi Ma hành không có nhiễm ô, độ thoát tất cả sự cột trói của Ma”
Bấy giờ Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát nói với Ác Ma rằng:”Các quyến thuộc của ngươi đã phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Ngươi làm việc gì ?”
Ác Ma đáp rằng:”Tôi bị năm sự cột trói, chẳng biết việc làm”
Bồ Tát đáp rằng:’Ngươi phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề sẽ theo sự cột buộc này mà được giải thoát”
Thời các Thiên Nữ thương lo cho Ma nên đều nói rẳng:”Có thể phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Đừng ở chỗ an ổn mà sinh tưởng sợ hãi. Đừng ở trong niềm vui mà sinh tưởng khổ. Đừng ở chỗ giải thoát mà sinh tưởng trói buộc”
Khi ấy, Ác Ma sinh tâm quanh co mà nói rằng:”Nếu ngươi buông lìa Tâm Bồ Đề thì Ta sẽ phát Tâm”
Thời các Thiên Nữ dùng sức phương tiện, rồi nói với Ma rằng:”Chúng tôi đều đã buông lìa Tâm này. Ông liền có thể phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Nếu một Bồ Tát phát Tâm Bồ Đề thì tất cả Bồ Tát cũng đồng với Tâm đó. Tại sao thế ? Vì Tâm không có sai biệt, đối với tâm của các chúng sinh đều bình đẳng”
Khi đó Ác Ma nói với Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát rằng:”Nay tôi sẽ phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Do căn lành đó khiến cho tôi cởi được sự cột trói”
Nói lời này xong, liền tự thấy thân từ sự cột buộc được giải bỏ. Thời Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát dùng sức Thần Thông phóng ánh sáng lớn, hiện thân trong sạch màu nhiệm chiếu nơi cung Ma. Ma tự thấy thân không có uy quang giống như đống mực.
Thời trong Ma Chúng, hai trăm Thiên Nữ dính sâu vào sự dâm dục nhìn thấy thân sắc đoan chính của Bồ Tát này liền khởi nhiễm ái đều nói lời này:”Nếu người này có thể cho tôi theo phụng sự. Chúng tôi đều sẽ tùy thuận sự dạy bảo”
Thời Bồ Tát này biết các Thiên Nữ có Túc Duyên đáng độ. Tức thời hóa làm hai trăm vị Thiên Tử với sắc mạo đoan nghiêm như thân không khác. Lại làm hai trăm đài báu liên tiếp ở chỗ trống, hơn hẳn cung quán của Ma. Các Thiên Nữ đó đều tự thấy thân ở tại Đài báu này, mỗi mỗi đều ở vị trí của mình, cùng với Bồ Tát này chung nhau vui đùa. Ước Nguyện được thỏa mãn thì ý dâm dục liền dứt, đều sinh tâm sâu xa yêu kính Bồ Tát. Tức thời Bồ Tát tùy theo chỗ thích ứng của họ mà nói Pháp, đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Thời Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát nói với Ác Ma rằng:”Ngươi có thể đến gặp Đức Phật”
Ma tác niệm này:”Sự cột trói của Ta đã được cởi bỏ. Ta sẽ đến chỗ của Đức Phật gây hoại loạn nói Pháp”
Bấy Giờ Ác Ma với quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ của Đức Phật rồi bạch rằng:”Thế Tôn ! Đừng nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó. Tại sao thế ? Vì nói Tam Muội đó thì thân của con tức thời bị năm sự cột trói. Nguyện xin Đức Như Lai nên nói việc khác”
Thời Kiên Ý Bồ Tát nói với Ác Ma rằng:’Ai cởi bỏ sự cột trói cho ông ?”
Đáp rằng:”Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát cởi bỏ sự cột trói cho tôi”
“Ông hứa việc gì mà được cởi trói ?”
Ma nói:”Tôi hứa phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề”
Bấy giờ Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát:”Nay Ác Ma đó vì muốn cởi trói nên phát Tâm Bồ Đề chứ chẳng phải là ý trong sạch.
Như vậy Kiên Ý ! Sau khi Ta diệt độ, năm trăm năm sau phần nhiều có Tỳ Kheo vì lợi dưỡng cho nên phát Tâm Bồ Đề chứ chẳng phải là ý trong sạch.
Này Kiên Ý ! Ông quán thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, uy thần của Phật Pháp. Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đó dùng Tâm hời hợt đùa giỡn, Tâm lợi dưỡng tùy đuổi theo tâm của kẻ khác… nghe Tam Muội đó mà phát Tâm Bồ Đề. Ta đều biết Tâm này cùng với Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề được làm Nhân Duyên. Huống chi nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó, hay dùng Tâm trong sạch phát A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Nên biết người này ở trong Phật Pháp đã được định xong”.
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay Ác Ma này nghe nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, vì muốn được cởi trói cho nên phát Tâm Bồ Đề thời cũng được đầy đủ nhân duyên của Phật Pháp ư ?”
Đức Phật nói:”Như ông đã nói. Ác Ma do Nhân Duyên Phước Đức của Tam Muội đó với nhân duyên phát Tâm Bồ Đề cho nên ở đời vị lai được buông bỏ tất cả việc Ma, hành của Ma, tâm quanh co của Ma, việc suy não của Ma. Từ nay về sau, dần dần sẽ được sức của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, thành tựu Phật Đạo”
Kiên Ý Bồ Tát nói với Ác Ma rằng:”Nay Đức Như Lai cho ông được thọ ký”
Ma nói:”Này Thiện Nam Tử ! Nay tôi chẳng dùng Tâm thanh tịnh để phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Vì sao Đức Như Lai cho tôi được Thọ Ký ?. Như Đức Phật nói rằng:”Từ Tâm có Nghiệp, từ Nghiệp có Báo” Tôi tự không có Tâm cầu Đạo Bồ Đề. Vì sao Đức Như Lai cho tôi được thọ ký ?”
Thời Đức Phật muốn cắt đứt sự nghi ngờ của Chúng Hội nên bảo Kiên Ý rằng:”Bồ Tát thọ ký. Phàm có bốn loại. Thế nào là bốn ?
_ Có kẻ chưa phát tâm mà cho Thọ Ký.
_ Có kẻ thích phát tâm mà cho Thọ Ký.
_ Có kẻ kín đáo Thọ Ký (Mật Thọ Ký)
_ Có kẻ được Vô Sinh Pháp Nhẫn hiện tiền thì chi Thọ Ký.
Đấy gọi là bốn, chỉ có Như Lai hay biết việc này, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật đều chẳng thể biết.
_ Này Kiên Ý ! Thế nào gọi là Có kẻ chưa phát tâm mà cho Thọ Ký ? Hoặc có chúng sinh đi đến năm nẻo, hoặc tại Địa Ngục, hoặc tại Súc Sinh, hoặc tại Ngạ Quỷ, hoặc trên cõi Trời, hoặc tại nhân gian… các căn mạnh bén, ưa thích Pháp lớn. Đức Phật biết người đó trải qua nhược can trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp này sẽ phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Lại ở nhược can trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp hành Bồ Tát Đạo, cúng dường nhược can trăm ngàn vạn ức na do tha Phật, giáo hóa nhược can trăm ngàn vạn ức vô lượng chúng sinh khiến trụ Bồ Đề. Lại qua nhược can trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp sẽ được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, có tên hiệu như vậy, quốc độ như vậy, số chúng Thanh Văn thọ mệnh như vậy; sau khi diệt độ, Pháp trụ số năm như vậy
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Như Lai thảy hay biết rõ việc này lại vượt qua điều đó. Đấy gọi là chưa phát tâm mà cho Thọ Ký
Bấy giờ Trưởng Lão Ma Ha Già Diệp (Mahà-Kà’syapa) ở trước mặt Đức Phật bạch rằng:” Từ nay về sau, chúng con sẽ đối với tất cả chúng sinh, sinh tưởng như Đức Thế Tôn. Tại sao thế ? Vì chúng con không có Trí Tuệ như vậy, chúng sinh của nhóm nào có căn Bồ Tát, chúng sinh của nhóm nào không có căn Bồ Tát.
Thế Tôn ! Chúng con chẳng biết việc như vậy cho nên hoặc đối với chúng sinh, sinh tâm khinh mạn tức tự gây thương tích cho mình”
Đức Phật nói:”Lành thay ! Lành thay ! Già Diệp mau chóng nói lời này. Do việc đó cho nên trong Kinh của Ta nói:”Người tức chẳng nên vọng đánh giá chúng sinh. Tại sao thế ? Nếu vọng đánh giá chúng sinh khác, tức tự gây thương tích cho mình. Chỉ có Đức Như Lai mới đánh giá đúng chúng sinh cùng với đẳng nhóm của họ. Do nhân duyên đó, nếu các Thanh Văn với Bồ Tát khác đối với chúng sinh , nên tưởng như Đức Phật”.
_Người thích phát Tâm xong được Thọ Ký. Hoặc tự có người từ lâu đã gieo trồng gốc Đức, tu tập hạnh lành, tâm siêng năng tinh tiến, các căn mạnh bén, ưa thích Pháp lớn, có Tâm Đại Bi, vì khắp chúng sinh cầu Đạo giải thoát. Người đó phát Tâm, liền trụ A Duy Việt Trí, vào địa vị Bồ Tát, rơi hết định số, ra khỏi tám nạn
Lúc người của nhóm như vậy thích phát Tâm thời chư Phật liền cho thọ nhận A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký, danh hiệu như vậy quốc độ như vậy, THọ Mệnh như vậy. Người của nhóm như vậy, Như Lai biết tâm mà cho thọ ký. Đấy gọi là phát tâm liền cho Thọ Ký.
_Thọ Ký kín đáo (Mật Thọ Ký). Tự có Bồ Tát chưa được Thọ Ký mà thường siêng năng cầu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, vui bố thí mọi thứ, vui bố thí tất cả, thọ nhận Pháp bền chắc, giữ gìn Giới chẳng buông bỏ, sâu xa phát trang nghiêm, có sức Đại Nhẫn ngang bằng chúng sinh trong tâm, siêng hành tinh tiến cầu các Pháp lành, thân tâm chẳng lười biếng nhứ cứu cái đầu bị đốt cháy, hành niệm an ổn, hay được bốn Thiền, vui cầu Trí Tuệ, Hành Bồ Đề của Phật, hành sáu Độ lâu xa, có tướng thành Phật.
Thời Bồ Tát khác, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà… đều tác niệm là:”Như Bồ Tát này chuyên tâm tinh tiến, thật là hiếm có ! Bao lâu sẽ được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề ? Hiệu ấy thế nào ? Quốc độ tên gì ? Chúng Thanh Văn có nhiều ít thế nào ?”
Đức Phật vì chặt đứt sự nghi ngờ của chúng sinh này mà cho Thọ Ký, khiến khắp Chúng Hội đều được nghe biết. Chỉ có riêng một mình Bồ Tát đó chẳng được nghe. Do Thần Lực của Đức Phật cho nên khiến tất cả Chúng biết Bồ Tát đó thành Phật với tên hiệu, quốc độ như vậy, chúng Thanh Văn có số nhiều ít như vậy, thời sự nghi ngờ của Chúng đều giải quyết xong, đối với Bồ Tát này, sinh tưởng như Đức Thế Tôn mà Bồ Tát đó chẳng thể tự biết :”Ta được Thọ Ký, hay chưa được Thọ Ký”.Đấy là Bồ Tát được Thọ Ký kín đáo
_Thọ Ký ngay trước mặt (Hiện Tiền Thọ Ký). Có Bồ Tát đã từ lâu gom chứa căn lành, không có gì chẳng thấy được, thường tu Phạm Hạnh, quán Vô Ngã, Không. Nơi tất cả Pháp, được Vô Sinh Nhẫn. Đức Phật biết người này đã đầy đủ hết Công Đức Trí Tuệ. Liền ở trong Đại Chúng: tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn… Thọ Ký ngay trước mặt, nói lời này:”Này Thiện Nam Tử ! Ông trải qua ngần ấy trăm ngàn vạn ức kiếp sẽ được thành Phật, tên hiệu như vậy, quốc độ như vậy, số chúng Thanh Văn, Thọ Mệnh như vậy”. Thời vô số tùy học người đó đều Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Người đó ở trước mặt Đức Phật được Thọ Ký xong thì thân bay lên hư không, cao khoảng bảy cây Ta La “
Này Kiên Ý ! Đấy gọi là Hiện Tiền Thọ Ký thứ tư
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Nay trong Hội này còn có Bồ Tát nào do bốn việc này mà được Thọ Ký không ?”
Đức Phật đáp rằng:”Có”
“Bạch Đức Thế Tôn ! Đó là ai ?”
Đức Phật nói:”Sư Tử Hống Vương Bồ Tát, Lạc Dục Cư Sĩ này là kẻ chưa phát Tâm mà được Thọ Ký. Vô số Bồ Tát thuộc Thế Giới ở Phương khác của nhóm như vậy cũng chưa phát Tâm mà được Thọ Ký.
Lại có Tịch Diệt Bồ Tát, Đại Đức Pháp Vương Tử Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, vô lượng các hàng Bồ Tát như vậy lúc thích phát Tâm liền cho Thọ Ký, đều trụ trong Địa A Duy Việt Trí
Trong đó lại có Trí Dũng Bồ Tát, Ích Ý Bồ Tát , vô lượng các hàng Bồ Tát như vậy đều là bậc kín đáo cho Thọ Ký
Này Kiên Ý ! Ta với Di Lặc, ngàn vị Bồ Tát đời Hiền Kiếp đều được Vô Sinh Pháp Nhẫn Hiện Tiền Thọ Ký.
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thật hiếm có ! Bạch Đức Thế Tôn ! Chỗ hành của Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn ! Tất cả Thanh Văn , các Bích Chi Phật còn chẳng thể biết , huống chi là chúng sinh khác”
Đức Phật nói :”Này Kiên Ý ! Chỗ hành của Bồ Tát đã phát tinh tiến, Uy Thần, Thế Lực chẳng thể nghĩ bàn”
Bấy giờ Thiên Nữ đã được Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát giáo hóa,khiến phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề đều đem hoa Trời rải lên trên Đức Phật rồi bạch Phật rằng:’Thế Tôn ! Chúng con chẳng thích kín đáo được Thọ Ký. Chúng con nguyện được Vô Sinh Pháp Nhẫn Hiện Tiền Thọ Ký. Nguyện xin Đức Thế Tôn ở ngày nay trao cho con A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký”
Thời Đức Phật mỉm cười, từ miệng tuôn ra mọi loại ánh sáng diệu sắc chiếu các Thế Giới rồi quay lại nhập vào đỉnh đầu.
A Nan bạch Phật rằng:”Do Nhân nào mà Đức Thế Tôn cười ?”
Đức Phật bảo A Nan:”Nay ông có thấy hai trăm Thiên Nữ chắp tay kính lễ Như Lai không ?”
“Bạch Đức Thế Tôn ! Đã thấy”
“Này A Nan ! Các Thiên Nữ đó, xưa kia đã từng ở chỗ của năm trăm Đức Phật, gieo trồng căn lành thâm sâu. Từ đó trở đi, sẽ lại cúng dường vô số chư Phật, trải qua bảy trăm a tăng kỳ kiếp xong, đều được thành Phật hiệu là Tịnh Vương.
Này A Nan ! Các Thiên Nữ đó sau khi mệnh chung được chuyển thân nữ, đều sẽ sinh ở trên Trời Đâu Suất, cúng dường phụng sự Di Lặc Bồ Tát”
Khi ấy Ác Ma nghe các Thiên Nữ được thọ ký xong, liền bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con tự đối với hết thảy quyến thuộc chẳng được tự tại, do nghe nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó, huống chi nghe điều khác ! Nếu người được nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, liền được quyết định trụ trong Phật Pháp”
Lúc đó Thiên Nữ dùng tâm không có khiếp sợ, nói với Ác Ma rằng:”Ông đừng quá buồn ! Nay chúng tôi chẳng rời cõi của Ông. Tại sao thế ? Vì cõi Ma như tức là cõi Phật như. Cõi Ma như, cõi Phật như chẳng phải hai chẳng phải khác, chúng tôi chẳng lìa cái như đó. Tướng của cõi Ma tức là tướng của cõi Phật. Pháp của cõi Ma Pháp của cõi Phật chẳng phải hai chẳng phải khác, chúng tôi đối với tướng của Pháp này chẳng ra khỏi chẳng vượt qua. Pháp không có định của cõi Ma có thể hiển bày, cõi Phật cũng có Pháp không có định có thể hiển bày, cõi Ma cõi Phật chẳng phải hai chẳng phải khác, chúng tôi đối với tướng của Pháp này chẳng ra khỏi chẳng vượt qua. Chính vì thế nên biết tất cả các Pháp không có quyết định, do không có quyết định nên không có quyến thuộc, không có gì chẳng phải là quyến thuộc”
Bấy giờ Ác Ma lo buồn khổ não muốn quay về trên Trời.
Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát nói với Ác Ma rằng:”Ngươi muốn đi đâu ?”
Ma nói:”Tôi muốn quay về cung điện đã trụ”
Bồ Tát nói rằng:”Chẳng lìa Chúng đó, tức là cung điện của ngươi”
Lúc đó Ác Ma liền tự thấy thân ở cung điện của mình
Bồ Tát ngữ ngơn 。nhữ kiến hà đẳng 。
Bồ Tát nói rằng:”Ngươi thấy điều gì ?”
Ác Ma đáp rằng:” Tôi tự thấy thân ở cung điện của mình, rừng vườn ao xinh đẹp là sở hữu của tôi”
Bồ Tát nói rằng:”Nay ngươi có thể đem dâng lên Đức Như Lai”
Ma nói:”Có thể được”
Vừa nói lời đó liền thấy Đức Như Lai, Thanh Văn , Bồ Tát, tất cả Đại Chúng đều ở ngay trong chốn đó nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội.
Khi ấy A Nan bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nơi Đức Phật đã trụ, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội với có kẻ dâng thí, ăn xong thời Đức Phật được thành Đạo. Hai vị Thí Chủ này có Phước nhiều như thế nào ?”
Đức Phật nói:”Này A Nan ! Dâng thí cho Đức Phật ăn xong, Đức Phật thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ăn xong, chuyển bánh xe Pháp. Ăn xong nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Phước của ba bữa ăn này không có sai biệt.
Này A Nan ! Ta ở chỗ nào được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề , nên biết chỗ ấy tức là Kim Cương. Chư Phật quá khứ hiện tại vị lai đều ở trong chỗ đó được thành Phật Đạo. Tùy theo chỗ đã trụ, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thời cả hai đều ngang bằng không có sai khác. Với nơi có đọc tụng, viết chép cũng lại như vậy.
Này A Nan ! Dâng thí cho Đức Phật ăn xong, bắt đầu chuyển bánh xe Pháp. Nếu có Pháp Sư được dâng thí, ăn xong, đọc tụng, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thời Phước của hai việc dâng thí này ngang bằng không có khác.
Lại nữa A Nan ! Đức Phật trụ ở Tịnh Xá dùng mười tám loại Thần Thông biến hóa độ thoát chúng sinh. Lại có kẻ ở trong Tịnh Xá, đọc tụng, nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thời Phước của hai nơi dâng thí này chẳng khác”
Bấy giờ A Nan nói với Ác Ma rằng:”Ông được lợi lớn , hay đem cung điện dâng thí cho Đức Phật cư trú”
Ma nói:”Đấy là ân lực an bày của Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát”
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Ma Giới Hành Bất Ô Bồ Tát đó trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, có Thần Lực tự tại như thế sao ?”
Đức Phật nói :”Này Kiên Ý ! Như ông đã nói. Nay Bồ Tát này trụ Tam Muội đó hay dùng Thần Lực tùy ý tự tại, thị hiện tất cả hành Hạnh của cõi Ma mà hay chẳng bị sự nhiễm ô của Ma Hạnh. Cùng với Thiên Nữ hiện tướng vui đùa nhưng thật chẳng thọ nhận Pháp ác dâm dục. Thiện Nam Tử đó trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội hiện vào cung Ma nhưng thân chẳng lìa nơi Phật Hội. Hiện hành cõi Ma, du hý vui đùa nhưng dùng Phật Pháp giáo hóa chúng sinh”.
Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Đức Như Lai trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó hay hiện Thần Lực tự tại ở bao nhiêu nơi? Lành thay ! Nguyện xin Đức Thế Tôn diễn nói chút ít”
Đức Phật nói:”Này Kiên Ý ! Nay Ta trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội này, ở ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này, trăm ngàn bốn Thiên Hạ, trăm ngàn mặt trời mặt trăng, trăm ngàn cõi Tứ Thiên Vương, trăm ngàn Đao Lợi Thiên, trăm ngàn Dạ Ma Thiên, trăm ngàn Đâu suất Đà Thiên, trăm ngàn Hóa Lạc Thiên, trăm ngàn Tha Hóa Tự Tại Thiên cho đến trăm ngàn A Ca Nị Tra Thiên, trăm ngàn Tu Di Sơn Vương, trăm ngàn biển lớn. Đấy gọi là ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.
Này Kiên Ý ! Ta trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội ở ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này . Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Đàn Ba La Mật (Bố Thí Ba La Mật). Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Thí Ba La Mật (Trì Giới Ba La Mật). Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Sạn Đề Ba La Mật (Nhẫn Nhục Ba La Mật). Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật (Tinh Tiến Ba La Mật). Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Thiền Ba La Mật (Thiền Định Ba La Mật). Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành Bát Nhã Ba La Mật (Tuệ Ba La Mật).Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện làm Ngũ Thông Thần Tiên. Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện ngụ tại nhà. Hoặc ở Diêm Phù Đề hiện hành xuất gia. Hoặc ở bốn Thiên Hạ hiện làm Nhất Sinh Bổ Xứ tại Trời Đâu Suất. Hoặc ở bốn Thiên Hạ hiện làm Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm Thích Đề Hoàn Nhân, hoặc làm làm Phạm Vương , hoặc làm bốn Thiên Vương, hoặc làm Dạ Ma Thiên Vương, hoặc làm Đâu Suất Đà Thiên Vương, hoặc làm Hóa Lạc Thiên Vương, hoặc làm Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, hoặc hiện Trưởng Giả, hoặc hiện cư sĩ. Hoặc lại hiện làm Tiểu Vương, Đại Vương. Hoặc làm Sát Lợi, hoặc làm Bà La Môn, hoặc làm Tát Bạc
Hoặc ở bốn Thiên Hạ, muốn từ Đâu Suất sinh xuống Thế Gian, hoặc hiện nhập vào bào thai, hoặc hiện ở bào thai, hoặc hiện muốn sinh, hoặc hiện sinh xong thì đi bảy bước, giơ tay tự xưng :”Trên Trời dưới Trời chỉ có Ta là tôn quý” Hoặc hiện ở trong cung cùng ở chung với Thể Nữ, hoặc hiện xuất gia, hoặc hiện khổ hạnh, hoặc hiện lấy cỏ, hoặc hiện ngồi Đạo Trường, hoặc hiện Giáng Ma, hoặc hiện thành Phật, hoặc hiện quán Thụ Vương (cây vua), hoặc hiện Thích Phạm thỉnh chuyển bánh xe Pháp, hoặc hiện chuyển bánh xe Pháp, hoặc hiện buông xả tuổi thọ, hoặc hiện vào Niết Bàn, hoặc hiện thiêu đốt thân, hoặc hiện Xá Lợi của toàn thân, hoặc hiện chia rải Xá Lợi của thân, hoặc hiện Pháp muốn diệt, hoặc hiện Pháp đã diệt, hoặc hiện Thọ Mệnh vô lượng, hoặc hiện Thọ Mệnh ngắn ngủi, hoặc hiện quốc độ không có tên của nẻo ác, hoặc hiện có các nẻo ác, hoặc hiện Diêm Phù Đề thanh tịnh nghiêm sức như cung điện của Trời, hoặc hiện xấu ác, hoặc hiện Thượng Trung Hạ
Này Kiên Ý ! Đấy đều là Thần Lực tự tại của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Bồ Tát thị hiện nhập vào Niết Bàn, chẳng diệt trọn hết mà ở ba ngàn Đại Thiên Thế Giới hay hiện Thần Lực tự tại như vậy, thị hiện các việc trang nghiêm như vậy.
Này Kiên Ý ! Ông quán Đức Như Lai ở bốn Thiên Hạ này chuyển bánh xe Pháp. Ở cõi Diêm Phù Đề khác chưa thành Đạo, hoặc có cõi Diêm Phù Đề hiện nhập vào Diệt Độ. Đấy gọi là Pháp Môn Sở Nhập của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội”
Bấy giờ trong Hội: các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà…các Bồ Tát, Đại Đệ Tử đều tác niệm này:”Đức Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng những hay ở ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này có Thần Lực đó, mà ở Thế Giới khác cũng có sức ấy”
Thời Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử biết ý của chúng Hội, vì muốn chặt đứt sự nghi ngờ nên bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con đã du hành các Quốc Độ của Phật. Ở bên trên Thế Giới này vượt qua sáu mươi hằng hà sa quốc độ có Thế Giới của Phật tên là Nhất Đăng Minh, Đức Phật ở trong cõi đó vì người nói Pháp. Con đến chốn ấy, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật rồi hỏi rằng:”Đức Thế Tôn có tên hiệu gì ? Chúng con phải làm thế nào để phụng trì tên của Phật ?”
Đức Phật ấy đáp rằng:”Ông đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni , tự vị ấy sẽ nói cho ông biết”
Thế Tôn ! Công Đức trang nghiêm của quốc độ Phật ấy, cho dù nói một kiếp cũng chẳng thể hết. Hơn nữa nước ấy không có tên của Thanh Văn, Bích Chi Phật chỉ có các Bồ Tát Tăng, thường nói Bất Thoái Chuyển Pháp Luân. Nguyện xin Đức Thế Tôn nói tên của Đức Phật này, Đấng đang giảng nói Pháp ở cõi Nhất Đăng Minh”
Khi ấy Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử:”Các ông hảy khéo nghe ! Đừng ôm ấp sự sợ hãi mà sinh nghi ngờ hối hận ! Tại sao thế ? Vì chư Phật có Thần Lực chẳng thể nghĩ bàn. Thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Này Văn Thù Sư Lợi ! Đức Phật đang giảng nói Pháp ở cõi Nhất Đăng Minh có hiệu là Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương.
Này Văn Thù Sư Lợi ! Đức Phật Nhất Thiết Công Đức Tự Tại Quang Minh Vương đó ở cõi Nhất Đăng Minh , tức là thân của Ta ở quốc độ ấy hiện Thần Lực của Phật. Ta ở cõi ấy nói Bất Thoái Chuyển Pháp Luân, là Tịnh Thổ mà Ta đã tu trong đời trước
Này Văn Thù Sư Lợi ! Nay ông nên biết Ta ở hết vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha quốc độ, có Thần Lực, điều mà tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng thể biết
Này Văn Thù Sư Lợi ! Đây tức là thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Bồ Tát thường ở vô lượng Thế Giới thị hiện Thần Biến, ở Tam Muội đó mà chẳng động chuyển.
Văn Thù Sư Lợi ! Ví như mặt trời mặt trăng ở cung điện. Bắt đầu chẳng di động mà hiện ở tất cả thành ấp, thôn xóm. Bồ Tát như vậy trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, thoạt đầu chẳng di động mà hay ở khắp vô lượng Thế Giới thị hiện thân ấy, tùy theo sự ưa thích của Chúng mà nói Pháp”
Lúc đó chúng Hội được điều chưa từng có đều rất vui vẻ, hớn hở vô lượng, chắp tay cung kính… cùng với các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già dùng trân châu, hoa, hương khí đủ màu sắc, hương bột, hương xoa bôi rải lên trên Đức Phật, đều tấu hết thảy các kỹ nhạc của chư Thiên cúng dường Đức Như Lai với các Đệ Tử, cũng đều cởi áo trên (thượng y) dâng lên Đức Phật , các hàng Bồ Tát. Đem hoa diệu sắc lớn như núi Tu Di kèm với mọi hương tạp, hương bột, hương xoa bôi, trân bảo, Anh Lạc rải lên trên Đức Phật, đều nói lời này:”Dạ vâng ! Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu nơi có nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thì đất ấy tức là Kim Cương. Nếu người được nghe nói Tam Muội đó, tin nhận đọc tụng, vì người diễn nói chẳng kinh chẳng sợ, nên biết người này cũng là Kim Cương thành Bất Hoại Nhẫn, trụ thâm sâu nơi Tín, được chư Phật hộ giúp, gieo trồng căn lành sâu dầy, được thiện lợi lớn, giáng Ma oán địch, cắt đứt các nẻo ác, là nơi thủ hộ của Thiện Tri Thức”
Thế Tôn ! Như con hiểu nghĩa của điều Phật nói. Nếu có chúng sinh nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó, liền hay tin nhận, đọc tụng, giải nghĩa, vì người diễn nói , như Thuyết tu hành, nên biết người đó được trụ Phật Pháp, quyết định chẳng thoái lùi”
Đức Phật nói:”Như vậy ! Như vậy ! Như các ông nói. Nếu người chẳng gieo trồng căn lành sâu dầy, nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội chẳng thể tin nhận. Ít có chúng sinh nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà hay tin nhận, phần lớn chúng sinh chẳng thể tin nhận.
Này Thiện Nam Tử ! Người có bốn Pháp, nghe Tam Muội đó, hay được tin nhận. Nhóm nào là bốn ?
Một là từng ở nơi của chư Phật quá khứ , nghe Tam Muội đó.
Hai là Được Thiện Tri Thức giúp đỡ, ưa thích Phật Đạo thâm sâu.
Ba là căn lành sâu dầy ưa thích Pháp lớn.
Bốn là thân tự được chứng Pháp thâm sâu của Đại Thừa.
Có bốn Pháp đó liền hay tin nhận Tam Muội như vậy
Thiện Nam Tử ! Lại có Mãn Nguyên A La Hán với bậc có đầy đủ Chính Kiến, người tin hành Kiến Hạnh. Người đó tin thuận lời nói của Đức Như Lai, tin Tam Muội đó mà thân chẳng chứng. Tại sao thế ? Vì Tam Muội đó chẳng phải là nơi mà tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật thông đạt được, huống chi là chúng sinh khác”
Bấy giờ Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Ví như người sinh ra đã bị mù, trong mộng được con mắt, nhìn thấy mọi loại hình sắc thì tâm rất vui vẻ. Liền ở trong mộng cùng nói chuyện với người có mắt. Người đó tỉnh giấc xong. lại chẳng thấy hình sắc. Chúng con cũng vậy, lúc chưa nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thời tâm vui vẻ, nói là được Thiên Nhãn cùng trụ với các Bồ Tát, cùng nói chuyện, bàn luận nghĩa lý.
Thế Tôn ! Nay con theo Đức Phật nghe Tam Muội đó mà chẳng biết việc ấy, như người sinh ra đã mù, chẳng thể được biết Pháp mà chư Phật Bồ Tát đã hành. Từ nay trở đi chúng con tự nhìn thân ấy như người sinh ra đã mù, đối với Pháp thâm sâu của Phật, không có Trí Tuệ, chẳng biết chẳng thấy chỗ hành của Đức Thế Tôn. Từ nay trở đi chúng con biết các Bồ Tát chân thật được Thiên Nhãn, hay được các Trí Tuệ thâm sâu như vậy”
Thế Tôn ! Nếu người không có Tâm Tát Bà Nhã (Nhất Thiết Trí) thì ai sẽ tự nói con là bậc Trí, con là ruộng phước ?”
Đức Phật nói:”Như vậy ! Như vậy ! Như ông đã nói. Các Trí Tuệ thâm sâu mà Bồ Tát đã được thời Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng thể theo kịp”
Lúc Ma Ha Ca Diếp nói lời đó thời tám ngàn chúng sinh đều phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Bấy giờ Kiên Ý Bồ Tát hỏi Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:” Văn Thù Sư Lợi đã ruộng Phước. Thế nào gọi là ruộng Phước?”
Văn Thù Sư Lợi nói:”Có mười Pháp Hạnh tên là ruộng Phước. Nhóm nào là mười ?
_ Trụ Môn Giải Thoát: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện nhưng chẳng nhập vào Pháp Vị.
_ Thấy biết bốn Đế nhưng chẳng chứng Đạo Quả.
_ Hành tám Giải Thoát nhưng chẳng buông bỏ Bồ Tát Hạnh
_ Hay khởi ba Minh nhưng hành ở ba cõi
_ Hay hiện hình sắc uy nghi của Thanh Văn nhưng chẳng tùy theo âm giáo từ người khác cầu Pháp
_ Hiện hình sắc uy nghi của Bích Chi Phật nhưng dùng Biện Tài vô ngại nói Pháp
_ Thường tại Thiền Định nhưng hay hiện hành tất cả các Hạnh
_ Chẳng lìa Chính Đạo nhưng hiện nhập vào Tà Đạo
_ Tham nhiễm ái sâu nhưng lìa tất cả các Dục phiền não
_ Nhập vào Niết Bàn nhưng đối với sinh tử chẳng hoại chẳng buông bỏ
Có mười Pháp đó, nên biết người đấy là ruộng Phước chân thật.
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát hỏi Tu Bồ Đề rằng:”Bạch Trưởng Lão Tu Bồ Đề ! Đức Thế Tôn nói ông là ruộng Phước bậc nhất. Ông đã được mười Pháp đó chưa ?”
Tu Bồ Đề nói:”Tôi đối với Pháp đó còn chưa được một, huống chi là có mười”
Kiên Ý nói:”Vậy do đâu mà ông được gọi là ruộng Phước bậc nhất ?”
Tu Bồ Đề nói:”Tôi chẳng là ruộng phước bậc nhất ở trong chư Phật Bồ Tát. Đức Phật nói Tôi là ruộng phước bậc nhất ở trong Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Này Kiên Ý ! Ví như Tiểu Vương ở biên địa cũng gọi là vua. Nếu Chuyển Luân Thánh Vương đến ở biên địa thì các hàng Tiểu Vương chẳng được gọi là vua. Khi ấy chỉ có Chuyển Luân Thánh Vương vì Thánh Vương có uy đức thù diệu vượt hơn hẳn
Này Kiên Ý ! Tùy theo quốc độ, thành ấp, thôn xóm không có Bồ Tát ở thì tôi ở trong chỗ ấy được làm ruộng Phước. Nếu có Đức Phật ngự, có Đại Bồ Tát thì Tôi ở trong đó chẳng được gọi là ruộng phước. Các Bồ Tát có Tâm Tát Bà Nhã , vì thế hơn hẳn Tôi”
Lúc đó Đức Phật khen Tu Bồ Đề rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Như ông đã nói. Đấy là lởi nói của bậc Đại Đệ Tử không có tăng thượng mạn”
Kiên Ý Bồ Tát lại hỏi Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử rằng:”Văn Thù Sư Lợi đã nói Đa Văn . Thế nào gọi là Đa Văn ?”
Văn Thù Sư Lợi nói:”Nếu người được nghe Pháp của một câu, liền giải được ngàn vạn ức nghĩa trong đó, trăm ngàn vạn kiếp diễn bày giải nói, Trí Tuệ biện tài chẳng thể cùng tận. Đấy gọi là Đa Văn.
Lại nữa Kiên Ý Bồ Tát ! Được nghe điều mà vô lượng chư Phật ở mười phương đã nói, đều hay thọ trì hết, không có một câu nào mà trước kia chẳng nghe. Phàm điều đã nghe đều là điều mà trước kia đã nghe. Tùy theo Pháp đã nghe, hay gìn giữ chẳng quên, vì chúng sinh nói nhưng không có chúng sinh. Thân và chúng sinh cùng với Pháp đã nói không có sai biệt. Đấy gọi là Đa Văn”.
Bấy giờ trong Hội có Bồ Tát Thiên Tử tên là Tịnh Nguyệt Tạng tác niệm này:”Đức Phật nói trong hàng Đa Văn thì A Nan là tối vi đệ nhất. Như Văn Thù Sư Lợi đã nói về Đa Văn thì nay A Nan còn có là bậc nhất chăng”
Tác niệm đó xong, hỏi A Nan rằng:”Đức Như Lai nói trong hàng Đa Văn thời ông là bậc tối vi đệ nhất. Đa Văn của ông có còn như điều Văn Thù Sư Lợi đã nói chăng?”
A Nan đáp rằng:”Đa Văn như Văn Thù Sư Lợi đã nói thì tôi không có việc đó”
Tịnh Nguyệt Tạng nói:”Vì sao Đức Như Lai thường xưng nói ông ở trong hàng Đa Văn là bậc tối vi đệ nhất ?”
A Nan đáp rằng:”Các Đệ Tử của Phật tùy theo âm thanh mà được giải thoát nên ở trong nhóm người đó thời nói tôi là bậc nhất; chứ chẳng phải vì tôi ở trong các Bồ Tát có biện tài vô ngại, đại Tuệ vô đẳng của vô lượng biển Trí là bậc Đa Văn Đệ Nhất
Này Thiên Tử ! Ví như do có ánh sáng của mặt trời mặt trăng nên người của cõi Diêm Phù Đề nhìn thấy các hình sắc mà được có chỗ làm. Tôi cũng như vậy, chỉ do ánh sáng Trí Tuệ của Đức Phật mà được thọ trì Pháp. Tôi ở trong đó, tự không có sức, nên biết đều là Thần Lực của Đức Như Lai”
Khi ấy Đức Thế Tôn khen A Nan rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Như ông đã nói. Các Pháp mà ông đã thọ trì niệm tụng, nên biết tức là Thần Lực của Như Lai”
Bấy giờ Đức Phật bảo Tịnh Nguyệt Tạng rằng:”Các Pháp mà A Nan đã trì giữ rất ít, còn điều chẳng tụng thì nhiều vô lượng vô biên.
Này Thiên Tử ! Các Pháp mà Ta đã đắc được ở Đạo Trường, trăm ngàn vạn phần chưa nói hết một phận. Điều Ta đã nói thì A Nan ở trong trăm ngàn ức phần chưa trì giữ hết một phần.
Này Thiên Tử ! Như Lai chỉ ở một ngày một đêm cùng nói Pháp với các hàng Thích Phạm Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Thiên Tử Bồ Tát của mười phương Thế Giới. Dùng sức của Trí Tuệ mà làm Kệ Tụng, nói Tu Đa La, Nhân Duyên, Thí Dụ, chỗ hành của chúng sinh, các Ba La Mật với nói Thanh Văn Bích Chi Phật Thừa, Vô Thượng Thừa nhiếp Đại Thừa Pháp…chê bai hủy hoại sinh tử, khen ngợi Niết Bàn. Giả sử hết thảy chúng sinh bên trong cõi Diêm Phù Đề thành tựu Đa Văn đều như A Nan, ở trăm ngàn kiếp cũng chẳng thể thọ trì hết được.
Thiên Tử ! Do nhân duyên đó, nên biết các Pháp mà Như Lai đã nói nhiều vô lượng vô biên. Chỗ A Nan trì giữ rất là ít ỏi”
Lúc đó Tịnh Nguyệt Tạng Thiên Tử liền đem mười vạn dù lọng bằng bảy báu dâng lên Đức Như Lai. Tức thời lọng ấy trụ khắp hư không, chúng sinh được che đều có màu vàng ròng. Dâng lọng lên xong, nói như vầy:” Thưa vâng ! Bạch Đức Thế Tôn ! Nguyện do Phước này khiến khắp chúng sinh có biện tài nói Pháp sẽ như Đức Thế Tôn , hay thọ trì Pháp như Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử”
Thời Đức Phật biết Bồ Tát Thiên Tử đó ưa thích Phật Đạo thâm sâu nên trao cho A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký, rồi rói rằng:”Nay Thiên Tử đó trải qua bốn trăm bốn mươi vạn kiếp sẽ được thành Phật hiệu là Nhất Bảo Cái, quốc độ tên là Nhất Thiết Bảo Trang Nghiêm”
Lúc nói Pháp đó thời hai trăm Bồ Tát sinh tâm giải đãi. “Pháp ấy của chư Phật Thế Tôn rất thâm sâu, A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề như thế khó được. Chúng Ta chẳng thể có đầy đủ việc ấy, chẳng bằng dùng BÍch Chi Phật Thừa nhập vào Niết Bàn. Tại sao thế ? Vì Đức Phật nói nếu Bồ Tát có thoái chuyển, hoặc làm Bích Chi Phật, hoặc làm Thanh Văn”
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử biết hai trăm Bồ Tát này có Tâm lười biếng thoái lui, muốn cho quay lại phát khởi khiến được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, cũng muốn giáo hóa hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già trong Hội nên bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con nhớ kiếp quá khứ tên là Chiếu Minh. Con ở trong ấy ba trăm sáu mươi ức đời, dùng Bích Chi Phật Thừa nhập vào Niết Bàn”
Khi ấy tất cả chúng Hội đều sinh tâm nghi ngờ “Nếu vào Niết Bàn thì chẳng thể quay lại sinh tử nối tiếp. Nay vì sao Văn Thù Sư Lợi nói lời như vầy “Thế Tôn ! Con nhớ kiếp quá khứ tên là Chiếu Minh. Con ở trong ấy ba trăm sáu mươi ức đời, dùng Bích Chi Phật Thừa nhập vào Niết Bàn”. Việc đó thế nào?”
Bấy giờ Xá Lợi Phất nương theo Thần Chỉ của Đức Phật, bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nếu người đã được nhập vào Niết Bàn thì chẳng thể nào lại có sinh tử nối tiếp. Làm thế nào mà Văn Thù Sư Lợi nhập vào Niết Bàn xong, lại mau chóng sinh ra?”
Đức Phật nói:”Ông có thể hỏi Văn Thù Sư Lợi. Tự vị ấy sẽ đáp lời ông”
Thời Xá Lợi Phất hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng:”Nếu người đã được nhập vào Niết Bàn thời chẳng thể lại tiếp nối ở trong các Hữu. Nay vì sao ông lại nói là: “Thế Tôn ! Con nhớ về quá khứ, trong kiếp Chiếu Minh, ba trăm sáu mươi ức đời, dùng Bích Chi Phật Thừa nhập vào Niết Bàn”. Nghĩa này thế nào ?”
Văn Thù Sư Lợi nói:”Đức Như Lai hiện tại là bậc biết tất cả, thấy tất cả, nói lời chân thật, chẳng lừa mình dối người, Trời Người của Thế Gian không có ai lừa dối Ngài được. Điều Tôi đã nói thời Đức Phật tự chứng biết. Nếu Tôi nói khác tức là lừa dối Đức Phật.
Này Xá Lợi Phất ! Lúc ấy trong kiếp Chiếu Minh có Đức Phật ra đời hiệu là Phất Sa làm lợi ích cho các Trời Người ở Thế Gian xong thì nhập vào Niết Bàn. Sau khi Đức Phật đó diệt độ thì Pháp trụ mười vạn năm. Sau khi Pháp diệt thì chúng sinh trong kiếp đó đối với Bích Chi Phật có nhân duyên hóa độ. Giả sử trăm ngàn ức Phật vì họ nói Pháp thì họ cũng chẳng tin chẳng nhận. Chỉ có thể dùng Pháp uy nghi của thân Bích Chi Phật mới độ thoát được. Các chúng sinh đó đều chí cầu Bích Chi Phật Đạo. Thời đó không có Bích Chi Phật ra đời, các chúng sinh đấy không có nơi chốn để gieo trồng nhân duyên căn lành. Vào lúc đó Tôi vì muốn giáo hóa nên tự xưng thân Tôi là Bích Chi Phật. Tùy theo các quốc độ, thành ấp, thôn xóm đều biết thân Tôi là Bích Chi Phật thời tôi đều vì họ hiện hình sắc uy nghi của Bích Chi Phật. Các chúng sinh đó thâm tâm cung kính, đều đem thức ăn uống cúng dường cho Tôi. Tôi nhận thức ăn xong, quán Duyên gốc của họ, Pháp đáng để nghe rồi vì họ giải nói xong, thân bay lên hư không giống như Nhạn Vương (vua của chim nhạn). Khi ấy chúng sinh đều rất vui vẻ, dùng tâm cung kính, cúi đầu mặt lễ Tôi rồi nói lời này:”Nguyện khiến cho chúng con ở đời vị lai đều được Pháp lợi như người đó ở ngày nay”
Này Xá Lợi Phất ! Do nhân duyên đó, thành tựu vô lượng vô số chúng sinh, khiến gieo trồng căn lành. Thời Tôi quan sát các Nhân Chúng đó cúng dường thức ăn cho Tôi, sinh tâm lười biếng chán ghét, tức thời bảo họ rằng:”Đã đến lúc Ta vào Niết Bàn” Trăm ngàn chúng sinh nghe lời nói đó xong, đều cầm hương hoa, hương tạp, bơ, dầu đi đến chỗ của Tôi. Ngay lúc đó Tôi nhập vào Diệt Tận Định, do Bản Nguyện cho nên, chẳng diệt trọn hết. Các chúng snh đó nói Tôi đã mệnh chung. VÌ cúng dường Tôi nên dùng củi thơm để thiêu đốt thân Tôi, nói Tôi đã thật diệt.
Thời Tôi lại đến cái thành lớn của nước khác, tự xưng Tôi là thân Bích Chi Phật. Chúng sinh trong đó cũng đem thức ăn uống đến cúng đường cho Tôi. Tôi ở trong đó hiện bày nhập vào Niết Bàn, họ cũng nói là Tôi đã diệt đều đến cúng dường và thiêu đốt thân Tôi.
Như vậy Xá Lợi Phất ! Tôi ở lúc đó mãn một tiểu kiếp, ba trăm sáu mươi ức đời làm thân Bích Chi Phật hiện bày nhập vào Niết Bàn, ở các thành lớn , mỗi một thành đều dùng Bích Chi Phật Thừa độ thoát ba mươi sáu ức chúng sinh.
Này Xá Lợi Phất ! Bồ Tát như vậy dùng Bích Chi Phật Thừa nhập vào Niết Bàn nhưng chẳng diệt mãi mãi”
Lúc Văn Thù Sư Lợi nói lời đó thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, ánh sáng chiếu khắp, ngàn ức chư Thiên cúng dường Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, tuôn các mưa hoa của cõi Trời, đều nói lời này:”Quả thật hiếm có !Ngày nay chúng con được thiện lợi lớn ! Thấy Đức Phật Thế Tôn với thấy Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử . Lại nghe nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó.
Bạch Đức Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thành tựu Pháp chưa từng có như vậy, trụ Tam Muội nào mà có thể hiện Pháp chưa từng có như thế ?”
Đức Phật bảo chư Thiên:”Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hay làm việc khó khăn hiếm có như vậy. Bồ Tát trụ Tam Muội này để làm Tín Hạnh nhưng chẳng tùy theo niềm Tin của người khác. Cũng làm Pháp Hành nhưng ở Pháp Tướng chuyển ở Pháp Luân chẳng lui chẳng mất. Cũng làm tám người ở các vô lượng a tăng kỳ kiếp, là tám người Tà nhưng hành ở Đạo. Làm Tu Đà Hoàn (Srotàpanna: Nghịch Lưu) vì chúng sinh chịu nước sinh tử cuốn trôi nhưng chẳng nhập vào Pháp Vị. Làm Tư Đà Hàm (Sukrïtagami: Nhất Lai) nhưng hiện thân ấy khắp ở các Thế Gian. Làm A Na Hàm (Anàgami:Bất Lai) nhưng cũng quay trở lại giáo hóa chúng sinh. Làm A La Hán (Arhanta:Vô Sinh,Vô Học) nhưng cũng thường tinh tiến cầu học Phật Pháp. Cũng làm Thanh Văn (‘Sravaka) dùng vô ngại biện vì người nói Pháp. Làm Bích Chi Phật (Pratyeka-buddha) vì muốn giáo hóa chúng sinh có nhân duyên mà hiện bày nhập vào Niết Bàn nhưng do sức Tam Muội cho nên quay lại sinh ra.
Này các Thiên Tử ! Bồ Tát trụ Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó đều hay hành khắp các Hạnh của Hiền Thánh, cũng tùy theo đất ấy có Pháp để nói nhưng chẳng trụ bên trong”
Chư Thiên nghe Đức Phật nói nghĩa như vậy thảy đều rơi lệ rồi nói rằng:”Thế Tôn ! Nếu người đã nhập vào địa vị của Thanh Văn, Bích Chi Phật thời vĩnh viễn mất Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó.
Thế Tôn ! Thà làm người gây tạo tội nặng năm Nghịch mà được nghe nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó chứ chẳng nhập vào Pháp Vị làm Lậu Tận A La Hán. Tại sao thế ? VỊ người gây năm tội nghịch nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó phát tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề xong, tuy bản tội duyên bị đọa tại Địa Ngục, Do nhân duyên căn lành nghe Tam Muội đó được quay trở lại thành Phật.
Thế Tôn ! Lậu Tận A La Hán giống như vật khí bị phá vỡ, mãi mãi chẳng thể thọ nhận Tam Muội đó.
Thế Tôn ! Ví như có người cho bơ, dầu, mật. Phần lớn nhân chúng cầm mọi loại vật khí, trong đó có một người dùng tâm chẳng bền chắc phá vỡ vật khí đã cầm. Tuy đến nơi ban cho bơ, dầu, mật nhưng không có chỗ lợi ích, chỉ được tự ăn no nhưng chẳng thể cầm giữ để quay lại ban cho người khác. Trong đó có người cầm vật khí bền chắc, đã được tự ăn no, cũng cầm vật khí tràn đầy thức ăn ban cho người khác.
Bơ, dầu, mật là Chính Pháp của Đức Phật.
Vật khí đã cầm bị phá vỡ chỉ được tự đủ chứ chẳng thể quay lại ban cho người khác tức là Thanh Văn với Bích Chi Phật.
Kẻ cầm vật khí quay lại tức là Bồ Tát, thân tự được đủ cũng hay gìn giữ cho tất cả chúng sinh”
Lúc đó hai trăm Thiên Tử , tâm muốn thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, theo các Thiên Tử nghe lời nói đó xong, với nghe thế lực Công Đức chẳng thể nghĩ bàn của Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử , liền dùng tâm sâu xa phát A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, chẳng tùy theo Tâm thoái chuyển lúc trước, đều bạch Phật rằng:”Chúng con cho dù bị nguy hại, mất mạng cũng chẳng buông bỏ Tâm đó. Cuối cùng cũng chẳng buông bỏ tất cả chúng sinh”
Thế Tôn ! Chúng con nguyện xin nghe nhân duyên căn lành của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó sẽ được mười Lực của Bồ Tát. Nhóm nào là mười ? Nơi Tâm Bồ Đề, được sức bền chắc. Nơi Phật Pháp chẳng thể nghĩ bàn, được sức tin sâu. Nghe nhiều, được sức chẳng quên. Qua lại trong sinh tử, được sức không có mệt mỏi. Đối với chúng sinh, được sức Đại Bi bền chắc. Ở trong Bố Thí, được sức buông bỏ bền chắc. Ở trong Trì Giới, được sức chẳng hoại, Ở trong Nhẫn Nhục, được sức nhận chịu bền chắc. Ma chẳng thể hoại , được sức Trí Tuệ. Nơi các Pháp thâm sâu, được sức tin thích”.
Khi ấy Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát:”Nếu có chúng sinh ở đời hiện tại này, hoặc sau khi Ta diệt độ, nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó mà hay tin thích. Nên biết người đó thảy đều được mười Lực của Bồ Tát đấy”
Bấy giờ trong Hội có vị Bồ Tát tên là Danh Ý bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nếu muốn được Phước, cần phải cúng dường Phật. Muốn được Tuệ, cần phải nghe nhiều (đa văn). Muốn sinh vào chỗ tốt lành, cần phải giữ Giới. Muốn giàu có lớn, nên bố thí nhiều hơn. Muốn được hình sắc màu nhiệm, cần phải tu Nhẫn Nhục. Muốn được Biện tài, nên kính Sư Trưởng. Muốn được Đà La Ni, nên lìa Tăng Thượng Mạn. Muốn được Trí, cần phải ghi nhớ chân chính. Muốn được vui thích, nên buông bỏ tất cả ác. Muốn lợi ích cho chúng sinh, nên phát Tâm Bồ Đề. Muốn được âm thanh màu nhiệm, nên tu Thật Ngữ (lời nói chân thật). Muốn được Công Đức, nên vui lìa xa. Muốn cầu Pháp, nên gần Thiện Tri Thức. Muốn ngồi Thiền, nên lìa chỗ hội họp ồn ào. Muốn Tư Tuệ (suy xét ghi nhớ Tuệ), nên tu Tư Tính (suy xét ghi nhớ Tính). Muốn sinh vào cõi Phạm Thiên, nên tu Tâm vô lượng. Muốn sinh làm Trời Người, nên tu mười điều lành (Thập Thiện).
Thế Tôn ! Nếu người muốn được Phước Đức, muốn được Tuệ, muốn sinh ở nơi tốt lành, muốn giàu có lớn, muốn hình sắc màu nhiệm, muốn Biện Tài, muốn Đà La Ni, muốn được Trí, muốn được vui thích, muốn lợi ích cho chúng sinh, muốn âm thanh màu nhiệm, muốn Công Đức, muốn cầu Pháp, muốn ngồi Thiền, muốn Tư Tuệ (suy xét ghi nhớ Tuệ), muốn sinh vào cõi Phạm Thiên, muốn sinh làm Trời Người, muốn được Niết Bàn, muốn được tất cả Công Đức… thì nên nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, thọ trì, đọc tụng, ví người khác nói, như Thuyết tu hành.
Thế Tôn ! Bồ Tát làm thế nào để tu Tam Muội đó ?
Đức Phật nói:”Này Danh Ý ! Nếu Bồ Tát hay quán các Pháp trống rỗng không có chỗ chướng ngại, niệm niệm diệt tận, lìa nơi yêu ghét. Đấy gọi là tu Tam Muội đó.
Lại nữa Danh Ý ! Học Tam Muội đó chẳng do một việc. Tại sao thế ? Tùy theo các tâm chúng sinh, chỗ đã hành của tâm thì Tam Muội đó có các Hành ấy. Tùy theo các Tâm chúng sinh, chỗ nhập của tâm thì Tam Muội đó có các Nhập ấy. Tùy theo cửa vào của các căn của các chúng sinh thì Tam Muội đó có cửa Nhập ấy. Tùy theo hết thảy danh sắc của chúng sinh, Bồ Tát được Tam Muội đó cũng hiện bày ngần ấy danh sắc. Hay biết như vậy, đấy gọi là tu Tam Muội đó.
Tùy theo danh sắc tướng mạo của tất cả Phật. Được Tam Muội đó, Bồ Tát cũng hiện bày ngần ấy hình sắc tướng mạo. Hay biết như vậy, đấy gọi là tu Tam Muội đó.
Tùy thấy tất cả các Quốc Độ của Phật. Bồ Tát cũng tự thành quốc độ đó. Đấy gọi là tu Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó
Danh Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Tam Muội đó tu hành rất khó”
Đức Phật bảo Danh Ý:”Do việc đó cho nên có ít Bồ Tát trụ Tam Muội đó, mà có nhiều Bồ Tát hành Tam Muội khác”
Khi ấy Danh Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Di Lặc Bồ Tát này là vị Nhất Sinh Bổ Xứ tiếp nối Đức Thế Tôn sẽ được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ngài Di Lặc được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó ư ?”
Đức Phật nói:”Này Danh Ý ! Các Bồ Tát ấy được trụ Nhất Sinh Bổ Xứ, nhận Chính Vị của Phật thảy đều được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó”
Tức thời Di Lặc Bồ Tát thị hiện Thần Lực như vậy. Danh Ý Bồ Tát với các chúng Hội thấy các cõi Diêm Phù Đề của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này. trong ấy đều là Di Lặc Bồ Tát. Hoặc thấy ở trên Trời, hoặc thấy tại nhân gian, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy tại gia, hoặc thấy hầu cận Phật như A Nan, hoặc thấy Trí Tuệ bậc nhất như Xá Lợi Phất, hoặc thấy Thần Thông bậc nhất như Mục Kiền Liên, hoặc thấy Đầu Đà bậc nhất như Đại Ca Diếp, hoặc thấy nói Pháp bậc nhất như Phú Lâu Na, hoặc thấy ưa thích Giới bậc nhất như La Hầu La, hoặc thấy giữ Luật bậc nhất như Ưu Ba Ly, hoặc thấy Thiên Nhãn bậc nhất như A Na Luật, hoặc thấy ngồi Thiền bậc nhất như Ly Bà Đa. Như vậy trong tất cả các bậc nhất đều thấy Di Lặc. Hoặc thấy vào các thành, ấp, thôn, xóm khất thực. Hoặëc thấy nói Pháp, hoặc thấy ngồi Thiền.
Danh Ý Bồ Tát với các Đại Chúng, tất cả đều thấy Di Lặc Bồ Tát hiện thế lực Thần Thông của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Nhìn thấy xong, rất vui vẻ, bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Ví như vàng ròng tuy bị chà xát, mài giũa nhưng chẳng mất TÍnh ấy. Các Đại Sĩ đó cũng lại như vậy, tùy theo chỗ đã làm đều hay thị hiện Pháp Tính chẳng thể nghĩ bàn”
Bấy giờ Danh Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con nói Bồ Tát, nếu hay thông đạt Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, sẽ biết thông đạt tất cả Đạo Hạnh. Nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật Thừa với Đại Thừa của Phật thảy đều thông đạt”
Đức Phật nói:”Như vậy ! Như vậy ! Như ông đã nói. Nếu Bồ Tát hay thông đạt Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, tức hay thông đạt tất cả Đạo Hạnh”
Khi ấy Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Con nói Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từng ở đời trước đã làm việc Phật, hiện ngồi Đạo Trường chuyển bánh xe Pháp, bày cho các chúng sinh nhập vào Đại Diệt Độ”
Đức Phật nói:Như vậy ! Như vậy ! Như ông đã nói.
Này Ca Diếp ! Quá khứ lâu xa vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn a tăng kỳ kiếp, lúc đó có Đức Phật hiệu là Long Chủng Thượng Như Lai Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ở phương Nam của Thế Giới này, vượt qua một ngàn quốc độ của Phật có nước tên là Bình Đẳng, không có núi, sông, cát,đá sỏi, ngói, đá, gò đống, gò đất lớn… đất bằng phẳng như lòng bàn tay sinh cỏ mềm mài như Ca Lăng Già. Đức Long Chủng Thượng Phật ở Thế Giới đó được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Lúc bắt đầu chuyển bánh xe Pháp thì giáo hóa thành tựu bảy mươi ức số các chúng Bồ Tát, tám mươi ức người thành A La Hán, chín vạn sáu ngàn người trụ trong nhân duyên của Bích Chi Phật. Sau đó tiếp tục có vô lượng Thanh Văn Tăng.
Này Ca Diếp ! Đức Long Chủng Thượng Phật có thọ mệnh bốn trăm bốn mươi vạn tuổi, hóa độ Trời Người xong thì nhập vào Niết Bàn, rải Xá Lợi của thân lưu bày thiên hạ, dựng ba mươi sáu ức cái Tháp cho chúng sinh cúng dường. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, Pháp trụ mười vạn năm. Lúc Đức Long Chủng Thượng Phật sắp vào Niết Bàn thì trao cho Trí Minh Bồ Tát lời Thọ Ký riêng rằng:”Trí Minh Bồ Tát này tiếp nối sau Ta sẽ được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, cũng có hiệu là Trí Minh”
Này Ca Diếp ! Ông nói Đức Long Chủng Thượng Phật của Thế Giới Bình Đẳng như vậy há là người khác ư ? Đừng sinh nghi ngờ này ! Tại sao thế ? Vì vị ấy tức là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử
Này Ca Diếp ! Nay ông tạm quán thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Các Đại Bồ Tát dùng sức đó cho nên thị hiện nhập vào bào thai, mới sinh ra, xuất gia, đến cây Bồ Đề, ngồi ở Đạo Trường, chuyển bánh xe Diệu Pháp, nhập vào Niết Bàn, chia bày Xá Lợi mà chẳng buông bỏ Pháp của Bồ Tát, ở Niết Bàn chẳng diệt trọn hết”
Bấy giờ Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp nói với Văn Thù Sư Lợi rằng:”Nhân Giả hay tạo làm việc khó khăn hiếm có như đây để hiện bày cho chúng sinh”
Văn Thù Sư Lợi nói:”Này Ca Diếp ! Ý của ông thế nào? Núi Kỳ Xà Quật đó do ai tạo ra ? Thế Giới đó cũng từ đâu mà ra?”
Ca Diếp đáp rằng:”Văn Thù Sư Lợi ! Tất cả Thế Giới do bọt nước tạo thành, cũng từ nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn của chúng sinh mà ra”
Văn Thù Sư Lợi nói:”Tất cả các Pháp cũng theo nhân duyên nghiệp chẳng thể nghĩ bàn mà có. Tôi đối với việc này, không có công lực. Tại sao thế ? Vì tất cả các Pháp đều thuộc nhân duyên, không có chủ cho nên tùy theo ý tạo thành. Nếu có thể hiểu điều này thì nói là chẳng khó
Này Ca Diếp ! Nếu người chưa thấy bốn Đế, nghe việc như vậy mà hay tin hiểu. Đây tức là khó. Thấy bốn Đế xong, được các Thần Thông, nghe điều này, hay tin chẳng đủ là khó”.
Bấy giờ Thân của Đức Thế Tôn bay lên hư không cao bảy cây Ta La, ngồi Kiết Già, thân tỏa ánh sáng chiếu khắp mười phương vô lượng Thế Giới. Tất cả Chúng Hội đều thấy vô lượng chư Phật ở mười phương thảy đều nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó chẳng tăng chẳng giảm, từ xa đều được nghe.
Mười phương chư Phật cũng bay lên hư không cao bảy cây Ta La, ngồi Kiết GIà, thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vô lượng Thế Giới ở mười phương. Các chúng sinh của các cõi ấy cũng thấy thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bay lên hư không, ngồi Kiết Già. Các Chúng Hội ấy thảy đều dùng hoa, từ xa rải lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đều thấy mọi thứ hoa ơ trên hư không hợp thành cái lọng hoa. Bồ Tát với các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà… của cõi này đều cũng dùng hoa rải lên chư Phật ấy, đều ở bên trên Đức Phật hóa thành cái lọng hoa.
Khi ấy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật nhiếp Thần Túc lại, ngồi ở Bản Tòa, bảo Kiên Ý rằng:”Đấy là sức Thần Thông của Như Lai, vì khiến cho chúng sinh tăng ích Công Đức. Chính vì thế cho nên Đức Như Lai thị hiện việc đó”
Lúc Đức Phật hiện sức Thần Thông thời tám ngàn Trời, Người phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Lại khi nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó sắp hết thời Kiên Ý Bồ Tát với năm trăm Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội thảy đều được thấy hết thảy Thần Lực của chư Phật ở mười phương, nơi Phấp thâm sâu của Phật được Trí Quang Minh , trụ Địa thứ mười, nhận chức vị Phật
Ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp Thế Giới, ngàn vạn kỹ nhạc cùng tấu một lúc, chư Thiên ở trong hư không tuôn mưa mọi loại hoa.
Bấy giờ Đức Phật bảo A Nan:”Ông nên thọ nhận Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó, giữ gìn, phúng tụng, đọc rồi rộng vì người nói”
Thời Tu Di Sơn Đỉnh Thích bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Trí Tuệ của A Nan, nghĩ nhớ có hạn lượng, người Thanh Văn tùy theo âm thanh khác. Tại sao đem Pháp Bảo của Tam Muội đó giao phó cho A Nan ?”
Trì Tu Di Sơn Đỉnh Thích phát lời chí thành là:”Nếu tôi hay ở đời này đời sau rộng tuyên lưu bố Tam Muội báu này không có hư dối thì cây ở trong núi Kỳ Xà Quật này thảy đều như cây Bồ Đề của Đức Phật. Bên dưới các cây ấy đều có vị Bồ Tát”
Trì Tu Di Đỉnh Thích nói lời đó xong. Liền thấy các cây như cây Bồ Đề, bên dưới mỗi một cây đều thấy vị Bồ Tát. Các cây Bồ Đề đều phát ra lời nói là:”Như lời mà Trì Tu Di Sơn Đỉnh Thích đã nói là thật thì người đó thảy hay khiến cho Tam Muội này được rộng tuyên lưu bố”
Khi ấy các hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà đồng thanh bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Giả sử Đức Như Lai trụ thọ một kiếp, chẳng làm việc khác. Đem Thanh Văn Thừa vì người nói Pháp, mỗi một lúc nói Pháp thảy đều như lúc mới chuyển bánh xe Pháp để độ chúng sinh. Nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội để độ chúng sinh thì điều này tức hơn hẳn. Tại sao thế ? Vì các chúng sinh đó đều dùng Thanh Văn Thừa hóa độ. Đối với Bồ Tát Thừa thì trăm phần chẳng theo kịp một phần, trăm ngàn vạn ức phần … cho đến tính toán, thí dụ cũng chẳng thể theo kịp. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội như vậy có vô lượng thế lực đó hay thành tựu các Bồ Tát, khiến được đầy đủ Phật Pháp”
Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:”Đức Thế Tôn có tuổi thọ thật là bao nhiêu ? Lúc nào sẽ vào Niết Bàn rốt ráo?”
Đức Phật nói:”Này Kiên Ý ! Ở phương Đông, cách Thế Giới này ba vạn hai ngàn cõi Phật có một nước tên là Trang Nghiêm. Trong đó có Đức Phật hiệu là Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Như Lai Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nay hiện tại đang nói Pháp.
Này Kiên Ý ! Như Thọ Mệnh của Đức Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Phật, Thọ Mệnh của Ta cũng lại như vậy”
“Thế Tôn ! Đức Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Phật ấy có Thọ Mệnh bao nhiêu ?”
Đức Phật bảo Kiên Ý:”Ông tự đến hỏi, tự sẽ đáp lại cho ông”
Tức thời Kiên Ý nương theo Thần Lực của Đức Phật, lại dùng sức của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội với sức Thần Thông thuộc căn lành của mình, như khoảng một niệm liền đến Thế Giới Trang Nghiêm ấy, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật ấy, nhiểu quanh theo bên phải ba vòng, lui về trụ một bên, rồi bạch Phật rằng:” Đức Thế Tôn có Thọ Mệnh bao nhiêu, thời sẽ vào Niết Bàn ?”
Đức Phật ấy đáp rằng:”Như Thọ Mệnh của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ấy, Thọ Mệnh của Ta cũng lại như vậy. Điều ông muốn biết là Ta thọ bảy a tăng kỳ kiếp, Thọ Mệnh của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng vậy”
Khi ấy Kiên Ý Bồ Tát , tâm rất vui vẻ liền quay về Thế Giới Ta Bà bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Đức Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương Phật ấy thọ bảy trăm a tăng kỳ kiếp, lại bảo con rằng:”Như thọ mệnh của Ta, Thọ Mệnh của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng lại như vậy”
Lúc đó A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật rồi bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Như con hiểu nghĩa mà Đức Phật đã nói. Con nói Đức Thế Tôn ở Thế Giới Trang Nghiêm ấy dùng tên gọi khác để tạo lợi ích cho chúng sinh”
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen A Nan rằng:”Lành thay ! Lành thay ! Ông dùng sức của Phật, hay biết việc đó, Thân của Đức Phật ấy tức là Thân của Ta. Dùng tên gọi khác ở chốn ấy nói Pháp độ thoát chúng sinh.
Này A Nan ! Sức Thần Thông tự tại như vậy đều là thế lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó”
Khi ấy Đức Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát:”Này Kiên Ý ! Do việc đó nên biết Ta thọ bảy trăm a tăng kỳ kiếp rồi sẽ rốt ráo nhập vào Niết Bàn”
Thời Đại Chúng trong Hội nghe Đức Phật đã nói Thọ Mệnh chẳng thể nghĩ bàn như vậy đều rất vui vẻ, được điều chưa từng có, bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Thần Lực của chư Phật thật chưa từng có ! Tất cả chỗ hành chẳng thể nghĩ bàn, ở chốn này hiện tuổi thọ đoản mệnh như vậy mà thật ở chỗ khác thọ bảy trăm a tăng ký kiếp.
Thế Tôn ! Nguyện khiến cho tất cả chúng sinh được đầy đủ Thọ Mệnh chẳng thể nghĩ bàn như vậy”
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Kiên Ý:”Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó tùy ở tại quận, đất nước, thành ấp, thôn xóm, Tịnh Xá, Không Lâm (rừng vắng)…. thì các Ma, Ma dân trong đó chẳng được dịp thuận tiện gây hại”
Lại bảo Kiên Ý:”Nếu có Pháp Sư viết chép, đọc tụng, giải nói Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó. Đối với Người, Phi Nhân không có sợ hãi, lại được hai mươi phần Công Đức chẳng thể nghĩ bàn.
Nhóm nào là hai mươi ?
_ Phước Đức chẳng thể nghĩ bàn
_ Trí ấy chẳng thể nghĩ bàn
_ Tuệ ấy chẳng thể nghĩ bàn
_ Phương tiện chẳng thể nghĩ bàn
_ Biện tài chẳng thể nghĩ bàn
_ Pháp Minh chẳng thể nghĩ bàn
_ Tổng Trì chẳng thể nghĩ bàn
_ Pháp Môn chẳng thể nghĩ bàn
_ Nghĩ nhớ chẳng thể nghĩ bàn
_ Các sức Thần Thông chẳng thể nghĩ bàn
_ Hiểu sâu chỗ ưa thích của tâm chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn
_ Được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn
_ Các Pháp đã nghe chẳng thể nghĩ bàn
_ Giáo hóa chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn
_ Tam Muội tự tại chẳng thể nghĩ bàn
_ Thành tựu Tịnh Độ chẳng thể nghĩ bàn
_ Hình sắc tối diệu chẳng thể nghĩ bàn
_ Công Đức tự tại chẳng thể nghĩ bàn
_ Tu trì các Ba La Mật chẳng thể nghĩ bàn
_ Được Phật Pháp chẳng thoái chuyển chẳng thể nghĩ bàn.
Đấy là hai mươi.
Này Kiên Ý ! Nếu người viết chép, đọc tụng Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó sẽ được hai mươi phần Công Đức chẳng thể luận bàn
Chính vì thế cho nên Kiên Ý ! Nếu người muốn các lợi của đời này, đời sau thì nên viết chép, đọc tụng, giải thoát, tu hành Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó.
Này Kiên Ý ! Nếu cầu Phật Đạo. Kẻ trai lành, người nữ thiện ở ngàn vạn kiếp chuyên Tâm tu hành sáu Ba La Mật. Nếu có nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó liền hay tin nhận, Tâm chẳng lui mất, chẳng kinh chẳng sợ, Phước vượt hơn điều kia, mau đến A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề. Huống chi nghe xong, thọ trì đọc tụng , như Thuyết tu hành, vì người giải nói.
Nếu có Bồ Tát muốn nghe Pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, chẳng kinh chẳng sợ, muốn ở trong tất cả các Phật Pháp hiểu rõ, tự biết chẳng theo lời dạy của người khác, cần phải tu tập, hành Tam Muội đó . Nếu muốn được nghe, ấy là nghe Pháp tin nhận chẳng trái ngược cần phải nghe Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó.
Lúc nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó thời vô lượng chúng sinh phát Tâm A Nậu Đa La Tam Muội Tam Bồ Đề. Lại gấp đôi số đó trụ A Duy Việt Trí Địa. Lại gấp đôi số đó được Vô Sinh Pháp Nhẫn. Tám vạn bốn ngàn Bồ Tát được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đó. Tám vạn bốn ngàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni chẳng thọ nhận các Pháp cho nên hết Lậu, giải thoát, đắc A La Hán. Hai vạn sáu ngàn Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di ở trong các Pháp được sự trong sạch của con mắt Pháp. Ba mươi na do tha chư Thiên được vào địa vị Thánh.
Đức Phật nói Kinh xong thời Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Kiên Ý Bồ Tát… tất cả các Bồ Tát Ma Ha Tát với các Thanh Văn Đại Đệ Tử, tất cả các hàng Trời, Rồng, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La… người dân của Thế Gian nghe điều Phật đã nói đều vui vẻ, tin nhận.